BuddhaSasana Home Page
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Tiểu Bộ - Khuddhaka
Nikaya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
-ooOoo-
Mục Lục
Chương Một - Phẩm Rắn (Uragavagga)
1. Kinh Rắn
2. Dhaniya
3. Kinh Con Tê Ngưu Một Sừng
4. Kinh Kasibbàradvàja, Người Cày Ruộng
5. Kinh Cunda
6. Kinh Bại Vong
7. Kinh Kẻ Bần Tiện
8. Kinh Từ Bi
9. Kinh Hemavata
10. Kinh Alavaka
11. Kinh Kinh Thắng Trận
12. Kinh Vị ẩn sĩ
Chương Hai - Tiểu Phẩm
1. Kinh Châu Báu
2. Kinh Hôi Thối
3. Kinh Xấu Hổ
4. Kinh Ðiềm Lành Lớn
5. Kinh Sùciloma
6. Kinh Hành Chánh Pháp
7. Kinh Pháp Bà La Môn
8. Kinh Chiếc Thuyền
9. Kinh Thế Nào Là Giới
10. Kinh Ðứng Dậy
11. Kinh Ràhula
12. Vangiụsa
13. Kinh Chánh Xuất Gia
14. Kinh Dhammika
Chương Ba - Ðại Phẩm
1. Kinh Xuất Gia
2. Kinh Tinh Cần
3. Kinh Khéo Thuyết
4. Kinh Sundarika Bhàradvàja
5. Kinh Màgha
6. Kinh Sabhiya
7. Kinh Sela
8. Kinh Mũi Tên
9. Kinh Vàsettha
10. Kinh Kokàliya
11. Kinh Nàlaka
12. Kinh Hai Pháp Tùy Quán
Chương Bốn - Phẩm Tám
1. Kinh Về Dục
2. Kinh Hang Ðộng Tám Kệ
3. Kinh Sân Hận Tám Kệ
4. Kinh Thanh Tịnh Tám Kệ
5. Kinh Tối Thắng Tám Kệ
6. Kinh Gìa Tám Kệ
7. Kinh Tissametteyya
8. Kinh Pasùra
9. Kinh Màgandiya
10. Kinh Trước Khi Bị Hủy Hoại
11. Kinh Tranh Luận
12. Sự Tập Hợp Nhỏ Bé
13. Những Vấn Ðề To Lớn
14. Kinh Tuvataka
15. Kinh Chấp Trượng
16. Kinh Sàriputta
Chương Năm - Trên Ðường Ðến Bờ Bên Kia
1. Bài Kệ Mở Ðầu
2. Câu Hỏi Của Thanh Niên Ajita
3. Câu Hỏi Của Thanh Niên Tissametteyya
4. Câu Hỏi Của Thanh Niên Punnaka
5. Câu Hỏi Của Thanh Niên Mettagù
6. Câu Hỏi Của Thanh Niên Dhotaka
7. Câu Hỏi Của Thanh Niên Upasiụva
8. Câu Hỏi Của Thanh Niên Nanda
9. Câu Hỏi Của Thanh Niên Hemaka
10. Cau Hỏi Của Thanh Niên Todeyya
11. Câu Hỏi Của Thanh Niên Kappa
12. Câu Hỏi Của Thanh Niên Jatukanniụ
13. Câu Hỏi Của ThanhNiên Bhadràvudha
14. Câu Hỏi Của Thanh Niên Udaya
15. Câu Hỏi Của Thanh Niên Posàla
16. Câu Hỏi Của Thanh Niên Magharàja
17. Câu Hỏi Của Thanh Niên Pingiya
18. Kết Luận
Hoà thượng Thích Minh Châu
Tập Sutta Nipatà là kinh thứ 5, trong 15 kinh thuộc Bộ Khuddaka
Nipàta tức là Tiểu Bộ Kinh. Bộ Tiểu Bộ Kinh gồm có 15 kinh: Khuddakapàtha (Tiểu Tụng Kinh), Theo một phân loại khác, Luật Tạng, Luận Tạng và tất cả kinh
chưa được sưu tập vào 4 Bộ Nikàyà chính, lập thành Tiểu Bộ Kinh. Các
vị thọ trì Trường Bộ Kinh không chấp nhận các kinh Khuddakapàtha,
Cariyàpitaka và Apadàna, và phân loại các kinh khác vào Luận Tạng. Các vị
thọ trì Trung Bộ Kinh không chấp nhận tập Khuddakapàtha, nhưng chấp nhận
các kinh còn lại và phân loại chúng vào Kinh tạng. Theo truyền thống
Miến Ðiện, 4 tập khác được cộng thêm vào, như Milindapanha,
Suttasamgaha, Petakopadesa và Nettipakarana. Kinh Tập này gồm có 5 Chương: Chương I, Phẩm Rắn (Uragavagga) gồm có 12 kinh; Tổng cộng kinh này có 5 Chương và 71 bài kinh. * Ðặc biệt của tập này gồm những kinh có thể được xem
là những kinh xưa nhất, cổ nhất, nghĩa là gần với thời đức Phật nhất.
Chúng tôi dựa trên một số yếu tố để xác nhận tánh chất thật sự
nguyên thủy của Bộ Suttànipàta này, về cả hai mặt Văn cú và Nội dung. Trước hết, Tập Suttanipàta viết bằng một thể văn
Pàli xưa nhất và cổ kính nhất, so sánh với các thể văn chúng ta thường
được gặp trong các Bộ Dìgha Nikàya (Trường Bộ), Majjhima Nikàya (Trung Bộ),
Samyutta Nikàya (Tương Ưng Bộ), Anguttara Nikàya (Tăng Chi Bộ). Nhiều
thể văn gần với văn Vedà (Vệ Ðà) được tìm thấy rất nhiều trong
tập này, nhưng không tìm thấy trong các tập khác, như các danh từ và động
từ số nhiều: sitàse, upatthitàse, caramàse. Các hình thức chủ cách
số nhiều và sử dụng cách số ít của một số danh từ như: vinicchayà
thế cho vinicchayàni, lakkhanà thế cho lakkhanàni,
mantà thế cho mantàya. Ngoài ra, chúng ta thường gặp các
nguyên mẫu Vedà như vippahàtane, sampayàtave, unnametave rất ít khi
được tìm thấy trong các tập kinh khác. Nhiều khi chúng ta thấy một số
danh từ đặc biệt như chữ datthu thế cho disvà, atisìtvà
thế cho atikkamivà, maga thế cho miga, tumo
thế cho so v.v... Những danh từ này rất gần với tiếng Vệ
đà không tìm thấy ở các bộ kinh khác. Như vậy, chứng tỏ Tập Suttanipàta
được viết trong thời kỳ xưa nhất của ngôn ngữ Pàli, chưa được trau
chuốt lưu loát, nhiều âm điệu như ngôn ngữ Pàli sau này. Giá trị cổ
kính của ngôn ngữ Pàli trong tập này đánh giá tánh chất nguyên thủy của
tập Suttanipàta. Một yếu tố nữa giúp chúng ta biết giá trị cổ kính của
tập này là một số kinh của tập này được tìm thấy trong các bộ kinh khác,
và chứng tỏ các kinh khác đã sưu tầm một số kinh hiện có trong bộ
Suttanipàta. Ví dụ kinh Seta (Sn. 548-573) được tìm thấy trong Majjhima Nikàya
M.i. 146; kinh Vàsettha (Sn. 594-656) được tìm thấy cũng trong Majjhima Nikàya
M.ii. 196. * Ngoài ra, tập Suttanipàta có ghi chép lại một vài giai đoạn
trong đời sống tìm đạo và học đạo của Thái tử, những mẫu chuyện
này rất giản dị và mộc mạc, không có xen lẫn thần thông phù phép với những
hình ảnh thật đơn sơ và tươi đẹp. Kinh Xuất gia (Sn. 405-424) diễn tả cuộc gặp gỡ giữa Thái tử với
Vua Bimbisàra, khi Thái tử vừa mới xuất gia. Vua Bimbisàra đứng trên lầu nhìn
xuống thấy Thái tử đang đi khất thực. "Bình Sa Vương thấy Ngài,
Sau khi sai sứ giả đi theo để tìm chỗ Thái tử, Vua
Bimbisàra liền đi đến gặp Thái tử và thưa: "Ngài thanh niên tuổi trẻ,
Và Thái tử dứt khoát trả lời : "Giòng họ thuộc mặt trời
Kinh Tinh Tấn tiếp theo nói lên sự cám dỗ của Ác ma. Khi
Thái tử ngồi dưới cây Bồ đề tu hành, Ác ma đến gần, nói lên
giọng từ mẫn : "Ngươi ốm, không dung sắc
Thái tử trả lời từ tốn, nhưng không kém phần nghị lực : "Bà con ác phóng dật,
Và Thái tử nói lên quyết tâm chiến đấu của mình : "Ôi này Ma Nu Ci!
Và cuối cùng, Ác ma thất bại trước dũng chí của Thái tử và
vừa bỏ đi vừa than: "Bảy năm ta bước theo
Câu chuyện thứ ba nói về ẩn sĩ Asita (A Tư Ðà) đoán
tướng cho Thái tử. Asita thấy Chư thiên vui mừng liền hỏi duyên cớ. Chư
thiên đáp : "Tại xứ Lâm tì ni
Ðạo sư Asita liền vội vàng đi đến Kapilavatthu để
được chiêm ngưỡng Thái tử. "Sau khi thấy Thái tử,
Khi thấy Thái tử chói sáng như mặt trời, khi nghĩ đến viễn
ảnh chánh pháp được tuyên thuyết, nghĩ đến phận mình già yếu, A
Tư Ðà đã phát khóc. "Khi vị ấy nghĩ đến
Trước sự lo lắng của các vị Thích Ca, ẩn sĩ A Tư Ðà giải
tỏa mối lo lắng: "Thấy họ Thích lo lắng
* Yếu tố thứ tư xác nhận sự cổ kính của Kinh Tập này là
một số câu văn, một số ví dụ, một số hình ảnh được diễn tả, đã trở
thành những câu cách ngôn dân gian. Biển lớn thì im lặng. Khe nước thời chảy ồn. Cái gì trống
kêu to. Cái gì đầy thì yên lặng. Những ví dụ này cho chúng ta thấy những
kẻ ít hiểu biết thì hay nói nhiều, những kẻ hiểu biết
nhiều thời thường im lặng như 2 câu kệ sau đây : "Hãy học các giòng nước,
"Cái gì trống kêu to,
Với những kẻ hay nói, họa sẽ tự miệng sanh, như câu
kệ khéo diễn tả dưới đây: "Phàm con người đã sanh,
Hình ảnh sau đây, có vẻ trào phúng, nói đến đàn quạ
thấy hòn đá lầm tưởng là miếng thịt mỡ, đến mổ để tìm cái
gì ngọt, khi mổ xong biết mình lầm liền bay đi. Câu kệ châm
biếm Ác ma đi theo đức Phật để tìm cơ hội hại Ngài, cuối cùng hại
Ngài không được nên bỏ đi. "Như quạ bay xung quanh
"Không tìm được gì ngọt
Một câu kệ nữa nói đến sóng biển không sanh ở giữa
biển đại dương, cho chúng ta biết, kẻ đã giải thoát bao giờ cũng
trầm tĩnh yên lặng, như bài kệ sau đây: "Như chính giữa trung ương
Ðức Phật khuyên các người xuất gia, nên sống riêng một mình
tinh tấn tu hành, như con tê giác chỉ có một sừng, sống một mình trong rừng. "Do thân cận giao thiệp
"Như nai trong núi rừng
* Khi đức Phật thuyết pháp, giới thiệu đạo mới của Ngài,
Ngài phải đương đầu với hai hệ thống xã hội rất hùng mạnh đang ngự
trị trên xã hội Ấn Ðộ bấy giờ, tức là tổ chức Sa môn và tổ chức Bà
la môn. Mỗi hệ thống có một số giáo chủ cầm đầu với hội chúng, với
chủ thuyết, với phương pháp tu hành sai biệt và nhiều khi mâu
thuẫn nhau. Ðức Phật đã mạnh dạn loại bỏ những gì Ngài xem là trở ngại cho
con người giác ngộ và giải thoát, và tự mình vạch ra một con đường mới mẻ
đặc biệt của Ngài. Trước hết, đức Phật không chấp nhận đời sống người tu
hành mà còn đoán số, đoán mộng, bói toán, ăn các đồ ăn do kệ tụng
đem lại : "Ta không có thọ dụng
"Chớ có dùng bùa chú,
Ðức Phật cũng không chấp nhận cầu mong điềm lành. Các chư
Thiên hỏi đức Phật làm thế nào được điềm lành (Mangalam), đức
Phật trả lời bằng 48 hành động tốt, vì chỉ có hành động lành là điềm
lành tối thượng, như kinh Mangala sutta đã khéo diễn tả : "Không thân cận kẻ ngu
"Học nhiều nghề nghiệp giỏi,
"Hiếu dưỡng mẹ và cha
"Bố thí, hành đúng pháp,
"Chấm dứt, từ bỏ ác,
"Kính lễ và hạ mình
Như vậy, đức Phật bác bỏ sự tin tưởng ở điềm lành và
khuyến khích làm các hạnh lành, vì các hạnh lành là điềm lành tối
thượng. Thêm một bước nữa, đức Phật không chấp nhận quan điểm
của các Bà la môn, tin tưởng ở thuyết thọ sanh tử cho mình là giai
cấp đáng tôn trọng nhất, chỉ vì sanh ra từ miệng Phạm thiên và do
vậy các giai cấp Sát đế lỵ, Phệ xá và Thủ đà phải tôn
trọng phục vụ giai cấp Bà la môn. Ðức Phật chống lại quan điểm
thọ sanh này và tuyên bố rằng chỉ do hành động mới đánh giá giá trị
con người, xem con người có đáng tôn trọng hay không. "Bần tiện không vì sanh.
"Không phải do thọ sanh (*)
(*) thọ sanh: đẻ
Bước thêm một bước nữa, đức Phật bác bỏ các luận
thuyết, các triết lý suông, vì chúng không thể đưa con người
đến giải thoát, an tịnh. Có đến 63 luận thuyết thịnh hành trong
thời đức Phật và đức Phật đều bác bỏ chúng, vì chúng chỉ gây thêm
tranh luận : "Các Sa môn tranh luận,
"Ai thiên trú trong kiến,
"Những ai muốn tranh luận
"Không phải từ tri kiến
"Ngươi đã có cuồng tín,
Sau khi bác bỏ mê tín dị đoan, tà kiến, truyền thống,
điềm lành, các luận thuyết, tế thần, tế lửa, v.v... Ðức Phật
tự mình xây dựng con đường giải thoát, giác ngộ của mình. Và tập
Suttanipàta sưu tầm cho chúng ta thấy, những bài kệ diễn tả đức Phật, sai
khác với các ngoại đạo sư hiện tại như thế nào. Trước hết, Ngài là bậc có mắt, cakkhumantu, có pháp nhãn
thấy rõ tất cả : "Ðức Phật thật có mắt
"Bậc có mắt xuất hiện
"Vị ấy Chánh đẳng giác
Ðức Phật là vị có một cái nhìn sáng suốt, một sự hiểu
biết thấu triệt, thấy đau khổ trong các chủ thuyết, không chấp
nhận chủ thuyết nào, tìm đến chân lý, Ngài thấy được sự an
tịnh nội tâm. "Với Ta không có nói!
"Ai đã chặt sanh hữu,
Nếp sống đức Phật giới thiệu là một nếp sống của
vị ẩn sĩ, Mâu ni, một vị đã từ bỏ gia đình sống không gia đình, không có
trú xứ nào. "Thân mật, sinh sợ hãi,
Một vị đã nhiếp phục tham ái và ái dục, không để ái
dục chi phối. "Vị ấy sống viễn ly
Một vị ẩn sĩ không có thiếu thốn, không có tri kiến,
không có tà kiến, từ bỏ các chủ thuyết và không có tranh luận với ai
ở đời. "Chính đối với vị ấy,
"Một số người nói rằng
"Thường trú xả, chánh niệm,
Sống đời sống viễn ly, không tham đắm vật gì, vị ẩn sĩ sống
đời sống vô hữu, không có "Ta"; không có "của Ta", thực
hành hạnh vô ngã một cách tốt đẹp. "Vị ấy không con cái,
"Ai không có vật gì,
"Không nghĩ: "đây của tôi"
Nhờ thực hành vô ngã, vị ẩn sĩ đi đến an tịnh trong nội
tâm: "Hãy giữ được an tịnh
Và đích cuối cùng của con đường tu hành, đối với vị ẩn sĩ
là "Niết bàn tịch tịnh". "Từ bỏ lòng tham dục,
* Một điểm son đáng chú ý là tập này có một số kinh
rất được phổ thông, và được chư Tăng các nước Nam Tông tụng đọc
thường xuyên như kinh Ratanasutta (kinh Châu Báu), kinh Mangalasutta (kinh
Ðiềm Lành) và kinh Mettasutta (kinh Từ Bi). Ngoài ra có nhiều bài kinh
ngắn gọn, ý tứ hàm xúc, tán thán hạnh ẩn sĩ làm nổi bật đặc
điểm của kinh này là tán dương ở đời sống của vị xuất gia tầm đạo,
như kinh Rắn, kinh Vị ẩn sĩ, kinh Ràhula, kinh Dhammika, kinh Nàlaka, kinh
Paràbhida, kinh Tuvataka, kinh Attadanda, kinh Sàriputta. Những kinh này phần lớn
đề cập đến hạnh ẩn sĩ, và như vậy làm nổi bật bối cảnh an tịnh tu
hành mà Kinh Tập này đề cao một cách đặc biệt.
Hòa Thượng Thích Minh Châu
Giới Thiệu Kinh Tập (Sutta Nipata)
Dhammapada (Pháp Cú),
Udàna (Phật Tự Thuyết Kinh, Cảm Hứng Ngữ),
Itivuttaka (Như Thị Ngữ Kinh, Phật Thuyết Như Vậy),
Vimànavatthu (Thiên Cung Sự Kinh),
Petavatthu (Ngạ Quỷ Sự Kinh),
Theragàthà (Trưởng Lão Tăng Kệ),
Therigàthà (Trưởng Lão Ni Kệ),
Jàtaka (Bổn Sanh),
Mahàniddesa (Ðại Nghĩa Tích),
Cùlaniddesa (Tiểu Nghĩa Tích),
Patisambhidàmagga (Vô Ngại Giải Ðạo),
Apadàna (Thí Dụ Kinh),
Buddhavamsa (Phật Sử) và
Cariyàpitaka (Tiểu Nghĩa Kinh, Sở Hạnh Tạng).
Chương II, Tiểu Phẩm gồm có 14 kinh.
Chương III, Ðại Phẩm gồm có 12 kinh;
Chương IV, Phẩm Tám gồm có 16 kinh; và
Chương V, PhẩmTrên Con Ðường Ðến Bờ Bên Kia, gồm có 17 kinh tất
cả.
Ðứng trên sân lầu thượng
Thấy đầy đủ tướng tốt,
Bèn nói lên lời này." (409)
Ngây thơ, bước vào đời,
Cao đẹp được viên mãn,
Thiện sanh giòng Sát lỵ...
Tài sản ta cho ngươi.
Hãy hưởng và trả lời." (420-421)
Sanh tộc là Thích Ca,
Từ bỏ gia tộc ấy,
Thưa vua Ta xuất gia.
Ta không có thiết tha,
Ðối với các loại dục,
Thấy nguy hiểm trong dục,
Bỏ chúng, là an ổn;
Ta sẽ đi, tinh tấn,
Ý Ta được hoan hỷ." (423-424)
Nhà ngươi gần chết rồi,
Cả ngàn phần, ngươi chết;
Chỉ một phần còn sống.
Hãy sống, sống tốt hơn,
Sẽ làm các công đức." (426-427)
Ngươi đến đây làm gì?
Với công đức nhỏ bé,
Ta đâu có cần đến!
Ðây có tín, tinh tấn,
Và Ta có trí tuệ,
Như vậy Ta tinh tấn
Sao ngươi hỏi Ta sống." (431-432)
Ðây là quân đội ngươi,
Ðây quân đội chiến trận
Của giòng họ Kanhà,
Kẻ nhát, không thắng ngươi
Ai thắng ngươi được lạc.
Ta mang cỏ Munja
Vững thay, đáng đời sống
Thà Ta chết chiến trận
Tốt hơn sống thất bại." (439-440)
Chân theo chân Thế Tôn,
Không tìm được lỗi lầm
Nói Thế Tôn chánh niệm,
Như quạ bay xung quanh,
Hòn đá như đống mỡ."
"Có thể có gì mềm?
Có thể có gì ngọt?
Không tìm được vị ngọt
Quạ từ đó bay đi!
Như quạ mổ hòn đá
Ta bỏ Gotama." (446-448)
Trong làng các Thích Ca,
Có sanh vị Bồ tát
Báu tối thắng, vô tỷ.
Ngài sanh, đem an lạc
Hạnh phúc cho loài người,
Do vậy chúng tôi mừng
Tâm vô cùng hoan hỷ.
Ngài, chúng sanh tối thượng
Ngài, loài người tối thắng,
Bậc Ngưu Vương loài người
Thượng Thủ mọi sanh loại.
Ngài sẽ chuyển Pháp luân,
Trong khu rừng ẩn sĩ,
Rống tiếng rống sư tử,
Hùng mạnh, nhiếp loài thú." (683-684)
Chói sáng như lửa ngọn,
Thanh tịnh như Sao ngưu
Vận hành giữa hư không
Sáng chiếu như mặt trời
Giữa trời thu mây tịnh
Ẩn sĩ tâm hoan hỷ
Ðược hỷ lạc rộng lớn." (687)
Số mệnh của tự mình,
Số mệnh không tốt đẹp,
Vị ấy rơi nước mắt"... (691)
Vị ẩn sĩ trả lời:
Ta không thấy bất hạnh
Xảy đến cho Thái tử
Ðối với (Thái tử) ấy,
Chướng ngại sẽ không có.
Vị này không hạ liệt,
Chớ có lo lắng gì.
Thái tử này sẽ chứng
Tối thượng quả Bồ đề,
Sẽ chuyển bánh xe Pháp
Thấy thanh tịnh tối thắng
Vì lòng từ thương xót,
Vì hạnh phúc nhiều người,
Và đời sống Phạm hạnh
Ðược truyền bá rộng rãi
Thọ mạng ta ở đời
Còn lại không bao nhiêu
Ðến giữa đời sống Ngài,
Ta sẽ bị mệnh chung.
Ta sẽ không nghe Pháp
Bậc tinh cần vô tỷ
Do vậy ta sầu não,
Bất hạnh và khổ đau." (692-694)
Từ khe núi vực sâu
Nước khe núi chảy ồn
Biển lớn đầy im lặng." (720)
Cái gì đầy, im lặng,
Ngu như ghè vơi nước
Bậc Trí như ao đầy." (721)
Sanh với búa trong miệng,
Kẻ ngu khi nói bậy,
Tự chặt đứt lấy mình." (657)
Hòn đá như đống mỡ.
"Có thể có gì mềm?"
"Có thể có gì ngọt?" (447)
Quạ từ đó bay đi
Như quạ mổ hòn đá
Ta bỏ Gotama." (448)
Của biển cả đại dương,
Sóng biển không có sanh,
Biển hoàn toàn đứng lặng
Cũng vậy, vị tỷ kheo,
Ðứng lặng không giao động
Không có sự bồng bột
Náo nức ở giữa đời." (920)
Thân ái từ đấy sanh,
Tùy thuận theo thân ái,
Khổ này có thể sanh.
Nhìn thấy những nguy hại,
Do thân ái sanh khởi,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng". (36)
Không gì bị trói buộc,
Tự đi chỗ nó muốn
Ðể tìm kiếm thức ăn,
Như các bậc hiền trí
Thấy tự do giải thoát,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng." (37)
Ðồ ăn từ kệ tụng,
Hỡi này Bà la môn,
Ðây không phải là pháp,
Của những người có trí.
Chư Phật đều từ bỏ,
Ca hát các bài kệ." (480)
Anthava Vedà,
Chớ tổ chức đoán mộng,
Coi tướng và xem sao,
Mong rằng đệ tử Ta,
Không đoán tiếng thú kêu
Không chữa bệnh không sanh,
Không hành nghề lang băm." (927)
Như gần gũi bậc trí,
Ðảnh lễ người đáng lễ
Là điềm lành tối thượng." (259)
Khéo huấn luyện, học tập
Nói những lời khéo nói.
Là điềm lành tối thượng." (261)
Nuôi dưỡng vợ và con
Làm nghề không rắc rối,
Là điềm lành tối thượng." (262)
Săn sóc các bà con,
Làm nghiệp, không lỗi lầm,
Là điềm lành tối thượng." (263)
Chế ngự đam mê rượu,
Trong pháp không phóng dật,
Là điềm lành tối thượng." (264)
Biết đủ và biết ơn
Ðúng thời, nghe chánh pháp
Là điềm lành tối thượng." (265)
Phạm chí không vì sanh,
Do hành, thành bần tiện,
Do hành thành Phạm chí." (136)
Ðược gọi Bà la môn!
Không phải do thọ sanh,
Gọi phi Bà la môn
Chính do sự hành động,
Ðược gọi Bà la môn
Chính do sự hành động
Gọi phi Bà la môn." (Trung Bộ Kinh)
Có đến 63 thuyết,
Các ngôn thuyết văn tự
Y đây, các tưởng khởi." (538)
Xem kiến ấy tối thắng
Ở đời đặt kiến ấy
Vào địa vị tối thượng,
Người ấy nói tất cả,
Người khác là hạ liệt,
Do vậy không vượt khỏi
Sự tranh luận ở đời." (796)
Sau khi vào hội chúng,
Chúng công kích lẫn nhau,
Chúng gọi nhau là ngu
Cái làm nó cống cao
Cũng là đất hại nó,
Tuy vậy nó vẫn nói
Lời cống cao kiêu mạn." (830)
Từ truyết thống, từ trí
Không phải từ giới cấm,
Thanh tịnh được đem đến." (839)
Không đưa đến thanh tịnh
Vì đã có thiên vị,
Với tri kiến tác thành." (910)
Ðối với tất cả pháp. (161)
Ðời này và thiên giới
Quét sạch mọi u ám,
Ðộc cư, chứng an lạc." (956)
Hỡi này Bà la môn,
Bậc có mắt thấy được
Trong tất cả các pháp." (992)
Ta nói như thế này,
Sau khi quan sát kỹ
Sự chấp thủ trong pháp
Trong tất cả tri kiến.
Ta không có chấp trước,
Ta thấy sự cất chứa
Tịch tịnh trong nội tâm." (837)
Không còn gieo giống thêm,
Sanh hữu đã đoạn tận,
Không còn muốn thọ sanh,
Ðược gọi là ẩn sĩ
Một mình đi im lặng,
Bậc ẩn sĩ đã thấy
Con đường tịch tịnh ấy." (208)
Trú xứ sanh bụi bậm
Không trú xứ, không thân
Hình ảnh bậc ẩn sĩ." (207)
Mọi sự việc ở đời...
Như hoa sen có gai,
Sinh ra ở trong nước,
Không bị nước và bùn
Mắc dính và thân ướt,
Như vậy bậc ẩn sĩ
Nói an tịnh, không tham,
Không bị dục và đời,
Mắc dính và thấm ướt." (845)
Ngã, phi ngã đều không
Vị ấy đã tẩy sạch,
Mọi tà kiến ở đời." (787)
Ðây mới là sự thật,
Chứng nói các người khác,
Là trống không giả dối.
Do chấp thủ như vậy,
Chúng tranh luận đấu tranh,
Vì sao bậc Sa môn.
Không cùng nói một lời." (88)
Không nghĩ mình bằng người.
Hơn người thua kém người
Vị ấy không bồng bột." (855)
Thú vật, ruộng, tài sản,
Không có gì nắm lấy,
Là ta, là không ta." (858)
Không có, không sầu muộn,
Không đi đến các pháp
Vị ấy gọi an tịnh." (861)
Không nghĩ: "đây của người"
Người không có tự ngã
Không sầu gì không ngã." (951)
Về phía từ nội tâm,
Ðã không có tự ngã,
Từ đâu có vô ngã!" (919)
Ðây tỷ kheo có tuệ,
Chứng bất tử tịch tịnh,
Niết bàn giới, thường trú!" (204)
Thiền viện Vạn Hạnh
Sài Gòn, 1978 (PL. 2522)
[Mục Lục Tiểu Bộ] [Trở về trang Thư Mục]
Revised: 21-02-2004