1- Hiểu biết cái Tâm: Bản chất của Tâm là luôn luôn di
động, phóng chạy đầu này, nhảy đầu kia không ngừng nghỉ.
Vào thời Ðức Phật có chàng thanh niên con nhà khá giả, đến nghe Ðức
Thế Tôn thuyết pháp và sau đó xin xuất gia với Ngài, được gọi
là Tỳ Khưu Sangharakkhita. Một ít lâu, sau những ngày tháng tích cực chuyên
cần hành thiền Ðại Ðức Sangharakkhita đắc quả A La Hán.
Lúc ấy có người em gái của Ðại Ðức vừa hạ sanh được một trai, lấy
tên Ðại Ðức đạt cho con mình là "Cháu của Sangharakkhita".
Khi cháu lớn khôn, xin xuất gia với Sư Cậu. Vào mùa an cư kiết hạ vị
tỳ khưu cháu nhập hạ trong một làng hẻo lánh. Sau khi ra hạ, trong một buổi
lễ Dâng Y Sư thọ hai bộ y và phát tâm muốn dâng lên Sư Cậu một bộ. Từ
làng, Sư về đến chùa trước khi Sư Cậu đi bát về nên lo quét
dọn tịnh thất sạch sẽ, gánh nước đầy lu, sửa soạsn tọa cụ ngay ngắn
và chờ Sư Cậu. Khi thấy Ðại Ðức Cậu về, Sư liền đến trứoc mặt
đảnh lễ, rước bát, thỉnh ngồi, rồi rửa chân, dâng nước đến Sư Cậu
và lấy quạt quạt Cậu.
Khi làm xong bổn phận người đệ tử Sư Cháu cầm bộ y trên hai tay, quỳ
trước Sư Cậu, đảnh lễ và dâng lên. Nhưng Sư Cậu từ chối, bảo rằng,
"Sư đã có một bộ y và như vậy là đủ rồi, con hãy giữ lấy mà
dùng". Sư cháu hết lời kính xin Sư Cậu thọ nhận nhưng Sư Cậu
một mực từ chối vì Ngài nói rằng một bộ y đã đủ cho Ngài rồi. Vị Tỳ
Khưu Cháu lấy làm buồn, nghĩ rằng, "Ở ngoài đời Sư với mình đã
có tình cậu cháu. Khi xuất gia lại thêm nghĩa thầy trò, cùng tu chung một
chùa. Nay mình có được bộ y, phát tâm chia sẻ quả phúc này đến Sư mà
Ngài không nghĩ tình cậu cháu, nghiã thầy trò, nỡ đành từ chối như vậy
thì mình còn ở lại chùa làm gì? Hãy hoàn tục đi về nhà sống cho
rồi." Và, trong khi cầm quạt, quạt cho Sư Cậu, Tỳ khưu cháu tiếp tục
suy tư:
"Sống ngoài đời lúc này làm ăn cũng khó khăn lắm chớ không phải dễ
đâu! Nếu ta hoàn tục thì về nhà làm sao sinh sống đây".
Rồi Sư nghĩ tiếp, "Mình có hai bộ y, dâng lên Sư một bộ mà Sư
không nhận, vậy mình có dư bộ ấy. Khi về mình sẽ bán bộ y, lấy tiền
mua một con dê cái. Giống dê nó đẻ nhiều lắm, không bao lâu con dê cái
của mình sẽ đẻ con. Chờ khi con nó lơn mình bán luôn cả mẹ và con ắt có
được một số vốn để làm ăn. Chừng đó, có công ăn việc làm, đời
sống thoải mái, mình sẽ cưới vợ. Vợ mình sẽ đẻ con và mình sẽ lấy tên
Sư Cậu đặt tên cho con mình. Ngày nọ mình để con trên một cái xe
đẩy rồi cùng vợ đẩy con đến chùa đảnh lễ Sư Cậu. Ði một đỗi xa
mình bảo vợ đem con lại cho mình bồng vì mình muốn bồng con. Vợ mình trả
lời: "Tại sao anh bồng nó làm gì, hãy đẩy xe đi, để tôi bồng
con." Vừa nói vậy vợ mình bồng xốc con lên. Nhưng vì sức yếu loanh
quanh một hồi là té con ngay trước bánh xe và xe cán thằng nhỏ. Lúc ấy mình
giận quá, la vợ. "Thấy chưa, sức đã yếu mà còn dành bồng con
để nó té bị xe cán. Chết toi rồi!" Tức quá, sẵn cây gậy cầm
trên tay mình lấy gậy đập mạnh trên lưng vợ".
Ðang lúc đứng quạt Sư Cậu, nghĩ đến đó Sư Cháu cầm quạt đập mạnh
vào đầu Cậu. Sư Cậu bị đập đau liền quán xét xem tại sao Cháu lại
đập trên đầu mình và tức thì thấy rõ từng chi tiết những gì sẩy diễn
trong ý nghĩ của Cháu. Sư liền nói: "Này Con, Con không đập gậy
trên lưng người đàn bà thì thôi , cớ sao lại đập quạt trên đầu Sư? Sư
có làm gì đâu?"
Ðến đây Tỳ Khưu Cháu giụt mình tự nghĩ, "Chết rồi! hình như
Sư Cậu đã biết rõ những gì phát sanh trong tâm của mình. Vậy thì làm
sao mình có thể còn ở lại đây tu được nữa. Nghĩ như vậy Sư quăng cây
quạt bỏ chạy. Nhưng bị người trong chùa bắt lại. Ðến trước Sư Cậu Sư
thuật lại tự sự. Sư Cậu mở lời khuyên, "Này Sư, Con, hãy lại đây. Chớ
nên lo sợ. Tâm là vậy. Nó phóng đi rất xa và đi cùng khắp. Ta phải cố gắng
tháo gỡ cho nó các loại dây trói buộc của tham ái, sân hận và si mê".
Tâm là vậy. "Cá bị vớt lên khỏi nước và vứt trên đất khô, vùng
vẫy như thế nào thì tâm chao động cũng dường thế ấy".
Trong guồng máy phức tạp của con người cái tâm quả thật vô cùng quan
trọng. Con người trong sạch do tâm mà nhơ bẩn cũng do tâm. Chính tâm tạo
thiên đàng, cũng chính tâm đưa đến cảnh địa ngục. Tâm nâng cao, đưa
con người lên, cũng chính tâm hạ thấp, đưa con người xuống. Và cũng như
nước, có chiều hướng tự nhiên là từ trên cao trôi chảy xuống thấp, tâm
con người, nếu không kiểm soát cụng tự nhiên có khuynh hướng xuôi
chiều về ác pháp. Lời dạy của Ðức Tôn Sư là:
"Hãy gấp rút làm việc thiện. Hãy chế ngu điều ác
trong tâm vì tâm của người buông lung, dễ duôi bê trễ trong việc tạo
thiện nghiệp sẽ ưa thích làm việc ác". (Kinh Pháp Cú, câu 116)
Lời dạy này khuyên ta nên vận dụng mọi cố gắng để thanh lọc
tâm mỗi khi nó ve vãn gần điều ác. Tâm ô nhiễm sẽ thỏa thích trong
ác pháp.
2- Uốn nắn cái Tâm. Hành thiền là thanh lọc tâm, là
kiểm soát, rèn luyện, trau giồi và phát triển, là uốn nắn tâm.
Hành thiền không phải là một giấc mơ trầm lặng mà là cố gắng linh
động, một sinh hoạt tích cực của tâm
Phương pháp luyện tâm cũng giống như đường lối tập thú, luyện
bò chẳng hạn. Bò nghé vừa lớn lên, muốn rèn luyện cho nó đủ thuần thục
để kéo xe hay kéo cày, trước tiên người ta thả nó nhập đàn. Sáng theo
bày đi ăn, tối lùa về chuồng. Khi nó quen sống chung với những con khác
trong khuôn khổ tập thể người ta bắt đầu xỏ mũi: Xỏ sơị dây xuyên qua
lỗ mũi rồi choàng vòng lên sừng. Trên sợi dây, mỗi bên có thắt một
lỗ nhỏ. Sau đó người ta cột sơị dây dàm, mỗi sơị vào một lỗ
của dây mũi. Ðâu kia của sợi dây dàm thì quấn vào một cột trụ trồng vững
dưới đất.
Hàng ngày người ta dùng dây dàm để điều khiển bò. Tập như
vậy cho đến khi có thể gác cái ách lên cổ nó và sai khiến nó
làm theo ý mình. Bò chỉ có thể hữu dụng khi được rèn luyện tinh
thục. Chừng đó có thể dùng nó để kéo xe hay kéo cày, hay bất luận
công việc nào khác.
Trong phương pháp luyện tâm, tinh nghiêm trì giới, tự khép mình vào
nếp sống giới đức, cũng như thả bò nhập bầy, sáng theo đàn đi ăn và
chiều lùa về chuồng. Nếu để bò nghé sống buông lung hoang dại
có thể nó sẽ phá khuấy mùa màng hay làm hư hại cây cối vườn tược của
kẻ khác. Cũng thế ấy, con người buông lung không giới đức có thể bị
ba nghiệp - thân, khẩu, ý - hoang dại của mình gây tổn hại cho người
khác và cho mình, rất nguy hiểm. Tinh tấn chuyên niệm cũng giống như
xỏ mũi và cột dây dàm vào trụ. Người hành thiền dùng sơị dây niệm
(sati) để điều khiển tâm mình, không để nó phóng túng buông
lung chạy nhảy một cách hoang dại mà giữ nó lại và sai khiến, đặt nó
vào đối tượng (đề mục, hay công án) nào mà mình muốn.
Trạng thái luôn luôn khuấy động và phóng dật mà tâm đã quen thuộc từ
vô lượng kiếp bây giờ đã được điều phục, lắng dịu và an trụ.
Cũng như bò đã được rèn luyện thuần thục để kéo xe hay kéo cày,
tâm đã sẵn sàng nhu thuận để hành thiền -- thiền vắng lặng hay
thiền minh sát --Nếu hành giả không bắt đầu công phu hành thiền
của mình bằng phương pháp chú niệm làm cho tâm trơ nên an trụ và nhu
thuận thì không khác nào người chủ bò thiếu kinh nghiệm, gác ách con
bò hoang dại chưa hề bao giờ được huấn luyện. Khi bắt nó kéo xe hay
kéo cày ắt nó chạy loạn, không thể kềm giữ được. Ðàng khác,
người đã chú tâm an trụ có thể dễ dàng nhập định và đc các tầng
Thiền hoặc khai thông tuệ Minh Sát và tiến đến các Thánh Ðạo
và Thánh Quả.
Năm Pháp Triền Cái: Trong khi chuyên cần chú niệm người hành
thiền có thể gặp nhiều trở ngại nhưng đặc biệt có năm, ngăn
chặn công phu gom tâm và ngăn cản con đường giải thoát, được gọi là
Chướng Ngại Tinh Thần, hay Triền Cái (Nivarana, Ni +Var, làm trở ngại, ngăn
chận, là cái gì gây trở ngại cho tiến bộ tinh thần).
Năm loại chướng ngại tinh thần là: Tham dục, oán ghét, hôn trầm dã dượi,
phóng dật lo âu và hoài nghi.
a) Tham dục ( Kãmacchanda) là ham muốn duyên theo nhục dục, luyến ái ngũ
trần: Sắc, thinh, hương, vị, xúc. Một người ở mức trung bình thường có
khuynh hướng chạy theo những ham muốn có tánh cách huyền ảo phù du của
thân, nếu không đủ khả năng để kiểm soát và khắc phục ắt sẽ
bị sa đọa, chìm đắm trong dục vọng. Tham dục cũng có thể là
những hình thức khát khao tài sản, sự nghiệp, địa vị, quyền thế,
danh vọng v.v...
b) Oán ghét (vyãpãda) là bất mãn, bất toại nguyện. Những gì ưa thích
dẫn đến luyến ái. Những gì trái ngược với sở thích đưa đến
ghét bỏ, giận hờn, thù hận, không bằng lòng, bất toại nguyện v.v...
Luyến ái và ghét bỏ là hai ngọn lửa to lớn thiêu đốt thế gian.
Chính hai loại tâm này, được vô minh hỗ trợ, đã gây tất cả những
điều bất hạnh trong đời.
c) Hôn trầm Dã dượi là một cặp hai yếu tố dính liền nhau do đặc
tính chung của nó là trạng thái uể oải. Hôn trầm (thĩna) là trạng thái
uể oải của tâm vương. Dã dượi (middha) là trạng thái uể oải của
tâm sở. Một trạng thái tâm nhuể nhoại như nhựa dẻo trên khúc gỗ hay
một miếng bơ cứng khó trét ra. Nên ghi nhận: Ðây chỉ là trạng thái tâm,
chớ không phải tình trạng mệt mỏi, lười biếng cử động tay chân. Một
vị A La Hán, đã tận diệt mọi triền cái, đôi khi vẫn còn cảm nghe
cơ thể mệt mỏi. Nghịch nghĩa với dã dượi hôn trầm là tinh tấn kiên
trì.
d) Phóng dật Lo âu. Phóng dật (uddhacca) là trạng thái bất ổn của tâm luôn
luôn chao động, không yên. Ðó là tâm trạng liên quan đến tất cả những
loại tâm bất thiện. Thông thường khi hành động bất thiện thì tâm
không yên mà luôn luôn chao động. Lo âu (kukkucca) là tâm trạng lo lắng, hối
tiếc một hành động bất thiện đã làm, hoặc một hành động thiện
đã bị bỏ lãng, không làm hay làm không hoàn bị. Ðúng theo tinh thần Phật
Giáo, chính sự ăn năn hối tiếc một hành động xấu đã làm không ngăn
cản được hậu quả không tốt của nó. Hối tiếc tốt đẹp nhất là
quyết tâm không lặp lại hành động bất thiện ấy nữa.
e) Hoài nghi (Vicikicchã = Vi là không chứa đựng + cikicchã là trí tuệ)
là tâm bất định. Hoài nghi ở đây không phải là ý muốn tìm hiểu --
điều mà Phật Giáo luôn luôn khuyến khích nên làm -- mà là tâm trạng
lưng chừng, không quyết định.
Hoài nghi ở đây cũng không phải là thiếu niềm tin nơi Phật, Pháp,
Tăng vì một người không phải Phật tử, không có niềm tin nơi Tam Bảo,
vẫn có thể khắc phục Vicikicchã và đắc Thiền (Jhãna). Hoài nghi là
một chướng ngại tinh thần vì nó là tâm trạng lỏng lẻo, không nhất quyết
về điều đáng làm.
Năm triền cái kể trên là những chướng ngại tinh thần làm phân tán
sự chú tâm và lu mờ sự bén nhạy của trạng thái thức tỉnh. Một cái tâm mà
bị các trở lực tệ hại ấy ngăn chặn ắt không thể thành công tập
trung vào một đề mục nào có bản chất trong sạch. Nếu không có Chánh
Tinh Tấn, hay sự nỗ lực chân chánh, thì không thể điều phục năm
chướng ngại này.
Năm Chi Thiền: Trong lúc ngồi thiền, gia công như vậy thì năm
triền cái, từ đáy sâu của dòng nghiệp có thể phát hiện dưới
hình thức ý nghĩ, hình ảnh, hoặc cảm xúc như ý muốn thiên về
tham dục, hay cảm nghe bực tức, buồn phiền, dã dượi lười biếng, chao
động không yên hay hoài nghi. Hành giả phải hết sức khéo léo, nhẹ nhàng
nhưng nhất quyết, kiên trì tinh tấn, gia công đem tâm về đề mục,
đồng thời phát triển năm yếu tố tinh thần gọi là chi thiền
(Jhãnanga), có thể tạm thời khắc phục các triền cái.
Những yếu tố tinh thần này vẫn hiện hữu lúc bình thừong nhưng khi
hành thiền nó trở nên mạnh mẽ, linh dộng và có khả năng chuyển tâm
đến trạng thái định.
Năm chi thiền là: Tầm, Sát, phỉ, lạc, trụ.
a) Tầm (vitakka = vi + căn takk), Phạn ngư này thừơng được dùng trong ý
nghiã suy tư. Ở đây là hướng những tâm sở đồng phát sanh về đối
tượng. Theo Bản Chú Giải, ông quan đại thần hướng dẫn một nông dân quê
mùa vào hoàng cung yết kiến vua như thế nào thì, cùng thế ấy,
"Tầm" hướng dẫn tâm đến đề mục.
Bình thường, tầm là một tâm sở không có tánh cách đạo đức, tức không
thiện cũng không bất thiện. Khi liên hơp với tâm thiện (kusala
citta) thì nó là thiện, và khi liên hợp với tâm bất thiện (akusala
citta) nó là bất thiện.
Chi thiền Tầm tạm thời khắc phục triền cái dã dượi hôn trầm.
b) Sát, cũng được gọi là tứ (vicãra = Vi + căn cãr) là di động, hay
di chuyển bất định. Sát, quan sát hay dò xét, có nghĩa là liên tục áp
đặt tâm trên đối tượng. Theo Bản Chú Giải, sát là cái gì di động quanh
quẩn đối tượng và có đặc tính dò xét. Tầm cũng giống như con ong bay
hướng về hoa. Sát như ong quanh quần vo ve trên cái hoa. Hai chi thiền
Tầm và Sát liên quan với nhau rất mật thiết
Chi thiền Sát tạm thời khắc phục triền cái hoài nghi.
c) Phỉ ( piti, xuất nguyên từ căn "pi") là thích thú, hoan hỷ.
Phỉ không phải là một loại thọ (vedannã) như thọ lạc (sukha). Một
cách chính xác, phỉ là tâm sở đến trước và trong khi xuất hiện, báo
hiệu rằng sắp có thọ lạc. Có năm loại Phỉ là:
- Cái vui làm rùng mình, rởn óc, hay nổi da gà;
- Cái vui thoáng qua mau lẹ như trời chớp;
- Cái vui tràn ngập như sóng biển trườn trên bãi;
- Cái vui thanh thoát đem lại cho hành giả cảm giác nhẹ nhàng như bông gòn
lữnbg lờ bay theo chiều gió.
- Cái vui thấm nhuần toàn thể châu thân như bong bóng được thổi phồng
hay trận lụt tràn ngập cả ao vũng.
Chi thiền Phỉ tạm thời khắc phục triền cái oán ghét, bất mãn, bất
toại nguyện.
d) Lạc (sukha) là cảm giác an lạc, hạnh phúc. Ðặc tính của Lạc là thỏa
thích hưởng thụ điều gì mình mong muốn.
Khách lữ hành mệt mỏi, đi trong sa mạc, thấy xa xa có cụm cây và ao
nước. Trạng thái vui mừng cảm nhận triển vọng tốt đẹp, trước khi
thọ hưởng là phỉ. Khi đến tạn ao nước, trạng thái thỏa thích tắm
rửa và uống nước là lạc.
Ta nên phân biệt trạng thái thích thú tinh thần ( thọ lạc, sukha)
này với khoái lạc vật chất. Ðây là trạng thái thích thú không liên quan
đến thú vui vật chất mà trái lại, là hậu quả dĩ nhiên của sự từ bỏ
thú vui vật chất. Hạnh phúc Niết Bàn càng tế nhị và sâu xa cao
thượng hơn hạnh phúc của Thiền (Jhãna) nhiều. Hạnh phúc Niết Bàn
không còn là một loại cảm giác (thọ) nữa mà là sự giải thoát trọn
vẹn ra khỏi mọi hình thức đau khổ, giống như trạng thái thoải mái dễ
chịu của người tàn phế nay được phục hồi trở lại và mạnh khỏe bình
thường.
Chi thiền Lạc tạm thời khắc phục triền cái lo âu phóng dật.
e) Trụ ( ekaggata = eka + agga + ta), đúng theo ngữ nguyên, là sự an trụ tâm
vào một điểm duy nhất, hay nhất điểm tâm. Hành giả chuyên chú gom
tâm vào đề mục cho đến khi tâm hoàn toàn vững chắc an trụ vào đó,
bao nhiêu tư tưởng khác đều bị gạt bỏ ra ngoài.
Chi thiền Trụ tạm thời khắc phục triền cái tham dục.
3- Giải phóng cái Tâm: Ðể kiểm soát, uốn nắn và giải
phóng tâm, trong Phật Giáo có hai loại thiền.
Theo một lối, thiền hành giả gom tâm vào một điểm và cột chặt tâm
lâu dài vào điểm duy nhất ấy để phát triển vắng lặng, an lạc.
Danh từ Pàli gọi thiền này là samatha bhàvavà, phương pháp trau
giồi tâm nhằm làm cho nó trở nên tĩnh lặng. Ta gọi là thiền chỉ,
thiền định hay thiền vắng lặng.
Lối thiền khác là vipassanà, thiền minh sát -- cũng
gọi là thiền quán hay thiền tuệ -- hướng tâm định
soi vào đời sống để chứng ngộ thực tướng của vạn pháp. Ðại Ðức
Piyadassi giải thích như sau:
"... Danh từ vipassanà (vi + passanà), trong một biến thể, có
nghĩa là "thấy một cách phi thường", thấy khác với lối thấy thông
thường, do hai thành phần "passati" là thấy và "vi" hàm ý
đặc biệt, khác lạ hơn thông thường. Như vậy, vipassanà là thấy vượt ra
ngoài cái gì thông thường, là minh tuệ. Ðây không phải là nhìn thoáng
qua. Cũng không phải chỉ nhìn bên trên bề mặt, ở mặt ngoài mà nhìn sâu
vào bên trong Thực Tại của đời sống. Chính nhờ cái nhìn sâu sắc căn cứ
trên tâm hoàn toàn vắng lặng ấy mà hành giả tẩy sạch mọi bợn nhơ,
mọi ô nhiễm ngủ ngầm để thành mục tiêu cuối cùng, Niết Bàn.
Thiền minh sát (vipassanà bhàvanà) là loại thiền mà chính Ðức Phật
đã tìm ra, đã thực hành, đã thành công và đã ban truyền, trước kia
chưa từng có, và ngoài Phật Giáo không có ..."
Thiền Vắng Lặng.
Thí dụ như hành giả lấy hơi-thở-ra-thở-vô làm đề mục, trụ tâm vào
điểm mà luồng hơi thở ra và thở vào chạm đến -- có thể là chót
mũi hoặc phía trên môi trên. Khi hành như thế ít lâu hành giả có
thể hình dung rõ ràng cảm giác xúc chạm của luồng gió vào nơi đụng ấy.
Ðó là uggaha nimitta, ấn tượng hình dung. Không để gián đoạn, hành giả
cố tâm vào cái hình ảnh phát hiện trong tâm ấy một cách liên tục
đến khi phát triển một hình ảnh khái niệm (patibhàga nimitta). Sự
khác biệt giữa ấn tượng hình dung (uggaha nimitta) với ấn tượng
khái niệm (patibhàga nimitta) là trong ấn tượng khái niệm, hình ảnh
phát sanh do tri giác, được thanh lọc trong sạch, sáng sủa như mặt trăng
không bị mây che, còn trong ấn tượng hình dung, hình ảnh mù mờ như mặt
trăng nhìn xuyên qua lớp mây.
Trong lúc liên tục chuyên chú gom tâm vào khái niệm trừu tượng như
vậy năm pháp triền cái tạm thời được khắc phục, hành giả đạt đến
mức độ gọi là cận định (upacàra samàdhi).
Vẫn tiếp tục gia công, vào một lúc nào hành giả có thể nhập
định (appanà samàdhi, định trọn vẹn) và đắc Thiền (Jhàna),
thọ hưởng trạng thái an tĩnh và vắng lặng của tâm an trụ. Hai trạng thái
cận định và định chỉ khác nhau ở sức mạnh của các chi thiền. Lúc cận
định vẫn có đầy đủ năm chi thiền nhưng năng lực của các chi thiền
chưa được vững chắc, giống như em bé tập đi, khấp khểnh bước vài
bước rồi té xuống. Ðứng dậy đi nữa, rồi té xuống nữa. Khi nhập định rồi
thì giống như người lớn mạnh khỏe, đi đứng ngay thẳng, vững vàng. Năm chi
thiền - tầm, sát, phỉ, lạc, trụ -- đồng thời phát sanh mạnh mẽ bao
gồm cái được gọi là Thiền (Jhàna) và năm pháp triền cái tạm
thời được chế ngự.
Hành giả tiếp tục gia công và phát triển Nhị Thiền.
Ðến đây, hai chi thiền đầu tiên -- tầm và sát -- bị loại đi. Hành
giả đã quen thuộc, không còn phải qua hai giai đoạn tầm và sát nữa mà thẳng
vào phỉ và lạc rồi đến trụ.
Ðến Tam Thiền, chi thiền phỉ bị loại, chỉ còn lạc và
trụ. Cuối cùng đến Tứ Thiền, luôn cả lạc cũng không còn mà
chỉ có xả (upekkhà) và trụ. Chi thiền xả có tầm quan
trọng đặc biệt về mặt đạo đức và tâm lý. Ðây không phải
là thọ xả, tức thọ vô ký, cảm giác không vui không buồn. Chi
thiền xả là trạng thái tâm bình thản giữa những hoàn cảnh thăm trầm của
đời sống, phải do một ý chí mạnh mẽ phát triển. Nhận định rằng chi
thiền lạc vẫn còn thô kịch, hành giả loại trừ luôn chi thiền ấy như
đã loại trừ ba chi thiền trước và trau giồi, phát triển chi thiền
xả, đắc Tứ Thiền, tầng cao nhất của Thiền Sắc Giới.
Ðã thành tựu tất cả bốn tầng thiền của Thiền Sắc Giới,
hành giả chuyên chú gia công trau giồi Thiền Vô Sắc. Trong phần chú
giải quyển Abhidhammattha Sangaha, Ðại Ðức Nàrada viết như sau:
"... Vị hành giả đã có phát triển Thiền Sắc Giới (Rùpa Jhàna)
và bây giờ muốn trau giồi Thiền Vô Sắc, bắt đầu gom tâm vào ấn tượng
khái niệm (Patibhàga nimitta, đã có đề cập đến ở phần trên). Khi
chuyên chú gom tâm như vậy một ít lâu hành giả thấy một đốm sáng nhỏ,
yếu, giống như con đôm đốm, phát ra từ đối tượng. Hành giả ước
nguyện rằng ánh sáng nhỏ này sẽ lớn lên dần dần cho đến bao trùm
toàn thể không gian. Ðến đây hành giả không còn thấy gì khác, ngoài
ánh sáng này, cùng khắp mọi nơi. Không gian đầy ánh sáng này không có
thiệt, không thật sự hiện hữu, không phải là một thực tại, mà chỉ
là một hiện hữu, không phải là một thực tại, mà chỉ là một khái
niệm. Gom tâm vào đối tượng này hành giả niệm "àkàsa
ananto", không gian vô tận vô biên, cho đến khi phát triển Sơ
Thiền Vô Sắc, tầng Thiền Vô Sắc đầu tiên, Không Vô Biên Xứ,
cảnh giới không gian vô biên.
"Lấy Sơ Thiền làm đề mục, hành giả tiếp tục gom tâm vào
đó và niệm, "vinnanam anantam", thức vô tận vô biên, cho đến
lúc phát sanh Nhị Thiền Vô Sắc, Thức Vô Biên Xứ, cảnh giới thức
vô biên.
"Ðể phát triển Tam Thiền Vô Sắc, Vô Sở Hữu Xứ, hành
giả lấy tâm Sơ Thiền Vô Sắc làm đề mục và niệm "natthi
kinci", không có gì hết.
"Tứ Thiền Vô Sắc được phát triển bằng cách lấy Tam Thiền
Vô Sắc làm đề mục. Tam Thiền Vô Sắc này vi tế đến độ ta
không thể quả quyết rằng có tâm hay không có tâm. Khi chăm chú ít
lâu vào Tam Thiền hành giả phát triển Tứ Thiền, Phi Tưởng, Phi
Phi Tưởng.
"Bốn tầng Thiền Sắc Giới khác nhau do các chi thiền. Bốn tầng
Thiền Vô Sắc thì khác nhau do đề mục gom tâm. Sơ Thiền và Tam
Thiền Vô Sắc có hai khái niệm (pannati). Ðó là khái niệm về
tánh cách vô biên của không gian và khái niệm về hư vô. Tâm Nhị
Thiền lấy tâm Sơ Thiền làm đề mục. Tâm Tứ Thiền lấy tâm Tam
Thiền làm đề mục ... "
Hành giả đã tiến đạt đến tuyệt đỉnh của thiền vắng
lặng. Tuy nhiên, đến tầng vắng lặng cao siêu cùng tột này hành giả vẫn
còn chưa trọn vẹn phát triển đủ ánh sáng trí tuệ để đánh
tan đêm tối vô minh ngủ ngầm trong luồng nghiệp. Vô minh và ái dục giống
như hai con thú dữ. Hành giả chỉ nhốt trong chuồng mà không diệt. Ngày
nào sút chuồng nó sẽ còn là tai hại lớn lao. Vì lẽ ấy hành giả chưa
tuyệt đối châu toàn, chưa thoát ra khỏi vòng sanh tử trong Tam Giới (Dục
Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới), chưa hoàn toàn giải thoát.
Trước ngày Thành Ðạo của Bồ Tát Gotama, chỉ có thiền vắng lặng,
samatha bhàvanà. Hai vị đạo sư lỗi lạc thời bấy giờ, thầy của Bồ Tát,
là những vị đắc thiền cao nhất, lúc ấy chưa ai đạt đến. Các Ngài
đã tiến đến mức cùng tột của thiền vắng lặng là Phi Tưởng, Phi
Phi Tưởng. Chắc chắn đây là mức rất cao của tâm định khi hành giả tạm
thời trọn vẹn đè nén, khắc phục năm triền cái. Các chi thiền phỉ
và lạc phát sanh, đưa đến trạng thái tâm tuyệt đối vắng lặng và an
lạc. Nhưng Bồ Tát không thỏa mãn với những thành quả ấy. Ðã kiểm soát
và khắc phục tâm, tạm thời làm chủ mình, nhưng Ngài nhận định rằng bấy
nhiêu đấy chưa đủ. Thú dữ vẫn còn đó. Phải tận diệt mọi nhiễm ô
và mọi hoặc lậu mới tuyệt hậu hoạn. Mục tiêu cứu cánh của Ngài chỉ
là chứng ngộ Chân Lý Cùng Tột, chứng ngộ Thực Tại, thấy sự vật đúng
như sự vật là như vậy, tức là chứng ngộ ba đặc tướng của các pháp hữu vi
là vô thường, khổ, vô ngã. Chính nhờ trí tuệ trực giác này mà Bồ Tát
đập vỡ tung cái vỏ Vô Minh dày cứng đã bao phủ Ngài từ vô lượng kiếp
để vượt đến Thực Tại, để chứng ngộ tận tường và trọn vẹn
Bốn Chân Lý Cao Thượng "trước kia chưa từng được nghe".
Thiền Minh Sát.
Pháp hành mà chúng ta thảo luận đến đây là chú niệm, gom tâm an
trụ vào một điểm duy nhất và không biết gì ngoài điểm ấy. Có
một pháp định tâm khác, gọi là Thiền Minh Sát, không hạn chế
đối tượng của niệm bằng cách chỉ chú tâm vào một đối tượng bất di
dịch mà hướng tâm vào những trạng thái luôn luôn biến đổi của tâm và
thân, ghi nhận bất luận hiện tượng nào xảy diễn đến mình. Công phu
hành thiền của hành giả là giữ chú niệm của mình bám sát vào bất
luận gì mình tri giác, nhưng buông bỏ tất cả, không bám níu gì hết.
Trong khi tu tập theo dõi ghi nhận như vậy tâm định của hành giả càng lúc
càng kiên cố cho đến một lúc nọ trở thành nhất điểm tâm, vững
chắc trên mỗi điểm của luồng trôi chảy luôn luôn biến đổi của
sự vật. Mặc dầu đối tượng đổi thay, di động như thế nào, tâm nhất
điểm của hành giả luôn luôn an trụ vững vàng vào đó. Tâm định vừa
vững chắc vừa di động này được phát triển bằng cách thực hành Tứ
Niệm Xứ: niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp,
đây là "con đường duy nhất để chúng sanh tự thanh lọc, để
diệt trừ đau khổ, để thành đạt trí tuệ và để chứng ngộ
Niết Bàn."
Khác biệt giữa Thiền Vắng Lặng và Thiền Minh Sát.
Thiền Vắng Lặng là pháp môn nhằm đè nén năm triền cái và định
tâm trong một đối tượng nhất định. Tâm phỉ lạc đưa đến chứng đắc
các tầng Thiền Sắc Giới và Vô Sắc Giới. Thiền Minh Sát đưa đến
một loại trí tuệ nhận thức rõ ràng ba đặc tướng của các pháp hữu vi
là vô thường, khổ, vô ngã.
Trong thiền vắng lặng, hành giả chọn và xử dụng một trong số các
môn, như nhãn môn hay ý môn. Còn các môn khác thì không dùng. Trong
thiền minh sát, hành giả không nhất thiết chọn một đề mục nào
mà dùng cả sáu môn cùng với sáu đối tượng của nó.
Trong thiền vắng lặng, khi hành giả chọn đề mục, dùng tâm quán
tưởng ở trong đề mục ấy cho đến lúc tâm có đủ năng lực đè nén
năm triền cái, năm chi thiền dần dần hiện rõ, tâm an trụ vững
trong đề mục và cuối cùng chứng đắc các tầng Thiền (Jhàna). Năm
triền cái đối nghịch với thiền vắng lặng vì là chướng ngại, cản
trở tâm an trụ, nhưng không đối nghịch với thiền minh sát. Niệm
về năm triền cái, tức lấy sự hay biết năm chướng ngại tinh thần
này làm đề mục thiền, là một phần của Niệm Pháp.
Ðối tượng của thiền minh sát là thực thể pháp trong thời hiện
tại, những gì thật sự xảy diễn trong khoảnh khắc hiện tại. Ðối tượng
của thiền minh sát là Tứ Niệm Xứ. Các đối tượng chế
định, do hành giả tự tạo như ấn chứng, cảm giác hay hình ảnh v.v... không
thể dùng làm đối tượng thiền minh sát, chỉ dùng làm đối tượng của
thiền vắng lặng.
Dầu thiền vắng lặng và thiền minh sát có sự khác biệt nhau song
thiền vắng lặng có thể làm nền tảng cho thiền minh sát như
trường hợp Ðức Phật. Ngài tiến cao đến mức cùng tột của thiền
vắng lặng là Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng rồi xả thiền, quán chiếu thân
và tâm Ngài, dùng chi thiền phỉ, lạc v.v... làm đối tượng và thấy rõ
vô thường, khổ, vô ngã. Ðó là "thiền minh sát dùng thiền vắng
lặng làm nền tảng."
Ta cũng có thể trực tiếp hành thiền minh sát mà không qua
thiền vắng lặng, như chỉ quán niệm theo bốn oai nghi, đi, đứng, nằm,
ngồi.
Ðể giải đáp một câu hỏi về sự khác biệt giữa thiền vắng
lặng và thiền minh sát, Ngài Acharn Chah -- một thiền sư danh tiếng
ở Thái Lan -- nói:
"... Thật dễ hiểu. Thiền vắng lặng và thiền minh sát cùng
đi chung với nhau. Trước tiên, do nhờ pháp hành gom tâm an trụ vào đề
mục, tâm trở nên an tĩnh, vắng lặng. Tâm chỉ vắng lặng trong khi ta ngồi
thiền. Ðó là thiền vắng lặng. Căn bản tâm định sẽ khởi duyên, tạo
điều kiện cho trí tuệ, tuệ minh sát, phát sanh. Ðến mức
độ này tâm luôn luôn vẫn an tĩnh, dầu ta ngồi nhắm mắt tham thiền nơi
vắng vẻ hay đi bách bộ giữa phố phường nhộn nhịp. Nó là vậy. Ngày nào còn
là trẻ con, giờ đây lớn khôn. Ta là người đứng tuổi. Em bé thủa nào và
người đứng tuổi hiện nay có phải là một không? Có thể nói là một.
Hoặc, theo một lối nhìn khác, có thể nói là hai người khác biệt.
Cùng thế ấy, ta có thể tách rời thiền vắng lặng và thiền minh
sát.
"Chớ tin Sư bằng lời. Hãy thực hành đi, rồi tự mình sẽ thấy. Không
cần phải làm gì đặc biệt. Nếu chăm chú quan sát, nhin xem trạng thái
vắng lặng và trí tuệ phát sanh thế nào, quý vị sẽ tự bản thân
thấu đạt chân lý. Trong những năm sau này người ta quá chú trọng
đến danh từ. Họ gọi pháp hành của họ là minh sát và coi rẻ
thiền vắng lặng. Hoặc họ gọi thiền của họ là vắng lặng và
hãnh diện nói rằng muốn thành công thiền minh sát phải trải qua giai
đoạn hành thiền vắng lặng. Tất cả những lời qua tiếng lại ấy là
điên cuồng. Chớ nên bận tâm suy tư. Chỉ giản dị hành. Tự mình sẽ thấy
...."