Hương Vị Pháp Bảo
Thiền sư U Silananda
(1)
Hương Vị Pháp Bảo
Vào mỗi buổi sáng trước khi bắt
đầu cho một ngày thiền tập, các thiền sinh thường xin thọ trì tam
quy và bát quan trai giới. Lời đầu tiên quý vị đọc lên 3 lần là: "Namo
Tassa Bhavagato Arahato Samma Sambuddhasa". Câu nầy có nghĩa như
sau: "Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ đức Thế
Tôn. Ngài là bậc A La Hán cao thượng, đã chứng quả Chánh Biến Tri, do
Ngài tự ngộ, không thầy chỉ dạy."
Hầu như quý vị đọc tụng lời xưng tán trên
mỗi ngày trong suốt khóa thiền. Sư đã kể cho quý vị nghe rất
nhiều lần rằng những câu kệ tán Phật nầy là một hình thức đã có
từ lâu đời kể từ thời đức Bổn Sư còn tại thế. Các Phật tử khi
đến đảnh lễ Ngài hoặc tôn tượng Ngài đều đọc tụng câu trên
để tỏ lòng tôn kính một bậc Giác Ngộ. Rải rác trong rất nhiều bài
kinh khác nhau đều có nhiều hình thức tôn xưng Ðức Phật giống như
trên.
Sư không thể gom hết mà cũng không thể
biết có bao nhiêu lời tán dương Ðức Thế Tôn như vậy. Tuy nhiên hôm
nay Sư muốn kể cho quý vị nghe về trường hợp một người đã thốt
nhiên đọc lên câu nầy để tán thán oai đức của Ngài cũng như đã
tự mình phát nguyện trở thành đệ tử Ðức Phật.
Một thuở nọ, Ðức Phật ngụ tại Ðộng Sừng trong
rừng Ðại Lâm gần thành Vesali. Lúc bấy giờ có một người Bà-la-môn tên
Karanapali đang là giám thị trông coi thợ thuyền xây cất dinh thự cho những
người cai quản thành phố này. Ðang lúc làm việc, vị nầy thấy có một
người Bà La Môn khác tên là Pingiyani đi từ xa lại. Thấy vẻ mặt hân hoan tự
tại của người nầy, Karanapali mới hỏi: "Kính chào hiền giả. Hiền
giả từ đâu đến đây vào lúc giữa trưa?."
- Tôi vừa từ chỗ của ẩn sĩ Cồ Ðàm đến đây.
Karanapali đã từng nghe tiếng Ðức Phật Cồ Ðàm là
bậc hiền trí vĩ đại với đầy đủ phẩm hạnh và trí tuệ phi thường.
Tuy nhiên muốn biết xem Pingiyani nghĩ gì về Ngài nên mới hỏi:
- Nầy hiền giả Pingiyani! Ông có nghĩ rằng ẩn sĩ
Cồ Ðàm là bậc hiền trí vĩ đại đã thành đạt sự toàn giác chăng?
Pingiyani trả lời:
- Tôi là ai mà có thể thấu hiểu được sự vĩ
đại và trí tuệ toàn giác của ẩn sĩ Cồ Ðàm chứ! Họa chăng có
người nào ngang hàng với Ngài mới có thể thấu hiểu được chuyện
ấy mà thôi.
Karanapali lập lại câu hỏi của mình và một lần nữa
Pingiyani lại trả lời như trên.
Nghe như vậy. Karanapali nói:
- Qua lời của hiền giả thì ẩn sĩ Cồ Ðàm thật
đáng tán dương và tôn kính!
Pingiyani bèn trả lời:
- Tôi là cái gì mà có thể tán dương, ca tụng ẩn
sĩ Cồ Ðàm được! Tôi thật bé nhỏ tầm thường khi đứng trước Ðấng
Thế Tôn cao cả!
Nhưng thật ra ta cũng chẳng cần ca ngợi hay vinh danh
Ðức Phật vì Ngài đã thành tựu và thể hiện vô số phẩm hạnh cao
thượng nên tự thân Ngài đã có sự sáng chói uy nghiêm khiến ai gặp cũng
phát tâm chiêm ngưỡng bái lạy Ngài.
Nghe qua các câu nói thành kính của Pingiyani, Karanapali
muốn tìm hiểu xem do đâu vị nầy đã thốt lên những lời tán thán tột
bực như vậy:
- Thưa hiền giả Pingiyani, ông đã nhận được gì
nơi tôn giả Cồ Ðàm mà sau khi gặp Tôn Giả đã khiến tâm ông tràn ngập
niềm hoan hỉ và vẻ mặt ông đầy vẻ trong sáng an lạc như vậy?
Pingiyani trả lời câu hỏi trên bằng năm tỉ dụ như sau:
1) Khi một người đã nếm hương vị tuyệt
diệu thuần khiết nhất trong các hương vị thì người đó không còn
thỏa thích khi nếm một hương vị nào khác dù ngọt ngào đến đâu.
Cũng dường thế ấy, khi một người đã nghe được những lời Pháp chân
thực và vi diệu của ẩn sĩ Cồ Ðàm, dù những lời giảng nầy nằm trong bài
kinh dài, những bài kinh có pha lẫn các câu kệ, những bài bình giải hay
thông điệp đầy phúc lành thì người đó sẽ không còn thích nghe những
lời giảng nào của các vị thầy khác nữa.
2) Cũng giống như một người bụng đang đói mà
có được một cái bánh làm bằng mật ong hoặc tráng bên ngoài một lớp mật
ong, người ấy ăn một cách ngon lành, thỏa thích với hương vị đậm đà,
thơm tho của cái bánh. Cũng dường thế ấy, người nào nghe được Pháp
bảo từ ẩn sĩ Cồ Ðàm dù là ở giai đoạn đầu, giai đoạn giữa hay giai đoạn
cuối của một bài kinh dài, những bài kinh có pha lẫn các câu kệ, những
bài bình giải hay thông điệp đầy phúc lành thì người đó cũng thỏa
thích trong từng giai đoạn một và phát sanh tâm hoan hỉ và niềm tin nơi
Ðức Phật.
3) Ví như có người đến gần bên một khúc
gỗ trầm hương màu vàng hay màu hồng, bất cứ nơi nào mà người ấy ngửi
được mùi trầm tỏa ra thơm ngát, từ trên cao, từ khoảng giữa hay từ dưới
gốc, vị đó cũng tận hưởng được mùi trầm dịu ngát. Cũng dường thế
ấy, bất cứ một điều giảng giải nào mà hành giả nghe được từ kim khẩu
Ðức Phật, dù ở đoạn đầu, đoạn giữa hay đoạn cuối, hiền giả cũng sẽ
vô cùng thỏa thích và an lạc ngay ở giai đoạn ấy.
4) Ví như một vị lương y giỏi có khả năng chữa
lành cho bệnh nhân đang chịu nhiều đau đớn vì cơn bệnh hiểm
nghèo. Cũng như vậy, nếu được nghe những lời dạy của Ðức Phật Cồ
Ðàm, dù đó là bài kinh dài, những bài kinh có pha lẫn các câu kệ,
những bài bình giải hay thông điệp đầy phúc lành thì tất cả những sầu
muộn, bi ưu, tuyệt vọng sẽ đều tan biến.
Sư mong quý vị đây còn nhớ sự tích của bà
Pancatara, một người đàn bà mới sinh nở yếu ớt phải chịu mất chồng, hai
con, cha mẹ và người anh chỉ trong vòng một ngày. Bà trở nên điên loạn và
được đưa đến gặp Ðức Phật. Sau khi được nghe Ðức Phật giảng dạy
về lý vô thường và sự đau khổ của kiếp nhân sinh, bà Pancatara
đắc được quả Nhập Lưu. Sau đó bà xin Ðức Phật cho bà được xuất gia,
nhập Ni đoàn, tiếp tục tu hành và cuối cùng đạt quả giải thoát.
Có một câu chuyện khác về Tể tướng Saneti.
Ông ta được vua ban cho tận hưởng lạc thú bảy ngày bảy đêm. Ðến ngày
thứ bảy, một vũ nữ mà ông yêu mến nhất đột ngột ngã lăn ra chết.
Ông vô cùng đau khổ và tuyệt vọng bèn đến gặp Ðức Phật và
được Ngài ban cho một thời pháp. Sau khi nghe xong, ông đạt quả giải thoát.
Một câu chuyện khác kể một vị trời sắp hết
tuổi thọ, khi biết mình sắp chết và sẽ bị tái sanh vào địa ngục
vị trời nầy rất đau khổ và tìm gặp Ðức Phật. Sau khi được nghe pháp, vị
trời nầy đạt quả vị Nhập Lưu. Cho nên, Ðức Phật và Phật Pháp được ví
như lương y và lương dược có khả năng trị được bệnh sầu muộn, ưu
phiền, tuyệt vọng của chúng sinh.
5) Phật Pháp được ví như một hồ nước trong
mát có cây cảnh xanh tốt chung quanh. Có người khách lữ hành đường xa bị
nắng cháy thiêu đốt, kiệt sức, bẩn thỉu, khô khát. Người nầy bước
xuống hồ uống nước tắm gội sạch sẽ, cảm thấy sảng khoái, mát mẻ và tươi
tỉnh trở lại. Cũng dường thế ấy, người nào nghe được Pháp bảo từ ẩn
sĩ Cồ Ðàm dù là ở giai đoạn đầu, giai đoạn giữa hay giai đoạn cuối của
một bài kinh dài, những bài kinh có pha lẫn các câu kệ, những bài bình
giải hay thông điệp đầy phúc lành thì người đó sẽ vơi đi những
mệt nhọc ưu phiền đang thiêu đốt tâm can.
Cho nên những khi quý vị cảm thấy lo âu, khắc
khoải, sầu muộn, hãy lắng lòng nghe những lời giáo huấn cao thượng của Ðức
Thế Tôn. Quý vị có thể tìm đọc một quyển sách về
Phật pháp để giải tỏa đi những căng thẳng, khủng hoảng về tâm thần.
Như quý vị thấy ở đây, Pingiyani chỉ mới được
nghe và suy tư về Phật pháp chứ chưa bước chân vào việc thực hành
Giáo Pháp mà còn cảm thấy an lạc và hạnh phúc đến như vậy. Nếu ông
biết thực hành những lời dạy của Ðức Phật thì còn được hưởng bao
nhiêu lợi lạc hơn nữa do Giáo Pháp mang lại.
Giáo Pháp được giảng giải một cách hoàn hảo có
nghĩa là Giáo Pháp tốt đẹp ở giai đoạn đầu, giai đoạn giữa và giai đoạn
cuối.
- Tốt đẹp ở giai đoạn đầu: tốt đẹp trong tâm
của một người khi biết lắng nghe và suy gẫm Giáo Pháp.
- Tốt đẹp ở giai đoạn giữa: tốt đẹp khi vị
nầy đang thực hành Giáo Pháp.
- Tốt đẹp ở giai đoạn cuối: tốt đẹp khi vị
nầy đã thực hành trọn vẹn Giáo Pháp, đã viên mãn pháp hành và gặt
hái những lợi lạc do Giáo Pháp mang lại.
Như vậy Giáo Pháp cống hiến sự tốt đẹp cho những
ai biết lắng nghe Giáo Pháp, chịu thực hành Giáo Pháp và cuối cùng là
đạt kết quả do việc thực hành đem lại.
Nhiều người có thói quen là mỗi khi bị ưu
phiền, họ tìm đọc sách Phật và hầu hết các Phật tử đều
thích đọc kinh Pháp Cú. Họ thường mang theo quyển kinh nầy bên
mình để đọc khi có thời giờ rảnh rỗi bởi vì những lời Phật dạy
trong kinh nầy đều rất dễ hiểu, thực tế mà cô đọng, sâu sắc.
Mỗi lần đọc là tâm hồn tìm được sự sung sướng, bình an và tĩnh
lặng. Những gì Ðức Phật dạy đều nhằm làm cho tâm trong sạch và tỉnh
lặng, đem lại nguồn hạnh phúc cho ai chịu lắng nghe và thực hành những gì
đã được nghe.
Khi nghe Pingiyani nói như vậy, Karanapali nhảy tưng lên
khỏi mặt đất, phất chiếc áo của mình lên khỏi vai và quỳ xuống chấp hai
tay trước ngực hướng về nơi Ðức Phật đang cư ngụ, cúi đầu đảnh lễ
và thốt lên lời tụng "Namo Tassa Bhagavato Arahato Samma Sambuddhassa".
Pingiyani cũng quá đỗi vui mừng trước việc nầy. Ông đứng lại sắp
xếp y phục như một nhà sư, vai phải bày ra, quỳ gối xuống đất, chấp hai
tay trước ngực và cũng đọc lên câu:
"Namo Tassa Bhavagato Arahato Samma
Sambuddhassa"
Khi đảnh lễ Ðức Phật và đọc lên lời xưng tán
nầy là chúng ta bày tỏ lòng tôn kính cùng ca ngợi ba trong chín phẩm tính
nơi Ðức Phật đã được ghi đầy đủ trong các bài kinh. Chúng ta cần
hiểu rõ ý nghĩa của câu nầy:
- Namo: Lễ kính
- Tassa: Dâng đến Ðức Thế Tôn
- Bhavagato: Bậc phước báu cao tột
- Arahato: Người đã tận diệt mọi ô nhiễm
trong tâm, đáng được Trời và Người cúng dường.
- Samma: Tự mình, không thầy chỉ dạy.
- Sambuddhassa: Bậc Chánh Biến Tri đã thấu
hiểu được Tứ Diệu Ðế và hoàn toàn Giác ngộ, biết được
những gì cần thiết, muốn biết.
Sau khi đảnh lễ Ðức Phật, Karanapali nói với Pingiyani:
"Lành thay! Nầy hiền giả Pingiyani, như một người đã sửa lại ngay
ngắn một vật đã bị ngã đổ, như người đi lạc đường đã tìm được nẻo
ra, như một người có đèn cầm trong tay để soi sáng trong đêm tối cho
những ai có mắt muốn thấy rõ mọi sự vật. Phật Pháp đã được Ðức Phật
ban trải ra cùng khắp và được Pingiyani làm sáng tỏ. Tôi từ nay trở đi
nguyện nương nhờ nơi Ðức Phật, sống và làm theo những gì Ngài đã chỉ
dạy."
Những lời tương tự như trên thường được tìm thấy
trong các bài kinh mỗi khi có người nào bày tỏ lòng hoan hỉ và tôn kính
của mình đối với Ðức Phật sau khi nghe được pháp bảo từ Ðức Phật hoặc
từ một người nào khác.
Sau khi Pingiyani thốt lên lời ca tụng Ðức Phật và
Pháp, ông quyết đi ngay đến Ðức Phật để xin quy y với Ngài và
trở thành một Phật tử.
Hình thức quy y như vậy đã có từ thời Ðức Phật. Câu
đầu tiên của người xin quy y là câu tụng "Namo Tassa Bhavagato Arahato
Samma Sambuddhassa" để xin được làm đệ tử Phật đến
trọn đời.
Quy y Tam Bảo có nghĩa là hiểu biết rõ ràng
Phật, Pháp, Tăng là nơi mà ta trở về để nương tựa, nói cách khác
ta xem Tam Bảo là bậc thầy ưu tú nhất, là người hướng đạo giỏi nhất dìu
dắt ta trên con đường phát triển tâm linh.
Quy y Tam Bảo không có nghĩa ký thác mình cho Phật,
Pháp, Tăng để được cứu độ, để được Giác ngộ, giải thoát mà là
xem Phật, Pháp, Tăng là bậc thầy chỉ dạy ta để đi đến Giác ngộ,
giải thoát.
Nhưng quy y Tam Bảo chỉ là hành động trong giai đoạn
đầu để trở thành đệ tử của Ðức Phật. Tiếp theo đó, người
Phật tử phải hành trì theo con đường Giới-Ðịnh-Tuệ để đạt mục
đích cuối cùng là Giác ngộ, giải thoát, chấm dứt khổ đau.
Quý vị đã từng nghe, từng học rất nhiều
lời dạy của Ðức Phật, Sư hy vọng quý vị đã tìm được niềm an
lạc hoan hỉ trong nội tâm. Ngoài ra nhờ biết hành thiền Minh Sát
quý vị sẽ đạt được hỉ lạc và thanh tịnh từ Pháp bảo do công phu
thiền tập đem lại. Cuối cùng khi quý vị đạt Giác ngộ quý vị sẽ
được hưởng trọn vẹn hạnh phúc cao thượng nhất của sự giải thoát. Ðó
là điều cao diệu nhất của kiếp nhân sinh.
Ðức Phật có khuyên là "Các con phải tự mình
nỗ lực. Như Lai chỉ là vị thầy chỉ dạy mà thôi. Những ai trên bước
đường Giác ngộ, tu tập theo Bát Chánh Ðạo thì người ấy từng bước xa lìa
tội lỗi, thoát ra khỏi mọi phiền não dần dần đoạn trừ hết
các ô nhiễm trong tâm".
Như vậy muốn tâm thật sự được trong sạch và tĩnh
lặng thì việc nghe, học Giáo Pháp không thôi chưa đủ, ta phải
quyết tâm hành trì những gì đã thấu hiểu từ những lời dạy cao
quý của Ðức Phật. Ta không nên tự thỏa mãn với chính mình vì có
kiến thức cao, rộng về Phật Pháp mà phải quyết đặt mục đích tối
thượng của kiếp sống mình là sự Giác ngộ và giải thoát bằng con đường
Giới Ðịnh Tuệ mà pháp môn thiền quán là trọng yếu.
Cầu mong cho quý vị tiếp tục bước theo dấu chân
của Ðức Bổn Sư, luôn luôn vững bước trên con đường Bát Chánh Ðạo nầy.
Hãy cố gắng thực tập thiền quán không ngừng nghỉ để gạn sạch
hết mọi bợn nhơ trong tâm và sớm thành đạo quả, chấm dứt tất cả
khổ đau ngay trong kiếp sống nầy.
SADHU! SADHU! SADHU!
NLTV 20-4-1995
[Mục lục][Chương
kế] |