Trang Chính

Trang Các Bản Dịch Mới

TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 39

APADĀNAPĀḶI & THÁNH NHÂN KƯ SỰ

 Tập Một

Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda

 

VI. PHẨM VĪJANĪ

51. Kư Sự về Trưởng Lăo Vidhūpanadāyaka

1258. Chiếc quạt đă được tôi dâng cúng đến đức Phật Padumuttara, bậc Trưởng Thượng của thế gian như thế ấy, đấng Chúa Tể của loài người như thế ấy.

1259. Sau khi đă làm cho tâm của ḿnh được tịnh tín, tôi đă chắp tay lên. Tôi đă đảnh lễ bậc Toàn Giác rồi ra đi, mặt hướng phía bắc.

1260. Sau khi cầm lấy chiếc quạt, bậc Đạo Sư đấng Vô Thượng ở thế gian, trong khi đang đứng ở nơi Hội Chúng tỳ khưu đă nói lên lời kệ này:

1261. “Do sự dâng cúng chiếc quạt này và do các nguyện lực của tâm, (người ấy) không sa vào đọa xứ trong một trăm ngàn kiếp.”

1262. Có sự ra sức tinh tấn, có tính khẳng quyết, được định tĩnh là đức tính của tâm, vào lúc bảy tuổi tính từ khi sanh tôi đă thành tựu phẩm vị A-la-hán.

1263. (Trước đây) sáu mươi ngàn kiếp, đă có mười sáu vị vua tên Vījamāna là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.

1264. Bốn (tuệ) phân tích, ―(như trên)― tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Vidhūpanadāyaka[1] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Vidhūpanadāyaka là phần thứ nhất.

--ooOoo--

52. Kư Sự về Trưởng Lăo Sataraṃsika

1265. Sau khi trèo lên tảng đá cao, đấng Tối Thượng Nhân đă ngồi xuống. Tôi là vị Bà-la-môn thông thạo về chú thuật (cư ngụ) ở không xa ngọn núi.

1266. Khi đấng Đại Hùng, vị Trời của chư Thiên, bậc Nhân Ngưu đă ngồi xuống, tôi đă chắp tay lên và đă ngợi ca đấng Lănh Đạo Thế Gian rằng:

1267. “Vị này là đức Phật, đấng Đại Hùng, bậc giảng giải về Giáo Pháp cao quư, đứng đầu Hội Chúng tỳ khưu, chói sáng như là đống lửa.

1268. Tợ như đại dương không bị suy suyển, tợ như biển cả khó mà vượt qua, bậc Hữu Nhăn thuyết giảng Giáo Pháp tợ như (con sư tử) vua của loài thú không bị hăi sợ.”

1269. Biết được ư định của tôi, đấng Lănh Đạo Padumuttara đứng ở nơi Hội Chúng tỳ khưu, đă nói lên những lời kệ này:

1270. “Sự chắp tay này đă được dâng cúng và đức Phật tối thượng đă được ngợi ca bởi người nào, (người ấy) sẽ cai quản Thiên quốc ba mươi ngàn kiếp.

1271. Cho đến một trăm ngàn kiếp (về sau này), bậc Toàn Giác tên Aṅgīrasa, vị đă dứt bỏ tội lỗi, sẽ hiện khởi.

1272. (Người ấy) sẽ là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, là vị A-la-hán với tên Sataraṃsī.”

1273. Vào lúc bảy tuổi tính từ khi sanh, tôi đă xuất gia vào đời sống không gia đ́nh. Tôi có ánh sáng tỏa ra, (cho nên) tôi có tên là Sataraṃsī (trăm tia sáng).

1274. Ở mái che hoặc ở gốc cây, tôi là người có thiền chứng, được thỏa thích về thiền. Tôi duy tŕ thân mạng cuối cùng ở Giáo Pháp của đấng Chánh Đẳng Giác.

1275. (Trước đây) sáu mươi ngàn kiếp, (đă có) bốn vị có tên Rāma là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1276. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Sataraṃsiya đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Sataraṃsika là phần thứ nh́.

--ooOoo--

53. Kư Sự về Trưởng Lăo Sayanadāyaka

1277. Với tâm ư trong sạch, tôi đă dâng cúng chiếc giường đến đức Phật Padumuttara ấy, bậc có ḷng thương tưởng đến tất cả thế gian.

1278. Do sự dâng cúng chiếc giường ấy, có sự thành tựu của hạt giống (đă được gieo) ở thửa ruộng tốt, các của cải được sanh lên cho tôi đây; điều này là quả báu của chiếc giường.

1279. Tôi thực hiện việc nằm ngủ ở trên không trung, tôi nâng đỡ trái đất này, tôi có quyền lănh đạo đối với các sanh mạng; điều này là quả báu của chiếc giường.

1280. (Trước đây) năm ngàn kiếp, đă có tám vị (tên là) Mahāvara. Và (trước đây) ba ngàn bốn trăm kiếp, (đă có) bốn vị có oai lực lớn lao.

1281. Bốn (tuệ) phân tích, ―(như trên)― tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Sayanadāyaka[2] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Sayanadāyaka là phần thứ ba.

--ooOoo--

54. Kư Sự về Trưởng Lăo Gandhodakiya

1282. Đă có lễ hội ở cội Đại Bồ Đề của đức Phật Padumuttara. Tôi đă mang theo cái bầu nước đă được trang hoàng và tôi đă dâng cúng nước có hương thơm.

1283. Vào thời điểm rưới nước cho cội Bồ Đề, có đám mây lớn đă đổ mưa. Và đă có tiếng động lớn trong lúc sấm sét đang nổ ra.

1284. Tôi đă mệnh chung ở tại nơi ấy (và đă tái sanh) tợ như tốc độ của tia sét ấy. Trong khi đứng ở thế giới chư Thiên, tôi đă nói lên lời kệ này:

1285. “Ôi đức Phật! Ôi Giáo Pháp! Ôi sự thành tựu của bậc Đạo Sư của chúng ta! (Khi) thân thể của tôi bị ngă xuống th́ tôi sướng vui ở thế giới chư Thiên.”

1286. Chỗ trú ngụ của tôi cao vút, có một trăm tầng lầu được vươn lên, có một trăm ngàn thiếu nữ luôn luôn vây quanh tôi.

1287. Các bệnh tật của tôi không được biết đến, sự sầu muộn của tôi không có, tôi không nh́n thấy sự bực bội; điều này là quả báu của nghiệp phước thiện.

1288. (Trước đây) hai ngàn tám trăm kiếp, tôi đă là đức vua Saṃvasita, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1289. Bốn (tuệ) phân tích, ―(như trên)― tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Gandhodakiya[3] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Gandhodakiya là phần thứ tư.

--ooOoo--

55. Kư Sự về Trưởng Lăo Opavayha

1290. Tôi đă dâng cúng con ngựa thuần chủng đến đức Phật Padumuttara. Sau khi dâng tặng cho bậc Toàn Giác, tôi đă đi về căn nhà của ḿnh.

1291. Vị có tên Devala là Thinh Văn hàng đầu của bậc Đạo Sư, là người thừa tự của Giáo Pháp cao quư, đă đi đến gặp tôi (nói rằng):

1292. “Đức Thế Tôn chỉ sử dụng b́nh bát và vật dụng thiết yếu của ḿnh, con ngựa thuần chủng là không thích hợp. Biết được ư định của ngươi nên bậc Hữu Nhăn đă chấp thuận.”

1293. Sau khi cho người định giá con ngựa Sindhu có tốc độ như gió là phương tiện di chuyển mau chóng, tôi đă dâng cúng vật dụng thích hợp đến đức Phật Padumuttara.

1294. Nơi chốn nào tôi đi tái sanh dầu là bản thể Thiên nhân hay nhân loại, có những con ngựa với tốc độ như gió, đáng được thuần phục, được tô điểm, (đă) sanh lên cho tôi.

1295. Những ai đạt được sự tu lên bậc trên (với Ngài), lợi ích của những vị ấy là đă được thành tựu tốt đẹp. Nếu đức Phật sẽ hiện hữu ở thế gian, tôi có thể gặp lại Ngài lần nữa.

1296. Tôi đă là vị vua có oai lực lớn lao, là người chinh phục bốn phương, là chúa tể của xứ Jambudīpa hai mươi tám lần.

1297. Lần sau cùng này của tôi là sự hiện hữu cuối cùng trong sự luân chuyển. Sau khi từ bỏ sự hơn thua, tôi đă đạt được vị thế Bất Động.

1298. (Trước đây) ba mươi bốn ngàn kiếp, tôi đă là vị Sát-đế-lỵ có quyền uy vĩ đại, được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1299. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Opavayha đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Opavayha là phần thứ năm.

--ooOoo--

56. Kư Sự về Trưởng Lăo Saparivārāsana

1300. Tôi đă dâng cúng vật thực đến đức Phật Padumuttara. Tôi đă đi đến địa điểm thọ trai ấy và đă rải rắc các bông hoa nhài.

1301. Đức Phật, đấng Lănh Đạo cao cả của thế gian, bậc có bản thể chính trực, định tĩnh, ngồi ở chỗ ngồi ấy đă tán dương về phần vật thực rằng:

1302. Cũng giống như chỉ một ít hạt giống được gieo xuống cánh đồng màu mỡ, khi có mưa rào thích hợp đổ xuống, kết quả làm vui ḷng người nông phu.

1303. Tương tợ y như thế, phần vật thực này đă được ngươi gieo xuống thửa ruộng màu mỡ, trong khi sanh ra ở cơi hữu, quả báu sẽ làm ngươi vui ḷng.”

1304. Sau khi nói xong điều này, sau khi đă ngợi ca về phần vật thực, bậc Toàn Giác tên Padumuttara đă ra đi, mặt hướng phía bắc.

1305. Tôi đă thu thúc trong giới bổn Pātimokkha và ở năm giác quan, được gắn bó với sự cô tịch, tôi sống không c̣n lậu hoặc.

1306. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Saparivārāsana[4] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Saparivārāsana là phần thứ sáu.

--ooOoo--

57. Kư Sự về Trưởng Lăo Pañcadīpaka

1307. Sau khi đă khéo an trú trong Chánh Pháp của đức Phật Padumuttara, bậc có ḷng thương tưởng đến tất cả sanh linh, tôi đă có được quan điểm chính chắn.

1308. Tôi đă dâng cúng vật thí là các cây đèn sau khi đă đặt ṿng quanh cội Bồ Đề. Trong khi đang có niềm tin, tôi đă tức thời thắp sáng các cây đèn.

1309. Nơi chốn nào tôi đi tái sanh dầu là bản thể Thiên nhân hay nhân loại, có những người cầm đuốc ở không trung; điều này là quả báu của việc dâng cúng đèn.

1310. Tôi thể nghiệm được sự nh́n thấy ở xung quanh một trăm do-tuần, sau khi đă vượt xuyên qua bức tường, xuyên qua tảng đá, và ngọn núi.

1311. (Trước đây) ba ngàn bốn trăm kiếp, các vị vua có tên Satacakkhu đă là các đấng Chuyển Luân Vương có quyền uy vĩ đại, có oai lực lớn lao.

1312. Nhờ vào phần dư sót của nghiệp ấy, tôi đă đạt được sự đoạn tận các lậu hoặc. Tôi duy tŕ thân mạng cuối cùng ở Giáo Pháp của đấng Chánh Đẳng Giác.

1313. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Pañcadīpaka[5] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Pañcadīpaka là phần thứ bảy.

--ooOoo--

58. Kư Sự về Trưởng Lăo Dhajadāyaka

1314. Ở tại cội cây Bồ Đề của đức Phật Padumuttara, tôi đă trở nên mừng rỡ. Với tâm mừng rỡ tôi đă treo ngọn cờ ở chóp đỉnh của cội cây.

1315. Tôi đă nhặt các lá cây bị rụng xuống rồi đă đổ bỏ ở bên ngoài. Tôi đă đảnh lể cội Bồ Đề tối thượng tợ như (đảnh lễ) bậc Toàn Giác là vị trong sạch bên trong, trong sạch bên ngoài, đă được giải thoát, không c̣n lậu hoặc, đang ở trước mặt.

1316. Đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, đứng ở nơi Hội Chúng tỳ khưu đă nói lên những lời kệ này:

1317. “Do cả hai việc là dâng cúng ngọn cờ và sự phục vụ này, người ấy không đi đến khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp.

1318. (Người ấy) sẽ thọ hưởng sự huy hoàng ở cơi trời không phải là ít ở giữa chư Thiên, sẽ là vị vua ở quốc độ hàng trăm lần, và sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương có tên Uggata.

1319. Được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch, sau khi thọ hưởng sự thành đạt (người ấy) sẽ thỏa thích trong Giáo Pháp của đức Thế Tôn Gotama.”

1320. Có tính khẳng quyết về sự nỗ lực, được an tịnh, không c̣n mầm mống tái sanh, tôi duy tŕ thân mạng cuối cùng ở Giáo Pháp của đấng Chánh Đẳng Giác.

1321. (Trước đây) năm mươi mốt ngàn kiếp, (tôi đă) có tên Uggata. (Trước đây) năm mươi ngàn kiếp, (tôi đă là) vị Sát-đế-lỵ tên Megha.

1322. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Dhajadāyaka[6] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Dhajadāyaka là phần thứ tám.

--ooOoo--

59. Kư Sự về Trưởng Lăo Paduma

1323. Trong khi công bố về bốn Sự Thật, trong khi giúp cho đám đông dân chúng chứng ngộ Niết Bàn, bậc chuyển vận Giáo Pháp cao quư (đă) đổ mưa cơn mưa Bất Tử.

1324. Tôi đă cầm lấy đóa sen hồng c̣n cả cuống đứng ở tầng thượng. Được mừng rỡ, tôi đă ném lên không trung (cúng dường) bậc Hiền Trí Padumuttara.

1325. Và trong khi đóa sen hồng đang đi đến, ngay khi ấy đă có điều kỳ diệu. Biết được ư định của tôi, bậc cao quư trong số các vị đang thuyết giảng đă nắm lấy.

1326. Sau khi cầm lấy đóa sen tối thượng trong các loài hoa bằng bàn tay hạng nhất, (đức Phật) đứng ở nơi Hội Chúng tỳ khưu đă nói lên những lời kệ này:

1327. “Người nào đă thảy đóa sen hồng này đến đấng Toàn Tri, bậc Hướng Đạo, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hăy lắng nghe Ta nói.

1328. (Người ấy) sẽ là vị Chúa của chư Thiên cai quản Thiên quốc ba mươi kiếp, và sẽ ngự trị quốc độ thuộc đất liền ở trái đất bảy trăm lần.

1329. Sau khi tính đếm số lượng cánh hoa ở tại nơi ấy, (người ấy) sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương (bấy nhiêu lần), khi ấy sẽ có trận mưa bông hoa đổ xuống từ không trung.

1330. Vào một trăm ngàn kiếp (về sau này), bậc Đạo Sư tên Gotama, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.  

1331. Là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, sau khi biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc, (người ấy) sẽ Niết Bàn không c̣n lậu hoặc.”

1332. Tôi đă ra khỏi ḷng (mẹ) có sự nhận biết ḿnh, có niệm (đầy đủ). Vào lúc năm tuổi tính từ khi sanh, tôi đă thành tựu phẩm vị A-la-hán.

1333. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Paduma đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Paduma là phần thứ chín.

--ooOoo--

60. Kư Sự về Trưởng Lăo Asanabodhiya

1334. Vào lúc bảy tuổi tính từ khi sanh, tôi đă nh́n thấy đấng Lănh Đạo Thế Gian. Với tâm tịnh tín, với ư vui mừng, tôi đă đi đến gần bậc Tối Thượng Nhân.

1335. Đối với đức Thế Tôn Tissa, bậc Trưởng Thượng của thế gian như thế ấy, tôi đă trở nên mừng rỡ. Với tâm mừng rỡ, tôi đă gieo trồng cội Bồ Đề tối thượng.

1336. (Cội Bồ Đề) là giống cây mọc ở trên mặt đất có tên là Asana. Tôi đă chăm sóc cội Bồ Đề tối thượng Asana năm năm.

1337. Sau khi nh́n thấy cội cây đă được trổ hoa là điều kỳ diệu khiến lông rởn ốc. Trong khi tán dương việc làm của ḿnh, tôi đă đi đến gặp đức Phật tối thượng.

1338. Khi ấy, bậc Toàn Giác Tissa, đấng Tự Chủ, nhân vật cao cả ấy, sau khi ngồi xuống ở Hội Chúng tỳ khưu, đă nói lên những lời kệ này:

1339. “Người nào đă gieo trồng cội cây Bồ Đề này và đă tôn trọng sự cúng dường đức Phật, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hăy lắng nghe Ta nói.

1340. Người ấy sẽ cai quản Thiên quốc ở giữa chư Thiên ba mươi kiếp, và sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương sáu mươi bốn lần.

1341. Được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch, sau khi mệnh chung từ chính cơi trời Đẩu Suất, sau khi thọ hưởng hai sự thành đạt, người ấy sẽ sướng vui ở bản thể nhân loại.

1342. Có tính khẳng quyết về sự nỗ lực, được an tịnh, không c̣n mầm mống tái sanh, sau khi biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc, người ấy sẽ Niết Bàn không c̣n lậu hoặc.”

1343. Tôi đă gắn bó với sự độc cư, được an tịnh, không c̣n mầm mống tái sanh. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đă được cởi trói), tôi sống không c̣n lậu hoặc.

1344. Kể từ khi tôi đă gieo trồng cội Bồ Đề trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc gieo trồng cội Bồ Đề.

1345. Trước đây bảy mươi bốn kiếp, (tôi đă) được nổi tiếng với tên Daṇḍasena. Khi ấy, tôi đă là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật.

1346. Trước đây bảy mươi ba kiếp, đă có bảy vị lănh chúa là các đấng Chuyển Luân Vương tên Samantanemi.

1347. Trước đây hai mươi lăm kiếp, (tôi đă là) vị Sát-đế-lỵ tên Puṇṇaka, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1348. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Asanabodhiya[7] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Asanabodhiya là phần thứ mười.

--ooOoo--

 

Phần Tóm Lược

Vị có cây quạt, vị Sataraṃsī, chiếc giường, vị có nước hương thơm, vị có phương tiện di chuyển, vị có vật phụ thuộc, cây đèn, ngọn cờ, vị cúng dường hoa sen hồng, và cội Bồ Đề là thứ mười. Như thế, (tổng cộng) có chín mươi hai câu kệ đă được nói đến.

Phẩm Vījanī là phẩm thứ sáu.

--ooOoo--

 

VII. PHẨM SAKACINTANIYA

61. Kư Sự về Trưởng Lăo Sakacintaniya

1349. Tôi đă nh́n thấy khu rừng bao la rậm rạp ít có tiếng động, không bị chộn rộn, chính là nơi trú ngụ của các vị ẩn sĩ, là địa điểm tiếp nhận các vật hiến cúng.

1350. Sau khi thực hiện ngôi bảo tháp bằng cát, tôi đă rải rắc nhiều bông hoa khác loại. Tôi đă đảnh lễ (ngôi bảo tháp) đă được tạo nên như là (đảnh lễ) bậc Toàn Giác đang ở trước mặt.

1351. Trở thành vị vua được thành tựu bảy loại báu vật, là chúa tể của quốc độ, tôi hài ḷng với nghiệp của chính ḿnh; điều này là quả báu của việc cúng dường ngôi bảo tháp.

1352. (Kể từ khi) tôi đă dâng lên bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường ngôi bảo tháp.

1353. (Trước đây) tám mươi kiếp, tôi đă là đấng Chuyển Luân Vương Anantayasa được thành tựu bảy loại báu vật, là chúa tể ở bốn châu lục.

1354. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Sakacintaniya[8] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Sakacintaniya là phần thứ nhất.

--ooOoo--

62. Kư Sự về Trưởng Lăo Avopupphiya

1355. Sau khi đi ra khỏi trú xá và bước lên ở con đường kinh hành, trong khi công bố về bốn Sự Thật, Ngài thuyết giảng về đạo lộ Bất Tử.

1356. Nhận biết được giọng nói của đấng Sikhī là đức Phật tối thượng như thế ấy, tôi đă cầm lấy nhiều loại bông hoa và đă tung lên ở không trung.

1357. Do việc làm ấy ở nơi đấng Chúa Tể của loài người, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, sau khi từ bỏ sự hơn thua tôi đă đạt được vị thế Bất Động.

1358. (Kể từ khi) tôi đă dâng lên bông hoa trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường bông hoa.

1359. Trước đây hai mươi kiếp, (tôi đă là) vị Sát-đế-lỵ tên Sumedha, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1360. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Avopupphiya đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Avopupphiya là phần thứ nh́.

--ooOoo--

63. Kư Sự về Trưởng Lăo Paccāgamaniya

1361. Lúc bấy giờ, tôi đă là loài ngỗng đỏ ở bờ sông Sindhu. Và tôi đă khéo ngăn ngừa các điều ác, có thức ăn thuần là loài thảo mộc ở trong nước.

1362. Tôi đă nh́n thấy đức Phật, bậc Vô Nhiễm đang di chuyển ở trên không trung. Tôi đă dùng mỏ ngắt lấy bông hoa sālā và đă dâng lên (đức Phật) Vipassī.

1363. “Người nào có niềm tin ở đức Như Lai không bị lay chuyển khéo được thiết lập, do sự tịnh tín ấy ở trong tâm người ấy không đi đến khổ cảnh.”

1364. Quả vậy, tôi đă thành công mỹ măn trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng. Hạt giống tốt đă được tôi gieo trồng trong khi tôi là loài chim.

1365. (Kể từ khi) tôi đă dâng lên bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường bông hoa.

1366. (Trước đây) mười bảy kiếp, tám vị này có cùng một tên là Sucāru-dassana. Họ đă là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.

1367. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Paccāgamaniya[9] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Paccāgamaniya là phần thứ ba.

--ooOoo--

64. Kư Sự về Trưởng Lăo Parappasādaka

1368. “Ai là người nh́n thấy bậc Toàn Giác có màu da vàng chói, đấng Anh Hùng cao thượng quư phái, bậc Đại Ẩn Sĩ, đấng Chinh Phục mà không tịnh tín?

1369. Tợ như núi Hi-mă-lạp là không thể đo lường được, tợ như biển cả là khó mà vượt qua, tương tợ y như thế về thiền của đức Phật, ai là người nh́n thấy mà không tịnh tín?

1370. Giống như trái đất với ṿng đai rừng đa dạng là không thể ước lượng được, tương tợ y như thế về giới của đức Phật, ai là người nh́n thấy mà không tịnh tín?

1371. Tợ như không gian là không bị khuấy động, giống như bầu trời là không thể tính đếm, tương tợ y như thế về trí của đức Phật, ai là người nh́n thấy mà không tịnh tín?

1372. Vị Bà-la-môn tên Sena đă ngợi ca đức Phật tối thượng, bậc không bị đánh bại Siddhattha, bằng bốn câu kệ này.

1373. (Vị ấy) đă không đi đến khổ cảnh trong chín mươi bốn kiếp, đă thọ hưởng sự thành đạt tốt đẹp ở các cơi trời không phải là ít.

1374. Sau khi ngợi ca đấng Lănh Đạo Thế Gian trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc tán dương.

1375. (Trước đây) mười bốn kiếp, đă có bốn vị tên Uggata là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1376. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Parappasādaka[10] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Parappasādaka là phần thứ tư.

--ooOoo--

65. Kư Sự về Trưởng Lăo Bhisadāyaka

1377. Bậc có tên Vessabhū đă là vị thứ ba trong số các bậc Ẩn Sĩ.[11] Bậc Tối Thượng Nhân đă đi sâu vào rừng và đă cư ngụ ở khu rừng rậm.

1378. Tôi đă cầm lấy củ và rễ sen rồi đă đi đến gần bên đức Phật. Được tịnh tín, tôi đă tự tay ḿnh dâng lên vật ấy đến đức Phật.

1379. Và bằng cái ṿi tôi đă được va chạm với bậc có sự Giác Ngộ cao quư Vessabhū. Tôi chưa biết đến sự sung sướng nào bằng hoặc hơn điều ấy.

1380. (Đây là) lần sau cùng của tôi trong sự luân chuyển, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Điều lành đă được tôi gieo trồng trong khi tôi là loài long tượng.

1381. Kể từ khi tôi đă thực hiện việc làm ấy trước đây 31 kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng củ sen.

1382. Và (trước đây) mười ba kiếp, đă có mười sáu vị vua tên Samodhāna là các bậc thống lănh nhân loại, là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.

1383. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Bhisadāyaka[12] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Bhisadāyaka là phần thứ năm.

--ooOoo--

66. Kư Sự về Trưởng Lăo Sucintita

1384. Tôi đă là người (thợ săn) lai văng ở các khu vực hiểm trở của những ngọn núi. Tợ như con sư tử đă được sanh ra tốt đẹp, tôi giết các bầy thú rừng và sống ở trong vùng đồi núi.

1385. Về phần đức Thế Tôn Atthadassī, đấng Toàn Tri, bậc cao quư trong số các vị đang thuyết giảng, có ư định tiếp độ tôi Ngài đă đi đến ngọn núi cao nhất.

1386. Sau khi giết chết con nai đốm, tôi đă tiến đến để ăn thịt. Vào lúc ấy, đức Thế Tôn trong lúc khất thực đă đi đến gần.

1387. Tôi đă cầm lấy những miếng thịt ngon và đă dâng cúng đến bậc Đạo Sư ấy. Khi ấy, trong lúc giúp cho tôi chứng đạt Niết Bàn, đấng Đại Hùng đă nói lời tùy hỷ.

1388. Do sự tịnh tín ấy ở trong tâm, tôi đă đi vào khu vực hiểm trở của ngọn núi. Sau khi làm cho niềm phỉ lạc sanh khởi, tôi đă qua đời ở tại nơi ấy.

1389. Do sự dâng cúng thịt ấy và do các nguyện lực của tâm, tôi đă sướng vui ở thế giới chư Thiên trong một ngàn năm trăm kiếp.

1390. Do chính sự dâng cúng thịt ấy và sự tưởng niệm về đức Phật, trong những kiếp c̣n lại điều lành đă được tôi tích lũy.

1391. (Trước đây) ba mươi tám kiếp, đă có tám vị tên là Dīghāyu. Trước đây sáu ngàn kiếp, đă có hai vị tên là Varuṇa.

1392. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Sucintita[13] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Sucintita là phần thứ sáu.

--ooOoo--

67. Kư Sự về Trưởng Lăo Vatthadāyaka

1393. Lúc bấy giờ, tôi đă là loài chim có màu sắc đẹp đẽ, là vị thống lănh loài nhân điểu. Tôi đă nh́n thấy đức Phật bậc Vô Nhiễm đang đi ở núi Gandhamādana.

1394. Sau khi bỏ đi dáng vóc của loài nhân điểu, tôi đă mang lốt người thanh niên. Tôi đă dâng cúng một tấm vải đến đấng Chúa Tể của loài người như thế ấy.

1395. Và sau khi tiếp nhận mảnh vải ấy, đức Phật, đấng Lănh Đạo cao cả của thế gian, bậc Đạo Sư đứng ở không trung, đă nói lên lời kệ này:

1396. “Do sự dâng cúng tấm vải này và do các nguyện lực của tâm, sau khi từ bỏ nguồn gốc nhân điểu (người ấy) sẽ sướng vui ở thế giới chư Thiên.”

1397. Và sau khi ca ngợi sự dâng cúng tấm vải, đức Thế Tôn Atthadassī, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu đă ra đi, mặt hướng phía bắc.

1398. Trong khi sanh ra ở cơi hữu, tôi có được sự thành tựu về vải vóc, có được mái che ở trên không trung; điều này là quả báu của việc dâng cúng tấm vải.

1399. (Trước đây) 36 kiếp, đă có bảy người tên Aruṇaka là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao, là các vị thống lănh nhân loại.

1400. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Vatthadāyaka[14] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Vatthadāyaka là phần thứ bảy.

--ooOoo--

68. Kư Sự về Trưởng Lăo Ambadāyaka

1401. Đức Thế Tôn Anomadassī, bậc không c̣n mầm mống tái sanh, ngồi ở vùng đồi núi đă lan tỏa với tâm từ ái ở thế gian vô hạn lượng.

1402. Khi ấy, tôi đă là con khỉ ở ngọn núi Hi-mă-lạp tối thượng. Sau khi nh́n thấy đấng Anoma vô lượng, tôi đă làm cho tâm tịnh tín ở đức Phật.

1403. Lúc bấy giờ, ở không xa núi Hi-mă-lạp có những cây xoài đă được kết trái. Tôi đă hái trái chín từ nơi ấy và đă dâng cúng trái xoài cùng với mật ong.

1404. 1405. Đức Phật, bậc Đại Hiền Trí Anomadassī đă chú nguyện điều ấy cho tôi rằng: “Do cả hai việc là sự dâng cúng mật ong và sự dâng cúng trái xoài này, (người ấy) sẽ sướng vui ở thế giới chư Thiên trong năm mươi bảy kiếp, và trong những kiếp c̣n lại sẽ luân hồi xen kẽ (giữa cơi trời và cơi người).

1406. (Người ấy) sẽ làm cho nghiệp ác được loại trừ nhờ vào trí giác ngộ đă được hoàn toàn chín muồi, sẽ không đi đến đọa xứ, và sẽ thiêu đốt các phiền năo.”

1407. Tôi đă được huấn luyện với sự huấn luyện tối thượng bởi bậc Đại Ẩn Sĩ. Sau khi từ bỏ sự hơn thua, tôi đă đạt được vị thế Bất Động.

1408. (Trước đây) bảy ngàn bảy trăm kiếp, mười bốn vị vua ấy có tên Ambaṭṭhaja đă là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.

1409. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Ambadāyaka[15] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Ambadāyaka là phần thứ tám.

--ooOoo--

69. Kư Sự về Trưởng Lăo Sumana

1410. Lúc bấy giờ, tôi đă là người làm tràng hoa tên là Sumana. Tôi đă nh́n thấy đức Phật, bậc Vô Nhiễm, vị thọ nhận các vật hiến cúng của thế gian.

1411. Tôi đă cầm lấy bông hoa nhài tối thượng bằng cả hai tay và đă dâng lên đức Phật Sikhī, đấng quyến thuộc của thế gian.

1412. Do sự cúng dường bông hoa này và do các nguyện lực của tác ư, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường bông hoa.

1413. (Kể từ khi) tôi đă dâng lên bông hoa trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường bông hoa.

1414. (Trước đây) hai mươi sáu kiếp, đă có bốn vị vua có danh vọng lớn lao là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật.

1415. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Sumana đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Sumana là phần thứ chín.

--ooOoo--

70. Kư Sự về Trưởng Lăo Pupphacaṅgoṭiya

1416. (Đức Phật Sikhī) tợ như loài sư tử có dáng vóc không bị hăi sợ, tợ như con sư tử đă được sanh ra cao quư, tợ như con hổ hùng tráng quư cao, tợ như con chim thuộc loài nhân điểu cao cả.

1417. Đức Phật Sikhī, nơi nương nhờ của tam giới, vị không c̣n dục vọng, bậc không bị đánh bại, đấng cao cả trong số các vị Sa-môn đă ngồi xuống, được vây quanh bởi Hội Chúng tỳ khưu.

1418. Tôi đă đặt để bông hoa anojā thượng hạng ở trong cái rương. Với chính cái rương ấy, tôi đă đâng đến đức Phật tối thượng.

1419. Do sự tịnh tín ấy ở trong tâm đối với bậc Chúa Tể của loài người, đấng Nhân Ngưu, sau khi từ bỏ sự hơn thua tôi đă đạt được vị thế Bất Động.

1420. Kể từ khi tôi đă thực hiện việc làm ấy trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

1421. (Trước đây) tṛn đủ ba mươi kiếp, đă có năm vị tên Devabhūti là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật.

1422. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Pupphacaṅgoṭiya[16] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Pupphacaṅgoṭiya là phần thứ mười.

--ooOoo--

 

Phần Tóm Lược

Vị có sự suy nghĩ của ḿnh, vị Avopupphī, cùng với vị có sự quay trở lại, vị có sự tạo niềm tin cho người khác, vị dâng cúng củ sen, vị có sự suy nghĩ khôn khéo, vị cúng dường tấm vải, vị dâng cúng xoài, vị Sumana, và luôn cả vị có cái rương bông hoa. (Tổng cộng) có bảy mươi mốt câu kệ đă được nói lên, đă được tính đếm bởi các vị nh́n thấy sự lợi ích.

Phẩm Sakacintaniya là phẩm thứ bảy.

--ooOoo--

 

VIII. PHẨM NĀGASAMĀLA

71. Kư Sự về Trưởng Lăo Nāgasamāla

1423. Tôi đă dâng lên bông hoa āpāṭali ở ngôi bảo tháp của đấng quyến thuộc thế gian Sikhī (được tạo lập) ở khu vực cao ráo tại con đường lớn.

1424. Kể từ khi tôi đă thực hiện việc làm ấy trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường ngôi bảo tháp.

1425. Trước đây mười lăm kiếp, (tôi đă là) vị Sát-đế-lỵ tên Bhūmiya, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1426. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Nāgasamāla đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Nāgasamāla là phần thứ nhất.

--ooOoo--

72. Kư Sự về Trưởng Lăo Padasaññaka

1427. Sau khi nh́n thấy vết chân đă bước qua của đấng quyến thuộc mặt trời Tissa, tôi đă trở nên mừng rỡ. Với tâm mừng rỡ tôi đă làm cho tâm được tịnh tín ở bàn chân của Ngài.

1428. Kể từ khi tôi đă đạt được sự suy tưởng ấy trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc suy tưởng về vết chân (của đức Phật).

1429. Trước đây vào kiếp thứ bảy, (tôi đă là) vị Sát-đế-lỵ tên Sumedha, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1430. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Padasaññaka[17] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Padasaññaka là phần thứ nh́.

--ooOoo--

73. Kư Sự về Trưởng Lăo Buddhasaññaka

1431. Tôi đă nh́n thấy tấm y may từ vải bị quăng bỏ của bậc Đạo Sư được treo ở ngọn cây, do đó tôi đă chắp tay lên và đă đảnh lễ tấm y may từ vải bị quăng bỏ ấy.

1432. Kể từ khi tôi đă thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc suy tưởng về đức Phật.

1433. Trước đây vào kiếp thứ tư, (tôi đă là) vị Sát-đế-lỵ (tên) Dumasāra, là người chinh phục bốn phương, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.

1434. Bốn (tuệ) phân tích, ―(như trên)― tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Buddhasaññaka đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Buddhasaññaka là phần thứ ba.

--ooOoo--

74. Kư Sự về Trưởng Lăo Bhisāluvadāyaka

1435. Tôi đi sâu vào khu rừng rậm và cư ngụ ở trong khu rừng lớn. Tôi đă nh́n thấy đức Phật Vipassī, vị thọ nhận các vật hiến cúng.

1436. Tôi đă dâng cúng củ sen và nước rửa tay. Sau khi đê đầu đảnh lễ ở bàn chân, tôi đă ra đi mặt hướng phía bắc.

1437. Kể từ khi tôi đă dâng cúng củ sen trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc phước thiện.

1438. Trước đây vào kiếp thứ ba, (tôi đă là) vị Sát-đế-lỵ mệnh danh Bhisa, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1439. Bốn (tuệ) phân tích, ―(như trên)― tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Bhisāluvadāyaka[18] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Bhisāluvadāyaka là phần thứ tư.

--ooOoo--

75. Kư Sự về Trưởng Lăo Ekasaññaka

1440. Vị có tên Khaṇḍa đă là bậc Thinh Văn hàng đầu của (đức Phật) Vipassī. Một phần vật thực đă được tôi dâng cúng đến vị thọ nhận các vật hiến cúng của thế gian.

1441. Do sự tịnh tín ấy ở trong tâm đối với đấng Nhân Ngưu bậc Chúa Tể của loài người, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của một phần vật thực.

1442. Trước đây bốn mươi kiếp, (tôi đă là) vị Sát-đế-lỵ tên Varuṇa, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1443. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Ekasaññaka[19] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Ekasaññaka là phần thứ năm.

--ooOoo--

76. Kư Sự về Trưởng Lăo Tiṇasantharadāyaka

1444. Ở không xa núi Hi-mă-lạp đă có hồ nước thiên nhiên rộng lớn được bao phủ bởi trăm loại lá cây và là chỗ cư ngụ của nhiều loại chim khác nhau.

1445. Tôi đă tắm và đă uống nước tại nơi ấy, và tôi cư ngụ ở không xa. Tôi đă nh́n thấy bậc đứng đầu các vị Sa-môn đang di chuyển bằng đường không trung.

1446. Biết được ư định của tôi, bậc Đạo Sư, đấng Vô Thượng ở thế gian, ngay khi ấy đă từ cung trời ngự xuống đứng ở trên mặt đất.

1447. Bằng cái sừng, tôi đă đem cỏ lại và đă dâng cúng chỗ ngồi. Đức Thế Tôn, đấng Lănh Đạo cao cả của ba cơi, đă ngồi xuống ở tại chỗ ấy.

1448. Sau khi làm cho tâm của ḿnh được tịnh tín, tôi đă đảnh lễ đấng Lănh Đạo Thế Gian. Tôi đă khom ḿnh xuống di chuyển sang một bên trong lúc đang chiêm ngưỡng bậc Đại Hiền Trí.

1449. Do sự tịnh tín ấy ở trong tâm, tôi đă sanh lên cơi Hóa Lạc Thiên, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc trải lót (chỗ ngồi).

1450. Trước đây vào kiếp thứ nh́, (tôi đă là) vị Sát-đế-lỵ mệnh danh Miga, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1451. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Tiṇasantharadāyaka[20] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Tiṇasantharadāyaka là phần thứ sáu.

--ooOoo--

77. Kư Sự về Trưởng Lăo Sūcidāyaka

1452. (Trước đây) ba mươi ngàn kiếp, (đă hiện khởi) bậc Toàn Giác, đấng Lănh Đạo Thế Gian tên Sumedha có ba mươi hai hảo tướng.

1453. Có màu da vàng chói, Ngài là đấng Chúa Tể của loài người như thế ấy. Năm cây kim khâu đă được tôi dâng cúng đến Ngài nhằm mục đích may y.

1454. Chính nhờ vào việc dâng cúng kim khâu ấy mà trí tuệ sắc bén, nhẹ nhàng, thoải mái, có sự nhận thấy rơ ư nghĩa vi tế, đă sanh khởi đến tôi.

1455. Bốn vị vua tên Dipadādhipati đă là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1456. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Tôi duy tŕ thân mạng cuối cùng ở Giáo Pháp của đấng Chánh Đẳng Giác.

1457. Bốn (tuệ) phân tích, ―(như trên)― tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Sūcidāyaka[21] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Sūcidāyaka là phần thứ bảy.

--ooOoo--

78. Kư Sự về Trưởng Lăo Pāṭalipupphiya

1458. Lúc bấy giờ, tôi đă là con trai nhà triệu phú, mảnh mai, khéo được nuôi dưỡng. Tôi đă đặt bông hoa pāṭali vào ḷng và đă mang theo bông hoa ấy.

1459. Bậc Toàn Giác có màu da vàng chói đang đi ở khu phố chợ. Ngài có ba mươi hai hảo tướng, tợ như cây cột trụ bằng vàng.

1460. Tôi đă trở nên mừng rỡ, với tâm mừng rỡ tôi đă cúng dường bông hoa. Tôi đă lễ bái Đấng Hiểu Biết Thế Gian Tissa, đấng Bảo Hộ, vị Trời của nhân loại.

1461. Kể từ khi tôi đă thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường bông hoa.

1462. Trước đây sáu mươi ba kiếp, (tôi đă là) vị có tên Abhisammata, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1463. Bốn (tuệ) phân tích, ―(như trên)― tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Pāṭalipupphiya[22] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Pāṭalipupphiya là phần thứ tám.

--ooOoo--

79. Kư Sự về Trưởng Lăo Ṭhitañjaliya

1464. Trong thời quá khứ, tôi đă là thợ săn thú rừng ở trong khu rừng hoang rậm. Tại nơi ấy, tôi đă nh́n thấy bậc Toàn Giác có tướng mạo quư cao Tissa.

1465. Ngài đang ngồi ở nơi không xa, trên chiếc thảm lá của ḿnh. Tôi đă chắp tay lại đối với Ngài rồi đă ra đi, mặt hướng phía đông.

1466. Sau đó, tia sét đánh xuống vào lúc ấy đă giáng vào đầu của tôi. Vào thời điểm mệnh chung, tôi đây đă thực hiện việc chắp tay lần nữa.

1467. Kể từ khi tôi đă thực hiện việc chắp tay trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc chắp tay.

1468. (Trước đây) năm mươi bốn kiếp, (tôi đă là) vị có tên Migaketu, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1469. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật. Đại đức trưởng lăo Ṭhitañjaliya[23] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Ṭhitañjaliya là phần thứ chín.

--ooOoo--

80. Kư Sự về Trưởng Lăo Tipadumiya

1470. Đấng Chiến Thắng tên Padumuttara là bậc thông suốt về tất cả các pháp. Là bậc đă (tự ḿnh) rèn luyện được tháp tùng bởi các vị đă được rèn luyện, đấng Chiến Thắng đă rời khỏi thành phố.

1471. Lúc bấy giờ, ở thành phố Haṃsavatī tôi đă là người làm tràng hoa. Tại nơi ấy bông hoa nào là tuyệt hảo, tôi đă cầm lấy ba bông hoa (ấy).

1472. Tôi đă nh́n thấy đức Phật, bậc Vô Nhiễm, ở lối đi ngược lại tại khu phố chợ. Sau khi nh́n thấy bậc Toàn Giác, vào lúc ấy tôi đây đă suy nghĩ như vầy:

1473. “Ta được ǵ với những bông hoa này khi ta đem chúng dâng đến đức vua? Ta có thể đạt được ngôi làng, hoặc cánh đồng làng, hoặc ngàn đồng tiền?

1474. Đấng Bảo Hộ Thế Gian là vị Điều Phục những ai chưa được điều phục, là bậc Trí Tuệ, là nguồn đem lại sự an lạc cho tất cả chúng sanh, sau khi cúng dường Ngài ta sẽ đạt được tài sản Bất Tử.”

1475. Sau khi suy nghĩ như thế, tôi đă làm cho tâm của ḿnh được tịnh tín. Khi ấy, tôi đă cầm ba đóa (hoa sen) màu đỏ và đă ném lên không trung.

1476. Ngay khi vừa được tôi ném lên không trung, các bông hoa ấy đă x̣e ra. Chúng duy tŕ tại nơi ấy ở trên đầu, có cuống hoa ở phía trên, miệng hoa ở phía dưới.

1477. Sau khi nh́n thấy, bất cứ những ai thuộc loài người th́ đă thốt lên tiếng hoan hô, chư Thiên ở trên không trung th́ đă thể hiện hành động tán thán:

1478. “Điều kỳ diệu đă xuất hiện ở thế gian nhờ vào tác động của đức Phật tối thượng. Tất cả chúng ta sẽ lắng nghe Giáo Pháp nhờ vào tác động của những bông hoa.” 

1479. Đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, đứng ở ngay tại đường lộ, đă nói lên những lời kệ này:

1480. “Người thanh niên nào đă cúng dường đức Phật bằng ba đóa sen hồng, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hăy lắng nghe Ta nói.

1481. (Người này) sẽ sướng vui ở thế giới chư Thiên trong một trăm ngàn kiếp, và sẽ là vị Chúa của chư Thiên cai quản Thiên quốc ba mươi kiếp.

1482. Ngay lập tức sẽ hiện ra cung điện tên Mahāvitthārika, có chiều dài ba trăm do-tuần, chiều rộng một trăm năm mươi do-tuần.

1483. Và có bốn trăm ngàn tháp nhọn sẽ được hóa hiện ra, có các nhà mái nhọn cao quư, được đầy đủ các giường nằm rộng lớn.

1484. Hàng trăm ngàn koṭi nàng tiên thiện xảo về điệu vũ và lời ca, lại c̣n được thuần thục về tŕnh tấu nhạc cụ nữa, sẽ quây quần xung quanh.

1485. (Người này) sẽ sống ở tại cung điện cao quư như thế ấy trong sự chộn rộn của đám nữ nhân, thường xuyên có cơn mưa bông hoa thuộc về cơi trời có màu đỏ.

1486. Đồng thời sẽ có những bông hoa màu đỏ có kích thước bằng bánh xe treo lơ lửng ở chốt gắn tường bằng ngà voi ở bên ngoài cánh cửa, ở cổng chào.

1487. Tại nơi ấy, bên trong cung điện cao quư được lót toàn bằng cánh hoa, (và các cánh hoa) sau khi được trải ra và phủ lên th́ sẽ nhập chung với nhau ngay lập tức.

1488. Các bông hoa màu đỏ tinh khiết ấy bao bọc xung quanh nơi cư ngụ một trăm do-tuần và tỏa ngát hương thơm cơi trời.

1489. Và (người này) sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương bảy mươi lăm lần. Lănh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm.

1490. Sau khi thọ hưởng hai sự thành tựu, không có tai họa, không có sự nguy khốn, khi kiếp sống cuối cùng được đạt đến (người này) sẽ chạm đến Niết Bàn.”

1491. Quả nhiên đức Phật đă được tôi nh́n thấy rơ ràng, thương vụ đă được kinh doanh khéo léo; sau khi cúng dường ba đóa hoa sen hồng, tôi đă thọ hưởng ba sự thành tựu.

1492. Hôm nay, tôi là người đă đạt được Giáo Pháp, đă được giải thoát một cách trọn vẹn. Có bông sen đỏ khéo nở rộ sẽ được duy tŕ ở trên đầu của tôi.

1493. Trong lúc bậc Đạo Sư Padumuttara đang thuyết giảng về việc làm của tôi, đă có sự chứng ngộ Giáo Pháp của hàng ngàn chúng sanh và sinh mạng.

1494. (Kể từ khi) tôi đă cúng dường đức Phật trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của ba đóa sen hồng.

1495. Các phiền năo của tôi đă được thiêu đốt, tất cả các hữu đă được xóa sạch, tất cả các lậu hoặc đă được đoạn tận, giờ đây không c̣n tái sanh nữa.

1496. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Tipadumiya[24] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Tipadumiya là phần thứ mười.

--ooOoo--

 

Phần Tóm Lược

Vị trưởng lăo có tràng hoa, vị có sự suy tưởng về dấu chân, vị có sự suy tưởng (về đức Phật), vị dâng cúng củ sen, vị suy tưởng về một phần (vật thực), vị dâng cúng cỏ, (vị dâng cúng) kim khâu, vị có các bông hoa pāṭali, vị đứng chắp tay, vị có ba đóa sen hồng; (tổng cộng) có bảy mươi lăm câu kệ.

Phẩm Nāgasamāla là phẩm thứ tám.

--ooOoo--

 

IX. PHẨM TIMIRAPUPPHIYA

81. Kư Sự về Trưởng Lăo Timirapupphiya

1497. Tôi đi xuôi theo ḍng nước ở bờ sông Candabhāgā và tôi đă nh́n thấy vị Sa-môn đang ngồi, thanh tịnh, không bị chộn rộn.

1498. Tại nơi ấy, sau khi làm cho tâm được tịnh tín, vào lúc ấy tôi đă suy nghĩ như vầy: “Đă vượt qua, vị này sẽ giúp cho vượt qua. Đă rèn luyện, vị này sẽ giúp cho rèn luyện.

1499. Đă được tự tại, (vị này) sẽ giúp cho tự tại. Đă được an tịnh, (vị này) sẽ giúp cho an tịnh. Đă giải thoát, (vị này) sẽ giúp cho giải thoát. Và đă Niết Bàn, (vị này) sẽ giúp cho Niết Bàn.”

1500. Sau khi đă tự ḿnh suy nghĩ như thế, tôi đă cầm lấy bông hoa timira và đă rải rắc lên đỉnh đầu của bậc Đại Ẩn Sĩ Siddhattha.

1501. Tôi đă chắp tay lên và đă đi nhiễu ṿng quanh. Sau khi đảnh lễ ở bàn chân của bậc Đạo Sư, tôi đă ra đi về hướng khác.

1502. Vừa mới ra đi không bao lâu, (con sư tử) vua của loài thú đă tấn công tôi. Trong lúc đi lần theo triền núi, tôi đă ngă xuống ngay tại chỗ ấy.

1503. (Kể từ khi) tôi đă dâng lên bông hoa trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

1504. (Trước đây) năm mươi sáu kiếp, đă có đúng bảy vị có danh vọng lớn lao là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1505. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Timirapupphiya[25] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Timirapupphiya là phần thứ nhất.

--ooOoo--

82. Kư Sự về Trưởng Lăo Gatasaññaka

1506. Bảy tuổi tính từ khi sanh, tôi đă xuất gia vào đời sống không gia đ́nh. Tôi đă đảnh lễ ở bàn chân của bậc Đạo Sư với tâm ư trong sạch.

1507. Tôi đă ném bảy bông hoa naṅgalikī lên không trung, (tâm) hướng về đức Phật Tissa có biển cả đức hạnh vô biên.

1508. Sau khi cúng dường con đường đă được đấng Thiện Thệ đi qua với tâm ư vui mừng, khi ấy được tịnh tín tôi đă thực hiện việc chắp tay bằng các bàn tay của ḿnh.

1509. Kể từ khi tôi đă thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

1510. Trước đây vào kiếp thứ tám, đă có ba vị (cùng tên) Aggisikha là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1511. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Gatasaññaka[26] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Gatasaññaka là phần thứ nh́.

--ooOoo--

83. Kư Sự về Trưởng Lăo Nipannañjaliya

1512. Ở trong khu rừng hoang rậm tôi đă đạt được tâm bi mẫn tối cao. Tôi đă ngồi xuống ở gốc cây, và tôi đă bị bệnh trầm trọng.

1513. V́ ḷng thương tưởng, bậc Đạo Sư Tissa đă đi đến bên tôi. Đang ở trạng thái nằm, tôi đây đă chắp tay lại ở đầu.

1514. Với tâm tịnh tín, với ư vui mừng, tôi đă đảnh lễ bậc Toàn Giác tối thượng của tất cả chúng sanh, và tôi đă mệnh chung ở tại nơi ấy.

1515. (Kể từ khi) tôi đă đảnh lễ bậc Tối Thượng Nhân trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc đảnh lễ.

1516. Trước đây vào kiếp thứ năm, đă có đúng năm vị (cùng tên) Mahāsikha, là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1517. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Nipannañliya đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Nipannañliya là phần thứ ba.

--ooOoo--

84. Kư Sự về Trưởng Lăo Adhopupphiya

1518. Vị tỳ khưu tên Abhibhū ấy có đại thần lực, có tam minh, là vị Thinh Văn hàng đầu của (đức Thế Tôn) Sikhī. Vị ấy đă đi đến núi Hi-mă-lạp.

1519. Tôi cũng là vị ẩn sĩ sống ở khu ẩn cư xinh xắn tại núi Hi-mă-lạp, khi ấy tôi có năng lực trong các pháp vô lượng (tâm) và các thần thông.

1520. Tợ như loài có cánh ở trên bầu trời, tôi đă định cư ở ngọn núi. Sau khi cầm lấy bông hoa adha, tôi đă đi đến ngọn núi.

1521. Sau khi cầm lấy bảy bông hoa, tôi đă rải rắc ở trên đỉnh đầu. Và khi được vị anh hùng nh́n thấy, tôi đă ra đi mặt hướng phía đông.

1522. Sau khi trở về khu ẩn cư, tôi đă đi đến chỗ trú ngụ. Tôi đă cầm lấy túi vật dụng và đă đi vào trong vùng đồi núi.

1523. Con trăn có bộ dạng ghê rợn có sức mạnh khủng khiếp đă hành hạ tôi. Tôi đă nhớ lại việc làm trước đây và đă mệnh chung tại nơi ấy.

1524. (Kể từ khi) tôi đă dâng lên bông hoa trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường bông hoa.

1525. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Adhopupphiya[27] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Adhopupphiya là phần thứ tư.

--ooOoo--

85. Kư Sự về Trưởng Lăo Raṃsisaññaka

1526. Trước đây, tôi đă tạo lập chỗ cư ngụ ở núi Hi-mă-lạp. Có y choàng là tấm da dê, tôi sống ở trong vùng đồi núi.

1527. Tôi đă nh́n thấy bậc Toàn Giác có màu da vàng chói, tợ như mặt trời có trăm tia ánh sáng, tợ như cây sālā chúa đă được trổ hoa, đi vào bên trong khu rừng.

1528. Sau khi làm cho tâm được tịnh tín đối với hào quang của bậc Đại Ẩn Sĩ Vipassī, tôi đă chắp tay lên, ngồi chồm hổm, rồi đê đầu đảnh lễ.

1529. Kể từ khi tôi đă thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc suy tưởng về hào quang.

1530. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Raṃsisaññaka[28] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Raṃsisaññaka là phần thứ năm.

--ooOoo--

86. Kư Sự về Trưởng Lăo Dutiyaraṃsisaññaka

1531. Tôi là vị mặc y phục bằng vỏ cây ở núi Hi-mă-lạp. Và sau khi bước lên đường kinh hành tôi đă ngồi xuống, mặt hướng phía đông.

1532. Tôi đă nh́n thấy đấng Thiện Thệ Phussa ở ngọn núi, khi ấy Ngài đang thỏa thích ở trong thiền. Tôi đă chắp tay lên và đă làm cho tâm được tịnh tín ở ánh hào quang.

1533. Kể từ khi tôi đă đạt được sự suy tưởng ấy trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc suy tưởng về hào quang.

1534. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Raṃsisaññaka đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Raṃsisaññaka là phần thứ sáu.

--ooOoo--

87. Kư Sự về Trưởng Lăo Phaladāyaka

1535. Tôi là vị mặc tấm da dê sần sùi ở núi Hi-mă-lạp. Sau khi nh́n thấy đấng Chiến Thắng cao quư Phussa, có trái cây ở bàn tay tôi đă dâng cúng trái cây.

1536. (Do) việc tôi đă dâng cúng trái cây với tâm ư trong sạch, khi tôi được sanh lên ở cơi hữu th́ có trái cây hiện đến cho tôi.

1537. (Kể từ khi) tôi đă dâng cúng trái cây trước đây 92 kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng trái cây.

1538. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Phaladāyaka đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Phaladāyaka là phần thứ bảy.

--ooOoo--

88. Kư Sự về Trưởng Lăo Saddasaññaka

1539. Tôi sống ở tấm thảm bằng lá cây tại núi Hi-mă-lạp. Khi (đức Phật) Phussa đang nói về Giáo Pháp, tôi đă làm cho tâm được tịnh tín ở âm thanh.

1540. Kể từ khi tôi đă thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của nghiệp phước thiện.

1541. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Saddasaññaka đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Saddasaññaka là phần thứ tám.

--ooOoo--

89. Kư Sự về Trưởng Lăo Bodhisiñcaka

1542. Đă có lễ hội ở cội Đại Bồ Đề của đức Thế Tôn Vipassī. Trong khi đang đi đến về việc xuất gia, tôi đă đi đến gần lễ hội.

1543. Tôi đă cầm lấy nước bông hoa và đă rưới xuống cội Bồ Đề (nói rằng): “Đă được giải thoát, Ngài sẽ giúp cho chúng con giải thoát. Đă Niết Bàn, Ngài sẽ giúp cho chúng con Niết Bàn.”

1544. (Kể từ khi) tôi đă rưới nước (bông hoa) ở cội Bồ Đề trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc rưới nước (bông hoa) ở cội Bồ Đề.

1545. Ở kiếp thứ ba mươi ba trong thời hiện tại, đă có tám vị thống lănh dân chúng cùng tên Udakāsecana, các vị này là các đấng Chuyển Luân Vương.

1546. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Bodhisiñcaka[29] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Bodhisiñcaka là phần thứ chín.

--ooOoo--

90. Kư Sự về Trưởng Lăo Padumapupphiya

1547. Tôi đă lội vào nước ở hồ sen, trong khi đang ngắt các đóa sen hồng tôi đă nh́n thấy đấng Toàn Giác Phussa có ba mươi hai hảo tướng.

1548. Tôi đă cầm lấy đóa sen hồng và đă ném lên không trung. Sau khi thực hiện việc làm tịnh tín, tôi đă xuất gia vào đời sống không gia đ́nh.

1549. Sau khi xuất gia, với thân và ư đă được thu thúc, con đă từ bỏ sở hành xấu xa về lời nói và đă làm trong sạch sự nuôi mạng sống.

1550. (Kể từ khi) tôi đă dâng lên bông hoa trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

1551. Đă có mười tám vị lănh chúa tên Padumābhāsa và bốn mươi tám (vị lănh chúa) trong mười tám kiếp.

1552. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Padumapupphiya[30] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Padumapupphiya là phần thứ mười.

--ooOoo--

 

Phần Tóm Lược

Vị có bông hoa timira, và vị có bông hoa naṅgalī, vị nằm chắp tay, bông hoa adha, hai vị có sự suy tưởng về hào quang, vị dâng cúng trái cây, vị có sự suy tưởng về âm thanh, và vị rưới nước (bông hoa), vị có đóa sen hồng; (tổng cộng) có năm mươi sáu câu kệ đă được thuật lại.

Phẩm Timirapupphiya là phẩm thứ chín.

--ooOoo--

 

X. PHẨM SUDHAPIṆḌIYA

91. Kư Sự về Trưởng Lăo Sudhāpiṇḍiya

1553. 1554. Đối với người đang cúng dường đến đối tượng xứng đáng sự cúng dường như là đức Phật hoặc là vị Thinh Văn đang vượt qua chướng ngại, hoặc đă vượt qua sầu muộn và than văn, đối với người đang cúng dường đến các vị đă đạt Niết Bàn không c̣n hăi sợ như thế ấy th́ không thể nào ước định được phước báu (của người ấy) là thế này hay thế kia, bằng bất cứ cách thức ǵ.

1555. Ở đây người nào có thể được làm chúa tể thậm chí của cả bốn châu lục, điều ấy không giá trị bằng một phần mười sáu của một phần nhỏ của sự cúng dường.

1556. Với tâm ư trong sạch, tôi đă dâng cúng vữa vôi ở chỗ khe nứt tại ngôi bảo tháp của bậc Tối Thượng Nhân Siddhattha.

1557. Kể từ khi tôi đă thực hiện việc làm ấy trước đây 94 kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc tu bổ.

1558. Trước đây ba mươi kiếp, (đă có) mười ba vị tên Paṭisaṅkhāra là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật.

1559. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Sudhāpiṇḍiya[31] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Sudhāpiṇḍiya là phần thứ nhất.

--ooOoo--

92. Kư Sự về Trưởng Lăo Sucintita

1560. Được mừng rỡ, với tâm mừng rỡ tôi đă dâng cúng chiếc ghế sạch bong đến đức Phật, bậc quyến thuộc của mặt trời, đấng Bảo Hộ Thế Gian Tissa.

1561. Trước đây ba mươi tám kiếp, tôi đă là đức vua Mahāruci. Của cải đă là thừa thăi và giường nằm không phải là ít.

1562. Sau khi dâng cúng đến đức Phật chiếc ghế với tâm ư trong sạch, tôi đă thọ hưởng nghiệp của ḿnh đă được bản thân khéo thực hiện trong thời quá khứ.

1563. Kể từ khi tôi đă dâng cúng chiếc ghế trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng chiếc ghế.

1564. Trước đây ba mươi tám kiếp, (đă có) Ruci, Uparuci, và luôn cả Mahāruci là vị thứ ba, ba vị ấy là các đấng Chuyển Luân Vương.

1565. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Sucintita[32] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Sucintita là phần thứ nh́.

--ooOoo--

93. Kư Sự về Trưởng Lăo Aḍḍhacelaka

1566. Tôi bị lâm vào cảnh vô cùng khốn khổ và bị xâm nhập bởi mùi hôi thối. Tôi đă dâng cúng một nửa mảnh vải đến đức Thế Tôn Tissa.

1567. Sau khi dâng cúng một nửa mảnh vải, tôi đă sướng vui ở cơi trời một kiếp. Trong những kiếp c̣n lại, việc tốt lành đă được tôi cho thực hiện.

1568. Kể từ khi tôi đă dâng cúng mảnh vải trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng mảnh vải.

1569. (Trước đây) bốn mươi chín kiếp, ba mươi hai vị thống lănh dân chúng tên Samantacchadana đă là các đấng Chuyển Luân Vương.

1570. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Aḍḍhacelaka[33] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Aḍḍhacelaka là phần thứ ba.

--ooOoo--

94. Kư Sự về Trưởng Lăo Sūcidāyaka

1571. Trong thời quá khứ, tôi đă là người thợ rèn ở kinh thành Bandhumā. Tôi đă dâng cúng kim khâu đến bậc Đại Ẩn Sĩ Vipassī.

1572. Do nhờ nghiệp như thế ấy, trí tuệ (của tôi) tương đương sự tuyệt hảo của kim cương. Tôi có được sự xa ĺa tham ái, tôi được giải thoát, tôi đạt được sự đoạn tận các lậu hoặc.

1573. Trong tất cả các kiếp quá khứ, hiện tại, và vị lai, tôi đă thành đạt mọi thứ nhờ vào trí tuệ; điều này là quả báu của việc dâng cúng kim khâu.

1574. Trước đây chín mươi mốt kiếp, đă có bảy vị tên Vajira là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1575. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Sūcidāyaka[34] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Sūcidāyaka là phần thứ tư.

--ooOoo--

95. Kư Sự về Trưởng Lăo Gandhamāliya

1576. Tôi đă thực hiện bảo tháp có hương thơm được bao phủ với các bông hoa nhài, được làm xứng đáng với đức Phật, được dành cho đức Thế Tôn Siddhattha.

1577. Đức Phật, đấng Lănh Đạo cao cả của thế gian, tợ như cây cột trụ bằng vàng, được chói sáng như là bông hoa súng, được cháy rực như là ngọn lửa tế thần.

1578. Tợ như con hổ hùng tráng quư cao, tợ như con sư tử đă được sanh ra cao quư, là vị đứng đầu trong số các bậc Sa-môn, Ngài đă ngồi ở phía trước Hội Chúng tỳ khưu. Sau khi đảnh lễ ở bàn chân của bậc Đạo Sư, tôi đă ra đi, mặt hướng phía bắc.

1579. Kể từ khi tôi đă dâng cúng tràng hoa có hương thơm trước đây chín mươi bốn kiếp, nhờ vào quả báu của hành động đă được thực hiện đến đức Phật một cách đặc biệt, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

1580. (Trước đây) ba mươi chín kiếp, đă có mười sáu vị có tên là Devagandha. Các vị ấy đă là đấng Chuyển Luân Vương.

1581. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Gandhamāliya[35] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Gandhamāliya là phần thứ năm.

--ooOoo--

96. Kư Sự về Trưởng Lăo Tipupphiya

1582. Trước đây, tôi đă là thợ săn thú rừng ở khu rừng hoang rậm. Sau khi nh́n thấy cội câypāṭali có màu lục, tôi đă đặt xuống ba bông hoa.

1583. 1584. Khi ấy, tôi đă ngắt các lá cây héo úa rồi ném ra bên ngoài. Sau khi đảnh lễ cội cây pāṭali tợ như (đang đảnh lễ) bậc Toàn Giác đấng Lănh Đạo Thế Gian Vipassī là bậc trong sạch bên trong, trong sạch bên ngoài, đă khéo được giải thoát, không c̣n lậu hoặc đang ở trước mặt,[36] tôi đă mệnh chung ở tại nơi ấy.

1585. (Kể từ khi) tôi đă cúng dường cội Bồ Đề trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường cội cây Bồ Đề.

1586. Trước đây ba mươi ba kiếp, mười ba vị vua tên Samantapāsādika đă là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1587. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Tipupphiya[37] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Tipupphiya là phần thứ sáu.

--ooOoo--

97. Kư Sự về Trưởng Lăo Madhupiṇḍika

1588. Tôi đă nh́n thấy bậc Ẩn Sĩ Siddhattha tối thượng, vị thọ nhận các vật hiến cúng ở trong khu rừng rậm mênh mông, ít tiếng động, không bị náo loạn.

1589. Ngài là loài Long Tượng có trạng thái Niết Bàn, như là loài ḅ mộng thuần chủng, tợ như v́ sao osadhī đang chiếu sáng, được hội chúng chư Thiên tôn kính. Niềm hạnh phúc của tôi đă được dâng trào, ngay lập tức trí tuệ đă được sanh lên cho tôi .

1590. Sau khi dâng cúng mật ong đến bậc Đạo Sư vừa xuất khỏi thiền định, tôi đă đảnh lễ ở bàn chân của bậc Đạo Sư rồi ra đi, mặt hướng phía đông.

1591. (Trước đây) ba mươi bốn kiếp, tôi đă là đức vua Sudassana, và ở bữa ăn ngay lập tức có mật ong cùng với các củ sen chảy ra, có cơn mưa mật ong đă đổ xuống; điều này là quả báu của nghiệp quá khứ..

1592. Kể từ khi tôi đă cúng dường mật ong trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường mật ong.

1593. Trước đây ba mươi bốn kiếp, bốn vị Sudassana ấy đă là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1594. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Madhupiṇḍika[38] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Madhupiṇḍika là phần thứ bảy.

--ooOoo--

98. Kư Sự về Trưởng Lăo Senāsanadāyaka

1595. Tôi đă dâng cúng tấm thảm lá cây đến đức Thế Tôn Siddhattha. Tôi đă xếp đặt vật dụng và bông hoa ở xung quanh.

1596. Tôi đă thọ hưởng ṭa lâu đài có đức tính đáng yêu vô cùng quư giá như thế. Và các bông hoa có trị giá lớn lao tuôn trào ra ở chiếc giường của tôi.

1597. Tôi nằm ở chiếc giường đă được trang hoàng, được trải lót bông hoa, và ngay lập tức có cơn mưa bông hoa đổ mưa ở giường của tôi.

1598. (Kể từ khi) tôi đă dâng cúng tấm thảm lá cây trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của tấm thảm.

1599. Trước đây vào kiếp thứ năm, bảy vị thống lănh dân chúng tên Tiṇasantharaka ấy đă được sanh lên, các vị này là các đấng Chuyển Luân Vương.

1601. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Senāsanadāyaka[39] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Senāsanadāyaka là phần thứ tám.

--ooOoo--

99. Kư Sự về Trưởng Lăo Veyyāvaccaka

1601. Đă có đoàn người vô cùng đông đúc đến với đức Thế Tôn Vipassī. Tôi là đă người làm việc phục dịch năng động trong mọi công chuyện.

1602. Và vật xứng đáng để dâng cúng đến đấng Thiện Thệ bậc Đại Ẩn Sĩ th́ tôi không có. Tôi đă đảnh lễ ở bàn chân của bậc Đạo Sư với tâm ư trong sạch.

1603. Kể từ khi tôi đă thực hiện việc phục dịch trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc phục dịch.

1604. Và trước đây vào kiếp thứ tám, tôi đă là đức vua Sucintita, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1605. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Veyyāvaccaka[40] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Veyyāvaccaka là phần thứ chín.

--ooOoo--

100. Kư Sự về Trưởng Lăo Buddhupaṭṭhāka

1606. Tôi đă là người thổi tù và vỏ ốc (thông báo) của đức Thế Tôn Vipassī. Tôi thường xuyên gắn bó với việc phục vụ đến đấng Thiện Thệ, bậc Đại Ẩn Sĩ.

1607. Quư vị hăy nh́n xem quả báu của việc phục vụ đến đấng Bảo Hộ Thế Gian như thế ấy. Có sáu mươi ngàn nhạc công luôn luôn vây quanh tôi.

1608. (Kể từ khi) tôi đă phục vụ bậc Đại Ẩn Sĩ trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc phục vụ.

1609. Trước đây hai mươi bốn kiếp, mười sáu vị vua có tên Mahānigghosa đă là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.

1610. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Buddhupaṭṭhāka[41] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Buddhupaṭṭhāka là phần thứ mười.

--ooOoo--

 

Phần Tóm Lược

(Vị dâng) vữa vôi, vị đă khéo suy nghĩ, (một nửa) mảnh vải, cây kim khâu, vị có tràng hoa có hương thơm, vị dâng ba bông hoa, mật ong, chỗ nằm ngồi, việc phục dịch, và người phục vụ; (tổng cộng) có đúng sáu mươi câu kệ đă được thuật lại trong phẩm này.

Phẩm Sudhāpiṇḍiya là phẩm thứ mười.

--ooOoo--

 

Giờ là phần tóm lược của các phẩm

Phẩm Buddha là phẩm thứ nhất, phẩm bảo tọa sư tử, phẩm Subhūti, phẩm Kuṇḍadhāna, phẩm Upāli, phẩm vị có cây quạt, phẩm vị đă tự ḿnh suy nghĩ, phẩm Nāgasamāla, phẩm (bông hoa) timira, với phẩm (vị dâng) vữa vôi; mười phẩm ấy có một ngàn bốn trăm câu kệ và thêm năm mươi lăm câu nữa.

Nhóm “Mười” từ phẩm Buddha.

Nhóm “Một Trăm” thứ nhất được đầy đủ.

--ooOoo--

 

XI. PHẨM BHIKKHĀDĀYĪ

101. Kư Sự về Trưởng Lăo Bhikkhādāyaka

1611. Bậc Toàn Giác có màu da vàng chói, vị thọ nhận các vật hiến cúng, trong khi đi ra khỏi khu rừng bao la, Ngài đă đạt đến Niết Bàn, ĺa khỏi tham ái.

1612. Tôi đă dâng lên một muỗng thức ăn đến bậc Đại Ẩn Sĩ Siddhattha, đấng Đại Hùng, bậc Trí Tuệ đă được an tịnh như thế ấy.

1613. Trong lúc đức Phật, đấng quyến thuộc của mặt trời, đang giúp cho đám đông dân chúng đang tiếp bước theo sau được thành tựu Niết bàn, có niềm hạnh phúc cao thượng đă sanh khởi đến tôi.

1614. Kể từ khi tôi đă dâng cúng vật thí trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng thức ăn.

1615. Trước đây tám mươi bảy kiếp, chính bảy vị có tên Mahāreṇu là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật.

1616. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Bhikkhādāyaka đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Bhikkhādāyaka là phần thứ nhất.

--ooOoo--

102. Kư Sự về Trưởng Lăo Ñāṇasaññaka

1617. Đức Phật, bậc Đại Ẩn Sĩ có màu da vàng chói như là loài ḅ mộng thuần chủng, tợ như giống voi mātaṅga (đến tuổi) bị tiết dục ở ba nơi.

1618. Tôi đă nh́n thấy bậc Trưởng Thượng của thế gian đang bước đi ở trên đường, đang chiếu sáng tất cả các phương tợ như mặt trăng đă được tṛn đầy.

1619. Sau khi làm cho tâm được tịnh tín ở trí tuệ (của Ngài), tôi đă chắp tay lên và đă đảnh lễ đấng Siddhattha với tâm tịnh tín, với ư vui mừng.

1620. Kể từ khi tôi đă thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc suy tưởng về trí tuệ (của đức Phật).

1621. Trước đây 73 kiếp, mười sáu vị đứng đầu nhân loại đă là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1622. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.  

Đại đức trưởng lăo Ñāṇasaññaka[42] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Ñāṇasaññaka là phần thứ nh́.

--ooOoo--

103. Kư Sự về Trưởng Lăo Uppalahatthi

1623. Lúc bấy giờ, tôi đă là người làm tràng hoa cư ngụ ở (thành phố) Tivarā. Tôi đă nh́n thấy đức Phật, bậc Vô Nhiễm, đấng Lănh Đạo Thế Gian Siddhattha.

1624. 1625. Với tâm tịnh tín, với ư vui mừng, tôi đă dâng cúng bó bông hoa. Do nhờ tác động của nghiệp ấy, ở bất cứ nơi nào tôi sanh ra, tôi đều được thọ hưởng quả báu tăng trưởng của việc đă được thực hiện tốt đẹp của ḿnh trước đây, tôi được vây quanh bởi những người tốt của xứ Malla; điều này là quả báu của việc dâng cúng đức Phật.

1626. (Kể từ khi) tôi đă dâng lên bông hoa trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

1627. Xét đến chín mươi bốn (kiếp) trừ ra thời hiện tại, ở tại nơi ấy đă có năm trăm vị vua tên là Najjūpama.

1628. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Uppalahatthiya đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Uppalahatthiya là phần thứ ba.

--ooOoo--

104. Kư Sự về Trưởng Lăo Padapūjaka

1629. Tôi đă dâng cúng bông hoa nhài đến đức Thế Tôn Siddhattha. Tôi đă đặt xuống bảy bông hoa ở hai bàn chân (của Ngài) với sự mừng rỡ.

1630. Do việc làm ấy, giờ đây tôi vượt trội nhân loại và chư Thiên. Tôi duy tŕ thân mạng cuối cùng ở Giáo Pháp của đấng Chánh Đẳng Giác.

1631. (Kể từ khi) tôi đă dâng lên bông hoa trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường bông hoa.

1632. Trước đây vào kiếp thứ năm, đă có mười ba đấng Chuyển Luân Vương tên Samantagandha là các vị thống lănh dân chúng (chinh phục) bốn phương.

1633. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Padapūjaka[43] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Padapūjaka là phần thứ tư.

--ooOoo--

105. Kư Sự về Trưởng Lăo Muṭṭhipupphiya

1634. Lúc bấy giờ, tôi đă là người làm tràng hoa tên Sudassana. Tôi đă nh́n thấy đức Phật, đấng Vô Nhiễm, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu.

1635. Tôi đă cầm lấy bông hoa nhài và đă cúng dường đến (đức Phật) Padumuttara. Có nhăn quan trong sạch, có thiện ư, tôi đă chứng đắc Thiên nhăn.

1636. Do sự cúng dường bông hoa này và do các nguyện lực của tâm, tôi đă không đi đến khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp.

1637. Trước đây ba mươi sáu kiếp, đă có mười sáu vị vua tên Devuttara là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.

1638. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Muṭṭhipupphiya[44] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Muṭṭhipupphiya là phần thứ năm.

--ooOoo--

106. Kư Sự về Trưởng Lăo Udakapūjaka

1639. (Tôi đă nh́n thấy) bậc Toàn Giác có màu da vàng chói, chói sáng như là ngọn lửa từ bơ lỏng, cháy rực như là ngọn lửa tế thần, đang di chuyển bằng đường không trung.

1640. Tôi đă dùng bàn tay múc nước và đă hắt lên không trung. Đấng Đại Hùng, đức Phật, đấng Bi Mẫn, bậc Ẩn Sĩ đă tiếp nhận.

1641. Sau khi biết được ư định của tôi, bậc Đạo Sư tên Padumuttara đứng ở trên không trung đă nói lên lời kệ này:

1642. “Do sự dâng cúng nước này và do sự sanh khởi niềm phỉ lạc, (người ấy) không bị sanh vào khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp.”

1643. Do việc làm ấy ở nơi đấng Chúa Tể của loài người, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, sau khi từ bỏ sự hơn thua, tôi đă đạt được vị thế Bất Động.

1644. (Trước đây) sáu ngàn năm trăm kiếp, ba đấng Chuyển Luân Vương tên Sahassarāja ấy đă là các vị thống lănh dân chúng (chinh phục) bốn phương.

1645. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Udakapūjaka[45] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Udakapūjaka là phần thứ sáu.

--ooOoo--

107. Kư Sự về Trưởng Lăo Naḷamāliya

1646. Đức Phật Padumuttara, đấng Trưởng Thượng của thế gian như thế ấy, bậc an tịnh như thế ấy đă ngồi xuống ở tấm thảm cỏ.

1647. Sau khi cầm lấy tràng hoa sậy và buộc lại thành chiếc quạt, tôi đă dâng đến đức Phật, đấng Chúa Tể của loài người như thế ấy.

1648. Đấng Toàn Tri, bậc Lănh Đạo Thế Gian đă thọ nhận chiếc quạt. Sau khi biết được ư định của tôi, Ngài đă nói lên lời kệ này:

1649. “Giống như thân thể của Ta được mát mẻ, sự bực bội không được biết đến, tương tợ y như thế mong rằng tâm ngươi được giải thoát khỏi ba loại lửa.”

1650. Tất cả chư Thiên là những vị sống nương tựa vào khu rừng đă hội tụ lại. Chúng tôi lắng nghe lời dạy của đức Phật là điều làm cho người thí chủ được hoan hỷ.

1651. Ngồi xuống tại nơi ấy ở phía trước Hội Chúng tỳ khưu, đức Thế Tôn, trong lúc làm cho thí chủ được hoan hỷ, đă nói lên những lời kệ này:

1652. “Do sự dâng cúng chiếc quạt này và do các nguyện lực của tâm, (người này) sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương có tên là Subbata.

1653. Nhờ vào phần dư sót của nghiệp ấy, được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch, (người này) sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương có tên là Māluta.

1654. Do sự dâng cúng chiếc quạt này và do tính chất đầy đủ của việc tôn kính, (người này) không đi đến khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp.”

1655. (Trước đây) ba mươi ngàn kiếp, ba mươi tám vị ấy tên là Subbata. (Trước đây) hai mươi chín ngàn kiếp, (đă có) tám vị tên là Māluta.

1656. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Naḷamāliya[46] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

 Kư sự về trưởng lăo Naḷamāliya là phần thứ bảy.

(Tụng phẩm thứ bảy được chấm dứt).

--ooOoo--

108. Kư Sự về Trưởng Lăo Āsanūpaṭṭhāpaka

1657. Sau khi đă đi sâu vào khu rừng rậm ít tiếng động, không bị náo loạn, tôi đă dâng cúng bảo tọa sư tử đến (đức Phật) Atthadassī như thế ấy.

1658. Tôi đă cầm lấy một nắm tràng hoa và đă đi nhiễu quanh Ngài. Sau khi phục vụ bậc Đạo Sư, tôi đă ra đi, mặt hướng phía bắc.

1659. Do việc làm ấy ở nơi đấng Chúa Tể của loài người, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, tôi đă tự thân đạt được Niết Bàn, tất cả các hữu đă được xóa sạch.

1660. Kể từ khi tôi đă dâng cúng vật thí trước đây một ngàn tám trăm kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của bảo tọa sư tử.

1661. Trước đây bảy trăm kiếp, (tôi đă là) vị Sát-đế-lỵ Sannibbāpaka, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1662. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Āsanūpaṭṭhāpaka[47] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Āsanūpaṭṭhāpaka là phần thứ tám.

--ooOoo--

109. Kư Sự về Trưởng Lăo Biḷālidāyaka

1663. Tôi sống trên tấm thảm bằng lá ở không xa núi Hi-mă-lạp. Khi ấy, tôi đạt được sự ham thích các loại cỏ và có thói quen nằm ngủ (ở thảm lá).

1664. Sau khi mang lại và sửa soạn (các) trái táo, trái bhallātaka, và trái billa, tôi đào xới các loại rễ củ kalamba, biḷālī, và takkala.

1665. Sau khi biết được ư định của tôi, đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, đă đi đến khu vực của tôi.

1666. Khi bậc Long Tượng, vị Trời của chư Thiên, đấng Nhân Ngưu đi đến, tôi đă dâng lên củ biḷālī và đă đặt vào trong b́nh bát.

1667. Khi ấy, trong lúc làm cho tôi được hoan hỷ, bậc Đại Hùng đă thọ dụng. Sau khi thọ dụng, đấng Toàn Tri đă nói lên lời kệ này:

1668. “Sau khi làm cho tâm của ḿnh được tịnh tín, ngươi đă dâng cúng củ biḷālī đến Ta, ngươi không đi đến khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp.”

1669. Trước đây năm mươi bốn kiếp, (tôi đă là) vị tên Sumekhaliya, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1670. (Đây) là lần cuối cùng của tôi trong sự luân chuyển, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Tôi duy tŕ thân mạng cuối cùng ở Giáo Pháp của đấng Chánh Đẳng Giác.

1671. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Biḷālidāyaka[48] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Biḷālidāyaka là phần thứ chín.

--ooOoo--

110. Kư Sự về Trưởng Lăo Reṇupūjaka

1672. Bậc Toàn Giác có màu da vàng chói tợ như mặt trời có trăm tia ánh sáng, đang làm cho tất cả các phương rực sáng tợ như mặt trăng đă được tṛn đầy.

1673. Ngài được vây quanh bởi các vị Thinh Văn tợ như quả đất được bao quanh bởi các biển cả. Tôi đă cầm lấy bông hoa nāga và đă dâng các bột phấn hoa đến (đức Phật) Vipassī.

1674. (Kể từ khi) tôi đă dâng lên bột phấn hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

1675. Trước đây bốn mươi lăm kiếp, tôi đă là vị Sát-đế-lỵ tên Reṇu, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1676. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Reṇupūjaka[49] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Reṇupūjaka là phần thứ mười.

--ooOoo--

 

 Phần Tóm Lược

Vị dâng cúng thức ăn, vị suy tưởng về trí tuệ, vị liên quan đến bó (bông hoa), vị cúng dường bàn chân, vị liên quan đến nắm bông hoa, vị dâng cúng nước, vị có tràng hoa sậy, vị phục vụ, vị dâng cúng củ biḷālī, và phấn hoa; (tổng cộng) có sáu mươi sáu câu kệ.

Phẩm Bhikkhādāyī là phẩm thứ mười một.

--ooOoo--

 

XII. PHẨM MAHĀPARIVĀRA

111. Kư Sự về Trưởng Lăo Mahāparivāra

1677. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn Vipassī, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu đă đi vào thành Bandhuma cùng với sáu mươi tám ngàn vị.

1678. Sau khi rời khỏi thành phố, tôi đă đi đến ngôi bảo tháp ở trên đảo. Tôi đă nh́n thấy đức Phật, bậc Vô Nhiễm, vị thọ nhận các vật hiến cúng.

1679. Có tám mươi bốn ngàn Dạ-xoa ở lân cận (đă) phục vụ tôi một cách cung kính, tợ như các tập thể chư Thiên (phục vụ) vị thần Inda.

1680. Khi ấy, tôi đă đi ra khỏi cung điện và đă cầm lấy tấm vải. Tôi đă đê đầu đảnh lễ và đă dâng cúng đến bậc Đại Ẩn Sĩ.

1681. “Ôi đức Phật! Ôi Giáo Pháp! Ôi sự thành tựu của bậc Đạo Sư của chúng ta! Do nhờ năng lực của đức Phật, quả đất này đă rúng động.”

1682. Và sau khi nh́n thấy điều phi thường kỳ diệu khiến lông rởn ốc ấy, tôi đă làm cho tâm được tịnh tín vào đức Phật, đấng Chúa Tể của loài người như thế ấy.

1683. Sau khi làm cho tâm được tịnh tín và đă dâng cúng tấm vải đến bậc Đạo Sư, tôi đây cùng với các quan lại và đám tùy tùng đă đi đến nương nhờ (đức Phật).

1684. Kể từ khi tôi đă thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

1685. Trước đây mười lăm kiếp, đă có mười sáu vị tên Suvāhana, là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1686. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Mahāparivāra[50] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Mahāparivāra là phần thứ nhất.

--ooOoo--

112. Kư Sự về Trưởng Lăo Sumaṅgala

1687. Đấng Chiến Thắng cao quư Atthadassī, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu sau khi rời khỏi trú xá đă đi đến hồ nước.

1688. Sau khi tắm và uống nước, bậc Toàn Giác, đức Thế Tôn, đă khoác lên một tấm y rồi đă đứng ở tại nơi ấy, quan sát khắp các phương.

1689. Tôi đă đi vào cung điện và đă nh́n thấy đấng Lănh Đạo Thế Gian. Tôi đă trở nên mừng rỡ, với tâm mừng rỡ khi ấy tôi đă vỗ tay.

1690. Đức Phật đang chói sáng tợ như mặt trời, đang tỏa sáng tợ như khối vàng. Tôi đă ra sức trong điệu vũ lời ca và năm loại nhạc khí (cúng dường Ngài).

1691. Nơi chốn nào tôi đi tái sanh, dầu là bản thể Thiên nhân hay nhân loại, tôi vượt trội tất cả chúng sanh, danh tiếng của tôi là rộng khắp.

1692. “Bạch đấng Siêu Nhân, con kính lễ Ngài! Bạch đấng Tối Thượng Nhân, con kính lễ Ngài! Bạch bậc Hiền Trí, sau khi làm cho bản thân được hoan hỷ Ngài đă làm cho những người khác được hoan hỷ.

1693. Sau khi xem xét rồi ngồi xuống, sau khi đă tạo niềm vui ở bậc có sự hành tŕ tốt đẹp, sau khi phục vụ đấng Toàn Giác, tôi đă sanh lên cơi trời Đẩu Suất.

1694. Trước đây một ngàn sáu trăm kiếp, đă có hai, rồi chín vị cùng tên Ekacintita, là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1695. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Sumaṅgala đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Sumaṅgala là phần thứ nh́.

--ooOoo--

113. Kư Sự về Trưởng Lăo Saraṇagamaniya

1696. Cuộc giao chiến giữa hai vị Thiên Vương đang diễn tiến đă trở nên hỗn độn, tiếng kêu la ầm ĩ đă vang lên.

1697. Đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, bậc Đạo Sư đứng ở không trung đă làm cho đám đông người bị giao động.

1698. Tất cả chư Thiên mừng rỡ, buông bỏ áo giáp và vũ khí, liền khi ấy đă đảnh lễ đấng Toàn Giác rồi ngồi xuống, có sự chăm chú.

1699. Biết được ư định của chúng tôi, Ngài đă cất cao giọng nói. Là bậc có ḷng thương xót, đấng Hiểu Biết Thế Gian đă giúp cho đám đông dân chúng thành tựu Niết Bàn:

1700. “Người có tâm sân hận hăm hại một mạng sống, do sự sân hận ấy của tâm (người này) sanh vào địa ngục.

1701. Ví như con voi đối đầu trong chiến trận hăm hại nhiều mạng người, các ngươi hăy làm tâm của ḿnh được tịnh lặng, chớ có giết hại lần này lần khác.”

1702. Ngay cả các binh đội của hai vị vua Dạ-xoa cũng đă bị kinh ngạc. Và họ đă đi đến nương nhờ đấng Trưởng Thượng của thế gian hoàn thiện như thế ấy.

1703. Bậc Hữu Nhăn đă khiến cho dân chúng suy tưởng, hơn nữa c̣n tiếp độ họ. Ngay trong khi đang cùng với chư Thiên xem xét, Ngài đă ra đi mặt hướng phía bắc.

1704. (Đây là) lần đầu tiên tôi đă đi đến nương nhờ đấng Chúa Tể của loài người như thế ấy, tôi đă không đi đến khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp.

1705. (Trước đây) ba mươi ngàn kiếp, mười sáu vị vua lănh đạo chiến xa tên Mahādundubhi đă là các đấng Chuyển Luân Vương.

1706. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Saraṇagamanīya[51] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Saraṇagamanīya là phần thứ ba.

--ooOoo--

114. Kư Sự về Trưởng Lăo Ekāsaniya

1707. Lúc bấy giờ, tôi đă là vị Thiên Vương tên Varuṇa. Có binh lực và phương tiện di chuyển xứng đáng, tôi đă phục vụ đấng Toàn Giác.

1708. Khi đấng Bảo Hộ Thế Gian, bậc Tối Thượng Nhân Atthadassī đă Niết Bàn, tôi đă cầm lấy tất cả các nhạc cụ và đă đi đến cội Bồ Đề tối thượng.

1709. Tôi đă phối hợp (âm thanh của) chũm chọe vào lời ca và điệu vũ, tôi đă phục vụ cội Bồ Đề tối thượng tợ như (phục vụ) bậc Toàn Giác đang ở trước mặt.

1710. Sau khi phục vụ cội Bồ Đề ấy là loài thảo mộc mọc ở trên trái đất, tôi đă xếp chân vào thế kiết già và đă mệnh chung ở tại nơi ấy.

1711. Được hài ḷng với nghiệp của ḿnh, tôi đă được tịnh tín đối với cội Bồ Đề tối thượng. Do sự tịnh tín ấy ở trong tâm, tôi đă sanh lên cơi Hóa Lạc Thiên.

1712. Trong khi luân chuyển ở cơi này cơi khác ở giữa loài người và ở giữa chư Thiên, có sáu mươi ngàn nhạc cụ luôn luôn vây quanh tôi.

1713. Trước đây năm trăm kiếp, đă có ba mươi bốn vị Sát-đế-lỵ tên là Subāhu, (các vị ấy) đă được thành tựu bảy loại báu vật.

1714. Đối với tôi, ba loại lửa đă được dập tắt, tất cả các hữu đă được xóa sạch. Tôi duy tŕ thân mạng cuối cùng ở Giáo Pháp của đấng Chánh Đẳng Giác.

1715. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Ekāsaniya[52] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Ekāsaniya là phần thứ tư.

--ooOoo--

115. Kư Sự về Trưởng Lăo Suvaṇṇapupphiya

1716. Đức Thế Tôn tên Vipassī, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, đang ngồi thuyết giảng đạo lộ Bất Tử cho tập thể dân chúng.

1717. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của Ngài là đấng Chúa Tể của loài người như thế ấy, tôi đă dâng lên đức Phật bốn bông hoa bằng vàng.

1718. Khi ấy, đă có mái che bằng vàng (che) khắp cả hội chúng. Hào quang của đức Phật và vẻ sáng của vàng đă là nguồn ánh sáng bao la.

1719. Với tâm phấn chấn, với ư vui mừng, tràn đầy niềm phấn khởi, tôi đă chắp tay lên. Tôi đă là nguồn sanh lên niềm hạnh phúc, là sự đưa đến an lạc trong thời hiện tại cho những người ấy.

1720. Sau khi thỉnh cầu bậc Toàn Giác và đảnh lễ bậc có sự hành tŕ tốt đẹp, sau khi làm cho sanh khởi niềm hưng phấn, tôi đă đi về chỗ trú ngụ của ḿnh.

1721. Bước vào chỗ ngụ, tôi đă tưởng nhớ đến đức Phật tối thượng. Do sự tịnh tín ấy ở trong tâm, tôi đă sanh lên cơi trời Đẩu Suất.

1722. (Kể từ khi) tôi đă dâng lên bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

1723. Trước đây bốn mươi ba kiếp, đă có mười sáu vị vua tên Nemisammata, là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.

1724. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Suvaṇṇapupphiya[53] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Suvaṇṇapupphiya là phần thứ năm.

--ooOoo--

116. Kư Sự về Trưởng Lăo Citakapūjaka

1725. Tôi cư ngụ ở cội cây Rājāyatana cùng với các quan lại và đám tùy tùng. Khi ấy đức Thế Tôn Sikhī, đấng quyến thuộc của thế gian, Viên Tịch Niết Bàn.

1726. Với tâm tịnh tín, với ư vui mừng, tôi đă đi đến nơi hỏa táng. Tại nơi ấy, sau khi tŕnh tấu nhạc cụ, tôi đă đặt xuống vật thơm và tràng hoa.

1727. Sau khi cúng dường ở giàn hỏa thiêu, tôi đă đảnh lễ nơi hỏa táng. Tôi đă đi về chỗ trú ngụ của ḿnh, với tâm tịnh tín, với ư vui mừng.

1728. 1729. Bước vào chỗ ngụ, tôi đă tưởng nhớ đến sự cúng dường lễ hỏa táng. Do việc làm ấy ở nơi đấng Chúa Tể của loài người, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, tôi đă thọ hưởng sự thành đạt ở giữa chư Thiên và ở giữa loài người. Sau khi từ bỏ sự hơn thua, tôi đă đạt được vị thế Bất Động.

1730. (Kể từ khi) tôi đă dâng lên bông hoa trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường lễ hỏa táng.

1731. Trước đây hai mươi chín kiếp, mười sáu vị vua (có cùng) tên Uggata đă là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.

1732. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Citakapūjaka[54] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Citakapūjaka là phần thứ sáu.

--ooOoo--

117. Kư Sự về Trưởng Lăo Buddhasaññaka

1733. Lúc bấy giờ, đấng Cao Cả của thế gian Vipassī đă buông bỏ sự duy tŕ tuổi thọ. Quả địa cầu là trái đất có nước bao quanh đă rúng động.

1734. Vào lúc chấm dứt tuổi thọ của đức Phật, chỗ ngụ được lợp mái, được trải rộng, có tràng hoa khéo được trang hoàng của tôi cũng đă rúng động.

1735. Khi chỗ ngụ bị rúng động, nỗi sợ hăi đă sanh khởi ở tôi. Việc đă xảy ra là do nguyên nhân ǵ? Nguồn ánh sáng bao la đă xuất hiện là do nguyên nhân ǵ?

1736. (Thiên Vương) Vessavaṇa đă đi đến nơi ấy và đă trấn an đám đông dân chúng rằng: “Không có điều lo ngại cho sanh mạng, các người hăy có sự chăm chú, b́nh tĩnh.”

1737. “Ôi đức Phật! Ôi Giáo Pháp! Ôi sự thành tựu của bậc Đạo Sư của chúng ta! Trong khi điều ấy sanh khởi, quả địa cầu đă tự rúng động.”

1738. Sau khi đă tán dương năng lực của đức Phật, tôi đă sướng vui ở cơi trời một kiếp. Trong những kiếp c̣n lại, việc tốt lành đă được tôi thực hiện.

1739. Kể từ khi tôi đă đạt được sự suy tưởng ấy trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc suy tưởng về đức Phật.

1740. Trước đây mười bốn kiếp, tôi đă là vị vua có sự huy hoàng tên Samita, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.

1741. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Buddhasaññaka[55] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Buddhasaññaka là phần thứ bảy.

--ooOoo--

118. Kư Sự về Trưởng Lăo Maggasaññaka

1742. Bị lạc lối ở trong khu rừng bạt ngàn, các vị Thinh Văn có hạnh sống ở rừng của đức Phật Padumuttara đi quanh quẩn tợ như những người mù.

1743. Sau khi suy tưởng về bậc Toàn Giác danh hiệu Padumuttara, những người con trai ấy của bậc Hiền Trí ấy đă bị lạc lối ở trong khu rừng lớn.

1744. Từ chỗ ngụ, tôi đă bước xuống và đă đi đến bên các vị tỳ khưu. Tôi đă chỉ đường và đă dâng cúng thức ăn đến các vị ấy.

1745. Do việc làm ấy ở nơi đấng Chúa Tể của loài người, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, vào lúc bảy tuổi tính từ khi sanh, tôi đă thành tựu phẩm vị A-la-hán.

1746. Trước đây năm trăm kiếp, mười hai vị tên Sacakkhu đă là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật.

1747. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Maggasaññaka[56] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Maggasaññaka là phần thứ tám.

--ooOoo--

119. Kư Sự về Trưởng Lăo Paccupaṭṭhānasaññaka

1748. Lúc bấy giờ, ngay sau khi đấng Thiện Thệ Atthadassī tịch diệt, tôi đă sanh vào ḍng giống Dạ-xoa, và tôi đă đạt được danh tiếng.

1749. Đối với tôi, quả thật là khó được thành tựu, khó được chói sáng, khó được vươn lên, là việc đấng Hữu Nhăn đă viên tịch Niết Bàn trong khi tôi đang t́m kiếm của cải.

1750. Vị Thinh Văn tên Sāgara đă biết được ư định của tôi. Có ư định tiếp độ tôi, vị ấy đă đi đến gần bên tôi (nói rằng):

1751. “Điều ǵ khiến ngươi sầu muộn? Này người khôn ngoan, chớ lo ngại, ngươi hăy thực hành Giáo Pháp. Sự thành tựu về hạt giống (giác ngộ) đă được đức Phật ban phát cho tất cả.

1752. 1753. Người cúng dường bậc Toàn Giác đấng Lănh Đạo Thế Gian (khi Ngài) đang c̣n tại tiền, và người cúng dường xá-lợi của Ngài khi Ngài đă tịch diệt dầu chỉ nhỏ bằng hạt mù-tạt, khi niềm tịnh tín ở trong tâm là tương đương th́ phước báu đạt được lớn lao là tương đương; v́ thế ngươi hăy cho xây dựng ngôi bảo tháp rồi hăy cúng dường các xá-lợi của đấng Chiến Thắng.”

1754. Sau khi lắng nghe lời nói của vị Sāgara, tôi đă cho thực hiện ngôi bảo tháp của đức Phật. Tôi đă phục vụ ngôi bảo tháp tối thượng của bậc Hiền Trí năm năm.

1755. Do việc làm ấy ở nơi đấng Chúa Tể của loài người, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, sau khi thọ hưởng sự thành đạt tôi đă thành tựu phẩm vị A-la-hán.

1756. Và trước đây bảy trăm kiếp, bốn vị (cùng) tên Bhūripañña đă là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

1757. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Paccupaṭṭhānasaññaka[57] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Paccupaṭṭhānasaññaka là phần thứ chín.

--ooOoo--

120. Kư Sự về Trưởng Lăo Jātipūjaka

1758. Khi đấng Vipassī đang đản sanh, có nguồn ánh sáng bao la đă xuất hiện. Và quả địa cầu cùng với biển cả và núi non đă rúng động.

1759. Và các nhà tiên tri đă dự báo rằng: “Đức Phật, bậc cao cả đối với tất cả chúng sanh, sẽ xuất hiện ở thế gian và sẽ tiếp độ dân chúng.”

1760. Sau khi nghe lời nói của các nhà tiên tri, tôi đă thực hiện việc cúng dường đản sanh. Không có sự cúng dường nào như là sự cúng dường đản sanh.

1761. Sau khi thực hành việc tốt lành, tôi đă làm cho tâm của ḿnh được tịnh tín. Sau khi thực hiện việc cúng dường đản sanh, tôi đă mệnh chung ở tại nơi ấy.

1762. Nơi chốn nào tôi đi tái sanh dầu là bản thể Thiên nhân hay nhân loại, tôi vượt trội tất cả chúng sanh; điều này là quả báu của việc cúng dường đản sanh.

1763. Những người vú nuôi chăm sóc tôi thuận theo năng lực tâm của tôi, những người ấy không thể nào làm tôi nổi giận; điều này là quả báu của việc cúng dường đản sanh.

1764. Kể từ khi tôi đă thực hiện việc cúng dường trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không c̣n biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đản sanh.

1765. Trước đây vào kiếp thứ ba, ba mươi bốn vị thống lănh dân chúng (cùng) tên Supāricāriya đă là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.

1766. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đă được (tôi) đắc chứng; tôi đă thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lăo Jātipūjaka[58] đă nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Kư sự về trưởng lăo Jātipūjaka là phần thứ mười.

--ooOoo--

 

Phần Tóm Lược

Vị có tùy tùng, vị Sumaṅgala, vị nương nhờ, vị có chỗ ngồi, vị dâng bông hoa, vị cúng dường lễ hỏa táng, vị suy tưởng về đức Phật, vị chỉ đường, vị có sự phục vụ, vị với sự đản sanh; (tổng cộng) có chín mươi câu kệ đă được nói lên và đă được tính đếm bởi các bậc trí.

Phẩm Mahāparivāra là phẩm thứ mười hai.

--ooOoo--


 

[1] Vidhūpanadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) cái quạt (vidhūpana).”

[2] Sayanadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) chiếc giường (sayana).”

[3] Gandhodakiya nghĩa là “vị liên quan đến nước (udaka) có hương thơm (gandha).”

[4] Saparivārāsana nghĩa là “vị có vật thực (asana) và các vật phụ thuộc (parivāra).”

[5] Pañcadīpaka nghĩa là “vị có năm (pañca) cây đèn (dīpaka).”

[6] Dhajadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) cây cờ (dhaja).”

[7] Asanabodhiya nghĩa là “vị liên quan đến cội Bồ Đề (bodhi) là giống cây asana.”

[8] Sakacintaniya nghĩa là “vị có sự suy nghĩ (cintana) của chính ḿnh (saka).”

[9] Paccāgamaniya nghĩa là “vị có sự quay trở lại (pati-ā-gamana).”

[10] Parappasādaka nghĩa là “vị tạo cho người khác (para) có được đức tin (pasādaka).”

[11] Là vị thứ ba trong số ba vị Phật Toàn Giác Vipassī, Sikhī, Vessabhū (ApA. 389).

[12] Bhisadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) củ sen (bhisa).”

[13] Sucintita nghĩa là “vị đă suy nghĩ (cintita) khôn khéo (su).”

[14] Vatthadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) tấm vải (vattha).”

[15] Ambadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) trái xoài (amba).”

[16] Pupphacaṅgoṭiya nghĩa là “vị liên quan đến cái rương (caṅgoṭaka) có chứa đựng bông hoa (puppha).”

[17] Padasaññaka nghĩa là “vị có sự suy tưởng (saññaka) về vết chân (pada) của đức Phật.”

[18] Bhisāluvadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) củ sen (bhisāluva).”

[19] Ekasaññaka nghĩa là “vị có một lần (eka) suy tưởng (saññā).”

[20] Tiṇasantharadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) tấm thảm (santhara) bằng cỏ (tiṇa).”

[21] Sūcidāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) kim khâu (sūci).”

[22] Pāṭalipupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) pāṭali.”

[23] Ṭhitañjaliya nghĩa là “vị đă đứng (ṭhita) chắp tay (añjali).”

[24] Tipadumiya nghĩa là “vị liên quan đến ba (ti) đóa sen hồng (paduma).”

[25] Timirapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) timira.”

[26] Gatasaññaka nghĩa là “vị suy tưởng (saññaka) đến con đường đức Phật đi qua (gata).”

[27] Adhopupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) adha.”

[28] Raṃsisaññaka nghĩa là “vị suy tưởng (saññaka) đến hào quang (raṃsi) đức Phật.”

[29] Bodhisiñcaka nghĩa là “vị rưới nước (siñcaka) cội cây Bồ Đề (bodhi).”

[30] Padumapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến hoa (puppha) sen hồng (paduma).”

[31] Sudhāpiṇḍiya nghĩa là “vị liên quan đến cục (piṇḍa) vôi bột (sudhā).”

[32] Sucintita nghĩa là “vị đă suy nghĩ (cintita) khéo léo (su).”

[33] Aḍḍhacelaka nghĩa là “vị liên quan đến một nửa (aḍḍha) mảnh vải (cela).”

[34] Sūcidāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) kim khâu (sūci).”

[35] Gandhamāliya nghĩa là “vị liên quan đến tràng hoa (māla) có hương thơm (gandha).”

[36] Ngài Vipassī đă chứng quả Phật tại cội cây pāṭali (TTPV 42, câu kệ 34, trang 189).

[37] Tipupphiya nghĩa là “vị liên quan đến ba (ti) bông hoa (puppha).”

[38] Madhupiṇḍika nghĩa là “vị liên quan đến khối (piṇḍa) mật ong (madhu).”

[39] Senāsanadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) chỗ nằm ngồi (senāsana).”

[40] Veyyāvaccaka nghĩa là “vị làm công việc phục dịch (veyyāvaccaka) đến đức Phật.”

[41] Buddhupaṭṭhāka nghĩa là “vị là người phục vụ (upaṭṭhāka) của đức Phật (Buddha).”

[42] Ñāṇasaññaka nghĩa là “vị suy tưởng (saññaka) về trí tuệ (ñāṇa) của đức Phật.”

[43] Padapūjaka nghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) ở bàn chân (pada).”

[44] Muṭṭhipupphiya nghĩa là “vị liên quan đến số bông hoa (puppha) ở nắm tay (muṭṭhi).”

[45] Udakapūjaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) nước (udaka).”

[46] Naḷamāliya nghĩa là “vị liên quan đến tràng hoa (mālā) sậy (naḷa).”

[47] Āsanūpaṭṭhāpaka nghĩa là “vị thiết lập (upaṭṭhāpaka) bảo tọa (āsana) sư tử.”

[48] Biḷālidāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) trái cây biḷāli.”

[49] Reṇupūjaka nghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) bột phấn hoa (reṇu).”

[50] Mahāparivāra nghĩa là “vị có đoàn tùy tùng (parivāra) đông đảo (mahā).”

[51] Saraṇagamanīya nghĩa là “vị liên quan việc đi đến (gamana) nương nhờ (saraṇa), tức là đă quy y.”

[52] Ekāsaniya nghĩa là “vị liên quan đến một (eka) chỗ ngồi (āsana).”

[53] Suvaṇṇapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến đóa hoa (puppha) bằng vàng (suvaṇṇa).

[54] Citakapūjaka nghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) lễ hỏa táng (citaka).”

[55] Buddhasaññaka nghĩa là “vị suy tưởng (saññaka) về đức Phật (buddha).”

[56] Maggasaññaka nghĩa là “vị suy tưởng (saññaka) về con đường (magga).”

[57] Paccupaṭṭhānasaññaka nghĩa là “vị suy tưởng (saññaka) về sự chăm sóc phục vụ hầu hạ (paccupaṭṭhāna).”

[58] Jātipūjaka nghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) bông hoa nhài (jāti).”

 

   

| 00 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 |

<Mục Lục><Đầu Trang>