BuddhaSasana Home Page
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Tăng Chi Bộ - Anguttara
Nikaya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
V. Phẩm Nhỏ
41.- Sự Có Mặt
- Do sự có mặt của ba pháp, này các Tỷ-kheo, một thiện nam tử có
lòng tin tạo ra nhiều phước. Thế nào là ba? Do sự có mặt của lòng tin, này các Tỷ-kheo, một thiện nam tử có
lòng tin tạo ra nhiều phước. Do sự có mặt của vật bố thí, này các
Tỷ-kheo, một thiện nam tử có lòng tin tạo ra nhiều phước. Do sự có
mặt của các vị xứng đáng được cúng dường, này các Tỷ-kheo, một
thiện nam tử có lòng tin tạo ra nhiều phước. Do sự có mặt của ba pháp này, này các Tỷ-kheo, một thiện nam tử có
lòng tin tạo ra nhiều phước. 42.- Sự Kiện - Do ba sự kiện, này các Tỷ-kheo, một người được biết là có
lòng tin. Thế nào là ba? Ưa thấy người có giới hạnh, ưa nghe diệu pháp, với tâm ly cấu uế
của xan tham, sống trong nhà, bố thí rộng rãi với bàn tay sạch sẽ, ưa thích
từ bỏ, sẵn sàng để được yêu cầu, thích phân phát vật bố thí. Do ba
sự kiện này, này các Tỷ-kheo, một người được biết là có lòng
tin. Thích thấy người giới hạnh 43.- Ba Lợi Ích
- Thấy rõ ba lợi ích này (lý do, lợi ích) là cần thiết cho một
người thuyết pháp cho người khác. Thế nào là ba? Ai thuyết pháp cần phải liễu giải nghĩa, và cần phải liễu giải pháp.
Ai nghe pháp cần phải liễu giải nghĩa và cần phải liễu giải pháp. Người
thuyết pháp và cả người nghe pháp cần phải liễu giải nghĩa, và cần phải
liễu giải pháp. Thấy rõ ba lợi ích này, này các Tỷ-kheo, là cần
thiết cho một người thuyết pháp cho người khác. 44.- Trường Hợp - Có ba trường hợp, này các Tỷ-kheo, cuộc pháp thoại được diễn
tiến có lợi ích. Thế nào là ba? Ai thuyết pháp cần phải liễu giải nghĩa, và cần phải liễu giải pháp.
Ai nghe pháp cần phải liễu giải nghĩa, và liễu giải pháp. Ai thuyết pháp và ai nghe pháp, cả hai cần
phải liễu giải nghĩa và cần phải liễu giải pháp. Có ba trường hợp này, này
các Tỷ-kheo, là cuộc pháp thoại được diễn tiến có lợi ích. 45.- Bổn Phận
- Ba pháp này, này các Tỷ-kheo, được người Hiền trí tuyên bố,
được bậc Chân nhân tuyên bố. Thế nào là ba? Bố thí, này các Tỷ-kheo, được người Hiền trí tuyên bố,
được bậc Chân nhân tuyên bố. Xuất gia, này các Tỷ-kheo, được người Hiền trí
tuyên bố, được bậc Chân
nhân tuyên bố. Hầu hạ cha mẹ, này các Tỷ-kheo, được người Hiền trí
tuyên bố, được bậc Chân nhân tuyên bố. Ba pháp này, này các Tỷ-kheo,
được người Hiền trí tuyên bố, được bậc Chân nhân tuyên bố. Biết bố thí thiện sĩ 46.- Bậc Giới Hạnh - Gần làng hay thị trấn nào, này các Tỷ-kheo, các bậc xuất gia có giới
hạnh trú ở, tại chỗ ấy, các người nhờ ba sự kiện được gặt
nhiều công đức. Thế nào là ba? Bởi thân, bởi lời nói, bởi ý. Gần làng hay thị trấn nào, này các Tỷ-kheo, các bậc xuất gia có giới
hạnh trú ở, tại chỗ ấy, các người nhờ ba sự kiện này, được gặt
nhiều công đức. 47.- Hữu Vi
- Có ba tướng hữu vi này, này các Tỷ-kheo, cho các pháp hữu vi. Thế
nào là ba? Sanh được trình bày rõ, diệt được trình bày rõ, sự biến dị khi
đang trú được trình bày rõ. Có ba tướng hữu vi này, này các Tỷ-kheo,
cho các pháp hữu vi. - Có ba tướng vô vi này, này các Tỷ-kheo, cho các pháp vô vi. Thế
nào là ba? Sanh không được trình bày rõ, diệt không được trình bày rõ, sự
biến dị khi đang trú không được trình bày rõ. Có ba tướng vô vi này,
này các Tỷ-kheo, cho các pháp vô vi. 48.- Núi - Dựa vào vua núi Tuyết Sơn, này các Tỷ-kheo, các cây sàlà to lớn
được lớn lên ba sự tăng trưởng. Thế nào là ba? Chúng lớn lên về cành, về lá, về toàn bộ lá cây, chúng lớn
lên về vỏ trong và vỏ ngoài hay mầm non, chúng lớn lên về giác cây
và lõi cây. Dựa vào vua núi Tuyết Sơn, này các Tỷ-kheo, các cây
sàlà to lớn được lớn lên ba sự tăng trưởng này. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, dựa vào thiện nam tử có lòng tin, các
người trong gia đình được lớn lên ba sự tăng trưởng. Thế nào là ba? Tăng trưởng về lòng tin, tăng trưởng về giới, tăng trưởng về
trí tuệ. Dựa vào thiện nam tử có lòng tin, này các Tỷ-kheo, các
người trong gia đình được lớn lên ba sự tăng trưởng này. Như núi đá sừng sững 49.- Nhiệt Tình Tinh Tấn
- Có ba trường hợp, này các Tỷ-kheo, nhiệt tình cần phải làm mạnh.
Thế nào là ba? Các ác bất thiện pháp chưa sanh, cần nhiệt tình làm mạnh đừng cho
sanh. Các Thiện pháp chưa sanh, cần nhiệt tình làm mạnh để cho
sanh. Ðể chịu đựng các thân thọ khổ đã sanh, nhói đau, da diết
đau, gay gắt đau, không thích thú, không thích ý, đoạt mạng sống, cần
nhiệt tình làm mạnh. Có ba trường hợp, này các Tỷ-kheo, nhiệt
tình cần phải làm mạnh. Khi nào Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, đối với các pháp ác, bất
thiện chưa sanh, nhiệt tình làm mạnh đừng để cho sanh, đối với
các pháp thiện chưa sanh, nhiệt tình làm mạnh để cho sanh khởi.
Ðể chịu đựng các thân thọ đã sanh, khổ đau, nhói đau, da diết
đau, gay gắt đau, không thích thú, không thích ý, đoạt mạng sống,
nhiệt tình làm mạnh. Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, được gọi
là vị có nhiệt tình, thận trọng, chánh niệm để chơn chánh
đoạn tận khổ đau. 50.- Giặc Cướp - Do đầy đủ ba điều kiện, này các Tỷ-kheo, một tên cướp lớn
có thể chặt được khóa cửa, mang đi được đồ ăn trộm, làm kẻ
cướp trộm một nhà, làm kẻ đứng đường chận cướp. Thế nào là ba? Ở đây, này các Tỷ-kheo, tên cướp lớn dựa vào quanh co hiểm
trở, dựa vào rừng rậm, dựa vào kẻ có quyền lực. Và thế nào, này các Tỷ-kheo, là tên cướp lớn dựa vào quanh co
hiểm trở? Ở đây, này các Tỷ-kheo, tên cướp lớn dựa vào con sông
khó lội qua, hay sự quanh co hiểm trở của núi non. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là tên cướp lớn dựa vào sự quanh co hiểm trở. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tên cướp lớn dựa vào rừng rậm?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, tên cướp lớn dựa vào rừng rậm cỏ, hay rừng
rậm cây, hay khóm rừng, hay đám rừng lớn rậm. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
tên cướp lớn dựa vào rừng rậm. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tên cướp lớn dựa vào kẻ có
quyền lực? Ở đây, này các Tỷ-kheo, tên cướp lớn dựa vào vua hay
các vị đại thần của vua và nghĩ như sau: "Nếu có ai kết tội ta,
các vua ấy hay các vị đại thần của vua ấy sẽ giải thích, cứu thoát ta".
Và thực sự là như vậy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, tên cướp lớn dựa vào
kẻ có quyền lực. Do đầy đủ ba điều kiện này, này các Tỷ-kheo, một tên cướp
lớn có thể chặt được khóa cửa, mang đi được đồ ăn trộm, làm kẻ
cướp trộm một nhà, làm kẻ đứng đường chận cướp. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị ác Tỷ-kheo đầy đủ ba pháp, tự mình
xử sự như một vật mất gốc, bị thương tích, phạm tội, bị kẻ trí quở trách, và
tạo nên nhiều điều vô phước. Thế nào là ba? Ở đây, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo dựa vào quanh co hiểm
trở, dựa vào rừng rậm và dựa vào kẻ có quyền lực. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ác Tỷ-kheo dựa vào sự hiểm
trở? Ở đây, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo đầy đủ với thân hành
quanh co hiểm trở, với ngữ hành quanh co hiểm trở, với ý hành quanh
co hiểm trở. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là ác Tỷ-kheo dựa vào quanh
co hiểm trở. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ác Tỷ-kheo dựa vào rừng rậm?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo có tà kiến, đầy đủ
những tri kiến đi đến cực đoan. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là các
Tỷ-kheo dựa vào rừng rậm. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ác Tỷ-kheo dựa vào kẻ có
quyền? Ở đây, này các Tỷ-kheo, dựa vào các vua hay các đại thần
của vua, ác Tỷ-kheo nghĩ rằng: "Nếu có ai kết tội ta, các vua
ấy, hay các đại thần của vua ấy sẽ giải thích, cứu thoát ta". Và thực
sự là như vậy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là ác Tỷ-kheo dựa vào kẻ
có quyền lực. Ðầy đủ ba pháp này, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo tự mình xử sự
như một vật mất gốc, bị thương tích, phạm tội, bị kẻ trí quở trách, và
tạo nên nhiều điều vô phước. VI. Phẩm Các Bà-La-Môn
Muốn được nghe diệu pháp
Nhiếp phục uế xan tham
Vị ấy gọi có tin
Bất hại, chế ngự căn
Tự điều, hầu cha mẹ,
Các vị sống phạm hạnh,
Bổn phận kẻ thiện khen
Người Hiền thực hiện chúng
Bậc Thánh thấy rõ vậy
Ðạt được đời an lạc.
Trong rừng sâu rừng rậm
Các cây lớn dựa vào
Lớn lên những thần rừng
Cũng vậy, thiện nam tử
Có lòng tin giới đức
Vợ con và gia quyến
Dựa vào để lớn mạnh
Với tùy tùng bà con
Nhờ cậy để sinh sống
Thấy vị giới hạnh làm
Giới, bố thí, thiện hành
Nếu chúng có mắt sáng
Chúng làm theo vị ấy
Ở đây, làm đúng pháp
Con đường đến cõi lành
Trong Thiên giới hỷ lạc
Ước muốn được hoàn hỷ.
51.- (a) Hai Người
- Có hai vị Bà-la-môn già yếu, trưởng lão, tuổi lớn, cuộc đời đã
được trải qua, đã đến đoạn cuối cuộc đời, đã 120 tuổi, đi đến
Thế Tôn, đảnh
lễ, nói lên những lời chào đón thăm hỏi thân hữu rồi
ngồi xuống một bên. Những Bà-la-môn ấy bạch Thế Tôn: - Thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi là những Bà-la-môn già yếu, trưởng
lão, tuổi lớn, cuộc đời đã được trải qua, đã đến đoạn cuối cuộc đời,
đã 120 tuổi, nhưng chúng tôi không làm điều lành, không làm điều
thiện, không làm những điều để chấm dứt các sợ hãi. Tôn giả
Gotama hãy răn dạy chúng tôi, Tôn giả Gotama hãy giảng dạy chúng tôi. Nhờ
vậy, chúng tôi sẽ được hạnh phúc, an lạc lâu dài. - Thật vậy, các ông là những Bà-la-môn già yếu, trưởng
lão, tuổi lớn, cuộc đời đã được trải qua, đã đến đoạn cuối cuộc đời,
đã 120 tuổi,
nhưng các Ông không làm điều lành, không làm điều
thiện, không làm những điều để
chấm dứt các sợ hãi. Thật vậy, này các Bà-la-môn, thế giới này đã bị
già, bệnh, chết dắt dẫn. Thế giới đã bị già, bệnh, chết
dắt dẫn như vậy, này các Bà-la-môn, thời chế ngự thân, chế ngự lời
nói, chế ngự ý trong đời này, đối với kẻ đã đi đến cõi
chết, phải là chỗ nương tựa, là hang trú ẩn, là hòn cù lao (hay
ngọn đèn), là chỗ quy y và là đích xứ nó đến. Ðời sống bị dắt dẫn 52.- (b) Hai Người Rồi Bà-la-môn già yếu, trưởng lão, tuổi lớn, cuộc đời đã
được trải qua, đã đến đoạn cuối cuộc đời, đã 120 tuổi, đi đến
Thế Tôn, đảnh
lễ, nói lên những lời chào đón thăm hỏi thân hữu rồi
ngồi xuống một bên. Rồi Bà-la-môn ấy bạch Thế Tôn: - Thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi là những Bà-la-môn già yếu, trưởng
lão, tuổi lớn, cuộc đời đã được trải qua, đã đến đoạn cuối cuộc đời,
đã 120 tuổi, nhưng chúng tôi không làm điều lành, không làm điều
thiện, không làm những điều để chấm dứt các sợ hãi. Tôn giả
Gotama hãy răn dạy chúng tôi, Tôn giả Gotama hãy giảng dạy chúng tôi. Nhờ
vậy, chúng tôi sẽ được hạnh phúc, an lạc lâu dài. - Thật vậy, các ông là những Bà-la-môn già yếu, trưởng
lão, tuổi lớn, cuộc đời đã được trải qua, đã đến đoạn cuối cuộc đời, đã 120 tuổi,
nhưng các Ông không làm điều lành, không làm điều
thiện, không làm những điều để
chấm dứt các sợ hãi. Thật vậy, này các Bà-la-môn, thế giới này đã bị
già, bệnh, chết dắt dẫn. Thế giới đã bị già, bệnh, chết
dắt dẫn như vậy, này các Bà-la-môn, thời chế ngự thân, chế ngự lời
nói, chế ngự ý trong đời này, đối với kẻ đã đi đến cõi
chết, phải là chỗ nương tựa, là hang trú ẩn, là hòn cù lao (hay
ngọn đèn), là chỗ quy y và là đích xứ nó đến. Trong ngôi nhà bị cháy,
Rồi một Bà-la-môn đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh
lễ, nói lên những lời chào đón thăm hỏi thân hữu rồi
ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn
ấy bạch Thế Tôn: - Pháp là thiết thực hiện tại, thưa Tôn giả Gotama, được nói
đến như vậy. Cho đến như thế nào, thưa Tôn giả Gotama, pháp là
thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có
khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu? - Bị tham ái làm say đắm, này Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm
chiếm, nên suy nghĩ điều hại mình, suy nghĩ điều hại người, suy
nghĩ điều hại cả hai, cảm thọ tâm khổ tâm ưu. Tham ái được đoạn
trừ, thời không nghĩ đến tự hại, không nghĩ đến hại người, không
nghĩ đến hại cả hai, không cảm thọ tâm khổ tâm ưu. Như vậy, này
Bà-la-môn, pháp là thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến
để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác
hiểu. Bị sân làm uế nhiễm, này Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm
chiếm, nên suy nghĩ điều hại mình, suy nghĩ điều hại người, suy
nghĩ điều hại cả hai, cảm thọ tâm khổ tâm ưu. Sân được
đoạn trừ, thời không nghĩ đến tự hại, không nghĩ đến hại người, không
nghĩ đến hại cả hai, không cảm thọ tâm khổ
tâm ưu. Như vậy, này Bà-la-môn, pháp là thiết thực hiện tại, không
có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được
người trí tự mình giác hiểu. Bị si làm cho mê mờ, này Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm chiếm,
nên suy nghĩ điều hại mình, suy nghĩ điều hại người, suy
nghĩ điều hại cả hai, cảm thọ tâm khổ tâm ưu. Si được đoạn trừ,
thời không nghĩ đến tự hại, không nghĩ đến hại người, không nghĩ
đến hại cả hai, không cảm thọ tâm khổ tâm ưu. Như vậy, này
Bà-la-môn, pháp là thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến
để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác
hiểu. - Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!
Như người dựng đứng những gì bị quăng ngã xuống, hay trình bày cái gì bị
che kín, hay chỉ đường cho người bị lạc hướng, hay cầm đèn sáng vào bóng
tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh
pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện thuyết
giảng. Con nay xin quy y Tôn giả
Gotama, quy y Pháp, quy y Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử cư
sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng. 54.- Bà-La-Môn Cư Sĩ Rồi một Bà-la-môn du sĩ đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh
lễ, nói lên những lời chào đón thăm hỏi thân hữu rồi
ngồi xuống một bên. Ngồi
xuống một bên, Bà-la-môn du sĩ bạch Thế Tôn: - Pháp là thiết thực hiện tại, thưa Tôn giả Gotama, được nói
đến như vậy. Cho đến như thế nào, thưa Tôn giả Gotama, pháp là
thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có
khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu? - Bị tham ái làm say đắm, này Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm
chiếm, nên suy nghĩ điều hại mình, suy nghĩ điều hại người, suy
nghĩ điều hại cả hai, cảm thọ tâm khổ tâm ưu. Tham ái được đoạn
trừ, thời không nghĩ đến tự hại, không nghĩ đến hại người, không
nghĩ đến hại cả hai, không cảm thọ tâm khổ tâm ưu. Bị tham ái làm say đắm, này Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm
chiếm, vị ấy làm ác hạnh về thân, làm ác hạnh về lời nói,
làm ác
hạnh về ý. Tham ái được đoạn trừ, vị ấy không làm ác hạnh về
thân, không làm ác hạnh về lời nói, không làm ác hạnh về ý. Bị tham ái làm say đắm, này Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm
chiếm, vị ấy không như thật rõ biết lợi ích của mình, không như
thật rõ biết lợi ích của người, không như thật rõ biết lợi ích của cả
hai. Tham ái được đoạn trừ, vị ấy như thật rõ biết lợi ích của mình,
như thật rõ biết lợi ích của người, như thật rõ biết lợi ích của cả hai Như vậy, này Bà-la-môn, pháp là thiết thực hiện tại, không có
thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người
trí tự mình giác hiểu. Bị sân làm uế nhiễm, này Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm
chiếm, nên suy nghĩ điều hại mình, suy nghĩ điều hại người, suy
nghĩ điều hại cả hai, cảm thọ tâm khổ tâm ưu. Sân được đoạn
trừ, thời không nghĩ đến tự hại, không nghĩ đến hại người, không
nghĩ đến hại cả hai, không cảm thọ tâm khổ tâm ưu. Bị sân làm uế nhiễm, này Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm
chiếm, vị ấy làm ác hạnh về thân, làm ác hạnh về lời nói,
làm ác
hạnh về ý. Sân được đoạn trừ, vị ấy không làm ác hạnh về
thân, không làm ác hạnh về lời nói , không làm ác hạnh về ý. Bị sân làm uế nhiễm, này Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm
chiếm, vị ấy không như thật rõ biết lợi ích của mình, không như
thật rõ biết lợi ích của người, không như thật rõ biết lợi ích của cả
hai. Sân được đoạn trừ, vị ấy như thật rõ biết lợi ích của mình,
như thật rõ biết lợi ích của người, như thật rõ biết lợi ích của cả hai Như vậy, này Bà-la-môn, pháp là thiết thực hiện tại, không có
thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người
trí tự mình giác hiểu. Bị si làm mê mờ, này Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm
chiếm, nên suy nghĩ điều hại mình, suy nghĩ điều hại người, suy
nghĩ điều hại cả hai, cảm thọ tâm khổ tâm ưu. Sân được đoạn
trừ, thời không nghĩ đến tự hại, không nghĩ đến hại người, không
nghĩ đến hại cả hai, không cảm thọ tâm khổ tâm ưu. Bị si làm cho mê mờ, này Bà-la-môn, bị chinh phục,tâm bị xâm chiếm,
nên làm ác hạnh về thân, làm ác hạnh về lời nói, làm ác hạnh về
ý. Si được đoạn trừ, thời không làm ác hạnh về thân, không làm
ác hạnh
về lời nói, không làm ác hạnh về ý. Bị si làm cho mê mờ, này Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm chiếm,
nên không như thật rõ biết lợi ích của mình, không như thật rõ biết
lợi ích của người, không như thật rõ biết lợi ích của cả hai. Si được
đoạn trừ, thời như thật rõ biết lợi ích của mình, như thật rõ biết
lợi ích của người, như thật rõ biết lợi ích của cả hai. Như vậy, này Bà-la-môn, pháp là thiết thực hiện tại, không có
thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người
trí tự mình giác hiểu.
Rồi Bà-la-môn Jànussoni đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh
lễ, nói lên những lời chào đón thăm hỏi thân hữu rồi
ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên,
Bà-la-môn Jànussoni bạch Thế Tôn: - Thiết thực hiện tại là Niết bàn, thưa Tôn giả Gotama, được
nói đến như vậy. Cho đến như thế nào, thưa Tôn giả Gotama,
Niết bàn là thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến
để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác
hiểu? - Bị tham ái làm say đắm, này Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm
chiếm, nên suy nghĩ điều hại mình, suy nghĩ điều hại người, suy
nghĩ điều hại cả hai, cảm thọ tâm khổ tâm ưu. Tham ái được đoạn
trừ, thời không nghĩ đến tự hại, không nghĩ đến hại người, không
nghĩ đến hại cả hai, không cảm thọ tâm khổ tâm ưu. Như vậy, này
Bà-la-môn, Niết bàn là thiết thực hiện tại, không có thời gian,
đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự
mình giác hiểu. Bị sân làm uế nhiễm, này Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm
chiếm, nên suy nghĩ điều hại mình, suy nghĩ điều hại người, suy
nghĩ điều hại cả hai, cảm thọ tâm khổ tâm ưu. Sân được đoạn
trừ, thời không nghĩ đến tự hại, không nghĩ đến hại người, không
nghĩ đến hại cả hai, không cảm thọ tâm khổ tâm ưu. Như vậy, này
Bà-la-môn, Niết bàn là thiết thực hiện tại, không có thời gian,
đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự
mình giác hiểu. Bị si làm mê mờ, này Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm chiếm, nên suy nghĩ điều hại mình, suy nghĩ điều hại người, suy
nghĩ điều hại cả hai, cảm thọ tâm khổ tâm ưu. Si được đoạn
trừ, thời không nghĩ đến tự hại, không nghĩ đến hại người, không
nghĩ đến hại cả hai, không cảm thọ tâm khổ tâm ưu. Như vậy, này
Bà-la-môn, Niết bàn là thiết thực hiện tại, không có thời gian,
đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự
mình giác hiểu. Khi vị ấy, này Bà-la-môn, cảm thọ tham ái được đoạn tận, không có
dư tàn, cảm thọ sân được đoạn tận, không có dư tàn, cảm thọ si
được đoạn tận, không có dư tàn. Như vậy, này Bà-la-môn, Niết bàn là
thiết thực hiện tại, không có thời gian,
đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình
giác hiểu. - Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!
Như người dựng đứng những gì bị quăng ngã xuống, hay trình bày cái gì bị
che kín, hay chỉ đường cho người bị lạc hướng, hay cầm đèn sáng vào bóng
tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh
pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện thuyết
giảng. Con nay xin quy y Tôn giả
Gotama, quy y Pháp, quy y Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử cư
sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng. 56.- Người Giàu Có Rồi một Bà-la-môn giàu có lớn đi đến Thế Tôn, sau khi đến,
đảnh
lễ, nói lên những lời chào đón thăm hỏi thân hữu rồi
ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một
bên, Bà-la-môn giàu có lớn bạch Thế Tôn: - Con có nghe, thưa Tôn giả Gotama, các Bà-la-môn thuở xưa, các trưởng lão
lớn tuổi, bậc thầy của các bậc Thầy nói rằng: "Thuở xưa, thế giới
này quá sung mãn, với người, - người ta nghĩ như một vực sâu không có
sóng, các làng, các thị trấn, các kinh thành quá gần để một con gà
trống có thể bước từ chỗ này qua chỗ kia." Do nhân gì, thưa Tôn giả Gotama, do duyên gì, ngày nay loài người lại bị
tiêu diệt, bị giảm thiểu trông rõ như thế, các làng trở thành
không phải làng, các thị trấn trở thành không phải thị trấn, các thành phố
trở thành không phải thành phố, các quốc độ trở thành không phải quốc độ?
- Ngày nay, này Bà-la-môn, loài người bị tham ái phi pháp làm cho say đắm,
và bị ác tham chinh phục, bị tà kiến chi phối. Vì bị tham ái phi pháp làm
cho say đắm, vì bị ác tham chinh phục, vì bị tà kiến chi phối, chúng cầm
gươm sắc bén sát hại lẫn nhau. Do vậy, nhiều người mạng chung. Ðây là
nhân, này Bà-la-môn, đây là duyên, ngày nay loài người bị tiêu diệt,
bị giảm thiểu trông rõ như thế, các làng trở thành
không phải làng, các thị trấn trở thành không phải thị trấn, các thành phố
trở thành không phải thành phố, các quốc độ trở thành không quốc
độ. Lại nữa, này Bà-la-môn, ngày nay, các loài người bị tham ái phi pháp làm
cho say đắm,
và bị ác tham chinh phục, bị các tà kiến chi phối. Vì bị tham ái phi pháp làm cho
say đắm, vì bị ác tham chinh phục, vì bị tà kiến chi phối, trời không mưa xuống đều đặn.
Vì vậy, bữa ăn khó tìm, mùa màng hư mất, trắng xóa với côn trùng, chỉ còn
lại cọng dẹp. Do vậy, nhiều người mạng chung. Ðây là nhân, này
Bà-la-môn, đây là duyên, vì sao ngày nay loài người bị tiêu diệt, bị
giảm thiểu trông rõ như thế, các làng trở thành
không phải làng, các thị trấn trở thành không phải thị trấn, các thành phố
trở thành không phải thành phố, các quốc độ trở thành không phải
quốc độ. Lại nữa, này Bà-la-môn, ngày nay, các loài người bị tham ái phi pháp làm
cho say đắm,
và bị ác tham chinh phục, bị các tà kiến chi phối. Vì bị tham ái phi pháp làm cho
say đắm, vì bị ác tham chinh phục, vì bị tà kiến chi phối, các loài Yakkha (Dạ-xoa) thả ra
các loài phi nhân dữ tợn. Vì vậy, nhiều người mạng chung. Ðây là
nhân, này Bà-la-môn, đây là duyên, ngày nay loài người bị tiêu diệt,
bị giảm thiểu trông rõ như thế, các làng trở thành
không phải làng, các thị trấn trở thành không phải thị trấn, các thành phố
trở thành không phải thành phố, các quốc độ trở thành không phải
quốc độ. - Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!
Như người dựng đứng những gì bị quăng ngã xuống, hay trình bày cái gì bị
che kín, hay chỉ đường cho người bị lạc hướng, hay cầm đèn sáng vào bóng
tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh
pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện thuyết
giảng. Con nay xin quy y Tôn giả
Gotama, quy y Pháp, quy y Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử cư
sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng. 57.- Vacchagotta
Rồi du sĩ Vacchagotta đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh
lễ, nói lên những lời chào đón thăm hỏi thân hữu rồi
ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, du sĩ
Vacchagotta thưa với Thế Tôn: - Tôi có được nghe, thưa Tôn giả Gotama, người ta loan truyền
rằng Sa-môn Gotama nói như sau:
"Cần phải bố thí cho Ta, không cần bố thí cho người khác. Cần phải bố
thí cho đệ tử của Ta, không cần phải bố thí cho đệ tử những người
khác. Bố thí cho Ta có quả lớn, bố thí cho những người khác không có quả
lớn. Bố thí cho các đệ tử của ta có quả lớn, bố thí cho những đệ
tử của người khác không có quả lớn!". Thưa Tôn giả Gotama, những ai nói
rằng Sa-môn nói như sau: "Cần phải bố thí cho Ta, không cần bố thí cho người
khác. Cần phải bố thí cho đệ tử của Ta, không cần phải bố thí cho đệ tử
những người khác. Bố thí cho Ta có quả lớn, bố thí cho những người khác
không có quả lớn. Bố thí cho các đệ tử của ta có quả lớn, bố thí cho những
đệ tử của người khác không có quả lớn!", những người nói như vậy, có phải nói đúng lời nói của Tôn giả
Gotama, không có xuyên tạc Tôn giả Gotama với điều không thật? Có phải
họ nói như vậy là đúng pháp và thuận pháp, và những ai là người đúng
pháp, nói lời đúng pháp và thuận pháp, không có cơ hội để chỉ trích?
Họ không muốn xuyên tạc Tôn giả Gotama? - Này Vaccha, những ai nói rằng Sa-môn Gotama nói như sau: "Cần phải bố
thí cho Ta, không cần bố thí cho người khác. Cần phải bố thí cho đệ tử của
Ta, không cần phải bố thí cho đệ tử những người khác. Bố thí cho Ta có quả
lớn, bố thí cho những người khác không có quả lớn. Bố thí cho các đệ tử của
ta có quả lớn, bố thí cho những đệ tử của người khác không có quả lớn!", những người ấy không nói đúng với
lời nói của ta, họ đã xuyên tạc ta với điều không thật, họ đã
nói láo. Này Vaccha, ai ngăn chận người khác bố thí, người ấy tạo ra ba
chướng ngại pháp và đánh cắp mất ba vật. Thế nào là ba? Người ấy làm chướng ngại người cho không được công đức, người ấy
ngăn chặn người nhận không được bố thí, và tự ngã người ấy trước đã
mất gốc, lại càng bị thương tổn hơn. Này Vaccha, ai ngăn chặn người cho
không bố thí người khác, tạo ra ba chướng ngại như vậy, và đánh cắp mất
ba vật. Này Vaccha, ta nói như sau: "Những ai đổ đồ phế thải trên
mâm bàn, hay đồ rửa chén bát vào hố phân hay hố rác rưởi với ý nghĩ
để các loài hữu tình trong ấy nhờ đấy được ăn để sống". Do
nhân duyên ấy, này Vaccha, ta nói có đem lại công đức, còn nói gì đối với
loài người. Lại nữa, này Vaccha, Ta tuyên bố rằng, cho người có giới hạnh được quả
lớn, cho người ác giới không phải như vậy. Người có giới hạnh là người
đã đoạn tận năm pháp và đã đầy đủ năm pháp. Thế nào là năm pháp đã được đoạn tận? Dục tham đã được đoạn
tận, sân đã được đoạn tận, hôn trầm thùy miên đã được đoạn tận,
trạo hối đã được đoạn tận, nghi đã được đoạn tận, năm pháp này đã
được đoạn tận. Năm pháp nào đã được đầy đủ? Ðầy đủ vô học giới uẩn, đầy đủ vô học định uẩn, đầy đủ vô
học tuệ uẩn, đầy đủ vô học giải thoát uẩn, đầy đủ vô học
giải thoát tri kiến uẩn. Vị ấy được đầy đủ năm pháp này. Ở đây,
Ta tuyên bố rằng, bố thí cho người đoạn tận năm pháp, đầy đủ năm pháp
có quả lớn. Như trong một đàn bò, 58.- Tikanna 1-6 Rồi Bà-la-môn Tikanna đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh
lễ, nói lên những lời chào đón thăm hỏi thân hữu rồi
ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Tikanna, trước mặt Thế Tôn,
tán thán các bậc Bà-la-môn có đầy đủ ba minh. - Phải, này Bà-la-môn, họ là các bậc có ba minh. Phải, các Bà-la-môn
có ba minh. Cho đến như thế nào, này Bà-la-môn, các Bà-la-môn diễn
tả ba minh của các Bà-la-môn? - Ở đây, thưa Tôn giả Gotama, vị Bà-la-môn thiện sanh cả từ mẫu
và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không
bị một vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề
huyết thống thọ sanh, nhà phúng tụng, nhà trì chú, thông hiểu ba
tập Veda với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải và các cổ truyện
là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biện tài về thuận
thế (tự nhiên học) và tướng của các vị đại nhân. Như vậy, thưa
Tôn giả Gotama, các vị Bà-la-môn diễn tả ba minh các vị Bà-la-môn. - Thật là khác, này Bà-la-môn, các Bà-la-môn diễn tả ba minh của các
Bà-la-môn. Thật là khác ba minh trong luật của bậc thánh. - Như thế nào, thưa Tôn giả Gotama, là ba minh trong giới luật của bậc
thánh? Lành thay, nếu Tôn giả Gotama thuyết pháp cho chúng tôi về ba
minh trong Luật của bậc Thánh. - Vậy Bà-la-môn hãy nghe và khéo tác ý, ta sẽ giảng. - Thưa vâng, Tôn giả. Bà-la-môn Tikana vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: - Ở đây, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo ly dục, ly các pháp ác, bất
thiện, chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc
do ly dục sanh, với tầm với tứ. Làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, vị ấy chứng
đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh,
không tầm không tứ, nội tĩnh, nhất tâm. Ly hỷ, trú xả, chánh niệm,
tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc thánh gọi là xả niệm
lạc trú, vị ấy chứng đạt và an trú Thiền thứ ba. Xả lạc, xả khổ,
diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, vị ấy chứng đạt và an trú
Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. 3- Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não,
nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị ấy dẫn tâm,
hướng tâm đến túc mạng minh. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ,
như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi
đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm
đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời. Nhiều hoại kiếp, nhiều
thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: "Tại
chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp
như thế này, khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như
thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ
nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng họ như thế
này, giai cấp như thế này, khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến
mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở
đây." Như vậy, vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ, cùng
với các nét đại cương và các nét chi tiết. Ðây là minh thứ nhất đã
đạt được, vô minh diệt, minh khởi, bóng tối diệt, ánh sáng sanh,
đối với vị an trú không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. 4.-Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não,
nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị Tỷ-kheo dẫn
tâm, hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Vị ấy với
thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh.
Vị ấy biết rõ rằng, chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người
đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh
nghiệp của họ.Các chúng sanh này làm những ác hạnh về thân, ngữ, ý, phỉ báng
các bậc thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những
người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú
đọa xứ, địa ngục. Còn những chúng sanh này làm những thiện hạnh
về thân, ngữ, ý, không phỉ báng các bậc thánh, theo chánh kiến,
tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những người này, sau khi thân hoại
mạng chung, được sanh lên các cõi thiện, cõi trời, cõi đời này. Như
vậy, vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh, thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy
biết rõ rằng, chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ,
kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của
họ. Ðây là minh thứ hai đã đạt được, vô minh diệt, minh khởi, bóng
tối diệt, ánh sáng sanh, đối với vị an trú không phóng dật, nhiệt
tâm, tinh cần. 5.-Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não,
nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị ấy dẫn tâm,
hướng tâm đến lậu tận trí. Vị ấy biết như thật: "Ðây là
khổ", biết như thật: "Ðây là nguyên nhân của khổ", biết
như thật: "Ðây là khổ diệt", biết như thật: "Ðây là
con đường đưa đến khổ diệt". Biết như thật: "Ðây là
những lậu hoặc", biết như thật: "Ðây là nguyên nhân các lậu
hoặc", biết như thật: "Ðây là sự diệt trừ các lậu
hoặc", biết như thật: "Ðây là con đường đưa đến sự
diệt trừ các lậu hoặc". Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như
vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô
minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu
biết: "Ta đã giải thoát". Vị ấy biết: "Sanh đã tận,
Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại, không
có đời sống nào khác nữa". Ðây là minh thứ ba đã đạt được, vô minh
diệt, minh khởi, bóng tối diệt, ánh sáng sanh, đối với vị an trú
không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. 6.- Giới hạnh không cao thấp
Như vậy, này Bà-la-môn, là ba minh trong Luật của bậc Thánh. - Thật khác, thưa Tôn giả Gotama, là ba minh của các Bà-la-môn! Thật khác
là ba minh trong Luật của bậc Thánh! Và thưa Tôn giả Gotama, người có được
ba minh của các Bà-la-môn không sánh bằng một phần mười sáu của vị chứng
ba minh trong Luật của bậc Thánh. 59. - Jànussoni
1-4 Rồi có Bà-la-môn Jànussoni đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh
lễ, nói lên những lời chào đón thăm hỏi thân hữu rồi ngồi
xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Jànussoni bạch Thế Tôn: - Ai làm lễ tế đàn, thưa Tôn giả Gotama, hay ai làm lễ cúng linh, hay ai
có bố thí, cần phải bố thí các vật ấy cho các vị Bà-la-môn có ba minh. Cho đến như thế nào, này Bà-la-môn, các vị Bà-la-môn diễn tả một
Bà-la-môn có ba minh? Ở đây, thưa Tôn giả Gotama, vị Bà-la-môn thiện sanh cả từ mẫu
hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ,
không bị một vết nhơ nào, không bị môt dèm pha nào về vấn đề
huyết thống thọ sanh, nhà phúng tụng, nhà trì chú, thông hiểu ba
tập Vệ đà với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải, và các cổ
truyện là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biện tài
về thuận thế (tự nhiên học) và tướng của vị Ðại nhân. Như vậy,
thưa Tôn giả Gotama, các Bà-la-môn diễn tả ba minh của các Bà-la-môn. - Thật là khác, này Bà-la-môn, các Bà-la-môn diễn tả ba minh của các
Bà-la-môn. Thật là khác, ba minh trong Luật của bậc Thánh. - Như thế nào, thưa Tôn giả Gotama, là ba minh trong giới Luật của bậc
Thánh? Lành thay, nếu Tôn giả Gotama thuyết giảng cho chúng tôi về
ba minh trong giới Luật của bậc Thánh. - Vậy Bà-la-môn hãy nghe và khéo tác ý. Ta sẽ giảng. - Thưa vâng, Tôn giả. Bà-la-môn Jànussoni vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 2- Ở đây, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo ly dục, ly các pháp ác, bất
thiện, chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc
do ly dục sanh, với tầm với tứ. Làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, vị ấy chứng
đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh,
không tầm không tứ, nội tĩnh, nhất tâm. Ly hỷ, trú xả, chánh niệm,
tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc thánh gọi là xả niệm
lạc trú, vị ấy chứng đạt và an trú Thiền thứ ba. Xả lạc, xả khổ,
diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, vị ấy chứng đạt và an trú
Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu
nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm
đến túc mạng minh. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời,
ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời,
năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời.
Nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng:
"Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế
này, khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ
kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng họ
như thế này, giai cấp như thế này, khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như
thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây." Như vậy, vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ, cùng
với các nét đại cương và các nét chi tiết. Ðây là minh thứ nhất đã
đạt được, vô minh diệt, minh khởi, bóng tối diệt, ánh sáng sanh,
đối với vị an trú không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. 3- Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu
nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng
tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh,
siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng, chúng
sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ
bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ.Các chúng sanh này làm những ác hạnh về
thân, ngữ, ý, phỉ báng các bậc thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà
kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ,
ác thú đọa xứ, địa ngục. Còn những chúng sanh này làm những thiện hạnh về
thân, ngữ, ý, không phỉ báng các bậc thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp
theo chánh kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh
lên các cõi thiện, cõi trời, cõi đời này. Như
vậy, vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh, thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy
biết rõ rằng, chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ,
kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của
họ. Ðây là minh thứ hai đã đạt được, vô minh diệt, minh khởi, bóng
tối diệt, ánh sáng sanh, đối với vị an trú không phóng dật, nhiệt
tâm, tinh cần. 4.-
Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như
vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô
minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu
biết: "Ta đã giải thoát". Vị ấy biết: "Sanh đã tận,
Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại, không
có đời sống nào khác nữa". Ðây là minh thứ ba đã đạt được, vô minh
diệt, minh khởi, bóng tối diệt, ánh sáng sanh, đối với vị an trú
không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Ai đầy đủ giới hạnh
Như vậy, này Bà-la-môn, là ba minh trong Luật của bậc Thánh. - Thật thế, thưa Tôn giả Gotama, là ba minh của các Bà-la-môn! Thật
khác, là ba minh trong Luật của bậc Thánh! Và thưa Tôn giả Gotama, người có
được ba minh của các Bà-la-môn không sánh bằng một phần mười sáu của vị
chứng ba minh trong Luật của bậc Thánh! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!
Như người dựng đứng những gì bị quăng ngã xuống, hay trình bày cái gì bị
che kín, hay chỉ đường cho người bị lạc hướng, hay cầm đèn sáng vào bóng
tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh
pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện thuyết
giảng. Con nay xin quy y Tôn giả
Gotama, quy y Pháp, quy y Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử cư
sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng. 60.- Sangàrava 1-7 - Rồi có Bà-la-môn Sangàrava đi đến Thế Tôn, sau khi đến,
đảnh
lễ, nói lên những lời chào đón thăm hỏi thân hữu rồi
ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một
bên, Bà-la-môn Sangàrava bạch Thế Tôn: - Thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi làm lễ tế đàn và khuyên các người
khác làm lễ tế đàn. Ở đây, thưa Tôn giả Gotama, ai làm lễ tế
đàn và ai khuyên các người khác làm lễ tế đàn, tất cả đều thực
hành con đường đưa đến công đức cho nhiều người, tức là kết
quả của tế đàn. Thưa Tôn giả Gotama, ai xuất gia, từ bỏ gia tộc, từ bỏ
gia đình, sống không gia đình, chỉ nhiếp phục một tự ngã của mình, chỉ
an tịnh một tự ngã của mình, chỉ làm cho một tự ngã chứng được
Niết-bàn. Như vậy, người ấy thực hành con đường đưa đến công
đức chỉ có một mình, tức là kết quả của sự xuất gia. - Vậy này Bà-la-môn, ở đây, Ta sẽ hỏi Ông. Ông kham nhẫn như thế
nào, hãy như vậy trả lời. Ông nghĩ như thế nào, này Bà-la-môn, ở đây,
Thế Tôn xuất hiện ở đời, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh
Túc, Thiên Tuệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng
Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Vị ấy nói như sau: "Ðây là con
đường, đây là đạo lộ, nhờ thực hành con đường này, Ta đã thể nhập
vô thượng Phạm hạnh, tự mình với thắng trí, chứng đạt, an trú và tuyên
thuyết. Các người hãy đến! Hãy như vậy thực hành! Các người sẽ
thể nhập vô thượng Phạm hạnh, tự mình với thắng trí, chứng đạt và an
trú". Như vậy, vị Ðạo sư này thuyết pháp, và các người khác như
thật hành trì. Số người như vậy là hàng trăm, hàng ngàn, hàng trăm ngàn.
Ông nghĩ thế nào, này Bà-la-môn, sự việc là như vậy, thời con
đường đưa đến công đức này ảnh hưởng chỉ đến một người hay
ảnh hưởng đến nhiều người, tức là kết quả của sự xuất gia? - Sự việc này là như vậy, thưa Tôn giả Gotama, con đường đưa
đến công đức này là ảnh hưởng đến nhiều người, tức là
kết quả của sự xuất gia. Ðược nghe nói như vậy, Tôn giả Ananda nói với Bà-la-môn Sangàrava: - Trong hai con đường, này Bà-la-môn, con đường nào, Ông có thể kham
nhẫn là giản dị hơn, ít khó chịu hơn, kết quả lớn hơn và lợi ích hơn?
Ðược nói như vậy, Bà-la-môn Sangàrava nói với Tôn giả Ananda: - Như Tôn giả Gotama và Tôn giả Ananda, cả hai đối với tôi là đáng kính
lễ và đáng tán thán. Lần thứ hai, Tôn giả Ananda nói với Bà-la-môn Sangàrava: - Này Bà-la-môn, Ta không hỏi Ông như vậy: "Những ai là đáng đảnh
lễ, hay những ai là đáng tán thán?" Này Bà-la-môn, như thế này Ta
hỏi Ông: "Này Bà-la-môn, trong hai con đường này, con đường nào Ông có
thể kham nhẫn là giản dị hơn, ít khó chịu hơn, kết quả lớn hơn, lợi
ích lớn hơn?" Lần thứ hai, Bà-la-môn Sangàrava nói với Tôn giả Ananda: - Như Tôn giả Gotama và Tôn giả Ananda, cả hai đối với tôi là đáng đảnh
lễ và đáng tán thán. Lần thứ ba, Tôn giả Ananda nói với Bà-la-môn Sangàrava: - Này Bà-la-môn, Ta không hỏi Ông như vậy: "Những ai là đáng kính
lễ, hay những ai là đáng tán thán? "Này Bà-la-môn, như thế này Ta
hỏi Ông: "Này Bà-la-môn, trong hai con đường này, con đường nào Ông có
thể kham nhẫn là giản dị hơn, ít khó chịu hơn, kết quả lớn hơn, lợi
ích lớn hơn?" Lần thứ ba, Bà-la-môn Sangàrava nói với Tôn giả Ananda: - Như Tôn giả Gotama và Tôn giả Ananda, cả hai đối với tôi là đáng kính
lễ và đáng tán thán. 3. Rồi Thế Tôn suy nghĩ như sau: "Cho đến lần thứ ba, Bà-la-môn
Sangàrava, được hỏi một câu đúng pháp lại tránh né, không trả lời. Vậy Ta
hãy giải tỏa việc này". Rồi Thế Tôn nói với Bà-la-môn Sangàrava: - Này Bà-la-môn, câu chuyện gì đã khởi lên hôm nay trong cung điện
Nhà Vua, khi hội chúng nhà vua ngồi tụ họp lại? - Thưa Tôn giả Gotama, hôm nay, trong cung điện nhà vua, câu chuyện
như sau đã khởi lên, khi hội chúng nhà vua ngồi tụ họp lại: "Thuở
xưa, các Tỷ-kheo ít hơn, nhưng nhiều hơn là các pháp thượng nhân,
các thần thông thần biến được thị hiện. Ngày nay, các Tỷ-kheo
nhiều hơn, nhưng ít hơn là các pháp thượng nhân, các thần thông thần
biến được thị hiện." Thưa Tôn giả Gotama, đấy là câu chuyện
đã khởi lên hôm nay trong cung điện nhà vua, khi hội chúng nhà vua ngồi
tụ họp lại. 4. - Này Bà-la-môn, có ba loại thần thông. Thế nào là ba? Thần thông
biến hóa, thần thông ký thuyết, thần thông giáo hóa, và
Bà-la-môn, thế nào là thần thông biến hóa? Ở đây, này Bà-la-môn, có người chứng được các loại thần thông,
một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân,
hiện hình, biến hình, đi ngang qua vách qua tường, qua núi như đi ngang
qua hư không, độn thổ, trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước, đi
trên nước, không nứt rẽ ra như trên đất liền, ngồi kiết già, đi
trên hư không như con chim, với bàn tay, chạm và rờ mặt trăng và mặt trời,
những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy, có thể tự thân bay
đến cõi Phạm Thiên. 5. Và này Bà-la-môn, thế nào là thần thông ký thuyết? Ở đây, này Bà-la-môn, có người nói lên nhờ tướng: "Như vầy là
ý của Ông, như thế này là ý của Ông, như thế này là tà tâm
của Ông". Nếu vị ấy nói lên có nhiều, cũng chỉ là như vậy,
không có gì khác. Ở đây, này Bà-la-môn, có người nói lên không nhờ tướng, nhưng nghe
tiếng của loài người hay của phi nhân, hay của Chư Thiên, liền nói
lên: "Như vầy là ý của Ông, như thế này là ý của Ông, như
thế này là tà tâm của Ông". Nếu vị ấy nói lên nhiều, cũng
chỉ là như vậy, không có gì khác. Ở đây, này Bà-la-môn, có người nói lên không nhờ tướng, cũng không
nhờ nghe tiếng của loài người hay của phi nhân, hay của Chư Thiên, nhưng
sau khi nghe được tiếng trình bày rõ ràng và có suy tư; sau khi suy tầm
và suy tư liền nói lên: "Như vầy là ý của Ông, như thế này
là ý của Ông, như thế này là tâm của Ông". Nếu vị ấy nói
lên có nhiều, cũng chỉ là như vậy, không có gì khác. Ở đây, này Bà-la-môn, có người không nói lên nhờ tướng, không nói
lên nhờ nghe tiếng của loài người hay của phi nhân, hay của Chư Thiên,
không nói lên sau khi nghe được tiếng trình bày rõ ràng và có suy tư,
sau khi suy tầm và suy tư. Những thành tựu định không tầm không tứ, với tâm
của mình biết rõ tâm của người khác tùy theo hành ý của vị Tôn giả
này hướng đến chỗ nào, thời tâm của vị này lập tức suy tầm
đến chỗ ấy. Nếu vị ấy nói lên có nhiều, cũng chỉ là như
vậy, không có gì khác. Này Bà-la-môn, đây gọi là thần thông ký
thuyết. 6. Và như thế nào, này Bà-la-môn, là thần thông giáo hóa? Ở đây, này Bà-la-môn, có người giáo giới như sau: "Hãy suy nghĩ
như thế này, chớ suy nghĩ như vậy! Hãy tác ý như thế này, chớ
tác ý như vậy! Hãy từ bỏ cái này! Hãy đạt đến cái này và an
trú!". Này Bà-la-môn, đây gọi là thần thông giáo hóa. Này
Bà-la-môn, có ba loại thần thông này. Trong ba loại thần thông này, Ông có thể chấp nhận loại thần thông nào
là hy hữu hơn, thù diệu hơn? - Ở đây, thưa Tôn giả Gotama, loại thần thông này: Ở đây có người chứng
được các loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra
một thân, hiện hình, biến hình, đi ngang qua vách qua tường, qua núi như đi
ngang qua hư không, độn thổ, trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước,
đi trên nước, không nứt rẽ ra như trên đất liền, ngồi kiết già, đi trên hư
không như con chim, với bàn tay, chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật
có đại oai lực, đại oai thần như vậy, có thể tự thân bay đến cõi Phạm Thiên.
Loại thần thông này, thưa Tôn giả Gotama, ai làm loại thần thông ấy, người
ấy tự kinh nghiệm lấy. Ai làm thần thông ấy, tự mình có được thần thông ấy.
Loại thần thông này, đối với tôi, được xem tánh chất như là huyễn hóa. Còn loại thần thông này, thưa Tôn giả Gotama: Ở đây có người nói lên nhờ tướng: "Như vầy là
ý của Ông, như thế này là ý của Ông, như thế này là tâm
của Ông". Nếu vị ấy nói lên có nhiều, cũng chỉ là như vậy,
không có gì khác. Có người nói lên không nhờ tướng, nhưng nghe
tiếng của loài người hay của phi nhân, hay của Chư Thiên, liền nói
lên: "Như vầy là ý của Ông, như thế này là ý của Ông, như
thế này là tâm của Ông". Nếu vị ấy nói lên nhiều, cũng
chỉ là như vậy, không có gì khác. Có người nói lên không nhờ tướng, cũng không
nhờ nghe tiếng của loài người hay của phi nhân, hay của Chư Thiên, nhưng
sau khi nghe được tiếng trình bày rõ ràng và có suy tư; sau khi suy tầm
và suy tư liền nói lên: "Như vầy là ý của Ông, như thế này
là ý của Ông, như thế này là tâm của Ông". Nếu vị ấy nói
lên có nhiều, cũng chỉ là như vậy, không có gì khác. Có người không nói lên
nhờ tướng, không nói lên nhờ nghe tiếng của loài người hay của phi nhân, hay
của Chư Thiên, không nói lên sau khi nghe được tiếng trình bày rõ ràng và có
suy tư, sau khi suy tầm và suy tư. Những thành tựu định không tầm không tứ,
với tâm của mình biết rõ tâm của người khác tùy theo hành ý của vị Tôn giả
này hướng đến chỗ nào, thời tâm của vị này lập tức suy tầm đến chỗ ấy. Nếu
vị ấy nói lên có nhiều, cũng chỉ là như vậy, không có gì khác. Loại thần
thông này, thưa Tôn giả Gotama, ai làm loại thần thông ấy, người ấy tự kinh
nghiệm lấy. Ai làm thần thông ấy, tự mình có được thần thông ấy. Loại thần
thông này, đối với tôi, được xem tánh chất như là huyễn hóa. Còn loại thần thông này, thưa Tôn giả Gotama: Ở đây có người giáo giới
như sau: "Hãy suy nghĩ như thế này, chớ suy nghĩ như vậy! Hãy tác ý như thế
này, chớ tác ý như vậy! Hãy từ bỏ cái này! Hãy đạt đến cái này và an trú".
Loại thần thông này, thưa Tôn giả Gotama, tôi có thể chấp nhận là hy hữu hơn
và thù diệu hơn trong ba loại thần thông. Thật là vi diệu, thưa Tôn giả Gotama! Thật là hy hữu, thưa Tôn giả
Gotama! Vấn đề này được Tôn giả Gotama khéo nói như vậy, Chúng tôi
thọ trì rằng Tôn giả Gotama có thành tựu cả ba loại thần thông này. Thật
vậy, Tôn giả Gotama có thể chứng được nhiều loại thần thông ... Thật
vậy, Tôn giả Gotama thành tựu được định không tầm không tứ, với tâm của
mình rõ biết tâm của người khác, tùy theo ý hành của vị Tôn giả
này hướng đến chỗ nào, thời tâm của vị này lập tức suy tầm
đến chỗ ấy. Thật vậy, Tôn giả Gotama giáo giới như sau: "Hãy suy nghĩ như
thế này, chớ suy nghĩ như vậy! Hãy tác ý như vậy, chớ tác ý như
vậy! Hãy từ bỏ cái này, hãy đạt đến cái này và an trú!". 7. -Thật vậy, này Bà-la-môn, lời nói của Ông trước như là chống ta, sau
xích lại gần ta. Và Ta sẽ trả lời cho Ông. Này Bà-la-môn, Ta chứng được
nhiều loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, ... Này Bà-la-môn, ta thành tựu được định không
tầm không tứ, với tâm của mình rõ biết tâm của người khác, tùy theo
ý hành của Ta hướng đến chỗ nào, thời tâm của Ta lập tức suy tầm đến chỗ ấy.
Này Bà-la-môn, Ta có thể giáo giới
như sau: "Hãy suy nghĩ như thế này, chớ suy nghĩ như vậy. Hãy tác
ý như vậy, chớ tác ý như vậy! Hãy từ bỏ cái này, hãy đạt được
cái này và an trú!". - Thưa Tôn giả Gotama, có một Tỷ-kheo nào khác, cũng thành tựu được ba
loại thần thông này, ngoài Tôn giả Gotama? - Này Bà-la-môn, không phải chỉ có một trăm, hai trăm, ba trăm, bốn trăm,
năm trăm mà còn nhiều hơn nữa các Tỷ-kheo thành tựu được ba loại
thần thông này. - Nhưng thưa Tôn giả Gotama, nay các Tỳ kheo ấy hiện ở đâu? - Này Bà-la-môn, trong chúng Tỷ-kheo này. - Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!
Như người dựng đứng những gì bị quăng ngã xuống, hay trình bày cái gì bị
che kín, hay chỉ đường cho người bị lạc hướng, hay cầm đèn sáng vào bóng
tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh
pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện thuyết
giảng. Con nay xin quy y Tôn giả
Gotama, quy y Pháp, quy y Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử cư
sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
Mạng sống chẳng là bao
Bị già kéo dẫn đi
Không có nơi nương tựa
Hãy luôn luôn quán tưởng
Sợ hãi tử vong này
Hãy làm các công đức
Ðưa đến chơn an lạc.
Ở đây chế ngự thân,
Chế ngự lời và ý,
Kẻ ấy dầu có chết,
Cũng được hưởng an lạc,
Vì khi còn đang sống
Ðã làm các công đức.
Ðồ đạc được đem ra,
Ðồ ấy lợi cho nó,
Không phải đồ bị cháy,
Cũng vậy đời bị cháy,
Do già chết thiêu đốt,
Nhờ bố thí tự cứu
Khéo cứu, đồ bố thí.
Ở đây, chế ngự thân,
Chế ngự lời và ý,
Kẻ ấy dầu có chết,
Cũng được hưởng an lạc,
Vì khi còn đang sống
Ðã làm các công đức.
Có con đen, trắng, đỏ
Màu hung hay có đốm,
Có con màu bồ câu
Dầu con bò màu gì,
Kiếm được con bò thuần,
Con vật kéo sức mạnh,
Ðẹp, lanh và hăng hái,
Mặc kệ nó màu gì,
Liền mắc vào gánh nặng,
Cũng vậy, giữa loài người,
Dầu có sinh chỗ nào,
Hoàng tộc, Bà-la-môn
Thương gia hay nô bộc,
Kẻ không có giai cấp,
Hay hạ cấp đổ phân,
Giữa những người như vậy.
Ai điều phục thuần thục,
Ngay thẳng, đủ giới đức
Nói thực, biết tàm quý,
Sanh tử đã đoạn tận,
Phạm hạnh được vẹn toàn
Gánh nặng đã hạ xuống,
Không còn bị trói buộc,
Việc cần làm đã làm,
Không còn bị lậu hoặc,
Ðã đến bờ bên kia,
Không chấp pháp tịch tịnh,
Phước điền ấy vô cấu.
Quả lớn đáng cúng dường;
Như kẻ ngu không biết,
Thiếu trí, ít nghe nhiều,
Chỉ bố thí bên ngoài,
Không đến gần kẻ thiện,
Những ai gần kẻ thiện,
Có tuệ, tôn bực hiền
Họ tin bậc Thiện Thệ,
An trú tận gốc rễ.
Sanh Thiên hay ở đây
Ðược sanh gia đình tốt
Bậc trí tuần tự tiến
Chứng được cảnh Niết-bàn.
Khôn khéo và thiền tịnh,
Với tâm được chinh phục,
Nhứt tâm, khéo định tĩnh,
Bậc trí đoạn mê ám,
Ba minh, diệt tử thần,
Vị ấy được tôn xưng,
Ðại hạnh cho Trời Người,
Bậc "Ðoạn tận tất cả",
Ðầy đủ cả ba minh
An trú không mê vọng,
Ðức Phật, bậc Giác Ngộ,
Bậc chứng thân tối hậu,
Chúng lễ Gotama.
Ai biết được đời trước,
Thấy Thiên giới, đọa giới,
Vị ấy là đạo sĩ,
Ðoạn sanh, đạt thắng trí
Vị Bà-la-môn nào,
Chứng được ba minh này,
Ta gọi là ba minh
Không như thường được gọi.
Tinh cần và định tĩnh
Với tầm được chinh phục
Nhứt tâm khéo định tĩnh
Ai biết được đời trước
Thấy Thiên giới đọa xứ
Vị ấy là đạo sĩ
Ðoạn sanh, đạt thắng trí
Vị Bà-la-môn nào,
Chứng được ba minh này,
Ta gọi là ba minh
Không như thường được gọi.
VII. Phẩm Lớn
61.- Sở y xứ.
1.- Này các Tỷ-kheo, có ba y xứ này của ngoại đạo, dầu có bị các bậc
Hiền giả cật vấn, nạn vấn lý do, thảo luận, vẫn kiên trì trong quan
điểm truyền thống về vô vi (không hành động). Thế nào là ba? Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn thuyết như sau, chấp
kiến như sau: "Phàm có cảm giác gì về con người này lãnh thọ
lạc, khổ hay không khổ, không lạc, tất cả đều do nhân nghiệp quá
khứ". Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn, thuyết như sau, chấp kiến như sau: "Phàm có cảm giác gì về con người
này lãnh thọ lạc, khổ hay không khổ, không lạc, tất cả đều do nhân
một tạo hóa tạo ra". Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, hay
Bà-la-môn, thuyết pháp như sau, chấp kiến như sau: "Phàm có cảm
giác gì về con người này lãnh thọ lạc, khổ hay không khổ, không lạc,
tất cả đều do không nhân, không duyên". 2.- Ở đây, này các Tỷ-kheo, đối với các vị Sa-môn, Bà-la-môn,
thuyết như sau, chấp kiến như sau: "Phàm có cảm giác gì về con
người này lãnh thọ lạc, khổ hay không khổ, không lạc, tất cả đều do
nhân nghiệp quá khứ". Ðối với các vị ấy, Ta đến và nói:
"Chư Tôn giả, có thật chăng, Chư Tôn giả có thuyết như sau, chấp
kiến như sau: "Phàm có cảm giác gì về con người này lãnh thọ
lạc, khổ hay không khổ, không lạc, tất cả đều do nhân nghiệp quá
khứ?"". Ðược Ta hỏi vậy, họ trả lời: "Thưa phải, có như vậy". Ta nói với họ như sau: "Như vậy, thời theo các Tôn giả, do nhân
nghiệp quá khứ, sẽ trở thành người sát sanh; do nhân nghiệp quá khứ,
sẽ trở thành người lấy của không cho; do nhân nghiệp quá khứ, sẽ trở
thành người không Phạm hạnh; do nhân nghiệp quá khứ, sẽ trở thành người
nói láo; do nhân nghiệp quá khứ, sẽ trở thành người nói hai lưỡi; do
nhân nghiệp quá khứ, sẽ trở thành người ác khẩu; do nhân nghiệp quá
khứ, sẽ trở thành người nói lời phù phiếm; do nhân nghiệp quá khứ,
sẽ trở thành người tham lam; do nhân nghiệp quá khứ, sẽ trở thành người tâm
sân; do nhân nghiệp quá khứ, sẽ trở thành người
theo tà kiến". Nhưng này các Tỷ-kheo, với những ai trở lại dựa
vào nghiệp quá khứ là do kiên thực, với những người ấy sẽ không có
ước muốn, không có tinh tấn, không có "Ðây là việc phải làm",
hay "Ðây là việc không nên làm". Như vậy, sự cần thiết cần
phải làm hay không cần phải làm không được tìm thấy là chân thực, là
đáng tin cậy, thời danh từ Sa-môn không thể áp dụng đúng pháp cho các
Ông được, vì các Ông sống thất niệm và với các căn không hộ trì. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là sự chỉ trích đúng pháp thứ nhất
của ta đối với các vị Sa-môn, Bà-la-môn có thuyết như vậy, có chấp
kiến như vậy. 3.- Ở đây, này các Tỷ-kheo, đối với các vị Sa-môn, Bà-la-môn,
thuyết như sau, chấp kiến như sau: "Phàm có cảm giác gì về con
người này lãnh thọ lạc, khổ hay không khổ, không lạc, tất cả đều do
nhân một tạo hóa tạo ra". Ðối với các vị ấy, Ta đến và nói:
"Chư Tôn giả, có thật chăng, Chư Tôn giả có thuyết như sau:
"Phàm có cảm giác gì về con người này lãnh thọ lạc, khổ hay
không khổ, không lạc, tất cả đều do nhân một tạo hóa tạo ra? ". Ðược Ta hỏi vậy, họ trả lời: "Thưa phải, có như vậy". Ta nói với họ như sau: "Như vậy, thời theo các Tôn giả, do nhân
một vị tạo hóa tạo ra, sẽ trở thành người sát sanh ... Do nhân một vị tạo
hóa tạo ra, sẽ trở thành người theo tà kiến". Nhưng này các
Tỷ-kheo, với những ai trở lại dựa vào vị tạo hóa tạo ra là lý do
kiên thực, với những người ấy sẽ không có ước muốn, không có tinh tấn,
không có "Ðây là việc phải làm", hay "Ðây là việc
không nên làm". Như vậy, sự cần thiết cần phải làm hay không cần
phải làm không được tìm thấy là chân thực, là đáng tin cậy, thời danh từ
Sa-môn không thể áp dụng đúng pháp cho các Ông được, vì các Ông sống
thất niệm và với các căn không hộ trì. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là sự chỉ trích đúng pháp thứ hai của
ta đối với các vị Sa-môn, Bà-la-môn có thuyết như vậy, có chấp kiến
như vậy. Ở đây, này các Tỷ-kheo, đối với các vị Sa-môn, Bà-la-môn,
thuyết như sau, chấp kiến như sau: "Phàm có cảm giác gì về con
người này lãnh thọ lạc, khổ hay không khổ, không lạc, tất cả đều do
không nhân không duyên". Ðối với các vị ấy, Ta đến và nói:
"Chư Tôn giả, có thật chăng, Chư Tôn giả có thuyết như sau chấp
kiến như sau: "Phàm có cảm giác gì về con người này lãnh thọ
lạc, khổ hay không khổ, không lạc, tất cả đều do không nhân không duyên?
"". Ðược Ta hỏi vậy, họ trả lời: "Thưa phải, có như vậy". Ta nói với họ như sau: "Như vậy, thời theo các Tôn giả, do không
nhân không duyên, sẽ trở thành người sát sanh ... Do không nhân không duyên,
sẽ trở thành người theo tà kiến". Nhưng này các Tỷ-kheo, với
những ai trở lại dựa vào không nhân không duyên là lý do kiên thực, với
những người ấy sẽ không có ước muốn, không có tinh tấn, không có
"Ðây là việc phải làm", hay "Ðây là việc không nên
làm". Như vậy, sự cần thiết cần phải làm hay không cần phải làm
không được tìm thấy là chân thực, là đáng tin cậy, thời danh từ Sa-môn
không thể áp dụng đúng pháp cho các Ông được, vì các Ông sống thất
niệm và với các căn không hộ trì. Như vậy, này các Tỷ-kheo, đây là sự chỉ trích đúng pháp thứ ba của
ta đối với các vị Sa-môn, Bà-la-môn có thuyết như vậy, có chấp kiến
như vậy. Này các Tỷ-kheo, đây là ba y xứ của ngoại đạo, dù có được
các bậc Tôn giả cật vấn, nạn vấn lý do thảo luận, vẫn kiên trì trong
quan điểm truyền thống về vô vi (không hành động). 5.- Và này các Tỷ-kheo, đây là pháp Ta thuyết giảng, không bị chỉ
trích, không bị uế nhiễm, không có tội lỗi, không bị các Sa-môn, các
Bà-la-môn có trí quở trách. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp ta
thuyết giảng, không bị chỉ trích, không bị uế nhiễm, không có tội
lỗi, không bị các Sa-môn, các Bà-la-môn có trí quở trách? Sáu giới này, này các Tỷ-kheo, là pháp Ta thuyết giảng, không bị chỉ
trích, không bị uế nhiễm, không có tội lỗi, không
bị các Sa-môn, các Bà-la-môn có trí quở trách. Sáu xúc xứ này, này các
Tỷ-kheo, là pháp Ta thuyết giảng, không bị chỉ trích, không bị uế nhiễm,
không có tội lỗi, không bị các Sa-môn, các
Bà-la-môn có trí quở trách. Mười tám ý cận hành này, này các
Tỷ-kheo, là pháp Ta thuyết giảng, không bị chỉ trích, không bị uế nhiễm,
không có tội lỗi, không bị các Sa-môn, các
Bà-la-môn có trí quở trách. Bốn Thánh đế này, này các Tỷ-kheo, là
pháp Ta thuyết giảng, không bị chỉ trích, không bị uế nhiễm, không có tội
lỗi, không bị các Sa-môn, các Bà-la-môn có trí quở
trách. 6.- Sáu giới này, này các Tỷ-kheo, là pháp Ta thuyết giảng, không bị chỉ
trích, không bị uế nhiễm, không có tội lỗi, không
bị các Sa-môn, các Bà-la-môn có trí quở trách, được nói đến như vậy.
Do duyên gì được nói đến? Này các Tỷ-kheo, có sáu giới này: địa
giới, thủy giới, phong giới, hỏa giới, không giới, thức giới. Sáu giới này,
này các Tỷ-kheo, là pháp Ta thuyết giảng, không bị chỉ trích,
không bị uế nhiễm, không có tội lỗi, không bị các Sa-môn, các
Bà-la-môn có trí quở trách. Ðiều đã được nói đến, chính do duyên
này đã được nói đến. 7.- Có sáu xúc xứ này, này các Tỷ-kheo, là pháp Ta thuyết giảng, không bị
chỉ trích, không bị uế nhiễm, không có tội lỗi,
không bị các Sa-môn, các Bà-la-môn có trí quở trách. Ðiều đã được
nói đến, chính do duyên nào đã được nói đến? Này các Tỷ-kheo,
có sáu xúc xứ này: nhãn xúc xứ, nhĩ xúc xứ, tỷ xúc xứ, thiệt xúc
xứ, thân xúc xứ, ý xúc xứ. Có sáu xúc xứ này, này các Tỷ-kheo, là pháp Ta
thuyết giảng, không bị chỉ trích, không bị uế nhiễm, không có tội lỗi,
không bị các Sa-môn, các Bà-la-môn có trí quở trách. Ðiều đã được
nói đến, chính do duyên này đã được nói đến. 8.-Có mười tám ý cận hành này, này các Tỷ-kheo, là pháp Ta thuyết giảng,
không bị chỉ trích, không bị uế nhiễm, không có tội lỗi, không bị các Sa-môn, các Bà-la-môn có trí quở trách.
Ðiều đã được nói đến, chính do duyên nào đã được nói đến?
Khi con mắt thấy sắc, tư tưởng hướng về và đến gần sắc, làm y xứ
cho hỷ, hướng về và đến gần sắc, làm y xứ cho ưu, hướng về
và đến gần sắc, làm y xứ cho xả. Khi tai nghe tiếng, tư tưởng hướng
về và đến gần tiếng, làm y xứ cho hỷ, hướng về và
đến gần tiếng, làm y xứ cho ưu, hướng về và đến gần
tiếng, làm y xứ cho xả. Khi mũi ngửi hương ... khi lưỡi nếm vị ... khi
thân cảm xúc ... khi ý nhận thức pháp, tư tưởng hướng về và
đến gần pháp, làm y xứ cho hỷ, hướng về và đến gần pháp,
làm y xứ cho ưu, hướng về và đến gần pháp, làm y xứ cho xả. Có
mười tám ý cận hành này, này các Tỷ-kheo, là pháp Ta thuyết giảng, không bị
chỉ trích, không bị uế nhiễm, không có tội lỗi, không bị các Sa-môn, các Bà-la-môn có trí quở trách. Ðiều đã
được nói đến, chính do duyên này đã được nói đến. 9.- Bốn thánh đế này, này các Tỷ-kheo, là pháp Ta thuyết giảng, không bị
chỉ trích, không bị uế nhiễm, không có tội lỗi, không bị các Sa-môn, các Bà-la-môn có trí quở trách. Ðiều đã
được nói đến, chính do duyên nào đã được nói đến? Do chấp thủ
sáu giới, này các Tỷ-kheo, nên có nhập thai. Do có nhập thai, nên có danh
sắc. Do duyên danh sắc, nên có sáu xứ. Do duyên sáu xứ, nên có xúc. Do duyên
xúc, nên có thọ. Với người có cảm thọ, này các Tỷ-kheo, Ta nêu
rõ: "Ðây là khổ", Ta nêu rõ: "Ðây là khổ tập; Ta nêu rõ:
"Ðây là khổ diệt", Ta nêu rõ: "Ðây là con đường đưa
đến khổ diệt". 10.- Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Khổ Thánh đế? Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu bi, khổ,
ưu, não là khổ. Ðiều mong cầu không được là khổ. Tóm lại, năm thủ uẩn
là khổ. Này các Tỷ-kheo, đây là Khổ Thánh đế. 11.- Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Thánh đế về Khổ tập? Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên sắc, danh sắc duyên sáu
xứ, sáu xứ duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ,
thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu não.
Như vầy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này. Này các Tỷ-kheo, đây
gọi là Thánh đế về Khổ tập. 12.-Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Thánh đế về Khổ
diệt? Do vô minh diệt không có tàn dư, nên các hành diệt. Do hành
diệt, nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc
diệt nên sáu xứ diệt. Do sáu xứ diệt nên xúc diệt. Do xúc
diệt nên thọ diệt. Do thọ diệt nên ái diệt. Do ái
diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt
nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu não
đều diệt. Như vậy là sự đoạn diệt toàn bộ của khổ uẩn này.
Này các Tỷ-kheo, Ðây gọi là Thánh đế về Khổ diệt. 13.-Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Thánh đế về con đường
đưa đến Khổ diệt? Ðây là Thánh đạo Tám ngành, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy,
chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh
định. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Thánh đế về con đường
đưa đến Khổ diệt. Bốn Thánh đế này, này các Tỷ-kheo, là pháp Ta thuyết giảng, không bị
chỉ trích, không có uế nhiễm, không có tội lỗi, không bị các Sa-môn,
các Bà-la-môn có trí quở trách. Ðiều đã được nói đến, chính do
duyên này được nói đến. 62.- Các Sợ Hãi. 1. - Có ba sợ hãi này, này các Tỷ-kheo, làm chia rẽ mẹ con, được
người phàm phu không học nói đến. Thế nào là ba? Có một thời, này các Tỷ-kheo, một hỏa tai lớn khởi lên. Khi hỏa tai
lớn này khởi lên, này các Tỷ-kheo, các làng bị thiêu, các thị trấn lớn bị
thiêu, các thành phố bị thiêu. Khi các làng bị thiêu, các thị trấn lớn bị
thiêu, các thành phố bị thiêu, mẹ không tìm được con, con không tìm được
mẹ. Ðây là sợ hãi thứ nhất, này các Tỷ-kheo, làm chia rẽ mẹ con, được
kẻ phàm phu không học nói đến. 2.- Lại nữa, này các Tỷ-kheo, một thời có mưa lớn khởi lên. Khi mưa
lớn khởi lên, này các Tỷ-kheo, lụt lội lớn sanh khởi. Do có lụt lớn sanh
khởi, nên các làng bị cuốn trôi, các thị trấn bị cuốn trôi, các thành phố
bị cuốn trôi. Khi các làng bị cuốn trôi, các thị trấn bị cuốn trôi, các
thành phố bị cuốn trôi, mẹ không tìm được con, con không tìm được mẹ.
Ðây là sợ hãi thứ hai, này các Tỷ-kheo, làm chia rẽ mẹ con, được kẻ
phàm phu không học nói đến. 3.- Lại nữa, này các Tỷ-kheo, một thời có sợ hãi về giặc cướp
rừng nổi lên, và dân chúng leo lên xe chạy trốn. Khi sợ hãi giặc cướp rừng
nổi lên, này các Tỷ-kheo, khi dân chúng leo lên xe chạy trốn, mẹ không
tìm được con, con không tìm được mẹ. Ðây là sợ hãi thứ ba, này các
Tỷ-kheo, làm chia rẽ mẹ con, được kẻ phàm phu không học nói đến. Có ba sợ hãi này, này các Tỷ-kheo, làm chia rẽ mẹ con, được kẻ phàm
phu không học nói đến. 4.- Có ba sợ hãi này, này các Tỷ-kheo, có khi chia rẽ mẹ con, có khi
không chia rẽ mẹ con, được kẻ phàm phu không học nói đến. Thế
nào là ba? Có một thời, này các Tỷ-kheo, một hỏa tai lớn khởi lên. Khi hỏa tai
lớn này khởi lên, này các Tỹ Kheo, các làng bị thiêu, các thị trấn lớn bị
thiêu, các thành phố bị thiêu. Khi các làng bị thiêu, các thị trấn lớn bị
thiêu, các thành phố bị thiêu, trong khi ấy, có thời có trường hợp mẹ có
thể tìm được con, con có thể tìm được mẹ. Này các Tỷ-kheo,
đây là sợ hãi thứ nhất, có khi làm chia rẽ mẹ con, có khi không làm chia rẽ
mẹ con, được kẻ phàm phu không học nói đến. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, một thời có mưa lớn khởi lên. Do có thủy
tai lớn sanh khởi nên các làng bị cuốn trôi, các thị trấn bị cuốn trôi, các
thành phố bị cuốn trôi. Khi các thành phố bị cuốn trôi, trong khi ấy, có
thời có trường hợp mẹ có thể tìm được con, con có thể tìm được
mẹ. Này các Tỷ-kheo, đây là sợ hãi thứ hai, có khi làm chia rẽ mẹ con,
có khi không làm chia rẽ mẹ con, được kẻ phàm phu không học nói
đến. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, một thời có sợ hãi về giặc cướp rừng
nổi lên. Và dân chúng leo lên xe chạy trốn. Khi sợ hãi về giặc cướp
rừng nổi nên, này các Tỷ-kheo, khi dân chúng leo lên xe chạy trốn, trong
khi ấy, có thời có trường hợp mẹ có thể tìm được con, con có thể
tìm được mẹ. Này các Tỷ-kheo, đây là sợ hãi thứ ba, có khi làm chia
rẽ mẹ con, có khi không làm chia rẽ mẹ con, được kẻ phàm phu không học
nói đến. Có ba sợ hãi này, này các Tỷ-kheo, có khi làm chia rẽ mẹ con, có khi
không làm chia rẽ mẹ con, được kẻ phàm phu không học nói đến. 5.-Có ba sợ hãi này, này các Tỷ-kheo, làm chia rẽ mẹ con. Thế nào
là ba? Sợ hãi về già, sợ hãi về bệnh, sợ hãi về chết. Này các Tỷ-kheo, mẹ không muốn con mình bị già: "Ta nay bị già,
mong rằng con Ta không bị già!". Hay người con không muốn mẹ mình bị già:
"Ta nay bị già, mong rằng mẹ Ta không bị già!". Này các Tỷ-kheo, mẹ không muốn con mình bị bệnh: "Ta nay bị
bệnh, mong rằng con Ta không bị bệnh!". Hay con không muốn mẹ mình
bị bệnh: "Ta nay bị bệnh, mong rằng mẹ Ta không bị bệnh!". Này các Tỷ-kheo, mẹ không muốn con mình bị chết: "Ta nay bị
chết, mong rằng con Ta không bị chết!". Hay người con không muốn mẹ
mình bị chết: "Ta nay bị chết, mong rằng mẹ Ta không bị
chết!". Ðây là ba sợ hãi, này các Tỷ-kheo, làm chia rẽ mẹ con. 6.- Có con đường, này các Tỷ-kheo, có đạo lộ đưa đến từ bỏ,
vượt qua ba sợ hãi không làm chia rẽ mẹ con này, và ba sợ hãi làm chia rẽ
mẹ con này. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con đường, thế nào
là đạo lộ đưa đến từ bỏ, vượt qua ba sợ hãi không làm chia rẽ mẹ con
này, và ba sợ hãi làm chia rẽ mẹ con này? Ðây là con đường Thánh Tám ngành, tức là chánh tri kiến, chánh tư
duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm,
chánh định. Ðây là con đường, này các Tỷ-kheo, đây là đạo lộ là
đưa đến từ bỏ, vượt qua ba sợ hãi không làm chia rẽ mẹ con này, và ba
sợ hãi làm chia rẽ mẹ con này. 63.- Venaga
1-7 1. Một thời, Thế Tôn đang đi du hành giữa dân chúng Kosala cùng với
đại chúng Tỷ-kheo, đi đến một làng Bà-la-môn Kosala, tên là
Venàgapura. Các gia chủ Bà-la-môn ở Venàgapura được nghe: "Sa-môn Gotama,
dòng họ Thích-ca, xuất gia từ gia tộc Thích-ca đến Venàgapura.
Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Thế Tôn
Gotama: "Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh
Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng
Phu, Thiên Nhân sư, Phật, Thế Tôn. Ngài với thắng trí, tự thân chứng ngộ
và tuyên bố về thế giới này, cùng với Thiên Giới, Ma Giới, Phạm
Thiên Giới, cùng với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, các loài Trời, loài Người. Ngài thuyết
pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, và giới
thiệu đời sống Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ trong sạch". Tốt đẹp
thay được chiêm ngưỡng một vị A-la-hán như vậy". 2. Rồi các Bà-la-môn gia chủ ở Venàgapura đi đến Thế Tôn, sau khi
đến, có người đảnh lễ Sa-môn Gotama rồi ngồi xuống một bên; có người
nói lên với Sa-môn Gotama những lời chào đón hỏi thăm rồi ngồi xuống một
bên; có người chắp tay vái chào Sa-môn Gotama rồi ngồi xuống một bên; có
người xưng tên và dòng họ rồi ngồi xuống một bên; có người im lặng
rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Vacchagotta, người xứ
Venàgapura bạch Thế Tôn: 3- Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật hy hữu thay, Tôn giả Gotama!
Các căn của Tôn giả Gotama thật trong sáng, màu da thật thanh tịnh chói sáng.
Ví như, thưa Tôn giả Gotama, trái táo vàng vào mùa thu, được thanh tịnh
chói sáng; cũng vậy, các căn của Tôn giả Gotama thật trong sáng, màu da thật
thanh tịnh chói sáng. Ví như, thưa Tôn giả Gotama, trái cây tala chín vừa rời
khỏi cành, thanh tịnh, chói sáng; cũng vậy, các căn của Tôn giả Gotama thật
trong sáng, màu da thật thanh tịnh, chói sáng. Ví như, thưa Tôn giả Gotama,
một đồ trang sức bằng vàng đỏ, được người thợ vàng thiện xảo khéo
luyện trong lò, khéo đạp và đặt trên tấm vải vàng, được chiếu
sáng, chói sáng, rực sáng; cũng vậy, các căn của Tôn giả Gotama thật trong
sáng, màu da thật thanh tịnh chói sáng. Thưa Tôn giả Gotama, còn các giường cao và lớn như ghế bành, nệm
trải giường bằng lông cừu, vải trải giường nhiều tấm, nhiều màu,
chăn len trắng, chăn len thêu bông, nệm bông, nệm thêu hình các con
thú, mền bằng lông thú cả hai phía, mền bằng lông thú một phía,
mền có đính ngọc, mền bằng lụa, tấm thảm lớn có thể chứa
mười sáu người múa, nệm voi, nệm ngựa, nệm xe, nệm bằng da
sơn dương khâu lại với nhau, nệm bằng da con sơn dương gọi là Kadali,
tấm thảm có lầu che phía trên, ghế dài có hai đầu gối chân màu đỏ.
Các loại giường cao và giường lớn như vậy, chắc Tôn giả Gotama có được
không khó khăn, có được không mệt nhọc, có được không phí sức? 4. - Này Bà-la-môn, các giường cao và lớn ấy, như ghế bành ... có hai
đầu gối chân màu đỏ, thật rất khó được các vật ấy. Và nếu có
được, cũng không thích hợp với những người xuất gia. Này Bà-la-môn, có ba loại giường cao và giường lớn này, nay Ta được
chúng không khó khăn, có được không mệt nhọc, có được không phí
sức. Thế nào là ba? Giường cao, giường lớn chư Thiên, giường cao, giường lớn Phạm thiên,
giường cao, giường lớn Bậc thánh. Ba giường cao, giường lớn này, này
Bà-la-môn, Ta được chúng không khó khăn, có được không mệt nhọc,
có được không phí sức. 5- Và thưa Tôn giả Gotama, thế nào là giường cao, giường lớn chư
Thiên, mà Tôn giả Gotama được không có khó khăn ... được chúng không có
phí sức? Ở đây, này Bà-la-môn, Ta sống gần một làng hay một thị trấn. Buổi
sáng, Ta đắp y, cầm y bát, đi vào làng ấy hay vào thị trấn ấy để khất
thực. Sau khi ăn xong, trên con đường đi khất thực trở về, Ta đi đến
góc cuối của ngôi rừng. Ở tại đấy, Ta lượm cỏ hay lá chất thành một
đống, rồi ta ngồi kiết già, lưng thẳng, để niệm trước mặt, ly
dục, ly pháp bất thiện, Ta chứng đạt và an trú sơ Thiền, một trạng
thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Làm cho chỉ tịnh tầm và tứ, Ta
chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định
sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Ly hỷ, trú xả, chánh
niệm tỉnh giác, thân cảm lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả
niệm lạc trú, Ta chứng đạt và an trú Thiền thứ ba. Ðoạn lạc và
đoạn khổ, chấm dứt hỷ ưu đã cảm thọ trước, Ta chứng đạt và an
trú Thiền thứ tư, không khổ lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Bà-la-môn, trong trạng thái như vậy, nếu ta đi kinh hành, thời trong
lúc ấy, chỗ kinh hành của Ta thuộc chư Thiên. Này Bà-la-môn, trong trạng
thái như vậy, nếu ta đứng, thời trong lúc ấy, chỗ đứng của Ta thuộc
chư Thiên. Này Bà-la-môn, trong trạng thái như vậy, nếu ta ngồi, thời
trong lúc ấy, chỗ ngồi của ta thuộc Chư Thiên. Này Bà-la-môn, trong trạng
thái như vậy, nếu ta nằm, thời trong lúc ấy giường cao và giường lớn
của Ta thuộc chư Thiên. Này Bà-la-môn, đây là giường cao, giường lớn thuộc
chư Thiên, mà Ta có được không khó khăn, được chúng không có mệt
nhọc, được chúng không phí sức. - Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật hy hữu thay, Tôn giả Gotama! Ai
khác, ngoài Tôn giả Gotama, có thể có được giường cao, giường lớn chư
Thiên như vậy, được chúng không có khó khăn, được chúng không có mệt
nhọc, được chúng không có phí sức! 6. -Thế nào, thưa Tôn giả Gotama, thế nào là giường cao, giường
lớn Phạm thiên, mà Tôn giả Gotama được chúng không khó khăn, được chúng
không mệt nhọc, được chúng không phí sức? Ở đây, này Bà-la-môn, Ta sống gần một làng hay một thị trấn. Buổi
sáng, Ta đắp y, cầm y bát, đi vào làng ấy hay thị trấn ấy để khất
thực. Sau khi ăn xong, trên con đường đi khất thực trở về, Ta đi đến
góc cuối của ngôi rừng. Ở tại đấy, Ta lượm cỏ hay lá chất thành một
đống, rồi ta ngồi kiết già, lưng thẳng, để niệm trước mặt. Ta an
trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ
hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp
thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ cùng khắp vô
biên giới.Ta an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, đại
hành, vô biên, không hận, không sân. Với tâm câu hữu với bi, ... Với tâm
câu hữu với hỷ, ... Với tâm câu hữu với xả, cũng vậy phương thứ hai ...
quảng đại, đại hành, vô biên, không hận, không sân. Này Bà-la-môn, trong trạng thái như vậy, nếu ta đi kinh hành, thời trong
lúc ấy, chỗ kinh hành của Ta thuộc Phạm Thiên. Này Bà-la-môn, trong trạng
thái như vậy, nếu ta đứng, thời trong lúc ấy, chỗ đứng của Ta thuộc
Phạm Thiên. Này Bà-la-môn, trong trạng thái như vậy, nếu ta ngồi, thời
trong lúc ấy, chỗ Ta ngồi thuộc Phạm Thiên. Này Bà-la-môn, trong trạng
thái như vậy, nếu Ta nằm, thời trong lúc ấy, các giường cao giường lớn
của Ta thuộc Phạm Thiên. Này Bà-la-môn, đây là giường cao, giường lớn
thuộc Phạm Thiên, mà Ta có được không khó khăn, được chúng không có
mệt nhọc, được chúng không phí sức. Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật hy hữu thay, Tôn giả Gotama! Ai
khác, ngoài Tôn giả Gotama, có thể có được giường cao, giường lớn Phạm
Thiên như vậy, được chúng không có khó khăn, được chúng không có mệt
nhọc, được chúng không có phí sức! 7. Thế nào, thưa Tôn giả Gotama, thế nào là giường cao, giường lớn
bậc Thánh, mà Tôn giả Gotama được chúng không khó khăn, được chúng không
mệt nhọc, được chúng không phí sức? Ở đây, này Bà-la-môn, Ta sống gần một làng hay một thị trấn. Buổi
sáng, Ta đắp y, cầm y bát, đi vào làng ấy hay thị trấn ấy để khất
thực. Sau khi ăn xong, trên con đường đi khất thực trở về, Ta đi đến
góc cuối của ngôi rừng. Ở tại đấy, Ta lượm cỏ hay lá chất thành một
đống, rồi ta ngồi kiết già, lưng thẳng, để niệm trước mặt. Ta
biết rõ như sau: "Tham ái đã được Ta đoạn tận, chặt đứt từ gốc
rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không thể hiện hữu, làm cho
không thể sanh khởi trong tương lai. Sân đã được ta đoạn tận, chặt đứt từ
gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không thể hiện hữu, làm cho không
thể sanh khởi trong tương lai. Si đã được Ta đoạn tận, chặt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân
cây tala, làm cho không thể hiện hữu, làm cho không thể sanh khởi
trong tương lai". Này Bà-la-môn, trong trạng thái như vậy, nếu ta đi kinh hành, thời trong
lúc ấy, chỗ kinh hành của Ta thuộc bậc Thánh. Này Bà-la-môn, trong trạng
thái như vậy, nếu ta đứng, thời trong lúc ấy, chỗ đứng của Ta thuộc
bậc Thánh. Này Bà-la-môn, trong trạng thái như vậy, nếu ta ngồi, thời
trong lúc ấy, chỗ Ta ngồi thuộc bậc Thánh. Này Bà-la-môn, trong trạng thái
như vậy, nếu ta nằm, thời trong lúc ấy, các giường cao, giường lớn, của
Ta thuộc bậc Thánh. Này Bà-la-môn, đây là giường cao, giường lớn thuộc bậc
Thánh, mà Ta có được, không có khó khăn, được chúng không có mệt
nhọc, được chúng không phí sức. - Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật hy hữu thay, Tôn giả Gotama! Ai
khác, ngoài Tôn giả Gotama, có thể có được giường cao, giường lớn bậc
Thánh như vậy, được chúng không có khó khăn, được chúng không có mệt
nhọc, được chúng không có phí sức! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thưa Tôn giả,
như người dựng đứng những gì bị quăng ngã xuống, hay trình bày cái gì bị
che kín, hay chỉ đường cho người bị lạc hướng, hay cầm đèn sáng vào bóng
tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh
pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện thuyết
giảng. Con nay xin quy y Tôn giả
Gotama, quy y Pháp, quy y Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử cư
sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng. 64.- Sarabha 1-6 Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Ràjagaha (Vương Xá), tại núi Gijjhakùta (Linh
Thứu). Lúc bấy giờ, du sĩ Sarabha, từ bỏ pháp và Luật này không bao lâu, đang
tuyên bố như sau với hội chúng ở Ràjagaha: "Ta đã hiểu rõ pháp của
các Sa-môn Thích tử. Và vì hiểu rõ pháp của các Sa-môn Thích tử, nên ta
đã từ bỏ Pháp và Luật ấy". 2. Rồi có nhiều Tỷ-kheo, vào buổi sáng đắp y, cầm bát y đi vào
Ràjagaha để khất thực. Các vị Tỷ-kheo ấy, nghe du sĩ Sarabha tuyên bố như
sau với hội chúng ở Ràjagaha: "Ta đã hiểu rõ pháp của các Sa-môn
Thích tử. Và vì hiểu rõ pháp của các Sa-môn Thích tử, nên ta đã từ bỏ
Pháp và Luật ấy". Rồi các vị Tỷ-kheo đi khất thực ở Ràjagaha xong, trên con đường khất
thực trở về, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế
Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch
Thế Tôn: - Du sĩ Sarabha, bạch Thế Tôn, đã từ bỏ Pháp và Luật này không bao
lâu. Vị ấy tuyên bố: "Ta đã hiểu rõ pháp của các Sa-môn Thích tử.
Và vì hiểu rõ pháp của các Sa-môn Thích tử, nên ta đã từ bỏ Pháp và
Luật ấy". Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn vì lòng lân
mẫn, hãy đi đến du sĩ Sarabha! Thế Tôn im lặng nhận lời. 3.- Thế Tôn vào buổi chiều, từ chỗ Thiền định đứng dậy,
đi đến bờ sông Sappinikàti, khu vườn của các du sĩ, đến du sĩ
Sarabha; sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi
xuống, Thế Tôn nói với du sĩ Sarabha: - Có thật chăng, này Sarabha, Ông đã nói như sau: "Ta đã hiểu rõ
pháp của các Sa-môn Thích tử. Và vì hiểu rõ pháp của các Sa-môn Thích
tử, nên ta đã từ bỏ Pháp và Luật này "? Khi được nghe nói như vậy, du sĩ Sarabha giữ im lặng. Lần thứ hai, Thế Tôn nói với du sĩ Sarabha: - Hãy nói lên, này Sarabha, Ông đã hiểu rõ pháp các Sa-môn Thích tử
như thế nào? Nếu Ông hiểu chưa được đầy đủ, thời Ta sẽ làm
cho được đầy đủ. Nhưng nếu Ông hiểu được đầy đủ, thời Ta sẽ
hoan hỉ tiếp nhận. Lần thứ hai, du sĩ Sarabha giữ im lặng. Lần thứ ba, Thế Tôn nói với du sĩ Sarabha: - Chính do Ta, này Sarabha, pháp các Sa-môn Thích tử được trình bày lên.
Hãy nói lên, này Sarabha, Ông đã hiểu rõ pháp các Sa-môn Thích tử như
thế nào? Nếu Ông hiểu chưa được đầy đủ, thời Ta sẽ làm cho
được đầy đủ. Nhưng nếu Ông hiểu được đầy đủ, thời Ta sẽ hoan
hỉ tiếp nhận. Lần thứ ba, du sĩ Sarabha giữ im lặng. Rồi các du sĩ ở Ràjagaha nói với du sĩ Sarabha: - Này Hiền giả, những điều gì, Hiền giả cần hỏi Sa-môn Gotama,
Sa-môn Gotama đã cho Hiền giả có cơ hội nói lên. Hãy nói lên, này
Sarabha, Hiền giả đã hiểu pháp các Sa-môn Thích tử như thế nào?
Nếu Hiền giả hiểu chưa được đầy đủ, Sa-môn Gotama sẽ làm cho
đầy đủ. Nếu Hiền giả hiểu được đầy đủ, Sa-môn Gotama sẽ hoan
hỷ tiếp nhận. Ðược nói như vậy, du sĩ Sarabha giữ im lặng, hoang mang, rụt vai, cúi đầu,
sửng sờ, không thể trả lời. 5. Rồi Thế Tôn biết được du sĩ Sarabha đang giữ im lặng, hoang mang,
rụt vai, cúi đầu, sửng sờ, ngồi không trả lời, liền nói với các du sĩ
ấy: - Này các du sĩ, ai nói với Ta như sau: "Dầu Ông tự cho là đã Chánh
Ðẳng Giác, nhưng Ông không có Chánh Ðẳng Giác các pháp này". Ở
đây, Ta sẽ khéo cật vấn, nạn vấn, thảo luận với người ấy. Người ấy bị Ta
khéo cật vấn, nạn vấn, thảo luận như vậy, không có chỗ nào, không có
trường hợp nào, ngoài cách dựa vào một trong ba thái độ như sau: Hoặc là
tránh né về vấn đề với một vấn đề khác, sẽ hướng dẫn câu
chuyện ra ngoài đề tài chính, hay tỏ lộ phẫn nộ, sân hận, và bất
mãn hay im lặng, hoang mang, rụt vai, cúi đầu, sửng sờ, không nói gì, như du
sĩ Sarabha. Này các du sĩ, nếu có ai nói về ta như sau: "Dầu Ông tự cho
đã đoạn tận các lậu hoặc, nhưng các lậu hoặc này chưa được đoạn
tận!". Ở đây, Ta sẽ khéo cật vấn, nạn vấn, thảo luận với người ấy.
Người ấy bị Ta khéo cật vấn, nạn vấn, thảo luận như vậy, không có chỗ nào,
không có trường hợp nào, ngoài cách dựa vào một trong ba thái độ như sau:
Hoặc là tránh né về vấn đề với một vấn đề khác, sẽ hướng dẫn câu chuyện ra
ngoài đề tài chính, hay tỏ lộ phẫn nộ, sân hận, và bất
mãn hay im lặng, hoang mang, rụt vai, cúi đầu, sửng sờ, không nói gì, như du
sĩ Sarabha. Này các du sĩ, nếu có ai nói về Ta như sau: "Pháp do Ông thuyết
giảng với mục đích chơn chánh đoạn tận khổ đau, không có đưa người thực hành
đến mục đích ấy". Ở đây, Ta sẽ khéo cật vấn, nạn vấn, thảo luận với người
ấy. Người ấy bị Ta khéo cật vấn, nạn vấn, thảo luận như vậy, không có chỗ
nào, không có trường hợp nào, ngoài cách dựa vào một trong ba thái độ như
sau: Hoặc là tránh né về vấn đề với một vấn đề khác, sẽ hướng dẫn câu chuyện
ra ngoài đề tài chính, hay tỏ lộ phẫn nộ, sân hận, và bất mãn hay im lặng,
hoang mang, rụt vai, cúi đầu, sửng sờ, không nói gì, như du sĩ Sarabha. Rồi Thế Tôn, tại khu vườn các du sĩ, trên bờ sông Sappinnikàti, sau khi
rống lên ba lần tiếng rống con sư tử, liền ra đi trên hư không. 6. Các du sĩ ấy, sau khi Thế Tôn ra đi không bao lâu, liền bao vây du
sĩ Sarabha, công kích du sĩ Sarabha với những dòng nước nhiếc mắng như
sau: - "Này Hiền giả Sarabha, như con dã can già yếu trong rừng rậm
nghĩ rằng: "Ta sẽ rống tiếng con Sư tử", nhưng nó chỉ thốt ra
tiếng rú con dã can, chỉ thốt ra tiếng rú con thú ăn thịt. Cũng vậy,
này Hiền giả Sarabha, ngoài Sa-môn Gotama có thể có tiếng rống con
sư tử, Ông nghĩ: "Ta sẽ rống tiếng rống con sư tử", nhưng Ông
chỉ thốt ra tiếng rú con dã can, chỉ thốt ra tiếng rú con thú ăn
thịt. Ví như, này Hiền giả Sarabha, con gà con nghĩ rằng: "Ta sẽ gáy lên
tiếng gáy con gà trống", nhưng nó chỉ có thể thốt ra tiếng
kêu con gà con. Cũng vậy, này Hiền giả Sarabha, ngoài Sa-môn Gotama có
thể gáy lên tiếng gáy gà trống, Ông nghĩ: "Ta có thể gáy lên
tiếng gáy con gà trống", nhưng Ông chỉ thốt ra tiếng gáy con gà
con. Ví như, con bò cái con, này Hiền giả Sarabha, khi chuồng bò trống không,
nghĩ rằng có thể rống tiếng rống sâu đậm con bò đực. Cũng vậy, này
Hiền giả Sarabha, ngoài Sa-môn Gotama ra, Ông nghĩ rằng Ông có thể rống
lên tiếng rống sâu đậm con bò đực, nhưng Ông chỉ thốt ra tiếng rống con bò
cái con. Như vậy, các du sĩ ấy bao vây du sĩ Sarabha, công kích du sĩ Sarabha với
những dòng nước nhiếc mắng như vậy. 65.- Các Vị Ở Kesaputta 1-17 1.- Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn đang
đi du hành giữa dân chúng Kosala, cùng với đại chúng Tỷ-kheo, đi
đến Kesaputta, thị trấn của các người Kàlàmà. Các người Kàlàmà ở Kesaputta được nghe:
"Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Thích ca đã
đến Kesaputta. Tiếng đồn tốt đẹp như sau được truyền đi
về Sa-môn Gotama: Ngài là Thế Tôn, bậc Ứng Cúng A-la-hán, Chánh
Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiên Tuệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng
Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Sau khi
tự thực chứng, Ngài đã giảng dạy chư thiên và loài người, hàng
tu sĩ và cư sĩ, vua chúa cùng thường dân, Ngài đã giảng Pháp cao
diệu từ chặng đầu, chặng giữa, cho đến chặng cuối; Ngài đã
giảng đời sống phạm hạnh chi tiết và rõ ràng, toàn hảo, hoàn
toàn tinh khiết. Lành thay, nếu chúng tôi được yết kiến một
vị Ứng cúng như vậy".
2.- Rồi các người Kàlàmà ở Kesaputta đi đến
Thế Tôn. Sau khi đến, có người đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi
xuống một bên; có người nói lên với Thế Tôn những lời chào
đón thăm hỏi, sau khi nói lên những lời chào đón thăm hỏi thân
hữu rồi ngồi xuống một bên; có người chắp tay vái chào Thế
Tôn rồi ngồi xuống một bên; có người xưng tên và dòng họ
rồi ngồi xuống một bên; có người im lặng rồi ngồi xuống
một bên.
Sau khi ngồi xuống một bên, các người Kàlàmà
ở Kesaputta bạch Thế Tôn:
- Có một số Sa-môn, Bà-la-môn, bạch Thế Tôn,
đi đến Kesaputta. Họ làm sáng tỏ, làm chói sáng quan điểm của
mình, nhưng họ bài xích quan điểm người khác, khinh miệt, chê
bai, xuyên tạc. Bạch Thế Tôn, lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn khác
cũng đi đến Kesaputta, họ làm sáng tỏ, làm chói sáng quan điểm
của mình, nhưng họ bài xích quan điểm người khác, khinh miệt,
chê bai, xuyên tạc. Ðối với họ, bạch Thế Tôn, chúng con có
những nghi ngờ phân vân: "Trong những Tôn giả Sa-môn này, ai nói
sự thật, ai nói láo?"
3. - Ðương nhiên, này các Kàlàmà, các Ông có
những nghi ngờ! Ðương nhiên, này các Kàlàmà, các Ông có những
phân vân! Trong những trường hợp đáng nghi ngờ, các Ông đương
nhiên khởi lên phân vân.
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo,
chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền
thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng; chớ có tin
vì lý luận suy diễn; chớ có tin vì diễn giải tương tự; chớ có
tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù
hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy
quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình.
Nhưng này các Kàlàmà, khi nào tự mình
biết rõ như sau: "Các pháp này là bất thiện; Các pháp này là
đáng chê; Các pháp này bị các người có trí chỉ trích; Các pháp
này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau",
thời này Kàlàmà, hãy từ bỏ chúng!
4. Các Ông nghĩ thế nào, này Kàlàmà! Lòng
tham khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa
lại hạnh phúc hay bất hạnh?
- Bất hạnh, bạch Thế Tôn.
- Người này có tham, này các Kàlàmà, bị
tham chinh phục, tâm bị xâm chiếm, giết các sinh vật, lấy của
không cho, đi đến vợ người, nói láo, khích lệ người khác cũng
làm như vậy. Như vậy, có làm cho người ấy bất hạnh đau khổ
lâu dài hay không?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
5. - Các Ông nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, lòng
sân khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là
đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh?
- Bất hạnh, bạch Thế Tôn.
- Người này có sân, này các Kàlàmà, bị sân
chinh phục, tâm bị xâm chiếm, giết các sinh vật, lấy của không
cho, đi đến vợ người, nói láo, khích lệ người khác cũng làm
như vậy. Như vậy, có làm cho người ấy bất hạnh đau khổ lâu
dài hay không?
- Thưa có, bạch Thế Tôn..
6. - Các Ông nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, lòng
si khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là
đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh?
- Bất hạnh, bạch Thế Tôn.
- Người này có si, này các Kàlàmà, bị si
chinh phục, tâm bị xâm chiếm, giết các sinh vật, lấy của không
cho, đi đến vợ người, nói láo, khích lệ người khác cũng làm
như vậy. Như vậy, có làm cho người ấy bất hạnh đau khổ lâu
dài hay không?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
7. - Các Ông nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, các
pháp này là thiện hay bất thiện?
- Là bất thiện, bạch Thế Tôn.
- Đáng chê hay không đáng chê?
- Có tội, bạch Thế Tôn.
- Bị người có trí quở trách hay không bị
người có trí quở trách?
- Bị người có trí quở trách, bạch Thế Tôn.
- Nếu được thực hiện, được chấp
nhận, có đưa đến bất hạnh đau khổ không? Hay ở đây, là như
thế nào?
- Ðược thực hiện, được chấp nhận,
bạch Thế Tôn, chúng đưa đến bất hạnh, đau khổ, ở đây, đối
với chúng con là vậy.
8. - Như vậy, này các Kàlàmà, điều Ta vừa nói
với các Ông: "Chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe
truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì
được kinh điển truyền tụng; chớ có tin vì lý luận suy diễn;
chớ có tin vì diễn giải tương tự; chớ có tin vì đánh giá
hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định
kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin vì
vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình.".
Nhưng này các Kàlàmà, khi nào tự mình
biết rõ như sau: "Các pháp này là bất thiện; Các pháp này là
đáng chê; Các pháp này bị các người có trí quở trách; Các pháp
này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau",
thời này Kàlàmà, hãy từ bỏ chúng! Ðiều đã được nói lên như
vậy, chính do duyên như vậy được nói lên.
9. Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo,
chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền
thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng; chớ có tin
vì lý luận suy diễn; chớ có tin vì diễn giải tương tự; chớ có
tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù
hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy
quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình.
Nhưng này các Kàlàmà, khi nào tự mình
biết như sau: "Các pháp này là thiện; Các pháp này là không
đáng chê; Các pháp này không bị các người có trí chỉ trích; Các
pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến hạnh phúc an
lạc", thời này Kàlàmà, hãy tự đạt đến và an trú!
10. Các Ông nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, không
tham, khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy, là
đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh cho người ấy?
- Hạnh phúc, bạch Thế Tôn.
- Người này không tham, này các Kàlàmà, không
bị tham chinh phục, tâm không bị xâm chiếm, không giết các sinh
vật, không lấy của không cho, không đi đến vợ người, không nói
láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có làm cho
người ấy hạnh phúc an lạc lâu dài hay không?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
11. - Các Ông nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, không
sân, khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là
đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh cho người ấy?
- Hạnh phúc, bạch Thế Tôn.
- Người này không sân, này các Kàlàmà, không
bị sân chinh phục, tâm không bị xâm chiếm, không giết các sinh
vật, không lấy của không cho, không đi đến vợ người, không nói
láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có đem
lại đem lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho người ấy hay không?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
12. - Các Ông nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, không
si khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là
đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh cho người ấy?
- Hạnh phúc, bạch Thế Tôn.
- Người này không si, này các Kàlàmà, không
bị si chinh phục, tâm không bị xâm chiếm, không giết các sinh
vật, không lấy của không cho, không đi đến vợ người, không nói
láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có đem
lại hạnh phúc an lạc lâu dài cho người ấy hay không?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
13. - Các Ông nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, các
pháp này là thiện hay bất thiện?
- Là thiện, bạch Thế Tôn.
- Các pháp này là đáng chê hay không đáng
chê?
- Không đáng chê, bạch Thế Tôn.
- Bị người có trí quở trách hay được người
có trí tán thán?
- Ðược người trí tán thán, bạch Thế Tôn.
- Nếu được thực hiện, được chấp
nhận, có đưa đến hạnh phúc an lạc không, hay ở đây, là như
thế nào?
- Ðược thực hiện, được chấp nhận,
bạch Thế Tôn, chúng đưa đến hạnh phúc, an lạc. Ở đây, đối
với chúng con là vậy.
14. - Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo,
chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền
thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng; chớ có tin
vì nhân lý luận siêu hình; chớ có tin vì đúng theo một lập trường;
chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì
phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy
quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình.
Nhưng này các Kàlàmà, khi nào tự mình
biết rõ như sau: "Các pháp này là thiện; Các pháp này là không
có tội; Các pháp này được người có trí tán thán; Các pháp này
nếu được thực hiện, được chấp nhận đưa đến hạnh phúc
an lạc", thời này Kàlàmà, hãy chứng đạt và an trú! Ðiều
đã được nói lên như vậy, chính do duyên như vậy được nói lên.
15. - Này các Kàlàmà, vị Thánh đệ tử nào ly
tham, ly sân, ly si như vậy, tỉnh giác, chánh niệm, với tâm câu
hữu với Từ biến mãn một phương; cũng vậy phương thứ hai; cũng
vậy phương thứ ba; cũng vậy phương thứ tư.
Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới,
bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy
an trú biến mãn với tâm câu hữu với Từ, quảng đại, đại hành,
vô biên, không hận, không sân.
Vị Thánh đệ tử nào ly tham, ly sân, ly si
như vậy, tỉnh giác, chánh niệm, với tâm câu hữu với Bi biến mãn
một phương; cũng vậy phương thứ hai; cũng vậy phương thứ ba; cũng
vậy phương thứ tư.
Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới,
bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy
an trú biến mãn với tâm câu hữu với Bi, quảng đại, đại hành,
vô biên, không hận, không sân.
Vị Thánh đệ tử nào ly tham, ly sân, ly si
như vậy, tỉnh giác, chánh niệm, với tâm câu hữu với Hỷ biến
mãn một phương; cũng vậy phương thứ hai; cũng vậy phương thứ
ba; cũng vậy phương thứ tư.
Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới,
bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy
an trú biến mãn với tâm câu hữu với Hỷ, quảng đại, đại hành,
vô biên, không hận, không sân.
Vị Thánh đệ tử nào ly tham, ly sân, ly si
như vậy, tỉnh giác, chánh niệm, với tâm câu hữu với Xả biến
mãn một phương; cũng vậy phương thứ hai; cũng vậy phương thứ
ba; cũng vậy phương thứ tư.
Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới,
bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy
an trú biến mãn với tâm câu hữu với Xả, quảng đại, đại hành,
vô biên, không hận, không sân.
16. Thánh đệ tử ấy, này các Kàlàmà, với tâm
không oán như vậy, không sân như vậy, không uế nhiễm như vậy,
thanh tịnh như vậy, ngay trong hiện tại, người ấy đạt được
bốn sự an ổn:
i) "Nếu có đời sau, nếu có kết quả
dị thục các nghiệp thiện ác, sau khi thân hoại mạng chung, ta
sẽ sanh lên cõi thiện, cõi trời, cõi đời này"; đây là an
ổn thứ nhất vị ấy có được.
ii) "Nếu không có đời sau, nếu không có
kết quả dị thục các nghiệp thiện ác, thời ở đây, trong hiện
tại, ta tự sống với tâm không oán, không sân, không phiền não,
được an lạc"; đây là an ổn thứ hai vị ấy có được.
iii) "Nếu việc ác có làm, nhưng ta không
có tâm ác đối với ai cả, và nếu ta không làm điều ác, sao ta
có thể cảm thọ khổ đau được"; đây là an ổn thứ ba vị
ấy có được.
iv) "Nếu việc ác không có làm, như
vậy, cả hai phương diện (do ta làm vô ý hay cố ý), ta quán thấy
ta hoàn toàn thanh tịnh"; đây là an ổn thứ tư vị ấy có
được.
Thánh đệ tử ấy, này các Kàlàmà, với tâm
không oán như vậy, với tâm không sân như vậy, với tâm không
uế nhiễm như vậy, với tâm thanh tịnh như vậy, ngay trong hiện
tại, vị có được bốn an ổn này.
17. - Sự việc là như vậy, bạch Thế Tôn! Sự
việc là như vậy, bạch Thiện Thệ! Thánh đệ tử ấy, bạch
Thế Tôn, với tâm không oán như vậy, với tâm không sân như
vậy, với tâm không uế nhiễm như vậy, với tâm thanh tịnh như
vậy, ngay trong hiện tại, vị có được bốn an ổn:
"Nếu có đời sau, nếu có kết quả
dị thục các nghiệp thiện ác, sau khi thân hoại mạng chung, ta
sẽ được sanh lên cõi thiện, cõi Trời, cõi đời này"; đây
là an ổn thứ nhất vị ấy có được.
"Nếu không có đời sau, nếu không có
kết quả dị thục các nghiệp thiện ác, thời ở đây, trong hiện
tại, ta tự sống với tâm không oán, không sân, không phiền não,
được an lạc"; đây là an ổn thứ hai vị ấy có được.
"Nếu việc ác có làm, nhưng ta không có
tâm ác đối với ai cả, và nếu ta không làm điều ác, sao ta có
thể cảm thọ khổ đau được"; đây là an ổn thứ ba vị
ấy có được.
"Nếu việc ác không có làm, như vậy,
cả hai phương diện (do ta làm vô ý hay cố ý), ta quán thấy ta hoàn
toàn thanh tịnh"; đây là an ổn thứ tư vị ấy có được.
Vị Thánh đệ tử ấy, bạch Thế Tôn, với
tâm không oán như vậy, với tâm không sân như vậy, với tâm không
uế nhiễm như vậy, với tâm thanh tịnh như vậy, ngay trong hiện
tại, vị có được bốn an ổn này.
66.- Sàlhà
1-13
Như vầy tôi nghe.
Một thời Tôn giả Nandaka trú ở Sàvatthi, tại Ðông Viên, ở lâu đài mẹ
của Migàra.
Rồi Sàlhà, cháu của Migàra, và Rohana, cháu của Pekhuniya đi đến Tôn
giả Nandaka; sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Nandaka rồi ngồi xuống một bên.
Ngồi xuống một bên, Tôn giả Nandaka nói với Sàlhà, cháu trai của Migàra như
sau:
2. - Hãy đến, này các Sàlhà Nandaka, chớ có tin vì nghe theo truyền
thống; chớ có tin vì nghe theo người ta nói; chớ có tin vì được Kinh Tạng
truyền tụng; chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình; chớ có tin vì
đúng theo một lập trường; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ
kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất
từ nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình.
Nhưng này các Sàlhà, khi nào tự mình biết như sau: "Các pháp này là
bất thiện; các pháp này là có tội; các pháp này bị người trí quở
trách; các pháp này nếu được thực hành và chấp nhận, đưa lại bất
hạnh và đau khổ", thời này các Sàlhà, các thầy cần phải từ bỏ chúng.
Này các Sàlhà, các thầy nghĩ thế nào, có tham hay không?
- Thưa có, bạch Tôn giả.
- Tham, này các Sàlhà, ta nói nghĩa này là vậy. Này các Sàlhà, người có
tham này bị tham chinh phục, giết các sinh loại, lấy của không cho, đi
đến vợ người, nói láo, khích lệ người khác cùng làm như vậy, như
vậy có làm người ấy bất hạnh đau khổ lâu dài hay không?
- Thưa có, bạch Tôn giả.
4. - Này các Sàlhà, các thầy nghĩ thế nào, có sân hay không?
- Thưa có, bạch Tôn giả.
- Sân, này các Sàlhà, ta nói nghĩa này là vậy. Này các Sàlhà, người có
sân này bị sân chinh phục, giết các sinh loại, lấy của không cho, đi
đến vợ người, nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy, như
vậy có làm người ấy bất hạnh đau khổ lâu dài hay không?
- Thưa có, bạch Tôn giả.
5. - Này các Sàlhà, các thầy nghĩ thế nào, có si hay không?
- Thưa có, bạch Tôn giả.
- Si, này các Sàlhà, ta nói nghĩa này là vậy. Này các Sàlhà, người có
si này bị si chinh phục, giết các sinh loại, lấy của không cho, đi đến
vợ người, nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy, như vậy có
làm người ấy bất hạnh đau khổ lâu dài hay không?
- Thưa có, bạch Tôn giả.
6. - Các thầy nghĩ thế nào, này các Sàlhà. Các pháp này là thiện
hay bất thiện?
- Là bất thiện, thưa Tôn giả.
- Có tội hay không có tội?
- Có tội, thưa Tôn giả.
- Bị người có trí quở trách hay được người có trí tán thán?
- Bị người có trí quở trách, thưa Tôn giả.
- Ðược thực hiện, được chấp thuận, có đưa lại bất hạnh hay đau
khổ không? Hay ở đây là thế nào?
- Ðược thực hiện, được chấp thuận, thưa Tôn giả, chúng đưa lại
bất hạnh đau khổ. Ở đây, đối với chúng con là như vậy.
7.-Như vậy, này các Sàlhà, điều ta vừa nói với các thầy, "Chớ
có tin vì nghe theo truyền thống; chớ có tin vì nghe theo người ta nói; chớ
có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng; chớ có tin vì nhân lý luận;
chớ có tin vì nhân định lý; chớ có tin, sau khi thẩm lự hay chấp nhận
một vài lý thuyết; chớ có tin vì thấy là thích hợp; chớ có tin, sau
khi thẩm lự hay chấp nhận một vài lý thuyết, chớ có tin vì thấy là
thích hợp; chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình". Này các
Sàlhà, khi nào tự mình biết như sau: "Các pháp này là bất thiện;
các pháp này là có tội; các pháp này bị người có trí quở trách; các pháp
này nếu được thực hành và chấp nhận, đưa lại bất hạnh và đau
khổ", thời này các Sàlhà, hãy từ bỏ chúng! Ðiều này đã được
nói lên như vậy, chính là do duyên như vậy được nói lên.
Như vậy, này các Sàlhà, chớ có tin vì nghe theo truyền thống; chớ có
tin vì nghe theo người ta nói; chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng;
chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình; chớ có tin vì đúng theo một lập
trường; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì
phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền,
chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình. Nhưng này các Sàlhà, khi
nào tự mình biết như sau: "Các pháp này là thiện; các pháp này
là không có tội; các pháp này không bị người có trí quở trách; các pháp
này nếu được thực hành và chấp nhận, đưa đến hạnh phúc an
lạc", thời này các Sàlhà, hãy đạt đến và an trú!
8. - Các Ông nghĩ như thế nào, này các Sàlhà, không tham khi khởi lên
trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại bất hạnh hay hạnh
phúc lâu dài cho người ấy?
- Hạnh phúc, thưa Tôn giả.
- Người này không tham, này các Sàlhà, không bị tham chinh phục, tâm không
bị xâm chiếm, không giết các sinh vật, không lấy của không cho, không
đi đến vợ người, không nói láo, khích lệ người khác cũng làm như
vậy. Như vậy, có làm cho người ấy được hạnh phúc, an lạc lâu dài hay
không?
- Thưa có, bạch Tôn giả.
9. - Các Ông nghĩ như thế nào, này các Sàlhà, không sân khi khởi lên
trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại bất hạnh hay hạnh
phúc lâu dài cho người ấy?
- Hạnh phúc, thưa Tôn giả.
- Người này không sân, này các Sàlhà, không bị sân chinh phục, tâm không
bị xâm chiếm, không giết các sinh vật, không lấy của không cho, không
đi đến vợ người, không nói láo, không khích lệ người khác cũng
làm như vậy. Như vậy, có làm cho người ấy được hạnh phúc, an lạc lâu dài
hay không?
- Thưa có, bạch Tôn giả.
10. - Các Ông nghĩ như thế nào, này các Sàlhà, không si khi khởi lên
trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại bất hạnh hay hạnh
phúc lâu dài cho người ấy?
- Hạnh phúc, thưa Tôn giả.
- Người này không si, này các Sàlhà, không bị si chinh phục, tâm không bị
xâm chiếm, không giết các sinh vật, không lấy của không cho, không đi
đến vợ người, không nói láo, khích lệ người khác cũng làm như
vậy. Như vậy, có làm cho người ấy được hạnh phúc, an lạc lâu dài hay
không?
- Thưa có, bạch Tôn giả.
11. - Các ông nghĩ thế nào, này các Sàlhà. Các pháp này là thiện
hay bất thiện?
- Là thiện, bạch Tôn giả.
- Các Pháp này là tội hay không có tội?
- Không có tội, bạch Tôn giả.
- Bị người trí quở trách hay được người trí tán thán?
- Ðược người trí tán thán, bạch Tôn giả.
- Nếu được thực hiện, được chấp thuận, có đem đến hạnh
phúc an lạc không? Hay ở đây là như thế nào?
- Ðược thực hiện, được chấp thuận, bạch Tôn giả, chúng đưa
đến hạnh phúc an lạc. Ở đây, đối với chúng con là như vậy.
12.- Như vậy, này các Sàlhà, điều ta vừa nói với các thầy, "Chớ
có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì nghe người ta nói, chớ có tin
vì được Kinh Tạng truyền tụng; chớ có tin vì nhân lý luận siêu
hình, chớ có tin vì đúng theo một lập trường; chớ có tin vì đánh giá hời
hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin
vì phát xuất từ nơi có uy quyền; chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo
sư của mình". Nhưng này các Sàlhà, khi nào tự mình biết như sau:
"Các pháp này là thiện; các pháp này không có tội; các pháp này
được các người trí tán thán; các pháp này nếu được thực hiện,
được chấp nhận, đưa lại hạnh phúc an lạc", thời này các Sàlhà, hãy
chứng đạt và an trú! Ðiều đã được nói lên như vậy, chính là do
duyên như vậy được nói lên.
13.- Này các Sàlhà, vị Thánh đệ tử nào ly tham, ly sân, ly si như vậy,
tỉnh giác, chánh niệm, với tâm câu hữu với Từ ... với tâm câu hữu với
Bi ... với tâm câu hữu với Hỷ ... với tâm câu hữu với Xả, biến mãn
một phương, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba; cũng vậy
phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang,
hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn
với tâm câu hữu với xả, quảng đại, đại hành, vô biên, không hận, không
sân. Vị ấy rõ biết như sau: "Có trạng thái này, có trạng thái
liệt, có trạng thái thù thắng, có xuất ly ra khỏi tưởng giới này."
Do vị ấy biết như vậy, thấy như vậy, tâm được giải thoát khỏi dục
lậu, tâm được giải thoát khỏi vô minh lậu. Trong sự giải thoát, trí khởi
lên: "Ta đã được giải thoát". Vị ấy rõ biết: "Sanh đã
tận, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, không còn trở lui
trạng thái này nữa".
Vị ấy rõ biết như sau: "Trước ta có tham, tham ấy là bất
thiện. Nay ta không có nữa. Như vầy là thiện. Trước ta có sân, sân
ấy là bất thiện. Nay ta không có nữa. Như vầy là thiện. Trước ta có
si, si ấy là bất thiện. Nay ta không có nữa. Như vậy là thiện".
Như vậy, ngay trong đời sống hiện tại, vị ấy được giải thoát khỏi hy
cầu, được tịch tịnh, được thanh lương, cảm thấy an lạc, tự mình an trú
trong Phạm tánh.
67.- Các Vấn Ðề Ðược Nói Ðến
1. - Này các Tỷ-kheo, có ba vấn đề này được nói đến. Thế
nào là ba? Có thể nói về quá khứ, này các Tỷ-kheo, nói rằng:
"Như vầy đã xảy ra trong thời quá khứ. Có thể nói về tương lai,
này các Tỷ-kheo, nói rằng: "Như vầy sẽ xảy ra trong thời tương
lai". Có thể nói về hiện tại, này các Tỷ-kheo, nói rằng:
"Như vầy đang xảy ra trong thời hiện tại".
2.-Với sự thảo luận, này các Tỷ-kheo, một người có thể biết
được là có khả năng nói chuyện hay không có khả năng?
Nếu người nào, này các Tỷ-kheo, khi được hỏi một câu không trả
lời một cách dứt khoát một câu hỏi cần phải trả lời dứt khoát, không trả
lời một cách phân tích một câu hỏi cần trả lời một cách phân tích, không
trả lời một câu hỏi ngược lại với một câu hỏi cần phải trả lời với một
câu hỏi ngược lại, không có gạt qua một bên một câu hỏi cần phải gạt qua
một bên. Như vậy, này các Tỷ-kheo, một người như vậy không có khả năng
để thảo luận.
Nếu người nào, này các Tỷ-kheo, khi được hỏi một câu trả lời
một cách dứt khoát một câu hỏi cần phải trả lời dứt khoát, trả lời phân
tích một câu hỏi cần trả lời một cách phân tích, trả lời với một câu hỏi
ngược lại với một câu hỏi cần phải trả lời với một câu hỏi ngược lại, gạt qua
một bên một câu hỏi cần phải gạt qua một bên. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
một người như vậy có khả năng để thảo luận.
3.- Với sự thảo luận, này các Tỷ-kheo, một người có thể biết
được là có khả năng thảo luận hay không có khả năng thảo luận?
Nếu một người, này các Tỷ-kheo, khi được hỏi một câu, không xác
nhận là đúng hay không đúng, không xác nhận là một giả thuyết, không
xác nhận là quan điểm của bậc trí, không xác nhận là sở hành thường
làm. Nếu là như vậy, này các Tỷ-kheo, người ấy không có khả năng
thảo luận.
Nếu một người, này các Tỷ-kheo, khi được hỏi một câu, xác nhận
là đúng hay không đúng, xác nhận là một giả thuyết, xác nhận là quan
điểm của bậc trí, xác nhận là sở hành thường làm. Nếu là như vậy,
này các Tỷ-kheo, người ấy có khả năng thảo luận.
4.- Với sự thảo luận, này các Tỷ-kheo, một người có thể biết
được là có khả năng thảo luận hay không có khả năng thảo luận?
Nếu một người, này các Tỷ-kheo, khi được hỏi một câu, tránh câu
hỏi ấy với một câu hỏi khác, hướng câu chuyện ra ngoài vấn đề, bày
tỏ sự phẫn nộ, sân, hận, bất mãn. Nếu là như vậy, này các Tỷ-kheo,
người này không có khả năng thảo luận.
Nếu một người, này các Tỷ-kheo, khi được hỏi một câu, không
tránh câu hỏi ấy với một câu hỏi khác, không hướng câu chuyện ra ngoài
vấn đề, không bày tỏ sự phẫn nộ, sân, hận, bất mãn. Nếu là như
vậy, này các Tỷ-kheo, người này có khả năng thảo luận.
5.-Với sự thảo luận, này các Tỷ-kheo, một người có thể biết
được là có khả năng thảo luận hay không có khả năng thảo luận?
Nếu
một người, này các Tỷ-kheo, khi được hỏi một câu, lại mắng chửi,
đánh đập, nhạo báng, chụp lấy chỗ sơ hở. Nếu là như vậy, này các
Tỷ-kheo, người này không có khả năng thảo luận.
Nếu một người, này các Tỷ-kheo, khi được hỏi một câu, không mắng
chửi, không đánh đập, không nhạo báng, không chụp lấy chỗ sơ hở.
Nếu là như vậy, này các Tỷ-kheo, người này có khả năng thảo luận.
6.- Với sự thảo luận, này các Tỷ-kheo, có thể biết được một
người có duyên hay không có duyên.
Không có lóng tai, này các Tỷ-kheo, là không có duyên. Có lóng tai là
có duyên. Người có duyên thắng tri một pháp, biến tri một pháp, từ bỏ
một pháp, chứng đắc một pháp. Do thắng tri một pháp, liễu tri một pháp, từ
bỏ một pháp, chứng đắc một pháp, vị ấy cảm thấy chánh giải thoát. Như
vậy, này các Tỷ-kheo, là lợi ích của thảo luận, như vậy là lợi ích của
đàm luận, như vậy là lợi ích có duyên, như vậy là lợi ích nghe lời
khuyên, tức là tâm giải thoát không có chấp thủ.
7.
Nói chuyện với hiềm thù
68. Du Sĩ Ngoại Ðạo.
1. - Này các Tỷ-kheo, nếu các du sĩ ngoại đạo hỏi như sau: "Có
ba pháp này, này các Hiền giả. Thế nào là ba? Tham, sân, si. Những
pháp này, này các Hiền giả, là ba pháp. Trong ba pháp này, này các
Hiền giả, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào
là khác biệt? "Ðược hỏi vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông trả lời
như thế nào với các du sĩ ngoại đạo ấy?
- Ðối với chúng con, bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làn căn
bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn làm nương tựa. Lành
thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết ý nghĩa lời nói này
cho chúng con. Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
- Vậy này các Tỷ-kheo, hãy nghe và khéo tác ý, ta sẽ nói!
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn.
Thế Tôn nói như sau:
- Này các Tỷ-kheo, nếu các du sĩ ngoại đạo hỏi như sau: "Có ba
pháp này, này các Hiền giả. Thế nào là ba? Tham, sân, si. Những pháp
này, này các Hiền giả, là ba pháp. Trong ba pháp này, này các Hiền
giả, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là khác
biệt? "Ðược hỏi vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải trả
lời cho các du sĩ ngoại đạo ấy như sau: "Tham, thưa các Hiền giả, là
tội nhỏ, nhưng ly tham là chậm chạp. Sân là tội lớn, nhưng ly sân là mau
chóng. Si là tội lớn, và ly si là chậm chạp."
2.- "Do nhân gì, này chư Hiền, do duyên gì tham chưa sanh được sanh
khởi, và tham sanh rồi đưa đến tăng trưởng, quảng đại?"
Cần phải trả lời là "Tịnh tướng". "Với ai không như lý
tác ý tịnh tướng, thời tham chưa sanh được sanh khởi, và tham đã sanh
được tăng trưởng quảng đại. Ðây là nhân, này các Hiền giả, đây là
duyên, tham chưa sanh được sanh khởi, và tham đã sanh được tăng trưởng
quảng đại".
3. "Do nhân gì, này các chư Hiền, do duyên gì sân chưa sanh được
sanh khởi, và sân đã sanh được tăng trưởng, quảng đại?"
Cần phải trả lời là "Chướng ngại tướng". "Với ai không như
lý tác ý chướng ngại tướng, thời sân chưa sanh được sanh khởi, sân
sanh rồi được tăng trưởng quảng đại. Ðây là nhân, này các Hiền giả,
đây là duyên, khiến sân chưa sanh được sanh khởi, và sân đã sanh
được tăng trưởng quảng đại".
4. "Do nhân gì, này các chư Hiền, do duyên gì si chưa sanh được
sanh khởi, và si đã sanh được tăng trưởng, quảng đại?"
Cần phải trả lời là "Không như lý tác ý". "Với ai
không như lý tác ý, thời si chưa sanh được sanh
khởi, và si đã sanh được tăng trưởng quảng đại. Ðây là nhân, này các
Hiền giả, đây là duyên, khiến si chưa sanh được sanh khởi, và si đã
sanh được tăng trưởng quảng đại".
5.-"Do nhân gì, này các chư Hiền, do duyên gì tham chưa sanh
không sanh khởi, hay tham đã sanh được đoạn tận?"
Cần phải trả lời là "Tướng bất tịnh". "Với ai như lý
tác ý tướng bất tịnh, thời tham chưa sanh không sanh khởi, hay tham
đã sanh được đoạn tận. Ðây là nhân, này các Hiền giả, đây là
duyên khiến tham chưa sanh không sanh khởi, hay tham đã sanh được đoạn tận."
6. "Do nhân gì, này các chư Hiền, do duyên gì sân chưa sanh không sanh khởi, hay sân đã sanh được đoạn tận?"
Cần phải trả lời là "Từ tâm giải thoát". "Với ai như lý
tác ý từ tâm giải thoát, thời sân chưa sanh không sanh khởi, hay sân
đã sanh được đoạn tận. Ðây là nhân, này các Hiền giả, đây là
duyên khiến sân chưa sanh không sanh khởi, hay sân đã sanh
được đoạn tận."
7. "Do nhân gì, này các chư Hiền, do duyên gì si chưa sanh không sanh khởi, hay si đã sanh được đoạn tận?"
Cần phải trả lời là "như lý tác ý". "Với ai như
lý tác ý, thời si chưa sanh không sanh khởi, và si đã sanh
được đoạn tận. Ðây là nhân, này các Hiền giả, đây là duyên
khiến si chưa sanh không sanh khởi, hay si đã sanh được đoạn
tận."
69.- Các Căn Bản Bất Thiện
1. - Này các Tỷ-kheo, có ba căn bản bất thiện này. Thế nào là
ba? Tham là căn bản bất thiện, sân là căn bản bất thiện, si là căn
bản bất thiện.
Cái gì là tham, này các Tỷ-kheo, cái ấy bất thiện. Ai với lòng tham
có làm gì về thân, về lời, về ý, cái ấy bất thiện. Với ai
có lòng tham, bị lòng tham chinh phục, tâm không được tự chủ, vu cáo làm
người khác đau khổ, bằng cách sát hại, trói buộc, tịch thu tài sản, mắng
nhiếc hay tẩn xuất, dựa trên: "Ta là sức mạnh, ta có sức mạnh."
Cái ấy là bất thiện. Như vậy, rất nhiều ác bất thiện pháp này
sanh từ tham, duyên khởi từ tham, tập khởi từ tham, khởi lên nơi người ấy.
2.- Cái gì là sân, này các Tỷ-kheo, cái ấy bất thiện. Ai với lòng
sân có làm gì về thân, về lời, về ý, cái ấy bất thiện. Với ai có
lòng sân, bị lòng sân chinh phục, tâm không được tự chủ, vu cáo làm người
khác đau khổ, bằng cách sát hại, trói buộc, tịch thu tài sản, mắng nhiếc
hay tẩn xuất, dựa trên: "Ta là sức mạnh, ta có sức mạnh." Cái ấy là
bất thiện. Như vậy, rất nhiều ác bất thiện pháp này sanh từ sân,
duyên khởi từ sân, tập khởi từ sân, khởi lên nơi người ấy.
3.- Cái gì là si, này các Tỷ-kheo, cái ấy bất thiện. Ai với lòng si
có làm gì về thân, về lời, về ý, cái ấy bất thiện. Với
ai có lòng si, bị lòng si chinh phục, tâm không được tự chủ, vu cáo làm
người khác đau khổ, bằng cách sát hại, trói buộc, tịch thu tài sản, mắng
nhiếc hay tẩn xuất, dựa trên: "Ta là sức mạnh, ta có sức mạnh."
Cái ấy là bất thiện. Như vậy, rất nhiều ác bất thiện pháp này
sanh từ si, duyên khởi từ si, tập khởi từ si, khởi lên nơi người ấy.
4.- Như vậy, này các Tỷ-kheo, người này được gọi là người nói
phi thời, nói không thực, nói không trúng đích, nói phi pháp, nói phi luật.
Vì sao người như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là người nói phi
thời, nói không thực, nói không trúng đích, nói phi pháp, nói phi luật? Như
vầy là vì người này, này các Tỷ-kheo, đã vu cáo làm người khác đau
khổ, bằng cách sát hại, trói buộc, tịch thu tài sản, mắng nhiếc hay tẩn
xuất, dựa trên: "Ta là sức mạnh, ta có sức mạnh." Khi được đối
chất với sự thật, người ấy phủ nhận, không có chấp nhận; khi được đối
chất với sự không thật, người ấy không có nhiệt tình thoát mở ra ngoài,
nói rằng: "Ðây là không chân, đây là không thực". Cho nên, người
như vậy được gọi là người nói phi thời, nói không thực, nói không
trúng đích, nói phi pháp, nói phi luật. Người như vậy, này các Tỷ-kheo,
bị các ác bất thiện pháp do tham sanh nhiếp phục, tâm mất tự chủ, ngay
trong hiện tại sống đau khổ với sự tổn não, với sự ưu não, với sự
nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung, được chờ đợi là ác thú. Người
như vậy, này các Tỷ-kheo, bị các ác bất thiện pháp do sân sanh
nhiếp phục, tâm mất sự tự chủ, ngay trong hiện tại sống đau khổ với
sự tổn não, với sự ưu não, với sự nhiệt não, sau khi thân hoại mạng
chung, được chờ đợi là ác thú. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, bị
các ác bất thiện pháp do si sanh nhiếp phục, tâm mất tự chủ, ngay trong
hiện tại sống đau khổ với sự tổn não, với sự ưu não, với sự nhiệt
não, sau khi thân hoại mạng chung, được chờ đợi là ác thú.
5.- Ví như này các Tỷ-kheo, cây sàla hay cây dhava hay cây phandana bị
phá hoại, bị bao trùm bởi ba loại tầm gởi, đi đến tổn hại, đi đến
bất hạnh, đi đến tổn hại, và bất hạnh. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
người như vậy, bị các ác bất thiện pháp do tham sanh chinh phục, tâm mất
tự chủ, ngay trong hiện tại sống đau khổ với sự tổn não, với sự ưu não,
với sự nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung, được chờ đợi là ác thú
... bị các ác bất thiện pháp do sân sanh ... bị các ác bất thiện pháp
do si sanh chinh phục, tâm mất tự chủ, ngay trong hiện tại sống đau khổ với
sự tổn não, với sự ưu não, với sự nhiệt não, sau khi thân hoại mạng
chung, được chờ đợi là ác thú.
Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là ba căn bản bất thiện.
6.- Có ba căn bản của thiện, này các Tỷ-kheo. Thế nào là ba?
Không tham là căn bản của thiện, không sân là căn bản của thiện,
không si là căn bản của thiện.
Cái gì là không tham, này các Tỷ-kheo, cái ấy thiện. Ai với lòng
không tham có làm gì về thân, về lời, về ý, cái ấy thiện.
Ai không có lòng tham, không bị lòng tham chinh phục, tâm được tự chủ, không
vu cáo làm người khác đau khổ, bằng cách sát hại, trói buộc, tịch thu tài
sản, mắng nhiếc hay tẩn xuất, dựa trên: "Ta là sức mạnh, ta có sức
mạnh." Cái ấy là thiện. Như vậy, rất nhiều thiện pháp này
sanh từ không tham, duyên khởi từ không tham, tập khởi từ không tham, khởi lên
nơi người ấy.
7.- Cái gì là không sân, này các Tỷ-kheo, cái ấy thiện. Ai với
lòng không sân có làm gì về thân, về lời, về ý, cái ấy
thiện. Với ai không có lòng sân, không bị lòng sân chinh phục, tâm được
tự chủ, không vu cáo làm người khác đau khổ, bằng cách sát hại, trói buộc,
tịch thu tài sản, mắng nhiếc hay tẩn xuất, dựa trên: "Ta là sức mạnh,
ta có sức mạnh." Cái ấy là thiện. Như vậy, rất nhiều thiện
pháp này sanh từ không sân, duyên khởi từ không sân, tập khởi từ không sân,
khởi lên nơi người ấy.
8.- Cái gì là không si, này các Tỷ-kheo, cái ấy là thiện. Ai với
lòng không si có làm gì về thân, về lời, về ý, cái ấy thiện.
Với ai không có lòng si, không bị lòng si chinh phục, tâm được tự chủ,
không vu cáo làm người khác đau khổ, bằng cách sát hại, trói buộc, tịch thu
tài sản, mắng nhiếc hay tẩn xuất, dựa trên: "Ta là sức mạnh, ta có
sức mạnh." Cái ấy là thiện. Như vậy, rất nhiều thiện pháp
này sanh ra từ không si, duyên khởi từ không si, tập khởi từ không si, khởi
lên nơi người ấy.
9.- Như vậy, này các Tỷ-kheo, người này được gọi là người nói
đúng thời, nói thực, nói trúng đích, nói đúng pháp, nói đúng luật. Vì
sao người như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là người nói đúng
thời, nói thực, nói trúng đích, nói đúng pháp, nói đúng luật? Như vầy là
vì người này, này các Tỷ-kheo, đã không vu cáo làm người khác đau
khổ, bằng cách sát hại, trói buộc, tịch thu tài sản, mắng nhiếc hay tẩn
xuất, dựa trên: "Ta là sức mạnh, ta có sức mạnh." Khi được đối
chất với sự thật, người ấy chấp nhận, không có phủ nhận; khi được đối
chất với sự không thật, người ấy nhiệt tình thoát mở ra ngoài, nói
rằng: "Ðây là chân, đây là thực". Cho nên, người như vậy được
gọi là người nói đúng thời, nói thực, nói trúng đích, nói đúng pháp,
nói đúng luật.
10.- Người như vậy, này các Tỷ-kheo, đoạn tận các ác bất thiện do
tham sanh, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không
hiện hữu, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai, ngay trong
hiện tại sống an lạc, không có tổn não, không có ưu não, không có
nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung, ngay trong hiện tại được
Bát-niết-bàn. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, không bị các ác bất
thiện pháp do sân sanh nhiếp phục, tâm không mất tự chủ ... Người như
vậy, này các Tỷ-kheo, không bị các ác bất thiện pháp do si sanh
nhiếp phục, tâm không mất tự chủ, ngay trong hiện tại sống an lạc,
không có tổn não, không có ưu não, sau khi thân hoại mạng chung, ngay trong
hiện tại được Bát-niết-bàn.
11.- Ví như, này các Tỷ-kheo, cây sàla hay cây dhava, cây phandana, bị ba
cây tầm gởi phá hoại bao trùm. Rồi có người đi đến, cầm cuốc và
thúng. Người ấy chặt đứt rễ cây tầm gởi ấy, sau khi chặt đứt rễ, người
ấy đào mương. Ðào mương xong, người ấy nhổ các rễ lên, nhổ cho đến
các rễ nhỏ, rễ usira. Rồi người ấy chặt cây tầm gởi thành từng khúc nhỏ,
bửa và chẻ thành từng mảnh nhỏ, người ấy đem phơi giữa gió và mặt trời.
Sau khi phơi giữa gió và mặt trời, người ấy lấy lửa đốt, làm thành một
đống tro, và quạt chúng ra giữa gió lớn, hay đổ chúng xuống dòng nước chảy
nhanh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các cây tầm gởi ấy, bị cắt đứt gốc từ
rễ, bị làm cho như thân cây tala, làm cho không hiện hữu, làm cho không
thể sanh khởi trong tương lai. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, với người
như vậy, các ác bất thiện pháp do tham sanh đã được đoạn tận, được
chặt từ gốc rễ, được làm cho như thân cây tala, được làm cho không
thể hiện hữu, được làm cho không sanh khởi trong tương lai, ngay trong
hiện tại được sống an lạc, không có tổn não, không có ưu não, không
có nhiệt não, ngay trong hiện tại được Bát-niết-bàn ... do sân,
sanh ... các ác bất thiện pháp do si sanh đã được đoạn tận, được chặt
từ gốc rễ, được làm cho như thân cây tala, được làm cho không thể
hiện hữu, được làm cho không sanh khởi trong tương lai, ngay trong hiện
tại được sống an lạc, không có tổn não, không có ưu não, không có
nhiệt não, ngay trong hiện tại được Bát-niết-bàn.
Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là ba căn bản của thiện.
70.- Các Lễ Uposatha
Như vầy tôi nghe.
1. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), Pubbarama (Ðông viên), lâu
đài của mẹ Migara. Rồi Visakha, mẹ của Migara, trong ngày Uposatha (Bố-tát
trai giới) đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi
ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Visakha, mẹ của Migara đang ngồi
xuống một bên:
- Này Visàkhà, từ đâu bà đến sáng sớm như thế này?
- Bạch Thế Tôn, hôm nay con thọ trai giới.
- Có ba loại trai giới này, này Visàkhà. Thế nào là ba?
Trai giới người chăn bò, trai giới Niganthà, và trai giới bậc Thánh.
Như thế nào, này Visàkhà, là trai giới người chăn bò?
Ví như, này Visàkhà, người chăn bò vào buổi chiều lùa các con bò
về cho chủ của chúng. Người ấy suy nghĩ: "Hôm nay, các con bò đã ăn
cỏ tại chỗ này và chỗ này, đã uống nước tại chỗ này và
chỗ này. Ngày mai, các con bò sẽ ăn cỏ tại chỗ này và chỗ này,
sẽ uống nước tại chỗ này và chỗ này". Cũng vậy, này Visàkhà,
ở đây có người giữ trai giới suy nghĩ: "Hôm nay, ta đã ăn loại đồ ăn
cứng này, loại đồ ăn cứng này ta đã ăn; ta đã ăn loại đồ ăn mềm
này, loại đồ ăn mềm này ta đã ăn. Ngày mai, ta sẽ ăn loại đồ ăn cứng
này, loại đồ ăn cứng này ta sẽ ăn; ta sẽ ăn loại đồ ăn mềm này, loại
đồ ăn mềm này ta sẽ ăn". Như vậy, người ấy sống cả ngày với tâm
đồng hành với tham dục. Như vậy, này Visàkhà, là trai giới người chăn bò.
Này Visàkhà, thế nào là trai giới các
Niganthà?
Ở đây, này Visàkhà, có hạng Sa-môn tên là Niganthà, họ khích
lệ đệ tử như sau: "Ông hãy quăng bỏ trượng đối với các sinh
loại sống ở phương Ðông, ngoài một trăm do tuần. Hãy quăng bỏ trượng đối
với các sinh loại sống ở phương Tây, ngoài một trăm do tuần. Hãy quăng bỏ
trượng đối với các sinh loại sống ở
phương Bắc, ngoài một trăm do tuần. Hãy quăng bỏ trượng đối với các sinh
loại sống ở phương Nam, ngoài một trăm do tuần." Như vậy,
họ khích lệ vì lòng thương, vì lòng từ mẫn đối với một số sinh
loại mà thôi, họ không khích lệ vì lòng thương, vì lòng từ mẫn,
đối với một số sinh loại khác. Trong ngày Uposatha, họ khích lệ
đệ tử như sau: "Này các Ông, hãy quăng bỏ tất cả áo quần và nói
như sau: "Ta không có bất cứ vật gì, bất cứ ở đâu, bất cứ chỗ
nào. Bất cứ vật gì, bất cứ ở đâu, bất cứ chỗ nào, không có cái gì
là của ta. ""Nhưng cha và mẹ của người ấy biết người ấy là con
của mình. Và người ấy biết họ là cha mẹ của mình. Vợ và con người
ấy biết người ấy là chồng, là cha của mình, và người ấy biết
họ là vợ, là con của mình. Các người nô tỳ làm công biết người ấy
là chủ của họ. Và người ấy biết họ là nô tỳ, là nhân viên của
mình. Như vậy, trong thời gian đáng phải khích lệ đúng với sự thật,
trong thời gian ấy, lại được khích lệ bằng điều nói láo. Ðây ta
tuyên bố là một sự nói láo. Sau khi đêm ấy đã qua, người ấy thọ
hưởng tất cả tài sản chưa đem cho. Ðây ta tuyên bố là lấy của không cho.
Như vậy, này Visàkhà, là lễ Uposathà của các Niganthà . Ðược sống thực
hành như vậy, này Visàkhà, Uposatha của các Niganthà không quả lớn, không
lợi ích lớn, không chói sáng, không ánh sáng lớn.
4. - Và này Visàkhà, thế nào là trai giới các bậc Thánh? Chính là làm
thanh tịnh một tâm uế nhiễm với phương pháp thích nghi.
Và này Visàkhà, thế nào là làm thanh tịnh một tâm uế nhiễm với
phương pháp thích nghi?
Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Phật: "Ðây là
Thế Tôn, bậc Ứng Cúng A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư,
Phật, Thế Tôn." Do vị ấy niệm Như Lai, tâm được tịnh tín, hân
hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận. Ví như, này
Visàkhà, đầu uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi.
Và này Visàkhà, thế nào là đầu uế nhiễm được gột sạch với
phương pháp thích nghi?
Do duyên bột nhồi, do duyên đất sét, do duyên nước và do duyên nỗ lực
thích nghi của con người. Như vậy, này Visàkhà, là đầu uế nhiễm được
gột sạch với phương pháp thích nghi. Cũng vậy, này Visàkhà, là tâm uế
nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi.
Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch với
phương pháp thích nghi?
Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Như Lai: "Ðây là
Thế Tôn, bậc Ứng Cúng A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư,
Phật, Thế Tôn." Do vị ấy niệm Như Lai, tâm được tịnh tín, hân
hoan khởi lên, các phiền não của tâm được đoạn tận. Này Visàkhà, đây
gọi là Thánh đệ tử để thực hành trai giới Phạm Thiên, vị ấy
cùng sống với Phạm Thiên. Do duyên Phạm Thiên, tâm vị ấy được tịnh tín,
hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận. Như vậy, này
Visàkhà, là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi.
5.-Này Visàkhà, tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích
nghi. Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch với
phương pháp thích nghi?
Ở đây, này Visàkhà, vị Thánh đệ tử niệm pháp: "Pháp
được Thế Tôn khéo thuyết giảng, thiết thực hiện tại, không
có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được
người trí tự mình giác hiểu". Do vị ấy niệm Pháp, tâm được
tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận. Ví
như, này Visàkhà, thân uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích
nghi.
Và này Visàkhà, thế nào là thân uế nhiễm được gột sạch với
phương pháp thích nghi? Do duyên sottim (một thứ đá bọt dùng để chà
lưng), do duyên bột tắm, do duyên nước và do duyên nỗ lực thích nghi của
con người. Như vậy, này Visàkhà, là thân uế nhiễm được gột sạch với
phương pháp thích nghi. Cũng vậy, này Visàkhà, là tâm uế nhiễm được
gột sạch với phương pháp thích nghi.
Và như thế nào, này Visàkhà, là tâm uế nhiễm được gột sạch với
phương pháp thích nghi?
Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm pháp: "Pháp được
Thế Tôn khéo thuyết giảng, thiết thực hiện tại, không có thời
gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu". Do người ấy niệm Pháp, tâm được tịnh
tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận. Này
Visàkhà, đây gọi là Thánh đệ tử thực hành pháp trai giới, vị ấy
sống với pháp. Chính nhờ pháp, tâm vị ấy tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các
phiền não của tâm được đoạn tận. Như vậy, này Visàkhà, là tâm uế
nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích nghi.
6.- Này Visàkhà, tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích
nghi. Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch nhớ
phương pháp thích nghi?
Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Tăng: "Diệu
hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; Trực hạnh là chúng đệ tử Thế
Tôn; Ứng lý hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; Chơn chánh hạnh là
chúng đệ tử Thế Tôn, tức là bốn đôi tám chúng. Chúng đệ tử
của Thế Tôn là đáng cung kính, đáng tôn trọng, đáng cúng dường,
đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời". Do vị ấy
niệm Tăng, tâm vị ấy tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của
tâm được đoạn tận. Ví như, này Visàkhà, một tấm vải bị uế được
gột sạch nhờ phương pháp thích nghi.
Và này Visàkhà, thế nào là một tấm vải bị uế nhiễm được gột
sạch nhờ phương pháp thích nghi?
Do duyên usam (đất mặn) do duyên khàram (nước tro), do duyên phân bò, do
duyên nước, và do duyên nỗ lực thích nghi của con người. Như vậy, này
Visàkhà, một tấm vải bị uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích
nghi. Cũng vậy, này Visàkhà, là tâm uế nhiễm được gột sạch nhờ phương
pháp thích nghi.
Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch nhờ
phương pháp thích nghi?
Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Tăng: "Diệu
hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; Trực hạnh là chúng đệ tử Thế
Tôn; Ứng lý hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; Chơn chánh hạnh là
chúng đệ tử Thế Tôn, tức là bốn đôi tám chúng. Chúng đệ tử
của Thế Tôn là đáng cung kính, đáng tôn trọng, đáng cúng dường,
đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời". Nhờ vị ấy
niệm Tăng, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của
tâm được đoạn tận. Này Visàkhà, đây gọi là Thánh đệ tử thực
hành chúng Tăng trai giới, sống với chúng tăng. Chính nhờ chúng tăng, tâm vị
ấy tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận.
Như vậy, này Visàkhà, là tâm uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp
thích nghi.
7.- Này Visàkhà, tâm uế nhiễm được gột sạch nhờ phương pháp thích
nghi. Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch nhờ
phương pháp thích nghi?
Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Giới: "Không bị
phá hoại, không bị đâm cắt, không bị nhiễm ô, không bị uế nhiễm, đem
lại giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp thủ, đưa đến
Thiền định". Vị ấy nhờ niệm Giới, tâm vị ấy được tịnh tín, hân hoan
sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận. Ví như, này Visàkhà,
một tấm gương uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi?
Và này Visàkhà, thế nào là một tấm gương uế nhiễm được rửa
sạch nhờ phương pháp thích nghi?
Do duyên dầu, do duyên tro, do duyên bàn chải lông và do duyên nỗ lực
thích nghi của con người. Như vậy, này Visàkhà, là tấm gương uế nhiễm
được rửa sạch với phương pháp thích nghi.
Và này Visàkhà, thế nào là một tấm gương uế nhiễm được rửa
sạch nhờ phương pháp thích nghi?
Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Giới: "Không bị
phá hoại, không bị đâm cắt, không bị nhiễm ô, không bị uế nhiễm, đem
lại giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp thủ, đưa đến
Thiền định". Vị ấy nhờ niệm Giới, tâm được tịnh tín, hân hoan
sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận. Này Visàkhà, đây
gọi là thánh đệ tử thực hành giới Uposatha, sống chung với giới. Nhờ
giới, tâm được tịnh tín, hân hoàn sanh khởi, các phiền não của tâm
được đoạn tận. Như vậy, này Visàkhà, là tâm uế nhiễm được rửa sạch
nhờ phương pháp thích nghi?
8. Này Visàkhà, tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích
nghi. Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch với
phương pháp thích nghi?
Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Thiên: "Có Chư
Thiên bốn Thiên Vương; có Chư Thiên cõi trời Ba mươi ba; có chư Thiên
Yàmà; có chư Thiên Tusita (Ðâu suất); có chư Thiên Hóa lạc; có chư Thiên
Tha hóa tự tại; có chư Thiên Phạm chúng; có chư Thiên cao hơn nữa. Ðầy đủ
với lòng tin như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được
sanh tại chỗ kia. Lòng tin như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Ðầy đủ với
giới như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại
chỗ kia. Giới như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Ðầy đủ với nghe pháp
như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ
kia. Nghe pháp như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Ðầy đủ với thí như vậy,
chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Thí
như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Ðầy đủ tuệ như vậy, chư Thiên ấy,
sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Tuệ như vậy
cũng có đầy đủ nơi ta". Khi người ấy niệm tín, giới, nghe pháp, thí và
tuệ của tự mình và chư Thiên ấy, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh
khởi. Các phiền não của tâm được đoạn tận. Ví như, này Visàkhà, là
vàng bị uế nhiễm được làm cho thanh tịnh nhờ phương pháp thích nghi.
Và này Visàkhà, thế nào là vàng bị uế nhiễm được làm cho thanh
tịnh nhờ phương pháp thích nghi?
Do duyên lò, do duyên đất muối, do duyên phấn đỏ, do duyên ống bệ, do
duyên cái kìm, và do duyên nỗ lực thích nghi của con người. Như vậy, này
Visàkhà, là vàng bị uế nhiễm được làm cho thanh tịnh nhờ phương pháp
thích nghi. Cũng vậy, này Visàkhà, là tâm bị uế nhiễm được làm cho
thanh tịnh nhờ phương pháp thích nghi?
Và này vì, thế nào là tâm bị uế nhiễm được làm cho thanh tịnh
nhờ phương pháp thích nghi.
Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Thiên: "Có Chư
Thiên bốn Thiên Vương; có Chư Thiên cõi trời ba mươi ba; có chư Thiên
Yàmà; có chư Thiên Tusita (Ðâu suất); có chư Thiên hóa lạc; có chư Thiên
tha hóa tự tại; có chư Thiên Phạm chúng; có chư Thiên cao hơn nữa. Ðầy đủ
với lòng tin như vậy, chư Thiên ấy, mạng chung ở chỗ này, được sanh tại
chỗ ấy. Ta cũng có lòng tin như vậy. Ðầy đủ với giới như vậy, chư
Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Giới như
vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Ðầy đủ với nghe pháp như vậy, chư Thiên ấy,
sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Nghe pháp như vậy
cũng có đầy đủ nơi ta. Ðầy đủ với thí như vậy, chư Thiên ấy, sau khi
chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Thí như vậy cũng có đầy
đủ nơi ta. Ðầy đủ với trí tuệ như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở
chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Ta cũng có trí tuệ như vậy".
Khi vị ấy niệm tín, giới, nghe pháp, thí, và tuệ của tự mình và của
chư Thiên ấy, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi. Các phiền não của
tâm được đoạn tận. Ðây gọi là Thánh đệ tử thực hành Thiên trai
giới, sống chung với chư Thiên. Nhờ chư Thiên, tâm vị ấy được tịnh tín,
hân hoan sanh khởi. Các phiền não của tâm được đoạn tận. Như vậy, này
Visàkhà, là tâm bị uế nhiễm được làm cho thanh tịnh nhờ phương pháp
thích nghi.
9. - Thánh đệ tử ấy, này Visàkhà, suy tư như sau: "Cho đến
trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng,
bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh
phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Cũng vậy đêm nay và ngày nay,
ta sống từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết
tàm quí, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng
sanh và loài hữu tình. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và
ta sẽ thực hành trai giới".
10.- "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ lấy của không
cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh
tịnh, không có trộm cướp. Cũng vậy, đêm nay và ngày nay, ta sống từ bỏ lấy
của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống
thanh tịnh, không có trộm cướp. Về chi phần này, ta theo gương các vị
A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới".
11.-"Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ tà
hạnh, tịnh tu
Phạm hạnh, sống giải thoát, từ bỏ dâm dục hèn hạ. Cũng vậy, đêm nay và
ngày nay, ta sống từ bỏ tà hạnh, tịnh tu Phạm hạnh, sống giải thoát, từ bỏ
dâm dục hèn hạ. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ
thực hành trai giới".
12.-"Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ nói láo, tránh
xa nói láo, nói những lời chân thật, y chỉ nơi sự thật chắc chắn, đáng tin
cậy, không lừa gạt, không phản lại lời hứa đối với đời. Cũng vậy, đêm
nay và ngày nay, ta sống từ bỏ nói láo, tránh xa nói láo, nói những lời chân
thật, y chỉ nơi sự thật chắc chắn, đáng tin cậy, không lừa gạt, không phản
lại lời hứa đối với đời. Về chi phần này, ta theo gương các vị
A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới".
13.-"Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ rượu men, rượu
nấu làm cho đắm say, tránh xa rượu men, rượu nấu làm cho đắm say. Cũng vậy,
đêm nay và ngày nay, ta sống từ bỏ rượu men, rượu nấu làm cho đắm say,
tránh xa rượu men, rượu nấu làm cho đắm say. Về chi phần này, ta theo
gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới".
14.- "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán ăn một ngày một bữa,
không ăn ban đêm, không ăn phi thời. Cũng vậy, đêm nay và ngày nay, ta sống
ăn một ngày một bữa, không ăn ban đêm, không ăn phi thời. Về chi phần
này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới".
15.- "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán tránh xa không xem múa,
hát, nhạc, diễn kịch, không trang sức bằng vòng hoa, hương liệu, dầu thoa
và các thời trang. Cũng vậy, đêm nay và ngày nay, ta sống tránh xa không xem
múa, hát, nhạc, diễn kịch, không trang sức bằng vòng hoa, hương liệu, dầu
thoa và các thời trang. Về chi phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và
ta sẽ thực hành trai giới".
16.- "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán từ bỏ giường cao,
giường lớn, tránh xa giường cao, giường lớn. Các vị ấy nằm trên giường
thấp, trên giường nhỏ hay trên đệm cỏ. Cũng vậy, đêm nay và ngày nay,
ta từ bỏ giường cao, giường lớn, tránh xa giường cao, giường lớn. Ta nằm trên giường thấp, trên giường nhỏ hay trên đệm cỏ. Về chi
phần này, ta theo gương các vị A-la-hán và ta sẽ thực hành trai giới".
Như vậy, này Visàkhà, là Thánh trai giới, thực hành Thánh trai giới, này
Visàkhà, có quả lớn, có lợi ích lớn, có chói sáng lớn, có ánh sáng lớn.
17. - Quả lớn là như thế nào? Lợi ích lớn như thế nào? Chói sáng
lớn như thế nào? Ánh sáng lớn như thế nào?
Ví như, này Visàkhà, có người áp đặt chủ quyền trên 16 quốc độ
lớn tràn đầy bảy báu như Anga, Magadha, Kàsi, Kosala, Vajji, Mallà, Ceti, Vangà,
Kurù, Pancàlà, Macchà, Surasenà, Assakà, Avanti, Gandhàrà, Kambojà, nhưng chủ
quyền ấy không bằng một phần mười sáu của một trai giới thực hành đầy
đủ cả tám mặt. Vì cớ sao? Nhỏ nhoi thay, này Visàkhà, là vương quyền
của loài người, so sánh với hạnh phúc Chư Thiên!
18. - Năm mươi năm của một đời người, này Visàkhà, bằng một đêm một
ngày của chư Thiên của Bốn Thiên Vương. Ba mươi đêm như vậy, làm thành
một tháng. Mười hai tháng như vậy làm thành một năm. Năm mươi năm chư
thiên như vậy làm thành thọ mạng của chư Thiên của Bốn Thiên Vương. Sự
kiện này có xảy ra, này Visàkhà, ở đây có người đàn bà hay người
đàn ông, sau khi thực hiện trai giới đầy đủ cả tám mặt, sau khi thân
hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên của Bốn Thiên Vương.
Chính dựa trên trường hợp này được nói lên rằng: "Nhỏ nhoi thay là
vương quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư Thiên!"
19.- Một trăm năm của một đời người, này Visàkhà, bằng một ngày một
đêm của chư Thiên ở cõi trời Ba mươi ba. Ba mươi đêm như vậy, làm thành
một tháng. Mười hai tháng như vậy làm thành một năm. Một ngàn năm chư
Thiên như vậy làm thành thọ mạng của chư Thiên ở cõi trời Ba mươi ba.
Sự kiện này có xảy ra, này Visàkhà, ở đây có người đàn bà hay người
đàn ông, sau khi thực hiện trai giới đầy đủ cả tám mặt, sau khi thân
hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên ở cõi trời Ba mươi ba.
Chính dựa trên trường hợp này được nói lên rằng: "Nhỏ nhoi thay là
vương quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư Thiên!"
20.- Hai trăm năm của một đời người, này Visàkhà, bằng một ngày một
đêm của chư Thiên ở cõi trời Yàmà. Ba mươi đêm như vậy, làm thành một
tháng. Mười hai tháng như vậy làm thành một năm. Hai ngàn năm chư Thiên như
vậy làm thành thọ mạng của chư Thiên ở cõi trời Yàmà. Sự kiện này
có xảy ra, này Visàkhà, ở đây có người đàn bà hay người đàn ông, sau khi
thực hiện trai giới đầy đủ cả tám mặt, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên ở cõi
trời Yàmà. Chính dựa trên trường hợp này được nói lên rằng: "Nhỏ nhoi thay
là vương quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư Thiên!".
21.- Bốn trăm năm của một đời người, này Visàkhà, bằng một ngày một đêm của chư
Thiên ở cõi trời Tusita (Ðâu-suất). Ba mươi đêm như vậy, làm thành một tháng.
Mười hai tháng như vậy làm thành một năm. Bốn ngàn năm chư Thiên như vậy làm
thành thọ mạng của chư Thiên ở cõi trời Tusita. Sự kiện này có xảy ra, này
Visàkhà, ở đây có người đàn bà hay người đàn ông, sau khi thực hiện trai giới
đầy đủ cả tám mặt, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư
Thiên ở cõi trời Tusita. Chính dựa trên trường hợp này được nói lên rằng: "Nhỏ
nhoi thay là vương quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư Thiên!".
22.- Tám trăm năm của một đời người, này Visàkhà, bằng một ngày một đêm của chư
Thiên ở cõi trời Hóa lạc. Ba mươi đêm như vậy, làm thành một tháng. Mười hai
tháng như vậy làm thành một năm. Tám ngàn năm chư Thiên như vậy làm thành thọ
mạng của chư Thiên ở cõi trời Hóa lạc. Sự kiện này có xảy ra, này Visàkhà, ở đây
có người đàn bà hay người đàn ông, sau khi thực hiện trai giới đầy đủ cả tám
mặt, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên ở cõi trời
Hóa lạc. Chính dựa trên trường hợp này được nói lên rằng: "Nhỏ nhoi thay là
vương quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư Thiên!".
23.- Mười sáu trăm năm của một đời người, này Visàkhà, bằng một ngày
một đêm của chư Thiên ở cõi trời Tha Hóa Tự Tại. Ba mươi đêm như vậy,
làm thành một tháng, mười hai tháng như vậy làm thành một năm. Mười sáu
ngàn năm chư Thiên như vậy làm thành thọ mạng của chư Thiên ở cõi trời
Tha Hóa Tự Tại. Sự kiện này có xảy ra, này Visàkhà, ở đây có người
đàn bà hay người đàn ông, sau khi thực hành Uposatha đầy đủ cả tám mặt,
sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên ở cõi trời
Tha Hóa Tự Tại. Chính dựa trên trường hợp này, được nói lên rằng:
"Nhỏ nhoi thay là vương quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc
chư Thiên".
24.
Chớ giết hại sinh loài
Thiên chấp và kiêu mạn
Nghịch lại đức bậc Thánh
Bới móc lỗi lầm nhau
Thích nghe nói xấu người
Người lầm, người bối rối
Người bị thua, bị hại
Bậc Thánh không làm vậy.
Nếu muốn cùng đàm luận
Bậc hiền biết thời gian
Câu chuyện của bậc Thánh
Liên hệ pháp, pháp nghĩa
Người có trí nói chuyện
Không hiềm thù kiêu mạn
Với tâm không chấp trước
Không hiềm hận độc đoán
Không để tâm lơ đãng
Nói lên với chánh trí
Hoan hỷ lời khéo nói
Không vui lời vụng về
Không học cách chỉ trích,
Không chụp sơ hở người
Không nhiếc mắng đánh đập
Không nói lời vu vơ
Lời nói của bậc Thánh
Vừa dạy vừa hoan hỷ
Như vầy bậc Thánh nói
Như vầy bậc Thánh luận đàm
Bậc trí biết rõ vậy
Nói lời thật khiêm tốn
Chớ lấy của không cho
Chớ nói lời nói láo
Chớ uống thứ rượu say
Từ bỏ không phạm hạnh
Từ bỏ, không dâm dục
Không ăn vào ban đêm
Tránh không ăn phi thời
Không mang các vòng hoa
Không dùng các hương liệu
Hãy nằm trên tấm thảm
Ðược trải dài trên đất
Chính hạnh trai giới này
Ðược gọi có tám phần
Do đức Phật nói lên
Ðưa đến đoạn tận khổ
Mặt trăng và mặt trời
Ðược thấy là lành tốt
Chỗ nào chúng đi tới
Chúng chói sáng hào quang
Chúng làm mây sáng chói
Giữa hư không chúng đi
Trên trời chúng chói sáng
Sáng rực mọi phương hướng
Trong khoảng không gian ấy
Tài sản được tìm thấy
Trân châu và ngọc báu
Lưu ly, đá cầu may
Vàng cục trong lòng đất
Hay loại Kancana
Cùng loại vàng sáng chói
Ðược gọi là Hattaka
Tuy vậy chúng giá trị
Chỉ một phần mười sáu
Với hạnh giữ trai giới
Ðầy đủ cả tám mặt
Kể cả ánh sáng trăng
Với cả vòm trời cao.
Vậy người nữ người nam
Hãy giữ theo định giới
Hành bố-tát trai giới
Ðầy đủ cả tám mặt
Làm thiện các công đức
Ðem lại nhiều an lạc
Ðược sanh lên cõi trời
Không bị người cười chê.
-ooOoo-
Mục Lục các Chương:
01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | Giới thiệu
last updated: 25-05-2007