[03]
14. Sự nếm
Trong phần này ta sẽ nói đến lưỡi, vị và thiệt thức (sự nhận biết của
lưỡi).
Khi có một vị nào đó tiếp xúc với lưỡi thì thiệt thức hay sự nhận biết
của lưỡi phát sinh. Chẳng hạn, khi thực phẩm có vị mặn, ngọt tiếp xúc với
lưỡi thì ta nhận biết được vị mặn, ngọt đó.
Trong một sự nếm, có ba yếu tố: vị, lưỡi và sự nhận biết vị (vị trần,
thiệt căn và thiệt thức).
Vị, mặn ngọt chua cay... thì vô tri giác. Vị không nhận biết gì cả, vị
là vật chất hay sắc, vị là điều kiện để có sự nếm.
Lưỡi hay thiệt căn cũng vô tri vô giác, lưỡi không nhận biết gì cả.
Lưỡi chỉ là điều kiện của sự nếm.
Thiệt thức hay sự nhận thức được vị là tâm. Thiệt thức nhận biết được
vị. Vậy thì, vào lúc nhận biết được vị, chỉ có vật chất và tâm hay thân và
tâm. Vị và lưỡi là vật chất, sự nhận biết vị là tâm.
Nếu có vị mà không có lưỡi thì cũng không nhận biết được vị. Như vậy,
lưỡi là nhân.
Nếu có lưỡi nhưng không có vị thì sự nhận biết vị cũng chẳng xảy ra.
Vậy thì vị là nhân và sự nhận biết vị hay thiệt thức là quả.
Thiệt thức không nằm sẵn trong vị, cũng không nằm sẵn trong lưỡi, chỉ
khi nào vị tiếp xúc với lưỡi thì thiệt thức mới phát sanh và sau đó biến
mất. Khi thiệt thức biến mất, ta không thể nói thiệt thức đi đâu và cũng
không thể biết từ đâu nó đến.
Nếu có đủ điều kiện thì thiệt thức phát sinh, đó là sự thật tuyệt đối.
Nếu chúng ta không biết sự thật tuyệt đối hay chân đế này thì nhiều phiền
não sẽ đến.
Sự nhận biết vị là chức năng của thiệt thức, chẳng phải là chức năng
của chúng ta; nhưng vì chúng ta không biết đến chức năng của thiệt thức
nên chúng ta tưởng lầm sự nhận biết vị hay thiệt thức là "tôi". "Chính tôi
nhận biết vị"; đó là sự hiểu biết sai lầm hay tà kiến. Tà kiến vì ta hiểu
lầm thiệt thức là "tôi".
Hiện tượng thật sự tiếp xúc với lưỡi hay thiệt căn chỉ là vị, nhưng mỗi
khi thiệt thức phát sinh tâm ta lại vượt khỏi vị mà tiến đến ý niệm thịt,
cá, rau v.v... Đó là tà kiến vì ta đã lầm vị với thịt, cá, rau...
Lưỡi hay thiệt căn chỉ là điều kiện để nhận biết vị. Nhưng đôi lúc ta
nói lưỡi tôi nhận biết vị. Nói như vậy không đúng. Nếu nói rằng lưỡi nhận
biết được vị thì lúc ta ngủ ai bỏ gì vào miệng ta, ta sẽ nhận ra vị ngay.
Nhưng khi ta đang ngủ ta chẳng nhận biết được vị, vậy thì rõ ràng rằng
lưỡi chẳng nhận biết được vị. Nhận biết vị chỉ là chức năng của thiệt thức
mà thôi.
Vào lúc nhận biết vị, nếu ta không hành thiền thì tà kiến hay sự hiểu
biết sai lầm sẽ đến. Nếu vị vừa ý ta sẽ thích, thế là tham ái phát sinh.
Nếu vị không vừa ý ta không ưa, thế là sân hận phát sinh. Nếu ta đễ cho
tham và sân tiếp diễn ta sẽ tích lũy nhiều phiền não.
Nhưng nếu chúng ta hành thiền khi ăn, chúng ta có thể chế ngự hay loại
bỏ những phiền não này.
Về vấn đề ăn, một câu hỏi thường được nêu ra: "Nếu tôi ăn thịt, ăn cá,
tôi có thể trở thành một tín đồ Phật giáo không?"
Câu trả lời là: ta có thể ăn thịt hay cá theo tam tịnh nhục. Đó là: nếu
ta không thấy con thú bị giết để cho ta ăn; nếu ta không nghe tiếng kêu
của con thú bị giết để cho ta ăn; nếu ta không nghi con thú bị giết để cho
ta ăn. Những loại thịt nằm trong ba trường hợp này ta có thể ăn.
Nhưng khi hành thiền vắng lặng, hay thiền chỉ, bạn nên tránh dùng cá
thịt, bởi vì khi hành thiền chỉ, đặc biệt là thiền từ ái hay niệm tâm từ,
loại thiền đặt căn bản trên khái niệm và tưởng tượng, bạn phải tưởng tượng
tâm từ ái của mình tràn khắp chúng sanh: "mong cho tất cả chúng sanh đều
an vui, hạnh phúc".
Sự tưởng tượng này rất mạnh, nếu ăn cá hay thịt sẽ làm cho bạn cảm thấy
bất an khi tưởng tượng đang rải tâm từ đến tất cả chúng sanh. Khi hành
thiền từ ái nên tránh ăn cá thịt để dễ phát triển trí tưởng tượng chứ
không phải không ăn cá thịt để khỏi phạm giới như một số người quan niệm.
Lúc hành thiền tại nghĩa địa, quán sát những tử thi bị sình thối, cũng
phải kiêng cử một số thức ăn như: cá, thịt, đường, bột mè, v.v... vì đây
là những thực phẩm mà các loại ma quỉ thích. Tránh ăn cá, thịt đường, bột
mè, v.v... là để khỏi bị ma quỉ quấy phá trong lúc hành thiền ở nghĩa
trang chứ không phải để khỏi phạm giới như một số người lầm tưởng.
Vậy khi hành thiền chỉ, nhất là thiền tâm từ hay thiền ở nghĩa địa, nên
tránh ăn thịt, cá, còn trong khi hành thiền minh sát thì ăn thịt cá hay ăn
rau cải không thành vấn đề. Điều quan trọng là loại bỏ phiền não, đừng bận
tâm về việc ăn uống.
Dầu ăn rau cải, nhưng nếu khi ăn ta thích thú với thức ăn thì tham lam
sẽ phát sinh. Nếu khi ăn ta chán ghét thức ăn thì sân hận phát sinh. Trong
khi ăn nếu ta không biết vật chất và tâm chỉ là vật chất và tâm thì đó là
si mê. Nếu ta lầm tưởng vị là chuối, bánh, v.v... đó cũng là tà kiến.
Vậy thì, khi ăn rau cải nhưng nếu không hành thiền minh sát thì phiền
não cũng phát sinh. Giả sử khi ăn ta không chánh niệm ghi nhận, ta không
hành thiền minh sát thì ta có thể thích thú vào món ăn thế là tham ái phát
sinh. Nếu ta không thích thú vào món ăn thì sân hận phát sinh. Nếu ta
không hiểu vật chất chỉ là vật chất, vật thực chỉ là vật chất thì si mê
phát sinh. Vậy thì, khi ăn rau cải nhưng nếu không hành thiền minh sát thì
phiền não cũng phát sinh. Giả sử khi ăn ta không chánh niệm ghi nhận, ta
không hành thiền minh sát thì ta có thể thích thú vào món ăn thế là tham
ái phát sinh. Nếu ta không thích thú vào món ăn thì sân hận phát sinh. Nếu
ta không hiểu vật chất chỉ là vật chất, vật thực chỉ là vật chất thì si mê
phát sinh. Nếu ta lầm tưởng vị là rau, cải v.v... thì đó là tà kiến.
Vậy thì, khi ăn thịt cá nhưng nếu không hành thiền minh sát thì phiền
não cũng phát sinh. Giả sử khi ăn ta không chánh niệm ghi nhận, ta không
hành thiền minh sát thì ta có thể thích thú vào món ăn thế là tham ái phát
sinh. Nếu ta không thích thú vào món ăn thì sân hận phát sinh. Nếu ta
không hiểu vật chất chỉ là vật chất, vật thực chỉ là vật chất thì si mê
phát sinh. Nếu ta lầm tưởng vị là thịt cá v.v... thì đó là tà kiến.
Hiện tượng thực sự tiếp xúc với lưỡi của chúng ta chỉ là vị, không phải
thịt cá hoặc rau trái nhưng ta lầm tưởng vị là thịt cá, rau trái, v.v...
thì đó là tà kiến. Vậy bất kỳ khi ăn thịt cá hay rau trái nếu không hành
thiền thì phiền não đều có thể phát sinh.
Thế nên, khi thấy người ăn rau trái, đừng mù quáng nghĩ như vậy là cao
thượng. Dầu ăn rau trái nhưng nếu không hành thiền minh sát thì phiền não
vẫn phát sinh.
Khi thấy người ăn cá thịt cũng đừng đánh giá thấp họ, dầu ăn thịt cá
nhưng nếu ăn một cách chánh niệm thì phiền não cũng không phát sinh.
Do đó, dầu ăn thịt cá hay rau cải cũng không thành vấn đề. Điều quan
trọng trong khi hành thiền là ghi nhận chánh niệm mỗi khi ta ăn. Nếu ghi
nhận chánh niệm trong khi ăn, chúng ta có thể chế ngự hay loại trừ phiền
não.
Mỗi khi thấy thức ăn ta phải ghi nhận thấy, thấy. Khi đưa tay ra lấy
thức ăn ta phải ghi nhận là đưa, đưa và quán sát chuyển động bên trong của
tay. Quán sát ở đây là quán sát chuyển động chứ không phải quán sát bàn
tay. Khi quán sát chuyển động ta niệm đưa, đưa. Nếu chúng ta chỉ biết hay
ý thức chuyển động mà không nhớ gì đến bàn tay thì ta đã hành thiền đúng
và có chánh kiến. Vào lúc ghi nhận chánh niệm đó ta đã chế ngự được tham,
sân, si và tà kiến.
Nếu không ghi nhận chánh niệm chuyển động trong khi đưa tay ra ta sẽ
lầm tưởng cánh tay ta đã chuyển động, ta lầm tưởng sự chuyển động là tay;
đó là sự tin tưởng sai lầm hay tà kiến. Đưa ra chỉ là chuyển động, là vật
chất, vô tri giác. Nếu không biết chuyển đông chỉ là chuyển động, đó là si
mê. Nếu thích sự đưa ra đó là tham. Nếu không thích sự đưa ra đó là sân.
Nhưng mỗi khi ghi nhận đưa, đưa nếu tâm chỉ chú ý sự chuyển động thì
vào lúc đó tham, sân, si không phát sinh, bởi vì mỗi lúc tâm chỉ ghi nhận
đựợc một đối tượng mà thôi. Lúc tâm đặt lên sự chuyển động thì, vào lúc
ấy, tâm chỉ biết sự chuyển động bởi thế phiền não không xen vào được.
(Chúng tôi xin giải thích thêm về điểm này. Theo Vi Diệu Pháp, một thời
gian khoảng một chớp mắt có thể có đến hàng tỉ tỉ tâm sinh diệt, và mỗi
tâm chỉ có thể nhận được một đối tượng. Một tâm không thể cùng lúc nhận
hai đối tượng. Vì sự sinh diệt của tâm quá nhanh ta không thể thấy được,
do đó nhiều lúc ta có thể hiểu lầm nên nói: tôi vừa thấy và vừa nghe.
Chẳng hạn khi đối mặt nói chuyện với người nào ta cảm thấy rằng: ta vừa
thấy vừa nghe người đó nói chuyện. Thật ra tâm nghe và tâm thấy không xảy
ra cùng lúc. Tâm nghe thay thế cho tâm thấy rồi tâm thấy thay thế cho tâm
nghe liên tục không ngừng khiến chúng ta hiểu lầm. Tâm nghe khởi lên rồi
diệt mất, tiếp đến tâm thấy khởi lên rồi diệt mất, tiếp theo tâm nghe khởi
lên rồi diệt mất, tiếp đến tâm thấy khởi lên rồi diệt mất. Nhiều khi, nếu
sự nghe, vào một lúc nào đó, mạnh hơn sự thấy thì tâm nghe sẽ đến nhiều
lần hơn tâm thấy và một lúc nào đó tâm thấy mạnh hơn tâm nghe thì tâm thấy
sẽ đến nhiều lần hơn tâm nghe, nhưng vì tâm sinh diệt quá nhanh nên chúng
ta tưởng lầm hai tâm cùng sanh ra một lúc. Bởi vì hai tâm không thể cùng
sinh ra một lúc nên khi chúng ta chánh niệm ghi nhận vào sự đưa tay ra thì
vào lúc ấy tâm chỉ chú ý đến sự chuyển động nên các phiền não khác không
thể xen vào được).
Khi tay ta đụng vào muỗng ta niệm đụng đụng nếu tâm ta chỉ nhận biết
cứng, mềm hay nóng, lạnh thì vào lúc ấy phiền não cũng không xen vào được
vì mỗi lúc tâm chỉ nhận biết một đối tượng mà thôi. Khi niệm đụng, đụng
nếu ta nhận biết sự cứng thì vào lúc ấy tâm ta chỉ biết có sự cứng, do đó
lúc ấy phiền não cũng không xen vào được.
Khi muỗng đưa lên ta theo dõi chuyển động, ta ghi nhận đưa lên, đưa
lên. Mặc dầu niệm chữ đưa lên ta chỉ chú tâm vào sự chuyển động. Thế nên,
khi niệm đưa lên, đưa lên nếu ta chỉ nhận biết chuyển động thì vào lúc ấy
phiền não không thể vào được. Chuyển động là đối tượng phải ghi nhận và
tâm ghi nhận trở thành tuệ giác. Khi tuệ giác hiện diện thì phiền não
không xen vào.
Khi đưa thức ăn vào miệng và theo dõi chuyển động này ta niệm đưa vào,
đưa vào. Mặc dù dùng chữ đưa vào ta chỉ biết đến chuyển động. Nếu vào lúc
ấy ta hoàn toàn chánh niệm vào chuyển động mà không suy nghĩ đến chuyện gì
khác thì chuyển động là đề mục ghi nhận và tâm ghi nhận chuyển động trở
thành tuệ giác. Khi trí tuệ này hiện diện thì phiền não không xen vào
được. Vậy khi đưa thức ăn vào miệng và theo dõi chuyển động này ta phải
ghi nhận hay niệm đưa vào, đưa vào.
Khi mở miệng ta phải theo dõi chuyển động của miệng, ta ghi nhận hay
niệm mở, mở. Dù dùng chữ mở, mở nhưng ta theo dõi là chuyển động. Nếu ta
chỉ theo dõi chuyển động và biết chuyển động chỉ là chuyển động thì ta đã
hành thiền đúng, là chánh kiến. Chánh kiến này là trí tuệ. Khi chánh kiến
hiện diện thì phiền não không xen vào được.
Khi lấy muỗng ra ta theo dõi toàn thể chuyển động và ghi nhận hay niệm
lấy ra, lấy ra. Khi niệm lấy ra, nếu ta chỉ nhận biết chuyển động mà không
để tâm hay suy nghĩ đến chuyện gì khác đó là trí tuệ, trí tuệ này có thể
chế ngự hay loại trừ phiền não vào lúc ấy.
Khi nhai ta niệm nhai, nhai, sự nhai này có thể là sự chuyển động hay
sự đụng. Khi miệng nhai đó là chuyển động, khi thức ăn tiếp xúc với lưỡi
đó là đụng hay tiếp xúc. Do đó, khi niệm nhai, nhai có thể nhận thấy sự
chuyển động hay sự cứng mềm.
Dù là niệm nhai, nhai nhưng vào lúc đó nếu chuyển động thấy rõ hơn ta
ghi nhận chuyển động, nếu cứng mềm rõ hơn ta nhận biết cứng mềm. Trong khi
ta nhận biết chuyển động hay cứng mềm thì phiền não không xen vào được.
Tóm lại, mỗi khi miệng tiếp xúc với thức ăn ta niệm: vị, vị hay ngọt,
ngọt, đắng, đắng hay chua, chua... Trong khi niệm ngọt, đắng, chua, v.v...
nếu chúng ta chỉ biết đến vị mà không nhớ đến thịt, cá, chuối, bánh,
v.v... đó là chánh kiến. Khi chánh kiến hiện diện thì phiền não không xen
vào được. Mỗi khi ăn, nếu ta ghi nhận toàn thể tiến trình của sự ăn thì
phiền não không xen vào được.
Thế nên, trong khi hành thiền minh sát, thức ăn không thành vấn đề: ăn
thịt, ăn cá hay ăn rau cải gì cũng được, điều quan trọng là có ghi nhận
chánh niệm trong khi ăn hay không. Nếu ăn với chánh niệm, chúng ta có thể
chế ngự hay loại trừ phiền não trong khi ăn. Bởi thế, hãy cố gắng chánh
niệm trong lúc ăn.
*
15. Sự tiếp xúc hay đụng
Trong phần này chúng ta nói đến thân căn, thân xúc và thân thức.
Những vật có thể tiếp xúc với cơ thể chia làm ba loại: cứng mềm, nóng
lạnh, chuyển động, những vật này có thể ở trong hay ngoài thân thể của
chúng ta; đó là xúc trần.
Mỗi khi thân tiếp xúc với vật thể, có ba yếu tố hiện diện: Cơ thể, vật
xúc chạm, và sự nhận biết của thân (thân căn, thân xúc và thân thức)
Vật tiếp xúc với cơ thể chúng ta chia làm ba loại: cứng mềm, nóng lạnh,
chuyển động. Cứng mềm được gọi là Pathavi dhatu hay chất đất. Nóng
lạnh được gọi là Tejo dhatu hay chất lửa. Chuyển động được gọi là
Vayo dhatu hay chất gió. Chúng là những vật cụ thể. Chúng có thể ở
ngoài hay trong cơ thể chúng ta.
Cơ thể chúng ta có thể tiếp xúc được các loại trên còn gọi là thân căn,
thân căn ở khắp cơ thể chúng ta trừ tóc, lông, móng hay chỗ da dày. Khi
một vật nhọn châm vào một chỗ nào đó trên cơ thể ta, nếu ta cảm thấy đau
thì chỗ đó có thân căn, nếu không thấy đau thì chỗ đó không có thân căn.
Thân thức hay sự nhận biết của thân chia làm hai loại: một loại đi đôi
với cảm giác ưa thích hay lạc thọ, một loại đi đôi với cảm giác khó chịu
hay là khổ thọ. Khi một vật tiếp xúc với cơ thể ta thì sẽ có thân thức
tương ứng phát sinh.
Vật tiếp xúc "cứng mềm, nóng lạnh, chuyển động" thì vô tri giác. Vật
tiếp xúc không có nhận biết gì cả, nó là sắc hay vật chất. Thân căn cũng
vô tri giác không nhận biết được gì cả, nó cũng là sắc, là vật chất. Thân
thức hay sự nhận biết của thân là tâm. Như vậy, khi có một sự tiếp xúc hay
đụng thì chỉ có vật chất và tâm mà thôi.
Nếu không có vật xúc chạm thì sẽ không có sự nhận biết của thân. Nếu có
vật xúc chạm nhưng không có thân thì cũng không có sự nhận biết. Vậy vật
xúc chạm là nhân, thân căn cũng là nhân, thân thức hay sự nhận biết của
thân là quả.
Không thể nói thân thức có sẵn trong vật xúc chạm, cũng không thể nói
thân thức có sẵn trong thân chúng ta. Chỉ khi vật xúc chạm tiếp xúc với
thân căn, thì thân thức mới phát sinh. Khi không còn có nguyên nhân thích
nghi thì thân thức cũng không còn. Khi thân thức biến mất, ta không thể
nói thân thức đi đâu. chúng ta cũng không thể nói thân thức từ đâu đến?
Vào lúc có một sự tiếp xúc xảy ra, chỉ có vật tiếp xúc cùng thân căn là
nhân, và thân thức là quả, ngoài ra chẳng có gì nữa cả. Vậy chỉ có nhân và
quả mà thôi, đó là chân đế, là sự thật tuyệt đối.
Nếu không biết chân đế thì chúng ta có thể hiểu lầm khi có một sự xúc
chạm xảy ra. Chẳng hạn, nhận biết cứng mềm, nóng lạnh, chuyển động là chức
năng của thân thức. Vì không biết chức năng của thân thức nên ta tưởng lầm
đó là chức năng của tôi, của anh: "tôi biết cứng", "tôi biết mềm", "tôi
biết nóng", "tôi biết lạnh", v.v... Tưởng lầm thân thức là tôi, đó là tà
kiến.
Hiện tượng thật sự xúc chạm thân thể ta chỉ là "cứng mềm, nóng lạnh,
chuyển động" nhưng chúng ta lầm tưởng vật xúc chạm là đàn ông, đàn bà,
v.v... "đàn bà đụng tôi", "đàn ông đụng tôi", "cô gái đụng tôi", "cậu trai
đụng tôi"; sự lầm tưởng này là tà kiến.
Hiện tượng nhận sự xúc chạm chỉ là thân căn, nhưng chúng ta lầm tưởng
thân căn là tôi, là anh. Chẳng hạn, khi có ai đụng vào thân thể, tôi lầm
tưởng rằng đụng vào "thân thể tôi". Khi có người nào đụng vào tay, tôi lầm
tưởng rằng "tay tôi" bị đụng v.v... đó là tà kiến. Hiện tượng nhận chịu sự
xúc chạm chỉ là thân căn mà không có tôi, anh, đàn ông, đàn bà... không có
đầu tôi, tay tôi, móng tay tôi, móng chân tôi v.v... nhưng ta lầm tưởng
thân căn là tôi, anh, đàn ông, đàn bà... đầu tôi, tay tôi, móng tay tôi,
móng chân tôi v.v... Nếu lầm tưởng thân căn là tôi, đó là tà kiến.
Khi vật xúc chạm êm ái khiến ta ưa thích thì tham khởi lên, nếu vật xúc
chạm đáng ghét, ta không ưa thích thì sân nổi lên.
Vào lúc có sự xúc chạm nếu không biết vật chất và tâm đúng theo thực
tướng của chúng, thì đó là si mê. Vậy nếu chúng ta không hành thiền minh
sát thì nhiều phiền não như tham, sân, tà kiến và si mê sẽ phát sinh.
Đôi khi, mặc dầu ta niệm đụng đụng, cứng cứng, mềm mềm, nóng nóng, lạnh
lạnh, chuyển động, chuyển động v.v... nhưng nếu sự định tâm của chúng ta
không vững, chúng ta có thể khởi tâm yêu thích vật tiếp xúc, thế là tham
xen vào. Nhưng nếu khi tham xen vào ta niệm tham, tham, tham thì tham sẽ
biến thành đề mục hành thiền và tâm chánh niệm ghi nhận trở thành trí tuệ.
Như vậy, nhờ ghi nhận chánh niệm về tâm tham, ta có được trí tuệ nội quán.
Dầu niệm đụng đụng đụng nhưng nếu chánh niệm chưa mạnh thì sân có thể
xen vào. Tâm sân này chính là hiện tượng bất thiện. Nếu để chúng tiếp tục
phát triển ta sẽ tích lũy nhiều sân hận, nhưng nếu ta ghi nhận sân sân sân
thì sân sẽ biến thành đề mục hành thiền và ghi nhận chánh niệm sẽ trở
thành trí tuệ. Như vậy nhờ ghi nhận chánh niệm vào tâm sân ta có được trí
tuệ.
Vật xúc chạm với thân căn có rất nhiều loại bao gồm trong các tư thế
đi, đứng, ngồi, nằm và những tác động của cơ thể chúng ta.
Khi chúng ta đang ghi nhận phồng xẹp chẳng hạn; mỗi khi bụng phồng lên
không khí vào. Phồng lên là chuyển động, chuyển động này là phong đại hay
gió. Gió là một đối tượng cụ thể của thân căn, nhận biết chuyển động này
là thân thức.
Như vậy, vào lúc phồng chỉ có vật chất và tâm. Chuyển động hay vật xúc
chạm là vật chất, thân căn cũng là vật chất, nhận biết chuyển động là tâm.
Chúng ta chỉ lấy chuyển động làm đề mục để hành thiền bởi vì chuyển động
là yếu tố nỗi bật nhất vào lúc phồng. Ta không lấy thân căn hay thân thức
làm đề mục. Dù không lấy thân căn hay thân thức làm đề mục hành thiền,
nhưng khi niệm phồng và theo dõi chuyển động thì cả thân căn lẫn thân thức
bao gồm trong đó.
Trước khi ngồi thì ý định ngồi phát sinh, ý định ngồi là tâm, tâm này
là nhân gây ra gió nâng đỡ. Nhờ gió nâng đỡ này ta có thể ngồi. Vào lúc
ngồi gió nâng đỡ là vật tiếp xúc. Khả năng nhận vật xúc chạm này là thân
căn. Nhận biết gió nâng đỡ là tâm. Vậy chỉ có thân và tâm hay danh và sắc
vào lúc ngồi.
Trong ba yếu tố: gió nâng đỡ, thân căn và thân thức, chúng ta chỉ lấy
gió nâng đỡ làm đề mục và theo dõi toàn thể tác động ngồi xuống và niệm
ngồi ngồi ngồi v.v...
Trước khi đứng dậy thì ý định đứng dậy phát sinh. ý định đứng dậy là
tâm. Tâm này gây ra gió nâng đỡ. Do tiến trình hoạt động của gió nâng đỡ
này nên cơ thể ta từ từ đứng dậy. Rồi theo dõi tác động này ta niệm đứng
dậy, đứng dậy. Vào lúc đứng dậy này, tiến trình hoạt động của gió nâng đỡ
là vật tiếp xúc, là vật chất.
Khả năng nhận vật xúc chạm là thân căn, nhận biết gió nâng đỡ là tâm.
Vậy vào lúc đứng dậy chỉ có thân và tâm thôi.
Trong ba yếu tố hiện diện trong tác động đứng dậy là thân căn, thân
thức và vật xúc chạm hay chuyển động, ta chỉ lấy tiến trình chuyển động
làm đề mục hành thiền, bởi vì tiến trình chuyển động nỗi bật nhất trong
lúc này. Mặc dầu không lấy những hiện tượng khác làm đề mục nhưng chúng
cũng bao gồm trong đó khi chúng ta ghi nhận đứng dậy, đứng dậy.
Khi ta đang đứng dậy và chú tâm chánh niệm đứng dậy, đứng dậy, đứng
dậy, thì chỉ có thân và tâm.
Cơ thể đứng thẳng nhờ có gió nâng đỡ. Sự đứng dậy này chỉ là nhiệm vụ
của gió nâng đỡ. Sự đứng dậy hay gió nâng đỡ này là vật xúc chạm hay vật
chất. Hiện tượng nhận sự xúc chạm của gió nâng đỡ này là thân căn cũng là
vật chất. Hiểu rõ sự đứng dậy hay hiểu rõ gió nâng đỡ là thân thức hay
tâm. Vậy vào lúc đứng dậy chỉ có vật chất và tâm.
Nhưng giữa vật chất và tâm, ta chỉ lấy vật chất hay gió nâng đỡ làm đề
mục. Khi ta niệm đứng dậy, đứng dậy ta chú tâm vào gió nâng đỡ.
Như chúng ta đã biết, xúc chạm có rất nhiều thứ, nhiều loại. Mỗi một
chuyển động của cơ thể đều bao gồm chúng. Khi đi, ta ghi nhận bước trái,
bước phải hay trái, phải và theo dõi chuyển động. Tuy là niệm trái phải,
nhưng ta không lấy sự trái phải làm đề mục. Tâm chỉ nhận biết sự chuyển
động trong khi ta niệm trái và phải.
Nhớ kỹ là khi hành thiền ta chú tâm vào chuyển động chứ không chú tâm
vào trái phải hay hình dáng của chân.
Trong khi đi, trái bước, phải bước là chuyển động, là vật xúc chạm hay
xúc trần. Hiện tượng nhận sự chuyển động này là thân căn. Hiểu biết chuyển
động này là thân thức. Chuyển động là vật chất. Thân căn cũng là vật chất.
Hiểu biết chuyển động là tâm. Như vậy, trong tác động của sự đi chỉ có vật
chất và tâm. Trong ba loại đó, ta chỉ lấy chuyển động làm đề mục chính để
hành thiền.
Nếu ta không ghi nhận hay niệm phồng, xẹp, ngồi, đụng, đứng, đi v.v...
thì nhiều phiền não sẽ phát sinh. Do đó, bất kỳ tác động nào của thân phải
ghi nhận chánh niệm.
Trong khi niệm phồng, nếu ta không biết chuyển động chỉ là chuyển động,
đó là vô minh. Nếu ta hiểu biết chuyển động chỉ là chuyển động ta có chánh
kiến hay có sự hiểu biết đúng đắn.
Khi thở vào, bụng chúng ta phồng lên. Giữa sự phồng và bụng thì sự
phồng là chuyển động, là gió, là một trong bốn yếu tố của tứ đại, là chân
đế, là sự thật tuyệt đối. Còn bụng chỉ là khái niệm, chỉ là sự chế định
hay giả danh. Nếu ta lầm tưởng chuyển động là bụng đó là tà kiến. Vậy điều
quan trọng trong lúc hành thiền là theo dõi chuyển động mà thôi.
Lúc mới hành thiền, ta chưa có thể vượt qua khái niệm hay chế định hoặc
giả danh, nhưng về sau chánh niệm của ta chỉ đặt trọng tâm vào chuyển
động, không nhớ gì đến giả danh hay khái niệm nữa. Vào lúc đó thì ta có
thể loại bỏ được tà kiến, tham lam, sân hận và si mê v.v...
Mỗi khi ghi nhận sự phồng, hãy cố gắng quán sát chỉ một mình sự chuyển
động mà thôi. Khi ta thở ra, bụng xẹp xuống, ta ghi nhận hay niệm xẹp. Dầu
niệm xẹp nhưng ta theo dõi chuyển động. Nếu tâm ghi nhận chỉ rơi vào bụng
thì đó là tà kiến, vì bụng chỉ là giả danh. Nếu khi niệm xẹp, tâm ghi nhận
chỉ rơi vào chuyển động, không nhớ gì đến bụng thì đó là chánh kiến. Vậy
điều quan trọng trong lúc hành thiền ghi nhận sự xẹp là chỉ chú tâm đến
chuyển động mà thôi.
Mỗi khi bạn niệm đứng đứng, nếu bạn chỉ chú ý đến hình dạng của cơ thể
thì đó là hành thiền sai, là tà kiến, vì hình dạng của cơ thể chỉ là khái
niệm, là giả danh. Nếu chỉ chú tâm vào thế đứng thì đó cũng là giả danh vì
bạn đã chú ý vào tư thế. Tư thế là khái niệm, là giả danh.
Phải chú tâm vào gió nâng đỡ. Nếu tâm bạn ghi nhận rơi vào gió nâng đỡ
đó là hành thiền đúng, là chánh kiến. Vậy mỗi khi niệm đứng, đứng bạn phải
chú tâm vào gió nâng đỡ mà không để tâm hay chú ý vào tư thế hay hình dáng
của thân thể.
Gió nâng đỡ là sự thật tuyệt đối, là chân đế. Tư thế và hình dáng chỉ
là tục đế, khái niệm hay giả danh.
Mỗi khi đi, ta chú tâm niệm trái, phải, hoặc dỡ, đạp hay dỡ, bước, đạp;
dầu là niệm trái phải hay dỡ đạp hoặc dỡ bước đạp nhưng tâm ta phải theo
dõi chuyển động.
Khi niệm dỡ đạp v.v... mà chỉ nhận biết sự chuyển động không nhớ gì đến
chân, hay trái hoặc phải v.v... thì ta đã hành thiền đúng, có chánh kiến,
và vào lúc ấy ta có thể loại bỏ được tà kiến, tham lam, sân hận, si mê.
Bởi vì không thể nào có hai tâm khởi lên cùng một lúc, nên lúc tâm đang
chánh niệm vào sự chuyển động thì các phiền não khác không thể phát sinh.
Nhưng nếu trong khi niệm trái phải mà ta chỉ nhớ đến chân, nhớ đến chân
trái, nhớ đến chân phải thì đó là tà kiến vì ta đã lầm tưởng chuyển động
với chân. Vậy khi đi ghi nhận trái, phải, dỡ đạp hay dỡ bước đạp hãy cố
gắng chú tâm chánh niệm chuyển động mà thôi.
Chúng ta chỉ chú tâm vào chuyển động, nhưng chuyển động không phải chỉ
có một. Không có một vật chất nào hay một sắc nào có thể khởi sinh một
mình. Mỗi vậ chất phát sinh đều có bảy yếu tố khác đi kèm. Có tám yếu tố
vật chất luôn luôn đi kèm với nhau còn gọi là tám yếu tố bất khả phân ly,
đó là:
1. Cứng mềm hay Pathavi dhatu, chất đất
2. Dính hút hay Apo dhatu, chất nước
3. Nóng lạnh hay Tejo dhatu, chất lửa
4. Chuyển động, nâng đỡ hay Vayo dhatu
5. Màu sắc
6. Mùi
7. Vị
8. Dưỡng tố (Chất bổ dưỡng)
Tám yếu tố này không thể tách rời nhau, chúng cùng khởi sinh và cùng
hoại diệt.
Khi nói, ta có thể nói đây là đất, đây là gió, đây là lửa, đây là mùi,
đây là vị, đây là dưỡng tố. Nhưng khi thực hành ta không thể nói đây là
đất, đây là nước, đây là gió và đây là lửa, đây là mùi v.v... vì chúng
cùng sanh và cùng diệt.
Trong tám yếu tố vật chất này, khi hành thiền ta chỉ theo dõi yếu tố
nào mạnh nhất mà thôi. Nếu sự cứng chiếm ưu thế ta nhận biết toàn nhóm là
cứng. Nếu mềm chiếm ưu thế ta nhận biết toàn nhóm là mềm. Nếu chuyển động
chiếm ưu thế ta nhận biết toàn nhóm là chuyển động. Nếu nóng chiếm ưu thế
ta nhận biết toàn nhóm là nóng v.v...
Bởi thế, khi chúng ta đi, mặc dầu ta niệm trái phải và lấy sự chuyển
động làm đề mục, nhưng nếu một hiện tượng khác mạnh hơn như nóng chẳng hạn
chiếm ưu thế thì ta chú ý đến nóng bơi vì chuyển động không phải là một,
mà có bảy yếu tố kia đi kèm.
Đôi khi lúc đang đặt chân xuống ta cảm thấy nặng. Vào lúc đó yếu tố
nước chiếm ưu thế. Khi ta ghi nhận nặng thì các yếu tố kia cũng nằm trong
đó. Trong mỗi niệm, ta chỉ chú tâm đến một hiện tượng mà thôi đó là hiện
tượng nào mạnh nhất.
Mặc dầu niệm trái phải, dỡ đạp, dỡ bước đạp, nếu sự cứng chiếm ưu thế
ta phải chú tâm đến sự cứng, nếu mềm chiếm ưu thế ta phải chú ý đến sự
mềm, nếu nóng hay lạnh chiếm ưu thế ta phải chú ý đến nóng hay lạnh.
Đôi khi, trong lúc đang niệm phồng ta cảm thấy nóng vào lúc đó yếu tố
lửa mạnh nhất ta chú tâm đến nóng. Đôi khi, mặc dầu ta chú tâm vào chuyển
động phồng nhưng yếu tố nhẹ trội hơn cả thì ta chú tâm vào nhẹ, nhưng nhớ
rõ một điều là ta lấy sự chuyển động làm đề mục chính.
Khi hành thiền, ta dùng các từ: phồng, xẹp, ngồi, đi, đứng, v.v... Cùng
một từ nhưng các hiện tượng diễn ra khác nhau; chẳng hạn, khi đang niệm
phồng, có lúc ta cảm thấy phồng dài, có lúc chúng ta cảm thấy phồng ngắn,
lúc cảm thấy nóng, lúc cảm thấy lạnh, lúc cảm thấy cứng, lúc cảm thấy mềm
nhưng ta vẫn niệm phồng, xọp, phồng, xọp. Vậy điều quan trọng là chú tâm
vào diễn biến xảy ra, không chú tâm đến danh từ.
Nhiều thiền sinh, trong khi trình pháp cho tôi nói rằng khi theo dõi
phồng, xọp, đi, đứng, v.v... thay vì niệm phồng xọp đi đứng họ lại niệm vô
thường, khổ, vô ngã. Không nên làm thế, chỉ cần ghi nhận chánh niệm những
hiện tượng đang xảy ra mà không cần phải nhớ đến vô thường, khổ, hay vô
ngã; vì trong khi theo dõi diễn biến các hiện tượng ta sẽ nhận thấy vô
thường, khổ, và vô ngã trong ấy. Tôi sẽ giải thích thêm cho bạn về điều
này.
Bây giờ chúng ta đang niệm phồng. Sự phồng là chuyển động. Sự phồng này
là vật chất, là yếu tố gió. Yếu tố gió này gọi là "Sắc uẩn" hay yếu tố vật
chất trong Ngũ Uẩn. Như vậy khi quán sát yếu tố chuyển động là ta đã quán
sát ngũ uẩn. Ngũ uẩn có đặc tính sinh diệt. Cái gì chịu chi phối của sinh
diệt cái đó là khổ. Vậy quán sát chuyển động hay gió thì ta cũng quán sát
cả khổ. Thế nên khi theo dõi chuyển biến của các hiện tượng thân tâm ta sẽ
thấy các đặc tính khác như vô thường, khổ vô ngã, ngũ uẩn, tứ đại v.v...
Vậy chỉ cần chú tâm chánh niệm quán sát chuyển động phồng xẹp thì ta sẽ
thấy các pháp khác vì tất cả đều bao gồm trong ấy.
Khi nói, ta có thể dùng các từ: vô thường, khổ, vô ngã, tứ đại, ngũ
uẩn, v.v... nhưng khi hành thiền, xin đừng nhớ gì đến lý thuyết hay danh
từ gì cả. Chỉ cần chú tâm chánh niệm ghi nhận chuyển động phồng xẹp thì
mọi yếu tố đều tự động bao gồm trong ấy.
Cần phải nhớ là vào lúc có sự xúc chạm chỉ có vật chất và tâm hay thân
và tâm. Nếu lầm tưởng vật chất và tâm là tôi, anh, chị v.v... đó là tà
kiến. Nếu thích vật chất và tâm thì đó là tham lam. Nếu không thích vật
chất và tâm thì đó là sân hận.
Nếu chánh niệm ghi nhận các hiện tượng vào lúc tiếp xúc hay đụng chạm,
ta có thể loại bỏ được phiền não. Thế nên, khi xúc chạm vật gì mà cảm thấy
lạnh, nóng, cứng, mềm, v.v... đều phải chánh niệm ghi nhận. Đó là cách
hành thiền vào lúc có sự tiếp xúc hay đụng chạm.
*
16. Sự suy nghĩ
Trong phần này, chúng ta sẽ nói đến đối tượng của tâm, tâm căn và sự
nhận biết của tâm.
Đối tượng của tâm là đối tượng mà tâm nghĩ đến, ta không thể thấy được
đối tượng của tâm, không thể nghe được nó, không thể đụng chạm hay ngửi
được nó, đối tượng của tâm chỉ có thể nhận biết được bởi tâm mà thôi.
Theo Vi Diệu Pháp có sáu loại đối tượng của tâm, đó là:
- 5 loại vật chất căn bản.
- 16 loại vật chất vi tế
- 89 loại tâm vương hay thức
- 52 tâm sở
- Khái niệm (chế định hoặc tục đế) và
- Niết Bàn.
Trong khi hành thiền minh sát ta không thể lấy Niết Bàn làm đối tượng;
thế nên, ta để Niết Bàn sang một bên.
Trong khi hành thiền vắng lặng, hay thiền chỉ, ta có thể lấy tục đế hay
khái niệm làm đề mục. Nhưng khi hành thiền minh sát ta không thể lấy tục
đế làm đối tượng; vì vậy, ta để tục đế sang một bên.
Trong 89 tâm vương hay thức, ta không thể lấy 4 đạo tâm và 4 quả tâm
làm đối tượng. Như vậy ta cũng để 8 đạo và quả tâm sang một bên.
Để sang một bên niết bàn, tục đế, tám đạo tâm và quả tâm. Như vậy, ta
chỉ còn 5 loại vật chất căn bản, 16 loại vật chất vi tế, 81 tâm vương hay
thức và 52 tâm sở.
Nếu tóm lược lại, chỉ có vật chất và tâm. 5 loại vật chất căn bản, 16
loại vật chất vi tế cũng chỉ là vật chất. 81 tâm vương hay thức và 52 tâm
sở cũng chỉ là tâm. Như vậy, trong khi hành thiền chúng ta chỉ cần các đối
tượng vật chất và tâm.
Tâm môn ở đây có nghĩa là tâm tiềm ẩn cũng giống như thức hay tâm khởi
sanh trong lúc ngủ. Đôi khi chúng ta gọi tâm môn là tâm ngủ hay tâm thùy
miên. Theo thuật ngữ Vi Diệu pháp ta có thể gọi tâm ngủ này là tâm tồn
sinh hay luồng tồn sinh. Thực ra, tâm môn, tâm ngủ, sinh tâm, tử tâm đều
là một. Chúng cùng loại. Để dễ dàng, chúng ta gọi tâm môn này là tâm ngủ
hay tâm thùy miên.
Tâm suy nghĩ có phạm vi rất rộng. Trừ nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức,
thiệt thức và thân thức, tất cả những thức còn lại và tâm sở đều được gọi
là tâm suy nghĩ. Như vậy tâm suy nghĩ có một phạm vi rộng rãi.
Khi một đối tượng của tâm tiếp xúc với tâm môn thì sự suy nghĩ phát
sinh. Trong ba yếu tố: "đối tượng của tâm", "tâm môn" và "tâm suy nghĩ"
thì đối tượng của tâm có thể là vật chất hay tâm. Tâm môn chỉ là tâm đó là
tâm thùy miên. Tâm suy nghĩ cũng là tâm. Như vậy, lúc suy nghĩ chỉ có vật
chất và tâm.
Trong ba yếu tố: đối tượng tâm, tâm môn và tâm suy nghĩ, thì tâm suy
nghĩ chiếm ưu thế. Thế nên, khi hành thiền ta chỉ lấy tâm suy nghĩ làm đề
mục hành thiền và ghi nhận suy nghĩ hay phóng tâm v.v...
Tâm suy nghĩ và tâm môn này khởi sinh tùy thuộc nơi căn vật chất. Người
đông phương tin rằng tâm nằm ở tim, người tây phương tin rằng tâm nằm ở
óc. Có người Tây phương hỏi tôi: "Thế thì quan niệm nào đúng, Tây phương
hay Đông phương" tôi không trả lời trực tiếp mà bảo họ hãy tự suy xét
trước. Tôi trình bày cho họ các sự kiện sau đây:
Có 32 thành phần trong cơ thể con người. 20 loại thuộc đất, 12 loại
thuộc nước. Trong 20 loại thuộc đất có tim và óc. Tim và óc đều thuộc về
yếu tố đất, vậy ta hãy tự hỏi và tự xét xem thử tâm nằm ở đâu?
Nếu óc, thuộc về đất là chỗ ở của tâm suy nghĩ, thì hãy tự xét xem tim
cũng thuộc yếu tố đất có thể là chỗ ở của tâm suy nghĩ chăng.
Rồi tôi lại nói tiếp với họ. Theo tục đế thì ta có thể nói "đây là tim"
và "đây là óc", nhưng theo chân đế thì chẳng có tim hay óc gì cả. óc chỉ
là một tập hợp của tám yếu tố vật chất (Tám yếu tố vật chất bao gồm tứ
đại: đất, nước, gió, lửa và 4 yếu tố căn bản khác là: màu sắc, mùi, vị,
dưỡng tố).
óc chỉ là sự tập hợp của 8 yếu tố. Tim cũng là sự tập hợp của 8 yếu tố.
Tim cũng bao gồm đất, nước, gió, lửa, màu sắc, mùi, vị và dưỡng tố.
Nếu óc là một tập hợp của 8 yếu tố vật chất có thể là chỗ ở của tâm suy
nghĩ, hãy thử nghĩ xem tim cũng là tập hợp của 8 yếu tố vật chất có thể là
chỗ ở của tâm suy nghĩ chăng?
Bây giờ hãy đặt câu hỏi: Khi tính toán một chuyện gì thì ta thấy tâm ở
đâu? Câu trả lời là: khi tính toán một chuyện gì thì tâm ở óc. Vậy khi cảm
thấy vui hay buồn thì tâm ở đâu? Khi cảm thấy vui hay buồn thì tâm ở tim.
Nếu ta nói tâm ở óc khi ta tính toán suy nghĩ và tâm ở tim khi ta vui
hay buồn. Vậy tâm ở óc hay tim thì chẳng có gì quan trọng. Theo chân đế
thì không có óc mà cũng chẳng có tim.
Khi nói, thì ta có thể nói đây là óc đây là tim, nhưng trong khi hành
thiền minh sát thì chẳng cần tim hay óc gì cả. Điều quan trọng là nhận
biết hiện tượng nào có ý thức và hiện nào không có ý thức mà thôi.
Thực ra, Đức Phật cũng không nói đến chữ óc hay chữ tim để chỉ chỗ ở
của tâm. Đức Phật chỉ dùng chữ Vatthu Rūpa. Vatthu Rūpa có
nghĩa là căn vật chất.
Thế nên, mỗi khi một đối tượng của tâm nào tiếp xúc với tâm môn thì tâm
suy nghĩ phát sinh. Tâm suy nghĩ này và tâm môn khởi sinh tùy thuộc vào
căn vật chất.
Mỗi khi tâm thức phát sinh, nếu ta không quán sát và ghi nhận suy nghĩ,
suy nghĩ thì ta có thể lầm tưởng rằng thức suy nghĩ này là tôi, chính tôi
là kẻ suy nghĩ. Đó là tà kiến, bởi vì ta đã lầm tâm suy nghĩ là tôi.
Khi tâm suy nghĩ đã hiện khởi, nếu ta không biết tâm suy nghĩ là tâm
suy nghĩ, thì đó là si mê. Nếu ta thích sự suy nghĩ này thì tham lam phát
sinh. Nếu ta không thích sự suy nghĩ này thì sân hận phát sinh. Vậy, vào
lúc có sự suy nghĩ, nếu ta không hành thiền hay nếu ta không thể quán sát
được tâm suy nghĩ này thì phiền não sẽ xen vào.
Nhưng mỗi khi tâm suy nghĩ phát sinh, nếu ta chánh niệm ghi nhận suy
nghĩ, phóng tâm, hay nhớ, tưởng tượng, v.v... thì vào lúc quán sát chánh
niệm ấy, tâm suy nghĩ này trở thành đề mục để ghi nhận, và tâm ghi nhận
chánh niệm trở thành trí tuệ. Thế nên, dựa vào tâm suy nghĩ ta có thể đạt
được trí tuệ.
Khi tâm ghi nhận chỉ đặt trên đề mục suy nghĩ một cách chánh niệm thì
phiền não không xen vào được bởi vì tâm không thể ghi nhận hai đối tượng
cùng một lúc, mỗi sát na tâm chỉ ghi nhận một đối tượng mà thôi. Vậy bất
kỳ chuyện gì ta nghĩ đến, bất kỳ chuyện gì ta nhớ đến, bất kỳ chuyện gì ta
tưởng tượng đến, ta phải niệm suy nghĩ, suy nghĩ, nhớ nhớ, tưởng tượng,
tưởng tượng v.v... Đây là cách thực hành vào lúc suy nghĩ.
Đến đây chúng ta đã tìm hiểu sáu căn, sáu trần và sáu thức. Sáu căn
gồm: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm. Sáu trần là: hình sắc, âm thanh, mùi
vị và các pháp trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp). Sáu thức gồm: sự
biết của mắt, sự biết của tai, sự biết của mũi, sự biết của lưỡi, sự biết
của thân và sự biết của tâm (nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức,
thân thức).
Trong sáu căn thì nhãn căn là vật chất, nhĩ căn là vật chất, tỉ căn là
vật chất, thiệt căn là vật chất, thân căn là vật chất. Chỉ có ý căn là
tâm. Như vậy trong lục căn, có năm căn là vật chất và một căn là tâm.
Chúng ta cũng đã biết cách chánh niệm ghi nhận tất cả những gì xảy ra ở
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm. Mọi hiện tượng xảy ra ở sáu cửa này chỉ là
vật chất và tâm, mà không có tôi, ta, anh, chị gì cả.
Nếu không chánh niệm ghi nhận mỗi khi các hiện tượng vật chất và tâm
diễn ra thì tham, sân, si sẽ khởi lên. Nếu đối tượng vừa ý, ta khởi tâm
thích, là tham; đối tượng không vừa ý, ta khởi tâm không bằng lòng, là
sân; và không biết đối tượng chỉ là đối tượng, mà cho chúng là ta, là của
ta, tức là si mê, tà kiến. Nếu mỗi đối tượng vậ chất và tâm diễn ra, đều
được ghi nhận với chánh niệm, thì tham, sân, si không xảy ra và trí tuệ sẽ
hiện khởi.
Nhưng phần giảng giải trên đây chỉ là lý thuyết. Nghe giảng pháp, ta
chỉ có thể đạt được văn huệ (Sutamaya ñāna), nghĩa là trí tuệ có
được do nghe. Khi suy tư về giáo pháp đã nghe, ta chỉ có thể đạt được tư
huệ (Cintamaya ñāna) trí tuệ do sự suy tư lý luận. Chỉ nghe giảng,
đọc kinh sách, hay suy tư về giáo pháp, ta không thể có được tu huệ
(Bhavanama ñāna), tức là trí tuệ có được do sự nỗ lực phát triển tâm,
hay hành thiền. Tu huệ mới là trí tuệ giải thoát.
Khi giảng giáo pháp, các nhà sư chỉ có thể giúp ta phát triển trí tuệ
nghe và trí tuệ suy tư. Muốn có trí tuệ giải thoát, ta phải tự mình thực
hành bằng cách quán sát và ghi nhận mỗi hiện tượng xảy ra ở sáu cửa giác
quan.
Nhà sư giảng pháp có nhiệm vụ của nhà sư, chúng ta có nhiệm vụ của
chúng ta. Nhiệm vụ của chúng ta là hành thiền đúng theo phương pháp đã
được nghe giảng.
Cầu mong tất cả các bạn có đầy đủ sức khỏe, an vui hạnh phúc và tiến bộ
trong việc thực hành giáo pháp.
*
17. Giải về đề mục chuyển động ở bụng và các đề mục phụ
Chúng ta hãy nghe Phật ngôn:
Rupaṁ bhikkhave aniccaṁ.
Yadaniccaṁ tvam dukkhaṁ.
Yam dukkhaṁ tadanatta.
"Này chư tỳ-khưu, sắc là vô thường, cái gì vô thường là khổ, cái gì khổ
là vô ngã, không có bản chất và không kiểm soát được."
Theo những lời dạy trên, ta có thể gọi mỗi hiện tượng bằng ba tên:
anicca (vô thường), dukkha (khổ) và anatta (vô ngã,
không có bản chất, không kiểm soát). Như vậy, vô thường, khổ và vô ngã đều
là một.
Khi quán sát sự phồng của bụng, ta niệm phồng. Phồng là chuyển động, là
hiện tượng vô tri giác, là vật chất hay sắc.
"Rupaṁ bhikkhave aniccaṁ". Này chư tỳ-khưu, sắc là vô thường. Theo
lời dạy này, phồng là vô thường.
"Yadaniccaṁ tvam dukkhaṁ". Cái gì vô thường thì khổ. Theo lời dạy
này, phồng là khổ.
"Yam dukkhaṁ tadanatta". Cái gì khổ thì vô ngã. Theo lời dạy này,
phồng là vô ngã.
Như vậy, ta có thể gọi phồng bằng ba tên: vô thường, khổ và vô ngã.
Nhưng đặc tính của vô thường, đặc tính của khổ, đặc tính của vô ngã khác
nhau. Tuệ thấy vô thường, tuệ thấy khổ não, tuệ thấy vô ngã không giống
nhau.
Khi ta niệm phồng, sự phồng này là vô thường. Khi ta niệm phồng, sự
phồng này không thể kéo dài mãi, mà phải chấm dứt. Sự chấm dứt của phồng
là dấu hiệu biểu hiện của vô thường hay biểu hiện của đặc tính vô thường.
Khi ta niệm phồng, rồi ta thấy phồng mất đi, thì đó gọi là tuệ thấy vô
thường.
Khi ta niệm phồng, sự phồng là chuyển động, là vật chất, cho nên nó là
khổ. Khi ta niệm phồng, cái cũ mất đi, cái mới đến, sự phồng cũ mất đi, sự
phồng mới đến, rồi ta biết đó là thay đổi. Sự thay đổi của phồng là dấu
hiệu của khổ. Khi ta niệm phồng, nếu ta thấy được sự phồng biến đổi, thì
đó gọi là tuệ thấy được khổ não.
Khi ta hít vào, bụng ta phồng lên. Sự phồng là chuyển động, là "gió".
Khi nó có mặt thì có sự phồng, nhưng khi nó mất đi chẳng có gì để lại, vậy
thì phồng không có bản chất, hay vô ngã. Ta không thể kiểm soát hay điều
khiển được sự phồng, đừng cho nó biến mất, vậy phồng không thể kiểm soát,
không thể điều khiển. Ta gọi đó là vô ngã vì nó không có cốt lõi.
Vậy phồng là vô ngã hay không có cốt lõi. Rơi vào không, là dấu hiệu
của sự không có cốt lõi. Mỗi khi niệm phồng, ta thấy phồng rơi vào không;
tiếp tục niệm phồng, phồng lại rơi vào không; tiếp tục niệm phồng nữa,
phồng lại rơi vào không nữa. Những điều này khiến ta hiểu rằng mọi hiện
tượng đều rơi vào không. Nếu ta thấy phồng rơi vào không, không có cái gì
còn lại hết, đó là tuệ thấy được vô ngã.
Vậy mỗi khi niệm phồng, xẹp, ngồi, đụng, v.v... nếu ta thấy mọi hiện
tượng đều đến rồi đi, đó là tuệ thấy được vô thường. Mỗi khi niệm xẹp,
ngồi, đụng, v.v... nếu ta thấy mọi hiện tượng đều thay đổi, đó là tuệ thấy
được sự khổ. Mỗi khi niệm phồng xẹp, ngồi, đụng, v.v... nếu ta thấy mọi
hiện tượng đều rơi vào không, đó là tuệ thấy được vô ngã.
Khi tuệ giác thấy được vô thường, khổ, vô ngã đã chín mùi, ta sẽ cảm
thấy mọi đề mục thân hay tâm đều đáng chán. Mỗi khi niệm phồng, ta bắt đầu
thấy phồng đáng chán; mỗi khi niệm xẹp ta bắt đầu thấy xẹp đáng chán; mỗi
khi ta niệm đau, hay dễ chịu, hay các hiện tượng khác, ta lại thấy các đối
tượng này đáng chán. Thế rồi ta nghĩ rằng việc hành thiền của ta không tốt
đẹp, chắc chắn là ta sẽ nghĩ như vậy. Nhưng, thực ra, đó là dấu hiệu tiến
bộ không phải thoái bộ đâu.
Mọi thiền sinh ở giai đoạn này đều thấy đề mục là đáng chán, mọi thiền
sinh đều lầm giai đoạn này là thoái bộ, là sút kém. Như vậy không đúng.
Mục tiêu cuối cùng của Phật giáo là Niết bàn. Niết bàn là chấm dứt đau
khổ. Đau khổ ở đây có nghĩa là vật chất và tâm hay danh và sắc, chứ không
phải gì khác. Chấm dứt vật chất và tâm là Niết bàn.
Khi ta niệm phồng, xẹp, ngồi, đụng v.v... nếu ta cảm thấy mọi hiện
tượng đều đáng yêu, đáng mến, ta thiết tha đến chúng, đó là ta đã đi xa
Niết bàn bởi vi Niết bàn là sự diệt tắt vật chất và tâm. Bao lâu ta còn
thích thú với các hiện tượng khởi sinh trong ta bấy lâu ta còn xa cách với
Niết bàn
Khi ta niệm phồng, xẹp, ngồi, đụng v.v... nếu ta cảm thấy mọi hiện
tượng đều đáng chán, ta không thiết tha gì đến chúng, đó là ta đi gần đến
Niết bàn. Vậy, khi bạn các thấy các đối tượng trở nên đáng chán bên trong,
bạn đừng thất vọng, bạn nên biết rằng mình đang đi gần đến Niết bàn. Điều
quan trọng là bạn nên tiếp tục ghi nhận mọi chuyện, mọi hiện tượng, đừng
bỏ sót.
Tương tự, khi ta thở ra, bụng xẹp xuống; ta quán sát theo dõi chuyển
động của bụng, ta niệm xẹp. Khi ta niệm xẹp, nếu ta nhận thấy sự xẹp biến
mất đi, đó là tuệ thấy vô thường. Khi ta niệm xẹp, nếu ta thấy sự xẹp thay
đổi, đó là tuệ thấy khổ não. Khi ta niệm xẹp, nếu ta nhận thấy rằng chẳng
có gì còn lại sau khi xẹp biến mất, đó là tuệ thấy vô ngã.
Trước khi ngồi, ý muốn ngồi phát sinh; ý muốn này là một tâm sở. Tâm sở
này tạo điều kiện cho gió nâng đỡ phát sinh. Nhờ có gió nâng đỡ nên ta có
thể ngồi như vầy, phần trên của cơ thể có thể giữ thẳng trong khi đó phần
dưới của cơ thể duy trì thăng bằng. Tư thế này gọi là ngồi. Thực ra, ngồi
chỉ là gió nâng đỡ. Ngồi là chức năng của gió nâng đỡ, chứ không phải chức
năng của ta. Chỉ có chức năng của gió nâng đỡ mà thôi.
Trong khi ngồi, ta theo dõi tư thế ngồi, và ta niệm ngồi. Đôi lúc, khi
niệm ngồi, ta cảm thấy thân ngả ra trước hay ngả ra sau, đó là dấu hiệu
cho thấy gió nâng đỡ làm nhiệm vụ giữ thăng bằng đã ra đi. Nếu khi niệm
ngồi mà ta biết được gió giữ thăng bằng đã ra đi, thì ta có được tuệ thấy
rõ vô thường.
Sau khi ngồi thẳng lại, ta niệm ngồi. Nhưng một lúc sau, ta lại ngả tới
trước hay ngả ra sau, rồi ta ngồi thẳng lại và niệm ngồi ngồi ngồi. Bằng
cách ghi nhận hay niệm như vậy, ta biết được sự ngồi cũng thay đổi rất
nhiều. Khi ta niệm ngồi, nếu ta thấy sự thay đổi của ngồi, đó là tuệ thấy
sự khổ.
Trong khi ta ghi nhận sự thẳng cứng, sự thẳng cứng của lưng rơi vào
không. Sự thẳng cứng cũng không có cốt lõi, tức là vô ngã. Trong khi ta
ghi nhận ngồi, nếu ta thấy được sự thẳng cứng của tư thế ngồi rơi vào
không, đó là tuệ thấy không có bản chất, không có cốt lõi, vô ngã
(anatta nupasana ñāna).
Do ghi nhận ngồi, ta có được tuệ thấy rõ vô thường, tuệ thấy rõ khổ não
và tuệ thấy rõ vô ngã. Khi tuệ vô thường, tuệ khổ, tuệ vô ngã đã chín mùi
trong việc niệm ngồi, ta sẽ trở nên chán nản sự ngồi, chúng ta thấy rõ sự
ngồi là vô vị, chẳng có gì đáng bám víu vào, chỉ là tiến trình sinh diệt
của vật chất và tâm, chẳng có gì đáng yêu đáng thích cả. Lúc ấy, ta có thể
nghĩ rằng việc hành thiền của mình xuống dốc. Không phải vậy, việc hành
thiền đang tiến bộ đó.
Trước khi đứng dậy lần nữa, ta niệm muốn đứng, muốn đứng. Rồi ta đứng
dậy, quan sát toàn thể tiến trình của chuyển động, ta niệm đứng dậy, đứng
dậy. Sự đứng dậy chỉ là chuyển động, và chuyển động này thay đổi; sự thay
đổi có thể nhận thấy rõ ràng. Khi đã ở tư thế đứng, hãy niệm đứng, đứng,
và theo dõi, quán sát toàn thể tư thế đứng.
Thoạt đầu, ta chỉ thấy được tư thế đứng. Đôi khi, dầu niệm đứng, đứng,
cơ thể ta lay chuyển; sự lay chuyển này là dấu hiệu gió nâng đỡ tư thế
đứng đã mất. Sự đứng chỉ là chức năng của gió nâng đỡ, gió nâng đỡ được
vận hành do ý muốn của ta. Trước khi đứng ý muốn đứng khởi lên. ý muốn này
là tâm sở. Tâm sở này là nguyên nhân của gió nâng đỡ. Nhờ có gió nâng đỡ,
ta có thể giữ cơ thể thẳng thắn. Rồi ta gọi tư thế này là "đứng". Thật ra
sự đứng này chỉ là chức năng của gió nâng đỡ mà thôi.
Vậy, trong khi niệm đứng, đứng, đứng, nếu ta cảm thấy lay chuyển, lắc
lư, đó chỉ là dấu hiệu gió nâng đỡ làm nhiệm vụ giữ thân đứng thẳng đã ra
đi. Trong khi niệm đứng, nếu nhận biết được tư thế đứng đang lay chuyển,
lắc lư, đó là tuệ thấy rõ vô thường (anicca nupassana ñāna).
Nếu nhận biết tư thế đứng thay đổi, thay đổi liên tục, đó là tuệ thấy
rõ khổ não (dukkha nupassana ñāna).
Khi đang ở tư thế đứng, ta cảm thấy sự thẳng cứng đang có mặt nhưng khi
cơ thể bắt đầu lay chuyển thì sự thẳng cứng này biến mất, và không còn lại
chút thẳng cứng nào nữa. Gió nâng đỡ giúp cho thân thẳng cứng cũng không
có bản chất, không có cốt lõi. Nếu ta nhận thấy sự thẳng cứng rơi vào
không, nếu ta thấy sự thẳng cứng không có bản chất, thì đó là tuệ thấy vô
ngã (anatta nupassana ñāna). Như vậy, trong khi niệm đứng đứng, ta
có thể thấy được tuệ thấy rõ vô thường, khổ và vô ngã.
Nếu tuệ thấy rõ vô thường, tuệ thấy rõ khổ, tuệ thấy rõ vô ngã chín mùi
thì ta cảm thấy sự đứng đáng chán, ta thấy rõ sự đứng là vô vị, chẳng có
gì đáng bám víu vào, chỉ là tiến trình sinh diệt của vật chất và tâm,
chẳng có gì đáng yêu đáng thích cả. Đó không phải là việc hành thiền đã
sút kém, mà ta đã tiến bộ.
Vậy, lúc nào bạn niệm đứng đứng mà cảm thấy chán nản thì đừng băn
khoăn, lo lắng gì cả, vì bạn đang tiến bộ.
Bất kỳ hiện tượng gì khởi lên, bạn cũng phải ghi nhận một cách chánh
niệm. Nếu bạn tiếp tục ghi nhận mọi hiện tượng xảy ra thì bạn càng có tuệ
giác nhiều bao nhiêu, bạn càng cảm thấy chán nản, càng thấy rõ sự vô vị
của các hiện tượng xảy ra bấy nhiêu, thế là bạn biết mình đã tiến gần đến
Niết bàn hơn vậy.
Cầu mong các bạn nỗ lực tinh tấn quán sát các hiện tượng và đạt nhiều
tiến bộ trong việc hành thiền minh sát.
*
18. Giải về đề mục căn bản
Chúng ta đã biết: thay đổi là chân đế, không thay đổi là tục đế. Cần
phải luôn nhớ hai điều này: thay đổi là chân đế, hay sự thật tuyệt đối;
không thay đổi là tục đế, hay sự thật của thế tục, là giả danh.
Bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu đề mục căn bản của pháp hành thiền. Khi
hành thiền minh sát, bạn có thể ngồi cách nào cũng được, nhắm mắt lại và
để tâm ở bụng. Thở tự nhiên. Mỗi khi bụng phồng lên, bạn ghi nhận hay niệm
thầm phồng. Nhớ là để tâm vào bụng, mà đừng có nghĩ gì đến hơi thở. Mỗi
khi bụng phồng lên, bạn ghi nhận phồng.
Nhớ là mỗi khi bụng phồng chỉ niệm thầm phồng, chứ đừng niệm bụng
phồng. Tại sao chỉ niệm phồng mà không niệm bụng phồng? Bởi vì trong khi
hành thiền minh sát, ta chỉ theo dõi và quán sát chân đế, mà không chú ý
đến tục đế. Khi bụng phồng lên; bụng là tục đế, phồng mới là chân đế.
Mỗi khi bụng xẹp xuống, bạn ghi nhận hay niệm thầm xẹp. Chỉ niệm xẹp
chứ đừng niệm bụng xẹp. Tại sao ta chỉ niệm phồng. Bởi vì phồng là chân
đế. Bụng thì không thay đổi, chỉ có sự chuyển động phồng và xẹp thay đổi
mà thôi. Vậy sự thay dổi là chân đế, sự không thay đổi là tục đế.
Tại sao bụng không thay đổi? Bởi vì bụng không có thực. Mặc dầu gọi là
bụng, nhưng đó chỉ là cái tên, chỉ là sự thật ước định. Nếu mọi người gọi
nó, chấp nhận nó là bụng, thì nó là bụng; nếu không gọi nó, không chấp
nhận nó là bụng, thì nó không phải là bụng.
Như vậy bụng không có thật. Tiếng Việt gọi nó là "bụng", tiếng Miến gọi
là "vambai", tiếng Pāḷi gọi là "Udara gabbha" và tiếng Anh gọi là
"abdomen". Ta gọi một vật với nhiều tên khác nhau. Đó chỉ là tục đế. Ta
chấp nhận nó là bụng thì nó là bụng, ta chấp nhận nó là "vambai" thì nó là
"vambai", nếu ta không chấp nhận nó là bụng thì nó sẽ không là bụng, và
nếu ta không chấp nhận nó là "vambai" thì nó không phải là "vambai". Vậy,
bụng chỉ là tục đế, mà chuyển động phồng hay xẹp mới là chân đế.
Khi theo dõi chuyển động phồng xẹp nơi bụng, nhớ kỹ là đừng niệm bụng
phồng hay bụng xẹp. Khi bụng phồng lên thì bạn niệm phồng, khi bụng xẹp
xuống thì bạn niệm xẹp.
Khi ta ghi nhận phồng thì phồng là chuyển động, phồng là hiện tượng vô
tri, vô giác, là "gió", và sự nhận biết phồng là "tâm", là hiện tượng nhận
biết. Như vậy, khi có một hiện tượng phồng thì chỉ có hai yếu tố thân và
tâm, hay danh và sắc, mà chẳng có đàn ông, đàn bà, con trai, con gái gì
cả.
Khi bụng ta xẹp xuống, ta theo dõi chuyển động ấy và niệm xẹp. Khi ta
niệm xẹp thì xẹp là chuyển động, xẹp là hiện tượng vô tri, vô giác, là
"gió", và sự nhận biết xẹp là "tâm", là hiện tượng nhận biết. Như vậy, khi
có một hiện tượng xẹp thì chỉ có hai yếu tố thân và tâm, hay danh và sắc,
mà chẳng có đàn ông, đàn bà, con trai, con gái gì cả.
Thoạt đầu, bạn phải cố gắng hiểu rằng phồng là một chuyện và nhận biết
phồng là một chuyện khác, xẹp là một chuyện và nhận biết xẹp là một chuyện
khác. Trong khi thuyết pháp thì chúng tôi có thể nói phồng là vật chất và
biết phồng là tâm. Nhưng khi thực hành, các bạn không cần phải nói "đây là
vật chất" và "đây là tâm" hay "đây là thân" và "đây là tâm".
Sự hiểu biết trong lúc hành thiền khác với sự hiểu biết trong lý
thuyết. Trong lúc hành thiền, chúng ta không thể nói: "Đây là vật chất",
"Đây là tâm". Nhưng sau khi hành thiền xong, nhìn lại việc hành thiền của
mình, chúng ta biết cái gì là vật chất cái gì là tâm.
Sự hiểu biết trong lúc hành thiền chẳng khác nào một giấc mộng. Khi ta
nằm mộng, ta không biết mình đang mộng, nhưng lúc thức dậy ta biết ta vừa
đang nằm mộng. Cũng vậy, trong khi niệm phồng, xẹp, ngồi, đụng, v.v... ta
không thể gọi "đây là vật chất", "đây là tâm", nhưng sau khi hành thiền ta
biết phồng là một hiện tượng, và nhận biết phồng là một chuyện khác, xẹp
là một hiện tượng và nhận biết xẹp là một chuyện khác. Vậy, khi niệm phồng
xẹp, phồng xẹp, nếu bạn có thể phân biệt được "phồng" và "nhận biết sự
phồng" là hai hiện tượng khác nhau, thế là bạn đã hiểu thế nào là vật
chất, thế nào là tâm.
Đôi khi, mặc dầu niệm phồng nhưng ta không thấy phồng rõ ràng, mặc dầu
niệm xẹp nhưng không thấy xẹp rõ ràng, thế rồi ta không thể niệm phồng
xẹp, bởi vì nếu không có nhân thì không có quả.
Nếu không có phồng thì không thể có nhận biết sự phồng, vậy phồng là
nhân và sự nhận biết là quả. Nếu không có xẹp thì không thể có sự nhận
biết sự xẹp, vậy xẹp là nhân và nhận biết là quả. Như vậy, mỗi khi ta niệm
phồng thì chỉ có nhân và quả, mỗi khi ta niệm xẹp thì cũng chỉ có nhân và
quả, mà chẳng có đàn ông, đàn bà, con trai, con gái gì cả.
Khi ngồi, ta quán sát toàn thể tư thế ngồi, ta niệm ngồi. Mặc dầu dùng
chữ "ngồi" nhưng chủ tâm của ta là để biết chân đế: ngồi chỉ là gió nâng
đỡ. Theo chân đế, nếu không có gió nâng đỡ, bạn không thể ngồi như vầy,
bạn sẽ ngã xuống. Vậy, ngồi chỉ là gió nâng đỡ mà thôi.
Nếu là một thiền sinh mới, bạn không thể nhận thấy gió nâng đỡ hay sự
thẳng cứng của ngồi, bạn chỉ có thể cảm nhận hình dạng của cơ thể. Khi
việc hành thiền của bạn trở nên thuần thục, bạn chỉ còn nhận thấy sự thẳng
cứng hay hiện tượng nâng đỡ. Khi ngồi, ta niệm ngồi ngồi, ngồi chỉ là gió
nâng đỡ và nhận biết sự ngồi là tâm. Như vậy, vào lúc ngồi, chỉ có thân và
tâm, hay danh và sắc, mà thôi.
Khi ngồi, ta không niệm tôi đang ngồi, mà chỉ niệm ngồi. "Tôi" là tục
đế và ngồi là chân đế. Tôi thì không thay đổi, nhưng ngồi thì thay đổi.
Khi ngồi, gió nâng đỡ thay đổi; đó là chân đế. Như vậy, ta phải chú tâm
vào sự ngồi, hay gió nâng đỡ, và niệm ngồi.
Khi ta niệm ngồi, thân thể ta không phải lúc nào cũng ngay ngắn. Đôi
lúc lưng ta cong xuống, đôi lúc thân ta lắc lư hay nhúc nhích; khi đó, gió
nâng đỡ mất, mà gió chuyển động đến. Nếu gió nâng đỡ có mặt thì thân ta sẽ
không lắc lư hay nhúc nhích. Như vậy, gió nâng đỡ là một chuyện, mà sự lắc
lư hay nhúc nhích của thân là một chuyện khác. Lắc lư hay nhúc nhích cũng
là chuyển động, là gió. Ngồi cũng là gió, nhưng ngồi là gió nâng đỡ. Lắc
lư, nhúc nhích, cong, thẳng của lưng đều là gió, đều là chuyển động.
Khi ta ngồi, nếu yếu tố chuyển động trội hơn cả, ta phải niệm lay lay
lay, cong cong cong, thẳng thẳng thẳng. Mặc dù dùng chữ lay, cong, thẳng,
v.v... chúng đều biểu thị sự chuyển động. Khi bạn theo dõi chuyển động và
niệm lay, cong, thẳng, chỉ có vật chất và tâm hay thân và tâm. Chuyển động
là vật chất và nhận biết chuyển động là tâm. Nếu không có chuyển động thì
sẽ không có sự nhận biết hay không thể niệm. Nếu không có lắc lư thì sẽ
không thể niệm lắc lư. Như vậy, lắc lư là nhân và nhận biết sự lắc lư là
quả. Chỉ có nhân và quả vào lúc ghi nhận lắc lư hay cong cong, thẳng thẳng
mà thôi.
Trong lúc hành thiền, ở giai đoạn phồng, ta chỉ chú tâm theo dõi chuyển
động phồng và niệm phồng. ở giai đoạn xẹp, chỉ chú tâm theo dõi chuyển
động xẹp và niệm xẹp. Khi ngồi xuống, hãy chú ý vào chuyển động ngồi. Lúc
ngồi thẳng lưng, chú ý đến gió nâng đỡ, sau đó tiếp tục theo dõi phồng
xẹp. Nếu cơ thể lay động, chú ý vào sự lay động. Nếu ghi nhận đầy đủ mọi
chuyển biến, mọi hoạt động của gió trong thân, ta có khả năng loại trừ
được nhiều phiền não.
Chẳng hạn, khi bụng phồng lên, sự phồng này chỉ là chuyển động, là gió,
nhưng nếu bạn lầm tưởng chuyển động này là bụng thì đó là tà kiến. Chuyển
động là gió, là chân đế. Bụng chỉ là tục đế, bụng không có thực, mà chỉ là
một sự chế định hay giả danh. Phải phân biệt rõ hai thứ: bụng và chuyển
động. Bụng là tục đế, chuyển động là chân đế.
Nếu bạn nghĩ rằng bụng và chuyển động chỉ là một, đó là tà kiến, là
hiểu sai lầm. Nếu bạn có thể tách rời bụng ra khỏi chuyển động, đó là
chánh kiến hay có sự hiểu biết đúng. Nếu bạn ghi nhận có sự chuyển động
chỉ là chuyển động, mà không thêm gì vào trong đó, tức là bạn có chánh
kiến. Khi niệm phồng mà tâm ghi nhận chỉ biết đến chuyển động, không nhớ
gì đến bụng, đó là chánh kiến. Khi niệm xẹp mà tâm ghi nhận chỉ biết đến
chuyển động mà không nhớ gì đến bụng, đó là chánh kiến. Vậy, khi niệm
phồng xẹp đúng thì bạn có khả năng loại bỏ được tà kiến.
Thêm vào đó, khi đang niệm phồng xẹp, nếu bạn thích chuyển động này thì
tham ái phát sinh; nếu bạn không ưa chuyển động này thì sân hận phát sinh.
Đôi khi đang theo dõi chuyển động của bụng, niệm phồng xẹp, phồng xẹp,
và bạn cảm thấy rất dễ ghi nhận chuyển động phồng xẹp này. Tâm bạn đang
lâng lâng trên đề mục, bỗng nhiên cơ thể bắt đầu lắc lư, và bạn không
thích sự lắc lư này. Lúc đầu, bạn thích chuyển động phồng xẹp, nhưng khi
cơ thể lắc lư, bạn lại không thích sự lắc lư. Phải hiểu rằng lắc lư hay
phồng xẹp cũng thế thôi, chúng cũng đều là chuyển động, là gió. Nếu bạn
không thích chuyển động lắc lư là sai lầm, vì chuyển động chỉ là chuyển
động mà thôi. Nếu biết chuyển động là chuyển động, thì bạn có chánh kiến.
Nếu ta cho chuyển động là đáng ưa thì tham ái khởi dậy trong ta; nếu ta
cho chuyển động là đáng ghét thì sân hận khởi dậy trong ta. Như vậy, phiền
não phát sanh trong ta tùy theo sự hiểu biết và sự chú tâm của ta có sáng
suốt và đúng đắn hay không.
Như vậy, phải có sự chú tâm sáng suốt mỗi khi ghi nhận phồng, xẹp.
Phồng là vô thường, thay đổi và vô tác nhân, vô chủ. Phồng xuất hiện rồi
biến mất, vô thường và biến đổi. Lay cũng sinh rồi diệt. Lay cũng vô
thường. Khi cái cũ đi, cái mới đến, đó là thay đổi. Khi phồng ra đi thì
chẳng có gì còn lại. Khi lay ra đi thì chẳng có gì còn lại.
Nếu bạn thấy được rằng phồng và lay là vô thường, thay đổi và vô ngã,
đó là sự chú tâm sáng suốt và đúng đắn. Nếu bạn có sự chú tâm sáng suốt
thì không phiền não nào có thể lọt vào được.
*
19. Giải về Thọ hay Cảm Thọ
Chúng ta hãy nghe câu Phật ngôn:
Vedana Bhikkave Anicca,
Yadaniccan Yam Dukkham,
Yam dukkham Daranatta
Này các thầy tỳ khưu
Cảm giác là vô thường.
Cái gì vô thường thì khổ.
Cái gì khổ thì không phải là của ta.
Theo đoạn kinh trên, mọi cảm giác đều được mang ba tên: Anicca
(Vô thường), Dukkha (khổ) và Anatta (không có bản chất,
không kiểm soát được)
Trong khi hành thiền, nếu ngồi lâu thì cảm giác khó chịu như đau, ngứa,
v.v... đến với ta. Những cảm giác này gọi là khổ thọ. Nếu bạn nhận biết
khổ thọ tức là bạn thấy được vô thường, khổ và vô ngã, mặc dù bạn không
niệm vô thường, khổ và vô ngã.
Tại sao khi thấy được sự đau thì bạn thấy được vô thường, khổ, vô ngã?
Bởi vì cảm giác là vô thường, cảm giác là khổ, cảm giác là vô ngã.
Nhưng nếu bạn chỉ biết cảm giác hay sự đau mà bạn không biết thêm gì
nữa thì bạn cũng chưa thể thấy được đó là vô thường, khổ, hay vô ngã.
Mỗi khi đau xuất hiện, bạn ghi nhận đau, đau, đau. Nếu bạn thấy sự đau
tan biến. Sự tan biến của cảm giác đau, đó là dấu hiệu của vô thường, khổ
và vô ngã.
Như vậy, khi hành thiền, trong lúc đang ghi nhận một cảm giác mà bạn
thấy cảm giác này biến mất đi thì bạn kinh nghiệm được vô thường, hay có
tuệ giác thấy được vô thường. Cho nên, bất kỳ cảm giác đau đớn khó chịu
nào phát sinh, bạn cần phải ghi nhận một cách chánh niệm cho đến khi nó
biến mất. Nếu bạn có thể ghi nhận các cảm giác khổ từ khi chúng khởi lên
cho đến lúc chúng biến mất, thế là bạn có được tuệ giác thấy rõ vô thường.
Đôi khi, trong lúc đang ghi nhận đau hay nhức, bạn cảm thấy rõ cảm giác
cũ mất đi, cảm giác mới lại đến, cảm giác mới vừa mới đến lại mất đi, và
một cảm giác khác lại đến nữa. Những gì vừa mới ghi nhận đã mất rồi. Chúng
thay đổi thật mau lẹ. Sự thay đổi của cảm giác này là dấu hiệu của đau khổ
(Dukkha lakkhana). Nếu bạn thấy được dấu hiệu của đau khổ, bạn đang
phát triển tuệ giác thấy rõ đau khổ (Dukkha nupassana ñāna).
Trong khi ghi nhận sự tê cứng hay đau nhức nơi chân chẳng hạn, nếu bạn
không thể bình tĩnh chế ngự được cảm giác đau khổ này, và vội nhúc nhích
để thay đổi tư thế, thì bạn không thể nào có được tuệ giác, bởi vì bạn đã
đổi tư thế trước khi cảm giác đau khổ biến mất.
Nhưng khi có cảm giác đau nhức xuất hiện, bạn kiên trì ghi nhận đau
nhức cho đến khi bạn thấy cảm giác ấy hoàn toàn biến mất, rơi vào khoảng
không. Rồi một cái đau khác đến, bạn lại ghi nhận đau cho đến lúc cảm giác
này rơi vào khoảng không nữa. Bất kỳ cảm giác nào bạn ghi nhận thì sau
cùng nó cũng rơi vào khoảng không. Thế là bạn có tuệ giác thấy được vô
ngã, không có bản chất (Anatta nupassana ñāna)
Thông thường, chúng ta cho rằng các cảm giác tê, nhức, ngứa, v.v... là
đau khổ. Chứ chẳng bao giờ nghĩ rằng hạnh phúc cũng là đau khổ. Thật ra,
hạnh phúc cũng chính là đau khổ. Thật là dễ thấy cảm giác tê nhức là đau
khổ, nhưng khó thấy được hạnh phúc cũng là đau khổ.
Tại sao hạnh phúc cũng là đau khổ? Bởi vì hạnh phúc cũng thay đổi. Cái
gì có sự thay đổi thì có sự đau khổ. Nói khác đi, hễ có thay đổi thì có
đau khổ, hay thay đổi chính là đau khổ. Hạnh phúc chỉ thật là hạnh phúc
khi nó ở trong hiện tại hay khi nó hiện hữu. Nhưng khi hạnh phúc biến mất
thì ta cảm thấy không có hạnh phúc, mà không có hạnh phúc thì có đau khổ.
Vậy thì hạnh phúc cũng là đau khổ.
Trong khi đang hành thiền, đôi lúc ta cảm thấy thân thể thật nhẹ nhàng,
và ta có thể ghi nhận mọi hiện tượng xảy ra một cách dễ dàng. Tâm ta lúc
bấy giờ rất sắc bén, minh mẫn. Ta cảm thấy vui vẻ, thích thú. Nếu ta thích
trạng thái này, thế là tham ái phát sinh. Ngay khi ta vừa nghĩ đến việc
hành thiền của ta tốt đẹp và cảm thấy thích thú thì sự an lạc trên biến
mất, vì khi tham ái phát sinh thì an lạc thật sự không tồn tại. Nếu ta
thích sự an lạc này thì tham lam phát sinh; nếu ta không thích thì sân hận
phát sinh.
Như vậy, trong lúc hành thiền nếu có sự an lạc, hạnh phúc xuất hiện thì
ta phải kịp thời ghi nhận an lạc, an lạc. Nếu an lạc, hạnh phúc đến, ta
chỉ hưởng thụ mà không ghi nhận chánh niệm, ta không thể nào có được tuệ
giác thấy được vô thường, tuệ giác thấy được khổ não và tuệ giác thấy được
vô ngã. Khi ghi nhận an lạc hay hạnh phúc, nếu chúng ta thấy cảm giác này
mất đi, ta sẽ có được tuệ giác thấy rõ được sự vô thường.
Khi chúng ta ghi nhận an lạc hay hạnh phúc, nếu cảm giác cũ biến mất và
cảm giác mới đến, nếu ta thấy được rõ ràng như vậy, ta sẽ có được tuệ giác
thấy được sự đau khổ.
Một niềm an lạc và hạnh phúc chỉ thật sự là an lạc và hạnh phúc khi nó
hiện hữu, nhưng khi nó biến mất và rơi vào khoảng không thì niềm an lạc và
hạnh phúc ấy hoàn toàn không còn nữa. Nếu trong khi bạn đang ghi nhận an
lạc hay hạnh phúc mà cảm giác này rơi vào khoảng không, rồi một cảm giác
an lạc hay hạnh phúc khác lại đến, bạn ghi nhận, rồi nó cũng rơi vào
khoảng không. Khi bạn nhận biết tất cả cảm giác mà bạn ghi nhận đều rơi
vào khoảng không thì bạn có tuệ giác thấy rõ vô ngã.
Đau khổ chỉ thật sự là đau khổ khi nó hiện diện. Hạnh phúc chỉ thật sự
là hạnh phúc khi nó hiện diện. Lúc đang hiện diện thì đau khổ và hạnh phúc
hoàn toàn trái ngược. Nhưng khi đau khổ rơi vào khoảng không và hạnh phúc
cũng rơi vào khoảng không thì cuối cùng chúng lại giống nhau, cũng đều là
vô ngã cả.
Như vậy, bất kỳ hiện tượng nào phát sinh, dầu tốt dầu xấu, ta cũng đều
chú tâm ghi nhận đừng có sự phân biệt nào. Cảm giác đau khổ xuất hiện, ta
ghi nhận; cảm giác hạnh phúc xuất hiện, ta ghi nhận. Không nên buồn vui
theo những cảm giác này. Hãy ghi nhận một cách thật bình đẳng đối với cảm
giác tốt hay xấu. Nhiều người chỉ ưa ghi nhận những cảm giác vừa ý hay dễ
chịu mà không thích ghi nhận những cảm giác không vừa ý hay khó chịu. Bạn
nên thản nhiên ghi nhận mọi cảm giác tốt và xấu, nếu mọi cảm giác tốt và
xấu đều được bạn xem chúng chẳng có gì khác nhau, thế là bạn đã tiến bộ dễ
dàng trong việc hành thiền của mình.
*
20. Bát chánh đạo trong thiền minh sát
Sau khi thành đạo, Đức Phật thuyết pháp trong 45 năm. Trong 45 năm này,
ngài dạy tất cả tám mươi bốn ngàn pháp môn. Nhiều pháp môn như vầy thì khó
mà nhớ lắm. Vậy chúng ta hãy tóm lược lại.
Nếu tóm lược giáo pháp của Đức Phật, chúng ta có 37 pháp, đó là 37 Pháp
Trợ Bồ Đề, gồm có: Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ
lực, Thất giác chi và Bát chánh đạo.
Nhưng 37 pháp này cũng còn dài. Ta tóm lược lại còn có Bát chánh đạo:
Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh
tấn, Chánh niệm và Chánh định.
Nhưng Bát chánh đạo cũng còn khó nhớ, ta tóm lược lại một lần nữa, còn:
Giới, Định và Huệ.
Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh Mạng thuộc nhóm Giới.
Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định thuộc nhóm Định.
Chánh kiến, Chánh tư duy thuộc nhóm Huệ.
Vậy, nếu tóm lược 84,000 pháp môn của đức Phật thì chỉ còn có Giới,
Định và Huệ.
Nhưng đức Phật còn tóm lược hơn nữa. Trước khi nhập Niết bàn, đức Phật
tóm lược những lời giảng dạy của Ngài như sau: "Vaya Dhamma Saṅkhārā,
Appamādena Sampādetha" có nghĩa là "Các pháp hữu vi (Vật chất và Tâm)
đều không bền vững. Hãy chánh niệm." Lời dạy "Hãy Chánh Niệm" có nghĩa là
bảo chúng ta hãy "tránh xa điều ác, làm các đều lành, và chánh niệm trên
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm." Một cách ngắn gọn là "chánh niệm trong
mọi việc".
Bây giờ, chúng ta thực hành thiền minh sát theo lời dạy của đức Phật là
chánh niệm. Như vậy, mỗi lần ghi nhận một đối tượng, dầu có biết ghi nhận
đúng hay không, ta cũng đã thực hành theo lời dạy của đức Phật.
Một cư sĩ, nếu giữ ngũ giới, thì đã tròn đủ chánh ngữ, chánh nghiệp,
chánh mạng mà không cần phải thực hành một cách đặc biệt gì về giới cả.
Nếu giới đã giữ tròn thì chỉ còn lại năm yếu tố của Bát Chánh Đạo cần
phải phát triển thôi. Đó là chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, chánh
kiến và chánh tư duy.
Khi ghi nhận chánh niệm một đối tượng nào thì ta đã thực hành trọn vẹn
năm yếu tố trên. Chẳng hạn, khi bụng phồng lên, ta chú tâm vào chuyển động
phồng và ghi nhận chánh niệm phồng.
Khi ghi nhận như vậy, thì năm yếu tố của Định và Huệ đều bao gồm trong
đó.
Mỗi khi phồng xuất hiện ta cố gắng ghi nhận, sự cố gắng ghi nhận này là
chánh tinh tấn.
Mỗi khi phồng xuất hiện ta có ý thức sáng suốt theo dõi, ý thức sáng
suốt theo dõi này là chánh niệm.
Mỗi khi ghi nhận phồng, tâm ghi nhận của chúng ta chỉ nằm trên sự phồng
mà không chạy đi nơi nào khác đó là chánh định.
Khi ghi nhận phồng, lúc đầu ta chưa biết rằng phồng là một chuyện và
tâm ghi nhận là một chuyện khác. Nhưng vài ngày sau, ta sẽ hiểu rằng phồng
là một chuyện và ghi nhận là một chuyện khác. Nếu ta có thể phân biệt được
sự khác nhau giữa đối tượng và tâm ghi nhận, ta đã có chánh kiến.
Về sau, ta sẽ biết rằng phồng xuất hiện trước và tâm ghi nhận tiếp nối
sau. Biết được như vậy, đó cũng là chánh kiến.
Khi tuệ giác của chúng ta trở nên bén nhạy, mỗi khi ghi nhận phồng, ta
liền thấy phồng mất đi, mỗi khi ghi nhận xẹp, ta thấy xẹp mất đi, đó là
chánh kiến.
Đôi khi tâm ghi nhận của ta không hướng thẳng vào đề mục, liền có một
vài hiện tượng hướng tâm ghi nhận đến đề mục. Hiện tượng hướng tâm về đề
mục, đó là chánh tư duy.
Tôi sẽ tóm lược những điều giải thích trên:
- Cố gắng ghi nhận phồng là chánh tinh tấn.
- Theo dõi, ghi nhận sự phồng là chánh niệm.
- Tâm ghi nhận chỉ nằm trên đề mục phồng là chánh định.
- Hiểu biết được đối tượng qua tâm ghi nhận là chánh kiến.
- Hướng tâm vào đối tượng là chánh tư duy.
Khi nói, thì ta có thể nói đây là chánh tư duy, đây là chánh niệm, đây
là chánh định, đây là chánh kiến, nhưng trong thực hành ta không thể tách
rời từng yếu tố một. Bởi vì cả năm yếu tố cùng hoạt động chung với nhau.
Chúng luôn luôn đồng sinh và đồng diệt. Khi chánh tinh tấn chiếm ưu thế,
ta nhận biết toàn nhóm là chánh tinh tấn; khi chánh định trội hơn cả, ta
nhận biết toàn nhóm là chánh định; khi chánh kiến trội hơn cả, ta nhận
biết toàn nhóm là chánh kiến; khi chánh tư duy trội hơn cả, ta nhận biết
toàn nhóm là chánh tư duy. Năm yếu tố này được gọi là kāraka magganga vì
chúng làm việc chung và cùng lúc với nhau.
Khi thuyết pháp về đề tài trên đây, tôi thường được người ta đặt câu
hỏi: "Nếu không có đàn ông, đàn bà, con trai, con gái, v.v... vậy thì ai
hành thiền đây?"
Hôm nay, không có ai đặt câu hỏi này, vậy thì tôi tự hỏi và tự trả lời.
Ta có thể trả lời câu hỏi trên theo hai cách: theo chân đế và theo tục đế.
Theo tục đế, ta có thể nói: Tôi đang hành thiền minh sát, anh đang hành
thiền minh sát, họ đang hành thiền minh sát, v.v... Bạn có thể trả lời như
vậy. Đó là tục đế. Theo chân đế, không có đàn ông, đàn bà, con trai, con
gái v.v... Vậy thì ai đang hành thiền? Chỉ có những yếu tố hay những hiện
tượng trên đang hành thiền minh sát.
Vậy, mỗi khi ghi nhận phồng, xẹp, ngồi, đụng, dầu bạn có ý thức hay
không ý thức thì tất cả nhũng lời dạy của đức Phật cũng đều tự động bao
gồm trong ấy. Bạn là người hữu duyên được hành thiền minh sát.
Là một nhà sư dạy thiền, hằng ngày tôi nhắc nhở các bạn ghi nhận, hành
thiền minh sát. Tôi đã làm bổn phận của tôi, còn lại là bổn phận của các
bạn là hành thiền, là ghi nhận chánh niệm.
*
21. Bài pháp cuối
Để tóm lược những bài pháp đã trình bày trên, tôi sẽ chỉ cho các bạn
làm thế nào để phân biệt được giữa chân đế và tục đế. Điều này không có gì
khó.
Cái gì biến đổi trong khoảnh khắc ngắn ngủi, là chân đế. Cái gì không
biến đổi trong khoảnh khắc ngắn ngủi, là tục đế. Nói một cách ngắn gọn:
Hiện tượng biến đổi là chân đế, hiện tượng không biến đổi là tục đế.
Chúng ta không bàn đến Niết Bàn ở đây vì Niết Bàn không biến đổi. Không
thể lấy Niết Bàn làm đề mục để hành thiền, nên ta để Niết Bàn sang một
bên.
Chúng ta chỉ có thể lấy các tâm hiệp thế và một số yếu tố vật chất làm
đề mục hành thiền. Chúng ta không thể lấy Niết Bàn hay các tâm siêu thế để
hành thiền, nên chúng ta để các tâm đạo và tâm quả sang một bên.
Bây giờ hãy nhớ lại lần nữa: Hiện tượng biến đổi là chân đế, hiện tượng
không biến đổi là tục đế.
Tôi đưa ra một ví dụ cho các bạn dễ hiểu. Giả sử đây là lửa và đây là
một cục nước đá. Nếu đưa ngón tay vào gần lửa, ta nói: ngón tay nóng. Nói
như vậy có đúng không? Theo tục đế: ngón tay nóng. Điều này đúng.
Khi lấy ngón tay rờ vào nước đá ta nói ngón tay lạnh. Điều này đúng
không? Theo tục đế ta có thể nói ngón tay lạnh. Điều này đúng.
Nhưng cái gì thay đổi? Ngón tay thay đổi, hay nóng lạnh thay đổi? Ngón
tay không thay đổi, mà sự nóng hay lạnh thay đổi. ở đây, ngón tay là tục
đế, nóng hay lạnh là chân đế.
Vậy, khi ngón tay nóng, ta phải lấy cái gì để hành thiền. Ngón tay hay
sự nóng? Phải lấy nóng làm đề mục hành thiền.
Khi ngón tay lạnh, ta phải lấy cái gì để hành thiền. Ngón tay hay sự
lạnh? Phải lấy sự lạnh làm đề mục để hành thiền.
Một ví dụ khác. Giả sử đi dưới ánh nắng, ta cảm thấy đầu nóng, ta nói
đầu tôi nóng, nói như vậy có đúng không? Theo tục đế điều này đúng.
Khi đầu nóng, nếu ta đi vào trong bóng mát, ta cảm thấy mát, rồi ta nói
đầu tôi mát, nói như vậy đúng không? Theo tục đế điều này đúng.
Khi đi dưới ánh nắng, ta nói đầu tôi nóng, nhưng khi đi vào bóng mát,
ta nói đầu tôi mát, vậy cái gì thay đổi? Đầu thay đổi, hay nóng lạnh thay
đổi. Chính sự nóng hay lạnh thay đổi, mà đầu không thay đổi.
Vậy thì, khi cảm thấy đầu nóng, ta chỉ quán sát sự nóng, không phải
quán sát cái đầu. Đầu là tục đế, nóng là chân đế.
Khi cảm thấy đầu mát, ta chỉ quán sát sự mát, chứ không phải quán sát
cái đầu. Vậy thì đầu là tục đế, mát là chân đế.
Nếu ta nhầm lẫn sự nóng lạnh là đầu, đó là tà kiến. Nếu hiểu được đầu
và nóng là hai chuyện khác nhau, đó là chánh kiến.
Tôi sẽ chấm dứt các bài giảng ở đây. Trước khi chấm dứt, xin các bạn
nhớ kỹ một lần nữa: Tục đế cần cho thế tục, chân đế chỉ cần khi hành thiền
minh sát. Các hiện tượng thay đổi là chân đế, các hiện tượng không thay
đổi là tục đế.
Cầu mong các bạn an vui hạnh phúc và đạt được trí tuệ
cao thượng ngay trong kiếp sống này.