ất cả chúng sanh đều mưu tìm hạnh phúc và cố tránh đau
khổ. Từ thuở con người là con người, thế hệ này sang thế hệ
khác, con người để hết tâm trí, năng lực và thì giờ để tránh
đau khổ và xây dựng hạnh phúc. Từ ngàn xưa con người cố gắng khắc phục
cảnh vật bên ngoài để tạo tiện nghi cho mình và trong nhiều lãnh
vực đã vẻ vang thành công. Cuộc sống của chúng ta ngày nay có phần thoải
mái dễ chịu hơn xưa. Khoa học tân tiến đã phát minh nhiều dụng
cụ để phục vụ con người và nhờ đó chúng ta không phải lao động nặng
nhọc, không phải vất vả chịu đựng những lúc nóng bức và những cơn lạnh
buốt xương vì thời tiết đổi thay, không phải gian lao khổ nhọc, mất
nhiều thì giờ để di chuyển từ nơi này sang nơi khác v.v... Những
phát minh về y tế đã thành công chữa trị nhiều chứng bịnh mà
trước kia được xem là nan y, đã làm giảm thiểu những cơn đau nhức của
cơ thể, đã kéo dài tuổi thọ v.v... Những cuộc cải cách xã hội, kinh
tế, chính trị đã đem lại trật tự, điều hòa và cải thiện cuộc
sống của chúng ta. Tất cả những lợi ích ấy được thực hiện nhờ công
trình khảo sát thiên nhiên một cách tỷ mỷ, có quy củ và có hệ
thống. Con người cố gắng điều chỉnh những điều kiện thiên nhiên
để làm cho cuộc sống của mình đươc thoải mái.
Tuy nhiên, với bao nhiêu cố gắng và thành công ấy con người ngày nay có
hạnh phúc thật sự không? Chúng ta có thật sự không còn đau khổ nữa không?
Bao nhiêu cố gắng ấy có giúp chúng ta chặn đứng, làm cho thân này đừng
bệnh hoạn, đừng đi đến già nua và mãi mãi sống đời không? Ta có
còn phải sống chung với người, với vật hay trong hoàn cảnh mà mình không ưa
thích, còn phải xa lià người hay vật thân yêu nữa không? Chúng ta có luôn
luôn thành đạt những điều mong mỏi không?
Trong khi xác nhận bao nhiêu lợi ích mà chúng ta đang thừa hưởng từ những
công trình chế ngự thiên nhiên đã được thực hiện, chúng ta cũng
nhận định rằng con người vẫn còn phải chịu đau khổ và chưa viên mãn thành
đạt hạnh phúc châu toàn mong mỏi từ lâu. Tại sao? - Vì phương cách mà
chúng ta áp dụng để chữa trị bệnh đau khổ không nhằm thẳng vào tận
gốc rễ của chứng bệnh. Chúng ta chỉ chữa trị trên bề mặt mà không
đi sâu vào nguồn gốc, chỉ nhìn cái ngọn mà không quan tâm đến căn
cội.
Hạnh phúc và đau khổ phát sanh từ đâu và được duy trì tại đâu? Vấn
đề phát sanh nơi nào thì ta phải giải quyết ngay tại đó. Hânh phúc
và đau khổ phát sanh và được duy trì trong tâm. Ta phải giải quyết vấn
đề hạnh phúc và đau khổ ngay chính trong tâm này.
Thay vì tìm cách sửa đổi hoàn cảnh bên ngoài để thích hợp với mình
Phật giáo dạy nên tự sửa đổi chính mình để sống thích ứng với bên
ngoài, điều hòa với thiên nhiên, phải điều chỉnh cái nhìn của mình
đối với sự vật để có một quan niệm sống điều hợp với hoàn
cảnh, nhằm sửa soạn thân tâm hoàn toàn trong sạch và cuối cùng thoát ra khỏi
mọi hình thức đau khổ.
Chúng ta hãy lắng nghe lời Ngài Acharn Chah khuyên nhủ một cụ già sắp lâm
chung:
"...Nghĩ rằng cụ muốn tiếp tục sống thêm lâu dài sẽ làm cho Cụ
đau khổ. Nhưng nghĩ rằng Cụ muốn chết ngay trong tức khắc, hay sớm
chết đi cho rồi, thì cũng không đúng. Nó cũng làm cho Cụ đau khổ, có
phải vậy không thưa Cụ? Các vật hữu lậu không thuộc quyền sở hữu của
ta. Nó phải diễn tiến theo những định lậut thiên nhiên của nó. Về
phương cách mà thân này phải như thế nào Cụ không thể làm gì
được. Cụ có thể làm cho nó đẹp hơn đôi chút, hay làm cho cái hình
dáng bề ngoài của nó có phần hấp dẫn và sạch sẽ hơn trong một lúc, như
các thiếu nữ điểm trang dồi phấn thoa son, để móng tay dài...
Nhưng khi tuổi già đến thì tất cả mọi người đều chung một hội
một thuyền... một số phận. Thân này là vậy. Cụ không thể làm gì
khác. Nhưng cái mà Cụ có thể cải thiện, làm cho đẹp đẽ hơn là tâm
của mình.
" Bất cứ ai cũng có thể xây dựng một ngôi nhà, bằng gỗ hay
bằng gạch, nhưng Ðức Phật dạy rằng loại nhà ấy không phải thật sự là của
ta mà chỉ là của ta trên danh nghĩa, theo quy ước, trong khái niệm. Nó là
một cái nhà trong thế gian. Ngôi nhà thật sự của chúng ta là trạng thái
an tĩnh bên trong. Một cái nhà vật chất ở ngoại cảnh có thể thật đẹp,
nhưng nó không mấy an tĩnh. Nó là nguyên nhân tạo đến lo âu này
đến lo âu khác, băn khoăn tự lo nọ đến áy náy buồn phiền
kia. Ta nói rằng nó không phải là ngôi nhà thật sự của ta. Nó ở ngoài ta,
và sớm muộn gì rồi ta cũng phải bỏ lại. Nó không phải là nơi chốn mà ta
có thể sống vĩnh viễn trong đó, bởi vì không thật sự thuộc về ta mà
là một phần của thế gian. Cơ thể của chúng ta cũng vậy, ta chấp thủ
là tự ngã, là "Ta" và "Của Ta" nhưng thực tế không phải
là vậy. Nó là một cái nhà khác của thế gian. Thân Cụ đã biến đổi
theo diễn tiến tự nhiên của nó từ lúc được sanh ra đến ngày nay,
già và bệnh, và Cụ không thể cấm cản nó đổi thay vì bản chất của
nó là vậy. Muốn cho nó khác đi cũng điên rồ như muốn con vịt giống con gà.
Khi nhận thức rằng điều này không thể được, con vịt phải là con
vịt, con gà phải là con gà và thân này phải già nua và chết... Cụ sẽ
phục hồi sức mạnh và năng lực. Dầu cụ có thiết tha mong muốn cho thân
này tiếp tục tồn tại lâu dài như thế nào nó sẽ không làm được
như vậy. Ðức Phật dạy:
"Aniccà vata sankhàrà - Uppàdavayadhammino
Uppajjitvà nirujjhanti - Tesam vupasamo sukho."
"Các pháp hữu vi (sankhàrà, các vật được cấu tạo) là vô thường,
phải sanh rồi hoại, đã có sanh tức có hoại diệt - ngưng nó được là
hạnh phúc."
Danh từ "Sankhàrà" - được phiên dịch ở đây là pháp hữu vi -
hàm ý thân và tâm này. Các Pháp hữu vi thật không bền vững, bất ổn
định. Ðược cấu thành nó liền tan biến, sanh rồi diệt mặc dầu
mọi người đều muốn nó thường còn. Ðó là điên rồ. Hãy nhìn hơi
thở. Di chuyển vào trong, rồi đi ra ngoài. Ðó là thiên nhiên, nó phải là
vậy. Hơi thở vào và hơi thở ra tiếp nối xen kẽ nhau: Thở vào rồi thở ra,
thở ra rồi thở vào. Phải có sự thay đổi. Các pháp hữu vi được hiện
hữu là do có biến đổi. Cụ không ngăn ngừa điều này, chỉ nên suy tư
như sau: "Có thể nào thở ra mà không thở vào đươc chăng? Nếu
thở ra mà không thở vào có nghe dễ chịu không? Hay có thể nào chỉ thở
vào mà không thở ra chăng? Chúng ta muốn rằng sự vật phải thừơng còn nhưng
nó không thể tồn tại lâu dài, không thể được. Một khi hơi thở đi
vào, nó phải trở ra. Khi đi ra, nó phải vào trở lại, đó là tự nhiên. Có
phải vậy không Cụ? Ðã được sanh ra tức chúng ta phải già nua, bệnh
hoạn, rồi chết. Ðiều này hoàn toàn tự nhiên và thông thường. Ðó
là bởi vì các pháp hữu vi đã làm phận sự của nó. Cũng vì những hơi thở
vào và những hơi thở ra đã xen kẽ nối tiếp nhau đều đặn mà loài
người tồn tại đến ngày nay ..."
Ðó là đường lối của sự vật. Bản chất thiên nhiên của sự vật là vậy.
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi
mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức
đau khổ của đời sống.
Tránh đau khổ
Con ngườii cố gắng thoát khổ. Nhưng đời sống có thật sự đau khổ không?
Nhiều người vui vẻ mãn nguyện với những hạnh phúc ảo huyền và
tạm bợ của đời sống và tự nghĩ rằng thế gian này quả thật tốt đẹp,
quả thật là cảnh giới mà họ mong mỏi. Họ tưởng rằng hạnh phúc lúc
nào cũng còn phảng phất đâu đây, ở một góc nào, hay có lẽ ở bên cạnh mà
ta chưa hay biết. Họ không nhìn xa hơn, không nhìn vượt qua khỏi chân
trời hạn hẹp của mình. Ðối với hạng người này không có ai là Phật, không
ai thánh thiện, không có vị giáo chủ hay vị lãnh đạo tinh thần nào trên
thế gian.
Nhưng đa số những người khác thì hiểu biết rõ ràng phần đen tối
phũ phàng ẩn núp dưới lớp mặt nạ thân thiện của kiếp nhân sinh,
xuyên qua kinh nghiệm của chính bản thân họ và của những người sống
quanh. Dưới mắt họ cuộc sống xem hình như một đại dương mênh mông sâu
thẳm đầy hiểm họa và đau khổ. Trên mặt nước chúng sanh bơi lội,
lặn hụp, hay cỡi thuyền lướt sóng đi quanh quẩn, vài người mãn
nguyện, hãnh diện với số phận mình.
Ðúng rằng có những lúc trời êm biển lặng, buông mình thả trôi trên
mặt nước im lìm không chao động thì quả thật là thích thú. Nhưng những ai
mở mắt nhìn đời và mở rộng tâm trí, suy tư để khỏi bị bề mặt giả
dối của thế gian phỉnh gạt, có thể nhận định rằng bão tố có thể
nổi lên bất cứ lúc nào, những luồng nước lũ có thể tuôn đến và
xoáy tròn nguy hiểm như thế nào, và bao nhiêu hiểm họa khác,
tiềm tàng sâu ẩn trong lòng biển cả, đang chờ đợi, có thể trổi
dậy bất cứ lúc nào. Ðang bị lôi cuốn, lăn trôi theo những thăng trầm của
thế gian biến đổi vô cùng tận mắt không thể tìm ra hạnh phúc
vững bền. Mãi mãi triền miên lặp đi lặp lại những kiếp sống khổ
đau thật là đáng sợ.
Thử nhìn thực tại ở quanh ta. Có đời sống của người nào từ bé đến
già mà phẳng lặng như nước ao hồ, không bị chút lo âu, sợ sệt hay sầu
muộn làm chao động? Có gia đình nào chưa từng khóc cái chết của một
người thân? Có quả tim nào chưa từng nhói đau vì nghịch cảnh? Bao nhiêu
người đang trằn trọc rên xiết hay nằm vùi trên giường bệnh và
bao nhiêu người khác đang hồi hộp, lo âu và phiền muộn vì người thân
lâm trọng bệnh? Hằng triệu người khác đang cố bám lấy từng hơi
thở mà hầu như không còn trở lại. Hằng triệu cha mẹ, con cái, bạn bè,
đang than khóc sự ra đi của thân bằng quyến thuộc -- ngay trong giờ phút
này và trên thế gian rộng lớn dãy đầy đau khổ này.
Tất cả chúng ta đều có vấn đề: Những vấn đề sinh nhai, vấn
đề gia đình, sức khỏe, vấn đề xã hội, vấn đề kinh tế, vấn
đề chính trị, vấn đề tâm lý v.v... chí đến vấn đề tôn
giáo. Có vấn đề tức là có gì không suông sẻ, có gì cần phải giải
quyết, tức là trạng thái bất ổn, trạng thái xung đột, xung đột giữa
ý muốn của ta và những diễn biến của đời sống, tức có gì không
được thỏa mãn hoàn toàn, có tình trạng bất toại nguyện, những hình
thức khác nhau của đau khổ. Nếu những gì mà ta gọi là vấn đề ấy
không phải là bất toại nguyện hay đau khổ tại sao ta cần phải cố gắng
giải quyết?
Tìm hạnh phúc
Ta lại tự hỏi: "Trong đời sống có đau khổ mà cũng có hạnh phúc. Tại
sao chỉ đề cập đến đau khổ mà lờ hẳn, không nhắc đến hạnh
phúc?"
Khổ là trạng thái không thỏa mãn, bất toại nguyện, làm cho ta khó chịu
đựng và như thế không ai muốn. Nhưng bất hạnh thay không ai tránh khỏi.
Còn hạnh phúc thì ai cũng mong tìm, ai cũng khát khao muốn thành đạt.
Nhưng chúng ta không nhận thức rằng hạnh thức chỉ là hình thức khác của đau
khổ. Hạnh phúc và đau khổ chỉ giống như đầu và đuôi của con rắn. Khi ta
đụng vào đầu rắn tức thì nó cắn. Ðó là đau khổ, hậu quả trực tiếp
phát sanh trong tức khắc. Nhưng khi nắm đuôi rắn thì ta cảm nghe an toàn. Mặc
dầu vậy rắn sẽ quay đầu lại cắn, cùng một thế như khi ta đụng vào đầu
nó. Ðó là hạnh phúc. Dầu đụng vào đầu hay vào đuôi ta vẫn bị rắn cắn.
Phải nhận định rằng đầu và đuôi rắn chỉ là hai phần khác nhau của con
rắn. Cùng thế ấy, hạnh phúc và đau khổ chỉ là hai phần của một vấn
đề, vấn đề đau khổ.
Trong đời sống cái được gọi hạnh phúc là gì? Hạnh phúc là khi ta
đạt điều mong mỏi. Ta mong có tài sàn. Ðược tài sản là hạnh phúc.
Muốn danh vọng. Ðược danh thơm tiếng tốt là hạnh phúc. Muốn quyền
thế, được quyền thế uy lực là hạnh phúc. Truy nhiên, trong thế
gian vô thường không ngừng biến đổi này tất cả mọi sự đều nằm
trong trạng thái luôn luôn trở thành một cái gì khác thì cái hạnh phúc mà
ta khao khát bao nhiêu chỉ ở với ta trong giây phút ma ta vừa nắm được nó.
Tại sao? Vì hạnh phúc là thành đạt điều mong muốn, nhưng điều mà ta
mong muốn chỉ tồn tại nhất thời, đối tượng mà ta khao khát mong mỏi quả
thật phù du tạm bợ. Vớt nước lên trong lòng hai bàn tay và mong sẽ giữ mãi
mãi trong tay thì làm sao khỏi thất vọng? Ðạo hữu Gunaratne viết:
"Bây giờ ta có thể tự hỏi, tại sao ái dục luôn luôn mang đau khổ
(Dukkha) theo vết chân của mình? Bởi vì ái dục là khao khát ham muốn một
cái gì tự nó không ngừng biến đổi, là chạy theo và cố bám vào cái gì
tự nó không thực có. Khi con người cố gắng đuổi bắt một mục tiêu huyền
ảo, lờ lững như thực như hư, một cái gì không thể bắt được, một mục
tiêu luôn luôn thụt lùi hay tan biến khi ta gần nó thì con người còn có
thể mong mỏi điều gì hơn là thất vọng, điều gì hơn là trạng
thái bất ổn, không điều hòa, tức dukkha, đau khổ."
Thử lấy một thí dụ. Ta mong mỏi được có tiền. Tiền đến, Ta
cảm nghe sung sướng hạnh phúc. Thế nhưng, khi nắm được tiền trong tay
ta lại lo nghĩ phải làm thế nào để gìn giữ. Ta lo sợ kẻ trộm, kẻ
cướp, kẻ lường gạt. Ta suy tư, phải làm thế nào để nó sanh lợi,
phải dùng thế nào, bao nhiêu vấn đề mới lại phát sanh, ắt phải lo
lắng nghĩ ngợi, tức đau khổ.
Hơn nữa, khi có được tiền của ta lại mong muốn điều khác, lại tự
tạo cho ta những khát vọng mới: muốn mua sắm, muốn danh lợi, muốn quyền
thế, muốn thay đổi khung cảnh sống, muốn sửa đổi cảnh vật cho thích hợp
với lòng khao khát của mình. Ðức Phật dạy rằng những ai đắm say trong tham
vọng sẽ rơi trở vào dòng lôi cuốn của lòng khát khao ham muốn, như
nhện sa vào lưới của chính nó.
Ðời là khổ. Tuy nhiên dạy như thế Ðức Phật không khi nào cố tình
khuyên tất cả mọi người nên từ khước những lạc thú trần gian, vào rừng
tìm nơi thanh vắng để lo tu hành. Ðức Phật đạt toàn thể giáo lý
của Ngài trên nền tàng đau khổ (dukkha) nhưng khônbg bao giờ phủ nhận
những lạc thú trong đời. Bộ Tăng Nhứt A Hàm có liệt kê dong dài những
hạnh phúc mà chúng sanh có thể thọ hưởng. Chúng ta không tìm cách xa
lánh những hạnh phúc vật chất, nhưng hiểu biết rằng nó chỉ là tạm
bợ nhất thời. Thọ hưởng những lạc thú vật chất nhưng không làm nô
lệ cho thể xác. Phật giáo dạy ta nên tận lực cố gắng, kiên trì
nỗ lực, luôn luôn giữ tâm trong sạch và thận trọng thu thúc dục
vọng.
Có thân tức có già, có bệnh, có chết, có khổ v.v... Ta không
thể sửa đổi thiên nhiên, hay chỉ có thể làm được một cách vá víu
tạm bợ. Phải hiểu rõ bản chất thiên nhiên của đời sống là vậy. Phải
thấm nhuần chân lý này. Không thể sửa đổi thiên nhiên, mà chỉ có
thể kiểm soát và sửa đổi cái tâm của chính mình, làm cho nó thích
hợp với thiên nhiên.
Pháp hành thiền trong Phật giáo là rèn luyện tâm. Trước tiên, lắng
tâm an trụ vào một điểm, làm cho nó trở nên vắng lặng, sáng tỏ và có
nhiều năng lực, rồi dùng tâm lực dũng mãnh ấy quán chiếu thâm sâu
vào sự vật, thấu triệt thực tứơng của sự vật, thấy sự vật đúng như
sự vật là như vậy, không phải như mình nghĩ rằng nó là như vậy, tức nhìn
sự vật dưới ánh sáng của ba đặc tướng: Vô thường, Khổ và Vô
ngã.
Khi nhận định đúng rằng trên thế gian huyền ảo, tạm bợ và vô
thường này, chí đến cái mà ta gọi là hạnh phúc cũng không thể
tồn tại vì những điều kiện tạo duyên cho nó phát sanh luôn luôn
biến đổi và do đó không thể có hạnh phúc thật sự vững bền Phật
Giáo đi tìm nguồn gốc của đau khổ.
Nguyên nhân sanh khổ
Không có người suy tư nào phủ nhận sự hiện hữu của đau khổ, hay bất
toại nguyện, trên thế gian. Nhưng về nguyên nhân sanh khổ các
hệ thống tín ngưỡng đã giải thích bằng nhiều phương cách khác nhau.
Trong tư tưởng Phật giáo không có một siêu lực huyền bí cầm quyền
tưởng thưởng công đức và hình phạt những tội ác của con người. Không có
thửơng hay phạt đến với ta từ bên ngoài, bên trên, mà có nhân quả, tức
hành động và phản ứng của hành động. Và theo chiều hướng hiểu
biết này, mỗi người, mỗi chúng sanh là vị kiến trúc sư xây
đắp số phận của mình. Chính ta tạo thiên đàng cho ta và cũng chính ta tạo
địa ngục cho ta. Ðau khổ mà con người phải chịu hôm nay là hậu quả dĩ
nhiên của những nghiệp bất thiện mà con người đã tạo lúc nào trong
qúa khứ. Trong khi phần lớn những tư tưởng gia tìm đến một thần lực
huyền bí hay một nguyên lý bên ngoài, bên trên con người để giải
thích nguồn gốc đau khổ của nhân loại thì Ðức Phật nhìn vào bên trong con
người để tìm nguyên nhân chứng bệnh đau khổ của con người. Và Ngài
đi đến kết luận: Những đau khổ "của tôi" là do hành động
"của tôi". Và hành động "của tôi" là do ái dục "của
tôi" thúc đẩy.
Chính ái dục làm động cơ thúc đẩy đến hành động tạo nghiệp
bất thiện bằng thân, khẩu hay ý. Cũng chính ái dục, nằm trong phạm vi
ảnh hưởng của vô minh, thúc đẩy con người luyến ái, đeo níu, bám chặt
vào đời sống, và lòng ham muốn khát khao ấy lôi cuốn con người triền
miên lăn trôi từ kiếp sống này đến kiếp khác. Có sống tức có
khổ.
Ái dục bắt nguồn từ đâu?
Con người có sáu cửa để ngoại cảnh thâm nhập vào gọi là lục
nhập hay lục môn. Sáu cửa này tác động qua lục căn là nhãn, nhĩ, tỷ,
thiệt, thân, ý và có sáu đối tượng là sắc thinh, hương, vị, xúc,
pháp, mỗi cửa mỗi đối tượng.
Trong bộ Trường A Hàm (Dĩgha Nikàya) có đoạn:
"Ái dục bắt nguồn từ đâu và phát sanh ở đâu? Nơi nào có thỏa
thích và dục lạc, nơi đó có ái dục bắt nguồn và phát sanh. Sắc, thinh,
hương, vị, xúc, pháp có thỏa thích và dục lạc. Vậy ái dục bắt nguồn từ
đó và phát sanh ở đó."
Khi mắt (nhãn căn) tiếp xúc với một hình thể, (nhãn trần) tức có
sự thấy (nhãn thức). Khi tai (nhĩ căn) tiếp xúc với một âm thanh (nhĩ
trần) tức có sự nghe (nhĩ thức) v.v... Thấy những hình sắc đẹp, nghe những
âm thanh êm dịu hay những lời khen tặng, ngửi những mùi thơm, nếm những
món ngon vật lạ, thọ hưởng những cảm xúc dễ chịu hay có những ý
nghĩ tốt đẹp thì ta ưa thích, luyến ái, bám níu v.v... những hình ảnh
khác nhau của ái dục. Trái lại, những hình sắc ghê tởm, những âm thanh
nghịch nhĩ, những mùi hôi thúi v.v... làm cho ta khó chịu, ghét bỏ, xua đuổi.
Dầu ưa thích hay ghét bỏ, ta vẫn giữ trong lòng. Ưa thích thì ôm vào giữ
chặt lại, còn ghét bỏ thì xua đuổi, đẩy ra. Ôm vào hay đẩy ra, nó vẫn ở
trong tâm mình và từ trong tâm, biểu hiện ra bằng hành động và lời
nói. Chính thân, khẩu, ý tạo nghiệp và đưa đẩy ta lạc lối trong khu
rừng mênh mông đầy chông gai và đá nhọn gọi là đời sống của muôn
loài vật.
Ta gọi là lục thức, sáu sự hay biết xuyên qua lục căn, nhưng trong
thực tế nó chỉ là cái tâm, một cái tâm xuất hiện ở sáu nơi. Theo Vi
Diệu Pháp (Abhidhamma), không có sự khác biệt giữa các danh từ citta
(tâm), nãma (danh), mana (ý) và vinnãna (thức). Khi phân tách cái được
gọi là chúng sanh làm hai phần thì phần tinh thần, tức phần tâm linh,
được gọi là danh (nãma). Khi phân cái được gọi chúng sanh làm năm
uẩn (pancakkhandha) thì phần ấy được gọi là thức, (vinnãna, thức uẩn).
Còn danh từ citta thì luôn luôn được dùng khi đề cập đến những
loại tâm khác nhau. Trong những trường hợp lẻ loi, theo nghĩa thông thường
của tâm, cả hai danh từ citta và mana thường được dùng.
Như vậy ái dục phát sanh từ trong tâm. Nhìn và quan sát tâm tức là ghi
nhận (có trí nhớ) và hiểu biết rõ ràng bản chất của đối tượng khi
nó phát sanh ở một trong sáu căn.
Khi lục căn tiếp xúc với lục trần chỉ có sự thấy hình thể, sự
nghe âm thanh v..v... mà thôi. Chính ý căn nhận ra, hiểu biết đối
tượng và do ảnh hưởng của luồng nghiệp ngủ ngầm (ansaya), vốn mang theo
với nó những khuynh hướng tâm tánh của ta từ vô lượng kiếp ta có những
hành động và lời nói như thế nào
Thí dụ như người Phật tử thuần thành, khi thấy một pho tượng Phật thì
hồn nhiên chắp tay hay khấu đầu đảnh lễ. Mắt người ấy tiếp xúc với pho
tượng. Có sự thấy. Ý nhận ra đó là pho tượng Phật. Tâm tánh ngủ ngầm
trong luồng nghiệp (anusaya) thúc dục anh ta đảnh lễ. Trong một trường hợp
khác, khi anh nọ thấy một người mà trứơc kia anh vẫn có ác cảm. Lóng ác
cảm vẫn còn ngủ ngầm trong luồng nghiệp. Giờ đăy hình sắc kia khiêu gợi
khuynh hướng tâm tánh ngủ ngầm, thúc đẩy anh có những hành động và lời
nói kém thân thiện.
Vì vô minh, không thấy đúng sự thật, chúng ta đồng hóa lục căn với
"Ta", xem mắt, tai, mũi v.v... là "Ta", chúng ta tự đồng hóa
với ngũ uẩn, xem sắc, thọ, tưởng, hành, thức là ta rồi chấp thủ, khư
khư bám chặt lấy cái "Ta " ấy và những cái gì gọi là "Của
Ta". Ta không nhận thức rằng cái gọi là "Ta" ấy chỉ là sự
kết hợp của năm uẩn, và mỗi uẩn lại là sự kết hợp của nhiều
thành phần luôn luôn biến đổi. Không có gì đơn thuần nguyên vẹn và
thường còn y hệt trong hai khoảnh khắc kế tiếp mà có thể
gọi là "Ta". Nhưng ta vẫn chấp nhận thân này là "Ta", là
"Của Ta", mắt này là của ta và nói "Tôi thấy" , "Tôi
nghe", "Tôi đánh mùi" v.v... Ta cũng chấp nhận cảm giác
"Thọ uẩn " này là "Ta" hay "Của Ta" và nói
"Tôi vui", Tôi buồn" , cái buồn hay cái vui ấy là "Của
Tôi" v.v... Do đó, mắt muốn thấy hình sắc đẹp. Tai muốn nghe âm thanh êm
dịu, Mũi muốn ngửi mùi thơm tho, lưỡi muốn nếm món ngon vật lạ, thân
muốn cảm xúc về nhục dục và tâm muốn có những cảm nghĩ dễ chịu, những
tư tưởng làm thỏa mãn giác quan.
Thử lấy một thí dụ: Loại ái dục đầu tiên phát sanh do nhãn quan. Rất khó
mà kiểm soát và thu thúc nhãn căn, bởi vì bao nhiêu hình sắc đẹp đẽ
của ngoại cảnh luôn luôn sẵn sàng làm cho ta xao xuyến. Ðức Phật dạy
rằng trên đời không có chi làm cho tâm một người đàn ông chao động dễ
dàng bằng hình dáng của người đàn bà. và không có chi làm cho tâm người
phụ nữ rung động dễ dàng bằng hình dáng của người đàn ông. Lịch sử nhân
loại đã từng chứng tỏ rằng bao nhiêu cơ đồ đã bị sụp đổ và bao nhiêu
công nghiệp đã suy tàn chỉ vì sắc đẹp. Cũng vì lẽ ấy mà Ðức Phật
hằng khuyên dạy hàng tín đồ nên luôn luôn cẩn mật thận trọng trong
việc kiểm soát nhãn quan, như người lính gác cửa thành, từng phút,
từng giây canh chừng quân địch. Một khoảnh khắc lơ đễnh có thể gây hậu
quả vô cùng tai hại.
Mắt bị rung động vì hình sắc, tai bị cảm xúc vì âm thanh, mũi bị kích
thích vì hương, lưỡi vì vị. Thân của ta cũng là một nhịp cầu để cho
ngoại trần thâm nhập và làm say mê sa đọa. Tâm hay ý, cũng bị ảnh
hưởng xấu xa của những tư tưởng tham ái.
Vào thời Ðức Phật có những người phạm tội ác như cướp của giết
người hay phá khuấy dân cư, bị dẫn đến vua xứ Kosala. Vua truyền
lệnh dùng dây thừng, dây gai, xích trói các tội nhân ấy. Lúc bấy giờ có
ba mươi vị sư từ thôn quê đến hầu Phật, vào đảnh lễ Ngài xong xin
kiếu về tịnh thất.
Qua này hôm sau các vị sư ấy vào thành Savatthi (Xá Vệ) trì bình, đi
ngang qua khám đường và thấy các tù nhân. Lúc trở về chùa, vào buổi
chiều các vị đến hầu Phật, và bạch hỏi Ngài, "Bạch Hóa Ðức
Thế Tôn, hôm nay trong khi đi trì bình chúng con đi ngang qua khám đường,
thấy các tù nhân bị trói bằng dây thừng, dây gai và xích lại. Trông hình
như họ đang chịu đau khổ vô cùng. Họ không thể phá vỡ gông cùm
để thoát thân. Bạch Hóa Ðức Thế tôn, có chăng những trói buộc chặt
chẽ hơn?"
Ðức Phật giải thích: "Này chư Tỳ Khưu, các dây trói buộc ấy thật
không chặt chẽ đâu, nếu so sánh với những trói buộc của đam mê xấu xa
đê tiện, trói buộc của ái dục, trói buộc của lòng luyến ái, bám
niú vào tài sản, sự nghiệp, con cái, vợ chồng. Ðó là trói buộc cả trăm
lần, hơn nữa, cả ngàn lần chặt chẽ và vững chắc hơn các loại dây mà các
con thấy. Tuy nhiên, dầu các trói buộc ấy có chặt chẽ đến đâu, bậc
thiện tri thức vẫn phá vỡ được."
Và Ngài dạy: "Dây làm bằng sắt, gỗ hay gai, ràng buộc không
bền chặt. Bậc thiện tri thức dạy như thế. Dây luyến ái bám
niú vào kim cương, đồ trang trí vợ, con, là trói buộc bền chặt hơn
nhiều.
"Trói buộc ấy thật bền chặt, bậc thiện tri thức dạy như vậy.
Nó kéo trì xuống, mềm mỏng dịu dàng, nhưng rất khó tháo gỡ. Chính dây
ấy, nguời thiện tri thức cũng cắt lìa và từ bỏ thế gian, không
luyến ái và từ khước mọi dục lạc." (Kinh Pháp Cú, câu 345 và
346)
Trong quyển Paticca Samupàda, Pháp Tùy Thuộc Phát Sanh, Ðại Ðức Piyadassi
viết:
"Con người luôn luôn bị thích thú và dục lạc thu hút. Trong khi mưu
tìm thích thú và dục lạc con người không ngừng chạy theo và cố bám lấy
những đối tượng tương ứng của lục căn (tức là lục trần). Nhưng ít khi con
người nhận thức rằng không có số lượng sắc, thinh, hương, vị, xúc. pháp
nào có thể hoàn toàn thỏa mãn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, hay ý. Trong
khi mãnh liệt khát khao được có quyền sở hữu, hay được thỏa mãn
tham vọng con người càng tự ràng buộc mình vào bánh xe luân hồi, càng bị
dày vò xô xát và khổ sở quằn quại, vướng mắc trong những cây căm của vòng
bánh xe."