-ooOoo-
1. Dẫn nhập
Kinh điển trích dẫn ở đây được trình
bày trong 5 phần. Phần Một, Khai mở Pháp nhãn,
đề cập đến kinh nghiệm thực chứng quả Dự lưu,
và kết thúc bằng một đoạn kinh về tri
kiến của bậc Dự lưu so với bận A-la-hán.
Phần Hai đề cập đến 3 kiết sử đầu tiên
trói buộc chúng ta trong vòng luân hồi: thân kiến, hoài nghi, và giới cấm
thủ. Các kiết sử nầy được đoạn diệt khi khai
mở Pháp nhãn.
Phần Ba đề cập đến các đặc tính của của vị
đã đắc quả Dự lưu, sau khi chặt đứt 3
kiết sử đầu tiên. Phần nầy tập trung vào 3 danh sách liệt kê bốn
yếu tố của quả Dự lưu, mà chúng ta không nên lầm lộn với bốn chi phần tạo
điều kiện đưa đến quả Dự lưu như đã
trình bày trong phần trích dẫn kinh điển lúc
trước.
Phần Bốn, Kết quả, đề cập đến các thành
quả mà bậc Dự lưu có được trong đời này
và các đời sau.
Phần Năm là Lời Khuyên, trích dẫn
lời dạy của Đức Phật trước khi Ngài
tịch diệt. Bài kinh ghi chép các lời khuyên này – Kinh số 16 của Trường
Bộ – cũng ghi nhận rằng các vị Tỳ-khưu hiện diện trong giờ phút
đó đều đã
đạt các quả Thánh, thấp nhất là quả Dự lưu. Vì thế, sự kiện
Đức Phật nhấn mạnh đến sự nỗ lực tinh tấn
trong lời dạy cuối cùng cho thấy rằng ngay cả các vị
đã đắc Dự
lưu cũng vẫn phải tinh tấn tu tập, không được dễ duôi.
* * *
Chữ "lưu" (dòng sông) trong từ "Dự lưu" là
để ám chỉ nơi mà tất cả tám chi phần
của Bát Chánh Đạo cùng hội nhập lại.
– "Dòng sông, dòng sông", này Sāriputta,
được nói đến như vậy. Này Sāriputta, thế nào là dòng sông?
– Bạch Thế Tôn, đây là dòng sông
Thánh đạo Tám ngành. Tức là chánh tri
kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn,
chánh niệm, chánh định.
– Lành thay, lành thay, này Sāriputta! Này Sāriputta,
đây là dòng sông Thánh
đạo Tám ngành, tức là chánh tri kiến,
chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh
niệm, chánh định.
– "Dự lưu, Dự lưu", này Sāriputta, được
gọi là như vậy. Này Sāriputta, thế nào là Dự lưu?
– Bạch Thế Tôn, ai thành tựu Thánh đạo
Tám ngành này, người ấy gọi là Dự lưu, vị Tôn giả với tên như vậy,
với họ như vậy.
– Lành thay, lành thay, này Sāriputta! Này Sāriputta, ai thành tựu
Thánh đạo Tám ngành này, người ấy
được gọi là bậc Dự lưu, vị Tôn giả với
tên như thế này, với họ như thế này.
[Tương Ưng 55.5]
Sự hội nhập của tám chi phần này gọi là "dòng lưu" vì nó chắc chắn
đưa đến 2 điều, cũng như các nhánh sông nhỏ
sẽ hội nhập vào một con sông chính rồi sẽ chảy ra biển: 1) tức
thời, dòng lưu đó đưa đến việc khai mở Pháp
nhãn, đó là nhận thức
được sự giác ngộ đầu tiên; 2) sau
đó, với thời gian - tối đa là 7 kiếp
luân hồi, dòng lưu sẽ đưa vị ấy đến giải
thoát tối hậu.
-ooOoo-
2. Khai mở Pháp nhãn
Pháp nhãn nhìn thấy gì khi sinh khởi?
... Rồi đại đức Assaji đã nói với
du sĩ Sārīputta lời dạy này thuộc về
Giáo Pháp:
Pháp sanh lên do nhân
Như Lai giảng nhân ấy,
Nhân diệt thời Pháp diệt,
Đại Sa-môn nói vậy.
Rồi khi đã nghe
được lời dạy này thuộc về Giáo Pháp
thì Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ
đã sanh khởi
đến du sĩ Sārīputta: "Điều gì có bản
tánh sanh lên thì toàn bộ điều ấy đều có bản
tánh hoại diệt."
[Đại phẩm, I.23.5]
Đoạn kinh giảng dưới đây - được lập lại nhiều lần trong Kinh tạng -
thoạt xem qua có vẻ không có g ì thâm sâu. Tuy nhiên, kinh
văn nêu rõ là tri kiến không phải
chỉ là lòng tin hay sự suy tư mà phải do sự tự thực chứng. Lòng tin và
suy tư có thể giúp đưa đến tri kiến - và
một cấp độ nào
đó của lòng tín thành và sự hiểu
biết có thể bảo đảm rằng một ngày
nào đó trong kiếp này, tri kiến của
ta sẽ khởi hiện - nhưng chỉ có sự thực chứng, biết rõ như vậy, thấy rõ
như vậy, thì mới tạo ra một sự thay đổi rốt
ráo trong cuộc đời của ta và trong sự tương quan của ta với Chánh
Pháp.
– Này các Tỳ-khưu, mắt là vô thường, biến hoại,
đổi khác. Tai là vô thường, biến hoại,
đổi khác. Mũi là vô thường, biến hoại,
đổi khác. Lưỡi là vô thường, biến
hoại, đổi khác. Thân là vô thường,
biến hoại, đổi khác. Ý là vô thường,
biến hoại, đổi khác.
Này các Tỳ-khưu, sắc là vô thường, biến hoại,
đổi khác. Thanh ... Hương ... Vị ... Xúc ...
Pháp là vô thường, biến hoại, đổi
khác.
Này các Tỳ-khưu, nhãn thức là vô thường, biến hoại,
đổi khác. Nhĩ thức ... Tỷ thức ... Thiệt thức
... Thân thức ... Ý thức là vô thường, biến hoại,
đổi khác.
Này các Tỳ-khưu, nhãn xúc là vô thường, biến hoại,
đổi khác. Nhĩ xúc ... Tỷ xúc ... Thiệt xúc
... Thân xúc ... Ý xúc là vô thường, biến hoại,
đổi khác.
Này các Tỳ-khưu, thọ do nhãn xúc sanh là vô thường, biến hoại,
đổi khác. Thọ do nhĩ xúc sanh ... Thọ do tỷ
xúc sanh ... Thọ do thiệt xúc sanh ... Thọ do thân xúc sanh ... Thọ do ý
xúc sanh là vô thường, biến hoại, đổi
khác.
Này các Tỳ-khưu, sắc tưởng là vô thường, biến hoại,
đổi khác. Thanh tưởng ... Hương tưởng ... Vị
tưởng ... Xúc tưởng ... Pháp tưởng là vô thường, biến hoại,
đổi khác.
Này các Tỳ-khưu, sắc tư là vô thường, biến hoại,
đổi khác. Thanh tư ... Hương tư ... Vị tư ...
Xúc tư ... Pháp tư là vô thường, biến hoại,
đổi khác.
Này các Tỳ-khưu, sắc ái là vô thường, biến hoại,
đổi khác. Thanh ái ... Hương ái ... Vị ái ...
Xúc ái ... Pháp ái là vô thường, biến hoại,
đổi khác.
Này các Tỳ-khưu, địa giới là vô
thường, biến hoại, đổi khác. Thủy giới ...
Hỏa giới ... Phong giới ... Không giới ... Thức giới là vô thường,
biến hoại, đổi khác.
Này các Tỳ-khưu, sắc uẩn là vô thường, biến hoại,
đổi khác. Thọ uẩn ... Tưởng uẩn ... Hành
uẩn ... Thức uẩn là vô thường, biến hoại, đổi
khác.
Này các Tỳ-khưu, ai có lòng tin, có tín giải
đối với những pháp này; vị ấy
được gọi là Tùy tín hành,
đã nhập Chánh tánh,
đã nhập Chân nhân
địa, đã vượt phàm phu
địa. Vị ấy không có thể làm những hành
động gì, do làm hành
động ấy phải sanh vào
địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ; một vị
không có thể mệnh chung mà không chứng quả Dự lưu.
Với ai, này các Tỳ-khưu, kham nhẫn một ít Thiền quán, như vậy với trí
tuệ về những pháp này; vị ấy được gọi là
Tùy pháp hành, đã nhập Chánh tánh,
đã nhập Chân nhân
địa, đã vượt phàm phu
địa. Vị ấy không có thể làm những hành
động gì, do làm hành
động ấy, phải sanh vào
địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ; một vị
không có thể mệnh chung mà không chứng quả Dự lưu.
Với ai, này các Tỳ-khưu, đối với những
pháp này, biết rõ như vậy, thấy rõ như vậy, vị ấy
được gọi là
đã chứng Dự lưu, không còn bị thối
đọa, quyết chắc hướng đến giác ngộ.
[Tương Ưng 25.1-10]
Chính tại chỗ ngồi ấy, pháp nhãn xa trần ly cấu khởi lên với gia chủ
Upali: "Phàm pháp gì được khởi lên,
tất cả pháp ấy đều bị tiêu diệt".
Rồi gia chủ Upali, thấy pháp, chứng pháp, ngộ pháp, thể nhập vào pháp,
nghi ngờ tiêu trừ, do dự diệt tận, đạt được
vô sở úy, không y cứ người khác đối với các pháp của bậc Ðạo sư.
[Trung Bộ 56]
Một phần của tiến trình đưa đến sinh
khởi Pháp nhãn như một sự chứng nghiệm mạnh mẽ là do trực nhận
được rằng "Phàm pháp gì
được khởi lên, tất cả pháp ấy
đều bị tiêu diệt", tiếp theo là một
tri kiến thoáng qua về cái đối nghịch với
"các pháp gì được khởi lên",
và đó là thấy
được sự vô vi, bất tử.
... Sau đó, du sĩ Sārīputta đã
đi đến gặp du sĩ Moggallāna. Du sĩ Moggallāna
đã nhìn thấy du sĩ Sārīputta đang từ đàng
xa đi lại, sau khi nhìn thấy
đã nói với du sĩ Sārīputta
điều này:
- Này bạn, các giác quan của bạn thật thanh tịnh, màu sắc cơ thể thật
trong sáng và thuần khiết. Có đúng là
bạn đã chứng
đạt sự bất tử không?
- Này bạn, đúng vậy. Tôi đã chứng
đạt sự bất tử.
[Đại phẩm, I.23.5]
Sự liên hệ giữa bài kệ của Trưởng lão Assaji về nhân duyên và sự sinh
khởi Pháp nhãn của ngài Xá-lợi -phất cho thấy rằng thực chứng qua Pháp
nhãn không phải chỉ có tri kiến về bản tánh vô thường,
đổi thay nhanh chóng của kinh nghiệm hằng
ngày. Thêm vào đó, Pháp nhãn
giúp đưa đến thực chứng bản chất hữu vi, tùy
thuộc duyên sinh của các kinh nghiệm đó.
Các đoạn kinh văn khác, mô tả chi tiết về tri kiến của vị Dự Lưu - người
đã nhập dòng Thánh giải thoát - đã
minh chứng điều này. Pháp nhãn giúp
thấy rõ mọi pháp khởi sinh và tàn diệt theo lý nhân duyên, trong
đó, hệ quả của mọi tác động có thể được cảm
nhận tức thời hay trải qua một thời gian sau.
Thế nào là Thánh lý được khéo thấy, khéo
thể nhập với trí tuệ?
- Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh
đệ tử quán sát như sau:
"Do cái này có, cái kia có. Do cái này sanh, cái kia sanh. Do cái này
không có, cái kia không có. Do cái này diệt, cái kia diệt.
Tức là do duyên vô minh, có các hành. Do duyên các hành có thức. Do
duyên thức có danh sắc. Do duyên danh sắc có sáu nhập. Do duyên sáu nhập
có xúc. Do duyên xúc có thọ. Do duyên thọ có ái. Do duyên ái có thủ. Do
duyên thủ có hữu. Do duyên hữu có sanh. Do duyên sanh có già, chết, sầu,
bi, khổ, ưu não. Như vậy, là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
Do vô minh diệt không có dư tàn, nên các hành diệt. Do các hành diệt
nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu
nhập diệt. Do sáu nhập diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Do thọ
diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do
hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu não
diệt. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này diệt.
Ðây là Thánh lý được khéo thấy và
khéo thể nhập với trí tuệ."
[Tăng Chi 10.92]
Do vì, này các Tỳ-khưu, vị Thánh đệ tử
khéo thấy như chân với chánh trí tuệ, lý duyên khởi này và các pháp
duyên sanh này, nên chắc chắn vị ấy không chạy theo quá khứ với những câu
hỏi: "Ta có mặt trong quá khứ? Ta không có mặt không quá khứ? Ta là gì
trong quá khứ? Ta có mặt như thế nào trong quá khứ? Hay trước
đó ta đã là gì, và tiếp theo, ta là
gì?"
Vị ấy cũng không chạy theo tương lai với những câu hỏi: "Ta có mặt
trong tương lai? Ta không có mặt trong tương lai? Ta sẽ làm gì trong tương
lai? Ta có mặt như thế nào trong tương lai? Hay trước ta là gì, và nay
trong tương lai ta sẽ là gì?"
Vị ấy cũng không khởi lên những nghi ngờ về tự mình trong hiện tại như
sau: "Ta hiện có mặt? Ta hiện không có mặt? Ta hiện là gì? Ta hiện có mặt
như thế nào?"
Vì sao? Vì rằng vị Thánh đệ tử, này
các Tỳ-khưu, đã khéo thấy như chân với
chánh trí tuệ, lý duyên khởi này và các pháp duyên sanh này.
[Tương Ưng 12.20]
Tri kiến của bậc Dự Lưu về chân đế Nhân
Duyên và về sự Bất Tử, dù chính xác, nhưng không thâm sâu như tri
kiến của bậc A-la-hán - vị đã
đạt đến mức độ tột cùng của giác
ngộ. Sự khác biệt này được giải thích trong
ví dụ dưới đây.
(...) Tôn giả Nārada nói với Tôn
giả Sàvittha:
– Này Hiền giả, "Hữu diệt là Niết-bàn", tôi khéo thấy như chân, nhờ
chánh trí tuệ. Nhưng tôi không phải là vị A-la-hán
đã đoạn
tận các lậu hoặc.
Ví như trên một con đường hoang vắng có
một giếng nước. Tại đấy không có dây, không có gàu nước. Rồi có
người đi đến, bị nóng bức bách, bị nóng áp
đảo, mệt mỏi, run rẩy, khát nước. Người ấy ngó xuống giếng và biết
được: "Giếng này có nước", nhưng
đứng chịu, thân thể không chạm nước.
Cũng vậy, này Hiền giả, "Hữu diệt là Niết-bàn", tôi khéo thấy như chân,
nhờ chánh trí tuệ, nhưng tôi không phải là vị A-la-hán
đã đoạn
tận các lậu hoặc.
[Tương Ưng 12.8]
-ooOoo-
3. Ba kiết sử
đầu tiên
Bốn cấp độ giác ngộ được giải thích qua
tiến trình cắt bỏ 10 kiết sử trói buộc chúng ta trong vòng sinh
tử luân hồi.
- Này các Tỳ-khưu, có mười kiết sử này. Thế nào là mười? Năm
hạ phần kiết sử, năm thượng phần kiết sử.
Thế nào là năm hạ phần kiết sử? Thân kiến,
hoài nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân. Ðây là năm
hạ phần kiết sử.
Thế nào là năm thượng phần kiết sử? Sắc
ái, vô sắc ái, mạn, trạo cử, vô minh. Ðây là năm
thượng phần kiết sử.
Này các Tỳ-khưu, đây là mười kiết
sử.
[Tăng Chi 10.13]
Có những Tỳ-khưu là những vị A-la-hán, các lậu hoặc
đã đoạn
trừ, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm
đã làm, gánh nặng
đã đặt
xuống, mục đích đã thành đạt, hữu kiết
sử đã được đoạn tận, được giải thoát
nhờ chánh trí.
Có những Tỳ-khưu là những vị Bất lai, đã
đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh,
từ ở đấy được nhập Niết-bàn, không còn phải trở lại
đời này nữa.
Có những Tỳ-khưu là những vị Nhất lai, đã
đoạn trừ ba kiết sử, đã làm cho muội
lược tham, sân, si, sau khi sanh vào đời này
một lần nữa, sẽ đoạn tận khổ đau.
Có những Tỳ-khưu là những vị Dự lưu, đã
đoạn trừ ba kiết sử, không còn
đọa vào ác
đạo, chắc chắn sẽ được giác ngộ.
[Trung bộ, 118]
Đối với bậc Dự Lưu, sinh khởi Pháp Nh ãn - với tuệ tri về các
nguyên lý nhân duyên của nguồn gốc của Khổ và Diệt khổ - là
để cắt bỏ 3 kiết sử đầu tiên.
Vị ấy như lý tác ý: "Ðây là khổ", như lý tác ý: "Ðây là khổ tập", như
lý tác ý: "Ðây là khổ diệt", như lý tác ý: "Ðây là con
đường đưa đến khổ diệt". Nhờ vị ấy tác ý như
vậy, ba kiết sử được trừ diệt: thân kiến, nghi, giới cấm thủ.
[Trung Bộ 2]
(Tỳ-khưu-ni Dhammadinna giảng cho nam cư sĩ Visakha)
– Thưa Ni sư, thế nào là thân kiến?
– Ở đây, Hiền giả Visakha, kẻ vô văn phàm
phu không đến yết kiến các bậc Thánh, không
thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không đến
yết kiến các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không
tu tập pháp các bậc Chân nhân, xem sắc là tự ngã hay xem tự ngã là
có sắc, hay xem sắc là trong tự ngã hay xem tự ngã là trong sắc; xem thọ
là tự ngã, hay xem tự ngã là có thọ, hay xem thọ là trong tự ngã, hay xem
tự ngã là trong thọ; xem tưởng là tự ngã, hay xem tự ngã là có tưởng, hay
xem tưởng là trong tự ngã, hay xem tự ngã là trong tưởng; xem hành là tự
ngã, xem tự ngã là có hành, hay xem hành là trong tự ngã, hay xem tự ngã
là trong hành; xem thức là tự ngã, hay xem tự ngã là có thức, hay xem thức
là trong tự ngã, hay xem tự ngã là trong thức. Như vậy, Hiền giả Visakha,
là thân kiến.
– Thưa Ni sư, thế nào là không phải thân kiến?
– Ở đây, Hiền giả Visakha, vị Ða văn
Thánh đệ tử đến yết kiến các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu
tập pháp các bậc Thánh, đến yết kiến các bậc Chân nhân, thuần thục pháp
các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân, không xem sắc là
tự ngã, không xem tự ngã là có sắc, không xem sắc là trong tự ngã, không
xem tự ngã là trong sắc; không xem thọ là tự ngã, không xem tự ngã là có
thọ, không xem thọ là trong tự ngã, không xem tự ngã là trong thọ; không
xem tưởng là tự ngã, không xem tự ngã là có tưởng, không xem tưởng là
trong tự ngã, không xem tự ngã là trong tưởng; không xem các hành là tự
ngã, không xem tự ngã là có các hành, không xem các hành là trong tự ngã,
không xem tự ngã là trong các hành; không xem thức là tự ngã, không xem tự
ngã là có thức, không xem thức là trong tự ngã, không xem tự ngã là trong
thức. Như vậy, Hiền giả Visakha, là không có thân kiến.
[Trung Bộ 44]
– Tự thân tập khởi, tự thân tập khởi, thưa Ni sư Dhammadina,
được gọi là như vậy. Thưa Ni sư, Thế
Tôn gọi tự thân tập khởi (nguồn gốc của tự thân) là như thế nào?
– Hiền giả Visakha, khát ái này đưa đến
tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia,
tức là dục ái, hữu ái và phi hữu ái. Hiền giả Visakha, khát ái này, Thế
Tôn gọi là tự thân tập khởi.
– Tự thân diệt, tự thân diệt, thưa Ni sư,
được gọi là như vậy. Thế Tôn gọi tự thân diệt là như thế nào?
– Hiền giả Visakha, sự đoạn diệt, không
tham đắm, không có dư tàn của khát ái ấy, sự xả ly, sự vất bỏ, sự
giải thoát, sự vô chấp. Hiền giả Visakha, sự
đoạn diệt này, Thế Tôn gọi là tự thân diệt.
– Thưa Ni sư, tự thân diệt đạo, tự thân
diệt đạo, được gọi là như vậy. Thưa Ni sư, Thế Tôn gọi tự thân diệt
đạo là như thế nào?
– Hiền giả Visakha, Con đường Thánh tám
ngành này, Thế Tôn gọi là tự thân diệt
đạo, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp,
chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh
định.
[Trung Bộ 44]
Tôn giả Ānanda hỏi Đức Phật:
– Bạch Thế Tôn, thế nào là Thánh giải thoát?
– Ở đây, này
Ānanda, vị Thánh
đệ tử suy nghĩ như sau: "Những dục hiện tại và
những dục tương lai, những dục tưởng hiện tại và những dục tưởng tương
lai, những sắc pháp hiện tại và những sắc pháp tương lai, những bất
động tưởng, những vô sở hữu xứ tưởng, và
những phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng: cái gì thuộc tự thân, là tự thân.
Ðây là bất tử, tức là tâm giải thoát không thủ trước."
[Trung Bộ 106]
(Đức Phật giảng cho du sĩ Magandiya:)
– Này Magandiya, ví như người sanh ra đã
mù, không thấy sắc đen hay sắc trắng, không
thấy sắc xanh, không thấy sắc vàng, không thấy sắc
đỏ, không thấy sắc đỏ tía, không thấy cái gì
thăng bằng, không thăng bằng, không thấy các
vì sao, không thấy mặt trăng, mặt
trời. Người ấy nghe một người có mắt nói như sau: "Thật tốt đẹp thay tấm
vải trắng, xinh đẹp, không cấu uế, thanh tịnh", và người ấy
đi tìm tấm vải trắng. Rồi có một người
khác đánh lừa người ấy với một tấm y thô,
dính dầu và đất và nói: "Này
bạn, đây là tấm vải trắng, xinh
đẹp, không cấu uế, thanh tịnh cho bạn". Người
ấy lấy tấm y ấy.
Sau khi lấy, người ấy đắp trên
mình, sau khi đắp trên mình người ấy,
các bạn bè thân hữu, bà con huyết thống của người ấy mời một y sĩ khoa mổ
xẻ. Vị y sĩ khao mổ xẻ này cho người ấy thuốc bài tiết các nhơ bẩn về phía
trên, bài tiết các nhơ bẩn về phía dưới, xức thuốc mắt, thoa dầu cho mắt,
cho thuốc qua lỗ mũi. Người ấy sau khi dùng thuốc, mắt
được khởi lên, mắt
được sáng tỏ. Với mắt được khởi lên,
người ấy đoạn trừ tham dục đối với tấm y thô,
dính dầu và dính đất kia, và
người ấy có thể xem người kia là không phải bạn, có thể xem người kia là
thù địch và nghĩ
đến sát hại sinh mạng của người kia: "Thật sự
trong một thời gian dài, Ta bị người này lường gạt, lừa dối, phỉnh
gạt với tấm y thô, dính dầu và đất: 'Này
bạn, đây là tấm vải trắng, xinh
đẹp, không cấu uế, thanh tịnh cho bạn'".
Cũng vậy, này Magandiya, nếu Ta thuyết pháp cho Ông: "Ðây là không bệnh
ấy, đây là Niết-bàn ấy", Ông có thể
biết không bệnh, Ông có thể thấy Niết-bàn. Và với mắt
được khởi lên cho Ông, lòng tham dục
đối với năm thủ uẩn được đoạn trừ; và
Ông có thể nghĩ như sau: "Thật sự trong một thời gian dài, ta bị tâm này
lường gạt, lừa dối, phỉnh gạt, chấp thủ sắc, ta
đã chấp thủ; chấp thủ thọ, ta
đã chấp thủ; chấp thủ tưởng, ta
đã chấp thủ; chấp thủ các hành, ta
đã chấp thủ; chấp thủ thức, ta
đã chấp thủ. Do duyên chấp thủ ấy nơi
ta, nên có hữu; do duyên hữu, có sanh; do duyên sanh, có già chết, sầu,
bi, khổ, ưu, não khởi lên. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ Khổ uẩn".
[Trung Bộ 75]
Trong đoạn kinh sau đây, Ngài
Khemaka - vị tỳ-khưu đã
đắc quả Bất Lai, và như thế,
đã cắt bỏ
được 5 kiết sử đầu tiên - giảng làm
thế nào để trừ bỏ "thân kiến" mặc dù
tâm ý vẫn chưa thoát khỏi được ngã
mạn, "Tôi là", vốn chỉ trừ khử được ở cấp
độ giác ngộ rốt ráo - quả thánh A-la-hán.
– Thưa chư Hiền, tôi không nói: "Tôi là sắc". Tôi cũng không nói: "Tôi
là khác sắc". Tôi không nói:"Tôi là thọ"... "Tôi là tưởng"... "Tôi là các
hành"... Tôi không nói: "Tôi là thức". Tôi cũng không nói: "Tôi là khác
thức". Đối với năm thủ uẩn này, này
chư Hiền, tư tưởng "Tôi là" vẫn chưa đoạn
trừ, dầu rằng tôi không có nghĩ: "Cái này là tôi".
Ví như, này chư Hiền, hương thơm của hoa sen xanh, hay hoa sen hồng,
hay hoa trắng. Nếu có người nói: "Hương thuộc về lá, hay hương thuộc về
sắc, hay hương thuộc về nhụy hoa", nói như vậy có nói
đúng không?
– Thưa không, này Hiền giả.
– Vậy chư Hiền, trả lời như thế nào là trả lời một cách
đúng đắn? Chư Hiền, hương là của hoa.
Trả lời như vậy là trả lời một cách đúng đắn.
Cũng vậy, tôi không nói: "Tôi là sắc". Tôi cũng không nói: "Tôi là khác
sắc". Tôi không nói: "Tôi là thọ"... "Tôi là tưởng"... "Tôi là các hành"...
Tôi không nói: "Tôi là thức". Tôi cũng không nói: "Tôi là khác thức".
Đối với năm thủ uẩn này, này chư Hiền,
tư tưởng "Tôi là" vẫn chưa đoạn trừ, dầu rằng
tôi không có nghĩ: "Cái này là tôi".
[Tương Ưng 22.4]
Kiết sử "hoài nghi" được định nghĩa như
là nghi ngờ về sự Giác ngộ của Đức
Phật, nghi ngờ về Giáo pháp của Ngài, và về sự hành trì của các
vị Thánh tăng đệ tử. Sự nghi ngờ nầy tóm
tắt lại là sự nghi ngờ về sự hiện hữu của Bất Tử (Niết bàn), và
về khả năng thực chứng của mình qua
các nỗ lực hành trì Giáo pháp. Chứng nghiệm sự Bất Tử - qua công phu tu
tập theo Chánh Pháp cho đến lúc nhập được dòng
lưu - sẽ cắt bỏ được kiết sử nầy vì
người ấy giờ đây kiểm chứng được khả năng
của con người để giác ngộ, trực kiến Niết bàn, kiểm chứng
được lời dạy của Đức Phật như là các
hướng dẫn đưa đến nhập dòng lưu giải
thoát, và kiểm chứng được chân giá trị của
những vị đã vào dòng Thánh.
Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh
đệ tử thành tựu tịnh tín bất
động đối với đức Phật: "Ðây là Thế
Tôn, bậc Ứng Cúng, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian
Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn".
Vị ấy thành tựu tịnh tín bất động đối với
Pháp: "Pháp được Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, không có thời
gian, đến để mà thấy, có khả năng
hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu".
Vị ấy thành tựu tịnh tín bất động đối với
chúng Tăng: "Diệu hạnh là chúng đệ tử
Thế Tôn; Trực hạnh là chúng đệ tử Thế
Tôn; Ứng lý hạnh là chúng đệ tử Thế
Tôn; Chân chánh hạnh là chúng đệ tử
Thế Tôn. Tức là bốn đôi, tám chúng.
Chúng đệ tử Thế Tôn đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được
đảnh lễ, đáng được chắp tay, là phước
điền vô thượng ở đời."
[Tăng Chi 10.92]
Kiết sử "giới cấm thủ" thường được mô tả
trong Kinh tạng như là sự tin tưởng rằng ta sẽ
được thanh tịnh qua thực hiện các lễ nghi nào
đó hoặc qua một chuỗi hành
động nào
đó. Sự tin tưởng này có liên hệ
đến ý kiến cho rằng sự hiện hữu của ta được
đánh giá qua các hành động: nếu ta hành
trì theo các giới luật và khung hướng dẫn bó buộc nào
đó, ta sẽ đương nhiên thanh tịnh.
Mặc dù kinh điển công nhận tầm quan trọng
của giới luật để nhập vào dòng Thánh, việc thực chứng Niết bàn
cho thấy một vị như thế không chấp thủ vào các giới luật
đó. Vị ấy sống đạo đức trong giới luật,
nhưng không chấp thủ vào chúng.
(Đức Phật giảng cho người thợ mộc
Pancakanga:)
... Và này Thợ mộc, những thiện giới này từ
đâu được trừ diệt, không có dư tàn? Sự
trừ diệt của chúng cũng được nói đến. Ở đây,
vị Tỳ-khưu có giới hạnh, và không chấp trước giới, và vị này như
thật tuệ tri tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Ở
đây, những thiện giới ấy được trừ diệt, không
có dư tàn.
[Trung Bộ 78]
Không phải từ tri kiến,
Từ truyền thống, từ trí,
Không phải từ giới cấm,
Thanh tịnh được đem đến.
Người ta nói như vậy,
Nhưng cũng không phải là
Không kiến, không truyền thống,
Không trí, không giới cấm.
Từ bỏ tất cả chúng,
Không chấp thủ sự gì,
Bậc thiện [*] không y chỉ,
Không ước muốn sanh hữu.
[*] Bậc Thánh (đã nhập dòng giải
thoát)
[Kinh Tập, 4.9]
-ooOoo-
4.
Đặc tính của
quả Dự lưu
Sau đây là
đoạn kinh thường thấy trong kinh điển về
bốn yếu tố của quả Dự Lưu: lòng tịnh tín bất
động nơi Đức Phật, Giáo Pháp, Tăng chúng, và
thành tựu giới hạnh được các bậc Thánh ái
kính.
Thế nào là thành tựu bốn Dự lưu phần? Ở
đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử thành
tựu tịnh tín bất động đối với đức Phật: "Ðây
là Thế Tôn, bậc Ứng Cúng, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế
Tôn". Vị ấy thành tựu tịnh tín bất động đối
với Pháp: "Pháp được Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, không có
thời gian, đến để mà thấy, có khả năng
hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu". Vị ấy thành tựu
tịnh tín bất động đối với chúng Tăng: "Diệu
hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; Trực hạnh
là chúng đệ tử Thế Tôn; Ứng lý hạnh là
chúng đệ tử Thế Tôn; Chơn chánh hạnh là
chúng đệ tử Thế Tôn. Tức là bốn
đôi tám chúng. Chúng đệ tử Thế Tôn đáng được
cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được đảnh lễ, đáng được chắp tay, là
phước điền vô thượng ở đời." Vị ấy thành
tựu với những giới được các bậc Thánh ái
kính, không bị phá hủy, không bị bể vụn, không bị điểm chấm, không bị uế
nhiễm, đưa đến giải thoát, được bậc trí tán thán, không bị chấp trước, đưa
đến Thiền định.
[Tăng Chi 10.92]
Mặc dù đoạn kinh trên thường
được xem là các tiêu chuẩn căn
bản của quả Dự Lưu, trong kinh điển còn có ghi các danh sách
khác, trong đó, tiêu chuẩn về giới
hạnh được thay thế bằng tiêu chuẩn
khác.
Tương Ưng 55.32 ghi tiêu chuẩn thứ tư như sau: "Lại nữa, vị Thánh
đệ tử trú ở gia đình, với tâm thoát
khỏi cấu uế của xan tham, bố thí dễ dàng, bàn tay rộng mở, thích thú từ
bỏ, đáp ứng điều yêu cầu, thích thú
chia xẻ vật bố thí."
Tương Ưng 55.33 ghi tiêu chuẩn thứ tư như sau: "Lại nữa, vị Thánh
đệ tử có trí tuệ, thành tựu trí tuệ
về sanh diệt các pháp, trí tuệ các bậc Thánh thể nhập các pháp,
đưa đến chơn chánh đoạn tận khổ đau."
Khi các danh sách liệt kê này được kết
hợp lại, chúng ta có được bốn đặc tính diễn tả vị Thánh Dự Lưu: đầy đủ lòng
tin, đầy đủ giới đức, đầy đủ bố thí, đầy đủ
trí tuệ. Tăng Chi 8.54 diễn tả như là bốn pháp
đưa đến hạnh phúc tương lai, an lạc tương
lai cho một cư sĩ Phật tử.
"Lòng tin" nơi Tam Bảo - Phật, Pháp, Tăng
- ở đây không phải chỉ đơn thuần là sự tin tưởng, sùng tín. Lòng
tin ở đây giúp vị Dự Lưu đặt sự tín nhiệm,
tin tưởng nơi nguyên lý nghiệp quả - nguyên lý của hành
động và hậu quả như vị ấy
đã chứng nghiệm khi bắt
đầu nhập dòng Thánh.
Thành tựu năm pháp, này các
Tỳ-khưu, một cư sĩ là hòn ngọc trong hàng cư sĩ, là hoa sen hồng trong
hàng cư sĩ, là hoa sen trắng trong hàng cư sĩ. Thế nào là năm?
Có lòng tin; có giới đức; không tin tưởng
vào bùa chú hay nghi lễ đặc biệt; tin
tưởng ở nghiệp quả; không tìm kiếm ngoài Tăng
chúng người xứng đáng tôn trọng và tại
đấy phục vụ trước.
[Tăng Chi 5.175]
"Giới đức" của vị Dự Lưu là kết
quả của lòng tin kiên cố nơi luật nghiệp quả và lòng từ bi
đối với các chúng sinh khác. Vị Dự Lưu có
thể vẫn còn phạm vài học giới nhỏ, nhưng tuệ tri sâu xa của vị ấy
đảm bảo sự tuân giữ không thối chuyển của mình
đối với các nguyên tắc căn
bản của giới đức.
Ở đây, này các Gia chủ, vị Thánh
đệ tử suy nghĩ như sau: "Ta muốn sống, không
muốn chết, muốn lạc, ghét khổ. Nếu có ai đến đoạt mạng sống của ta, một
người muốn sống, không muốn chết, muốn lạc, ghét khổ, như vậy là
một việc không khả ái, không khả ý đối với
ta. Nhưng nếu ta đoạt mạng sống một người muốn sống, không muốn chết, muốn
lạc, ghét khổ, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý
đối với người ấy. Một pháp này không
khả ái, không khả ý cho ta, thời pháp ấy cũng không khả ái, không khả ý
cho người khác. Và một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao
ta lại đem cột pháp ấy cho người khác?" Do
suy tư như vậy, vị ấy từ bỏ sát sanh, khuyến khích người khác từ bỏ sát
sanh, nói lời tán thán từ bỏ sát sanh. Như vậy, về thân hành, vị ấy
được hoàn toàn thanh tịnh.
Lại nữa, này các Gia chủ, vị Thánh đệ tử
suy tư như sau: "Nếu có ai lấy của không cho của ta, gọi là
ăn trộm, như vậy là một việc không khả
ái, không khả ý cho ta. Nhưng nếu ta lấy của không cho của người khác, gọi
là ăn trộm, như vậy là một việc không
khả ái, không khả ý cho người ấy. Một pháp này không khả ái, không khả ý
cho ta, thời pháp ấy cũng không khả ái, không khả ý cho người khác. Và một
pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao ta lại
đem cột pháp ấy cho người khác?" Do suy tư
như vậy, vị ấy từ bỏ lấy của không cho, khuyến khích người khác từ bỏ lấy
của không cho, nói lời tán thán từ bỏ lấy của không cho. Như vậy, về thân
hành, vị ấy được hoàn toàn
thanh tịnh.
Lại nữa, này các Gia chủ, vị Thánh đệ tử
suy nghĩ như sau: "Nếu ai có tà hạnh với vợ của ta, như vậy là một
việc không khả ái, không khả ý cho ta. Nhưng nếu ta có tà hạnh với vợ của
người khác, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho người ấy.
Một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời pháp này không khả ái,
không khả ý cho người khác. Và một pháp này không khả ái, không khả ý cho
ta, thời sao ta lại đem cột pháp ấy cho người
khác?" Do suy tư như vậy, vị ấy tự mình từ bỏ tà hạnh trong các
dục, khuyến khích người khác từ bỏ tà hạnh trong các dục, nói lời tán thán
từ bỏ tà hạnh trong các dục. Như vậy, về thân hành, vị ấy
được hoàn toàn thanh tịnh.
Lại nữa, này các Gia chủ, vị Thánh đệ tử
suy nghĩ như sau: "Nếu có ai làm tổn hại lợi ích ta với lời nói
láo, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta. Nhưng nếu ta
cũng làm tổn hại lợi ích người khác với lời nói láo, như vậy là một việc
không khả ái, không khả ý cho người ấy. Một pháp này không khả ái, không
khả ý cho ta, thời pháp này không khả ái, không khả ý cho người khác. Và
một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao ta lại
đem cột pháp ấy cho người khác?" Do suy tư
như vậy, vị ấy tự mình từ bỏ nói láo, khuyến khích người khác từ bỏ
nói láo, nói lời tán thán từ bỏ nói láo. Như vậy, về khẩu hành, vị ấy
được hoàn toàn thanh tịnh.
Lại nữa, này các Gia chủ, vị Thánh đệ tử
suy tư như sau: "Nếu có ai chia rẽ bạn bè ta bằng lời nói hai lưỡi,
như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta. Nhưng nếu ta chia rẽ
bạn bè người khác bằng lời nói hai lưỡi, như vậy là một việc không khả ái,
không khả ý cho người ấy. Một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta,
thời pháp này không khả ái, không khả ý cho người khác. Và một pháp này
không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao ta lại
đem cột pháp ấy cho người khác?" Do suy tư
như vậy, vị ấy tự mình từ bỏ nói hai lưỡi, khuyến khích người khác
từ bỏ nói lời hai lưỡi, nói lời tán thán từ bỏ nói lời hai lưỡi. Như vậy,
về khẩu hành, vị ấy được hoàn toàn
thanh tịnh.
Lại nữa, này các Gia chủ, vị Thánh đệ tử
suy tư như sau: "Nếu có ai đối xử với ta bằng thô ác ngữ, như vậy là
một việc không khả ái, không khả ý cho ta. Nhưng nếu ta cũng
đối xử với người khác bằng thô ác ngữ, như
vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho người ấy. Một pháp
này không khả ái, không khả ý cho ta, thời pháp này không khả ái, không
khả ý cho người khác. Và một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta,
thời sao ta lại đem cột pháp ấy cho người
khác?" Do suy tư như vậy, vị ấy tự mình từ bỏ thô ác ngữ, khuyến
khích người khác từ bỏ thô ác ngữ, nói lời tán thán từ bỏ thô ác ngữ. Như
vậy, về khẩu hành, vị ấy được hoàn
toàn thanh tịnh.
Lại nữa, này các Gia chủ, vị Thánh đệ tử
suy tư như sau: "Nếu có ai đối xử với ta với lời tạp ngữ, với lời phù
phiếm, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta. Nhưng nếu ta
cũng đối xử với người khác với lời tạp ngữ,
với lời phù phiếm, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý
cho người ấy. Một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời pháp này
không khả ái, không khả ý cho người khác. Và một pháp này không khả ái,
không khả ý cho ta, thời sao ta lại đem cột
pháp ấy cho người khác?" Do suy tư như vậy, vị ấy tự mình từ bỏ lời
nói phù phiếm, khuyến khích người khác từ bỏ nói lời phù phiếm, tán thán
từ bỏ nói lời phù phiếm. Như vậy, về khẩu hành, vị ấy
được hoàn toàn thanh tịnh.
[Tương Ưng 55.7]
Này các Tỳ-khưu, bản tụng đọc này
gồm hơn 150 học giới cần phải đọc nửa tháng
một lần, ở đây các người thiện nam tử muốn được lợi ích, học tập bản tụng
ấy. Này các Tỳ-khưu, tất cả được thâu
nhiếp làm thành ba học giới này. Thế nào là ba? Tăng
thượng giới học, tăng thượng định học, tăng thượng tuệ học. Chính ba học
pháp này, này các Tỳ-khưu, thâu nhiếp tất cả.
Ở đây, này các Tỳ-khưu, có Tỷ kheo
đối với các giới luật, hành trì toàn
phần, đối với định, hành trì một phần,
đối với tuệ, hành trì một phần. Vị ấy
có vi phạm học pháp nhỏ nhặt nhỏ nhiệm nào, vị ấy
được xem là thanh tịnh. Vì cớ sao? Ở
đây, này các Tỳ-khưu, Ta không tuyên
bố chúng làm cho vị ấy không có khả năng đạt
quả Thánh. Phàm có những học giới nào là căn
bản Phạm hạnh, tương xứng Phạm hạnh, ở đây, vị ấy kiên trì giới ấy,
kiên trú giới ấy, chấp nhận và học tập trong các học pháp. Vị ấy, do
đoạn tận ba kiết sử, là bậc tối
đa phải sanh lại bảy lần. Sau khi sanh lại
bảy lần, sau khi dong ruỗi, luân chuyển tối đa bảy lần giữa chư Thiên
và loài người, đoạn tận khổ đau, hướng đến
giác ngộ giải thoát.
[Tăng Chi 3.87]
"Bố thí" thật ra là một đức tính cần có
trước khi đắc quả Dự Lưu. Tuy nhiên, lòng bố thí của vị Dự Lưu có
thêm những điểm đặc biệt.
Này các Tỳ-khưu, có năm xan tham này.
Thế nào là năm? Xan tham trú xứ, xan tham gia
đình, xan tham lợi dưỡng, xan tham tán thán, xan tham pháp.
Trong năm xan tham này, này các
Tỳ-khưu, xan tham pháp là tối hạ liệt.
Do không đoạn tận năm pháp này, này
các Tỳ-khưu, không có thể chứng ngộ Dự lưu quả.
[Tăng Chi, 5.254-257]
Này các Tỳ-khưu, có năm loại bố thí này
xứng bậc Chân nhân. Thế nào là năm? Bố thí có
lòng tin, bố thí có kính trọng, bố thí
đúng thời, bố thí với tâm không gượng ép, bố thí không làm thương
tổn mình và người.
[Tăng Chi, 5.148]
Tri kiến của vị Dự Lưu có liên quan trực tiếp
đến việc trừ khử kiết sử về thân kiến. Tuy
nhiên, điều đó cũng có liên
quan đến các khía cạnh khác của chánh kiến.
"Thành tựu tri kiến" là một trong những cao
điểm của quả Dự Lưu. Tác động của thành
tựu tri kiến không những ảnh hưởng đến đời
sống trí thức mà còn ảnh hưởng đến
đời sống tình cảm nữa.
Ở đây, này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu
đi đến ngôi rừng, hay đi đến dưới gốc cây,
hay đi đến chỗ trống vắng và suy nghĩ như sau: "Không biết ta có
nội triền nào chưa đoạn trừ không? Do nội
triền nào nếu tâm ta bị triền phược, thì ta không thể biết như
thật, không thể thấy như thật?" Này các Tỳ-khưu, nếu Tỳ-khưu bị tham dục
triền phược, cho đến như vậy, tâm của vị này
bị triền phược. Này các Tỳ-khưu, nếu Tỳ-khưu bị sân triền phược, cho
đến như vậy, tâm của vị này bị triền
phược. Này các Tỳ-khưu, nếu Tỳ-khưu bị hôn trầm thụy miên triền phược, cho
đến như vậy, tâm của vị này bị triền
phược. Này các Tỳ-khưu, nếu Tỳ-khưu bị trạo hối triền phược, cho
đến như vậy, tâm của vị này bị triền
phược. Này các Tỳ-khưu, nếu Tỳ-khưu bị nghi triền phược, cho
đến như vậy, tâm của vị này bị triền
phược. Này các Tỳ-khưu, nếu Tỳ-khưu có tâm bị thế sự
đời này ràng buộc, cho
đến như vậy, tâm của vị này bị triền
phược. Này các Tỳ-khưu, nếu vị Tỳ-khưu có tâm bị thế sự
đời sau ràng buộc, cho
đến như vậy, tâm của vị này bị triền
phược. Tỳ-khưu sống cạnh tranh, luận tranh,
đấu tranh, đả thương nhau với những binh khí miệng lưỡi, cho đến như vậy,
tâm của vị này bị triền phược.
Vị ấy biết rõ như sau: "Ta không có nội triền chưa
được đoạn trừ, do nội triền này nếu
tâm ta bị triền phược, ta không thể biết như thật, không thể thấy như
thật. Ý của ta được khéo hướng đến sự giác
ngộ các sự thật". Ðó là trí thứ nhất mà vị này chứng
được, thuộc các bậc Thánh, siêu thế,
các phàm phu không thể cọng chứng.
Lại nữa, này các Tỳ-khưu, vị Thánh đệ tử
suy nghĩ như sau: "Trong khi ta thực tập, tu tập, luyện tập nhiều lần tri
kiến này; ta tự đạt được tịnh chỉ, ta
tự đạt được tịch chỉ". Vị này biết rõ như sau: "Trong khi ta thực
tập, tu tập, luyện tập nhiều lần tri kiến này; ta tự
đạt được tịnh chỉ, ta tự đạt được tịch chỉ".
Ðó là trí thứ hai mà vị này chứng
được, thuộc các bậc Thánh, siêu thế, các phàm phu không thể cọng
chứng.
Lại nữa, này các Tỳ-khưu, vị Thánh đệ tử
suy nghĩ như sau: "Tri kiến như ta đã thành tựu có thể có một
Sa-môn hay Bà-la-môn nào ngoài tổ chức này, thành tựu tri kiến như vậy
không?" Vị ấy hiểu rõ như sau: "Tri kiến như ta
đã thành tựu không có một Sa-môn hay
Bà-la-môn nào khác, ngoài tổ chức này, thành tựu tri kiến như vậy". Ðó là
trí thứ ba mà vị này chứng được, thuộc các
bậc Thánh, siêu thế, các phàm phu không thể cọng chứng.
Lại nữa, này các Tỳ-khưu, vị Thánh đệ tử
suy nghĩ như sau: "Pháp tánh (Dhammata) mà một vị chứng
được tri kiến thành tựu, pháp tánh như
vậy ta có thành tựu hay không?" Và này các Tỳ-khưu, pháp tánh ấy là gì mà
một vị chứng được tri kiến thành tựu?
Ðây là pháp tánh, này các Tỳ-khưu, mà một vị chứng
được tri kiến thành tựu. Bất cứ giới
tội nào vị này vi phạm, giới tội ấy liền được
xuất tội. Vị này lập tức phát lộ, tỏ bày, trình bày trước bậc Ðạo
Sư hay trước các vị đồng phạm hạnh có trí.
Sau khi phát lộ, tỏ bày, trình bày, vị ấy phòng hộ gìn giữ trong
tương lai. Này các Tỳ-khưu, ví như một đứa
trẻ con, ngây thơ, nằm ngửa, lập tức rút lui tay hay chân nếu tay hay chân
của nó chạm phải than đỏ. Cũng vậy, này các Tỳ-khưu,
đây là pháp tánh mà một vị chứng
được tri kiến thành tựu. Bất cứ giới
tội nào vị này vi phạm, giới tội ấy liền được
xuất tội. Vị này lập tức phát lộ, tỏ bày, trình bày trước bậc Ðạo
Sư hay trước các vị đồng phạm hạnh có trí.
Sau khi phát lộ, tỏ bày, trình bày, vị ấy phòng hộ gìn giữ trong
tương lai. Vị ấy biết rõ như sau: "Pháp tánh mà một vị chứng
được tri kiến thành tựu, pháp tánh như
vậy ta có thành tựu". Như vậy là trí thứ tư mà vị này chứng
được, thuộc các bậc Thánh, siêu thế,
các phàm phu không thể cọng chứng.
Lại nữa, này các Tỳ-khưu, vị Thánh đệ tử
suy nghĩ như sau: "Pháp tánh mà một vị chứng
được tri kiến thành tựu, pháp tánh như
vậy ta có thành tựu hay không?" Và này các Tỳ-khưu, pháp tánh ấy là gì mà
một vị chứng được tri kiến thành tựu?
Ðây là pháp tánh, này các Tỳ-khưu, mà một vị chứng
được tri kiến thành tựu. Bất luận sự
việc cần phải làm dầu lớn nhỏ gì, giúp cho các vị
đồng phạm hạnh; vị này nỗ lực thực
hiện, nhưng tha thiết hướng đến tăng thượng
giới học, tăng thượng tâm học, tăng thượng tuệ học. Này các
Tỳ-khưu, ví như con bò có các con bê, khi
đang nhổ lùm cỏ lên ăn, vẫn coi chừng
con bê. Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, đây
là pháp tánh mà một vị chứng được tri
kiến thành tựu. Bất luận sự việc cần phải làm dầu lớn nhỏ gì, giúp
cho các vị đồng phạm hạnh; vị này nỗ
lực thực hiện, nhưng tha thiết hướng đến tăng
thượng giới học, tăng thượng tâm học, tăng thượng tuệ học. Vị này
biết rõ như sau: "Pháp tánh mà một vị chứng
được tri kiến thành tựu, pháp tánh như vậy ta có thành tựu". Như
vậy là trí thứ năm mà vị này chứng
được, thuộc các bậc Thánh, siêu thế,
các phàm phu không thể cọng chứng.
Lại nữa, này các Tỳ-khưu, vị Thánh đệ tử
suy nghĩ như sau: "Sức mạnh mà một vị chứng
được tri kiến thành tựu, sức mạnh như
vậy ta có thành tựu hay không?" Và này các Tỳ-khưu, sức mạnh ấy là gì mà
một vị chứng được tri kiến thành tựu?
Ðây là sức mạnh, này các Tỳ-khưu, một vị chứng
được tri kiến thành tựu. Trong khi
Pháp và Luật do Như Lai tuyên thuyết được
giảng dạy, sau khi chú tâm chú ý, chuyên chú toàn tâm trí, vị này
lóng tai nghe Pháp. Vị này biết rõ như sau: "Sức mạnh mà một vị chứng
được tri kiến thành tựu, sức mạnh như
vậy ta có thành tựu". Như vậy là trí thứ sáu mà vị này chứng
được, thuộc các bậc Thánh, siêu thế,
các phàm phu không có thể cọng chứng.
Lại nữa, này các Tỳ-khưu, vị Thánh đệ tử
suy nghĩ như sau: "Sức mạnh mà một vị chứng
được tri kiến thành tựu, sức mạnh như
vậy ta có thành tựu hay không?" Và này các Tỳ-khưu, sức mạnh ấy là gì mà
một vị chứng được tri kiến thành tựu?
Ðây là sức mạnh, này các Tỳ-khưu, mà một vị chứng
được tri kiến thành tựu. Trong khi
Pháp và Luật do Như Lai tuyên thuyết được
giảng dạy, vị này chứng được nghĩa tín
thọ (atthaveda), Pháp tín thọ (Dhammaveda), và sự hân hoan tương
ứng với pháp; vị này hiểu rõ như sau: "Sức mạnh mà một vị chứng
được tri kiến thành tựu, sức mạnh như
vậy ta có thành tựu". Như vậy là trí thứ bảy mà vị này chứng
được, thuộc các bậc Thánh, siêu thế,
các phàm phu không thể cọng chứng.
Như vậy, này các Tỳ-khưu, pháp tánh được
khéo an trú đối với vị Thánh đệ tử thành tựu bảy chi này
để chứng được quả Dự Lưu. Như vậy, này
các Tỳ-khưu, vị Thánh đệ tử thành tựu
bảy chi này tức là đã thành tựu Dự Lưu
quả.
[Trung Bộ 48]
Có pháp môn, này các Tỳ-khưu, y cứ pháp môn ấy, Tỳ-khưu hữu học
đứng trên hữu học
địa có thể rõ biết: "Tôi là bậc hữu
học", Tỳ-khưu vô học đứng trên vô học
địa, có thể rõ biết: "Tôi là bậc vô
học".
Và này các Tỳ-khưu, pháp môn ấy là gì, y cứ pháp môn ấy, Tỳ-khưu hữu
học trú trên hữu học địa rõ biết: "Tôi
là bậc hữu học"? Ở đây, này các
Tỳ-khưu, Tỳ-khưu hữu học như thật rõ biết: "Ðây là khổ", như thật rõ biết:
"Ðây là khổ tập khởi", như thật rõ biết: "Ðây là khổ
đoạn diệt", như thật rõ biết: "Ðây là
con đường đưa đến khổ đoạn diệt". Ðây
là pháp môn, y cứ pháp môn ấy, Tỳ-khưu hữu học
đứng trên hữu học
địa rõ biết: "Tôi là bậc hữu học".
Lại nữa, này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu hữu học suy nghĩ như sau: "Ngoài Tăng
chúng này, có một Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác có thể thuyết pháp
thực như vậy, chân như vậy, như thị như vậy, như Thế Tôn hay không?". Và
vị ấy rõ biết như sau: "Ngoài Tăng chúng này,
không có một Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác có thể thuyết pháp thực như
vậy, chân như vậy, như thị như vậy, như Thế Tôn". Ðây là pháp môn, này các
Tỳ-khưu, y cứ pháp môn ấy, Tỳ-khưu hữu học
đứng trên hữu học địa rõ biết:
"Tôi là bậc hữu học".
Lại nữa, này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu hữu học rõ biết năm
căn: tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Nhưng về sanh thú, về
tối thắng, về quả, về mục đích của chúng, vị ấy không có thể trú, tự thân
thông đạt được, và không thể với trí tuệ, thông suốt chúng và thấy
chúng rõ ràng. Ðây là pháp môn, này các Tỳ-khưu, y cứ pháp môn ấy, Tỳ-khưu
hữu học đứng trên hữu học
địa rõ biết: "Tôi là bậc hữu học".
Và này các Tỳ-khưu, pháp môn ấy là gì, y cứ pháp môn ấy, Tỳ-khưu vô học
đứng trên vô học
địa rõ biết: "Ta là bậc vô học"? Ở
đây, này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu vô học
rõ biết năm căn:tín căn, tấn căn, niệm căn,
định căn, tuệ căn với sanh thú của chúng, với tối thắng của chúng, với quả
của chúng, với mục đích của chúng. Và vị ấy trú, với tự thân thông
đạt được, và với trí tuệ thông suốt
chúng và thấy chúng rõ ràng. Ðây là pháp môn, này các Tỳ-khưu, y cứ pháp
môn ấy, Tỳ-khưu vô học đứng trên vô
học địa rõ biết: "Tôi là bậc vô học".
Lại nữa, này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu vô học rõ biết sáu căn:
nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn,
thân căn, ý căn. Vị ấy rõ biết: "Sáu căn
này được đoạn diệt, không có dư tàn,
toàn bộ và toàn diện. Và sẽ không có sáu căn
khác khởi lên, tại một chỗ nào và như thế nào". Vị ấy rõ biết như
vậy. Ðây là pháp môn, này các Tỳ-khưu, do pháp môn ấy, Tỳ-khưu vô học
đứng trên vô học
địa, rõ biết: "Tôi là bậc vô học".
[Tương Ưng 48.53]
... Gia chủ Anāthapinidika (Cấp Cô
Độc) đi đến các du sĩ ngoại đạo ấy, sau khi
đến, nói lên với các du sĩ ấy những lời chào
đón hỏi thăm, sau khi nói lên những
lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi
xuống một bên. Các du sĩ ngoại đạo ấy
nói với Gia chủ Anāthapidika đang ngồi một bên:
- Này Gia chủ, hãy nói lên Sa-môn Gotama có kiến gì?
- Thưa các Tôn giả, tôi không biết tất cả kiến của Thế Tôn.
- Này Gia chủ, Gia chủ có thể không biết tất cả kiến của Sa-môn Gotama.
Nhưng này Gia chủ, hãy nói các Tỳ-khưu có kiến gì?
- Thưa các Tôn giả, tôi không biết tất cả kiến của các Tỳ-khưu.
- Này Gia chủ, Gia chủ có thể không biết tất cả kiến của Sa-môn Gotama,
Gia chủ có thể không biết tất cả kiến của các Tỳ-khưu. Vậy này Gia chủ,
hãy nói về kiến của Gia chủ.
- Thưa các Tôn giả, thật không khó gì để
chúng tôi trả lời về kiến của chúng tôi. Nhưng các Tôn giả hãy trả
lời về kiến của các Tôn giả trước. Rồi sau thật không khó gì
để chúng tôi trả lời về kiến của chúng tôi.
Khi được nói vậy, một du sĩ ngoại đạo nói
với Gia chủ Anāthapindika: "Thường còn là thế giới. Kiến này là sự
thật. Kiến nào khác là hư vọng. Này Gia chủ, như vậy là kiến của tôi". Một
du sĩ ngoại đạo khác nói với Gia chủ
Anāthapindika: "Vô thường là thế giới. Kiến này là sự thật. Kiến
nào khác là hư vọng. Như vậy là kiến của tôi." Rồi một du sĩ ngoại
đạo khác nói với Gia chủ Anāthapindika: "Có
biên tế là thế giới... không có biên tế là thế giới... mạng sống và
thân thể là một... mạng sống và thân thể là khác... Như Lai có tồn tại sau
khi chết... Như Lai không có tồn tại sau khi chết... Như Lai có tồn tại và
không có tồn tại sau khi chết... Như Lai không có tồn tại và không không
có tồn tại sau khi chết. Kiến này là sự thật. Kiến nào khác là hư vọng.
Này Gia chủ, như vậy là kiến của tôi".
Khi nghe nói vậy, Gia chủ Anāthapindika
nói với các du sĩ ngoại đạo ấy:
- Thưa các Tôn giả, Tôn giả nào nói như sau: "Thường còn là thế giới.
Kiến này là sự thật. Kiến nào khác là hư vọng. Này Gia chủ, như vậy là
kiến của tôi". Kiến này của Tôn giả ấy, hoặc nhân tự mình tác ý không hợp
lý, hay do duyên nghe tiếng người khác nói. Kiến ấy như vậy
được sanh, được tác thành (hữu vi) do
tâm suy tư, do duyên khởi lên. Và cái gì được
sanh, được tác thành, do tâm suy tư, do duyên khởi lên, cái ấy là
vô thường; cái gì vô thường, cái ấy là khổ; cái khổ ấy, Tôn giả chấp trước
(dính vào); cái khổ ấy, Tôn giả chấp nhận. Thưa các Tôn giả, Tôn giả nào
nói như sau: "Vô thường là thế giới này... có biên tế là thế giới này...
không biên tế là thế giới này...sinh mạng và thân thể là một... sinh mạng
và thân thể là khác... Như Lai có tồn tại sau khi chết... Như Lai không
tồn tại sau khi chết... Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại
sau khi chết. Kiến này là sự thật. Kiến nào khác là hư vọng. Này Gia chủ,
như vậy là kiến của tôi". Kiến này của Tôn giả ấy, hoặc nhân tự mình tác ý
không hợp lý, hoặc do duyên nghe tiếng người khác nói. Kiến như vậy
được sanh, được tác thành, do tâm suy
tư, do duyên khởi lên. Và cái gì được sanh,
được tác thành, do tâm suy tư, do duyên khởi lên, cái ấy là vô
thường; cái gì vô thường, cái ấy là khổ; cái khổ ấy, Tôn giả chấp trước;
cái khổ ấy, Tôn giả chấp nhận.
Khi được nói vậy, các du sĩ ngoại đạo ấy
nói với Gia chủ Anāthapindika:
- Này Gia chủ, tất cả kiến của chúng tôi đã
được nói lên. Này Gia chủ, hãy nói lên
kiến của Gia chủ là gì?
- Thưa các Tôn giả, phàm cái gì được sanh,
được tác thành do tâm suy tư, do duyên
được khởi lên, cái ấy là vô thường. Cái gì vô thường, cái ấy là
khổ. Cái gì là khổ, cái ấy là "Cái này không phải của tôi, cái này không
phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi." Tôi có kiến như vậy, thưa
các Tôn giả.
- Này Gia chủ, phàm cái gì được sanh, được
tác thành, do tâm suy tư, do duyên
được khởi lên, cái ấy là vô thường. Cái gì vô thường, cái ấy là
khổ. Cái gì là khổ, cái ấy, này Gia chủ, Gia chủ lại chấp trước, cái ấy,
này Gia chủ, Gia chủ lại chấp nhận.
- Thưa các Tôn giả, phàm cái gì được sanh,
được tác thành, do tâm suy tư, do duyên
được khởi lên, cái ấy là vô thường.
Cái gì vô thường, cái ấy là khổ. Cái gì khổ, cái ấy là: "Cái này không
phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của
tôi". Như vậy là như thật khéo thấy với chánh trí tuệ. Và từ nơi khổ ấy,
tôi như thật rõ biết sự xuất ly hơn thế nữa.
Khi nghe nói như vậy, các du sĩ ngoại đạo
ấy ngồi im lặng, hoang mang, thụt vai, cúi đầu, sửng sờ, không nói lên
lời.
Rồi Gia chủ Anāthapindika, sau khi biết các
du sĩ ngoại đạo ấy im lặng, hoang mang, thụt
vai, cúi đầu, sửng sờ, không nói lên lời, từ chỗ ngồi
đứng dậy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh
lễ Thế Tôn rồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Gia chủ Anāthapindika,
câu chuyện với các du sĩ ngoại đạo ấy
như thế nào, đều thuật lại tất cả cho
Thế Tôn rõ.
- "Lành thay, lành thay, này Gia chủ. Như vậy, này Gia chủ, những kẻ
ngu si ấy thường cần phải được bác bỏ với sự
khéo bác bỏ nhờ Chánh pháp". Rồi Thế Tôn với một bài pháp thuyết
giảng, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ Gia chủ Anāthapindika.
Rồi Gia chủ Anāthapindika, sau khi được Thế Tôn với bài pháp thuyết
giảng, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, từ chỗ ngồi
đứng dậy đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu
hướng về Ngài rồi ra đi.
Rồi Thế Tôn, sau khi Gia chủ Anāthapindika
ra đi không bao lâu, bảo các vị Tỳ-khưu:
- Tỳ-khưu nào dầu đã
được đầy đủ 100 năm an cư mùa mưa
trong Pháp và Luật này, vị ấy cần phải như vậy, thường thường bác bỏ các
du sĩ ngoại đạo, với sự khéo bác bỏ nhờ Chánh
pháp, như Gia chủ Anāthapindika đã khéo bác bỏ.
[Tăng Chi 10.93]
-ooOoo-
5. Thành quả
Nhiều đoạn kinh đề cập đến thành
quả của bậc Dự Lưu sau khi chết: Vị ấy không bao giờ tái sinh trong các
đọa xứ, mà chỉ tái sinh trong cảnh
an lạc của cõi chư Thiên hay loài người. Kinh
điển có ghi ba hạng Dự Lưu: Thất sinh, Gia
gia, và Nhất chủng.
Vị ấy, do đoạn tận ba kiết sử, là
bậc "Thất sanh", tối đa phải sanh lại bảy lần
(sattakkhattuparama). Sau khi sanh lại bảy lần, sau khi dong ruỗi, luân
chuyển tối đa bảy lần giữa chư Thiên và loài người, liền
đoạn tận khổ đau. Vị ấy, do đoạn tận ba kiết
sử, là bậc "Gia gia" (kolankola), dong ruỗi, lưu chuyển trong hai
hay ba gia đình, rồi
đoạn tận khổ đau. Vị ấy, do đoạn tận ba kiết
sử, là bậc "Nhất chủng" (ekabijin), sau khi phải sanh hiện hữu làm
người một lần, rồi đoạn tận khổ đau.
[Tăng Chi 3.86]
(Đức Phật nói với ngài Nandaka,
đại quan của bộ tộc Licchavi:)
– "Thành tựu bốn pháp này [*], này Nandaka, vị Thánh
đệ tử là bậc Dự lưu, không còn bị thối
đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ.
Thành tựu bốn pháp này, này Nadaka, vị Thánh
đệ tử liên hệ
đến tuổi thọ chư Thiên và loài Người,
liên hệ đến dung sắc, liên hệ
đến an lạc, liên hệ
đến thanh danh, liên hệ
đến lực tăng thượng chư Thiên và loài
Người.
Ðiểm này, này Nandaka, Ta biết chứ không phải nhờ nghe từ một Sa-môn
hay Bà-la-môn nào rồi Ta tuyên bố. Chính do tự Ta biết, tự Ta thấy, tự Ta
ý thức rồi Ta tuyên bố".
Khi được nghe nói vậy, một người thưa với
Nandaka, vị đại thần người Licchavi:
– Thưa Ðại quan, nay đã
đến giờ tắm.
– Thôi, nay đã vừa rồi, này Bạn,
đó chỉ là sự tắm rửa bề ngoài. Tắm rửa
bên trong này là vừa đủ cho ta, tức là
lòng tịnh tín đối với Thế Tôn.
[Tương Ưng 55.30]
[*] thành tựu lòng tịnh tín bất động đối
với Phật, đối với Pháp, đối với Tăng, và thành tựu các Giới.
Kinh điển thường đề cập đến tầm quan
trọng của trạng thái tâm trong giây phút trước khi chết, vì có
ảnh hưởng đến sự tái sinh. Tuy nhiên,
tiềm lực của quả Dự Lưu rất mạnh mẽ và có thể vượt thắng trạng thái mê
mờ trước khi chết, để bảo đảm vị ấy tái
sinh vào nơi tốt đẹp.
...Rồi họ Thích Mahānāma (Đại Danh) đi đến
Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi
một bên, họ Thích Mahānāma bạch Thế Tôn:
– Kapilavatthu này, bạch Thế Tôn, là phồn vinh, phú cường, dân cư
đông đúc, quần chúng khắp nơi chen chúc, chật
hẹp. Bạch Thế Tôn, sau khi con hầu hạ Thế Tôn hay các Tỳ-khưu đáng kính, vào
buổi chiều, con đi vào Kapilavatthu
(Ca-tỳ-la-vệ), con gặp con voi cuồng chạy; con gặp con ngựa cuồng chạy;
con gặp người cuồng chạy; con gặp cỗ xe lớn cuồng chạy; con gặp cỗ xe nhỏ
cuồng chạy. Trong khi ấy, bạch Thế Tôn, tâm con nghĩ
đến Phật bị hoang mang, tâm con nghĩ đến Pháp
bị hoang mang, tâm con nghĩ đến chúng Tăng bị hoang mang. Rồi bạch Thế
Tôn, con suy nghĩ như sau: "Nếu lúc ấy con mệnh chung, thời sanh thú của
con là gì, sanh xứ đời sau chỗ nào?"
– Chớ có sợ, này Mahānāma! Chớ có sợ, này
Mahānāma! Không ác sẽ là cái chết của
Ông! Không ác là cái chết của ông! Này Mahānāma,
với ai đã lâu ngày tâm tu tập trọn vẹn về tín, tâm tu tập trọn vẹn
về giới, tâm tu tập trọn vẹn về sở văn, tâm
tu tập trọn vẹn về thí xả, tâm tu tập trọn vẹn về trí tuệ; với người ấy,
dầu thân có sắc này, do bốn đại hợp thành,
do cha mẹ sanh, do cơm cháo nuôi dưỡng, có bị vô thường phá hoại, phấn
toái, đoạn tuyệt, hoại diệt; dầu cho thân này
ở đây bị quạ ăn, chim kên
ăn, chim ưng ăn, chó ăn, hay giả-can ăn, hay
các loại chúng sanh sai khác ăn; nhưng nếu tâm của vị ấy được lâu ngày
tu tập trọn vẹn về tín, tu tập trọn vẹn về giới, tu tập trọn vẹn về sở văn,
tu tập trọn vẹn về thí xả, tu tập trọn vẹn về trí tuệ, thời tâm của vị ấy
thượng thặng, đi đến thù thắng.
Ví như, này Mahānāma, một người nhận chìm
một ghè sữa bơ, hay một ghè dầu vào trong một hồ nước sâu và
đập bể ghè ấy. Ở
đây, các mảnh ghè hay mảnh vụn chìm
xuống nước; nhưng sữa, bơ hay dầu thời nổi lên, trồi lên trên. Cũng vậy,
này Mahānāma, với ai đã lâu ngày, tâm
được tu tập trọn vẹn về tín, tâm được tu tập
trọn vẹn về giới, tâm được tu tập trọn vẹn về sở văn, tâm được tu tập trọn
vẹn về thí xả, tâm được tu tập trọn vẹn về trí tuệ; với người ấy, thân có
sắc này, do bốn đại hợp thành,
do cha mẹ sanh, do cơm cháo nuôi dưỡng, có bị vô thường phá hoại, phấn
toái, đoạn tuyệt, đoạn diệt; dầu cho thân này
ở đây bị quạ ăn, chim kên
ăn, chim ưng ăn, chó ăn, giả-can ăn hay các
sanh loại sai khác ăn; nhưng nếu tâm của vị ấy được lâu ngày tu tập
trọn vẹn về tín, tu tập trọn vẹn về giới, tu tập trọn vẹn về sở văn,
tu tập trọn vẹn về thí xả, tu tập trọn vẹn về trí tuệ; thời tâm của vị ấy
thượng thặng, đi đến thù thắng.
[Tương Ưng 55.21]
(Tôn giả Ānanda nói với gia chủ
Anāthapindika:)
Thành tựu bốn pháp này [*], này Gia chủ, bậc Ða văn
Thánh đệ tử không có run sợ, không có hoảng hốt, không sợ hãi về
cái chết, về đời sau.
[Tương Ưng 55.27]
[*] thành tựu lòng tịnh tín bất động đối
với Phật, đối với Pháp, đối với Tăng, và thành tựu các Giới.
Lại nữa, này Bà-la-môn, ở đây có hạng
người không có nghi ngờ, không có do dự, đi đến kết luận đối với diệu
pháp. Rồi một chứng bệnh trầm trọng khởi lên cho người ấy. Người ấy
bị cảm thọ bởi chứng bệnh trầm trọng ấy, suy nghĩ như sau: "Thật sự ta
không có nghi ngờ, không có do dự, đi đến kết
luận đối với diệu pháp". Người ấy không có sầu muộn, không có than vãn,
không có khóc lóc, không có đập ngực, không
rơi vào bất tỉnh. Này Bà-la-môn, đây là
hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ
đến chết.
[Tăng Chi 4.184]
Này các Tỳ-khưu, thật không dễ đếm được số
lượng nước trong biển lớn là có bao nhiêu thùng, hay có bao nhiêu
trăm thùng, hay có bao nhiêu trăm
ngàn thùng. Chúng chỉ có thể gọi được
là vô số, vô lượng nước lớn tụ tập. Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, vị
Thánh đệ tử thành tựu bốn phước
đức [*] sung mãn, thiện sung mãn, món
ăn cho lạc này, thật không dễ gì
đếm được số lượng phước đức: "Số lượng như
thế này là phước đức sung mãn,
thiện sung mãn, món ăn cho lạc". Chúng chỉ có
thể gọi được là vô số, vô lượng, đại
uẩn phước đức.
[Tương Ưng 55.41]
[*] phước đức do thành tựu lòng
tịnh tín bất động đối với Phật, đối với Pháp,
đối với Tăng, và thành tựu các Giới.
Dầu cho, này các Tỳ-khưu, một vị Chuyển luân vương làm chủ tể và cai
trị bốn châu, sau khi thân hoại mạng chung,
được sanh lên thiện thú, thiên giới, thế giới này, cộng trú với chư
Thiên ở cõi Ba mươi ba; tại đấy, vị ấy trú
trong rừng Nandana, được chúng Thiên nữ
đoanh vây, được đầy đủ, được cung cấp, được
bao bọc năm thiên dục công đức, nhưng
không được đầy đủ bốn pháp; tuy vậy, vị ấy chưa được giải thoát khỏi địa
ngục, chưa được giải thoát khỏi sanh vào loài bàng sanh, chưa giải
thoát khỏi ngạ quỷ, và chưa thoát khỏi ác sanh, ác thú,
đọa xứ.
Nhưng này các Tỳ-khưu, vị Thánh đệ tử, dầu
muốn sống bằng các miếng ăn khất thực, đắp với y nhiều tấm; vị ấy đầy đủ
bốn pháp. Và vị ấy được giải thoát
khỏi địa ngục, được giải thoát khỏi sanh vào loài bàng sanh,
được giải thoát khỏi cõi ngạ quỷ,
được giải thoát khỏi ác sanh, ác thú, đọa xứ.
Thế nào là bốn?
Ở đây, này các Tỳ-khưu, vị Thánh
đệ tử thành tựu lòng tin bất
động đối với đức Phật: "Ðây là Như
Lai, bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian
Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn".
Vị ấy thành tựu lòng tin bất động đối với
Pháp: "Pháp do Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, có hiệu quả tức
thời, đến để mà thấy, có khả năng
hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu".
Vị ấy thành tựu lòng tin bất động đối với
chúng Tăng: "Diệu hạnh là chúng đệ tử
của Thế Tôn. Trực hạnh là chúng đệ tử
của Thế Tôn. Ứng lý hạnh là chúng đệ
tử của Thế Tôn. Chơn chánh hạnh là chúng
đệ tử của Thế Tôn. Tức là bốn
đôi tám chúng. Chúng đệ tử của Thế Tôn là
đáng cung kính, đáng cúng dường, đáng tôn
trọng, đáng được chấp tay, là phước
điền vô thượng ở đời".
Vị ấy thành tựu các giới được các bậc
Thánh ái kính, không bị phá hoại, không bị đâm cắt, không bị nhiễm ô,
không bị uế nhiễm, đem lại giải thoát, được người trí tán thán, không bị
chấp thủ, đưa đến Thiền định.
Vị ấy thành tựu bốn pháp này. Và này các Tỳ-khưu, có sự lợi
đắc của bốn châu và sự lợi
đắc của bốn pháp. Sự lợi đắc bốn châu không
đáng giá một phần mười sáu lợi đắc bốn pháp.
[Tương Ưng 55.1]
Hơn thống lãnh cõi đất,
Hơn được sanh cõi trờì,
Hơn chủ trì vũ trụ,
Quả Dự Lưu tối thắng.
[Pháp Cú 178]
Rồi Thế Tôn lấy lên một ít bụi trên đầu
móng tay rồi gọi các Tỳ-khưu:
– Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỳ-khưu, cái gì nhiều hơn, một ít bụi
này Ta lấy lên trên đầu ngón tay, hay là
quả đất lớn này?
– Chính cái này, bạch Thế Tôn, là nhiều hơn, tức là quả
đất lớn này. Ít hơn là một ít bụi
được Thế Tôn lấy lên trên
đầu ngón tay; không phải một trăm lần, không
phải một ngàn lần, không phải một trăm
ngàn lần có thể sánh bằng, khi so sánh quả
đất lớn với một ít bụi được Thế Tôn lấy lên
trên đầu ngón tay.
– Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, đối với vị
Thánh đệ tử đã chứng được kiến cụ túc,
đối với người đã chứng được minh kiến
[*], khổ tàn dư trong tối đa bảy kiếp
còn lại quả thật ít hơn, so với toàn bộ khổ uẩn từ trước; không
phải một trăm lần, không phải một ngàn
lần, không phải một trăm ngàn lần, có
thể sánh bằng khi so sánh với khổ uẩn từ trước.
Như vậy lợi ích lớn thay, này các Tỳ-khưu, là pháp minh kiến; như vậy
lợi ích lớn thay là chứng đắc pháp nhãn
[*].
[Tương Ưng 13.1]
[*] Đắc quả Dự lưu.
– Này các Tỳ-khưu, ví như một hồ sen 50 do tuần bề dài, 50 do tuần bề
rộng và 50 do tuần bề sâu, nước đầy tràn
khiến con quạ có thể uống được. Từ nơi hồ sen
ấy một người lấy nước lên với đầu ngọn
cỏ. Các Ông nghĩ thế nào? Này các Tỳ-khưu, cái nào nhiều hơn, nước
được lấy lên trên
đầu ngọn cỏ, hay nước của hồ sen?
– Chính cái này, bạch Thế Tôn, là nhiều hơn, tức là nước của hồ sen;
ít hơn là nước được lấy lên trên
đầu ngọn cỏ, không phải một trăm lần, không
phải một ngàn lần, không phải một trăm
ngàn lần, có thể sánh bằng khi so sánh nước của hồ sen với nước
được lấy lên trên
đầu ngọn cỏ.
– Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, đối với vị
Thánh đệ tử đã chứng được kiến cụ túc,
đối với người đã chứng được minh kiến,
khổ tàn dư trong tối đa bảy kiếp còn
lại quả thật ít hơn, so với toàn bộ khổ uẩn từ trước; không phải một trăm
lần, không phải một ngàn lần, không phải một trăm
ngàn lần, có thể sánh bằng khi so sánh với khổ uẩn từ trước.
Như vậy lợi ích lớn thay, này các Tỳ-khưu, là pháp minh kiến; như vậy
lợi ích lớn thay là chứng đắc pháp nhãn.
[Tương Ưng 13.2]
– Ví như, này các Tỳ-khưu, biển lớn đi
đến đoạn tận, diệt tận, trừ hai hay ba giọt nước. Các Ông nghĩ thế nào,
này các Tỳ-khưu? Cái gì là nhiều hơn, nước biển lớn
đi đến đoạn tận, diệt tận, hay là hai
hay ba giọt nước còn lại?
– Chính cái này, bạch Thế Tôn, là nhiều hơn, tức là nước của biển lớn
đi đến đoạn tận, diệt tận. Ít hơn là
hai hay ba giọt nước còn lại. Không phải một trăm
lần, không phải một ngàn lần, không phải một trăm
ngàn lần có thể sánh bằng, khi so sánh nước của biển lớn
đi đến đoạn tận, diệt tận với hai hay ba giọt
nước còn lại.
– Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, đối với vị
Thánh đệ tử đã chứng được kiến cụ túc,
đối với người đã chứng được minh kiến,
khổ tàn dư trong tối đa bảy kiếp còn
lại quả thật ít hơn, so với toàn bộ khổ uẩn từ trước; không phải một trăm
lần, không phải một ngàn lần, không phải một trăm
ngàn lần, có thể sánh bằng khi so sánh với khổ uẩn từ trước.
Như vậy lợi ích lớn thay, này các Tỳ-khưu, là pháp minh kiến; như vậy
lợi ích lớn thay là chứng đắc pháp nhãn.
[Tương Ưng 13.8]
Không phải các thành quả của bậc Dự Lưu chỉ xảy ra sau khi chết. Ngay
trong hiện tiền, vị ấy cũng hưởng được
nhiều lợi lạc.
Bấy giờ có Gia chủ Anāthapindika đi đến
Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế
Tôn nói với Gia chủ Anāthapindika đang ngồi
xuống một bên:
– Này Gia chủ, khi nào vị Thánh đệ tử làm
cho lắng dịu năm sợ hãi hận thù, thành
tựu bốn chi phần Dự lưu, khéo thấy, khéo thể nhập Thánh lý với trí tuệ;
nếu vị ấy muốn, có thể tự trả lời với mình rằng: "Ta
đã đoạn
tận địa ngục; ta đã đoạn tận bàng
sanh; ta đã
đoạn tận ngạ quỷ; Ta đã
đoạn tận các cõi dữ, ác thú,
đọa xứ; ta đã chứng Dự lưu, không còn
bị đọa lạc, quyết chắc chứng đạt cứu cánh
giác ngộ." Thế nào là năm sợ hãi
hận thù được làm cho lắng dịu?
Này Gia chủ, sát sanh, do duyên sát sanh tạo ra sợ hãi hận thù ngay
trong hiện tại, tạo ra sợ hãi hận thù trong tương lai, khiến tâm cảm thọ
khổ ưu. Người từ bỏ sát sanh, không tạo ra sợ hãi hận thù trong hiện tại,
không tạo ra sợ hãi hận thù ngay trong tương lai, không khiến tâm cảm thọ
khổ ưu. Người từ bỏ sát sanh, làm lắng dịu sợ hãi hận thù này.
Này Gia chủ, lấy của không cho... tà hạnh trong các dục... nói láo...
đắm say trong rượu men, rượu nấu; do duyên
đắm say trong rượu men, rượu nấu, tạo ra sợ hãi
hận ngay trong hiện tại, tạo ra sợ hãi hận thù trong tương lai, khiến cảm
thọ khổ ưu về tâm. Người từ bỏ đắm say trong
rượu men, rượu nấu, không tạo ra sợ hãi thù hận ngay hiện tại,
không tạo ra sợ hãi hận thù trong tương lai, không khiến cảm thọ khổ ưu về
tâm. Với người từ bỏ đắm say rượu men, rượu
nấu, như vậy sợ hãi hận thù này được
lắng dịu.
Năm sợ hãi hận thù này
được lắng dịu.
[Tăng Chi 10.92]
Này các Tỳ-khưu, có năm lợi ích này
cho thiện nam tử có lòng tin. Thế nào là năm?
Các Thiện nhân, các Chân nhân, trước hết có lòng thương tưởng
đến vị có lòng tin, không có như vậy
đối với vị không có lòng tin; khi
đến thăm, trước hết họ đến thăm vị có lòng
tin, không có như vậy đối với vị không có lòng
tin; khi chấp nhận, họ chấp nhận các món ăn
trước hết từ những người có lòng tin, không từ những người không có
lòng tin; họ thuyết pháp trước hết cho những người có lòng tin, không cho
những người không có lòng tin; người có lòng tin, sau khi thân hoại mạng
chung, được sanh lên cõi lành, cõi
Trời. Những pháp này, này các Tỳ-khưu, là năm
lợi ích cho thiện nam tử có lòng tin.
Ví như, này các Tỳ-khưu, trên khoảnh đất
tốt, tại ngã tư đường, có cây bàng
to lớn là chỗ nương tựa cho các loài chim chung quanh. Cũng vậy, này các
Tỳ-khưu, thiện nam tử có lòng tin là chỗ nương tựa cho quần chúng, cho các
Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni, cho nam cư sĩ và cho nữ cư sĩ.
Như cây bàng to lớn,
Với cành, lá, trái cây,
Với thân, rễ, đầy trái,
Làm chỗ trú loài chim.
Tại trú xứ thoải mái,
Các con chim làm tổ,
Cần bóng mát, hứng mát,
Cần trái cây, ăn trái.
Cũng vậy, vị trì giới,
Người có lòng tịnh tín,
Khiêm nhường và nhu thuận,
Hiền hòa, lời từ tốn,
Tánh tình thật dịu hiền,
Vị đoạn tham, đoạn sân,
Ðoạn si, không lậu hoặc,
Là ruộng phước ở đời.
Họ đến người như vậy,
Họ thuyết pháp, người ấy
Ðoạn trừ mọi khổ đau,
Vị ấy ở tại đây,
Hiểu biết Chánh pháp ấy,
Viên bản nhập Niết-bàn,
Hoàn toàn không lậu hoặc.
[Tăng Chi 5.38]
-ooOoo-
6. Lời khuyên
Mặc dù các vị Tỳ-khưu đệ tử đã
đạt được quả vị Dự Lưu nhờ các hướng dẫn
của Ngài, Đức Phật ngay trong giờ
phút cuối cùng còn tại thế vẫn khuyến nhủ các vị
đó không nên phóng dật và thỏa mãn
với thành quả đã
đạt được. Trái lại, các vị ấy cần phải nỗ
lực hơn nữa để tiếp tục tiến đến giải thoát tối hậu.
Và này các Tỳ-khưu, thế nào là pháp không phóng dật? Ở
đây, này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu hộ trì
tâm đối với các lậu hoặc và các pháp
hữu lậu. Do vị ấy hộ trì tâm đối với các lậu
hoặc và các pháp hữu lậu, nên tín căn
được tu tập đi đến viên mãn. ... tấn căn
... niệm căn ... định căn ... tuệ căn được tu tập đi đến viên mãn.
[Tương Ưng 48.56]
– Này Nandiyā, thế nào là vị Thánh
đệ tử trú phóng dật?
Ở đây, này Nandiyā,
vị Thánh đệ tử thành tựu lòng
tịnh tín bất động đối với đức Phật: "Ðây
là Như Lai, bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế
Tôn". Vị ấy thỏa mãn với lòng tịnh tín bất
động đối với Phật, không cố gắng thêm, ban ngày không sống viễn ly,
ban đêm không sống Thiền tịnh. Do vị
ấy sống phóng dật như vậy, nên không có hân hoan. Do không có hân hoan,
nên không có hỷ. Do không có hỷ, nên không có khinh an. Do không khinh an,
nên sống đau khổ. Do tâm đau khổ, nên
không định tĩnh. Do tâm không định tĩnh, nên
các pháp không hiện rõ. Do các pháp không hiện rõ, nên vị ấy
được gọi là trú phóng dật.
Lại nữa, này Nandiyā, vị Thánh
đệ tử thành tựu lòng tịnh tín bất
động đối với Pháp: "Pháp do Thế Tôn khéo
thuyết, thiết thực hiện tại, có hiệu quả tức thời, đến để mà thấy,
có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình
giác hiểu". Vị ấy thỏa mãn với lòng tịnh tín bất
động đối với Pháp, không cố gắng thêm,
ban ngày không sống viễn ly, ban đêm
không sống Thiền tịnh. Do vị ấy sống phóng dật như vậy, nên không có hân
hoan. Do không có hân hoan, nên không có hỷ. Do không có hỷ, nên không có
khinh an. Do không khinh an, nên sống đau
khổ. Do tâm đau khổ, nên không định
tĩnh. Do tâm không định tĩnh, nên các pháp không hiện rõ. Do các
pháp không hiện rõ, nên vị ấy được gọi là
trú phóng dật.
Lại nữa, này Nandiyā, vị Thánh
đệ tử thành tựu lòng tịnh tín bất
động đối với chúng Tăng: "Diệu hạnh là
chúng đệ tử của Thế Tôn. Trực hạnh là
chúng đệ tử của Thế Tôn. Ứng lý hạnh là
chúng đệ tử của Thế Tôn. Chơn chánh hạnh là
chúng đệ tử của Thế Tôn. Tức là bốn
đôi tám chúng. Chúng đệ tử của Thế Tôn là
đáng cung kính, đáng cúng dường, đáng tôn
trọng, đáng được chấp tay, là phước
điền vô thượng ở đời". Vị ấy thỏa mãn với lòng tịnh tín bất
động đối với chúng Tăng, không cố gắng thêm,
ban ngày không sống viễn ly, ban đêm
không sống Thiền tịnh. Do vị ấy sống phóng dật như vậy, nên không có hân
hoan. Do không có hân hoan, nên không có hỷ. Do không có hỷ, nên không có
khinh an. Do không khinh an, nên sống đau
khổ. Do tâm đau khổ, nên không định
tĩnh. Do tâm không định tĩnh, nên các pháp không hiện rõ. Do các
pháp không hiện rõ, nên vị ấy được gọi là
trú phóng dật.
Vị ấy thành tựu các giới được các bậc
Thánh ái kính, không bị phá hoại, không bị đâm cắt, không bị nhiễm ô,
không bị uế nhiễm, đem lại giải thoát, được người trí tán thán, không bị
chấp thủ, đưa đến Thiền định. Vị này thỏa mãn với những giới
được các bậc Thánh ái kính, không cố gắng thêm,
ban ngày không sống viễn ly, ban đêm
không sống Thiền tịnh. Do vị ấy trú phóng dật như vậy nên không có hân
hoan. Do không có hân hoan, nên không có hỷ. Do không có hỷ, nên không có
khinh an. Do không có khinh an, nên sống đau
khổ. Do tâm đau khổ, nên không định
tĩnh. Do tâm không định tĩnh, nên các pháp không hiện rõ. Do các
pháp không hiện rõ, nên vị ấy được gọi là
trú phóng dật.
– Này Nandiyā, thế nào là vị Thánh
đệ tử trú không phóng dật?
Ở đây, này Nandiyā,
vị Thánh đệ tử thành tựu lòng
tịnh tín bất động đối với đức Phật: "Ðây
là Như Lai, bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế
Tôn". Vị này không thỏa mãn với lòng tịnh tín bất
động ấy, cố gắng hơn nữa, ban ngày
sống viễn ly, ban đêm sống Thiền tịnh.
Do vị ấy sống không phóng dật, nên hân hoan khởi. Do vị ấy hân hoan, nên
hỷ sanh. Do ý có hỷ, nên thân khinh an. Do thân khinh an, nên vị ấy cảm
thọ lạc. Do tâm được lạc, nên vị ấy
định tĩnh. Do tâm định tĩnh, các pháp được
hiện ra. Do các pháp được hiện ra, vị ấy được gọi là trú không
phóng dật.
Lại nữa, này Nandiyā, vị Thánh
đệ tử thành tựu lòng tịnh tín bất
động đối với Pháp: "Pháp do Thế Tôn khéo
thuyết, thiết thực hiện tại, có hiệu quả tức thời, đến để mà thấy,
có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình
giác hiểu". Vị này không thỏa mãn với lòng tịnh tín bất
động ấy, cố gắng hơn nữa, ban ngày
sống viễn ly, ban đêm sống Thiền tịnh.
Do vị ấy sống không phóng dật, nên hân hoan khởi. Do vị ấy hân hoan, nên
hỷ sanh. Do ý có hỷ, nên thân khinh an. Do thân khinh an, nên vị ấy cảm
thọ lạc. Do tâm được lạc, nên vị ấy
định tĩnh. Do tâm định tĩnh, các pháp được
hiện ra. Do các pháp được hiện ra, vị ấy được gọi là trú không
phóng dật.
Lại nữa, này Nandiyā, vị Thánh
đệ tử thành tựu lòng tịnh tín bất
động đối với chúng Tăng: "Diệu hạnh là
chúng đệ tử của Thế Tôn. Trực hạnh là
chúng đệ tử của Thế Tôn. Ứng lý hạnh là
chúng đệ tử của Thế Tôn. Chơn chánh hạnh là
chúng đệ tử của Thế Tôn. Tức là bốn
đôi tám chúng. Chúng đệ tử của Thế Tôn là
đáng cung kính, đáng cúng dường, đáng tôn
trọng, đáng được chấp tay, là phước
điền vô thượng ở đời". Vị này không thỏa mãn với lòng tịnh tín bất
động ấy, cố gắng hơn nữa, ban ngày
sống viễn ly, ban đêm sống Thiền tịnh.
Do vị ấy sống không phóng dật, nên hân hoan khởi. Do vị ấy hân hoan, nên
hỷ sanh. Do ý có hỷ, nên thân khinh an. Do thân khinh an, nên vị ấy cảm
thọ lạc. Do tâm được lạc, nên vị ấy
định tĩnh. Do tâm định tĩnh, các pháp được
hiện ra. Do các pháp được hiện ra, vị ấy được gọi là trú không
phóng dật.
Vị ấy thành tựu các giới được các bậc
Thánh ái kính, không bị phá hoại, không bị đâm cắt, không bị nhiễm ô,
không bị uế nhiễm, đem lại giải thoát, được người trí tán thán, không bị
chấp thủ, đưa đến Thiền định. Vị ấy không thỏa mãn với các giới
được các bậc Thánh ái kính, cố gắng tinh tấn
hơn nữa, ban ngày sống viễn ly, ban đêm
sống Thiền tịnh. Do vị ấy sống không phóng dật như vậy, hân hoan sanh. Vị
ấy có hân hoan, nên hỷ sanh. Do ý có hỷ, nên thân kinh an. Do thân khinh
an, nên vị ấy cảm thọ lạc. Do tâm được lạc, nên
vị ấy định tĩnh. Do tâm định tĩnh, các pháp
được hiện ra. Do các pháp được hiện ra, vị ấy được gọi là trú không
phóng dật. Như vậy, này Nandiyā, là vị
Thánh đệ tử trú không phóng dật.
[Tương Ưng 55.40]
– Này Dīghāvu, sau khi Ông
đã an trú trong bốn Dự lưu phần này,
Ông hãy tu tập thêm sáu minh phần pháp. Ở
đây, này Dīghāvu, Ông hãy trú,
quán vô thường trong tất cả hành, quán khổ tưởng trong vô thường, quán vô
ngã tưởng trong khổ, quán tưởng đoạn tận,
quán tưởng ly tham, quán tưởng đoạn diệt. Như vậy, này Dīghāvu,
Ông cần phải học tập.
[Tương Ưng 55.3]
-ooOoo-
Ðầu trang |
Quả Dự Lưu - Phần 1 |