Lưu ý: Đọc với phông chữ
VU-Times (Viet-Pali Unicode) |
-ooOoo-
2- ĐỨC BỒ TÁT THÁI TỬ SIDDHATTHA THÀNH ĐỨC PHẬT GOTAMA
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha lên ngôi Vua năm 16
tuổi và thành hôn với Công chúa Yasodhara
[1].
Đức vua Siddhattha tấn phong Công chúa Yasodhara lên ngôi chánh cung
Hoàng hậu. Đức vua trị vì đất nước thanh bình thịnh vượng, thần dân
thiên hạ được an cư lạc nghiệp.
Đức vua Bồ Tát an hưởng sự an lạc trên ngai vàng
trải qua thời gian 13 năm.
Đức vua Bồ Tát ngự đi du lãm ngoại thành 4 lần đến
vườn thượng uyển
[2],
mỗi lần cách nhau 3 tháng, mỗi lần nhìn thấy một cảnh do chư thiên biến
hóa để làm cho Đức Bồ Tát phát sinh động tâm mà đi xuất gia, để trở
thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.
- Lần thứ nhất: Vào ngày rằm tháng 6, Đức
Bồ Tát nhìn thấy người già.
- Lần thứ nhì: Vào ngày rằm tháng 10, Đức
Bồ Tát nhìn thấy người bệnh.
- Lần thứ ba: Vào ngày rằm tháng 2, Đức
Bồ Tát nhìn thấy người chết.
- Lần thứ tư: Vào ngày rằm tháng 6, Đức
Bồ Tát nhìn thấy bậc xuất gia.
Trải qua 4 lần tròn đúng một năm; vào đêm rằm tháng
6 Đức vua Bồ Tát quyết định xuất gia, để tìm con đường giải thoát khổ
già, khổ bệnh, khổ chết.
Đức Bồ Tát xuất gia năm 29 tuổi, Ngài tìm đến vị
Đạo sư Ālāra Kālāmagotta xin thọ giáo. Vị Đạo sư hân hoan tiếp nhận
Ngài, rồi dạy pháp hành thiền định. Trải qua một thời gian thực hành
thiền định không lâu, Đức Bồ Tát đã chứng đắc 4 bậc thiền hữu sắc và đến
đệ tam thiền vô sắc gọi là vô sở hữu xứ thiền, ngang bằng
với bậc thiền mà vị Đạo sư Ālāra Kālāmagotta đã chứng đắc. Đức Bồ Tát
suy xét rằng: “Bậc đệ tam thiền vô sắc, vô sở hữu xứ thiền này
sẽ cho quả tái sinh lên cõi Phạm Thiên vô sắc giới, Vô sở hữu xứ thiên
có tuổi thọ 60.000 đại kiếp, không phải là pháp dẫn đến sự nhàm chán ngũ
uẩn, không diệt tận được tham ái, không đoạn diệt được phiền não, không
chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, không tịch diệt Niết Bàn, không giải
thoát được mọi cảnh khổ sinh-lão-bệnh-tử luân hồi trong tam giới”.
Đức Bồ Tát không bằng lòng với sở đắc của mình,
Ngài xin từ giã vị Đạo sư Ālāra Kālāmagotta khả kính, để đi tìm pháp môn
khác hầu mong giải thoát khổ sinh-lão-bệnh-tử.
Sau khi từ giã vị Đạo sư Ālāra Kālāmagotta, Đức Bồ
Tát tìm đến vị Đạo sư Udaka Rāmaputta xin thọ giáo. Vị Đạo sư hân
hoan tiếp nhận Ngài, rồi truyền dạy pháp hành thiền định. Trải qua thời
gian không lâu, Đức Bồ Tát đã chứng đắc 4 bậc thiền hữu sắc và 4 bậc
thiền vô sắc, bậc đệ tứ thiền vô sắc tột đỉnh gọi là phi tưởng phi
phi tưởng xứ thiền, ngang bằng với bậc thiền mà vị Đạo sư Udaka
Rāmaputta đã chứng đắc.
Đức Bồ Tát suy xét rằng: “Bậc đệ tứ thiền vô
sắc, phi tưởng phi phi tưởng xứ thiền này sẽ cho quả tái sinh lên
cõi trời Phạm Thiên vô sắc giới. Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên có
tuổi thọ 84.000 đại kiếp, không phải là pháp dẫn đến sự nhàm chán ngũ
uẩn, không diệt tận được tham ái, không đoạn diệt được phiền não, không
chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, không tịch diệt Niết Bàn, không giải
thoát được mọi cảnh khổ sinh-lão-bệnh-tử luân hồi trong tam giới”.
Đức Bồ Tát xin từ giã vị Đạo sư Udaka Rāmaputta khả
kính để đi tìm pháp môn khác, hầu mong giải thoát khổ sinh-lão-bệnh-tử.
Sau khi từ giã vị Đạo sư Udaka Rāmaputta, Đức Bồ
Tát đi đến khu rừng Uruvela gần con sông Nerañjarā; tại nơi đây có nhóm
5 Tỳ khưu: Ngài Kondañña, Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma và
Ngài Assaji xin theo hộ độ Ngài.
Đức Bồ Tát tinh tấn hành pháp khổ hạnh
nín thở đến nỗi làm cho Ngài chết ngất; thấy không có kết quả, Ngài lại
giảm vật thực dần dần, cho đến khi mỗi ngày chỉ ăn lượng vật thực còn
bằng hạt sen. Do đó, kim thân của Ngài gầy ốm chỉ còn da bọc xương, ốm
đến nỗi sờ da bụng thì đụng phải đường xương sống. Trước kia kim thân
của Đức Bồ Tát có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc Đại nhân và 80 tướng tốt
phụ, có làn da màu vàng sáng ngời, đến nay các tướng tốt ấy đã biến mất,
còn làn da đã trở thành màu đen sẫm.
Một hôm Đức Bồ Tát suy xét: “Ta đã hành pháp khổ
hạnh đến chỗ tột cùng rồi. Trong thời quá khứ, chưa từng có Samôn,
Bàlamôn nào đã hành pháp khổ hạnh đến mức như ta đang hành. Thời hiện
tại và thời vị lai cũng sẽ không có Samôn, Bàlamôn nào có thể hành pháp
khổ hạnh như ta; thế mà, ta không thể chứng đắc thành Đức Phật Chánh
Đẳng Giác. Như vậy, chắc chắn phải còn có một pháp hành nào khác”.
Đức Bồ Tát hồi tưởng lại rằng: “Khi ta còn nhỏ,
cùng Phụ vương ra đồng làm lễ hạ điền, Phụ vương để ta ngồi trong một
chiếc lều vải dưới gốc cây mận (đào). Ta đã ngồi niệm đề mục hơi thở:
Hít vô - thở ra, và ta đã chứng đắc đệ nhất thiền hữu sắc. Vậy, chắc
chắn pháp hành thiền định này làm nền tảng, để ta có thể chứng đắc thành
Đức Phật Chánh Đẳng Giác cũng nên”.
Đức Bồ Tát xét thấy rằng: “Bây giờ, thân thể của
ta gầy ốm, sức khỏe yếu đuối, ta không thể thực hành thiền định đề mục
niệm hơi thở được. Vậy, điều tốt hơn hết là ta nên thọ thực trở lại, cho
có sức khỏe rồi ta mới có thể thực hành thiền định”.
Đức Bồ Tát đã hành pháp khổ hạnh suốt 6 năm
trường ròng rã, mà không đạt đến mục đích chứng đắc thành Đức Phật Chánh
Đẳng Giác, nên Ngài đã từ bỏ pháp hành khổ hạnh.
Đức Bồ Tát mang bát vào xóm Senā khất thực; sau một
thời gian thọ thực bình thường trở lại, sức khỏe của Ngài được hồi phục.
Trong thời kỳ hành pháp khổ hạnh, mọi tướng tốt của Ngài đã biến mất.
Nay kim thân Ngài lại hiện rõ 32 tướng tốt chính của bậc Đại nhân và 80
tướng tốt phụ, có làn da màu vàng sáng ngời như trước.
Đêm 14 tháng tư âm lịch, vào canh chót đêm ấy, Đức
Bồ Tát nằm thấy 5 đại mộng (mahāsupina). Qua 5 điều mộng
này, Ngài đoán biết rằng: “Ngài chắc chắn sẽ chứng đắc thành Đức
Phật Chánh Đẳng Giác”.
Sáng ngày rằm tháng tư âm lịch, Đức Bồ Tát đi đến
ngồi dưới gốc cây da để chờ đến giờ đi vào xóm khất thực. Tại nơi đây,
hằng năm, vào ngày rằm tháng tư này, nàng Sujātā thường đem lễ vật đến
cúng dường, để tạ ơn thiên thần đã giúp cho nàng toại nguyện.
Như thường lệ, sáng ngày rằm tháng tư âm lịch, nàng
Sujātā trang điểm bằng những đồ trang sức quý giá rồi đi đến cội cây da,
trên đầu đội một chiếc mâm vàng đựng 49 vắt cơm nấu bằng sữa tươi tinh
khiết, bổ dưỡng, có chư thiên bỏ thêm hương vị trời. Khi đến nơi, nhìn
thấy Đức Bồ Tát có 32 tướng tốt của bậc Đại nhân và 80 tướng tốt phụ, có
làn da màu vàng sáng ngời, có hào quang tỏa ra xung quanh, nàng tưởng
rằng: “Ngài là vị thiên thần hiện xuống thọ nhận phẩm vật cúng dường
tạ ơn của nàng”. Nàng Sujātā vô cùng hoan hỷ đến gần Đức Bồ Tát cung
kính dâng Ngài chiếc mâm vàng đầy 49 vắt cơm sữa cùng bình nước, hoa
quả… Khi ấy, cái bát của Ngài bỗng nhiên biến mất, Ngài nhìn nàng
Sujātā.
Nàng Sujātā liền bạch rằng:
- Kính bạch Đức Thiên Thần, con thành kính dâng
Ngài chiếc mâm vàng đầy những phẩm vật này. Kính xin Ngài từ bi hoan hỷ
thọ nhận, để cho con được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài.
Đức Bồ Tát đưa hai tay ra thọ nhận chiếc mâm vàng
đầy các phẩm vật quý giá ấy.
Sau khi thọ nhận chiếc mâm vàng đầy cơm sữa xong,
Đức Bồ Tát đứng dậy rời khỏi gốc cây da, tay bưng chiếc mâm vàng đầy cơm
sữa đi đến bến sông Nerañjarā, nơi mà chư Bồ Tát Chánh Đẳng Giác quá
khứ, trước khi chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, cũng đều ngự
đến đây để tắm, nên bến sông này gọi là bến Supaṭitthita. Ngài đặt mâm ở
bến Supaṭitthita, rồi xuống dòng sông Nerañjarā tắm. Khi tắm xong, Ngài
mặc y cà sa màu lõi mít tượng trưng cho lá cờ chiến thắng của chư Thánh
Arahán, đoạn Ngài ngồi quay mặt về hướng Đông, độ hết 49 vắt cơm sữa,
rồi uống hết bình nước (từ đó về sau suốt 7 tuần lễ (49 ngày),
Đức Phật không độ vật thực và nước, chỉ an hưởng vị giải thoát Niết
Bàn).
Sau khi độ cơm xong, Ngài cầm chiếc mâm vàng phát
nguyện rằng:
- Nếu hôm nay ta được chứng đắc thành Đức Phật
Chánh Đẳng Giác, thì xin cho chiếc mâm vàng này sẽ trôi ngược dòng nước;
nếu không, thì chiếc mâm vàng này sẽ trôi xuôi theo dòng nước.
Nguyện xong, Ngài ném chiếc mâm vàng
xuống dòng sông. Thật phi thường thay! Chiếc mâm vàng cắt ngang dòng
nước đang chảy, trôi ra giữa sông, rồi từ đó trôi ngược dòng nước một
cách vô cùng mau lẹ. Trôi khoảng một đoạn khá xa, chiếc mâm vàng chìm
sâu xuống đáy nước, đụng phải ba chiếc mâm vàng của ba Đức Phật
quá khứ là Đức Phật Kakusandha, Đức Phật
Koṇāgamana và Đức Phật Kassapa, phát ra
một âm thanh vang dội, làm cho Long vương Kālanāga tỉnh giấc nghĩ rằng:
“Hôm qua một Đức Phật đã xuất hiện, hôm nay sẽ
có một Đức Phật nữa xuất hiện”, rồi thức dậy tán dương ca tụng hằng
trăm bài kệ.
Trưa hôm ấy, Đức Bồ Tát nghỉ trong một khu rừng
Sālā, bên bờ sông Nerañjarā, những cây Sālā tự nhiên đua nhau nở hoa
khắp cả khu rừng. Chiều hôm ấy, Ngài ngự đến cội cây Assattha, dọc theo
hai bên đường, chư thiên trang hoàng những đóa hoa trời rất xinh đẹp,
chư thiên ở các cõi trời đua nhau cúng dường hương thơm cùng với thiên
nhạc vang rền khắp 10 ngàn thế giới chúng sinh. Cùng lúc ấy, một người
cắt cỏ tên Sotthiya, trên đường đi ngược chiều lại phía Đức Bồ Tát, nhìn
thấy Ngài, liền phát sinh đức tin trong sạch, nên dâng cúng Ngài tám nắm
cỏ. Đức Bồ Tát cầm tám nắm cỏ ngự thẳng đến cội cây Assattha.
Khi đứng hướng Nam của cội cây, Ngài nhìn thẳng về
hướng Bắc, Ngài có cảm giác mất thăng bằng, như toàn cõi thế giới hướng
Nam bị chìm sâu xuống cõi địa ngục Avīci, còn toàn cõi thế giới hướng
Bắc được nổi lên đến cõi trời sắc giới phạm thiên tột đỉnh. Ngài nghĩ
rằng:
“Đây không phải là chỗ ngồi để ta có thể chứng
đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác”.
Ngài ngự đi sang hướng khác.
Khi đứng hướng Tây của cội cây, Ngài nhìn về hướng
Đông; rồi đứng hướng Bắc, Ngài nhìn về hướng Nam cũng có cảm giác mất
thăng bằng như vậy.
Sau cùng, đứng hướng Đông của cội cây, Ngài nhìn
thẳng về hướng Tây, Ngài có cảm giác toàn cõi thế giới thăng bằng.
Ngài nghĩ rằng: “Chính đây là chỗ ngồi để ta có
thể chứng đắc thành Bậc Chánh Đẳng Giác”.
Ngài trải tám nắm cỏ tại hướng Đông của cội
Assattha. Thật phi thường thay! Tại ngay chỗ ngồi ấy bỗng nhiên trở
thành ngôi Bồ đoàn quý báu, có chiều cao 14 hắc tay thật nguy nga lộng
lẫy, mà không có một nhà kiến trúc mỹ thuật nào có thể tạo nên một Bồ
đoàn tuyệt đẹp như vậy! Bởi vì, ngôi Bồ đoàn quý báu này phát sinh do
phước báu ba-la-mật tròn đủ của Đức Bồ Tát sắp trở thành Đức Phật Chánh
Đẳng Giác.
Ngài ngồi kiết già vững vàng trên ngôi Bồ đoàn quý
báu, quay mặt về hướng Đông rồi phát nguyện rằng:
- Dù cho thịt và máu trong thân ta khô cạn hết,
dù sắc thân này chỉ còn da bọc xương đi nữa, nếu ta chưa chứng đắc thành
Đức Phật Chánh Đẳng Giác, ta quyết không bao giờ rời khỏi Bồ đoàn này.
Lúc ấy, từ cung trời Tha Hoá Tự Tại Thiên, Ác Ma
Thiên hoá ra hàng ngàn cánh tay cầm khí giới, cỡi voi Girimekhala
cầm đầu đoàn thiên ma binh, thiên ma tướng rầm rộ hiện xuống vây quanh
cội Assattha, kéo dài 12 do tuần. Bên trên hư không, chúng thiên ma dày
đặc 9 do tuần, chúng la hét âm thanh vang dội kinh khủng làm chấn động
khắp mọi nơi, quyết tranh giành ngôi Bồ đoàn của Đức Bồ Tát. Mới đây,
chư thiên, chư phạm thiên từ 10 ngàn thế giới đến cung kính cúng dường,
tán dương ca tụng Đức Bồ Tát, khi thoáng nhìn thấy Ác Ma Thiên
cùng với thiên ma binh, thiên ma tướng trùng trùng điệp điệp từng đoàn,
từng lớp hiện xuống; tất cả chư thiên, phạm thiên đều bay xa lánh mặt,
trở về chỗ ở của mình, chỉ còn một mình Đức Bồ Tát đang điềm nhiên ngự
trên ngôi Bồ đoàn.
Ác Ma Thiên đã sử dụng đủ mọi loại vũ khí
và phép thuật cực kỳ nguy hiểm, quyết sát hại Đức Bồ Tát, để chiếm đoạt
ngôi Bồ đoàn, với mục đích ngăn cản không cho Đức Bồ Tát chứng đắc thành
Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Nhưng do oai lực 30 pháp hạnh ba-la-mật đầy đủ
trọn vẹn của Đức Bồ Tát sắp chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác,
nên không có một loại phép thuật hay vũ khí nguy hiểm nào có thể sát hại
được Ngài.
Quả thật như thế! Do oai lực pháp hạnh ba-la-mật
của Đức Bồ Tát, các loại vũ khí và phép thuật của Ác Ma Thiên đều hóa
thành những vật cúng dường Ngài.
Ngồi trên lưng voi Girimekhala, Ác Ma Thiên vô
cùng căm uất, chỉ tay về Đức Bồ Tát nói như ra lệnh:
- Này Samôn Gotama, nhà ngươi hãy mau mau rời
khỏi ngôi Bồ đoàn ấy, vì ngôi Bồ đoàn ấy là của ta, không phải của
ngươi!
Đức Bồ Tát từ tốn đáp lại:
- Này Ác Ma Thiên, ngôi Bồ đoàn quý báu này phát
sinh do phước thiện của 30 pháp hạnh ba-la-mật, 5 hạnh đại thí, 3 pháp
hành mà Như Lai đã tạo từ vô số kiếp. Do đó, ngôi Bồ đoàn này thuộc về
của Như Lai, không phải của ngươi.
Khi ấy, chỉ một mình Đức Bồ Tát ngự trên Bồ đoàn,
ngoài ra, không còn có một ai bên cạnh Đức Bồ Tát cả, nên Ác Ma Thiên
đặt câu hỏi bắt bí Đức Bồ Tát rằng:
- Thưa Samôn Gotama, Ngài nói rằng: “Ngôi Bồ
đoàn quý báu ấy thuộc về của Ngài. Vậy ai làm chứng cho Ngài!”
Nhìn xung quanh đều không có một chư thiên, phạm
thiên nào cả, Đức Bồ Tát bèn đưa bàn tay phải ra, rồi dùng ngón trỏ chỉ
xuống mặt đất, truyền dạy bằng lời chân thật rằng:
“Trong những tiền kiếp, Như Lai đã từng tạo 30
pháp hạnh ba-la-mật, 5 hạnh đại thí, 3 pháp hành. Bây giờ, tại nơi đây
không có chúng sinh nào đứng ra làm chứng cho Như Lai, chỉ có mặt đất,
mặt đất không có tâm thức này có thể làm chứng cho Như Lai được không?”.
Thật phi thường thay! Lời chân thật của Đức Bồ
Tát vừa chấm dứt, ngay tức khắc, mặt đất chuyển mình, rung động, phát ra
những tiếng sấm sét long trời lở đất, làm cho Ác Ma Thiên kinh hoàng
khiếp đảm, giục voi Girimekhala bỏ chạy trở về cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên;
còn đám ma binh thì hỗn quân, hỗn quan vô cùng khiếp sợ, cũng hốt hoảng
chạy tán loạn theo chủ soái để thoát thân.
Đức Bồ Tát ngự trên Bồ đoàn quý báu dưới cội cây
Assattha toàn thắng Ác Ma Thiên, vừa đúng lúc mặt trời sắp lặn hướng
Tây, mặt trăng ló dạng hướng Đông. Khi ấy, mười ngàn thế giới, chư thiên
cõi trời dục giới, phạm thiên cõi trời sắc giới, Long vương dưới thủy
cung… vui mừng reo hò vang dội khắp các tầng trời, tán dương ca tụng oai
lực ba-la-mật của Đức Bồ Tát rằng:
Đức Bồ Tát Siddhattha đã toàn thắng rồi!
Ác Ma Thiên đã hoàn toàn thất bại rồi!
Do đó, ngôi Bồ đoàn quý báu này gọi là “Aparājitapallaṇka”
nghĩa là ngôi Bồ đoàn quý báu nơi toàn thắng Ác Ma Thiên.
Chư thiên, phạm thiên đem những đoá hoa trời xinh
đẹp, những hương thơm đến cúng dường, tán dương ca tụng ba-la-mật của
Đức Bồ Tát.
Sau khi Đức Bồ Tát đã toàn thắng Ác Ma Thiên, vào
canh đầu đêm rằm tháng tư âm lịch, Ngài thực hành thiền định
(samathabhāvanā) với đề mục niệm hơi thở vô - hơi thở ra (ānāpānassati)
tuần tự chứng đắc 4 bậc thiền hữu sắc như sau:
Đệ nhất thiền hữu sắc: Có 5 chi
thiền: Hướng tâm, quan sát, hỷ, lạc, định, do chế ngự được 5 pháp
chướng ngại tham dục, sân hận, buồn chán - buồn ngủ, phóng tâm - hối
hận, hoài nghi.
Đệ nhị thiền hữu sắc: Có 3 chi thiền:
Hỷ, lạc, định, do chế ngự được 2 chi thiền hướng tâm, quan sát.
Đệ tam thiền hữu sắc: Có 2 chi thiền:
Lạc, định, do chế ngự được 1 chi thiền hỷ.
Đệ tứ thiền hữu sắc: Có 2 chi thiền:
Xả, định, do chế ngự được 1 chi thiền lạc, thay bằng chi
thiền xả.
Đó là 4 bậc thiền hữu sắc làm nền tảng để chứng đắc
Tam Minh.
TAM MINH (TEVIJJA)
1- Túc mạng minh (Pubbenivāsānussatinñāṇa)
Đức Bồ Tát có đệ tứ thiền hữu sắc, định tâm trong
sáng thanh tịnh, thiền tâm không lay động làm nền tảng, Ngài hướng tâm
đến chứng đắc túc mạng minh: Trí tuệ nhớ rõ lại tiền
kiếp, từ 1 kiếp đến hàng trăm kiếp, hàng ngàn kiếp, hàng vạn kiếp, hàng
triệu kiếp, hàng triệu triệu kiếp… cho đến vô lượng kiếp không giới hạn
[3].
Túc mạng minh là trí tuệ nhớ rõ tiền kiếp thuộc
loại chúng sinh nào, tên gì, thuộc dòng dõi nào, đã tạo nghiệp thiện ,
nghiệp bất thiện, tạo ba-la-mật, thọ lạc, thọ khổ, tuổi thọ như thế nào…
đều nhớ rõ ràng mọi chi tiết.
Túc mạng minh là minh thứ nhất
mà Đức Bồ Tát đã chứng đắc vào canh đầu đêm rằm tháng tư (âm lịch).
2- Thiên nhãn minh (Dibbacakkhunñāṇa)
Đức Bồ Tát có đệ tứ thiền hữu sắc, định tâm trong
sáng thanh tịnh, thiền tâm không lay động làm nền tảng, Ngài hướng tâm
đến chứng đắc thiên nhãn minh: Trí tuệ thấy rõ, biết rõ
kiếp quá khứ, kiếp vị lai của tất cả chúng sinh như mắt của chư thiên,
phạm thiên.
Thiên nhãn minh có 2 loại:
Tử sanh minh (cutūpapātañāṇa):
Trí tuệ thấy rõ biết rõ sự tử, sự tái sinh của tất cả chúng sinh.
Sau khi chết, do nghiệp nào cho quả tái sinh cảnh giới nào, thọ khổ, thọ
lạc như thế nào…
Vị lai kiến minh (anāgataṃsañāṇa):
Trí tuệ thấy rõ những kiếp vị lai của tất cả chúng sinh.
Chư Phật dùng vị lai kiến minh này để thọ
ký chúng sinh trong những kiếp vị lai xa xăm, còn thời gian bao nhiêu
đại kiếp trái đất nữa sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, hoặc Đức
Phật Độc Giác, hoặc bậc Thánh Thanh Văn Giác...
Thiên nhãn minh là minh thứ nhì
mà Đức Bồ Tát đã chứng đắc vào lúc canh giữa đêm rằm tháng tư (âm lịch).
3- Lậu tận minh (Āsavakkhayañāṇa)
Đức Bồ Tát dùng đệ tứ thiền hữu sắc làm nền tảng,
để thực hành thiền tuệ, quán xét Thập Nhị Duyên Sanh
(Paṭiccasamuppāda) là đối tượng thiền tuệ của Chư Bồ Tát.
Ngài quán xét để chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.
Đức Bồ Tát quán xét Thập Nhị Duyên Sanh
theo chiều thuận, chiều sinh như sau:
- Do vô minh làm duyên, nên hành sanh.(Avijjāpaccayā
saṅkhārā)
- Do hành làm duyên, nên thức sanh. (Saṅkhārapaccayā viññāṇaṃ)
- Do thức làm duyên, nên danh sắc sanh. (Viññāṇapaccayā
nāmarūpaṃ)
- Do danh sắc làm duyên, nên lục nhập sanh. (Nāmarūpapaccayā
saḷāyatanaṃ)
- Do lục nhập làm duyên, nên lục xúc sanh. (Saḷāyatanapaccayā
phasso)
- Do lục xúc làm duyên, nên lục thọ sanh. (Phassapaccayā
vedanā)
- Do lục thọ làm duyên, nên lục ái sanh. (Vedanāpaccayā taṇhā)
- Do lục ái làm duyên, nên tứ thủ sanh. (Taṇhāpaccayā upādānaṃ)
- Do tứ thủ làm duyên, nên nhị hữu sanh.(Upādānapaccayā bhavo)
- Do nhị hữu làm duyên, nên tái sinh sanh. (Bhavapaccayā jāti)
- Do tái sinh làm duyên, nên lão tử… sanh. (Jātipaccayā
jarāmaraṇaṃ…)
Đức Bồ Tát quán xét Thập Nhị Duyên Sanh
theo chiều thuận, chiều sinh, để trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ “sự
sinh” của mỗi pháp, trí tuệ thiền tuệ chứng ngộ chân lý
Khổ Thánh Đế và Nhân sanh Khổ Thánh Đế hay
Tập Thánh Đế.
Đức Bồ Tát quán xét Thập Nhị Nhân Diệt
theo chiều nghịch, chiều diệt như sau:
- Do diệt tận vô minh, nên diệt hành.
(Avijjāyatveva asesavirāganirodhā saṅkhāranirodho)
- Do diệt hành, nên diệt thức. (Saṅkhāranirodhā viññaṇanirodho)
- Do diệt thức, nên diệt danh sắc. (Viññāṇanirodhā
nāmarūpanirodho)
- Do diệt danh sắc, nên diệt lục nhập. (Nāmarūpanirodhā
saḷāyatananirodho)
- Do diệt lục nhập, nên diệt lục xúc. (Saḷāyatananirodhā
phassanirodho)
- Do diệt lục xúc, nên diệt lục thọ. (Phassanirodhā
vedanānirodho)
- Do diệt lục thọ, nên diệt lục ái. (Vedanānirodhā
taṇhānirodho)
- Do diệt lục ái, nên diệt tứ thủ. (Taṇhānirodhā
upādānanirodho)
- Do diệt tứ thủ, nên diệt nhị hữu. (Upādānanirodhā
bhavanirodho)
- Do diệt nhị hữu, nên diệt tái sinh. (Bhavanirodhā
jātinirodho)
- Do diệt tái sinh, nên diệt lão tử… (Jātinirodhā jarāmaraṇa…
nirodho)
Đức Bồ Tát quán xét Thập Nhị Nhân Diệt
theo chiều nghịch, chiều diệt, để trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ
“sự diệt” của mỗi pháp, trí tuệ thiền tuệ chứng ngộ chân lý:
Diệt Khổ Thánh Đế và Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế
hay Đạo Thánh Đế.
Đức Bồ Tát quán xét Thập Nhị Duyên Sanh -
Thập Nhị Nhân Diệt theo chiều thuận - chiều
nghịch, chiều sanh - chiều diệt, trí
tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh - sự
diệt của mỗi pháp, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ trạng
thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã, dẫn đến chứng
ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn,
diệt đoạn tuyệt 4 pháp trầm luân (āsava) bằng 4 Thánh Đạo
Tuệ tuần tự như sau:
1- Nhập Lưu Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn
tuyệt được 1 pháp là tà kiến trầm luân (diṭṭhāsava),
cùng với các tà kiến khác.
2- Nhất Lai Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn
tuyệt được 1 pháp là tham dục trầm luân (kāmāsava)
trong ngũ trần loại thô (còn loại vi tế chưa diệt được), cùng
với các tâm tham loại thô khác.
3- Bất Lai Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn
tuyệt được 1 pháp là tham dục trầm luân (kāmāsava)
trong ngũ trần loại vi tế không còn dư sót, cùng với các tâm tham
loại vi tế khác.
4- Arahán Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn
tuyệt được 2 pháp là kiếp trầm luân (bhavāsava)
và vô minh trầm luân (avijjāsava), đồng
thời diệt đoạn tuyệt được hoàn toàn mọi tham ái, phiền não, và các ác
pháp không còn dư sót.
Như vậy, Đức Bồ Tát đã tự mình chứng ngộ chân lý Tứ
Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn đầu tiên, diệt
đoạn tuyệt mọi tham ái, mọi phiền não, mọi ác pháp không còn dư sót; đặc
biệt diệt được mọi tiền khiên tật
[4]
(vāsanā) do đã tích lũy từ nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ, trở thành
Đức Phật Chánh Đẳng Giác có danh hiệu Đức Phật Gotama, độc nhất vô nhị
trong toàn cõi thế giới chúng sinh.
Đức Phật Gotama có đầy đủ trọn vẹn 73 loại trí tuệ
[5].
Trong 73 loại trí tuệ này, có những loại trí tuệ mà Chư Phật Độc Giác,
Chư Thanh Văn Giác không thể có, đó là 6 Asādhāraṇañāna: 6 trí tuệ
không có chung với Chư Phật Độc Giác, Chư Thánh Thanh Văn Giác;
10 Dasabalañāna: 10 tuệ lực; v.v…
Đức Phật Gotama có những Ân đức riêng biệt như:
- 18 āveṇikāguṇa: 18 Ân đức riêng biệt của
Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Những Ân đức này chỉ có ở Đức Phật Chánh Đẳng
Giác mà thôi, hoàn toàn không có ở Chư Phật Độc Giác, Chư Thánh Thanh
Văn Giác.
- 4 anantarāyikaguṇa: 4 Ân đức an toàn vô
hại, không có một ai có khả năng sát hại Đức Phật, làm hư hỏng các thứ
vật dụng của Đức Phật, gây tai hại tướng tốt của Đức Phật, hoặc làm mất
ánh hào quang của Đức Phật.
Lậu tận minh là minh thứ 3 mà
Đức Bồ Tát đã chứng đắc vào canh chót của đêm rằm tháng tư (âm lịch),
vào lúc rạng đông. Ngài đã trở thành Đức Phật Chánh
Đẳng Giác cao thượng trong toàn cõi thế giới chúng sinh,
tại cội cây Assattha. Do đó, cây Assattha này gọi là Bodhirukkha
[6]
: Cây Bồ đề, đối với Đức Phật Gotama của chúng ta.
Như vậy, Đức Phật Gotama là Đức Chánh Đẳng Giác Vô
Thượng trong toàn thế giới chúng sinh. Khi ấy, Ngài đúng 35 tuổi.
Mười ngàn thế giới chúng sinh từ mặt đất lên đến
cõi sắc giới phạm thiên tột đỉnh, chư thiên, phạm thiên vô cùng vui
mừng, hoan hỷ thốt lên lời:
- Sādhu! Sādhu! (Lành thay! Lành thay!)
- Buddho uppanno! (Đức Phật xuất hiện
trên thế gian rồi!)
- Dhammo uppanno! (Đức Pháp xuất hiện
trên thế gian rồi!)
- Saṃgho uppanno! (Đức Tăng cũng sẽ xuất
hiện trên thế gian này!)
Tiếng hoan hô
vang dội khắp toàn cõi 10 ngàn thế giới chúng sinh.
Những điều phi
thường chưa từng có trên thế gian này là:
- Tất cả các loài hoa đều đua nhau nở để cúng dường
đến Đức Phật.
- Tất cả các loại cây ăn trái đều cho quả ngon
ngọt.
- Tất cả những người mù từ lúc đầu thai, khi sinh
ra không thấy được gì, thì nay có đôi mắt sáng, có thể nhìn thấy mọi vật
trên đời.
- Tất cả những người điếc từ lúc đầu thai, khi sinh
ra không nghe được âm thanh gì, thì nay hai tai có thể nghe rõ mọi thứ
âm thanh.
- Tất cả những người què, bại liệt từ lúc đầu thai,
khi sinh ra không đi lại được, thì nay có thể đi lại dễ dàng.
- Đặc biệt nhất, ở địa ngục Lokantarika rộng lớn
tối tăm, nơi giáp ranh với 3 thế giới, dành cho những chúng sinh có
tà kiến cố định (niyatamicchādiṭṭhi) hoàn toàn không tin
nghiệp - quả. Trong địa ngục rất tối tăm ấy, dầu ánh sáng của 7 mặt trời
mọc lên cùng một lúc, cũng không thể chiếu thấu đến tận nơi; nhưng ánh
sáng hào quang của Đức Phật tỏa khắp 10 ngàn thế giới, chiếu sáng đến
tận địa ngục Lokantarika. Cho nên, những chúng sinh ở trong địa ngục có
thể nhìn thấy lẫn nhau.
Toàn thể mười ngàn thế giới, chư thiên, phạm thiên
đem những phẩm vật cao quý và những đóa hoa xinh đẹp cúng dường đến Đức
Phật và tán dương ca tụng Đức Phật bằng hàng ngàn bài kệ.
Khi ấy, Đức Thế Tôn tự thuyết ở trong tâm bằng 2
bài kệ rằng:
153- “Anekajātisaṃsāraṃ,
Sandhāvissaṃ anibbisaṃ.
Gahakāraṃ gavesanto,
Dukkhājāti punappunaṃ.
154- Gahakāraka! diṭṭho’si,
Puna gehaṃ na kāhasi.
Sabbā te phāsukā bhaggā,
Gahakūtaṃ visaṅkhataṃ.
Visaṅkhāraṃ gataṃ cittaṃ,
Taṇhānaṃ khayamajjhagā”.
[7]
153- Này người thợ “tham ái” xây nhà
“thân”,
Như Lai cố tìm ngươi mà chưa gặp,
Nên tử sinh luân hồi vô số kiếp,
Tái sinh mãi trong tam giới là khổ.
154- Này “tham ái”, người thợ xây nhà
“thân”!
Bây giờ Như Lai đã gặp ngươi rồi!
Tất cả sườn nhà, “phiền não”
[8]
của ngươi,
Như Lai đã hủy hoại sạch cả rồi,
Đỉnh nhà “vô minh”, cũng bị tiêu diệt,
Ngươi không còn xây nhà Như Lai nữa,
Tâm Như Lai đã chứng ngộ Niết Bàn,
Diệt đoạn tuyệt tất cả mọi “tham ái”
[9]
,
Như Lai đã chứng đắc A-ra-hán.
Hai bài kệ cảm ứng tự thuyết ở trong tâm, đó là
Phật ngôn đầu tiên của Đức Phật (Paṭhamabuddhavacana).
Đức Phật Chánh Đẳng Giác là kết quả của sự chứng
ngộ chân lý Tứ Thánh Đế theo Tam Tuệ Luân, như trong bài kinh Chuyển
Pháp Luân Đức Thế Tôn đã khẳng định, truyền dạy rằng:
- “Này chư Tỳ khưu, khi nào trí tuệ thiền tuệ đã
thấy rõ, biết rõ đúng thực tánh của Tứ Thánh Đế theo Tam Tuệ Luân, thành
12 loại trí tuệ trong sáng thanh tịnh, đã phát sinh đến với Như Lai.
Này chư Tỳ khưu, khi ấy, Như Lai khẳng định,
truyền dạy rằng: Như Lai đã chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác
vô thượng trong toàn thế giới chúng sinh: Nhân loại, Vua chúa,
Samôn, Bàlamôn, Chư thiên, Ma Vương và Phạm thiên cả thảy”.
Đức Thế Tôn xuất hiện trên thế gian để đem lại sự
lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài cho tất cả chúng sinh. Như Ngài
đã dạy:
“Này chư Tỳ khưu, Bậc cao thượng độc nhất xuất
hiện trên thế gian, để đem lại sự tiến hóa cho nhiều chúng sinh, để đem
lại sự an lạc cho nhiều chúng sinh, để tế độ thế gian, để có sự lợi ích,
sự tiến hóa, sự an lạc cho chư thiên, chư phạm thiên và nhân loại.
Bậc cao thượng độc nhất ấy là ai?
Bậc cao thượng độc nhất ấy chính là Như Lai, Đức
Arahán, Đức Chánh Đẳng Giác.
Này chư Tỳ khưu, Như Lai là Bậc cao thượng độc
nhất xuất hiện trên thế gian, để đem lại sự tiến hóa cho nhiều chúng
sinh, để đem lại sự an lạc cho nhiều chúng sinh, để tế độ thế gian, để
có sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc cho chư thiên, chư phạm thiên và
nhân loại”
[10].
[1]
Công chúa Yasodhara là hậu thân của nữ Bàlamôn Sumittā từ thời Đức
Phật Dīpaṅkara, cô dâng cho vị Đạo sĩ Sumedha 5 đóa hoa sen và phát
nguyện cho đến kiếp chót.
[2]
Tìm hiểu rộng trong Nền Tảng Phật Giáo, quyển I: “Tam Bảo”,
cùng một soạn giả (trang 111-115).
[3]
Đối với Đức Phật Độc Giác, bậc Thánh Thanh Văn Giác thì Túc mạng minh
có giới hạn.
[4]
Tiền khiên tật: Những tật xấu còn dư sót lại từ những kiếp trước.
[5]
Bộ Paṭisambhidāmagga phần Ñāṇakathā.
[6]
Dưới cội cây nào mà Đức Bồ Tát chứng đắc thành Bậc Chánh Đẳng Giác,
cây ấy đều được gọi l Bodhirukkha. Mỗi Đức Phật có mỗi cây Bồ Đề khác
nhau.
[7]
Dhammapadagāthā số 153, 154.
[8]
Phiền não có tất cả 1.500 loại.
[9]
Tham ái có tất cả 108 loại.
[10]
Aṅguttaranikāya, phần Ekanipāta, Ekapuggalavagga.
-ooOoo-
Mục lục |
01 | 02 |
03 | Đầu trang