BuddhaSasana Home Page
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Tăng Chi Bộ - Anguttara
Nikaya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
I. Phẩm Hình Phạt
1-10 Hai Loại Tội
1.- Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Thắng lâm, khu vườn ông
Anàthapindika. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: - Này các
Tỷ-kheo. - Bạch Thế Tôn. Các tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
Thế tôn nói như sau: - Có hai loại tội này, này các Tỷ-kheo. Thế nào là hai? Tội có
kết quả ngay trong hiện tại, và tội có kết quả trong đời sau. Và
này các Tỷ-kheo, thế nào là tội có kết quả ngay trong hiện
tại? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người thấy vua chúa bắt được
người ăn trộm, kẻ vô loại, liền áp dụng nhiều hình phạt sai khác.
Họ đánh bằng roi, họ đánh bằng gậy, họ đánh bằng côn, họ
chặt tay, họ chặt chân, họ chặt tay chân, họ xẻo tai, họ cắt
mũi, họ xẻo tai cắt mũi. Họ dùng hình phạt vạc dầu, họ dùng hình
phạt bối đầu hình (xẻo đỉnh đầu thành hình con sò), họ dùng hình phạt
La-hầu khẩu hình ... hỏa man hình (lấy lửa đốt thành vòng hoa) ... đốt tay
... khu hành hình (lấy rơm bện lại rồi siết chặt) ... bì y hình (lấy
vỏ cây làm áo) ... linh dương hình (hình phạt con dê núi) ... câu nhục hình
(lấy câu móc vào thịt) ... tiền hình (cắt thịt thành đồng tiền) ...
khối chắp hình ... chuyển hình ... cao đạp đài ... Họ tưới bằng dầu
sôi, họ cho chó ăn, họ đóng cọc những người sống, họ lấy
gươm chặt đầu. Người thấy vậy suy nghĩ như sau: "Do nhân các ác nghiệp như vậy,
vua chúa bắt được kẽ ăn trộm, kẻ vô loại, áp dụng nhiều hình phạt sai
khác. Họ đánh bằng roi ... họ lấy gươm chặt đầu. Nếu ta làm các
ác nghiệp như vậy, vua sẽ bắt ta và áp dụng các hình phạt như vậy".
Người ấy sợ hãi tội phạm ngay trong hiện tại, không có cướp phá tài
sản của những người khác. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tội có
kết quả ngay trong hiện tại. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tội có kết quả trong đời sau?
Ở đây, có người suy xét như sau: "Quả dị thục của thân làm ác
trong đời sau là ác và khổ. Quả dị thục của miệng nói ác trong đời sau
là ác và khổ. Quả dị thục của ý nghĩ ác trong đời sau là ác và khổ.
Nếu thân ta làm ác, nói lời ác, nghĩ việc ác, sao ta lại không có
thể, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa
xứ, địa ngục". Người ấy sợ hãi tội có kết quả trong đời sau, từ
bỏ thân làm ác, tu tập thân làm thiện, từ bỏ miệng nói ác, tu tập
miệng nói thiện, từ bỏ ý nghĩ ác, tu tập ý nghĩ thiện, và
cư xử tự ngã hoàn toàn thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tội
có kết quả trong đời sau. Này các Tỷ-kheo, trên đây là hai loại tội. Do vậy, này các
Tỷ-kheo, cần phải học tập như sau: "Chúng ta phải sợ hãi đối với
tội có kết quả hiện tại. Chúng ta phải sợ hãi đối với tội có
kết quả trong đời sau. Chúng ta phải tránh xa các tội. Chúng ta phải thấy
rõ sự nguy hiểm của các tội". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy
cần phải học tập. Ðối với ai tránh xa các tội, này các Tỷ-kheo, đối
với ai thấy rõ sự nguy hiểm của các tội, thời được chờ đợi rằng
người ấy sẽ được giải thoát tất cả tội. 2. Có hai sự tinh cần này rất khó thực hiện ở đời. Thế nào là
hai? Sự tinh cần của các gia chủ ở nhà với mục đích bố thí các vật dụng
như đồ ăn khất thực, các sàng tọa, các dược phẩm trị bệnh, và sự
tinh cần của các người xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình, với
mục đích từ bỏ tất cả sanh y. Hai sự tinh cần này, này các Tỷ kheo, rất
khó thực hiện ở đời. Trong hai tinh cần này, này các Tỷ-kheo, tối thắng là tinh cần với mục
đích từ bỏ tất cả sanh y. Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải
học tập như sau: "Ta sẽ cố gắng tinh cần để từ bỏ tất cả sanh
y". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập. 3. Có hai pháp này, này các Tỷ-kheo, làm cho nung nấu. Thế nào là
hai? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người thân làm ác, thân không làm
thiện, miệng nói lời ác, miệng không nói thiện, ý nghĩ ác,
ý không nghĩ thiện. Vị ấy bị nung nấu với ý nghĩ: "Thân ta
đã làm ác". Vị ấy bị nung nấu với ý nghĩ: "Thân ta đã không
làm thiện". Vị ấy bị nung nấu với ý nghĩ: "Miệng ta đã
nói lời ác". Vị ấy bị nung nấu với ý nghĩ: "Miệng ta đã
không nói lời thiện". Vị ấy bị nung nấu với ý nghĩ: "Ý ta
đã nghĩ ác". Vị ấy bị nung nấu với ý nghĩ: "Ý ta đã không
nghĩ thiện". Có hai pháp này, này các Tỷ-kheo, làm cho nung nấu. 4. Có hai pháp này, này các Tỷ-kheo, không làm cho nung nấu. Thế nào
là hai? Ở đây, có người thân làm thiện, thân không làm ác,
miệng nói thiện, miệng không nói ác, ý nghĩ thiện, ý
không nghĩ ác. Vị ấy không bị nung nấu với ý nghĩ: "Thân ta đã làm
thiện". Vị ấy không bị nung nấu với ý nghĩ: "Thân ta đã
không làm ác". Vị ấy không bị nung nấu với ý nghĩ: "Miệng ta
đã nói lời thiện". Vị ấy không bị nung nấu với ý nghĩ:
"Miệng ta đã không nói lời ác". Vị ấy không bị nung nấu với
ý nghĩ: "Ý ta đã nghĩ thiện". Vị ấy không bị nung nấu với
ý nghĩ: "Ý ta đã không nghĩ ác". Có hai pháp này, này các
Tỷ-kheo, không làm cho nung nấu. 5. Có hai pháp này, này các Tỷ-kheo, đã học được, biết
được. Thế nào là hai? Không biết đủ đối với thiện pháp và
không có thối chuyển đối với tinh cần. Không có thối chuyển, này các
Tỷ-kheo, ta cố gắng như sau: "Ta sẵn sàng, dầu chỉ còn da, gân và
xương, dầu thịt và máu trên thân bị khô héo, mong rằng sẽ có tinh tấn kiên
trì để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, nhờ sức mạnh của người,
nhờ tinh tấn của người, nhờ cần dõng của người. Ta nhờ không phóng dật,
chứng được Chánh Giác. Nhờ không phóng dật, chứng được Vô thượng an ổn
khỏi các khổ ách". Và này các Tỷ-kheo, nếu các Thầy không có
thối chuyển, cố gắng như sau: "Ta sẵn sàng, dầu chỉ còn da, gân và
xương, dầu thịt và máu trên thân bị khô héo, mong rằng sẽ có tinh tấn kiên
trì để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, nhờ sức mạnh của người,
nhờ tinh tấn của người, nhờ cần dõng của người". Thời không bao lâu,
này các Tỷ-kheo, các Thầy sẽ đạt được mục đích mà các Thiện nam
tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: Ðó chính là
vô thượng cứu cánh Phạm hạnh, ngay trong hiện tại, các Thầy với thắng
trí, tự mình chứng ngộ, chứng đạt và an trú. Do vậy, này các Tỷ-kheo,
các Thầy cần phải học tập như sau: "Không có thối chuyển, chúng
ta cố gắng, chúng ta sẵn sàng, dầu chỉ còn da, gân và xương, dầu thịt và
máu trên thân bị khô héo, mong rằng sẽ có tinh tấn kiên trì để chứng
đắc những gì chưa chứng đắc, nhờ sức mạnh của người, nhờ tinh tấn của
người, nhờ cần dõng của người". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy
cần phải học tập. 6. Có hai pháp này, này các Tỷ-kheo, Thế nào là hai? Thấy vị
ngọt trong các pháp có thể khởi lên kiết sử. Và thấy nhàm chán
trong các pháp có thể khởi lên kiết sử. Ai sống thấy vị ngọt trong
các pháp có thể khởi lên kiết sử, này các Tỷ-kheo, tham không
đoạn tận, sân không đoạn tận, si không đoạn tận. Do tham không đoạn tận,
sân không đoạn tận, si không đoạn tận, nên không giải thoát khỏi sanh, già,
chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng người ấy không giải thoát khỏi
khổ đau. Ai sống thấy nhàm chán trong các pháp có thể khởi lên kiết
sử, này các Tỷ-kheo, tham được đoạn tận, sân được đoạn tận, si
được đoạn tận. Do tham được đoạn tận, sân được đoạn tận, si được
đoạn tận, nên được giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu,
não. Ta nói rằng người ấy giải thoát khỏi khổ đau. Những pháp này, này các
Tỷ-kheo, là hai pháp. 7. Hai pháp này, này các Tỷ-kheo, là pháp đen. Thế nào là hai?
Không tàm và không quý. Các pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai pháp
đen. 8. Hai pháp này, này các Tỷ-kheo, là pháp trắng. Thế nào là hai?
Tàm và quý. Các pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai pháp trắng. 9. Hai pháp trắng này, này các Tỷ-kheo, che chở cho thế giới. Thế
nào là hai? Tàm và quý. Nếu hai pháp trắng này, không che chở cho
thế giới, thời không thể chỉ được đây là mẹ hay là em, chị của
mẹ, hay đây là vợ của anh hay em của mẹ, hay đây là vợ của Thầy hay đây
là vợ của các vị tôn trưởng. Và thế giới sẽ đi đến hỗn loạn
như giữa các loài dê, loài gà vịt, loài heo, loài chó, loài dã can. Vì
rằng, này các Tỷ-kheo, có hai pháp trắng này che chở cho thế giới, nên
mới có thể chỉ được đây là mẹ hay đây là chị em của mẹ, hay đây là
vợ của anh hay em của mẹ, hay đây là vợ của Thầy hay đây là vợ của các vị
tôn trưởng. 10. Có hai thời kỳ an cư mùa mưa, này các Tỷ-kheo. Thế nào là hai?
Tiền an cư và hậu an cư. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai thời
kỳ an cư mùa mưa. II. Phẩm Tranh Luận
1-10 Các Sức Mạnh
1.-- Có hai sức mạnh, này các Tỷ-kheo. Thế nào là hai? Sức mạnh tư
sát và sức mạnh tu tập. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sức mạnh tư
sát? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tư sát như sau: "Với
thân làm ác, quả dị thục là ác ngay hiện tại và trong đời sau. Với
miệng nói ác, quả dị thục là ác ngay trong hiện tại và trong đời
sau. Với ý nghĩ ác, quả dị thục là ác ngay trong hiện tại và trong
đời sau". Vị ấy, tư sát như vậy, từ bỏ thân làm ác, tu tập thân làm
thiện, từ bỏ miệng nói ác, tu tập miệng nói thiện, từ bỏ
ý nghĩ ác, tu tập ý nghĩ thiện, tư sát sự thật thanh tịnh. Này
các Tỷ-kheo, đây gọi là sức mạnh tư sát. Và thế nào, này các Tỷ-kheo, là sức mạnh tu tập? Ở đây, này
các Tỷ-kheo, sức mạnh tu tập tức là sức mạnh của người hữu học. Do
sức mạnh tu học, vị ấy từ bỏ tham, từ bỏ sân, từ bỏ si. Sau khi từ bỏ
tham, từ bỏ sân, từ bỏ si, vị ấy không làm các điều bất thiện,
không phục vụ các điều ác. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là sức
mạnh tu tập. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai sức mạnh. 2. Này các Tỷ kheo, có hai sức mạnh. Thế nào là hai? Sức mạnh tư
sát và sức mạnh tu tập. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sức mạnh tư
sát? ... (như trên) ... Này các Tỷ-kheo, đây gọi là sức mạnh tư sát.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sức mạnh tu tập? Ở đây, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập niệm Niệm giác chi, liên hệ
đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn
diệt, hướng đến từ bỏ. Tu tập Trạch pháp giác chi ... tu tập Tinh tấn
giác chi ... tu tập Hỷ giác chi ... tu tập Khinh an giác chi ... tu tập Ðịnh
giác chi ... tu tập Xả giác chi, liên hệ đến viễn ly, liên hệ
đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là sức mạnh tu tập. Những pháp này, này
các Tỷ-kheo, là hai sức mạnh. 3. Này càc Tỷ kheo, có hai sức mạnh.... (như số 1 ở trên). Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là sức mạnh tu tập? Ở đây, này các Tỷ-kheo,
vị Tỷ-kheo ly dục, ly pháp bất thiện, chứng đạt và an trú sơ
Thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Làm cho
tịnh chỉ tầm và tứ, chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái
hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Ly hỷ,
trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh
gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba. Xả lạc, xả
khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ
tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, đây
gọi là sức mạnh tu tập. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai sức
mạnh. 4. Có hai cách thuyết pháp này của Như Lai, này các Tỷ-kheo. Thế
nào là hai? Lược thuyết và rộng thuyết. Hai pháp này, này các
Tỷ-kheo, là hai cách thuyết pháp của Như Lai. 5. Trong bất cứ tranh tụng nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo phạm tội và
Tỷ-kheo buộc tội, không có tự mình khéo quán sát lấy mình, thời tranh
tụng ấy được chờ đợi là sẽ đưa đến kéo dài, gay gắt, ác liệt,
và các Tỷ-kheo sẽ sống không được an lạc. Và trong bất cứ cuộc tranh
tụng nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo phạm tội và Tỷ-kheo buộc tội,
có tự mình khéo quán sát lấy mình, thời tranh tụng ấy, này các Tỷ-kheo,
được chờ đợi là không đưa đến kéo dài, gay gắt, ác liệt, và các
Tỷ-kheo sẽ sống được an lạc. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo phạm tội và Tỷ-kheo
buộc tội, khéo tự mình quán sát lấy mình? Ở đây, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo phạm tội quán sát như sau: "Ta phạm một tội bất thiện
về thân. Tỷ-kheo ấy đã thấy ta phạm tội bất thiện về thân.
Nếu ta không phạm tội bất thiện về thân, Tỷ-kheo ấy sẽ không
thấy ta phạm tội bất thiện về thân. Do vì ta có phạm một tội bất
thiện về thân, do vậy, Tỷ-kheo ấy thấy ta có phạm tội bất
thiện về thân. Thấy ta có phạm tội bất thiện về thân,
Tỷ-kheo ấy không được hoan hỷ. Vì không hoan hỷ, Tỷ-kheo ấy
nói với ta lời không hoan hỷ. Vì ta bị Tỷ-kheo ấy nói lời không hoan
hỷ, nên ta không hoan hỷ. Do ta không hoan hỷ, ta nói cho các người
khác biết. Như vậy, ở đây tội đã phạm chinh phục ta như trường hợp người
phải trả thuế hàng hóa của mình". Như vậy, này các Tỷ-kheo, là
Tỷ-kheo phạm tội khéo tự mình quán sát lấy mình. Và thế nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo buộc tội khéo tự mình
quán sát lấy mình? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo buộc tội quán
sát như sau: "Tỷ-kheo phạm một tội bất thiện về thân. Ta đã
thấy Tỷ-kheo ấy phạm một tội bất thiện về thân. Nếu
Tỷ-kheo này không phạm tội bất thiện về thân, thời ta đã không
thấy Tỷ-kheo ấy phạm tội bất thiện về thân. Do vì Tỷ-kheo này
có phạm một tội bất thiện về thân, do vậy Ta thấy Tỷ-kheo này
phạm tội bất thiện về thân. Và sau khi thấy Tỷ-kheo này phạm tội
bất thiện về thân, ta không hoan hỷ. Do ta không hoan hỷ, ta nói
cho Tỷ-kheo này biết lời không hoan hỷ. Vì Tỷ-kheo này bị ta
nói lời không hoan hỷ, nên không hoan hỷ. Vì không hoan hỷ, vị ấy
nói cho các người khác biết. Như vậy, ở đây tội đã phạm chinh phục ta, như
trường hợp người phải trả thuế hàng hóa của mình". Như vậy,
Tỷ-kheo buộc tội khéo tự mình quán sát lấy mình. Trong bất cứ tranh tụng nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo phạm tội và
Tỷ-kheo buộc tội, không tự mình khéo quán sát lấy mình, thời tranh tụng
ấy được chờ đợi là sẽ đưa đến kéo dài, gay gắt, ác liệt, và
các Tỷ-kheo sẽ sống không được an lạc. Và trong bất cứ cuộc tranh tụng
nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo phạm tội và Tỷ-kheo buộc tội, có tự
mình khéo quán sát lấy mình, thời tranh tụng ấy, này các Tỷ-kheo, được
chờ đợi là không đưa đến kéo dài, gay gắt, ác liệt, và các
Tỷ-kheo sẽ sống được an lạc. 6. Rồi một Bà-la-môn đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên với
Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào
đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên,
Bà-la-môn ấy bạch Thế Tôn: - Do nhân gì, thưa Tôn giả Gotama, do duyên gì, ở đây một số chúng sanh
khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa
ngục? - Do nhân phi pháp hành và bất bình đẳng hành, này Bà-la-môn, như vậy ở
đây, một số các chúng sanh sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác
thú, đọa xứ, địa ngục! - Do nhân gì, thưa Tôn giả Gotama, do duyên gì, ở đây một số chúng sanh
sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi Thiện, cõi Trời, cõi đời này? - Do nhân pháp hành và bình đẳng hành, này Bà-la-môn, như vậy ở đây,
một số chúng sanh sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên cõi Thiện,
cõi Trời, cõi đời này. - Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả
Gotama! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra
những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ đi lạc hướng, đem đèn sáng vào
trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, pháp
được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Con
nay xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo Tăng! Mong Tôn
giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay cho đến mạng chung, con trọn
đời quy ngưỡng! 7. Rồi Bà-la-môn Jànussoni đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói
lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời
chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên,
Bà-la-môn Jànussoni bạch Thế Tôn: - Do nhân gì, thưa Tôn giả Gotama, do duyên gì, ở đây một số chúng sanh
sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục?
- Do vì có làm, này Bà-la-môn, do vì không làm. Như vậy, ở đây một số
chúng sanh sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa
xứ, địa ngục! - Do nhân gì, thưa Tôn giả Gotama, do duyên gì, ở đây một số chúng sanh
sau khi thân hoại mạng chung, sanh lên cõi Thiện, cõi Trời, cõi đời này? - Do vì có làm, này Bà-la-môn, do vì không làm. Như vậy, ở đây một số
chúng sanh sau khi thân hoại mạng chung, sanh lên cõi Thiện, cõi Trời, cõi
đời này. - Thưa Tôn giả Gotama, lời nói vắn tắt không giảng rộng của Tôn giả
Gotama, con không được hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi. Lành thay,
nếu Tôn giả Gotama thuyết pháp cho con để con có thể hiểu
ý nghĩa một cách rộng rãi lời nói vắn tắt không giảng rộng của Tôn giả
Gotama. - Vậy này Bà-la-môn, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói. Bà-la-môn Jànussoni vâng đáp Thế Tôn: - Thưa vâng, Tôn giả Thế Tôn nói như sau: - Ở đây, này Bà-la-môn, có người thân làm ác, thân không làm
thiện, miệng nói ác, miệng không nói thiện, ý nghĩ ác,
ý không nghĩ thiện. Như vậy, này Bà-la-môn, do làm và do không làm
như vậy, ở đây một số chúng sanh sau khi thân hoại mạng chung, được sanh
vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Lại ở đây, này Bà-la-môn, có
một số chúng sanh thân làm thiện, thân không làm ác, miệng nói
thiện, miệng không nói ác, ý nghĩ thiện, ý không nghĩ ác.
Như vậy, này Bà-la-môn, do làm và do không làm như vậy, ở đây một số
chúng sanh sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên cõi Thiện, cõi
Trời, cõi đời này. - Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama ... từ nay cho đến mạng chung, con
trọn đời quy ngưỡng! 8. Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda đang
ngồi xuống một bên: - Ta tuyên bố một cách dứt khoát rằng, này Ananda, thân làm ác, miệng
nói ác, ý nghĩ ác là điều không nên làm. - Vì rằng, bạch Thế Tôn, Thế Tôn đã tuyên bố một cách dứt khoát
rằng, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác là điều không nên
làm. Nếu làm những điều không nên làm ấy, thời có những nguy hại gì
được chờ đợi? - Vì rằng này Ananda, Ta đã tuyên bố một cách dứt khoát rằng, thân làm
ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác là điều không nên làm. Nếu làm
những điều không nên làm ấy, thời có những nguy hại như sau được chờ
đợi: Tự mình chê trách mình; sau khi được biết, kẻ trí chê trách,
tiếng ác đồn xa, bị mê ám khi mạng chung; sau khi thân hoại mạng chung, bị
sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Vì thế, này Ananda, Ta
đã tuyên bố một cách dứt khoát rằng, thân làm ác, miệng nói ác, ý
nghĩ ác là điều không nên làm. Nếu làm những điều không nên
làm ấy, thời có những nguy hại như vậy được chờ đợi. - Ta tuyên bố một cách dứt khoát rằng, này Ananda, thân làm thiện,
miệng nói thiện, ý nghĩ thiện là điều nên làm. - Vì rằng, bạch Thế Tôn, Thế Tôn đã tuyên bố một cách dứt khoát
rằng, thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện là
điều nên làm. Nếu làm những điều nên làm ấy, thời có những lợi
ích gì được chờ đợi? - Vì rằng này Ananda, Ta dã tuyên bố một cách dứt khoát rằng, thân làm
thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện là điều nên làm.
Nếu làm những điều nên làm ấy, thời có những lợi ích như sau được
chờ đợi: Tự mình không chê trách mình; sau khi được biết, kẻ trí tán
thán, tiếng lành đồn xa, không bị mê ám khi mạng chung; sau khi thân hoại
mạng chung, được sanh vào cõi Thiện, cõi Trời, cõi đời này. Vì thế,
này Ananda, Ta đã tuyên bố một cách dứt khoát rằng, thân làm thiện,
miệng nói thiện, ý nghĩ thiện là điều nên làm. Nếu
làm những điều nên làm ấy, thời có những lợi ích như vậy được chờ
đợi. 9. Này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ bất thiện, này các Tỷ-kheo, từ
bỏ bất thiện có thể làm được. Nếu từ bỏ bất thiện không
thể làm được thời ta đã không nói như sau: "Này các Tỷ-kheo,
hãy từ bỏ bất thiện". Vì rằng, này các Tỷ-kheo, từ bỏ bất
thiện có thể làm được, do vậy Ta mới nói rằng: "Này các
Tỷ-kheo, hãy từ bỏ bất thiện". Và nếu, này các Tỷ-kheo,
từ bỏ bất thiện đưa đến bất hạnh, đau khổ, thời ta không nói như
sau: "Này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ bất thiện". Và này các
Tỷ-kheo, vì từ bỏ bất thiện đưa đến hạnh phúc, an lạc, nên Ta
đã nói như sau: "Này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ bất thiện". Này các Tỷ-kheo, hãy tu tập thiện. Này các Tỷ-kheo, tu tập
thiện có thể làm được. Nếu tu tập thiện không thể làm
được, này các Tỳ kheo, thời ta đã không nói như sau: "Này các
Tỷ-kheo, hãy tu tập thiện". Vì rằng, này các Tỷ-kheo, tu tập
thiện có thể làm được, do vậy Ta mới nói rằng: "Này các
Tỷ-kheo, hãy tu tập thiện". Và nếu, này các Tỷ-kheo, tu tập
thiện đưa đến bất hạnh, đau khổ, thời ta đã không nói như sau:
"Này các Tỷ-kheo, hãy tu tập thiện". Và vì rằng, này các
Tỷ-kheo, tu tập thiện đưa đến hạnh phúc, an lạc, nên Ta đã nói
như sau: "Này các Tỷ-kheo, hãy tu tập thiện". 10. Hai pháp này, này các Tỷ-kheo, đưa đến sự hỗn loạn (mê
mờ) và biến mất của diệu pháp. Thế nào là hai? Văn cú bị đảo
ngược và ý nghĩa bị hiểu lầm. Nếu văn cú bị đảo ngược thời
ý nghĩa bị hiểu lầm. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai pháp
đưa đến hỗn loạn và biến mất của diệu pháp. 11. Hai pháp này, này các Tỷ-kheo, đưa đến an trú, không biến
loạn, không biến mất của diệu pháp. Thế nào là hai? Văn cú phối
trí chơn chánh và ý nghĩa được hiểu chơn chánh. nếu văn cú
được phối trí chơn chánh thời ý nghĩa được hiểu chơn chánh. Những
pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai pháp đưa đến an trú, không hỗn
loạn, không biến mất của diệu pháp. III. Phẩm Người Ngu
1-10
1. - Này các Tỷ-kheo, có hai loại người ngu này. Thế nào là hai?
Người có phạm tội nhưng không thấy có phạm tội, và người không chấp nhận
người khác như pháp phát lộ tội của mình. Này các Tỷ-kheo, có hai loại
người ngu này. Này các Tỷ-kheo, có hai loại người có trí. Thế nào là hai? Người
có phạm tội là thấy có phạm tội, và người chấp nhận người khác như pháp
phát lộ tội của mình. Này các Tỷ-kheo, có hai loại người có trí này. 2. Này các Tỷ-kheo, có hai hạng người này xuyên tạc Như Lai. Thế
nào là hai? Người độc ác với tâm đầy sân hận, và người có lòng tin với
tà kiến. Này các Tỷ-kheo, có hai hạng người này xuyên tạc Như Lai. 3. Này các Tỷ-kheo, có hai hạng người này xuyên tạc Như Lai. Thế
nào là hai? Người nêu rõ Như Lai có nói, có thuyết là Như Lai không
nói, không thuyết, và người nêu rõ Như Lai không nói, không thuyết
là Như Lai có nói, có thuyết. Này các Tỷ-kheo, có hai hạng người này
xuyên tạc Như Lai. 4. Này các Tỷ-kheo, có hai hạng người này không xuyên tạc Như Lai.
Thế nào là hai? Người nêu rõ Như Lai có nói, có thuyết là Như Lai
có nói, có thuyết, và người nêu rõ Như Lai không nói, không thuyết
là Như Lai không nói, không thuyết. Nầy các Tỷ-kheo, có hai hạng người này không xuyên
tạc Như Lai 5. Hai hạng người này, này các Tỷ-kheo, xuyên tạc Như Lai. Thế nào
là hai? Người nêu rõ kinh cần phải giải nghĩa là kinh đã được giải nghĩa,
và người nêu rõ kinh đã được giải nghĩa là kinh cần phải giải nghĩa. Hai
hạng người này, này các Tỷ-kheo, xuyên tạc Như Lai. 6. Hai hạng người này, này các Tỷ-kheo, không xuyên tạc Như Lai.
Thế nào là hai? Người nêu rõ kinh cần phải giải nghĩa là kinh cần phải
giải nghĩa, và người nêu rõ kinh đã được giải nghĩa là kinh đã được
giải nghĩa. Hai hạng người này, này các Tỷ-kheo, không xuyên tạc Như Lai. 7. Với người có hành động che đậy, này các Tỷ-kheo, một trong hai sanh
thú được chờ đợi: địa ngục hay bàng sanh. Với người không có hành động
che đậy, này các Tỷ-kheo, một trong hai sanh thú được chờ đợi: chư
Thiên hay loài Người. 8. Với người có tà kiến, này các Tỷ-kheo, một trong hai sanh thú
được chờ đợi: địa ngục hay loại bàng sanh. Với người có chánh kiến, này các Tỷ-kheo, một trong hai sanh thú
được chờ đợi: chư Thiên hay loài Người. Người theo ác giới, này các Tỷ-kheo, có hai chấp nhận: địa ngục hay
loài bàng sanh. Người đầy đủ thiện giới, này các Tỷ-kheo, có hai
chấp nhận: chư Thiên và loài Người. 9. Do quán thấy hai lợi ích, này các Tỷ-kheo, Ta đi đến ngôi rừng
hẻo lánh, các trú xứ xa vắng. Thế nào là hai? Thấy tự mình hiện tại
lạc trú, và có lòng thương tưởng đến những chúng sanh về sau. Do
quán thấy hai lợi ích này, này các Tỷ-kheo, nên Ta đi đến các ngôi
rừng hẻo lánh, các trú xứ xa vắng. 10. Có hai pháp này, này các Tỷ-kheo, thuộc thành phần minh. Thế nào
là hai? Chỉ và Quán. Chỉ được tu tập, này các Tỷ-kheo, chờ đợi lợi
ích gì? Tâm được tu tập. Tâm được tu tập, chờ đợi lợi ích gì? Cái gì
thuộc về tham được đoạn tận. Quán được tu tập, này các Tỷ-kheo,
chờ đợi lợi ích gì? Tuệ được tu tập. Tuệ được tu tập, chờ đợi
lợi ích gì? Cái gì thuộc vô minh được đoạn tận. Bị tham làm uế nhiễm,
này các Tỷ-kheo, tâm không thể giải thoát. Hay bị vô minh làm uế
nhiễm, tuệ không được tu tập. Do vậy, do ly tham, là tâm giải thoát. Do
đoạn vô minh, là tuệ giải thoát. IV. Phẩm Tâm Thăng Bằng
1-11 Ðất
1.- Này các Tỷ-kheo, ta sẽ giảng cho các Thầy về địa vị bậc không
phải Chân nhân và địa vị bậc Chân nhân. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ
giảng. - Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Các tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế tôn nói như sau: - Này các Tỷ-kheo, thế nào là địa vị bậc không phải Chân nhân?
Người không phải Chân nhân, này các Tỷ-kheo, không biết ơn, không
nhớ ơn. Ðối với những người độc ác, đây là đặc tánh của họ được
biết đến, này các Tỷ-kheo, tức là không biết ơn, không nhớ
ơn. Ðây hoàn toàn là địa vị kẻ không Chân nhân, này các Tỷ-kheo, tức
là không biết ơn, không nhớ ơn. Còn bậc Chân nhân, này các Tỷ-kheo,
là biết ơn, là nhớ ơn. Ðối với những thiện nhân, đây là đặc tánh
của họ được biết đến, này các Tỷ-kheo, tức là biết ơn,
nhớ ơn. Ðây hoàn toàn là địa vị bậc Chân nhân, này các Tỷ-kheo, tức
là biết ơn, nhớ ơn. 2. Có hai hạng người, này các Tỷ-kheo, ta nói không thể trả ơn
được. Thế nào là hai? Mẹ và Cha. Nếu một bên vai cõng mẹ, này các
Tỷ-kheo, nếu một bên vai cõng cha, làm vậy suốt trăm năm, cho đến
trăm tuổi; nếu đấm bóp, thoa xức, tắm rửa, xoa gội, và dầu tại đấy, mẹ
cha có vãi tiểu tiện đại tiện, như vậy, này các Tỷ-kheo, cũng
chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Hơn nữa, này các Tỷ-kheo, nếu
có an trí cha mẹ vào quốc độ với tối thượng uy lực, trên quả đất lớn với
bảy báu này, như vậy, này các Tỷ-kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ
mẹ và cha. Vì cớ sao? Vì rằng, này các Tỷ-kheo, cha mẹ đã làm nhiều
cho con cái, nuôi nấng, nuôi dưỡng chúng lớn, giới thiệu chúng vào đời
này. Nhưng này các Tỷ-kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin,
khuyến khích, hướng dẫn an trú các vị ấy vào lòng tin; đối với mẹ cha
theo ác giới, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào thiện
giới; đối với mẹ cha xan tham, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy
vào bố thí; đối với mẹ cha theo ác trí tuệ, khuyến khích, hướng
dẫn, an trú các vị ấy vào trí tuệ. Cho đến như vậy, này các
Tỷ-kheo, là làm đủ và trả ơn đủ mẹ và cha. 3. Rồi một Bà-la-môn đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói với
Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm... ngồi xuống một bên. Bà-la-môn
ấy nói với Thế Tôn: - Tôn giả Gotama đã nói gì, đã thuyết gì? - Này Bà-la-môn, Ta thuyết về hành động và Ta thuyết về
không hành động. - Như thế nào, Tôn giả Gotama thuyết về hành động và thuyết
về không hành động? - Ta thuyết không hành động, này Bà-la-môn, đối với thân làm ác,
miệng nói ác, ý nghĩ ác. Ta thuyết không hành động đối với
nhiều loại pháp ác, bất thiện. Ta thuyết hành động, này
Bà-la-môn, đối với thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ
thiện. Ta thuyết hành động đối với nhiều loại pháp thiện. Như
vậy, này Bà-la-môn, ta thuyết về hành động và thuyết về không
hành động. - Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama ... từ nay cho đến mạng chung, con
trọn đời quy ngưỡng! 4. Rồi gia chủ Anàthapindika đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh
lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, gia chủ
Anàthapindika bạch Thế Tôn: - Có bao nhiêu người, bạch Thế Tôn, đáng được cúng dường ở đời?
Và chỗ nào cần phải bố thí cúng dường. - Có hai hạng người, này gia chủ, đáng được cúng dường ở đời: Hữu
học và vô học. Ðối với hai hạng người này đáng được cúng dường
ở đời, này gia chủ, ở đây cần phải bố thí cúng dường. Thế Tôn thuyết như vậy, Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc
Ðạo sư lại nói thêm: Hữu học và vô học
5. Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn ở tại Sàvatthi, Thắng Lâm, khu vườn ông
Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Sàriputta trú ở Sàvatthi, tại Ðông Viên,
ngôi lâu đài của mẹ Migàra. Tại đấy, Tôn giả Sàriputta gọi các
Tỷ-kheo: - Này chư Hiền Tỷ-kheo! - Thưa Hiền giả. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp tôn giả Sàriputta, Tôn giả Sàriputta nói như
sau: - Này chư Hiền, tôi sẽ giảng về người bị nội kiết sử trói
buộc và người bị ngoại kiết sử trói buộc. Hãy nghe và khéo tác ý, tôi sẽ
nói. - Thưa vâng, Hiền giả. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp tôn giả Sàriputta, Tôn giả Sàriputta nói như
sau: - Này chư Hiền, thế nào là người bị nội kiết sử trói buộc?
Ở đây, này chư Hiền, Tỷ-kheo có giới hạnh, sống hộ trì với sự
hộ trì của giới bổn Pàtimokkha, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi
trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập trong các học giới.
Vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào một trong các Thiên giới.
Sau khi từ chỗ ấy mạng chung, vị ấy làm người lại trở về, trở về
ở thế giới này. Vị này, này chư Hiền, được gọi là người bị
nội kiết sử trói buộc, người lại trở lại, trở lui trạng thái này. Thế nào, này chư Hiền, là người bị ngoại kiết sử trói buộc?
Ở đây, này chư Hiền, Tỷ-kheo có giới hạnh, sống hộ trì với sự
hộ trì của giới bổn Pàtimokkha, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi
trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập trong các học giới.
Vị ấy, chứng đạt và an trú tịch tịnh tâm giải thoát. Sau khi thân hoại mạng
chung, Vị ấy sanh vào một loại chư Thiên. Sau khi từ chỗ ấy mạng chung, vị
ấy không còn trở lui, không còn trở lại trạng thái này nữa. Vị này, này
chư Hiền, được gọi là người bị ngoại kiết sử trói buộc, không
còn trở lui, không còn trở lại trạng thái này nữa. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có giới hạnh, sống hộ trì với
sự hộ trì của giới bổn Pàtimokkha, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi
trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập trong các học giới.
Vị ấy thực hiện sự yếm ly, ly tham, đoạn diệt các dục vọng.
Vị ấy thực hiện sự đoạn diệt khát ái. Vị ấy thực hiện sự đoạn
diệt tham. Vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào một trong
các Thiên giới. Sau khi từ chỗ ấy mạng chung, vị ấy không còn trở lui,
không còn trở lại trạng thái này nữa. Vị này, này chư Hiền, được
gọi là người bị ngoại kiết sử trói buộc, không còn trở lui, không
còn trở lại trạng thái này nữa. Rồi một số đông chư Thiên với tâm thăng bằng đi đến Thế Tôn;
sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, chư
Thiên ấy bạch Thế Tôn: - Tôn giả Sàriputta này, bạch Thế Tôn, tại Ðông viên, ở lâu đài mẹ
Migàra, thuyết pháp về người bị nội kiết sử trói buộc và người
bị ngoại kiết sử trói buộc. Hội chúng rất hoan hỷ, bạch Thế Tôn.
Lành thay! Bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn vì lòng từ mẫn đi đến
Tôn giả Sàriputta. Thế Tôn im lặng nhận lời. Rồi Thế Tôn, rồi như người lực sĩ
duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại bàn tay đang duỗi ra, cũng vậy,
biến mất ở Thắng Lâm, hiện ra ở tại Ðông viên, tại lâu đài mẹ
Migàra, trước mặt Tôn giả Sàriputta. Thế Tôn ngồi xuống trên chỗ đã
soạn sẵn. Rồi Tôn giả Sàriputta đảnh lễ Thế Tôn, ngồi xuống một bên.
Thế Tôn nói với Tôn giả Sàriputta đang ngồi xuống một bên: - Ở đây, này Sàriputta, có một số đông chư Thiên, với tâm thăng
bằng, đi đến Ta; sau khi đến, đảnh lễ Ta rồi đứng một bên. Ðứng
một bên, chư Thiên ấy thưa với Ta: "Tôn giả Sàriputta này, bạch Thế
Tôn, tại Ðông viên, ở lâu đài mẹ Migàra, thuyết pháp về người bị
nội kiết sử trói buộc và người bị ngoại kiết sử trói buộc. Hội
chúng rất hoan hỷ, bạch Thế Tôn. Lành thay! Bạch Thế Tôn, nếu
Thế Tôn vì lòng từ mẫn đi đến Tôn giả Sàriputta". Này
Sàriputta, chư Thiên ấy tuy con số đến 10, 20, 30, 40, 50, 60, nhưng cùng
đứng chỉ trong khoảng trống đầu một cây kim, không có chen lấn nhau. Này
Sàriputta, Thầy có thể nghĩ như sau: "Chắc chắn, tại chỗ kia (trên
thế giới) đã tu tập, nhờ vậy, chư Thiên ấy, tuy con số đến 10, 20,
30, 40, 50, 60, nhưng cùng đứng chỉ trong khoảng trống đầu một cây kim, không
có chen lấn nhau". Này Sàriputta, Thầy chớ có thấy như vậy. Chính tại
đây, này Sàriputta, chư Thiên ấy đã tu tập tâm, nhờ như vậy chư Thiên ấy
tuy con số đến ... không chen lấn nhau. Do vậy, này Sàriputta, cần phải
học tập như sau: "Chúng tôi sẽ có các căn an tịnh, các ý an
tịnh". Này Sàriputta, cần phải học tập như vậy. Với những ai có các
căn an tịnh, này Sàriputta, với những ai có các ý an tịnh, thời thân
nghiệp cũng sẽ được an tịnh, khẩu nghiệp được an tịnh, ý
nghiệp được an tịnh. "Chúng ta sẽ đem tặng cho các vị đồng Phạm
hạnh một quà tặng an tịnh". Như vậy, này Sàriputta, các Thầy cần phải
học tập. Các du sĩ ngoại đạo nào, này Sàriputta, không được nghe pháp
môn này, họ sẽ bị thiệt hại. 6- Như vầy tôi nghe. Một thời Tôn giả Mahà Kaccàna ở tại Vanara, trên bờ sông Kaddamada. Rồi
Bà-la-môn Aràmadanda đi đến Tôn giả Mahà Kaccàna, sau khi đến, nói
lên với Tôn giả Mahà Kaccàna những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên
những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống
một bên, Bà-la-môn Aràmadanda thưa với Tôn giả Mahà Kaccàna: - Do nhân gì, thưa Tôn giả Kaccàna, do duyên gì các người
Sát-đế-lỵ tranh chấp với các người Sát-đế-lỵ, các người
Bà-la-môn tranh chấp với các người Bà-la-môn, các người gia chủ tranh chấp
với các người gia chủ? - Do nhân thiên chấp, bị trói buộc, bị đắm say, bị xâm chiếm, bị đắm
trước bởi các dục tham, này Bà-la-môn, nên các quý tộc tranh chấp với
các quý tộc, các người Bà-la-môn tranh chấp với các người Bà La môn, các
người gia chủ tranh chấp với các người gia chủ. - Do nhân gì, thưa Tôn giả Kaccàna, do duyên gì các Sa-môn tranh chấp với
các Sa-môn? - Do nhân thiên chấp, bị trói buộc, bị đắm say, bị xâm chiếm, bị đắm
trước bởi các kiến tham, này Bà-la-môn, nên các Sa-môn tranh chấp với
các Sa-môn. - Nhưng thưa Tôn giả Kaccàna, có người nào ở đời có thể vượt qua
thiên chấp, bị trói buộc, bị đắm say, bị xâm chiếm, bị đắm trước bởi
các dục tham này, có thể vượt qua thiên chấp, bị trói buộc, bị đắm say,
bị xâm chiếm, bị đắm trước bởi các kiến tham này? - Có người ở đời này, này Bà-la-môn, có thể vượt qua thiên chấp,
trói buộc, đắm say, xâm chiếm, bị đắm trước bởi các dục tham này, có
thể vượt qua thiên chấp, trói buộc, đắm say, xâm chiếm, bị đắm
trước bởi các kiến tham này. Vị ấy là ai, này các Bà-la-môn, có thể vượt qua thiên chấp ...
kiến tham này? Ở quốc độ phương Ðông, này Bà-la-môn, có một thành phố tên là
Sàvatthi, Tại đấy, Thế Tôn nay đang trú, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác.
Vị Thế Tôn ấy, này Bà-la-môn, đã vượt qua thiên chấp ... kiến tham
này. Khi được nghe nói vậy, Bà-la-môn Aràmadanda từ chỗ ngồi đứng dậy,
đắp thượng y vào một bên vai, đầu gối phía hữu quỳ trên đất, chắp tay
hướng về phía Thế Tôn, và nói lên ba lần lời cảm hứng như sau: - Kính lễ Thế Tôn ấy, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác! Kính lễ Thế
Tôn ấy, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác! Kính lễ Thế Tôn ấy, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác! Vị Thế Tôn ấy, đã vượt qua thiên chấp ...
kiến tham này. Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Kaccàna! Thật vi diệu thay, thưa Tôn
giả Kaccàna! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, thưa
Tôn giả Kaccàna, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ đi lạc
hướng, hay đem đèn vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể
thấy sắc. Cũng vậy, chánh pháp đã được Tôn giả Kaccàna dùng nhiều
pháp môn để giải thích. Thưa Tôn giả Kaccàna, con nay xin quy y Tôn giả
Gotama, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo Tăng! Mong Tôn giả Kaccàna chấp nhận
con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng! 7. Một thời, Tôn giả Mahà Kaccàna trú ở Madhurà, tại rừng Gundhà. Rồi
Bà-la-môn Kandaràyana đi đến Tôn giả Mahà Kaccàna; sau khi đến, nói
lên với Tôn giả Mahà Kaccàna những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên
với Tôn giả Mahà Kaccàna những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi
xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Kandaràyana thưa với Tôn
giả Mahà Kaccàna: - Tôi có nghe như sau, thưa Tôn giả Kaccàna: "Sa-môn Kaccàna không kính
lễ, không đứng dậy, không lấy ghế mời ngồi các bậc Bà-la-môn già cả,
trưởng lão, các bậc trưởng thượng đã đi quá nửa cuộc đời, đã đạt mức
cuối tuổi đời". Thưa Tôn giả Kaccàna, có phải sự tình là như vậy
không? Nếu Tôn giả Kaccàna không kính lễ, không đứng dậy, không lấy
ghế mời ngồi các bậc Bà-la-môn già cả, trưởng lão, các bậc trưởng
thượng đã đi quá nửa cuộc đời, đã đạt cuối mức tuổi đời, sự tình như
vậy, thưa Tôn giả Kaccàna, là không được tốt đẹp. - Này Bà-la-môn, có Thế Tôn, bậc Tri giả, bậc Kiến giả, bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã tuyên bố về địa vị của tuổi trưởng lão
và về địa vị của tuổi trẻ. Vị trưởng lão, này Bà-la-môn, 80 tuổi hay
90 tuổi, hay 100 tuổi đời, nếu vị ấy thọ hưởng các dục vọng,
sống giữa các dục vọng, bị đốt cháy bởi lửa nhiệt não của dục
vọng, bị nhai nghiến bởi các tầm tư dục vọng, cố gắng tìm cầu
các dục vọng; người như vậy được gọi là kẻ ngu, không phải là bậc
trưởng lão. Dầu cho này Bà-la-môn, một người còn trẻ, một thanh niên trẻ
trung với tóc đen nhánh, đầy đủ tuổi trẻ hiền thiện trong thời sơ
khởi của tuổi đời, mà người ấy không hưởng thọ các dục vọng,
không sống giữa các dục vọng, không bị đốt cháy bởi lửa nhiệt não
của dục vọng, không bị nhai nghiến bởi các tầm tư dục vọng, không
có cố gắng tìm cầu các dục vọng; người như vậy được gọi là bậc
có trí, bậc trưởng lão. - Khi được nghe nói vậy, Bà-la-môn Kandarãyana từ chỗ ngồi đứng dậy,
đắp thượng y vào một bên vai, cúi đầu đảnh lễ chân các Tỷ-kheo còn
trẻ tuổi và nói: - Trưởng lão là chư Tôn giả, đã đứng trên địa vị trưởng lão. Trẻ
tuổi là chúng con, đã đứng trên địa vị trẻ tuổi. Thật vi diệu, Tôn giả Kaccàna, ... Mong Tôn giả Kaccàna chấp nhận con
làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng! 8. - Khi nào các người ăn trộm cường mạnh, này các Tỷ-kheo, trong khi
ấy, các vua chúa yếu đuối, trong khi ấy, thật không an toàn cho các vua
chúa để đi qua lại, đi ra, đi quan sát các biên cương. Và trong khi ấy,
thật không an toàn cho các Bà-la-môn, các gia chủ để đi qua lại, đi ra,
đi giám sát các công việc làm ở ngoài. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
khi các ác Tỷ-kheo cường mạnh, trong khi ấy, các thuần tịnh Tỷ-kheo
yếu đuối. Trong khi ấy, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo thuần tịnh
giữ thái độ im lặng, hoặc ẩn mình giữa chúng Tỷ-kheo, hoặc đi đến
các quốc độ biên địa. Và như vậy, này các Tỷ-kheo, là bất hạnh cho đa
số, là không an lạc cho đa số, là không lợi ích cho đa số, là bất hạnh,
đau khổ cho chư Thiên và loài Người. Khi nào, này các Tỷ-kheo, các vua chúa cường mạnh, trong khi ấy, các
trộm cướp yếu đuối, trong khi ấy, thật an toàn cho các vua chúa để
đi qua lại, đi ra, đi quan sát các biên cương. Và trong khi ấy, thật an toàn
cho các Bà-la-môn, các gia chủ để đi qua lại, đi ra, đi giám sát các
công việc làm ở ngoài. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi các thuần tịnh
Tỷ-kheo cường mạnh, trong khi ấy, các ác Tỷ-kheo yếu đuối. Trong
khi ấy, này các Tỷ-kheo, các ác Tỷ-kheo giữ thái độ im lặng, hoặc ẩn
mình giữa chúng Tỷ-kheo, hoặc đi các chỗ khác. Và như vậy, này các
Tỷ-kheo, là hạnh phúc cho đa số, là an lạc cho đa số, là lợi ích cho đa
số, là hạnh phúc, an lạc cho chư Thiên và loài Người. 9. Ta không tán thán hai loại tà hạnh, này các Tỷ-kheo, ở người gia
chủ hay ở người xuất gia. Người gia chủ, này các Tỷ-kheo, hay người xuất
gia theo tà hạnh, do nhân duyên tà hạnh, không thể đem lại chánh lý,
thiện pháp. Ta tán thán hai loại chánh hạnh, này các Tỷ-kheo, ở người gia chủ hay
ở người xuất gia. Người gia chủ, này các Tỷ-kheo, hay người xuất gia theo
chánh hạnh, do nhân duyên chánh hạnh, có thể đem lại chánh lý,
thiện pháp. 10. Những Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, chặn đứng cả văn và nghĩa,
bằng cách nắm giữ sai lạc các kinh điển và những văn tự thích ứng, thì
những Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, chịu trách nhiệm về bất
hạnh cho đa số, không an lạc cho đa số, không lợi ích cho đa số, bất hạnh,
đau khổ cho chư Thiên và loài Người. Ngoài ra, các Tỷ-kheo ấy, này các
Tỷ-kheo, chất chứa nhiều vô phước làm cho diệu pháp biến mất. Những Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, tùy thuận cả văn và nghĩa,
bằng cách nắm giữ đúng đắn các kinh điển và những văn tự thích ứng,
thì những Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, chịu trách nhiệm về
hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, lợi ích cho đa số, hạnh phúc, và an
lạc cho chư Thiên và loài Người. Ngoài ra, các Tỷ-kheo ấy, này các
Tỷ-kheo, chất chứa nhiều phước đức, làm cho diệu pháp an trú.
Cả hai ở trong đời
Ðều đáng được cúng dường
Ðối với người dâng lễ
Họ giữ thân chánh trực
Cả lời nói ý nghĩ
Phước điền người dâng cúng
Ðây thí có quả lớn.
-ooOoo-
Mục Lục các Chương:
01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | Giới thiệu
Revised: 20-04-2004