TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 31
THERĪGĀTHĀPĀḶI & TRƯỞNG LĂO NI KỆ
Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda
Kính lễ đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, đấng Chánh Biến Tri!
1. “Này vị ni bé nhỏ, được trùm lên bằng mảnh vải đă tự làm, cô hăy ngủ an lạc, bởi v́ sự luyến ái của cô đă lặng yên, ví như rau xanh (đă được nấu đến lúc) ráo nước ở trong nồi.”
Một vị tỳ khưu ni trưởng lăo nào đó không rơ đă nói lời kệ như thế.
Kệ ngôn của một trưởng lăo ni nào đó.
2. “Này Muttā, cô hăy tự thoát ra khỏi các sự ràng buộc, ví như mặt trăng thoát ra khỏi sự nắm giữ của Rāhu (hiện tượng nguyệt thực); với tâm đă được giải thoát, không c̣n nợ nần, cô hăy thọ dụng đồ ăn khất thực.”
Đức Thế Tôn thường xuyên giáo huấn vị ni tu tập sự Muttā bằng lời kệ này như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Muttā.
3. “Này Puṇṇā, cô hăy làm cho đầy đủ với các Pháp (đưa đến giác ngộ), tựa như mặt trăng tṛn ngày rằm; với trí tuệ đă được tṛn đủ, cô hăy phá tan khối đống tăm tối (vô minh).”
Trưởng lăo ni Puṇṇā đă nói lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Puṇṇā.
4. “Này Tissā, cô hăy học tập trong việc học tập, chớ để các điều ràng buộc ngự trị cô. Được tách rời mọi điều ràng buộc, không c̣n lậu hoặc, cô hăy sống ở thế gian.”
Trưởng lăo ni Tissā đă nói lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Tissā.
5. “Này Tissā, cô hăy gắn bó với các Pháp, chớ để thời cơ vuột khỏi cô. Bởi v́ những kẻ để thời cơ qua đi, bị đọa vào địa ngục, chúng sầu muộn.”
Trưởng lăo ni Tissā đă nói lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Tissā.
6. “Này Dhīrā, cô hăy chạm đến sự tịch diệt, sự tịnh lặng của các tưởng, sự an lạc; hăy thành tựu Niết Bàn vô thượng, sự lặng yên của các điều ràng buộc.”
Trưởng lăo ni Dhīrā đă nói lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Dhīrā.
7. “Này Vīrā, vị tỳ khưu ni có các căn đă được tu tập, cô hăy tinh tấn với các Pháp, hăy duy tŕ thân xác cuối cùng sau khi chiến thắng Ma Vương cùng với quân binh.”
Trưởng lăo ni Vīrā đă nói lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Vīrā.
8. “Này Mittā, sau khi xuất gia với niềm tin, hăy vui thích với bạn lành, hăy tu tập trong các thiện pháp nhằm đạt được sự an toàn khỏi các ràng buộc.”
Trưởng lăo ni Mittā đă nói lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Mittā.
9. “Này Bhadrā hiền thiện, sau khi xuất gia với niềm tin, hăy vui thích với các việc tốt lành, hăy tu tập trong các thiện pháp (nhằm đạt được) sự an toàn vô thượng khỏi các trói buộc.”
Trưởng lăo ni Bhadrā đă nói lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Bhadrā.
10. “Này Upasamā, nên vượt qua cơn lũ, lănh địa của Thần Chết rất khó vượt qua, hăy duy tŕ thân xác cuối cùng sau khi chiến thắng Ma Vương cùng với quân binh.”
Trưởng lăo ni Upasamā đă nói lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Upasamā.
11. “Lành thay tôi đă được giải thoát, đă khéo được giải thoát với sự giải thoát ba điều tệ hại là cái cối, cái chày, và ông chồng lưng c̣ng. Tôi đă được giải thoát khỏi sanh tử, lối dẫn đi tái sanh đă được xóa sạch.”
Trưởng lăo ni Muttā đă nói lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Muttā.
12. “Nên có ḷng ước muốn sanh khởi, có sự dứt khoát, và được lan tỏa bằng tâm. Người có tâm không bị trói buộc ở các dục, được gọi là ‘người lội ngược ḍng nước.’”
Trưởng lăo ni Dhammadinnā đă nói lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Dhammadinnā.
13. “Cô hăy thực hành lời dạy của đức Phật, sau khi đă làm điều ấy, không phải ân hận. Hăy mau chóng rửa các bàn chân rồi ngồi xuống ở một bên.”
Trưởng lăo ni Visākhā đă nói lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Visākhā.
14. “Sau khi nh́n thấy các giới (uẩn-xứ-giới) là khổ đau, chớ đi đến sự sanh lần nữa. Sau khi buông bỏ ước muốn ở hiện hữu, cô sẽ sống, được an tịnh.”
Trưởng lăo ni Sumanā đă nói lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Sumanā.
15. “Tôi đă thu thúc về thân, về khẩu, rồi về ư. Sau khi nhổ lên tham ái luôn cả gốc rễ, tôi có được trạng thái mát mẻ, chứng được Niết Bàn.”
Trưởng lăo ni Uttarā đă nói lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Uttarā.
16. “Này sư cụ ni, được trùm lên bằng mảnh vải đă tự làm, bà hăy ngủ an lạc. Bởi v́ sự luyến ái của bà đă lặng yên, bà có được trạng thái mát mẻ, chứng được Niết Bàn.”
Trưởng lăo ni Sumanā, vị ni xuất gia ở tuổi già, đă nói lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Sumanā, vị xuất gia ở tuổi già.
17. “Sau khi đi khất thực, yếu sức, tựa vào cây gậy, với tay chân đang run rẩy, tôi đă ngă xuống trên mặt đất ngay tại chỗ ấy. Sau khi nh́n thấy điều bất lợi ở thân thể, tâm của tôi đă được giải thoát.”
Trưởng lăo ni Dhammā đă nói lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Dhammā.
18. “Sau khi từ bỏ gia đ́nh, tôi đă xuất gia. Sau khi từ bỏ con trai và gia súc yêu quư, sau khi từ bỏ ái dục và sân, và sau khi buông bỏ vô minh, sau khi nhổ lên tham ái luôn cả gốc rễ, tôi có được trạng thái an tịnh, chứng được Niết Bàn.”
Trưởng lăo ni Saṅghā đă nói lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Saṅghā.
Nhóm Một được chấm dứt.
--ooOoo--
19. “Này Nandā, cô hăy nh́n thấy xác thân là bệnh hoạn, không trong sạch, hôi thối, hăy tu tập tâm được chuyên nhất, khéo được định tĩnh, về (đề mục) tử thi.
20. Cô hăy tu tập về vô tướng, hăy dẹp bỏ sự tiềm ẩn của ngă mạn; sau đó, nhờ vào sự lănh hội về ngă mạn, cô sẽ sống, được an tịnh.”
Đức Thế Tôn thường xuyên giáo huấn vị ni tu tập sự Abhirūpanandā bằng những lời kệ này như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Abhirūpanandā.
21. “Bảy giác chi này là các con đường đưa đến việc đạt được Niết Bàn, tất cả các pháp ấy đă được tôi tu tập đúng theo như (lời) đă được thuyết giảng bởi đức Phật.
22. Bởi v́ đức Thế Tôn ấy đă được tôi nh́n thấy, đây là xác thân sau chót (của tôi); việc luân hồi tái sanh đă được triệt tiêu, giờ đây không c̣n tái sanh nữa.”
Trưởng lăo ni Jentā đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Jentā.
23. “Này cô ni đă khéo được giải thoát! Này cô ni đă khéo được giải thoát! Lành thay, tôi đă được giải thoát khỏi cái chày. Người chồng vô liêm sỉ của tôi và luôn cả cái dù lọng (không được tôi thích thú). Cái nồi nhỏ của tôi tỏa ra mùi (thối) của loài rắn nước.
24. Tôi tiêu diệt sự luyến ái và sân hận với âm thanh ‘tí ta tí tách.’ Sau khi đi đến gốc cây, nhờ vào sự an lạc, tôi đây tham thiền (nghĩ rằng:) ‘Ôi, an lạc thay!’”
Trưởng lăo ni Sumaṅgalamātā đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Sumaṅgalamātā.
22.
25. “Thu nhập của tôi đă là nhiều như (tiền thu thuế của) xứ sở Kāsi. Sau khi quy định giá ấy, các thị dân đă xác định tôi với giá một nửa.
26. Rồi tôi đă nhàm chán sắc đẹp, và trong khi nhàm chán tôi đă không c̣n luyến ái. Mong sao tôi khỏi phải trải qua việc luân hồi tái sanh lại nữa, lần này lần khác. Ba Minh đă được chứng ngộ, lời dạy của đức Phật đă được thực hành.”
Trưởng lăo ni Aḍḍhakāsī đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Aḍḍhakāsī.
27. “Mặc dầu tôi là gầy ốm, bị bệnh, vô cùng yếu sức, sau khi tựa vào cây gậy, tôi đi, trèo lên ngọn núi.
28. Sau khi để y hai lớp xuống, và lập úp lại cái b́nh bát nhỏ, tôi đă tựa người vào tảng đá, sau khi đă phá tan khối đống tăm tối (vô minh).”
Trưởng lăo ni Cittā đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Cittā.
29. “Mặc dầu tôi bị đau đớn, yếu sức, tuổi trẻ đă đi qua, sau khi tựa vào cây gậy, tôi đi, trèo lên ngọn núi.
30. Sau khi để y hai lớp xuống, và lập úp lại cái b́nh bát nhỏ, tôi đă ngồi xuống ở tảng đá, và tâm của tôi đă được giải thoát. Ba Minh đă được thành tựu, lời dạy của đức Phật đă được thực hành.”
Trưởng lăo ni Mettikā đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Mettikā.
31. “Ngày mười bốn, ngày mười lăm, ngày thứ tám của nửa tháng, và (các) ngày phụ trội của nửa tháng,[1] tôi đă tham gia ngày Trai Giới khéo được hội đủ tám yếu tố, có sự ham thích (được sanh) về tập thể chư Thiên.
32. Hôm nay, tôi đây, với một bữa ăn, đầu cạo, trùm lên y hai lớp, không c̣n mong mỏi tập thể chư Thiên sau khi đă dẹp bỏ sự buồn bực ở tâm.”
Trưởng lăo ni Mettā đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Mettā.
33. “‘Thưa mẹ, từ ḷng bàn chân trở lên, từ chóp cọng tóc trở xuống, mẹ hăy quán xét thân này là không trong sạch, có mùi hôi thối.’
34. Trong khi an trú như vậy, tất cả luyến ái đă được xóa sạch, sự bực bội đă được trừ tuyệt, tôi có được trạng thái mát mẻ, chứng được Niết Bàn.”
Trưởng lăo ni Abhayamātā đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Abhayamātā.
35. “‘Này Abhayā, thân thể là mỏng manh, những kẻ phàm phu bị quyến luyến với nó.’ Tôi sẽ buông bỏ thân xác này, có sự nhận biết rơ, có niệm.
36. Do nhiều hiện tượng khổ đau, tôi đă thích thú trong sự không xao lăng. Sự cạn kiệt của tham ái đă được tôi thành tựu, lời dạy của đức Phật đă được tôi thực hành.”
Trưởng lăo ni Abhayā đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Abhayā.
37. “Không đạt được sự an tịnh của ư, không làm chủ được việc kiểm soát ở tâm, tôi đă đi ra khỏi trú xá bốn lần, năm lần.
38. Đối với tôi đây là đêm thứ tám, kể từ lúc ấy tham ái đă được xóa sạch. Do nhiều hiện tượng khổ đau, tôi đă thích thú ở sự không xao lăng; sự cạn kiệt của tham ái đă được tôi thành tựu, lời dạy của đức Phật đă được tôi thực hành.”
Trưởng lăo ni Sāmā đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Sāmā.
Nhóm Hai được chấm dứt.
--ooOoo--
39. “Hai mươi lăm năm kể từ khi tôi đă được xuất gia, tôi không biết sự b́nh lặng của tâm đă có khi nào đạt được.
40. Không đạt được sự an tịnh của ư, không làm chủ được việc kiểm soát ở tâm, do đó, tôi đă đạt đến sự chấn động sau khi nhớ lại lời dạy của đấng Chiến Thắng.
41. Do nhiều hiện tượng khổ đau, tôi đă thích thú ở sự không xao lăng; sự cạn kiệt của tham ái đă được tôi thành tựu, lời dạy của đức Phật đă được tôi thực hành. Hôm nay, đối với tôi là đêm thứ bảy, kể từ lúc ấy tham ái đă được làm khô héo.”
Trưởng lăo ni Sāmā đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Sāmā.
42. “Không đạt được sự an tịnh của ư, không làm chủ được việc kiểm soát ở tâm, tôi đă đi ra khỏi trú xá bốn lần, năm lần.[2]
43. Tôi đây đă đi đến gặp vị tỳ khưu ni, vị ni ấy đối với tôi đă là người đáng tin cậy. Vị ni ấy đă thuyết giảng Giáo Pháp cho tôi về (năm) uẩn, (mười hai) xứ, (mười tám) giới.
44. Sau khi lắng nghe Pháp của vị ni ấy, đúng theo như vị ni ấy đă chỉ dạy cho tôi, tôi đă ngồi xuống chỉ một tư thế kiết già trong bảy ngày, đạt được sự an lạc. Vào ngày thứ tám, tôi đă duỗi ra các bàn chân, sau khi đă phá tan khối đống tăm tối (vô minh).”
Trưởng lăo ni Uttamā đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Uttamā.
45. “Bảy giác chi này là các con đường đưa đến sự đạt được Niết Bàn, tất cả các pháp ấy đă được tôi tu tập đúng theo như (lời) đă được thuyết giảng bởi đức Phật.[3]
46. Tôi có sự đạt được không tánh và vô tướng theo như ước muốn. Tôi là người con gái chính thống của đức Phật, luôn luôn thỏa thích Niết Bàn.
47. Tất cả các dục thuộc về cơi trời và thuộc về loài người đă được trừ tuyệt, việc luân hồi tái sanh đă được triệt tiêu, giờ đây không c̣n tái sanh nữa.”
Trưởng lăo ni Uttamā khác đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Uttamā.
32.
48. “Sau khi rời khỏi chỗ nghỉ ban ngày ở ngọn núi Gijjhakūṭa, tôi đă nh́n thấy con voi lội xuống rồi bước lên ở bờ sông.
49. Người đàn ông cầm lấy cái móc câu yêu cầu rằng: ‘Hăy đưa bàn chân ra.’ Con voi đă duỗi bàn chân ra, người đàn ông đă trèo lên con voi.
50. Sau khi nh́n thấy con vật chưa được huấn luyện đă được huấn luyện, đă đi vào sự kiểm soát của loài người, do đó, tôi đă tập trung tâm, đă đi vào khu rừng đương nhiên v́ việc ấy.”
Trưởng lăo ni Dantikā đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Dantikā.
51. “‘Bà khóc lóc ở trong rừng rằng: Ôi Jīvā con ơi! Này bà Ubbirī, hăy trấn tĩnh bản thân. Tất cả tám mươi bốn ngàn cô gái đă được thiêu đốt ở nơi hỏa táng này đều có tên Jīvā, bà buồn rầu cho cô nào trong số đó?’
52. Quả thật, Ngài đă rút ra mũi tên khó nh́n thấy đă được cắm vào trái tim, là việc khi tôi bị sầu muộn chế ngự, Ngài đă xua đi nỗi sầu muộn về người con gái cho tôi.
53. Hôm nay, tôi đây, có mũi tên đă được rút ra, không c̣n cơn đói, đă chứng Niết Bàn. Tôi đi đến nương nhờ đức Phật bậc Hiền Trí, Giáo Pháp, và Hội Chúng.’”
Trưởng lăo ni Ubbirī đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Ubbirī.
54. “Những người dân này ở Rājagaha đă làm ǵ? Họ ngồi yên như là đă uống (say) mật ong, họ không đi đến vị ni Sukkā đang thuyết giảng về Giáo Pháp của đức Phật.
55. Và Giáo Pháp ấy là không thể cưỡng lại, không bị trộn lẫn, có dưỡng chất. Tôi nghĩ rằng những người có trí tuệ uống (Giáo Pháp ấy) tựa như những người lữ hành uống (nước từ) đám mây mưa.
56. Với các pháp (siêu thế) trong sạch, có sự luyến ái đă được xa ĺa, được định tĩnh, Sukkā mang thân mạng cuối cùng, sau khi chiến thắng Ma Vương cùng với đạo quân binh.”
Trưởng lăo ni Sukkā đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Sukkā.
57. “‘Không có sự thoát ly ở thế gian, nàng sẽ làm ǵ với việc ẩn cư? Nàng hăy thọ hưởng các sự thích thú trong các dục, chớ có sự tiếc nuối sau này.’
58. ‘Các dục như là gươm giáo, các uẩn như là cái thớt của chúng. Điều ngươi gọi là sự thích thú trong các dục, điều ấy giờ đây là sự không thích thú đối với ta.
59. Sự vui thích đă được phá hủy ở tất cả các nơi. Khối đống tăm tối (vô minh) đă được phá tan. Này Ác Nhân, ngươi hăy biết như thế. Này Tử Thần, ngươi đă bị đánh bại.’”
Trưởng lăo ni Selā đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Selā.
60. “Vị thế ấy là có thể đạt đến bởi các bậc ẩn sĩ, là khó với tới, không thể đạt được bởi người nữ có sự nhận biết nhờ vào hai ngón tay.
61. Bản thể của người nữ có thể gây ra điều ǵ đối với chúng tôi, đối với người đang nh́n thấy rơ Pháp một cách đúng đắn, khi tâm (của người ấy) đă khéo được định tĩnh, khi trí đang được vận hành?
62. Sự vui thích đă được phá hủy ở tất cả các nơi, khối đống tăm tối (vô minh) đă được phá tan. Này Ác Nhân, ngươi hăy biết như thế. Này Tử Thần, ngươi đă bị đánh bại.”[4]
Trưởng lăo ni Somā đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Somā.
Nhóm Ba được chấm dứt.
--ooOoo--
63. “Kassapa, người con trai, người thừa tự của đức Phật, khéo được định tĩnh, là vị có sự biết được đời sống trong thời quá khứ, nh́n thấy được cơi trời và địa ngục.
64. Rồi (vị ấy) đă đạt đến sự cạn kiệt của tái sanh, là vị hiền trí được hoàn hảo về Thắng Trí, với ba sự hiểu biết ấy trở thành vị Bà-la-môn có ba Minh.
65. Tương tự như thế ấy, Bhaddākāpilānī là vị ni có ba Minh, có sự chiến thắng Thần Chết, mang thân mạng cuối cùng, sau khi chiến thắng Ma Vương cùng với đạo quân binh.
66. Sau khi nh́n thấy điều bất lợi ở thế gian, cả hai chúng tôi đă xuất gia. Chúng tôi đây có các lậu hoặc đă được cạn kiệt, đă được huấn luyện, đă có được trạng thái mát mẻ, chứng được Niết Bàn.”
Trưởng lăo ni Bhaddākāpilānī đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Bhaddākāpilānī.
Nhóm Bốn được chấm dứt.
--ooOoo--
67. “Hai mươi lăm năm kể từ khi tôi đă được xuất gia, tôi đă không chứng đắc sự an tịnh của tâm cho dầu chỉ bằng thời gian của một khảy móng tay.
68. Không đạt được sự an tịnh của ư, bị đắm nhiễm bởi sự luyến ái ở các dục, trong khi đưa hai cánh tay lên, khóc lóc, tôi đă đi vào trú xá.
69. Tôi đă đi đến gặp vị tỳ khưu ni ấy; vị ni ấy đối với tôi đă là người đáng tin cậy. Vị ni ấy đă thuyết giảng Giáo Pháp cho tôi về (năm) uẩn, (mười hai) xứ, (mười tám) giới.
70. Sau khi lắng nghe Pháp của vị ni ấy, tôi đă ngồi xuống ở một góc. Tôi biết được đời sống trong thời quá khứ, Thiên nhăn đă được trong sạch.
71. Trí biết được tâm của người khác, và nhĩ giới đă được trong sạch. Thần thông cũng đă được tôi chứng ngộ, sự cạn kiệt của các lậu hoặc đă được tôi đạt đến, sáu Thắng Trí đă được chứng ngộ, lời dạy của đức Phật đă được thực hành.”
Một trưởng lăo ni nào đó đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của một trưởng lăo ni nào đó.
72. “Bị đắm say với màu da, dáng vóc, vẻ đẹp, và tiếng tăm, và kiêu kỳ với tuổi thanh xuân, tôi đă khinh khi những người đàn bà khác.
73. Sau khi trang điểm thân này vô cùng sặc sỡ, khiến những kẻ ngu trầm trồ, tôi đă đứng ở cửa lớn của tiệm buôn hươngbán phấn, tựa như người thợ săn giăng ra bẫy mồi.
74. Trong khi phô bày sự chưng diện, bộ phận kín được bộc lộ nhiều nơi, tôi đă làm nhiều tṛ ma mănh trong khi cười giỡn với đám đông người.
75. Hôm nay, tôi đây, sau khi đi khất thực, đầu cạo, trùm lên y hai lớp, ngồi xuống ở gốc cây, có sự đạt được trạng thái vô tầm (nhị thiền).
76. Tất cả các sự ràng buộc thuộc về cơi trời và thuộc về loài người đă được trừ tuyệt. Sau khi quăng bỏ tất cả các lậu hoặc, tôi có được trạng thái mát mẻ, chứng được Niết Bàn.”
Trưởng lăo ni Vimalā đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Vimalā.
40.
77. “Có sự tác ư không theo đúng đường lối, bị khổ sở v́ sự luyến ái ở các dục, trước đây tôi đă tự kiêu, không làm chủ được việc kiểm soát ở tâm.
78. Bị xâm nhập bởi các phiền năo, có khuynh hướng nhận biết về nét đẹp (tịnh tướng), có sự chiều theo tác động của tâm luyến ái, tôi đă không đạt được sự b́nh lặng của tâm.
79. Bị ốm o, vàng vọt, và xuống sắc, tôi đă sống bảy năm. Tôi đă không t́m thấy sự an lạc vào ban ngày hoặc ban đêm, vô cùng khổ sở.
80. Do đó, tôi đă cầm lấy sợi dây thừng rồi đă đi vào bên trong khu rừng. Ở đây, việc treo lên (tự vẫn) đối với tôi là cao quư hơn việc tôi trở lại thực hành đời sống thấp kém (của người tại gia).
81. Sau khi đă thực hiện cái tḥng lọng chắc chắn, sau khi đă buộc ở cành cây, tôi đă quàng cái tḥng lọng vào cổ, khi ấy tâm của tôi đă được giải thoát (khỏi các lậu hoặc).”
Trưởng lăo ni Sīhā đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Sīhā.
41.
82. “‘Này Nandā, cô hăy nh́n thấy xác thân là bệnh hoạn, không trong sạch, hôi thối, hăy tu tập tâm được chuyên nhất, khéo được định tĩnh, về (đề mục) tử thi.[5]
83. Thân này như thế nào th́ xác kia như vậy, xác kia như thế nào th́ thân này như vậy. Nó bốc mùi khó chịu, hôi thối, lại được hứng thú đối với những kẻ ngu.
84. Trong khi xem xét xác thân này như thế, không biếng nhác, cả ngày lẫn đêm, từ đó, với trí tuệ của ḿnh, sau khi đă phân thích thấu đáo, cô sẽ nh́n thấy.’
85. Tôi đây, không bị xao lăng, trong lúc đang suy xét theo đúng đường lối, đă nh́n thấy thân này đúng theo bản thể, cả bên trong lẫn bên ngoài.
86. Rồi tôi đă nhàm chán xác thân, và tôi đă không c̣n luyến ái ở nội phần. Không bị xao lăng, không c̣n bị ràng buộc, tôi có được trạng thái an tịnh, chứng được Niết Bàn.”
Trưởng lăo ni Sundarīnandā đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Sundarīnandā.
87. “Tôi đă lễ bái ngọn lửa, mặt trăng, mặt trời, và chư Thiên. Sau khi đi đến các bến nước ở ḍng sông, tôi đă lội xuống nước.
88. Với sự thọ tŕ nhiều phận sự, tôi đă cạo một nửa đầu tóc, tôi sắp xếp việc nằm ở mặt đất, tôi đă không thọ dụng thức ăn vào ban đêm.
89. Ưa thích việc trang sức và tô điểm, với các việc tắm rửa và thoa bóp, tôi đă hầu hạ thân xác này, bị khổ sở v́ sự luyến ái ở các dục.
90. Sau đó, khi đă đạt được niềm tin, tôi đă xuất gia sống đời không nhà, sau khi nh́n thấy xác thân đúng theo bản thể, sự luyến ái ở các dục đă được xóa sạch.
91. Tất cả các hữu, các sự ước muốn, và các điều mong mỏi đă được trừ tuyệt. Không c̣n bị ràng buộc bởi tất cả các điều ràng buộc, tôi đă đạt được sự an tịnh của tâm.”
Trưởng lăo ni Nanduttarā đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Nanduttarā.
92. “Sau khi xuất gia v́ ḷng tin, rời nhà sống không nhà, tôi đă đi lang thang đó đây, năng nổ về lợi lộc và sự tôn vinh.
93. Sau khi đă bỏ bê mục đích tối hậu, tôi đă đeo đuổi mục đích thấp kém. Sau khi đi đến khu rừng của các phiền năo, tôi đă không thấu hiểu được mục đích của đời sống Sa-môn.
94. Khi đă ngồi xuống ở trong trú xá nhỏ, tôi đây đă có sự chấn động. Tôi đă thực hành đường lối sái quấy, đă đi vào sự kiểm soát của tham ái.
95. Mạng sống của tôi là ít ỏi. Già và bệnh dẫm đạp nó. Thân thể bị tan vỡ bởi sự già, tôi không c̣n thời gian để xao lăng.
96. Trong khi xem xét đúng theo bản thể về sự sanh và diệt của các uẩn, với tâm đă được giải thoát, tôi đă đứng lên; lời dạy của đức Phật đă được thực hành.”
Trưởng lăo ni Mittākāḷi đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Mittākāḷi.
97. “Trong khi sống tại gia, tôi đă lắng nghe Pháp của vị tỳ khưu, tôi đă nh́n thấy pháp xa ĺa luyến ái, Niết Bàn, vị thế Bất Hoại.
98. Sau khi ĺa bỏ con trai, con gái, tài sản, và lúa gạo, sau khi nhờ người cạo tóc, tôi đây đă xuất gia sống đời không nhà.
99. Trong khi là cô ni tu tập sự, trong khi tu tập Đạo Lộ thẳng tắp, tôi đă dứt bỏ luyến ái và sân hận, luôn cả các lậu hoặc đồng sanh với chúng.
100. Sau khi đă được tu lên bậc trên trở thành tỳ khưu ni, tôi đă nhớ lại đời sống trước đây. Thiên nhăn đă được trong sạch, không vết nhơ, đă được tu tập tốt đẹp.
101. Sau khi nh́n thấy các hành là vô ngă, được sanh lên do nhân, (có bản chất) bị tan ră, tôi đă dứt bỏ tất cả các lậu hoặc, tôi có được trạng thái mát mẻ, chứng được Niết Bàn.”
Trưởng lăo ni Sakulā đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Sakulā.
102. “Sau khi sanh ra mười người con trai ở sắc thân này, v́ thế, bị yếu sức, già nua, tôi đă đi đến gặp vị tỳ khưu ni.
103. Vị ni ấy đă thuyết giảng Giáo Pháp cho tôi về (năm) uẩn, (mười hai) xứ, (mười tám) giới. Sau khi lắng nghe Pháp của vị ni ấy, tôi đă cạo tóc, và đă xuất gia.
104. Trong khi tôi đây là cô ni tu tập sự, Thiên nhăn (của tôi) được trong sạch, tôi biết đời sống trước đây, nơi tôi đă sống trước đây.
105. Và tôi tu tập về vô tướng, được chuyên nhất, khéo được định tĩnh. Liền khi đó, tôi đă được giải thoát, chứng được Niết Bàn, không c̣n chấp thủ.
106. Năm uẩn đă được biết toàn diện, chúng tồn tại với gốc rễ đă được chặt đứt. Này bà già đáng thương, thật xấu hổ cho ngươi! Giờ đây không c̣n tái sanh nữa.”
Trưởng lăo ni Soṇā đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Soṇā.
107. “Trước đây, tôi đă đi lang thang, tóc được cạo, mang bùn đất, mặc một mảnh y phục, với sự suy nghĩ là có tội ở việc không tội, và với sự nhận thức là không tội ở việc có tội.
108. Sau khi rời khỏi chỗ nghỉ ban ngày ở ngọn núi Gijjhakūṭa, tôi đă nh́n thấy đức Phật, bậc Vô Nhiễm, được tôn vinh bởi Hội Chúng tỳ khưu.
109. Sau khi quỳ gối xuống, đảnh lễ, tôi đă (đứng) đối diện, chắp tay lại. Ngài đă nói với tôi rằng: ‘Này Bhaddā, hăy đến;’ việc ấy đă là sự tu lên bậc trên của tôi.[6]
110. (Tôi đă) du hành qua (các xứ sở) Aṅga, Magadha, Vajjī, Kāsī, và Kosala. Trong năm mươi năm, tôi đă thọ dụng vật thực của các quốc độ, không có nợ nần.
111. Quả thật, ông ta đă tạo được nhiều phước báu! Quả thật, nam cư sĩ này có trí tuệ! Ông ta đă bố thí y đến Bhaddā, vị ni đă được giải thoát khỏi các sự cột trói.”
Trưởng lăo ni Bhaddākuṇḍalakesā đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Bhaddākuṇḍalakesā.
112. “Trong khi cày thửa ruộng với những cái cày, trong khi gieo những hạt giống ở đất, trong khi nuôi dưỡng các con và vợ, những người thanh niên t́m kiếm tài sản.
113. Được đầy đủ giới, là người thực hành lời dạy của bậc Đạo Sư, không biếng nhác, không loạn động, tại sao tôi không chứng đắc Niết Bàn?
114. Sau khi rửa hai bàn chân, tôi chú ư ở những chỗ nước (đă được đổ xuống), và tôi đă nh́n thấy nước rửa chân từ đất cao đi đến chỗ thấp.
115. Do đó, tôi đă khiến tâm được định, tựa như (người xa phu điều khiển) con ngựa hiền thiện thuần chủng. Sau đó, tôi đă cầm lấy cây đèn rồi đi vào trú xá.
116. Sau khi xem xét chỗ nằm, tôi đă ngồi xuống chiếc giường nhỏ. Sau đó, tôi cầm lấy cây kim khều cái tim đèn. Sự giải thoát của tâm đă xảy ra, tựa như sự lụi tàn của cây đèn.”
Trưởng lăo ni Paṭācārā đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Paṭācārā.
117. “Sau khi cầm lấy những cái chày, những người thanh niên giă thóc. Trong khi nuôi dưỡng các con và vợ, những người thanh niên t́m kiếm tài sản.
118. ‘Các cô hăy thực hành lời dạy của đức Phật, sau khi làm điều ấy th́ không phải hối tiếc. Các cô hăy nhanh chóng rửa các bàn chân rồi hăy ngồi xuống ở một góc. Được gắn liền với sự b́nh lặng của tâm, các cô hăy thực hành lời dạy của đức Phật.’
119. Sau khi lắng nghe lời nói, lời chỉ dạy của vị ni Paṭācārā ấy, (ba mươi) vị ni ấy đă nhanh chóng rửa các bàn chân rồi ngồi xuống ở một góc. Được gắn liền với sự b́nh lặng của tâm, các cô đă thực hành lời dạy của đức Phật.
120. Vào canh thứ nhất của đêm, họ đă nhớ lại đời sống trước đây. Vào canh giữa của đêm, họ đă làm trong sạch Thiên nhăn. Vào canh cuối của đêm, họ đă phá tan khối đống tăm tối (vô minh).
121. Sau khi đứng lên, họ đă (đi đến gặp và đă) đảnh lễ các bàn chân (của vị ni Paṭācārā và thưa rằng): ‘Các lời chỉ dạy của ni sư đă được thực hành. Chúng tôi sẽ tôn vinh và sẽ sống (với ni sư), tựa như chư Thiên cơi Ba Mươi đối với vị Trời Inda không bị đánh bại ở chiến trường. Chúng tôi có ba Minh, không c̣n lậu hoặc.’”
Các tỳ khưu ni trưởng lăo số lượng ba mươi vị đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của ba mươi vị tỳ khưu ni trưởng lăo.
122. “Trước đây, tôi đă bị lâm cảnh bất hạnh, góa phụ và không con cái, không có các bạn bè thân quyến, tôi đă không đạt được thức ăn và y phục.
123. Sau khi cầm lấy cái b́nh bát và cây gậy, trong khi xin ăn từ nhà này sang nhà khác, trong khi bị thiêu đốt bởi lạnh và nóng, tôi đă sống bảy năm.
124. Về sau, tôi đă nh́n thấy vị tỳ khưu ni có sự nhận được cơm ăn và nước uống, tôi đă đi đến gần và đă nói rằng: ‘Hăy cho tôi xuất gia sống đời không nhà.’
125. Và vị ni Paṭācarā ấy, v́ ḷng bi mẫn, đă cho tôi xuất gia, sau đó đă giáo huấn và đă khuyến khích tôi về mục đích cao cả.
126. Sau khi lắng nghe lời nói của vị ni ấy, tôi đă làm theo lời chỉ dạy. Lời giáo huấn của ni sư là không vô ích; tôi có ba Minh, không c̣n lậu hoặc.’”
Trưởng lăo ni Candā đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Candā.
Nhóm Năm được chấm dứt.
--ooOoo--
127. “‘Cô không biết chúng sinh ấy đă từ đâu đi đến, (không biết) con đường đă đi đến hoặc đă ra đi của nó, thế mà cô khóc là: Con trai tôi!
128. Nếu cô biết con đường đă đi đến hoặc đă ra đi của nó, th́ cô không sầu muộn cho nó, bởi v́ các sinh linh có quy luật như vậy.
129. Không được mời mọc, từ nơi kia nó đă đi đến; không được cho phép, từ nơi này nó đă ra đi. Thật vậy, sau khi đă đi đến từ nơi nào đó, sau khi sống vài ngày, từ nơi này nó cũng đă ra đi bằng cách khác, từ nơi kia nó cũng sẽ ra đi bằng cách khác.
130. Nó đă từ trần với vóc dáng con người, trong khi c̣n luân hồi, nó sẽ c̣n ra đi. Nó đă đi đến như thế nào, nó đă ra đi như thế ấy. Trong trường hợp ấy, than khóc có ư nghĩa ǵ?’
131. Quả thật, vị ni ấy đă rút ra mũi tên khó nh́n thấy đă được cắm vào trái tim, khi tôi bị sầu muộn chế ngự, vị ni ấy đă xua đi nỗi sầu muộn về người con trai cho tôi.[7]
132. Hôm nay, tôi đây, có mũi tên đă được rút ra, không c̣n cơn đói, đă chứng Niết Bàn. Tôi đi đến nương nhờ đức Phật, bậc Hiền Trí, Giáo Pháp, và Hội Chúng.”[8]
Các tỳ khưu ni trưởng lăo số lượng 500 vị đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của năm trăm vị trưởng lăo ni.
133. “Do nỗi sầu muộn về đứa con trai, tôi bị khổ sở, có tâm bị rối loạn, không c̣n nhận biết, lơa thể, và đầu tóc rối tung, tôi đă đi lang thang đó đây.
134. Tôi đă sống ở những đống rác, ở băi tha ma, và ở những đường lộ. Tôi đă lang thang ba năm, chịu đựng sự đói khát.
135. Về sau, tôi đă nh́n thấy đấng Thiện Thệ, bậc thuần phục những kẻ chưa được thuần phục, đấng Toàn Giác, không có sự sợ hăi từ bất cứ đâu, đang đi về hướng thành Mithilā.
136. Sau khi đạt lại được tâm của ḿnh, tôi đă đảnh lễ, rồi đă ngồi xuống. Vị Gotama ấy, v́ ḷng bi mẫn, đă thuyết giảng Giáo Pháp cho tôi.
137. Sau khi lắng nghe Pháp của Ngài, tôi đă xuất gia sống đời không nhà. Trong khi rèn luyện theo lời dạy của bậc Đạo Sư, tôi đă chứng ngộ vị thế An Toàn.
138. Tất cả các nỗi sầu muộn đă được trừ tuyệt, đă được dứt bỏ, có sự tận cùng ở vị thế này; bởi v́ tôi đă biết toàn diện các nền tảng, từ nơi ấy có sự sanh khởi các nỗi sầu muộn.”
Trưởng lăo ni Vāseṭṭhī đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Vāseṭṭhī.
52.
139. “‘Nàng trẻ trung và có sắc đẹp, ta cũng trẻ trung và là thanh niên. Này Khemā, nàng hăy đến. Chúng ta hăy vui thú với nhạc cụ gồm có năm loại.’[9]
140. ‘Ta bị khổ sở, bị hổ thẹn với xác thân hôi thối, bệnh hoạn, mảnh mai này. Ta có tham ái trong các dục đă được xóa sạch.
141. Các dục như là gươm giáo, các uẩn như là cái thớt của chúng. Điều ngươi gọi là sự thích thú trong các dục, điều ấy giờ đây là sự không thích thú đối với ta.[10]
142. Sự vui thích đă được phá hủy ở tất cả các nơi. Khối đống tăm tối (vô minh) đă được phá tan. Này Ác Nhân, ngươi hăy biết như thế. Này Tử Thần, ngươi đă bị đánh bại.
143. Này những kẻ ngu dốt, trong khi lễ bái các v́ tinh tú, trong khi thờ phụng ngọn lửa ở trong rừng, trong khi không biết đúng theo bản thể, các ngươi nghĩ là sự trong sạch.
144. C̣n ta, ngay trong khi lễ bái đấng Toàn Giác, bậc Tối Thượng Nhân, ta đă được hoàn toàn giải thoát khỏi tất cả các khổ đau, ta là người thực hành Giáo Pháp của đấng Đạo Sư.’”
Trưởng lăo ni Khemā đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Khemā.
145. “Được trang điểm, có y phục đẹp, có tràng hoa, được bôi trầm hương, được che phủ với tất cả các đồ trang sức, (tôi) dẫn đầu đám nữ tỳ.
146. Sau khi cầm lấy cơm và nước, vật thực cứng mềm không phải là ít, sau khi rời khỏi nhà, tôi đă cho mang đến vườn hoa.
147. Sau khi đă vui thú và đùa giỡn ở nơi ấy, trong khi đi về lại nhà của ḿnh, tôi đă nh́n thấy tu viện và tôi đă đi vào khu rừng Añjana ở Sāketa.
148. Sau khi nh́n thấy đấng Quang Đăng của thế gian, tôi đă đảnh lễ và đă ngồi xuống. Bậc Hữu Nhăn ấy, v́ ḷng bi mẫn, đă thuyết giảng Giáo Pháp cho tôi.
149. Và sau khi lắng nghe, quả nhiên tôi đă thấu triệt Chân Lư của bậc Đại Ẩn Sĩ. Ngay tại nơi ấy, tôi đă chạm đến Giáo Pháp vô nhiễm, vị thế Bất Tử.
150. Sau đó, nhận thức được Chánh Pháp, tôi đă xuất gia sống đời không nhà. Ba Minh đă được thành tựu, lời dạy của đức Phật là không vô ích.”
Trưởng lăo ni Sujātā đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Sujātā.
151. “Tôi đă được sanh ra trong gia đ́nh cao quư, có nhiều của cải, có tài sản đồ sộ, được thành tựu về màu da và dáng vóc, con gái ruột của Megha.
152. Được những người con trai của các vị vua ao ước, được những người con trai của các nhà triệu phú khao khát, họ đă gởi sứ giả đến gặp cha tôi: ‘Hăy gả Anopamā cho chúng tôi.
153. Cô con gái Anopamā ấy của ông được cân nặng chừng nào, tôi sẽ trao vàng và ngọc tám lần so với chừng ấy.’
154. Tôi đây, sau khi lắng nghe đấng Toàn Giác, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Vô Thượng, tôi đă đảnh lễ hai bàn chân của Ngài rồi đă ngồi xuống một bên.
155. Ngài Gotama ấy, v́ ḷng bi mẫn, đă thuyết giảng Giáo Pháp cho tôi. Ngồi ở tại chỗ ấy, tôi đă chạm đến quả vị thứ ba.
156. Sau đó, tôi đă cắt tóc, tôi đă xuất gia sống đời không nhà. Hôm nay, đối với tôi là đêm thứ bảy, kể từ lúc ấy tham ái đă được làm khô héo.”
Trưởng lăo ni Anopamā đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Anopamā.
157. “Bạch đức Phật, bậc Anh Hùng, đấng Vô Thượng của tất cả chúng sanh, xin kính lễ Ngài, Ngài đă giúp cho con và nhiều người khác giải thoát khỏi khổ đau.
158. Tất cả khổ đau đă được biết toàn diện, nhân tham ái đă được làm khô héo, Đạo Lộ tám chi phần đă được tu tập, sự Tịch Diệt đă được tôi chạm đến.
159. Và trước đây, tôi đă là người mẹ, con trai, người cha, con gái, và bà nội (của Ngài). Trong khi không nhận biết đúng theo bản thể, tôi đă luân hồi không ngừng nghỉ.
160. Bởi v́ đức Thế Tôn ấy đă được tôi nh́n thấy, đây là xác thân sau chót (của tôi). Việc luân hồi tái sanh đă được triệt tiêu, giờ đây không c̣n tái sanh nữa.[11]
161. Tôi nh́n thấy các vị Thinh Văn, có sự nỗ lực tinh tấn, có bản tánh cương quyết, thường xuyên có sự ra sức vững chăi, có sự hợp nhất; điều này là sự lễ bái đến chư Phật.
162. Đúng vậy, v́ lợi ích của nhiều người, (hoàng hậu) Māyā đă sanh ra Gotama. Ngài đă xua đi khối đống khổ đau cho những người bị công kích bởi bệnh tật và chết chóc.”
Trưởng lăo ni Mahāpajāpatīgotamī đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Mahāpajāpatīgotamī.
163. “Này Guttā, sau khi ĺa bỏ con trai và gia súc yêu quư, (cô có) sự xuất gia với mục đích nào th́ cô hăy đeo đuổi chính mục đích ấy, chớ rơi vào sự tác động của tâm.
164. Bị tâm lường gạt, được thích thú ở lănh địa của Ma Vương, chúng sanh trải qua sự luân hồi trong nhiều kiếp sống, không hiểu biết.
165. Sự ham muốn về các dục, ác tâm, và luôn cả sự nhận thức sai trái về thân, sự bám víu vào giới và nghi thức, và hoài nghi là thứ năm.
166. Này tỳ khưu ni, sau khi từ bỏ những sự ràng buộc có khả năng đưa đến (các cảnh giới) hạng thấp ấy, cô sẽ không trở lại nơi này nữa.
167. Sau khi bỏ đi luyến ái, ngă mạn, vô minh, và loạn động, sau khi cắt đứt những sự ràng buộc, cô sẽ thực hiện việc chấm dứt khổ đau.[12]
168. Sau khi tiêu trừ việc luân hồi tái sanh, sau khi biết toàn diện về việc hiện hữu lần nữa, ngay trong thời hiện tại, không c̣n cơn đói, cô sẽ sống được an tịnh.”
Trưởng lăo ni Guttā đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Guttā.
169. “Không đạt được sự an tịnh của ư, không làm chủ được việc kiểm soát ở tâm, tôi đă đi ra khỏi trú xá bốn lần, năm lần.[13]
170. Sau khi đi đến gặp vị tỳ khưu ni, tôi đă bày tỏ sự tôn kính rồi đă vấn hỏi. Vị ni ấy đă thuyết giảng cho tôi về (mười tám) giới và (mười hai) xứ.
171. Về bốn Chân Lư cao thượng, các quyền, và các lực, các yếu tố đưa đến giác ngộ, Đạo Lộ tám chi phần đưa đến sự đạt được mục đích cao thượng.
172. Sau khi lắng nghe lời nói của vị ni ấy, trong khi làm theo lời chỉ dạy, vào canh thứ nhất của đêm, tôi đă nhớ lại đời sống trước đây.
173. Vào canh giữa của đêm, tôi đă làm trong sạch Thiên nhăn. Vào canh cuối của đêm, tôi đă phá tan khối đống tăm tối (vô minh).[14]
174. Và khi ấy, sau khi thấm nhuần cơ thể với hỷ và lạc, tôi đă an trú. Vào ngày thứ bảy, tôi đă duỗi ra các bàn chân, sau khi đă phá tan khối đống tăm tối (vô minh).”
Trưởng lăo ni Vijayā đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Vijayā.
Nhóm Sáu được chấm dứt.
--ooOoo--
175. “‘Sau khi cầm lấy những cái chày, những người thanh niên giă thóc. Trong khi nuôi dưỡng các con và vợ, những người thanh niên t́m kiếm tài sản.[15]
176. Cô hăy nỗ lực theo lời dạy của đức Phật, sau khi đă làm điều ấy, không phải ân hận. Hăy mau chóng rửa các bàn chân rồi ngồi xuống một bên.[16]
177. Sau khi đă thiết lập tâm được chuyên nhất, khéo được định tĩnh, hăy quán xét các hành là vô ngă, và không phải là tự ngă.’
178. Sau khi lắng nghe lời nói của vị ni ấy, lời chỉ dạy của vị ni Paṭācārā, tôi đă rửa sạch hai bàn chân rồi đă ngồi xuống ở một góc.
179. Vào canh thứ nhất của đêm, tôi đă nhớ lại đời sống trước đây. Vào canh giữa của đêm, tôi đă làm trong sạch Thiên nhăn.
180. Vào canh cuối của đêm, tôi đă phá tan khối đống tăm tối (vô minh).[17] Có được ba Minh, tôi đă đứng lên (sau đó đi đến gặp và đă thưa rằng): ‘Các lời chỉ dạy của ni sư đă được thực hành.
181. Tôi sẽ tôn vinh và sống (với ni sư), tựa như chư Thiên cơi Ba Mươi đối với vị Trời Sakka không bị đánh bại ở chiến trường. Tôi có ba Minh, không c̣n lậu hoặc.’”[18]
Trưởng lăo ni Uttarā đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Uttarā.
182. “Sau khi thiết lập niệm, vị tỳ khưu ni, có các quyền đă được tu tập, đă thấu triệt vị thế An Tịnh, sự yên lặng của các pháp hữu vi, sự an lạc.
183. ‘Liên quan đến ai mà nàng cạo đầu? Nàng được nh́n thấy giống như nữ Sa-môn. Nhưng nàng không chấp nhận các tà giáo, tại sao nàng lại ngớ ngẩn thực hành cái này?’
184. ‘Các tà giáo ở bên ngoài Giáo Pháp này th́ nương theo các tà kiến, chúng không nhận thức được Giáo Pháp, chúng không rành rẽ về Giáo Pháp.
185. Ở ḍng họ Sakya, có đức Phật, bậc không người đối thủ, đă được sanh ra. Ngài đă thuyết giảng cho ta về Giáo Pháp có sự vượt qua hẳn các tà kiến.
186. (Ngài đă thuyết giảng về) Khổ, sự sanh lên của Khổ, sự vượt qua Khổ, và Thánh Đạo tám chi phần đưa đến sự yên lặng của Khổ.
187. Sau khi lắng nghe lời nói của đức Phật, được thích thú ở lời chỉ dạy, ta đă an trú. Ba Minh đă được thành tựu, lời dạy của đức Phật đă được thực hành.
188. Sự vui thích đă được phá hủy ở tất cả các nơi. Khối đống tăm tối (vô minh) đă được phá tan. Này Ác Nhân, ngươi hăy biết như thế. Này Tử Thần, ngươi đă bị đánh bại.’”[19]
Trưởng lăo ni Cālā đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Cālā.
189. “Có niệm, có nhăn quan, vị tỳ khưu ni, với các quyền đă được tu tập, đă thấu triệt vị thế An Tịnh, (là pháp) không được thực hành bởi những kẻ xấu.
190. ‘Tại sao nàng không chấp nhận sự sanh? Người đă được sanh ra (sẽ) thọ hưởng các dục. Nàng hăy thọ hưởng các sự thích thú trong các dục, chớ có sự tiếc nuối sau này.’
191. ‘Đối với người đă được sanh ra th́ có sự chết, sự chặt đứt các tay chân, sự hành quyết, sự giam cầm, và tai họa. Người đă được sanh ra đọa vào khổ đau.
192. Ở ḍng họ Sakya, có đức Phật, bậc không người đối thủ, đă được sanh ra. Ngài đă thuyết giảng cho ta về Giáo Pháp có sự vượt qua hẳn sự sanh.[20]
193. (Ngài đă thuyết giảng về) Khổ, sự sanh lên của Khổ, sự vượt qua Khổ, và Thánh Đạo tám chi phần đưa đến sự yên lặng của Khổ.[21]
194. Sau khi lắng nghe lời nói của đức Phật, được thích thú ở lời chỉ dạy, ta đă an trú. Ba Minh đă được thành tựu, lời dạy của đức Phật đă được thực hành.[22]
195. Sự vui thích đă được phá hủy ở tất cả các nơi. Khối đống tăm tối (vô minh) đă được phá tan. Này Ác Nhân, ngươi hăy biết như thế. Này Tử Thần, ngươi đă bị đánh bại.’”[23]
Trưởng lăo ni Upacālā đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Upacālā.
Nhóm Bảy được chấm dứt.
--ooOoo--
196. Vị tỳ khưu ni, được đầy đủ về giới, khéo được thu thúc ở các giác quan, có thể chứng đắc vị thế An Tịnh có vị ngọt ngào toàn vẹn.
197. ‘Có chư Thiên cơi Đao Lợi, cơi Dạ Ma, và luôn cả cơi Đẩu Suất, chư Thiên cơi Hóa Lạc, và chư Thiên cơi (Tha Hóa) Tự Tại, nàng hăy chú nguyện tâm ở nơi ấy, ở nơi mà nàng đă sống trước đây.’
198. ‘Có chư Thiên cơi Đao Lợi, cơi Dạ Ma, và luôn cả cơi Đẩu Suất, chư Thiên cơi Hóa Lạc, và chư Thiên cơi (Tha Hóa) Tự Tại.
199. (Chư Thiên ấy) tôn vinh bản ngă, không vượt qua bản ngă, đều trôi theo sanh tử thời điểm này đến thời điểm khác, từ cơi này đến cơi khác.
200. Toàn bộ thế giới đều bị đốt cháy, toàn bộ thế giới đều bị rực cháy, toàn bộ thế giới đều bị phát cháy, toàn bộ thế giới đều bị lay động.
201. Đức Phật đă thuyết giảng Giáo Pháp không thể lay động, không thể so sánh, không được thực hành bởi các phàm nhân, tâm của ta đă vô cùng thích thú về Giáo Pháp ấy.
202. Sau khi lắng nghe lời nói của đức Phật, được thích thú ở lời chỉ dạy, ta đă an trú. Ba Minh đă được thành tựu, lời dạy của đức Phật đă được thực hành.[24]
203. Sự vui thích đă được phá hủy ở tất cả các nơi. Khối đống tăm tối (vô minh) đă được phá tan. Này Ác Nhân, ngươi hăy biết như thế. Này Tử Thần, ngươi đă bị đánh bại.’”[25]
Trưởng lăo ni Sīsūpacālā đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Sīsūpacālā.
Nhóm Tám được chấm dứt.
--ooOoo--
204. “‘Này Vaḍḍha, con chớ có khao khát về thế gian vào bất cứ lúc nào. Này con trai bé bỏng, con chớ dự phần vào khổ đau lần này lần khác.
205. Này Vaḍḍha, các bậc hiền trí, không c̣n dục vọng, có các nghi ngờ đă được cắt đứt, có trạng thái mát mẻ, đă đạt đến sự thuần phục, sống một cách thật sự an lạc, không c̣n lậu hoặc.
206. Này Vaḍḍha, con hăy đeo đuổi đạo lộ đă được các bậc ẩn sĩ ấy thực hành nhằm đạt đến sự nhận thức, nhằm thực hiện việc chấm dứt khổ đau.’
207. ‘Thưa đấng sanh thành, mẹ vô cùng tự tin khi nói điều này với con. Thưa mẹ, con nghĩ rằng tham ái chắc chắn không c̣n t́m thấy ở nơi mẹ.’
208. ‘Này Vaḍḍha, bất cứ các hành nào là thấp thỏi, cao thượng, hay trung b́nh, tham ái dầu rất nhỏ, dầu có số lượng rất nhỏ, cũng không t́m thấy ở nơi mẹ.’
209. Trong khi đang tham thiền không bị xao lăng, tất cả các lậu hoặc của tôi đă được cạn kiệt. Ba Minh đă được thành tựu, lời dạy của đức Phật đă được thực hành.[26]
210. Cũng giống như người có ḷng bi mẫn, mẹ tôi quả thật đă vận dụng cây gậy thúc tuyệt vời, (đó là) những câu kệ ngôn gắn liền với mục đích tối hậu.
211. Sau khi lắng nghe lời nói của mẹ, lời nhắc nhở của đấng sanh thành, tôi đă đạt đến sự chấn động trong Giáo Pháp, đưa đến sự an toàn khỏi các ràng buộc.
212. Tôi đây, có sự ra sức, có bản tánh cương quyết, ngày và đêm không biếng nhác, trong khi được người mẹ khích lệ, tôi đă chạm đến sự An Tịnh tối thượng.”
Trưởng lăo ni Vaḍḍhamātā (mẹ của Vaḍḍha) đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Vaḍḍhamātā.
Nhóm Chín được chấm dứt.
--ooOoo--
213. Tư cách bạn lành đă được bậc Hiền Trí khen ngợi khi đề cập đến thế gian. Trong khi thân cận với các bạn lành, ngay cả kẻ ngu dốt cũng có thể trở thành người sáng trí.
214. Những người tốt nên được thân cận, như thế trí tuệ tăng trưởng cho những người thân cận. Người thân cận những người tốt có thể thoát khỏi tất cả những nỗi khổ đau.
215. (Người thân cận những người tốt) có thể nhận thức được Khổ, sự sanh lên của Khổ, sự Tịch Diệt, và Đạo Lộ tám chi phần, luôn cả bốn Chân Lư cao thượng.
216. Bản thể người nữ là khổ, (là điều) đă được đấng Điều Ngự Trượng Phu nói đến. T́nh trạng có chung chồng cũng là khổ, một số người nữ sanh đẻ lần đầu (cũng là khổ).[27]
217. Những người nữ mang bào thai nghịch tử (nằm sai vị trí) thậm chí c̣n cắt ở cổ họng, những người có thân h́nh mảnh mai ăn vào các chất độc, cả hai (mẹ và con) đều gánh chịu các sự bất hạnh.
218. Khi đă gần đến lúc sanh nở, trong khi đang đi (về nhà mẹ), tôi đă nh́n thấy người chồng bị chết. Tôi đă sanh đẻ ở trên đường, khi tôi c̣n chưa đạt đến căn nhà của ḿnh.[28]
219. (Paṭācārā) người đàn bà khốn khổ có hai con trai đă qua đời, và người chồng đă chết trên đường đi, mẹ, cha, và em trai được thiêu đốt chung một giàn hỏa táng.
220. Này người đàn bà khốn khổ có gia tộc đă bị tiêu tán, khổ đau của nàng đă gánh chịu là vô ngần, và nước mắt của nàng đă được tuôn trào trong nhiều ngàn kiếp sống.
221. Tôi cũng đă nh́n thấy khi ấy, ở giữa băi tha ma, những mẩu thịt của con trai bị ngấu nghiến (bởi loài thú). Là người nữ có gia tộc đă bị giết chết, bị mọi người quở trách, là góa phụ, tôi đă chứng đắc sự Bất Tử.
222. Thánh Đạo tám chi phần đưa đến sự Bất Tử đă được tôi tu tập, Niết Bàn đă được tôi chứng ngộ; tôi đă nh́n thấy tấm gương Giáo Pháp.
223. Tôi có mũi tên đă được nhổ lên, có gánh nặng đă được đặt xuống, có việc cần làm đă được làm xong. Trưởng lăo ni Kisāgotamī, với tâm đă được giải thoát, đă nói lên điều này.”
Trưởng lăo ni Kisāgotamī đă nói những lời kệ như thế.
Kệ ngôn của trưởng lăo ni Kisāgotamī.
Nhóm Mười Một được chấm dứt.
--ooOoo--
[1] Vào mỗi nửa tháng, ba ngày Bát Quan Trai mồng tám, mười bốn, mười lăm, cộng thêm ngày rước và ngày đưa là các ngày bảy, ngày chín, ngày mười ba, và mồng một (ND).
[2] Câu kệ 42 giống câu kệ 37.
[3] Câu kệ 45 giống câu kệ 21.
[4] Câu kệ 62 giống câu kệ 59.
[5] Câu kệ 82 giống câu kệ 19.
[6] Không nên hiểu lầm đây là trường hợp tu lên bậc trên bậc trên của tỳ khưu ni, trưởng hợp được trở thành tỳ khưu khi được đức Phật gọi rằng: ‘Ehi, bhikkhu = Này tỳ khưu, hăy đến’ chỉ áp dụng cho tỳ khưu. Chú Giải Sư Dhammapāla cho biết nguyên lời của đức Phật như sau: ‘Này Bhaddā, hăy đến. Cô hăy đi đến chỗ trú ngụ của tỳ khưu ni, hăy xuất gia rồi tu lên bậc trên trong sự chứng minh của các tỳ khưu ni’ (ThigA., 105, PTS).
[7] Câu kệ 131 tương tợ câu kệ 52.
[8] Câu kệ 132 giống câu kệ 53.
[9] Câu kệ 139 là lời xúi giục của Ma Vương, các câu kệ c̣n lại là lời của vị trưởng lăo ni.
[10] Hai câu kệ 141, 142 giống hai câu kệ 58, 59.
[11] Câu kệ 160 giống câu kệ 22.
[12] Ba câu kệ 165 - 167 đề cập đến năm hạ phần kiết sử và năm thượng phần kiết sử (ND).
[13] Câu kệ 169 giống câu kệ 37.
[14] 172 cd (nửa sau của câu kệ 172) và câu kệ 173 tương tự câu kệ 120.
[15] Câu kệ 175 giống câu kệ 117.
[16] Câu kệ 176 tương tự câu kệ 13.
[17] Câu kệ 179 và câu kệ 180ab tương tự câu kệ 120.
[18] Câu kệ 181 tương tự câu kệ 121.
[19] Câu kệ 188 giống câu kệ 59.
[20] Câu kệ 192 tương tự câu kệ 185.
[21] Câu kệ 193 giống câu kệ 186.
[22] Câu kệ 194 giống câu kệ 187.
[23] Câu kệ 195 giống câu kệ 59.
[24] Câu kệ 202 giống câu kệ 187.
[25] Câu kệ 203 giống câu kệ 59.
[26] Chú Giải ghi rằng câu kệ này là của người mẹ với lời giải thích văn phạm về sự thay đổi tánh ở nhóm từ “appamattassa jhāyato” (ThigA., 167).
[27] Hai câu kệ 216, 217 là lời thuật lại của một Dạ-xoa nữ về chuyện đời trước (ThigA., 172)
[28] Hai câu kệ 218, 219 đề cập đến câu chuyện của vị trưởng lăo ni Paṭācārā (Sđd.).