BuddhaSasana Home Page
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Tăng Chi Bộ - Anguttara
Nikaya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
XI. Phẩm Chánh Giác
101.- Trước Khi Giác Ngộ
1. - Này các Tỷ-kheo, trước khi Ta giác ngộ, chưa chánh đẳng giác, còn
là Bồ-tát, ta suy nghĩ như sau: "Cái gì là vị ngọt ở đời? Cái gì
là nguy hại, cái gì là xuất ly?". Rồi này các Tỷ-kheo, về vấn
đề ấy, tư tưởng sau đây khởi lên nơi ta: "Do duyên với đời, khởi
lên lạc hỷ gì, đây là vị ngọt ở đời. Cái gì ở đời là vô
thường, khổ, chịu sự biến hoại, đấy là nguy hại ở đời. Ðiều phục
dục tham ở đời, đoạn tận tham dục, đấy là xuất ly ở đời". 2. Này các Tỷ-kheo, cho đến khi nào ta chưa như thật giác tri vị
ngọt ở đời là vị ngọt, nguy hại là nguy hại, xuất ly là xuất ly, cho
đến khi ấy, này các Tỷ-kheo, ta không có xác nhận Ta đã giác liễu
vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cùng với thế giới gồm có Thiên giới,
Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên
và loài Người. Này các Tỷ-kheo, cho đến khi nào ta như thật giác tri
vị ngọt ở đời là vị ngọt, nguy hại là nguy hại, xuất ly là xuất ly,
cho đến khi ấy, này các Tỷ-kheo, ta mới xác nhận Ta đã giác liễu vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác, cùng với thế giới gồm có Thiên giới, Ma
giới, Phạm thiên giới, cùng với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và
loài Người. Và tri kiến khởi lên nơi ta: "Bất động là tâm giải
thoát của ta. Ðây là đời sống cuối cùng. Nay không còn tái sanh nữa". 3. Này các Tỷ-kheo, ta đã đi tìm cầu vị ngọt ở đời. Vị ngọt
ở đời là gì, Ta đã tìm được. Cho đến như thế nào, vị ngọt
có mặt ở đời, với trí tuệ ta khéo thấy vị ấy ngọt. Này các
Tỷ-kheo, ta đã tìm cầu nguy hại ở đời. Nguy hại ở đời là gì, Ta đã
tìm được. Cho đến như thế nào, nguy hại có mặt ở đời, với trí
tuệ ta, ta khéo thấy nguy hại ấy, này các Tỷ-kheo ta đã tìm cầu xuất
ly ở đời. Xuất ly ở đời là gì, Ta đã tìm được. Cho đến như thế
nào, xuất ly có mặt ở đời, với trí tuệ ta, ta khéo thấy xuất ly ấy. 4. Này các Tỷ-kheo, cho đến khi nào ta chưa như thật giác tri vị
ngọt ở đời là vị ngọt, nguy hại là nguy hại, xuất ly là xuất ly, cho
đến khi ấy, này các Tỷ-kheo, ta không có xác nhận Ta đã giác liễu
vô thượng chánh đẳng giác, cùng với thế giới như Thiên giới, Ma giới,
Phạm thiên giới, cùng với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài
Người. Này các Tỷ-kheo, cho đến khi nào ta như thật giác tri vị
ngọt ở đời là vị ngọt, nguy hại là nguy hại, xuất ly là xuất ly, cho
đến khi ấy, này các Tỷ-kheo, ta mới xác nhận Ta đã giác liễu vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác, cùng với thế giới gồm có Thiên giới, Ma
giới, Phạm thiên giới, cùng với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và
loài Người. Và tri kiến khởi lên nơi ta: "Bất động là tâm giải
thoát của ta. Ðây là đời sống cuối cùng. Nay không còn tái sanh nữa". 102.- Vị Ngọt. 1. - Này các Tỷ-kheo, nếu không có vị ngọt ở đời, thời các
loài hữu tình không có tham nhiễm đối với đời. Vì rằng, này các
Tỷ-kheo, có vị ngọt ở đời, nên các loài hữu tình có tham nhiễm ở
đời. Này các Tỷ-kheo, nếu không có nguy hại ở đời, thời các loài
hữu tình không có nhàm chán đối với đời. Vì rằng, này các Tỷ-kheo, có
nguy hại ở đời, nên các loài hữu tình có nhàm chán đối với đời. Này các
Tỷ-kheo, nếu không có xuất ly ra khỏi đời, thời các loài hữu tình
không có xuất ly đối với đời. Vì rằng, này các Tỷ-kheo, có xuất ly
đối với đời, nên các loài hữu tình có xuất ly ra khỏi đời. Và này các Tỷ-kheo, cho đến khi nào các loài hữu tình chưa như
thật giác tri vị ngọt ở đời là vị ngọt, nguy hại là nguy hại, xuất
ly là xuất ly, cho đến khi ấy, này các Tỷ-kheo, các loài hữu tình
không có thể an trú với tâm thoát ly, không có hệ phược, giải thoát,
không bị hạn cuộc khỏi thế giới gồm có Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên
giới, cùng với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Và
này các Tỷ-kheo, cho đến khi nào các loài hữu tình đã như thật giác
tri vị ngọt ở đời là vị ngọt, nguy hại là nguy hại, xuất ly là xuất
ly, cho đến khi ấy, này các Tỷ-kheo, các loài hữu tình có thể an
trú với tâm thoát ly, không có hệ phược, giải thoát, không bị hạn cuộc
khỏi thế giới gồm có Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với quần
chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Các Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này các Tỷ-kheo, không như thật rõ
biết là vị ngọt là vị ngọt, nguy hại là nguy hại, xuất ly là xuất
ly, các Sa-môn hay Bà-la-môn ấy, này các Tỷ-kheo, đối với Ta không được
công nhận là Sa-môn trong các hàng Sa-môn, không được công nhận là các
Bà-la-môn trong các hàng Bà-la-môn. Và các Tôn giả ấy, ngay trong hiện
tại không có chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú mục đích của
Sa-môn hạnh hay mục đích của Bà-la-môn hạnh. Các Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này các Tỷ-kheo, như thật rõ biết vị
ngọt là vị ngọt, nguy hại là nguy hại, xuất ly là xuất ly, các Sa-môn
hay Bà-la-môn ấy, này các Tỷ-kheo, đối với Ta được công nhận là Sa-môn
trong các hàng Sa-môn, được công nhận là các Bà-la-môn trong các hàng
Bà-la-môn. Và các Tôn giả ấy, ngay trong hiện tại sẽ có chứng ngộ với
thắng trí, chứng đạt và an trú mục đích của Sa-môn hạnh hay mục đích của
Bà-la-môn hạnh. 103.- Khóc Than
- Này các Tỷ-kheo, đây được xem là khóc than trong giới luật bậc
Thánh, tức là ca vịnh. Này các Tỷ-kheo, đây được xem là điên loạn
trong giới luật bậc Thánh, tức là múa nhảy. Này các Tỷ-kheo, đây được
xem là trẻ con trong giới luật bậc Thánh, tức là cười quá đáng để lộ
cả răng. Do luật này, này các Tỷ-kheo, hãy phá cây cầu đi đến hát.
Hãy phá cây cầu đi đến múa nhảy. Thật là vừa đủ nếu các Thầy
được hoan hỷ đúng pháp, mỉm cười để tỏ là các Thầy được hoan
hỷ. 104.- Không Thỏa Mãn - Này các Tỷ-kheo, hưởng thọ ba sự ở đời, không bao giờ thỏa mãn.
Thế nào là ba? Hưởng thọ ngủ nghỉ, này các Tỷ-kheo, không bao giờ thỏa mãn.
Hưởng thọ rượu men rượu nấu, này các Tỷ-kheo, không bao giờ thỏa
mãn. Hưởng thọ sự dâm dục giao hợp, này các Tỷ kheo, không bao giờ
thỏa mãn. 105.- Nóc Nhọn (1)
Rồi gia chủ Anathapindika đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; Thế Tôn nói với gia chủ Anathapindika
đang ngồi xuống một bên: - Này gia chủ, khi tâm không phòng hộ, thời thân nghiệp cũng không
phòng hộ, khẩu nghiệp cũng không phòng hộ, ý nghiệp cũng không phòng
hộ. Với ai thân nghiệp không phòng hộ, khẩu nghiệp không phòng hộ,
ý nghiệp không phòng hộ, thời thân nghiệp đầy ứ tham dục và rỉ
chảy; khẩu nghiệp đầy ứ tham dục và rỉ chảy; ý nghiệp đầy ứ
tham dục và rỉ chảy; Với ai thân nghiệp đầy ứ tham dục và rỉ chảy, khẩu
nghiệp đầy ứ tham dục và rỉ chảy, ý nghiệp đầy ứ tham dục và
rỉ chảy, thời thân nghiệp bị hủ bại, khẩu nghiệp ... ý nghiệp
bị hủ bại. Với ai thân nghiệp bị hủ bại, khẩu nghiệp ... ý
nghiệp bị hủ bại, sự chết không được hiền thiện, mạng chung
không được hiền thiện. Này gia chủ, ví như ngôi nhà nóc nhọn vụng lợp, thời nóc nhọn
không được phòng hộ, rui kèo không được phòng hộ, vách tường không
được phòng hộ; nóc nhọn bị đầy ứ, rỉ nước, các rui kèo bị đầy ứ
rỉ nước, các vách tường bị đầy ứ, rỉ nước, nóc nhọn bị hủ bại, rui
kèo bị hủ bại, vách tường bị hủ bại. Cũng vậy, này gia chủ, khi tâm không
được phòng hộ, thời thân nghiệp cũng không được phòng hộ, khẩu
nghiệp ... ý nghiệp ... sự chết không được hiền thiện,
mạng chung không được hiền thiện. Này gia chủ, khi tâm được phòng hộ, thời thân nghiệp cũng được
phòng hộ, khẩu nghiệp ... ý nghiệp cũng được phòng hộ. Với ai
thân nghiệp được phòng hộ, khẩu nghiệp được phòng hộ, ý
nghiệp được phòng hộ, thời thân nghiệp không đầy ứ tham dục và rỉ
chảy; khẩu nghiệp không đầy ứ tham dục và rỉ chảy; ý nghiệp
không đầy ứ tham dục và rỉ chảy; Với ai thân nghiệp không đầy ứ tham
dục và rỉ chảy, khẩu nghiệp không đầy ứ tham dục và rỉ chảy, ý
nghiệp không đầy ứ tham dục và rỉ chảy, thời thân nghiệp không bị
hủ bại, khẩu nghiệp ... ý nghiệp không bị hủ bại. Với ai thân
nghiệp không bị hủ bại, khẩu nghiệp ... ý nghiệp không bị hủ
bại, thời sự chết được hiền thiện, mạng chung được hiền
thiện ... Này gia chủ, ví như ngôi nhà nóc nhọn khéo lợp, thời nóc nhọn
được phòng hộ, rui kèo được phòng hộ, vách tường được phòng hộ; nóc
nhọn không đầy ứ, rỉ nước, các rui kèo không đầy ứ, rỉ nước, các
vách tường không đầy ứ, rỉ nước, nóc nhọn không bị hủ bại, rui kèo
không bị hủ bại, vách tường không bị hủ bại. Cũng vậy, này gia chủ, khi
tâm được phòng hộ, thời thân nghiệp cũng được phòng hộ, khẩu
nghiệp ... ý nghiệp không bị hủ bại, thời sự chết được
hiền thiện, mạng chung được hiền thiện. 106.- Nóc Nhọn (2) (Kinh này hoàn toàn giống như kinh trên, chỉ khác có một chữ.
Chỗ nào kinh trên dùng chữ "không phòng hộ", thời ở đây dùng
chữ "thất thế, lung lay" với những thay đổi cần thiết). 107.- Ba Nhân Duyên (1) - Có ba nhân duyên này, này các Tỷ-kheo, khiến các nghiệp tập
khởi. Thế nào là ba? Tham là nhân duyên khiến các nghiệp tập khởi, sân là nhân duyên
khiến các nghiệp tập khởi, si là nhân duyên khiến các nghiệp
tập khởi. Phàm nghiệp nào do tham tác thành, này các Tỷ-kheo, sanh ra từ tham,
do tham làm nhân duyên, do tham tập khởi, nghiệp ấy là bất thiện,
nghiệp ấy có phạm tội, nghiệp ấy có khổ dị thục, nghiệp ấy làm
nghiệp tập khởi, nghiệp ấy không đưa đến nghiệp đoạn
diệt. Phàm nghiệp nào do sân tác thành ... Phàm nghiệp nào do si
tác thành, này các Tỷ-kheo, sanh ra từ si, do si làm nhân duyên, do si tập
khởi, nghiệp ấy là bất thiện, nghiệp ấy có phạm tội, nghiệp
ấy có khổ dị thục, nghiệp ấy làm nghiệp tập khởi, nghiệp ấy
không đưa đến nghiệp đoạn diệt. Ba pháp này, này các
Tỷ-kheo, là ba nhân duyên khiến các nghiệp tập khởi. 108.- Ba Nhân Duyên (2)
- Có ba nhân duyên này, này các Tỷ-kheo, khiến các nghiệp tập
khởi. Thế nào là ba? Vô tham là nhân duyên khiến các nghiệp tập khởi, vô sân là nhân
duyên khiến các nghiệp tập khởi, vô si là nhân duyên khiến các
nghiệp tập khởi. Phàm nghiệp nào do vô tham tác thành, này các Tỷ-kheo, sanh ra từ vô
tham, do vô tham làm nhân duyên, do vô tham tập khởi, nghiệp ấy là
thiện, nghiệp ấy không có phạm tội, nghiệp ấy có lạc dị thục,
nghiệp ấy đưa đến nghiệp đoạn diệt, nghiệp ấy không đưa
đến nghiệp tập khởi. Phàm nghiệp nào do vô sân tác thành ... Phàm
nghiệp nào do vô si tác thành, này các Tỷ-kheo, sanh ra từ vô si, do vô
si làm nhân duyên, do vô si tập khởi, nghiệp ấy là thiện, nghiệp
ấy không có phạm tội, nghiệp ấy có lạc dị thục, nghiệp ấy không
đưa đến nghiệp tập khởi, nghiệp ấy đưa đến nghiệp đoạn
diệt. Ba pháp này, này các Tỷ-kheo, là ba nhân duyên khiến các
nghiệp tập khởi. 109.- Nhân Duyên (3) 1. - Có ba nhân duyên này, này các Tỷ-kheo, khiến các nghiệp tập
khởi. Thế nào là ba? Này các Tỷ-kheo, do duyên các pháp làm chỗ y xứ cho dục tham trong
quá khứ; ước muốn khởi lên. Này các Tỷ-kheo, do duyên các pháp làm
chỗ y xứ cho dục tham trong tương lai; ước muốn khởi lên. Này các
Tỷ-kheo, do duyên các pháp làm chỗ y xứ cho dục tham trong hiện tại;
ước muốn khởi lên. 2. Như thế nào, này các Tỷ-kheo, do duyên các pháp làm chỗ
ý xứ cho dục tham trong quá khứ, ước muốn khởi lên? Này các Tỷ-kheo, do duyên các pháp làm chỗ y xứ cho dục tham trong
quá khứ; với tâm, nó tầm cầu, nó tư sát. Do duyên các pháp làm chỗ
ý xứ cho dục tham trong quá khứ; với tâm, nó tầm cầu, nó tư sát, nên
ước muốn khởi sanh. Vì có ước muốn, nên nó bị liên hệ với các pháp
ấy. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng đó là một kiết sử, vì tâm ấy có
tham ái. Như vậy, này các Tỷ-kheo, do duyên các pháp làm chỗ ý xứ
cho dục tham trong quá khứ, ước muốn sanh khởi. 3. Như thế nào, này các Tỷ-kheo, do duyên các pháp làm chỗ
ý xứ cho dục tham trong tương lai, ước muốn sanh khởi ? Này các Tỷ-kheo, do duyên các pháp làm chỗ y xứ cho dục tham trong
tương lai; với tâm, nó tầm cầu, nó tư sát. Do duyên các pháp làm chỗ
ý xứ cho dục tham trong tương lai; với tâm, nó tầm cầu, nó tư sát, nên
ước muốn khởi sanh. Vì có ước muốn, nên nó bị liên hệ với các pháp
ấy. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng đó là một kiết sử, vì tâm ấy có
tham ái. Như vậy, này các Tỷ-kheo, do duyên các pháp làm chỗ ý xứ
cho dục tham trong tương lai, ước muốn sanh khởi. 4. Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, do duyên các pháp làm chỗ
ý xứ cho dục tham trong hiện tại, ước muốn khởi sanh? Này các Tỷ-kheo, do duyên các pháp làm chỗ y xứ cho dục tham trong
hiện tại; với tâm, nó tầm cầu, nó tư sát. Do duyên các pháp làm chỗ
ý xứ cho dục tham trong hiện tại; với tâm, nó tầm cầu, nó tư sát,
nên ước muốn khởi sanh. Vì có ước muốn, nên nó bị liên hệ với pháp
ấy. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng đó là một kiết sử, vì tâm ấy có
tham ái. Như vậy, này các Tỷ-kheo, do duyên các pháp làm chỗ ý xứ
cho dục tham trong hiện tại, ước muốn sanh khởi. 110. Nhân Duyên (4)
1. - Có ba nhân duyên này, này các Tỷ-kheo, khiến các nghiệp tập
khởi. Thế nào là ba? Này các Tỷ-kheo, do duyên các pháp làm chỗ y xứ cho dục tham trong
quá khứ; ước muốn không khởi sanh. Này các Tỷ-kheo, do duyên các pháp
làm chỗ y xứ cho dục tham trong tương lai; ước muốn không khởi sanh. Này
các Tỷ-kheo, do duyên các pháp làm chỗ y xứ cho dục tham trong hiện
tại; ước muốn không sanh khởi. 2. Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, do duyên các pháp làm chỗ
ý xứ cho dục tham trong quá khứ, ước muốn không sanh khởi? Có người rõ biết, này các Tỷ-kheo, quả dị thục trong tương lai
của các pháp làm chỗ y xứ cho dục tham trong quá khứ. Sau khi biết rõ
quả dị thục trong tương lai, người ấy tránh né quả dị thục ấy. Sau khi
tránh né quả dị thục ấy, sau khi tâm người ấy không còn tham đắm; với trí
tuệ, vị ấy thể nhập và thấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, do duyên
các pháp làm chỗ ý xứ cho dục tham trong quá khứ, ước muốn không sanh
khởi. 3. Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, do duyên các pháp làm chỗ
ý xứ cho dục tham trong tương lai, ước muốn không sanh khởi? Có người rõ biết, này các Tỷ-kheo, quả dị thục trong tương lai
của các pháp làm chỗ y xứ cho dục tham trong tương lai. Sau khi biết rõ
quả dị thục trong tương lai, người ấy tránh né quả dị thục ấy. Sau khi
tránh né quả dị thục ấy, sau khi tâm người ấy không còn tham đắm; với trí
tuệ, người ấy thể nhập và thấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, do
duyên các pháp làm chỗ ý xứ cho dục tham trong tương lai, ước muốn
không sanh khởi. 4. Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, do duyên các pháp làm chỗ
ý xứ cho dục tham trong hiện tại, ước muốn không sanh khởi? Có người rõ biết, này các Tỷ-kheo, quả dị thục trong tương lai
của các pháp làm chỗ y xứ cho dục tham trong hiện tại. Sau khi biết
rõ quả dị thục trong tương lai, người ấy tránh né quả dị thục ấy. Sau khi
tránh né quả dị thục ấy, sau khi tâm người ấy không còn tham đắm; với trí
tuệ, người ấy thể nhập và thấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, do
duyên các pháp làm chỗ ý xứ cho dục tham trong hiện tại, ước muốn
không sanh khởi. XII. Phẩm Ðọa Xứ
111.- Rơi Vào Ðọa Xứ
- Này các Tỷ-kheo, ba hạng người này rơi vào đọa xứ, rơi vào
địa ngục, trừ phi họ đoạn bỏ pháp này. Thế nào là ba? Ai sống không Phạm hạnh, tự xưng là có sống Phạm hạnh; đối với người
sống Phạm hạnh thanh tịnh, hành Phạm hạnh thật thanh tịnh, ai công kích là
không Phạm hạnh một cách không căn cứ; ai chủ trương như sau: "Không có
lỗi lầm trong các dục vọng" và rơi vào say đắm trong các dục
vọng; những hạng người này, này các Tỷ-kheo, là ba hạng người rơi
vào trong đọa xứ, rơi vào địa ngục, trừ phi họ đoạn bỏ pháp này. 112.- Khó Tìm Ðược - Sự xuất hiện của ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, khó tìm
được ở đời. Thế nào là ba? Này các Tỷ-kheo, sự xuất hiện của Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh
Ðẳng Chánh Giác, khó tìm được ở đời. Người có thể thuyết pháp
và luật do Như Lai tuyên thuyết, khó tìm được ở đời. Người tri ân,
người biết ơn, khó tìm được ở đời. Sự xuất hiện của ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, khó tìm
được ở đời. 113. Không Thể Ước Lượng
- Có ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở
đời. Thế nào là ba? Dễ ước lượng, khó ước lượng và không thể
ước lượng. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người dễ ước lượng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tháo động, kiêu căng, dao
động, lắm mồm lắm miệng, lắm lời, thất niệm không tỉnh giác, không
định tĩnh, tâm tán loạn, các căn thả lỏng. Này các Tỷ-kheo, đây
gọi là hạng người dễ ước lượng. Và này các Tỷ-kheo, thế nào gọi là người khó ước lượng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người không tháo động, không
kiêu căng, không dao động, không lắm mồm lắm miệng, không lắm lời, trú
niệm, tỉnh giác, định tĩnh, nhất tâm, các căn được bảo vệ. Này
các Tỷ-kheo, đây gọi là hạng người khó ước lượng. Và này các Tỷ-kheo, thế nào gọi là người không thể ước
lượng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc
được đoạn tận. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hạng người không
thể ước lượng. Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. 114.- Không Vô Biên Xứ - Có ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở
đời. Thế nào là ba? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người hoàn toàn vượt qua sắc tưởng,
chấm dứt đối ngại tưởng, không tác ý các tưởng sai biệt, xem
"hư không là vô biên", đạt đến an trú vào Không vô biên xứ.
Vị ấy thưởng thức cảnh giới ấy, hy cầu cảnh giới ấy, thỏa mãn với cảnh
giới ấy, an trú trong cảnh giới ấy, tín giải cảnh giới ấy, an trú nhiều
trong cảnh giới ấy, không có từ bỏ cảnh giới ấy, đến khi mạng chung,
được sanh cộng trú với chư Thiên đã đạt đến Không vô biên xứ. Này
các Tỷ-kheo, thọ mạng của chư Thiên đã đạt đến Không vô biên
xứ là hai mươi ngàn kiếp. Kẻ phàm phu, sau khi trú ở đấy cho đến
hết thọ mạng, sau khi trải qua tất cả thời gian thọ mạng của chư
Thiên ấy, kẻ ấy đi vào địa ngục, đi vào loại bàng sanh, đi vào cõi ngạ
quỷ. Nhưng đệ tử của Thế Tôn, sau khi trú ở đấy cho hết
thọ mạng, sau khi trải qua tất cả thời gian thọ mạng của chư Thiên ấy,
cuối cùng nhập Niết-bàn trong hiện hữu ấy. Ðây là sự đặc thù, đây
là sự tăng thượng, đây là sự sai biệt giữa vị Thánh đệ tử có nghe
nhiều và kẻ vô văn phàm phu về vấn đề sanh thú và tái sanh. 2. Lại nữa, này các Tỷ Kheo, ở đây có người vượt qua Không vô biên
xứ, xem "thức là vô biên", đạt đến an trú Thức vô biên xứ. Vị
ấy thưởng thức cảnh giới ấy, hy cầu cảnh giới ấy, thỏa mãn với cảnh giới
ấy, an trú trong cảnh giới ấy, tín giải cảnh giới ấy, an trú nhiều trong
cảnh giới ấy, không có từ bỏ cảnh giới ấy, đến khi mạng chung, được
sanh cộng trú với chư Thiên đã đạt Thức vô biên xứ. Này các Tỷ-kheo,
thọ mạng của chư Thiên đã đạt đến Thức vô biên xứ là bốn mươi
ngàn kiếp. Kẻ phàm phu, sau khi trú ở đấy cho đến hết thọ
mạng, sau khi trải qua tất cả thời gian thọ mạng của chư Thiên ấy, kẻ ấy
đi vào địa ngục, đi vào loại bàng sanh, đi vào cõi ngạ quỷ. Nhưng
đệ tử của Thế Tôn, sau khi trú ở đấy cho hết thọ mạng, sau
khi trải qua tất cả thời gian thọ mạng của chư Thiên ấy, cuối cùng nhập
Niết-bàn trong hiện hữu ấy. Ðây là sự đặc thù, đây là sự tăng
thượng, đây là sự sai biệt giữa vị Thánh đệ tử có nghe nhiều
và kẻ vô văn phàm phu về vấn đề sanh thú và tái sanh. 3. Lại nữa, này các Tỷ kheo, ở đây có người vượt qua Thức vô biên
xứ, xem "không có gì cả", đạt đến an trú Vô sở hữu xứ. Vị ấy
thưởng thức cảnh giới ấy, hy cầu cảnh giới ấy, thỏa mãn với cảnh giới ấy,
an trú trong cảnh giới ấy, tín giải cảnh giới ấy, không có từ bỏ cảnh giới
ấy, đến khi mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên đã đạt Vô
sở hữu xứ. Này các Tỷ-kheo, thọ mạng của chư Thiên đã đạt đến
Vô sở hữu xứ là sáu mươi ngàn kiếp. Kẻ phàm phu, sau khi trú ở đấy cho
đến hết thọ mạng, sau khi trải qua tất cả thời gian thọ mạng
của chư Thiên ấy, kẻ ấy đi vào địa ngục, đi vào loại bàng sanh, đi vào
cõi ngạ quỷ. Nhưng đệ tử của Thế Tôn, sau khi trú ở đấy cho
hết thọ mạng, sau khi trải qua tất cả thời gian thọ mạng của chư
Thiên ấy, cuối cùng nhập Niết-bàn trong hiện hữu ấy. Ðây là sự đặc
thù, đây là sự tăng thượng, đây là sự sai biệt giữa vị Thánh đệ
tử có nghe nhiều và kẻ vô văn phàm phu về vấn đề sanh thú và
tái sanh. Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. 115.- Khiếm Khuyết Và Viên Mãn.
1. - Này các Tỷ-kheo, có ba sự khiếm khuyết này. Thế nào là
ba? Khiếm khuyết về giới, khiếm khuyết về tâm, khiếm
khuyết về tri kiến. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là khiếm khuyết về giới? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người sát sanh, lấy của không cho, tà
hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù
phiếm. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là khiếm khuyết về
giới. 2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là khiếm khuyết về tâm? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tham lam, với tâm sân hận. Này
các Tỷ-kheo, đây gọi là khiếm khuyết về tâm. 3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là khiếm khuyết về tri
kiến? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người có tà kiến, có tri kiến
điên đảo: "Không có bố thí, không có lễ hy sinh, không có cúng tế,
không có quả dị thục trong các nghiệp thiện ác, không có đời này,
không có đời sau, không có mẹ, không có cha, không có các loại hóa sanh, ở
đời không có các hàng Sa-môn, Bà-la-môn chánh hướng, chánh hạnh, đã tự
mình với thắng trí, giác ngộ và truyền dạy lại cho đời này, đời sau".
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là khiếm khuyết về tri kiến. 4. Do nhân khiếm khuyết về giới, này các Tỷ-kheo, các loại
hữu tình, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ,
địa ngục. Do nhân khiếm khuyết về tâm, này các Tỷ-kheo, các
loại hữu tình, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa
xứ, địa ngục. Do nhân khiếm khuyết về tri kiến, này các
Tỷ-kheo, các loại hữu tình, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ,
ác thú, đọa xứ, địa ngục. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là ba
khiếm khuyết. 5. Này các Tỷ-kheo, có ba viên mãn này. Thế nào là ba? Viên mãn
về giới, viên mãn về tâm, viên mãn về tri kiến. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là viên mãn về giới? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của
không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi,
từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm. Này các Tỷ-kheo,
đây gọi là viên mãn về giới. 6. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là viên mãn về tâm? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người không tham lam, không có tâm sân
hận. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là viên mãn về tâm. 7. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là viên mãn về tri kiến? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người có chánh kiến, không có tri
kiến điên đảo: "Có bố thí, có lễ hy sinh, có cúng tế, có quả
dị thục trong các nghiệp thiện ác, có đời này, có đời sau, có mẹ,
có cha, có các loại hóa sanh, ở đời có các hàng Sa-môn, Bà-la-môn chánh
hướng, chánh hạnh, đã tự mình với thắng trí, giác ngộ và truyền dạy lại cho
đời này, đời sau". Này các Tỷ-kheo, đây gọi là viên mãn
về tri kiến. 8. Do nhân viên mãn về giới, này các Tỷ-kheo, các loại hữu tình,
sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi thiện, cõi Trời, cõi đời này.
Do nhân viên mãn về tâm, này các Tỷ-kheo, các loại hữu tình, sau khi
thân hoại mạng chung, sanh lên cõi thiện, cõi Trời, cõi đời này. Do nhân
viên mãn về tri kiến, này các Tỷ-kheo, các loại hữu tình, sau khi
thân hoại mạng chung, sanh lên cõi thiện, cõi Trời, cõi đời này. Những
pháp này, này các Tỷ-kheo, là ba viên mãn. 116.- Chính Xác. 1.- Này các Tỷ kheo, có ba khiếm khuyết này, thế nào là ba ? Khiếm khuyết về giới, khiếm khuyết về tâm, khiếm
khuyết về tri kiến... (Giống như kinh 115, 1-4). 2.- Ví như, này các Tỷ Kheo, một hột súc sắc chính xác, nếu được
liệng về mặt trên, được nằm về mặt ấy, được nằm khéo đặt.
Cũng vậy, này các Tỷ kheo, do nhân khiếm khuyết về giới, các
loại hữu tình, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa
xứ, địa ngục..... Do nhân khiếm khuyết về tâm,....Do nhân khiếm
khuyết về tri kiến...... này các Tỷ-kheo, ... sanh vào cõi dữ,
ác thú, đọa xứ, địa ngục . Các pháp này, này các Tỷ kheo, là ba
khuyết điểm. 3.- Này các Tỷ-kheo, có ba viên mãn này. Thế nào là ba? Viên mãn
về giới, viên mãn về tâm, viên mãn về tri kiến. .... (Như
kinh 115, 5-8). 4.- Ví như, này các Tỷ Kheo, một hột súc sắc chính xác, nếu được
liệng về mặt trên, được nằm về mặt ấy, được nằm khéo đặt.
Cũng vậy, này các Tỷ kheo, do nhân viên mãn về giới.... do nhân viên
mãn về tâm .... do nhân viên mãn về tri kiến, này các Tỷ kheo,
các loại hữu tình, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên cõi thiện,
cõi trời, cõi đời này. Các pháp này, này các Tỷ kheo, là ba viên mãn. 117.- Hành Ðộng
1 - Này các Tỷ-kheo, có ba khiếm khuyết này. Thế nào là ba?
Khiếm khuyết về hành động, khiếm khuyết về sanh kế,
khiếm khuyết về tri kiến. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là khiếm khuyết về hành
động? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người sát sanh ... (như 115.1) nói
lời phù phiếm. Này các Tỷ-kheo, đây là khiếm khuyết về
hành động. 2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là khiếm khuyết về sanh
kế? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người theo tà sanh kế, nuôi sống
bằng tà sanh kế. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là khiếm khuyết
về sanh kế. 3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là khiếm khuyết về tri
kiến? (như kinh 115.3). 4. Này các Tỷ-kheo, có ba viên mãn này. Thế nào là ba? Viên mãn
về hành động, viên mãn về sanh kế, viên mãn về tri kiến. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là viên mãn về hành động? ... (như
kinh 115.5) 5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là viên mãn về sanh kế? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người theo chánh sanh kế, nuôi sống
bằng chánh sanh kế. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là viên mãn về
sanh kế. 6. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là viên mãn về tri kiến? ... (như
kinh 115.7) Này các Tỷ-kheo, các pháp này là ba viên mãn. 118.- Thanh Tịnh (1) - Này các Tỷ-kheo, có ba thanh tịnh này. Thế nào là ba? Thân thanh
tịnh, lời nói thanh tịnh, ý thanh tịnh. Thế nào là thân thanh tịnh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của
không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, này các Tỷ-kheo, đây gọi là
thân thanh tịnh. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là lời nói thanh tịnh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai
lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm. Này các
Tỷ-kheo, đây gọi là lời nói thanh tịnh. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ý thanh tịnh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người không có tham lam, với tâm không
sân không hận, có chánh tri kiến. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là
ý thanh tịnh. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là ba thanh tịnh. 119.- Thanh Tịnh (2)
1. - Này các Tỷ-kheo, có ba thanh tịnh này, Thế nào là ba? Thân thanh
tịnh, lời nói thanh tịnh, ý thanh tịnh. 2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thân thanh tịnh? (như kinh 118,
về thân thanh tịnh). 3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là lời nói thanh tịnh? (như kinh
118, về lời nói thanh tịnh). 4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ý thanh tịnh? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo, nếu nội tâm có ước
muốn về dục, vị ấy rõ biết: "Nội tâm ta có ước muốn về
dục". Nếu nội tâm không có ước muốn về dục, vị ấy rõ biết:
"Nội tâm ta không có ước muốn về dục". Ước muốn về dục
chưa sanh khởi, được sanh khởi thế nào, vị ấy rõ biết như vậy. Ước
muốn về dục đã sanh khởi, được đoạn trừ thế nào, vị ấy rõ
biết như vậy. Và ước muốn về dục đã được đoạn trừ, tương lai
không sanh khởi thế nào, vị ấy rõ biết như vậy. 5. Nếu nội tâm có sân, vị ấy rõ biết: "Nội tâm ta có
sân". Nếu nội tâm không có sân, vị ấy rõ biết: "Nội tâm ta
không có sân". Sân chưa sanh khởi, được sanh khởi thế nào, vị ấy
rõ biết như vậy. Sân đã sanh khởi, được đoạn trừ thế nào, vị ấy
rõ biết như vậy. Và sân đã được đoạn trừ, tương lai không sanh khởi
thế nào, vị ấy rõ biết như vậy. 6. Nếu tâm có hôn trầm thụy miên, vị ấy rõ biết: "Nội tâm ta
có hôn trầm thụy miên". Nếu nội tâm không có hôn trầm thụy miên,
vị ấy rõ biết: "Nội tâm ta không có hôn trầm thụy miên". Hôn
trầm thụy miên chưa sanh khởi, được sanh khởi thế nào, vị ấy rõ
biết như vậy. Hôn trầm thụy miên đã sanh khởi, được đoạn trừ thế
nào, vị ấy rõ biết như vậy. Và hôn trầm thụy miên đã được đoạn
trừ, tương lai không sanh khởi thế nào, vị ấy rõ biết như vậy. 7. Nếu tâm có trạo hối, vị ấy rõ biết: "Nội tâm ta có trạo
hối". Nếu nội tâm không có trạo hối, vị ấy rõ biết: "Nội
tâm ta không có trạo hối". Trạo hối chưa sanh khởi, được sanh khởi
thế nào, vị ấy rõ biết như vậy. Trạo hối đã sanh khởi, được đoạn
trừ thế nào, vị ấy rõ biết như vậy. Và trạo hối đã được đoạn
trừ, tương lai không sanh khởi thế nào, vị ấy rõ biết như vậy. 8. Nếu tâm có nghi, vị ấy rõ biết: "Nội tâm ta có nghi".
Nếu nội tâm không có nghi, vị ấy rõ biết: "Nội tâm ta không có
nghi". Nghi chưa sanh khởi, được sanh khởi thế nào, vị ấy rõ biết
như vậy. Nghi đã sanh khởi, được đoạn trừ thế nào, vị ấy rõ biết
như vậy. Và nghi đã được đoạn trừ, tương lai không sanh khởi thế nào,
vị ấy rõ biết như vậy. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là ý thanh tịnh. Các pháp này, này
các Tỷ-kheo, là ba thanh tịnh. 9. Thân và lời thanh tịnh 120.- Toàn Hảo. - Này các Tỷ-kheo, có ba sự toàn hảo. Thế nào là ba? Toàn hảo
về thân, toàn hảo về lời nói, toàn hảo về ý. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là toàn hảo về thân? ... (như
kinh 118) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là toàn hảo về lời nói? ... (như
kinh 118) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là toàn hảo về ý? Ở đây,
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo do đoạn trừ có lậu hoặc ngay trong hiện
tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm
giải thoát, tuệ giải thoát. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là ý
toàn hảo. Này các Tỷ-kheo, các pháp này là ba toàn hảo. Thân và lời toàn hảo, XIII. Phẩm Kusinàra
Tâm thanh tịnh vô lậu
Trong sạch được thanh tịnh
Ðược gọi ác đoạn trừ.
Tâm toàn hảo vô lậu,
Toàn hảo, được toàn hảo
Ðược gọi đoạn tất cả.
121. Tại Kusinàra
Một thời Thế Tôn trú ở Kusinàra, tại khóm rừng Bariharana. Tại đấy,
Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: - Này các Tỷ-kheo. - Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau: - Ở đây, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo sống dựa vào một làng
hay một thị trấn. Rồi người gia chủ hay con người gia chủ đi đến vị ấy
mời mai lại dùng cơm. Nếu muốn, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nhận lời.
Sau khi đêm ấy đã mãn, Tỷ-kheo ấy vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát và
đi đến trú xứ người gia chủ hay con người gia chủ. Sau khi đến, vị
ấy ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi người gia chủ hay con người gia
chủ tự tay đứng mời và làm cho thỏa mãn Tỷ-kheo ấy với các món ăn
thượng vị loại cứng và loại mềm. Vị ấy suy nghĩ: "Thật tốt lành
thay, người gia chủ hay con người gia chủ này tự tay đứng mời và làm thỏa
mãn ta với các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm! "Rồi vị
ấy suy nghĩ như sau: "Mong rằng người gia chủ hay con người gia chủ này
trong tương lai, tự tay đứng mời và làm thỏa mãn ta với các món ăn thượng
vị, loại cứng và loại mềm!". Vị ấy thọ hưởng món ăn khất thực
ấy, tham dính say đắm, đam trước, không thấy sự nguy hại, không thấy được
sự xuất ly. Vị ấy ở đây khởi lên suy tầm về dục, khởi lên sự suy tầm
về sân, khởi lên sự suy tầm về hại. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng
bố thí cho Tỷ-kheo như vậy không có quả lớn. Vì cớ sao? Này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống phóng dật. Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo sống dựa vào một làng
hay một thị trấn. Rồi một gia chủ hay con người gia chủ đi đến vị ấy
mời mai lại dùng cơm. Nếu muốn, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nhận lời.
Sau khi đêm ấy đã mãn, Tỷ-kheo ấy vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát và
đi đến trú xứ người gia chủ hay con người gia chủ. Sau khi đến, vị
ấy ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi người gia chủ hay con người gia
chủ tự tay đứng mời và làm cho thỏa mãn Tỷ-kheo ấy với các món ăn
thượng vị loại cứng và loại mềm. Vị ấy không có suy nghĩ: "Thật
tốt lành thay, người gia chủ hay con người gia chủ này tự tay đứng mời và
làm thỏa mãn ta với các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm!".
Rồi vị ấy không suy nghĩ như sau: "Mong rằng người gia chủ hay con người
gia chủ này trong tương lai, tự tay đứng mời và làm thỏa mãn ta với các món
ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm!". Vị ấy thọ hưởng món ăn
khất thực ấy, không tham dính, không say đắm, không đam trước, thấy được
sự nguy hại, thấy được sự xuất ly. Vị ấy ở đây khởi lên suy tầm về
viễn ly, khởi lên sự suy tầm về vô sân, khởi lên sự suy tầm về vô
hại. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng bố thí cho Tỷ-kheo như vậy có quả
lớn. Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không sống phóng dật. 122.- Tranh Luận - Tại phương hướng nào, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo sống cạnh
tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau với binh khí miệng lưỡi,
thật không thoải mái cho ta, này các Tỷ-kheo, khi nghĩ đến phương
hướng ấy, còn nói gì đến chỗ ấy. Ở đây, Ta đi đến kết
luận như sau: "Thật vậy, các Tỷ-kheo ấy đã từ bỏ ba pháp và đã
làm quá nhiều ba pháp". Ba pháp họ đã từ bỏ là gì? Viễn ly tầm, vô sân tầm, bất hại tầm. Ba
pháp này họ đã từ bỏ. Ba pháp gì họ đã làm quá nhiều? Dục tầm, sân tầm, hại tầm. Ba
pháp này họ đã làm quá nhiều. Tại phương hướng nào, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo sống cạnh
tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau với binh khí miệng lưỡi,
thật không thoải mái cho ta, này các Tỷ-kheo, khi nghĩ đến phương
hướng ấy, còn nói gì đến chỗ ấy. Ở đây, Ta đi đến kết
luận như sau: "Thật vậy, các Tỷ-kheo ấy đã từ bỏ ba pháp này và
đã làm quá nhiều ba pháp này". Tại phương hướng nào, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo sống hòa hợp,
hoan hỷ, không đấu tranh nhau, như sữa và nước lẫn lộn, nhìn nhau với
cặp mắt ái kính, này các Tỷ-kheo, đi đến phương hướng ấy thật
thoải mái cho ta, còn nói gì nghĩ đến phương hướng ấy. Ở đây, Ta
đi đến kết luận như sau: "Thật vậy, các Tỷ-kheo ấy đã từ
bỏ ba pháp này và đã làm quá nhiều ba pháp này". Ba pháp họ đã từ bỏ là gì? Dục tầm, sân tầm, hại tầm. Ba pháp này
họ đã từ bỏ. Ba pháp gì họ đã làm quá nhiều? Viễn ly tầm, vô sân tầm, bất
hại tầm. Tại phương hướng nào, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo sống hòa hợp,
hoan hỷ, không đấu tranh nhau, như sữa và nước lẫn lộn, nhìn nhau với
cặp mắt ái kính, này các Tỷ-kheo, đi đến phương hướng ấy thật
thoải mái cho ta, còn nói gì nghĩ đến phương hướng ấy. Ở đây, Ta
đi đến kết luận như sau: "Thật vậy, các Tỷ-kheo ấy đã từ
bỏ ba pháp này và đã làm quá nhiều ba pháp này". 123.- Ðiện Thờ Gotama
Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàli, tại điện thờ Gotama. Tại đấy,
Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: - Này các Tỷ-kheo. - Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau: - Này các Tỷ-kheo, Ta thuyết pháp với thắng trí, không phải với
không thắng trí. Này các Tỷ-kheo, Ta thuyết pháp với nhân duyên, không
phải với không nhân duyên. Này các Tỷ-kheo, Ta thuyết pháp với thần
thông, không phải với không thần thông. Này các Tỷ-kheo, do vì Ta
thuyết pháp có thắng trí, không phải với không thắng trí; do vì Ta
thuyết pháp có nhân duyên, không phải không có nhân duyên; do vì Ta
thuyết pháp có thần thông, không phải không có thần thông, nên giáo giới
cần phải làm, giảng dạy cần phải làm. Thật là vừa đủ, này các Tỷ-kheo, để các Thầy bằng lòng. Thật là
vừa đủ để các Thầy hân hoan. Thật là vừa đủ để các Thầy hoan
hỷ, Chánh Ðẳng Giác là Thế Tôn! Pháp được Thế Tôn khéo
thuyết, khéo hành trì là chúng Tăng! Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ lời
Thế Tôn giảng. Trong khi lời thuyết giảng này được nói lên, một ngàn
thế giới đều rung động. 124. Bharandu 1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala và đi đến
Kapilavatthu. Họ Thích Mahànàma nghe tin Thế Tôn đã đến
Kapilavatthu. Rồi họ Thích Mahànàma đi đến Thế Tôn; sau khi
đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Thế Tôn nói với họ
Thích Mahànàma đang đứng một bên: - Hãy đi, này Mahànàma và tìm xem ở Kapilavatthu có chỗ nào, tại
chỗ ấy, hôm nay chúng ta sẽ trú lại một đêm. - Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Họ Thích Mahànàma vâng đáp Thế Tôn, đi vào Kapilavatthu, đi khắp
toàn vùng Kapilavatthu và không thấy một chỗ nào, Thế Tôn có thể
trú một đêm. Rồi họ Thích Mahànàma đi đến Thế Tôn, sau khi
đến bạch Thế Tôn: 2. - Bạch Thế Tôn, ở Kapilavatthu không có chỗ nào, tại đây, hôm
nay Thế Tôn có thể trú một đêm. Nhưng có Bharandu, người Kàlàmà
này, trước tu Phạm hạnh với Thế Tôn. Hôm nay, Thế Tôn hãy ở một
đêm tại am thất của vị ấy. - Này Mahànàma, hãy đi và trải một tấm thảm cho ta ở đó. - Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Họ Thích Mahànàma vâng đáp Thế Tôn, đi đến am thất của
Bharandu người Kàlàmà, sau khi đến, trải tấm thảm, đặt nước để
rửa chân, rồi đi đến Thế Tôn, sau khi đến, bạch Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, tấm thảm đã trải, nước để rửa chân đã sẵn
sàng, bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hãy làm gì Ngài nghĩ là phải thời! 3. Rồi Thế Tôn đi đến am thất của Bharandu người Kàlàmà, sau khi
đến, ngồi xuống chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn rửa chân. Rồi họ Thích Mahànàma nghĩ như sau: "Nay không phải thời để
hầu hạ Thế Tôn. Thế Tôn đang mệt mỏi. Ngày mai ta sẽ đến hầu
hạ Thế Tôn". Nghĩ vậy xong bèn đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu
hướng về ngài rồi đi ra. Họ Thích Mahànàma, sau khi đêm ấy đã mãn, đi đến Thế Tôn,
sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn
nói với họ Thích Mahànàma đang ngồi một bên: 4. - Này Mahànàma, có ba vị đạo sư có mặt, xuất hiện ở đời. Thế
nào là ba? Ở đây, này Mahànàma, có vị đạo sư trình bày sự biến tri của
các dục vọng, nhưng không trình bày sự biến tri của các sắc, không
trình bày sự biến tri của các cảm thọ. Ở đây, này Mahànàma, có
vị đạo sư trình bày sự biến tri của các dục vọng, trình bày sự
biến tri của các sắc, nhưng không trình bày sự biến tri của các cảm
thọ. Nhưng ở đây, này Mahànàma, có vị đạo sư trình bày sự biến
tri của các dục vọng, trình bày sự biến tri của các sắc, trình bày
sự biến tri của các cảm thọ. Này Mahànàma, có ba vị đạo sư này có
mặt, xuất hiện ở đời. Trong ba vị này, này Mahànàma, kết luận là
một hay là sai khác? 5. Khi được nói như vậy, Bharandu, người Kàlàmà, nói với họ Thích
Mahànàma: - Này Mahànàma, hãy nói là một. Khi nghe nói vậy, Thế Tôn nói với họ Thích Mahànàma: - Này Mahànàma, hãy nói là khác. Lần thứ hai, Brahandu, người Kàlàmà nói với họ Thích Mahànàma: - Này Mahànàma, hãy nói là một. Lần thứ hai, Thế Tôn nói với họ Thích Mahànàma: - Này Mahànàma, hãy nói là khác. Lần thứ ba Brahandu, người Kàlàmà nói với họ Thích Mahànàma: - Này Mahànàma, hãy nói là một. Lần thứ ba, Thế Tôn nói với họ Thích Mahànàma: - Này Mahànàma, hãy nói là khác. 6. Rồi Bharandu, người Kàlàmà suy nghĩ như sau: "Trước mặt họ
Thích Mahànàma có thế lực lớn này, ta bị Sa-môn Gotama nói trái ngược
cho đến lần thứ ba. Vậy ta hãy rời khỏi Kapilavatthu". Rồi Bharandu người Kàlàmà đi ra khỏi Kapilavatthu, một sự ra đi khỏi
Kapilavatthu, không bao giờ có trở lại nữa. 125.- Hatthaka
1. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetanava, khu vườn của
Anàthapindika. Rồi Thiên tử Hatthaka, sau khi đêm đã gần tàn, với dung sắc thù thắng
chói sáng toàn vùng Jetanava đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, vị ấy
nghĩ: "Ta sẽ đứng thẳng trước Thế Tôn", nhưng vị ấy chìm
xuống, lún xuống, không có thể đứng thẳng; ví như thục tô hay dầu đổ
trên cát, chìm xuống, lún xuống, không thể giữ lại. Cũng vậy, Thiên tử
Hatthaka nghĩ rằng: "Ta sẽ đứng thẳng trước mặt Thế Tôn", nhưng
vị ấy chìm xuống, lún xuống, không thể đứng thẳng. 2. Rồi Thế Tôn nói với Thiên tử Hatthaka: - Này Hatthaka, hãy hóa thành một tự thể thô xấu. - Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Thiên tử Hatthaka vâng đáp Thế Tôn sau khi hóa thành một tự thể
thô xấu, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Thế Tôn nói với Thiên
tử Hatthaka đang đứng một bên: - Này Hatthaka, các pháp được diễn tiến trước kia, khi Ông còn làm
người, các pháp ấy được diễn tiến hiện nay đối với Ông không? - Bạch Thế Tôn, các pháp được diễn tiến trước kia, khi con còn
làm người, các pháp ấy có được diễn tiến hiện nay với con. Và bạch
Thế Tôn, có các pháp không được diễn tiến trước kia, khi con còn
làm người, các pháp ấy có được diễn tiến hiện nay đối với con. Ví
như, bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn sống, được các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ, các vua chúa, các đại thần của vua, các
ngoại đạo, các đệ tử ngoại đạo đoanh vây. Cũng vậy, bạch Thế Tôn,
con sống được các Thiên tử đoanh vây. Từ xa, bạch Thế Tôn, các Thiên
tử đi đến, nghĩ rằng: "Chúng ta hãy đến nghe pháp từ Thiên tử
Hatthaka". Có ba pháp, bạch Thế Tôn, con cảm thấy không bao giờ vừa đủ, con
chết con vẫn còn ân hận luyến tiếc. Thế nào là ba? Bạch Thế Tôn, con cảm thấy không bao giờ vừa đủ được thấy Thế
Tôn, con chết con vẫn còn ân hận luyến tiếc. Bạch Thế Tôn, con
cảm thấy không bao giờ vừa đủ được nghe Diệu pháp, con chết con vẫn
còn ân hận luyến tiếc. Bạch Thế Tôn, con cảm thấy không bao giờ
được phục vụ hầu hạ chúng Tăng, con chết con vẫn còn ân hận luyến
tiếc. Có ba pháp này, bạch Thế Tôn, con cảm thấy không bao giờ vừa đủ. Con
chết con vẫn còn ân hận luyến tiếc. Con thấy không vừa đủ 126.- Thối Nát. 1. Một thời, Thế Tôn trú ở Bàrànasi, tại Isipatana vườn Nai Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Ba-la-nại để
khất thực. Thế Tôn, trong khi đi khất thực tại Goyogapilakkha, gần cây sung,
chỗ cột đàn bò, thấy một Tỷ-kheo hưởng thọ hương vị trống
không, không có Thiền định, hưởng thọ hương vị hướng ngoại của
vật dục, thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, với tâm tán loạn,
với các căn phóng túng. Thấy vậy, Thế Tôn liền nói với vị
Tỷ-kheo ấy: - Này Tỷ-kheo, này Tỷ-kheo! Thầy chớ có làm cho tự ngã trở thành
thối nát. Này Tỷ-kheo, ai làm cho tự ngã thối nát đầy ứ, thoát ra toàn
mùi hôi thối, rồi mong rằng các loài ruồi lằng sẽ không bu đậu, sẽ không
có chiếm cứ, sự kiện như vậy không xảy ra. 2. Tỷ-kheo ấy được Thế Tôn giáo giới với lời giáo giới như vậy,
cảm thấy xúc động mạnh. Rồi Thế Tôn, sau khi đi khất thực ở Ba-la-nại
xong, sau bữa ăn, sau khi đi khất thực trở về, bảo các Tỷ-kheo: - Này các Tỷ-kheo, ở đây, sau khi đắp y vào buổi sáng, Ta cầm lấy y
bát, đi vào Ba-la-nại để khất thực. Này các Tỷ-kheo, trong khi đi
khất thực tại Goyogapilakkha, Ta thấy một Tỷ-kheo hưởng thọ hương vị
trống không, không có Thiền định, hưởng thọ hương vị hướng ngoại
của vật dục, thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, với tâm tán
loạn, với các căn phóng túng. Thấy vậy, Ta liền nói với vị Tỷ-kheo
ấy: "Này Tỷ-kheo, này Tỷ-kheo! Thầy chớ có làm cho tự ngã trở
thành thối nát. Này Tỷ-kheo, ai làm cho tự ngã thối nát đầy ứ, thoát ra
toàn mùi hôi thối, rồi mong rằng: "Các loài ruồi lằng sẽ không bu đậu,
sẽ không có chiếm cứ, sự kiện như vậy không xảy ra"". Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được ta giáo giới với lời giáo giới
này, cảm thấy xúc động mạnh. 3. Khi nghe nói như vậy, một Tỷ-kheo bạch Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, thối nát cái gì, mùi hôi thối cái gì, các loài ruồi
lằng là gì? - Tham cầu, này các Tỷ-kheo, là thối nát; sân là mùi hôi thối, các suy
tầm ác bất thiện là ruồi lằng. Này các Tỷ-kheo, ai làm cho các tự
ngã thối nát, đầy ứ, thoát ra mùi hôi thối, rồi mong rằng: "Các loài
ruồi lằng sẽ không bu đậu, sẽ không chiếm cứ", sự kiện như vậy
không xảy ra. Tai mắt không giữ gìn 127. Anuruddha (1)
1. Rồi Tôn giả Anuruddha đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Anuruddha
bạch Thế Tôn: - Ở đây, bạch Thế Tôn, với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, con
thấy phần lớn các nữ nhân, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi
dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Do đầy đủ với bao nhiêu pháp, bạch
Thế Tôn, các nữ nhân, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ,
ác thú, đọa xứ, địa ngục? 2. - Do đầy đủ ba pháp, này Anuruddha, các nữ nhân, sau khi thân hoại mạng
chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Thế nào là
ba? Ở đây, này Anuruddha, nữ nhân vào buổi sáng sống ở trong nhà, tâm bị
ám ảnh bởi cấu uế của xan lẫn; vào buổi trưa sống ở trong nhà, tâm bị
ám ảnh bởi cấu uế của tật đố; vào buổi chiều sống ở trong nhà, tâm
bị ám ảnh cấu uế của dục tham. Do đầy đủ với ba pháp này, này Anuruddha
các nữ nhân, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú,
đọa xứ, địa ngục. 128.- Anuruddha (2) 1. Rồi Tôn giả Anuruddha đi đến Tôn giả Sàriputta, sau khi đến, nói
lên với Tôn giả Sàriputta những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi
xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Anuruddha nói với Tôn giả
Sàriputta: - Thưa Tôn giả Sàriputta, với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhiên, tôi có
thể nhìn một ngàn thế giới. Phấn chấn là tinh tấn của tôi; không có
thụ động, niệm được an trú, không có thất niệm; tâm được khinh an,
không có cuồng nhiệt; tâm được định tĩnh nhất tâm. Tuy vậy, tâm của
tôi chưa được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có không chấp thủ. 2. Này Hiền giả Anuruddha, Hiền giả suy nghĩ như sau: "Với thiên
nhãn thanh tịnh siêu nhân, tôi có thể nhìn một ngàn thế giới".
Ðây là kiêu mạn của Hiền giả. Này Hiền giả Anuruddha, nếu
Hiền giả suy nghĩ như sau: "Phấn chấn là tinh tấn của tôi; không có
thụ động, niệm được an trú, không có thất niệm; tâm được khinh an,
không có cuồng nhiệt; tâm được định tĩnh nhất tâm", đây là trạo
cử của Hiền giả. Này Hiền giả Anuruddha, Hiền giả suy nghĩ như sau:
"Tuy vậy, tâm của tôi chưa được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không
có không chấp thủ"; đây là hối quá của Hiền giả. Lành thay, nếu
Tôn giả Anuruddha đoạn trừ ba pháp này, không tác ý ba pháp này, hãy chú
tâm vào giới bất tử. 3. Rồi Tôn giả Anuruddha, sau môt thời gian, sau khi đoạn trừ ba pháp này,
sau khi không tác ý ba pháp này, chú tâm vào giới bất tử. Rồi Tôn giả
Anuruddha sống một mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần,
không bao lâu đạt được mục đích mà một thiện nam tử chơn chánh xuất
gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Chính là vô thượng cứu cánh Phạm
hạnh, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, sau khi chứng ngộ, chứng
đạt, vị ấy an trú. Vị ấy chứng tri: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành,
các việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa. Tôn giả
Anuruddha trở thành một vị A-la-hán nữa. 129.- Che Giấu
1. - Này các Tỷ-kheo, có ba pháp này được che giấu khi thực hành,
không có hiển lộ. Thế nào là ba? Sở hành của nữ nhân, này các Tỷ-kheo, được che dấu khi thực hành,
không có hiển lộ. Chú thuật của Bà-la-môn, này các Tỷ-kheo, được
che dấu khi thực hành, không có hiển lộ. Tà kiến, này các Tỷ-kheo,
được che dấu khi thực hành, không có hiển lộ. Ba pháp này, này các
Tỷ-kheo, được che giấu khi thực hành, không có hiển lộ. 2. Này các Tỷ-kheo, ba pháp này chói sáng, được hiển lộ, không có
che giấu. Vành tròn của mặt trăng, này các Tỷ-kheo, chói sáng, được
hiển lộ, không có che giấu. Vành tròn của mặt trời, này các Tỷ-kheo,
chói sáng, được hiển lộ, không có che giấu. Pháp và Luật được Thế
Tôn tuyên thuyết, này các Tỷ-kheo, chói sáng, được hiển lộ,
không có che giấu. Ba pháp này chói sáng, được hiển lộ, không có che
giấu. 130.- Chữ Viết Trên Ðá, Trên Ðất, Trên Nước. 1. - Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.
Thế nào là ba? Hạng người như chữ viết trên đá, hạng người như
chữ viết trên đất, hạng người như chữ viết trên nước. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người như chữ viết trên
đá? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người luôn luôn phẫn nộ và phẫn nộ
của người này tiếp tục lâu dài. Này các Tỷ-kheo, ví như chữ
viết trên đá không bị gió hay nước tẩy xóa mau chóng, được tồn tại
lâu dài. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây có người luôn luôn phẫn nộ
và phẫn nộ của người này tiếp tục lâu dài. Này các Tỷ-kheo, đây
được gọi là hạng người như chữ được viết trên đá. 2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người như chữ viết
trên đất? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người luôn luôn phẫn nộ và phẫn nộ
của người này không tiếp tục lâu dài. Này các Tỷ-kheo, ví như chữ
viết trên đất bị gió hay nước tẩy xóa mau chóng, không có tồn tại lâu
dài. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây có người luôn luôn phẫn nộ và
phẫn nộ của người này không có tiếp tục lâu dài. Này các Tỷ-kheo,
đây được gọi là hạng người như chữ được viết trên đất. 3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người như chữ viết
trên nước? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người dầu bị nói một cách kịch
liệt, dầu có bị nói một cách ác độc, dầu có bị nói một cách thô
lỗ, tuy vậy vẫn dễ dàng hòa hợp, thân thiện, và hoan hỷ. Này các
Tỷ-kheo, ví như chữ viết trên nước được mau chóng biến mất,
không có tồn tại lâu dài. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có người dầu bị
nói một cách kịch liệt, dầu có bị nói một cách ác độc, dầu có bị nói
một cách thô lỗ, tuy vậy vẫn dễ dàng hòa hợp, thân thiện, và hoan
hỷ. Này các Tỷ-kheo, đây được gọi là hạng người như chữ
được viết trên nước. Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.
Khi được gặp Thế Tôn
Ðược phục vụ chúng Tăng
Ðược lắng nghe Diệu pháp
Học tập tăng thượng giới
Thích thú nghe Diệu pháp
Do đối với ba pháp
Cảm thấy không vừa đủ
Thiên tử Hatthaka
Ðược sanh vô phiền thiên
Các căn không phòng hộ
Ruồi lằng sẽ bu đậu
Các tư duy tham ái
Tỷ-kheo làm thối nát
Ðầy ứ những mùi hôi
Xa thay là Niết-bàn!
Chịu phần về bất hạnh
Tại làng hay trong rừng
Tự ngã không an tịnh
Kẻ ngu và không trí
Ði đứng đầy ruồi lằng
Ai đầy đủ giới luật
Thích tịch tịnh trí tuệ
Sống an tịnh hạnh phúc
Mọi ruồi lằng diệt trừ
XIV. Phẩm Kẻ Chiến Sĩ
131.- Kẻ Chiến Sĩ
1. - Ðầy đủ ba đức tánh, này các Tỷ-kheo, một kẻ chiến sĩ xứng
đáng cho vua sử dụng, thuộc sở hữu của vua, là biểu tượng của vua. Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ chiến sĩ là người bắn xa, bắn như
chớp nhoáng và đâm thủng được vật lớn. Ðầy đủ ba đức tánh này, này
các Tỷ-kheo, một kẻ chiến sĩ xứng đáng cho vua sử dụng, thuộc sở hữu
của vua, là biểu tượng của vua. 2. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đầy đủ ba đức tánh, Tỷ-kheo đáng
được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng
được chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời. Thế nào là ba? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là kẻ bắn xa, bắn như chớp
nhoáng và đâm thủng được vật to lớn. 3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo bắn xa? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo phàm có sắc gì, quá khứ, vị
lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay
thắng, hoặc xa hay gần, tất cả sắc, vị ấy thấy như thật với chánh trí
tuệ rằng: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi,
cái này không phải tự ngã của tôi". Phàm có cảm thọ gì, quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại,
hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần, tất cả cảm
thọ, vị ấy thấy như thật với chánh trí tuệ rằng: "Cái này không
phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của
tôi". Phàm có tưởng gì, quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc
thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần, tất cả tưởng, vị ấy
thấy như thật với chánh trí tuệ rằng: "Cái này không phải của tôi,
cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi". Phàm có các hành gì, quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại,
hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần, tất cả các
hành, vị ấy thấy như thật với chánh trí tuệ rằng: "Cái này không
phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của
tôi". Phàm có thức gì, quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc
thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần, tất cả các thức, vị
ấy thấy như thật với chánh trí tuệ rằng: "Cái này không phải của
tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi". 4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo bắn như chớp nhoáng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thật tuệ tri: "Ðây
là khổ", như thật tuệ tri: "Ðây là khổ tập"; như thật
tuệ tri: "Ðây là khổ diệt"; như thật tuệ tri: "Ðây
là con đường đưa đến khổ diệt"; Như vậy, này các Tỷ-kheo,
là Tỷ-kheo bắn như chớp nhoáng. 5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo đâm thủng vật to
lớn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đâm thủng vô minh uẩn to lớn.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo đâm thủng vật to lớn. Ðầy đủ
ba đức tánh này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đáng được cung kính,
đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay,
là ruộng phước vô thượng ở đời. 132 .- Hội Chúng - Này các Tỷ-kheo, có ba hội chúng này. Thế nào là ba? Hội chúng điêu luyện về khoa trương, hội chúng điêu luyện
về chất vấn, hội chúng điêu luyện về tùy theo sở thích. Này các
Tỷ-kheo, có ba hội chúng này. 133.- Bạn
- Này các Tỷ-kheo, có đầy đủ ba đức tánh, một người bạn cần được
thân cận. Thế nào là ba? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo cho điều khó cho, làm
điều khó làm, nhẫn điều khó nhẫn. Này các Tỷ-kheo, đầy đủ ba
đức tánh, một người bạn cần được thân cận. 134.- Xuất Hiện 1. - Này các Tỷ-kheo, dầu các Như Lai có xuất hiện hay không xuất
hiện, vẫn được an trú là pháp trú tánh của giới ấy, là pháp quyết
định tánh, tức là: "Tất cả các hành là vô thường". Vấn đề
này, Như Lai chánh giác tri, chánh giác ngộ, sau khi chánh giác tri, chánh giác
ngộ, Như Lai tuyên bố, thuyết giảng, tuyên thuyết, xác nhận, khai thị,
phân biệt, hiển thị: "Tất cả các hành là vô thường". 2. Này các Tỷ-kheo, dầu các Như Lai có xuất hiện hay không xuất
hiện, vẫn được an trú là pháp trú tánh của giới ấy, là pháp quyết
định tánh, tức là: "Tất cả các hành là khổ". Về vấn đề
này, Như Lai chánh giác tri, chánh giác ngộ, sau khi chánh giác tri, chánh giác
ngộ, Như Lai tuyên bố, thuyết giảng, tuyên thuyết, xác nhận, khai thị,
phân biệt, hiển thị: "Tất cả các hành là khổ". 3. Này các Tỷ-kheo, dầu các Như Lai có xuất hiện hay không xuất
hiện, vẫn được an trú là pháp trú tánh của giới ấy, là pháp quyết
định tánh, tức là: "Tất cả các pháp là vô ngã". Về vấn
đề này, Như Lai chánh giác tri, chánh giác ngộ. Sau khi chánh giác tri,
chánh giác ngộ, Như Lai tuyên bố, thuyết giảng, tuyên thuyết, xác
nhận, khai thị, phân biệt, hiển thị: "Tất cả các pháp là vô
ngã". 135.- Mền Bằng Tóc.
1. - Ví như, này các Tỷ-kheo, trong tất cả loại vải được dệt,
mền được dệt bằng tóc được xem là hạ liệt nhất. Mền được
dệt bằng tóc, này các Tỷ-kheo, khi trời lạnh thì lạnh, khi trời nóng
thì nóng, xấu xí, có mùi hôi, xúc chạm khó chịu. Cũng vậy, này các
Tỷ-kheo, trong các chủ thuyết của các Sa-môn ngoại đạo tuyên bố, chủ
thuyết của Makkhali được xem là hèn hạ nhất. Này các Tỷ-kheo,
Makkhali, kẻ ngu si có thuyết như sau; có kiến như sau :"Không có
nghiệp, không có nghiệp quả, không có tinh tấn". 2. Này các Tỷ-kheo, những ai là các vị A-la-hán trong thời quá khứ, các
vị Chánh Ðẳng Giác, các bậc Thế Tôn; các vị ấy đều chủ trương có
nghiệp, đều chủ trương có nghiệp quả, đều chủ trương có
tinh tấn. Nhưng này các Tỷ-kheo, chỉ có Makkhali, kẻ ngu si nói phản lại
tất cả: "Không có nghiệp, không có nghiệp quả, không có tinh
tấn". 3. Này các Tỷ-kheo, những ai là các vị A-la-hán trong thời vị lai, các
vị Chánh Ðẳng Giác, các bậc Thế Tôn; các vị ấy đều chủ trương có
nghiệp, đều chủ trương có nghiệp quả, đều chủ trương có
tinh tấn. Nhưng này các Tỷ-kheo, chỉ có Makkhali, kẻ ngu si nói phản lại
tất cả: "Không có nghiệp, không có nghiệp quả, không có tinh
tấn". Còn Ta, này các Tỷ-kheo, nay là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác cũng chủ
trương có nghiệp, chủ trương có nghiệp quả, chủ trương có tinh tấn.
Nhưng này các Tỷ-kheo, chỉ có Makkhali, kẻ ngu si nói phản lại tất cả:
"Không có nghiệp, không có nghiệp quả, không có tinh tấn". 5. Ví như, này các Tỷ-kheo, tại cửa sông, có người đặt một cái sập
bẫy cá đem đến bất hạnh, đau khổ, tổn hại, nguy hại cho các loại cá.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Makkhali, kẻ ngu si xuất hiện ở đời như
cái bẫy sập người, đem lại bất hạnh, đau khổ, tổn hại, nguy hại cho
nhiều loài hữu tình. 136.- Thành Tựu Tăng Trưởng - Này các Tỷ-kheo, có ba sự thành tựu này. Thế nào là ba? Thành tựu về tín, thành tựu về giới, thành tựu về tuệ. Này
các Tỷ-kheo, các pháp này là ba sự thành tựu. Này các Tỷ-kheo, có ba sự tăng trưởng. Thế nào là ba? Tăng trưởng về tín, tăng trưởng về giới, tăng trưởng về
tuệ. Này các Tỷ-kheo, ba pháp này là ba tăng trưởng. 137.- Ngựa Chưa Ðược Ðiều Phục
1. - Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng về ba loại ngựa chưa được
điều phục và Ta sẽ giảng về ba hạng người chưa được điều
phục. Hãy lắng nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói. - Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau: - Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ba loại ngựa chưa được điều
phục? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có loại ngựa chưa được điều phục,
có tốc lực, nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối: bề cao, chu vi,
bề ngoài. Nhưng ở đây, này các Tỷ kheo, có loại ngựa chưa được
điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, nhưng không có cân đối. Nhưng ở
đây, này các Tỷ-kheo, có loại ngựa chưa được điều phục, có tốc
lực, có sắc đẹp, và cân đối. Ba loại này, này các Tỷ-kheo, là ba loại
ngựa chưa được điều phục. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ba hạng người chưa được điều
phục? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người chưa được điều phục,
có tốc lực, nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối. Nhưng ở đây, có
hạng người chưa được điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, nhưng không
có cân đối. Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người chưa được
điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, và cân đối. Ba loại này, này các
Tỷ-kheo, là ba hạng người chưa được điều phục. 2. Thế nào, này các Tỷ-kheo, là hạng người chưa được điều
phục, có tốc lực, nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thật rõ biết:
"Ðây là khổ"; như thật rõ biết: "Ðây là khổ tập";
như thật rõ biết: "Ðây là khổ diệt"; như thật rõ biết:
"Ðây là con đường đưa đến khổ diệt". Ðây Ta nói trong
nghĩa có tốc lực. Nhưng khi được hỏi về thắng pháp thắng luật, vị ấy
lại ngập ngừng không có trả lời. Ðây Ta nói trong nghĩa không có sắc đẹp.
Vị ấy không có nhận được các đồ tư dụng, như y áo, đồ ăn khất thực,
sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Ðây Ta nói trong nghĩa không có cân
đối. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người chưa có điều phục, có tốc
lực, nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối. 3. Như thế nào, này các Tỷ-kheo, là hạng người chưa được
điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, nhưng không cân đối? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thật rõ biết:
"Ðây là khổ"; như thật rõ biết: "Ðây là khổ tập";
như thật rõ biết: "Ðây là khổ diệt"; như thật rõ biết:
"Ðây là con đường đưa đến khổ diệt". Ðây Ta nói trong
nghĩa có tốc lực. Nhưng khi được hỏi về thắng pháp thắng luật, vị ấy
trả lời là không có ngập ngừng. Ðây Ta nói trong nghĩa có sắc đẹp. Vị ấy
không có nhận được các đồ tư dụng, như y áo, đồ ăn khất thực, sàng
tọa, dược phẩm trị bệnh. Ðây Ta nói trong nghĩa không có cân đối.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người chưa có điều phục, có tốc lực,
có sắc đẹp, nhưng không có cân đối. 4. Như thế nào, này các Tỷ-kheo, là hạng người chưa được
điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, có cân đối? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thật rõ biết:
"Ðây là khổ"; như thật rõ biết: "Ðây là khổ tập";
như thật rõ biết: "Ðây là khổ diệt"; như thật rõ biết:
"Ðây là con đường đưa đến khổ diệt". Ðây Ta nói trong
nghĩa có tốc lực. Nhưng khi được hỏi về thắng pháp thắng luật, vị ấy
liền trả lời không có ngập ngừng. Ðây Ta nói trong nghĩa có sắc đẹp.
Vị ấy có nhận được các đồ tư dụng, như y áo, đồ ăn khất thực, sàng
tọa, dược phẩm trị bệnh. Ðây Ta nói trong nghĩa có cân đối. Như
vậy, này các Tỷ-kheo, là người chưa có điều phục, có tốc lực, có
sắc đẹp, có cân đối. Những hạng người này, này các Tỷ-kheo, là ba
hạng người chưa có cân đối. 138.- Ngựa Ðược Ðiều Phục 1. - Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng về ba loại ngựa được điều
phục và Ta sẽ giảng về ba hạng người chưa được điều phục. Hãy
lắng nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói. - Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau: - Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ba loại ngựa được điều
phục? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có loại ngựa được điều phục, có
tốc lực, nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối. Nhưng ở đây, này các
Tỷ kheo, có loại ngựa được điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp,
nhưng không có cân đối. Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, có loại ngựa
được điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, và cân đối. Ba loại này,
này các Tỷ-kheo, là ba loại ngựa được điều phục. 2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ba hạng người được điều
phục? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người được điều phục, có
tốc lực, nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối. Nhưng ở đây, này các
Tỷ kheo, có hạng người được điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp,
nhưng không có cân đối. Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người
được điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, và cân đối. Ba loại này,
này các Tỷ-kheo, là ba hạng người được điều phục. 3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người được điều
phục, có tốc lực, người không có sắc đẹp, không có cân đối? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo do đoạn diệt năm hạ phần
kiết sử, được hóa sanh, tại đấy được nhập Niết-bàn, không còn
phải trở lui đời ấy nữa. Ðây Ta nói trong nghĩa có tốc lực. Nhưng khi
được hỏi về thắng pháp thắng luật, vị ấy ngập ngừng, vị ấy không có
trả lời. Ðây Ta nói trong nghĩa không có sắc đẹp. Vị ấy không nhận được
các đồ tư dụng, như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị
bệnh. Ðây Ta nói trong nghĩa không có cân đối. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, là hạng người được điều phục, có tốc lực, nhưng không có
sắc đẹp, không có cân đối. 4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người được điều
phục, có tốc lực, có sắc đẹp, nhưng không có cân đối? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo do đoạn diệt năm hạ phần
kiết sử, được hóa sanh, tại đấy được nhập Niết-bàn, không còn
phải trở lui đời ấy nữa. Ðây Ta nói trong nghĩa có tốc lực. Nhưng khi
được hỏi về thắng pháp thắng luật, vị ấy trả lời không có ngập ngừng.
Ðây Ta nói trong nghĩa có sắc đẹp. Vị ấy không nhận được các đồ tư
dụng, như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh.
Ðây Ta nói trong nghĩa không có cân đối. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là
hạng người được điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, nhưng không có
cân đối. 5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người được điều
phục, có tốc lực, có sắc đẹp, có cân đối? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo do đoạn diệt năm hạ phần
kiết sử, được hóa sanh, tại đấy được nhập Niết-bàn, không còn
phải trở lui đời ấy nữa. Ðây Ta nói trong nghĩa có tốc lực. Nhưng khi
được hỏi về thắng pháp thắng luật, vị ấy trả lời không có ngập ngừng.
Ðây Ta nói trong nghĩa có sắc đẹp. Vị ấy nhận được các đồ tư dụng, như
y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Ðây Ta nói
trong nghĩa có cân đối. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng người được
điều phục, có tốc lực, có sắc đẹp, có cân đối. Những hạng người này, này các Tỷ-kheo, là ba hạng người được
điều phục. 139. Các Loại Ngựa Thuần Thục.
1. - Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết giảng về ba loại ngựa hiền
thiện, thuần thục, ba hạng người hiền thiện, thuần thục. Hãy nghe
và khéo tác ý, Ta sẽ nói. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ba loại ngựa hiền thiện,
thuần thục? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có loại ngựa hiền thiện, thuần
thục, có tốc lực, nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối. Ở đây,
này các Tỷ-kheo, có loại ngựa hiền thiện, thuần thục,
có tốc lực, có sắc đẹp, nhưng không có cân đối. Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có loại ngựa hiền thiện, có tốc lực, có sắc đẹp, có
cân đối. Những loại này, này các Tỷ-kheo, là ba loại ngựa hiền
thiện, thuần thục. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ba hạng người hiền thiện,
thuần thục? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người hiền thiện, thuần
thục, có tốc lực, nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối. Ở đây,
này các Tỷ-kheo, có hạng người hiền thiện, thuần thục, có tốc
lực, có sắc đẹp, nhưng không có cân đối. Ở đây, này các Tỷ-kheo,
có hạng người hiền thiện, thuần thục, có tốc lực, có sắc đẹp, có
cân đối. Những hạng người này, này các Tỷ-kheo, là ba hạng người
hiền thiện, thuần thục. 2. Như thế nào, này các Tỷ-kheo, là hạng người hiền thiện,
thuần thục, có tốc lực, nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo do đoạn diệt các lậu hoặc
ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an
trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Ðây Ta nói trong nghĩa có
tốc lực. Khi được hỏi về thắng pháp và thắng luật, vị ấy ngập ngừng
không trả lời. Ðây Ta nói trong nghĩa không có sắc đẹp. Vị ấy không nhận
được các đồ tư dụng, như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược
phẩm trị bệnh. Ðây Ta nói trong nghĩa không có cân đối. Như vậy, này
các Tỷ-kheo, là hạng người hiền thiện, thần thục, có tốc lực,
nhưng không có sắc đẹp, không có cân đối. 3. Như thế nào, này các Tỷ-kheo, là hạng người hiền thiện,
thuần thục, có tốc lực, có sắc đẹp, nhưng không có cân đối? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo do đoạn diệt các lậu hoặc
ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an
trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Ðây Ta nói trong nghĩa có
tốc lực. Khi được hỏi về thắng pháp và thắng luật, vị ấy liền trả
lời không có ngập ngừng. Ðây Ta nói trong nghĩa có sắc đẹp. Vị ấy không
nhận được các đồ tư dụng, như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa,
dược phẩm trị bệnh. Ðây Ta nói trong nghĩa không có cân đối. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, là hạng người hiền thiện, thần thục, có tốc
lực, có sắc đẹp, nhưng không có cân đối. 4. Như thế nào, này các Tỷ-kheo, là hạng người hiền thiện,
thuần thục, có tốc lực, có sắc đẹp, có cân đối? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo do đoạn diệt các lậu hoặc
ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an
trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Ðây Ta nói trong nghĩa có
tốc lực. Khi được hỏi về thắng pháp và thắng luật, vị ấy trả lời
không ngập ngừng. Ðây Ta nói trong nghĩa có sắc đẹp. Vị ấy nhận được các
đồ tư dụng, như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị
bệnh. Ðây Ta nói trong nghĩa có cân đối. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
là hạng người hiền thiện, thần thục, có tốc lực, có sắc đẹp, có
cân đối. Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, là ba hạng người hiền
thiện, thuần thục. 140- Morannivàpa 1. Một thời, Thế Tôn ở Ràjagaha tại Moranivàpa. Tại đấy, Thế Tôn
gọi các Tỷ-kheo: - Này các Tỷ-kheo. - Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau: - Ðầy đủ ba pháp, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo đạt đến tột
cùng tối hảo, tột cùng an ổn khỏi các khổ ách, tột cùng Phạm hạnh, tột
cùng cứu cánh, tối thượng giữa chư Thiên và loài Người. Thế nào là ba?
Với vô học giới uẩn, với vô học định uẩn, với vô học tuệ
uẩn, đầy đủ ba pháp này, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo là tột cùng
tối hảo, tột cùng an ổn khỏi các khổ ách, tột cùng Phạm hạnh, tột cùng cứu
cánh, bậc tối thượng giữa chư Thiên và loài Người. 2. Ðầy đủ với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo là tột
cùng tối hảo, tột cùng an ổn khỏi các khổ ách, tột cùng Phạm hạnh, tột
cùng cứu cánh, bậc tối thượng giữa chư Thiên và loài Người. Thế nào
là ba? Với thần biến thần thông, với ký thuyết thần thông, với giáo
giới thần thông; đầy đủ với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, vị
Tỷ-kheo là tột cùng tối hảo, tột cùng an ổn khỏi các khổ ách, tột cùng
Phạm hạnh, tột cùng cứu cánh, bậc tối thượng giữa chư Thiên và loài Người 3. Ðầy đủ với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo là tột
cùng tối hảo, tột cùng an ổn khỏi các khổ ách, tột cùng Phạm hạnh, tột
cùng cứu cánh, bậc tối thượng giữa chư Thiên và loài Người. Thế nào
là ba? Với chánh tri kiến, với chánh trí, với chánh giải thoát, đầy đủ với
ba pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo là tột cùng tối hảo, tột
cùng an ổn khỏi các khổ ách, tột cùng Phạm hạnh, tột cùng cứu cánh, bậc
tối thượng giữa chư Thiên và loài Người. XV. Phẩm Cát Tường
141.- Không Thiện
- Ðầy đủ ba pháp này, này các Tỷ-kheo, tương xứng như vậy, bị rơi
vào địa ngục. Thế nào là ba? Với thân làm không thiện, với lời nói không thiện, với ý nghĩ
không thiện, đầy đủ ba pháp này, này các Tỷ-kheo, tương xứng như
vậy, bị rơi vào địa ngục. Ðầy đủ ba pháp, này các Tỷ-kheo, tương xứng như vậy, được sanh lên
cõi trời. Thế nào là ba? Với thân làm thiện, với lời nói thiện, với ý nghĩ thiện,
đầy đủ ba pháp này, này các Tỷ-kheo, tương xứng như vậy, được sanh
lên cõi trời. 142.- Có Phạm Tội - Ðầy đủ ba pháp này, này các Tỷ-kheo, tương xứng như vậy, bị rơi
vào địa ngục. Thế nào là ba? Với thân làm có tội, với lời nói có tội, với ý nghĩ có tội, đầy
đủ ba pháp này, này các Tỷ-kheo, tương xứng như vậy, bị rơi vào địa
ngục. Ðầy đủ ba pháp, này các Tỷ-kheo, tương xứng như vậy, được sanh lên
cõi trời. Thế nào là ba? Với thân làm không có tội, với lời nói không có tội, với ý nghĩ
không có tội, đầy đủ ba pháp này, này các Tỷ-kheo, tương xứng như
vậy, sanh lên cõi Trời. 143.- Không Thăng Bằng (Như kinh trên, chỉ khác là không thăng bằng và thăng bằng) 144.- Bất Tịnh (Như kinh trên, chỉ khác là bất tịnh và tịnh) 145.- Mất Gốc (1)
- Ðầy đủ ba pháp này, này các Tỷ-kheo, kẻ ngu si, không thông minh,
không phải bậc Chân nhân, tự mình xử sự như kẻ mất gốc, bị thương tích,
có phạm tội, bị người trí quở trách, làm nhiều điều vô phước.
Thế nào là ba? Với thân làm không thiện, với lời nói không thiện, với ý nghĩ
không thiện, đầy đủ ba pháp này, này các Tỷ-kheo, kẻ ngu si, không
thông minh, không phải bậc Chân nhân, tự mình xử sự như kẻ mất gốc, bị
thương tích, có phạm tội, bị người trí quở trách, làm nhiều điều
vô phước. Ðầy đủ ba pháp này, này các Tỷ-kheo, bậc Hiền sĩ thông minh, là
bậc Chân nhân, không tự mình xử sự như kẻ mất gốc, không bị thương tích,
không có phạm tội, không bị người trí quở trách, làm nhiều điều
phước lành. Thế nào là ba? Với thân làm thiện, với lời nói thiện, với ý nghĩ thiện,
đầy đủ ba pháp này, này các Tỷ-kheo, bậc Hiền sĩ không thông minh,
là bậc Chân nhân, không tự mình xử sự như kẻ mất gốc, không bị thương
tích, không có phạm tội, không bị người trí quở trách, làm nhiều
điều phước lành. 146.- Mất Gốc (2) (Như kinh trên, chỉ khác là có phạm tội, không phạm tội) ... 147.- Mất Gốc (3) (Như kinh trên, chỉ khác là có thăng bằng, không thăng bằng) ... 148.- Mất Gốc (4) (Như kinh trên, chỉ khác là bất tịnh, và tịnh) ... 149.- Kính Lễ - Này các Tỷ-kheo, có ba loại kính lễ này. Thế nào là ba? Với thân, với lời nói, với ý, các pháp này, này các Tỷ-kheo, là
ba loại kính lễ. 150.- Buổi Sáng Tốt Ðẹp
- Các loại hữu tình nào, này các Tỷ-kheo, vào buổi sáng, thân làm
việc thiện, nói lời nói thiện, ý nghĩ điều thiện, các
loài hữu tình ấy, này các Tỷ-kheo, có một buổi sáng tốt đẹp. Các loại
hữu tình nào, này các Tỷ-kheo, vào buổi trưa, thân làm việc
thiện, nói lời nói thiện, ý nghĩ điều thiện, các loài hữu
tình ấy, này các Tỷ-kheo, có một buổi trưa tốt đẹp. Các loại hữu tình
nào, này các Tỷ-kheo, vào buổi chiều, thân làm việc thiện, nói
lời nói thiện, ý nghĩ điều thiện, các loài hữu tình ấy, này
các Tỷ-kheo, có một buổi chiều tốt đẹp. Vầng sao lành, điều lành XVI. Phẩm Lõa Thể
Rạng đông lành, dậy lành
Sát-na lành, thời lành
Cúng dường bậc Phạm hạnh
Thân nghiệp chánh, lời chánh
Ý nghiệp chánh, nguyện chánh
Làm các điều chơn chánh
Thì được lợi an lạc
Lớn mạnh trong Phật giáo
Hãy không bệnh an lạc
Cùng tất cả bà con.
151.- Ðạo Lộ (1)
1. - Này các Tỷ-kheo, có ba đạo lộ này. Thế nào là ba? Thâm cố
đạo lộ, kịch khổ đạo lộ, trung đạo lộ. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thâm cố đạo lộ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người nói như sau, thấy như sau:
"Không có tội lớn trong các dục vọng" và rơi vào say đắm trong
các dục vọng. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là thâm cố đạo lộ. 2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là kịch khổ đạo lộ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người sống lõa thể, sống phóng
túng, không theo lễ nghi, liếm tay cho sạch, đi khất thực không chịu bước
tới, đi khất thực không chịu đứng lại, không nhận đồ ăn mang đến,
không nhận đồ ăn đặc biệt nấu cho mình, không nhận mời đi ăn, không
nhận đồ ăn từ nơi nồi chảo, không nhận đồ ăn từ ngưỡng cửa, không nhận
đồ ăn đặt giữa những cây gậy, không nhận đồ ăn đặt giữa những cối giã
gạo, không nhận đồ ăn từ hai người đang ăn, không nhận đồ ăn từ người
đàn bà có thai, không nhận đồ ăn từ người đàn bà đang cho con bú, không
nhận đồ ăn từ người đàn bà đang giao cấu, không nhận đồ ăn đi quyên,
không nhận đồ ăn tại chỗ có chó đứng, không nhận đồ ăn từ chỗ
có ruồi bu, không ăn cá, thịt, không uống rượu nấu, rượu men, cho đến
không uống cháo. Vị ấy chỉ nhận ăn tại một nhà, chỉ nhận ăn một miếng,
hay vị ấy chỉ nhận ăn tại hai nhà, chỉ nhận ăn hai miếng. Hay vị ấy chỉ
nhận ăn tại bảy nhà, chỉ nhận ăn bảy miếng.Vị ấy nuôi sống chỉ với
một bát, nuôi sống chỉ với hai bát, nuôi sống chỉ với bảy bát. Vị ấy chỉ
ăn một ngày một bữa, hai ngày một bữa, bảy ngày một bữa. Như vậy, vị ấy
sống theo hạnh tiết chế ăn uống, cho đến nửa tháng chỉ ăn một
lần. Vị ấy ăn rau, ăn cây kê, ăn gạo sống, ăn gạo rừng, ăn cây lau, ăn
bột gạo, ăn bột gạo cháy, ăn bột vừng, ăn cỏ, ăn phân bò, ăn trái cây,
ăn rễ cây trong rừng, ăn trái cây rụng để sống. Vị ấy mang vải gai thô,
mặc vải gai thô lẫn với các vải khác, mặc vải tẩm liệm quăng đi, mặc
vải lượm từ đống rác, dùng vỏ cây làm áo, mặc áo da con sơn dương đen, mặc
áo bện từng mảnh da con sơn dương đen, mặc áo vải từ cỏ Kusa bện lại,
mặc áo bằng vỏ cây, mặc áo bằng tấm gỗ nhỏ, mặc áo bằng tóc bện
lại thành mền, mặc áo bằng đuôi ngựa bện lại, mặc áo bằng lông cú.
Vị ấy là người sống nhổ râu tóc, là người theo tập tục sống nhổ râu tóc,
là người theo hạnh thường đứng, không dùng chỗ ngồi, là người ngồi
chõ hỏ, sống theo hạnh ngồi chõ hỏ một cách tinh tấn, là người dùng gai làm
giường, thường ngủ nằm trên giường gai, sống một đêm tắm ba lần, theo hạnh
xuống nước tắm để gột sạch tội lỗi. Như vậy, dưới nhiều hình
thức, vị ấy sống thực hành các hạnh hành hạ, hành khổ thân thể. Này
các Tỷ-kheo, đây gọi là kịch khổ đạo lộ. 3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là trung đạo lộ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo quán thân trên thân,
nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục, tham ưu ở đời, quán
thọ trên các cảm thọ ... quán tâm trên tâm ... quán pháp trên các
pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp nhục tham ưu ở đời.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là trung đạo lộ. Ba pháp này, này các Tỷ-kheo, là ba đạo lộ. 152.- Ðạo Lộ (2) - Này các Tỷ-kheo, có ba đạo lộ này. Thế nào là ba? thâm cố đạo
lộ, kịch khổ đạo lộ, trung đạo lộ. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thâm cố đạo lộ? (... như kinh
trên, 151.1). Và này các Tỷ-kheo, thế nào là kịch khổ đạo lộ (như kinh trên,
151.2). Và này các Tỷ-kheo, thế nào là trung đạo lộ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo với mục đích khiến cho các ác, bất
thiện pháp từ trước chưa sanh, không cho sanh khởi, khởi lên ý muốn cố gắng,
tinh tấn, sách tâm, trì tâm; với mục đích khiến cho các ác, bất thiện pháp
đã sanh được trừ diệt, khởi lên ý muốn cố gắng, tinh tấn, sách tâm, trì tâm;
với mục đích khiến cho các thiện pháp từ trước chưa sanh, nay cho sanh khởi,
khởi lên ý muốn cố gắng, tinh tấn, sách tâm, trì tâm; với mục đích khiến cho
các thiện pháp đã được sanh có thể duy trì, không có mù mờ, được tăng
trưởng, được quảng đại, được tu tập, được viên mãn, khởi lên ý muốn cố gắng,
tinh tấn, sách tâm, trì tâm; vị ấy tu tập thần túc thông câu hữu với dục
định tinh cần hành, tu tập thần túc thông câu hữu với tinh tấn định tinh cần
hành, tu tập thần túc thông câu hữu với tâm định tinh cần hành, tu tập thần
túc thông câu hữu với tư duy định tinh cần hành; tu tập tín căn, tu tập tấn
căn, tu tập niệm căn, tu tập định căn, tu tập tuệ căn, tu tập tín lực, tu
tập tấn lực, tu tập niệm lực, tu tập định lực, tu tập tuệ lực, tu tập niệm
giác chi, tu tập trạch pháp giác chi, tu tập tinh tấn giác chi, tu tập hỷ
giác chi, tu tập khinh an giác chi, tu tập định giác chi, tu tập xả giác
chi, tu tập chánh tri kiến, tu tập chánh tư duy, tu tập chánh ngữ, tu tập
chánh nghiệp, tu tập chánh mạng, tu tập chánh tinh tấn, tu tập chánh niệm,
tu tập chánh định. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là trung đạo lộ. 153.- Sát Sanh
- Ðầy đủ ba pháp, này các Tỷ-kheo, tương xứng như vậy, bị rơi vào
địa ngục. Thế nào là ba? Tự mình sát sanh, khích lệ người khác sát sanh, tùy hỷ sự sát
sanh. Ðầy đủ ba pháp này, này các Tỷ-kheo, tương xứng như vậy, bị rơi
vào địa ngục. Ðầy đủ ba pháp này, này các Tỷ-kheo, tương xứng như vậy được sanh
thiên giới. Thế nào là ba? Tự mình từ bỏ sát sanh, khích lệ người khác từ bỏ sát sanh, tùy
hỷ sự từ bỏ sát sanh. Ðầy đủ ba pháp này, này các Tỷ-kheo, tương
xứng như vậy, được sanh thiên giới. 154.- Lấy Của Không Cho (Giống như kinh trên, chỉ khác đây là lấy của không cho)... 155.- Tà Hạnh Trong Dục Vọng (Giống như kinh trên, chỉ khác đây là tà hạnh trong dục vọng)... 156-162. Tà ngữ ... (Giống như kinh trên, chỉ khác tuần tự các pháp sau này: nói
láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham, sân, tà
kiến )... 163.- Ðịnh - Ðể thắng tri tham ái, này các Tỷ-kheo, ba pháp cần phải tu tập.
Thế nào là ba? Không định, vô tướng định, vô nguyện định. Ðể thắng tri tham
ái, này các Tỷ-kheo, ba pháp này cần phải tu tập. Này các Tỷ-kheo, để biến tri, biến diệt, đoạn tận,
diệt tận, trừ diệt, ly tham, đoạn diệt, trừ khử, từ bỏ tham, ba
pháp này, này các Tỷ-kheo, cần phải tu tập. Này các Tỷ-kheo, để biến tri, biến diệt, đoạn tận,
diệt tận, trừ diệt, ly tham, đoạn diệt, trừ khử, từ bỏ sân... từ
bỏ si... từ bỏ phẫn nộ... từ bỏ hận... từ bỏ giả dối... từ bỏ não hại...
từ bỏ tật đố... từ bỏ xan lẫn... từ bỏ man trá... từ bỏ phản bội... từ bỏ
ngoan cố... từ bỏ bồng bột nông nổi... từ bỏ mạn, từ bỏ tăng thượng mạn...
từ bỏ kiêu... từ bỏ phóng dật, ba pháp này, này các Tỷ-kheo, cần phải tu
tập. Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các vị Tỷ kheo ấy hoan hỷ tín
thọ lời Thế Tôn dạy.
-ooOoo-
Mục Lục các Chương:
01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | Giới thiệu
Revised: 25-05-2007