Lưu ý: Đọc với phông chữ
VU-Times (Viet-Pali Unicode) |
-ooOoo-
Phần 1
CÁC CHUYỆN LIÊN QUAN ĐẾN BỐ THÍ
1. Chuyện đại tướng Siha
(Kinh Sihasenapatisutta)
Cách đây hơn 2500 năm về trước, tại nước Ấn Độ, vào thuở nọ Đức Phật
ngự trong khu rừng gần thành Vesali, có vị đại tướng tên là Siha đến cung
kính đảnh lễ Đức Phật và thưa rằng:
- Kính bạch Đức Thế Tôn! Ngài có thể giảng giải cho con biết sự bố
thí đến người khác sẽ có được lợi ích gì, nhất là ngay trong kiếp hiện tại
này không?
Đức Phật từ bi trả lời: - Có thể được.
- Này Đại tướng Siha! Điều lợi ích thứ nhất là người bố thí sẽ đuợc
phần đông quần chúng thương yêu mến mộ.
- Này Đại tướng Siha! Điều thứ hai là người bố thí sẽ được phần đông
Hiền Nhân, Thiện Trí ưa mến, thích thân cận và gần gũi.
- Này Đại tướng Siha! Điều thứ ba là danh thơm, tiếng tốt từ tấm lòng
vị tha rộng mở của người bố thí sẽ nhanh chóng lan tõa khắp nhiều nơi.
- Này Đại tướng Siha! Điều lợi ích lớn lao thứ tư: Do quả lành của sự
bố thí mà người bố thí có tâm dũng mãnh tự nhiên không hề rụt rè sợ sệt,
hằng với khuôn mặt vui tươi rạng ngời khi đi vào giữa 4 hội đoàn:
* Hội đoàn của vua quan;
* Hội đoàn của giai cấp bá hộ giàu sang;
* Hội đoàn của giai cấp bà la môn;
* Hội đoàn của sa môn (những bậc xuất gia tu hành).
- Này Đại tướng Siha! Điều lợi ích quý báu thứ năm là người bố thí sau
khi thân hoại mạng chung, được sanh về cõi trời hưởng được mọi sự an lạc
do phước lành đã tạo.
Đại tướng Siha sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp xong thì vô cùng cảm
động và hoan hỷ cung kính thưa rằng: "Kính bạch Đức Thế Tôn! Bốn quả lành
đầu của sự bố thí mà Ngài đã dạy, không phải con nghe và tin nơi Ngài, mà
các điều đó chính riêng bản thân con đã và đang kinh nghiệm trải qua. Con
được phần đông quần chúng thương yêu mến mộ, các bậc Thiện Trí, Hiền Nhân
thường đến thăm viếng con và tiếng đồn về con rằng: "Đại tướng Siha là
người rộng lượng, thường bố thí và cúng dường đến sa môn...", con thường
có tâm dũng mãnh không hề sợ sệt hay rụt rè khi đi vào giữa các hội đoàn
đông đúc (vua chúa, sa môn, bà la môn, hội đoàn của những người giàu sang
phú quí ...)
Còn quả lành thứ năm Ngài đã dạy: "Do Phước lành của sự bố thí mà sau
khi thân hoại mạng chung sẽ được thọ sanh vào các cõi an vui, cõi trời."
Điều này thực sự con chưa biết, chưa có kinh nghiệm tự thân, nhưng con có
đức tin nơi lời dạy của Đức Thế Tôn."
Một lần nữa Đấng Thiên Nhơn Sư từ bi nhắc lại rằng: "Những quả lành của
sự bố thí thật đúng như vậy. Sự thật là như vậy - Này đại tướng Siha! Thí
chủ bố thí sau khi chết sẽ được sanh vào nhàn cảnh, cõi trời, thọ hưởng
mọi sự an lạc."
2. Chuyện hai nhà sư bạn
Vào thời Đức Phật Kassapa có hai nhà Sư là bạn thân với nhau.
Một ngừơi hằng có tâm bố thí cúng dường, người còn lại thì không có tâm
làm phước bố thí.
Người hằng có tâm làm phước bố thí thường động viên nhắc nhở vị Sư bạn
mình rằng:
- Này bạn, hãy phát tâm bố thí, vì trong vòng luân hồi sanh tử này, nhờ
phước lành của bố thí bảo trợ mà chúng ta sẽ không bị thiệt thòi và nếu có
nhiều ước nguyện sẽ dễ dàng thành tựu. Vì vậy chúng ta hãy nên tranh thủ
khẩn trương bố thí.
Mặc dù thường xuyên được sự động viên ân cần nhắc nhở, nhưng vị Sư bạn
vẫn không rộng lòng thực hiện hạnh bố thí.
Vào cuối kiếp đó, cả hai vị hết tuổi thọ được sanh luân lưu trong hai
cõi trời người nhiều kiếp. Đến thời Phật Tổ Thích Ca Gotama, vị Sư có tâm
rộng lòng bố thí thọ sanh vào làm con trai vua Kosala. Là vị hoàng tử được
sống trong sự vinh quang của cung vàng điện ngọc, trong nhung lụa giàu
sang phú quý.
Còn vị Sư không rộng lòng bố thí lại thọ sanh vào làm con trai người nữ
nô tì nghèo nàn phục dịch trong cung điện.
Vào một ngày nọ, thái tử con vua Kosala nằm trên long sàn, do phước đặc
biệt đã tạo từ quá khứ, mà Thái tử nhớ biết được quá khứ, và có sự hiểu
biết được rõ ràng do nguyên nhân nào từ quá khứ mà mình được thọ hưởng
cảnh giàu sang cung vàng điện ngọc này. Trong khi suy tư về quá khứ, thái
tử nhi bỗng nhớ đến một vị sư bạn thân từ thời đức Phật Kassapa: "Vào thời
ấy ta thường động viên thúc đẩy vị Sư bạn của ta hãy khẩn trương rộng lòng
bố thí, nhưng người ấy vẫn không chịu nghe theo. Không biết bây giờ bạn ta
đã thọ sanh về đâu?" Nghĩ đến đó Thái tử thấy ở dưới cung điện, vị Sư bạn
mình đã hạ sanh làm con trai của nữ nô tì nghèo nàn phục dịch trong cung
điện.
Gặp lại người bạn xưa trong cung điện, Thái tử nhi cất giọng hỏi với
xuống dưới rằng:
- Này bạn! Vào kiếp xưa ta thường động viên thúc đẩy bạn bố thí nhưng
bạn không chịu nghe theo, do nhân đó mà nay bạn phải chịu thọ sanh vào gia
đình người hầu hạ.
- Này bạn hãy nhìn kỹ vào ta! Bây giờ ta đang nằm trên giường vàng ghế
ngọc, chung quanh gấm vóc lụa là... ấy là bởi nhân của sự rộng lòng bố thí
của ta từ trước vậy.
Con trai người nữ nô tỳ bấy giờ đáp trả lại rằng:
- Này Thái tử! Bạn bây giờ dù có cung vàng điện ngọc, gấm vóc lụa là,
nhưng suy cho cùng tất cả cũng chỉ là tứ đại: đất, nước, gió, lửa đó mà
thôi.Tất cả rồi sẽ bị tiêu hoại cũng như ta bây giờ: giường rách áo tơi
dưới gầm cung điện nhưng tất cả cũng chỉ là do Tứ Đại hợp thành mà thôi
chẳng khác gì bạn đâu!.
Ngay vào lúc đó nàng công chúa Sumana - con của đức vua - là người chị
của Thái tử khi nghe cuộc nói chuyện giữa hai trẻ này, nàng giật mình kinh
ngạc thầm nghĩ rằng: "Hai trẻ này vào độ tuổi chưa biết nói mà lại nói
chuyện được. Đặc biệt hơn nữa chúng lại có sự hiểu biết sâu sắc về bản
chất cấu tạo của mọi sự vật, như tất cả chỉ là Đất, Nước, Gió, Lửa. Điều
hy hữu này khó ai mà hiểu rõ nguyên nhân, chỉ có Đức Phật mới có thể hiểu
được. Ta nên đến hỏi Ngài mới được.
Sau đó nàng công chúa Sumana cùng với 500 cô hầu nữ thắng 500 cổ xe đi
thẳng đến Kỳ Viên Tịnh Xá tại kinh đô thành Xá Vệ, nơi đức Phật Gotama
đương ngự. Sau khi đảnh lễ Đức Thế Tôn, nàng ngồi một nơi hợp lẽ rồi cung
kính thưa rằng:
- Kính bạch đức Thế Tôn! Nếu trong tăng đoàn Đệ tử Ngài, có hai người
đều ngang nhau về Giới (Đức Hạnh), đều ngang nhau về đức tin, và ngang
nhau về trí tuệ. Trong hai người đó, một người có sự bố thí cúng dường,
còn người còn lại không có sự bố thí cúng dường. Nếu sau khi thân hoại
mạng chung, đồng được sanh về cõi trời thì giữa hai người đó có gì đặc
biệt không? Có gì khác nhau không?.
Đức Phật khẳng định:
- Có sự đặc biệt khác nhau, này Sumana!
- Tuổi thọ tại cõi trời; sắc đẹp tại cõi trời; giàu sang tại cõi trời;
tuỳ tùng đông hầu hạ tại cõi trời; oai lực danh xưng tại cõi trời. Nầy
Sumana! Người lúc trước có sự bố thí hơn hẳn người không có bố thí về năm
phước báu này.
- Kính bạch Đức Thế Tôn! Sau khi hết tuổi thọ tại cõi trời, nếu đầu
thai xuống trần gian làm loài người thì giữa hai người đó có gì đặc biệt
không? Có gì khác nhau không?
- Tuổi thọ dài tại cõi người, giàu sang tại cõi ngưòi; sắc đẹp tại cõi
người; tuỳ tùng đông tại cõi người và có oai lực danh xưng tại cõi người.
Nầy Sumana! Người lúc trước có sự bố thí sẽ hơn hẳn người không có sự bố
thí về 5 phước báu này trong thế giới loài người.
- Kính bạch Đức Thế Tôn. Nếu cả hai người ấy cùng rời khỏi gia đình để
trở thành bậc xuất gia tu hành thì có gì đặc biệt khác nhau giữa hai
người?
- Này Sumana! Mặc dầu tuy bề ngoài giống nhau về hình thức là bậc xuất
gia, nhưng có sự đặc biệt khác nhau giữa hai vị tỳ kheo ấy. Vị tỳ kheo có
nhân bố thí từ trước hơn hẳn vị tỳ kheo không có nhân bố thí từ trước bởi
các pháp sau:
* Nếu có nhu cầu xin thọ nhận sự cúng dường về vải vóc y áo, thì sẽ
được nhiều y áo. Nếu không có nhu ccầu xin thọ nhận sự cúng dường thì cũng
được ít y áo.
* Nếu có nhu cầu xin thọ nhận về cơm, vật thực, thì sẽ được nhiều cơm
và vật thực, nếu không có nhu cầu thọ nhận về cơm và vật thực thì cũng
nhận được ít.
* Nếu có nhu cầu xin thọ nhận sự cúng dường về thuốc men crửa bệnh thì
sẽ được thọ nhận nhiều thuốc men crửa bệnh. Nếu không có nhu cầu về thọ
nhận thuốc men để crửa bệnh thì cũng nhận được ít.
* Nếu có nhu cầu xin thọ nhận sự cúng dường về chỗ ở, thì sẽ được chỗ ở
tốt lành. Nếu không có nhu cầu xin thọ nhận chỗ ở, thì cũng được chỗ ở.
* Là người thoả thích trong nhiều cử chỉ hành động, tư cách tác phong
lịch sự, rất ít thể hiện những tư cách tác phong không đẹp mà mình không
vừa lòng.
* Là người thoả thích nhiều đối với những lời nói có tư cách, có lợi
ích, và rất ít thể hiện về những lời nói không đẹp không có lợi ích.
* Nếu Tâm thoả thích nhiều về sự cung kính cúng dường của người khác
thì sẽ được thọ nhận sự cung kính cúng dường của người khác.
* Ngược lại nếu không thoả thích sự cung kính cúng dường (về một phương
diện nào đó) thì sẽ thọ nhân được ít sự cung kính cúng dường ấy.
- Nầy Sumana! Vị Tỳ kheo có sự bố thí từ trước hơn hẳn vị không có sự
bố thí từ trước bởi 5 phước báu trên trong đời sống xuất gia tu hành...
- Kính bạch Đức Thế tôn! Nếu cả hai Tỳ kheo cùng tinh tấn hành đạo và
cùng chứng đắc đạo quả A la hán thì có sự đặc biệt khác nhau gì giữa hai
bậc thánh A la hán này chăng?
- Này Sumana! Như lai không nói rằng là có sự khác nhau giữa hai bậc
Thánh nhân đã đắc đạo quả A la hán này.
- Kính bạch Đức Thế Tôn. Vô cùng tuyệt vời thay! Vô cùng vi diệu thay!
Kính Bạch Đức Thế Tôn! Điều không thể thành tựu mà luôn luôn thành tựu. Sự
bố thí là việc làm hợp lẽ. Các việc phước thiện là việc đáng nên làm.
- Này Sumana! Với các quả lành này sau khi sanh vào cõi trời cũng được
hưởng sự an lạc thù thắng. Khi sanh vào cõi người cũng được hưởng thọ các
phước lành ấy. Thậm chí các quả lành ấy vẫn bảo trợ đời sống vị Tỳ kheo
cho đến thời gian cuối cùng khi nhập vào Niết Bàn vô sanh bất diệt.
- Đó là những sự thật! Đó là điều thực tế!
- Này Sumama! Như mặt trăng giữa bầu trời kia không bợn nhơ, không vẩn
đục. Anh sáng của nó lấn át những vì sao đêm như thế nào thì cũng vậy:
Trong thế gian này người có đầy đủ giới đức; đầy đủ đức tin; lại thêm rộng
lòng bố thí thì sẽ hưởng những quả lành thù thắng hơn hẳn người có giới,
có đức tin mà không rộng lòng bố thí dường như thế ấy.
- Quả đúng như vậy, này Sumana! Người bố thí sẽ hơn hẳn người không bố
thí bởi 5 pháp.
* Tuổi thọ dài
* Dung sắc xinh đẹp
* Tuỳ tùng đông, nhiều oai lực
* Giàu sang phú quý
* Khi chết sinh về cõi trời và thọ hưởng được nhiều an lạc.
3. Nhân nào quả nấy - Chuyện Hoàng Hậu Mallikā
(Kinh Aṅguttaranikāya
- bài kinh Mallikāsutta)
Cách đây hơn 2500 năm về trước, tại nước Ấn Độ trong thành Savathi. Vào
một thuở nọ Đức Phật ngự tại Jetavana (Kỳ Viên Tịnh Xá) - của ông trưởng
giả Cấp Cô Độc. Khi ấy có hoàng hậu Mallik ā đến hầu đảnh lễ Đức Phật và
thưa rằng:
1- Kính bạch Đức Thế Tôn! Do nhân duyên nào mà trong thế gian này có
một số phụ nữ không những không có hình dáng xinh đẹp, da dẻ khô cằn, ngũ
quan không cân đối, không đáng cho phần đông chiêm ngưỡng mà lại còn là
người nghèo nàn, không có oai lực danh tiếng, địa vị trong xã hội?
2- Kính bạch Đức Thế Tôn! Do nhân duyên nào có số phụ nữ hình dáng
không xinh đẹp, ngũ quan không cân đối xấu xí, không đáng cho phần đông
chiêm ngưỡng, tuy thế lại là người giàu sang, tài sản, thọ dụng được nhiều
thứ của cải và có oai lực danh tiếng, địa vị trong xã hội?
3- Kính bạch Đức Thế Tôn! Do nhân duyên nào có số phụ nữ dung nhan vô
cùng xinh đẹp, hài hòa cân đối và duyên dáng, đáng chiêm ngưỡng thõa thích
cho phần đông, tuy nhiên lại là người nghèo khó, không có tài sản, không
thọ dụng được của cải, cũng như không có địa vị, danh tiếng trong xã hội?
4- Kính bạch Đức Thế Tôn! Do nhân duyên nào có số phụ nữ hầu như được
toàn diện về nhiều mặt, là người có dung nhan vô cùng xinh đẹp, duyên
dáng, là nơi thoả thích chiêm ngưỡng cho phần đông, không những vậy mà còn
là người giàu sang phú quí, có nhiều tài sản, thọ hưởng được nhiều của cải
, có danh tiếng và địa vị cao quý trong xã hội?
Sau khi nghe xong, Đấng Thiên Nhân Sư thuyết giảng rằng:
1a - Này Mallikā! Trong thế gian này có số phụ nữ tính tình nóng nảy,
tính khí bất thường, dễ dàng nỗ i cơn thịnh nộ khi có ai xâm phạm đến, dù
là việc nhỏ vụn, biểu hiện sự không hài lòng, nóng giận, dữ dằn, gây thù
chuốc oán với người khác. Không những thế lại còn không có đức tin vào
thiện pháp, không hoan hỷ tạo phước điền, bố thí cơm, nước, hoa qủa, thuốc
men, vật thơm, dầu thoa, các phương tiện, vãi vóc, y phục, đèn dầu, chỗ ở,
chỗ nằm ngồi... đến chư Sa môn, Bà la môn... Tính tình họ đố kỵ, ganh tỵ
đối với những người có của cải tài sản. Đem tâm tỵ hiềm với sự làm phước
của người khác. Ganh tỵ với những người được lợi lộc; được quần chúng cung
kính; mến mộ ... và họ còn làm nhiều việc sái quấy khác.v.v..
Số phụ nữ nầy sau khi chết, nếu do ảnh hưởng một phước lành nào đó
trong quá khứ, được tái sanh trở lại làm người thì sẽ là người có hình
dáng không xinh đẹp, da dẻ sần sùi, đường nét dung nhan xấu xí, tứ chi,
ngũ quan tai mắt không đẹp, không trong sáng, là người không có sự hấp dẫn
cho thị hiếu chiêm ngưỡng của phần đông. Không những thế còn là người
nghèo khó, khỗ cực, không có tài sản, không thọ hưởng được của cải, và có
địa vị danh tiếng thấp kém trong xã hội.
2a - Này Mallikā! Trong thế gian này, có số phụ nữ tính tình hung hãn,
dữ dằn, dễ dàng nỗ i cơn thịnh nộ, tuy vậy nhưng lại có đức tin, có tâm
tạo phước điền bố thí hoa quả, cơm nước,... đến các Sa môn, Bà la môn. Số
phụ nữ ấy không có tâm đố kỵ với những lợi lộc; không ganh tỵ với những
người được tán dương khen ngợi, được sự cung kính cúng dường, thương yêu
kính mến của những người khác.
Những người phụ nữ này, nếu được tái sanh trở lại làm người, thì thân
sắc không xinh đẹp, da dẻ khô cằn, dung mạo xấu xí, không là nơi đáng
chiêm ngưỡng thõa thích của phần đông. Tuy nhiên lại là người giàu sang
phú quý có nhiều tài sản và thọ hưởng được của cải, có oai lực, danh
tiếng, địa vị cao quý trong xã hội.
3a - Này Mallikā! Trong thế gian này có số phụ nữ không có nhiều tính
sân hận; tâm không có nhiều mệt mỏi; nếu bị người ta có nhiều lời xúc phạm
đến cũng không bất bình, không nỗ i cơn thịnh nộ dữ dằn; không có tính khí
bất thường hay gây hiềm hận với người khác; không có hành động biểu hiện
rõ sự bất bình, nóng giận, sự không ưa thích đến người khác. Tuy nhiên
người này không có tâm tạo phước điền, hoan hỷ bố thí hoa quả, cơm nước,
vật thơm, vật thoa,... đến các hàng Sa môn, Bà la môn... lại có tâm đố kỵ
với người nhiều lợi lộc; ganh tỵ với những người được sự tán dương khen
ngợi, được sự thương yêu, quý mến, cung kính cúng dường của người khác;
đồng thời thể hiện những hành động sai lầm về sự đố kỵ, ganh tỵ ấy.
Số phụ nữ này sau khi chết, nếu như được tái sanh trở lại làm kiếp
người thì có dung nhan vô cùng xinh đẹp, hài hòa, cân đối, duyên dáng; là
nơi xứng đáng cho thị hiếu chiêm ngưỡng của phần đông. Tuy nhiên lại là
người nghèo khó, khỗ cực, không có tài sản, không thọ hưởng được của cải
cũng như không có oai lực, địa vị cao quý trong xã hội.
4a - Này Mallikā! Trong thế gian này có số phụ nữ không có nhiều tính
sân hận, không có nhiều bực dọc, mệt mỏi; nếu bị người ta có nhiều lời xúc
phạm, cũng không nỗ i cơn thịnh nộ dữ dằn; không có tính bất thường hay
hiềm hận với người khác; không có hành động cư xử thể hiện rõ sự nóng
giận, sự bất bình hay sự không vui thích đến người khác. Không những thế
mà còn có tâm hoan hỷ làm phước bố thí hoa quả, cơm nước, vật thơm, vật
thoa, thuốc men,...đến các hàng Sa môn, Bà la môn... Là người không có tâm
đố kỵ với những lợi lộc; không ganh tỵ với những người được sự tán dương,
khen ngợi, được sự thương yêu qúy mến, cung kính, cúng dường của người
khác.
Những phụ nữ này sau khi chết nếu được tái sanh trở lại loài người thì
là người có dung nhan tuyệt sắc, làn da mịn màng tươi mát, đáng là nơi
thõa thích chiêm ngưỡng cho phần đông, còn là người giàu sang nhiều tài
sản, thọ hưởng được của cải, có oai lực, danh tiếng và địa vị cao quý
trong xã hội.
* Này Mallikā! Do nguyên nhân và hạnh nghiệp của số phụ nữ có tính tình
nóng nảy, tính khí bất thường, dễ dàng nỗ i cơn thịnh nộ khi có ai xâm
phạm đến, dù là việc nhỏ vụn, biểu hiện sự bất bình, nóng giận, dữ dằn,
gây thù chuốc oán với người khác...do đó kiếp hiện tại này cho quả là nhan
sắc không xinh đẹp, không đáng cho phần đông thõa thích chiêm ngưỡng.
* Này Mallikā! Do nguyên nhân và hạnh nghiệp không từng tạo nhân phước
điền, làm phước bố thí cơm nước, hoa quả, thuốc men, vải vóc, y phục,
phương tiện chỗ ở... đến Sa môn, Bà la môn từ tiền kiếp mà kiếp hiện tại
này cho quả là người nghèo khó, không có tài sản...
* Này Mallikā! Do nguyên nhân và hạnh nghiệp không có nhiều tính sân
hận; tâm không có nhiều mệt mỏi; nếu bị người ta có nhiều lời xúc phạm đến
cũng không bất bình, không nỗ i cơn thịnh nộ dữ dằn; không có tính khí bất
thường hay gây hiềm hận với người khác; không có hành động biểu hiện rõ sự
bất bình, nóng giận, sự không ưa thích đến người khác ... từ kiếp quá khứ,
mà kiếp hiện tại này cho quả là người nữ có dung nhan xinh đẹp diễm kiều,
duyên dáng, làn da tươi mát, mịn màng... đáng là nơi thõa thích chiêm
ngưỡng của phần đông.
* Này Mallikā! Do nguyên nhân và hạnh nghiệp thường làm phước bố thí
cơm nước, hoa quả, thuốc men, ... đến các sa môn, bà la môn... từ tiền
kiếp mà kiếp này cho quả được giàu sang phú quý, nhiều tài sản, thọ hưởng
được nhiều của cải...
* Này Mallikā! Do nguyên nhân và hạnh nghiệp không có lòng đố kỵ; không
ganh tỵ đối với những người được nhiều lợi lộc, được sự tán dương, cung
kính cúng dường của người khác; cũng như không làm hư hoại lợi lộc, thanh
danh của người khác... từ tiền kiếp mà kiếp này cho quả là người có công
danh, địa vị cao quý trong xã hội.
Sau khi lắng nghe Đức Phật thuyết giảng xong, bà chánh cung Hoàng Hậu
bèn cung kính thưa rằng:
- Kính bạch Đức Thế Tôn! Do kiếp trước của con là người có tâm sân hận,
nóng nảy, bực tức, tính khí thất thường, dễ dàng nỗ i cơn thịnh nộ, biểu
hiện rõ sự hung hãn dữ dằn, gây hiềm hận với người khác dù chỉ có một vài
lời nói xúc phạm đến con. Do vậy mà kiếp này dung nhan con không được xinh
đẹp, da dẻ khô cằn không xứng đáng cho sự thõa thích chiêm ngưỡng của phần
đông.
- Kính bạch Đức Thế Tôn! Do tiền kiếp con có tâm tạo phước bố thí cơm
nước, thuốc men, y phục, vải vóc ... đến Sa môn, bà la môn ... mà kiếp này
con là người giàu sang phú quý.
- Kính bạch Đức Thế Tôn! Do tiền kiếp con là người không có tính ganh
tỵ và đố kỵ với những người được lợi lộc, được sự trọng vọng cung kính,
cũng như không có lòng ganh tỵ với những người được sự thương yêu quý mến
của những người khác, do vậy mà hiện tại con là người có địa vị cao quý.
- Kính bạch Đức Thế Tôn! Trong quốc độ này tất cả những phụ nữ thuộc
nhiều dòng tộc khác nhau: Bà la môn, hoàng tộc, công khanh tướng phủ ...
Con là người có địa vị cao quý đặc biệt hơn tất cả những người phụ nữ ấy.
Những người phụ nữ ấy đều dưới quyền cai quản của con.
- Kính bạch Đức Thế Tôn! Bắt đầu hôm nay trở về sau, con sẽ cố gắng
kiềm chế, không để cho nhiều sân hận, nóng nảy, bực tức phát sinh cho dù
người khác có nặng lời xúc phạm đến con chăng nữa...
- Con sẽ phát tâm hoan hỷ làm phước bố thí vật ăn, thức uống, chỗ ở,...
đến chư Sa môn, Bà la môn ...
- Con sẽ không có tính ganh tỵ đến sự cúng dường bố thí của người khác;
không làm hành động sai trái ảnh hưởng đến lợi ích của người khác bởi do
tính ích kỷ, đố kỵ nhỏ nhen của con nữa.
- Kính bạch Đức Thế Tôn! Con vô cùng hoan hỷ bởi lời dạy cao quý của
Ngài quá sức rõ ràng!
- Kính bạch Đức Thế Tôn! Kính xin Ngài chứng minh cho con là Người cận
sự nữ có đức tin trong sạch và xin nương tựa nơi Ân Đức Tam Bảo từ nay đến
trọn đời.
4. Chuyện về Đạo sĩ Akitti.
Tại kinh đô Bārāṇas (Balanại) do đức vua Yamada cai quản, trong dòng họ
Mahasala có một gia đình phú hộ có tiền của lên đến 800 triệu. Họ sinh hạ
được một người con trai tên là Akitti.
Khi Akitti đến tuổi biết đi thì ông bà sinh ra được một người con gái
nữa tên là Yasavati.
Đến tuổi trưởng thành, Akitti được đến trường đại học. Sau khi học xong
thông thạo thập bát ban võ nghệ binh thư yếu lược, chiêm tinh, địa lý,...
chàng trở về quê hương thăm cha mẹ. Ông bà nay đã già yếu nên giao phó của
cải, tài sản, vàng bạc cho chàng là người con trai có trí tuệ.
Cha mẹ chàng sau khi qua đời thì Akitti Trí Tuệ thọ lãnh gia tài và trở
thành phú hộ trẻ.
Chàng Phú hộ trẻ suy nghĩ rằng: Từ thời tổ tiên, ông bà cha mẹ ta đã
lần lượt qua đời, nhưng không một ai mang theo được một chút tài sản gì,
của cải lần lượt đã bỏ ông bà cùng cha mẹ ta! Bây giờ đến phiên ta, sau
khi ta qua đời, tất cả của cải nầy sẽ phải theo ta. Nghĩ vậy mà chàng phú
hộ trẻ bàn bạc với người em gái.
- Này em gái! Ông Bà, Cha mẹ của chúng ta mất đi song chẳng mang theo
được chút của cải gì. Chúng ta sẽ mang theo của cải nầy sau khi chết bằng
cách bố thí tất cả để tạo Phước lành, rồi sống cuộc đời đạo sĩ, em có bằng
lòng không?
- Này anh! Chỗ tài sản này anh đã từ bỏ nó, như nhỗ đi một bãi nước bọt
thì em đây lẽ nào nhận nó được sao?
Sau khi bàn bạc xong, hai anh em dựng đàn trại trước nhà để bố thí suốt
7 ngày, 7 đêm. Song với 800 triệu của cải, hai anh em bố thí không thể nào
hết được, bèn viết bảng dán lên cửa rằng: "Những ai cần vật gì trong nhà
này thì hãy đến mà chọn lấy." Rồi họ ra đi.
Họ đi vào rừng cách xa thành Balanại khoảng 2-3 dặm. Hai anh em bắt đầu
đời sống đạo sĩ tu hành tại đó.
Theo gương của chàng trai Akitta giờ đã trở thành đạo sĩ, dân trong
kinh thành lần lượt cũng kéo vào rừng. Rồi họ cũng được đạo sĩ Akitta hiền
từ dạy dỗ, hướng dẫn tu hành. Dần dần, số lượng người đi theo đạo sĩ
Akitta ngày một đông thêm và như thế khu rừng trở nên không còn yên tịnh
nữa.
Một đêm nọ đạo sĩ Akitta đã lặng lẽ rời khỏi khu rừng đi đến một khu
vườn gần gần quốc độ Damila để độc cư hành đạo tại đó. Sau một thời gian
đêm ngày nỗ lực cần mẫn, đạo sĩ Akitta đã đắc được các Pháp thần thông.
Ít lâu sau, người em gái Đạo sĩ Akitta cũng tìm đến gặp được Ngài, rồi
lần này mọi người lại kéo đến thật đông hơn lần trước.
Lần thứ ba vận thần thông đã chứng đắc, Ngài bay đến đảo Rắn, gần đảo
của Loài rồng. Dưới một cội cây to trên đảo ấy, Ngài cất một cốc lá nhỏ để
ở. Mùa mưa, rồi mùa nắng cũng như mùa lạnh trôi qua, Ngài cũng chỉ ở một
chỗ sống cuộc đời tri túc chỉ với lá cây, trái cây hay vỏ cây luộc để duy
trì thọ mạng hành đạo trong suốt 12 năm ròng.
Thời gian ấy, ngai vàng của vua trời Đế Thích bỗng trở nên căng cứng
lại mà không còn mềm mại như trước. Thấy sự lạ Đức Đế Thích giật mình:
-Thế gian có chuyện gì lạ lùng xảy ra đây? Ngài dùng thiên nhãn nhìn xuống
trần gian quan sát thấy Đạo sĩ Akitta đang nỗ lực hành đạo. Vua trời Đế
Thích suy nghĩ rằng: - Không rõ vì cớ gì mà vị đạo sĩ này lại nỗ lực tinh
cần thế kia! Tính chuyện tranh giành Ngôi báu của ta chăng? Nghĩ đến đấy,
Đức Đế Thích thấy lòng mình bồn chồn lo âu, đứng ngồi không yên. "Để rõ sự
thể ta phải đi hỏi đạo sĩ này mới được".
Ta với hình tướng như thế này thì không thể nào hỏi được." Rồi vua trời
Đế thích hoá hiện thành một vị Bà la môn đi khất thực.
Buổi sáng đợi đến lúc lá cây đã luôc xong và đạo sĩ Akitta chuẩn bị
dùng, vị Bà la môn với túi vải và bát nhỏ tiến đến trước cốc lá. Thấy
người Bà la môn đến xin vật thực, đạo sĩ Akitta trong lòng hoan hỷ vì tự
thấy mình thật là may mắn:
"- Ta đã bị gián đoạn sự bố thí cúng dường suốt 12 năm nay rồi, hôm nay
cơ hội bố thí đã đến, ta sẽ bố thí!"
Nghĩ vậy Ngài gọi người Bà la môn đến và đổ tất cả phần lá luộc có được
vào bát ông ta. Với ý nghĩ: "Ta sẽ nhịn ngày hôm nay." Với sự bố thí vừa
mới làm, hoan hỷ trong lòng phát sinh làm Ngài no vui trọn ngày hôm ấy.
Ngày hôm sau, vua trời Đế thích trong hình dáng của người Bà la môn
cũng lại đến. Rồi lại ngày hôm sau nữa, cứ như vậy sự việc lại tiếp tục
diễn ra giống như ngày đầu.
Vua trời Đế Thích nghĩ ngợi: "Đã ba ngày rồi nhịn đói để bố thí cho ta,
sức lực của đạo sĩ ắt có phần mỏi mệt. Nhưng sao khuôn mặt đạo sĩ vẫn hằng
rạng ngời một vẽ an nhiên tự tại thế kia! Chắc hẳn đạo sĩ này có một điều
gì phi thường đây? Ta phải tỏ tường mới được."
Đức Đế Thích lo âu sợ mất ngôi vương vị mà hỏi: "Này ông đạo sĩ Cao
quý! Tại sao ông không sống cùng với thế giới loài người mà lại một mình
trên đảo hoang vắng này? Tại sao ông xa lìa hạnh phúc của loài người? Ông
mong muốn hạnh phúc gì cao thượng hơn chăng...? Ông mong cầu mình sẽ đạt
được điều gì lớn lao hơn hạnh phúc loài người chăng? "
Bởi đã chứng đắc được các Pháp thần thông linh diệu hiểu biết được nội
tâm của người khác mà Đạo sĩ Akitta đọc được sự lo âu của Vua trời Đế
Thích: "Ta sẽ nhân cơ hội mà dạy dỗ Vua trời này mới được."
Ngài bèn nói:
- Này Thiên Vương!
"Tất cả những sự sinh thành trên đời này là khỗ .
Tất cả sự sinh thành rồi đều bị hoại diệt, sự diệt là khỗ
Vô minh không biết đến sự sinh thành, sự hoại diệt ấy rồi chết đi là
khỗ . Của cải tài sản rồi cũng sẽ hoại diệt."
- Này Thiên Vương!
Ngay cả ngai vàng, ngôi vị Thiên chủ của Ngài, tại cung trời Đao lợi,
cho dù tuổi thọ có dài so với thời gian của loài người 36 triệu 500 ngàn
năm chăng nữa, nhưng rồi cũng sẽ đến hồi hoại diệt mà thôi!.
- Để thoát khỏi 3 sự thống khỗ đó và chứng đạt Niết Bàn cao thượng là
mục đích hành đạo của ta vậy.
5. Đức Chuyển Luân Vương
Đức Chuyển Luân Vương là vị vua cai quản cả 4 châu Thiên ha Gọi là Đức
Chuyển Luân Vương, khi mà Ngài ở đâu thì xe báu của Ngài liền đến bên cạnh
để chờ lệnh Ngài.
Bất kể nơi đâu, khi mà xe báu đến, thì các Quốc vương tại các Quốc Độ
ấy tự đến quỳ mọp cung kính đảnh lễ và thưa rằng:
- Kính bạch Ngài! Xin Ngài nhận chúng tôi cùng với toàn dân trong quốc
độ này là thuộc về Ngài. Chúng tôi xin làm những người hầu hạ trung thành
nhất của Ngài. Kính xin Ngài dạy bảo chúng tôi, chúng tôi xin dâng toàn
Quốc Độ này đến Ngài".
Như vậy Đức Chuyển Luân Vương là người mà được các Đức Vua tôn trọng
kính nể và gởi gắm, dâng quốc độ của mình. Bất kể Quốc độ nào, Ngài không
cần dùng binh khí hay đao trượng để chinh phục. Chỉ cần Ngài có sự mong
muốn thì tất cả đến trước Ngài quỳ mọp mà xin làm tôi tớ và gởi gắm quốc
độ đang trị vì cho Ngài.
Đức vua Chuyển Luân Vương là người mà được tất cả kính nể bởi uy lực
đại phước báu của Ngài.
Đức Vua Chuyển Luân Vương không cần thiết phải đặt ra nhiều luật pháp
để trị vì thiên hạ, toàn bộ các cõi để có sự thanh bình, êm ấm đi đến đâu
Ngài cũng giảng năm pháp để cai trị thần dân trong thiên hạ.
Năm pháp mà Đức Chuyển Luân Vương cai trị là:
1. Hãy tránh xa sự sát sanh.
2. Hãy tránh xa sự trộm cắp.
3. Hãy tránh xa sự tà dâm.
4. Hãy tránh xa sự nói dối.
5. Hãy tránh xa sự dễ duôi uống rượu và các chất say.
Với lời dạy năm điều này mà đức vua Chuyển Luân Vương thống trị cả mặt
đất, cả thế giới đươc an vui, hoà bình. Như vậy thật sự là một Đức Chuyển
Luân Vương có đại uy lực về thần thông, đại uy lực về phước báu bất khả tư
nghì.
Khi mà Đức Chuyển Luân Vương hết tuổi thọ, thì ngôi Chuyển Luân Vương
chỉ được truyền lại cho người con trai lớn, chứ không một ai khác.
Con trai của Đức Chuyển Luân Vương, không ai có thể thay thế được! Tại
vì sao? Bởi vì Hoàng hậu của Đức Chuyển Luân Vương cũng có nhiều uy lực và
nhiều khả năng để bảo hộ cho con trai của bà được đầy đủ sung mãn mọi mặt.
Đức Chuyển Luân Vương có đầy đủ bảy loại báu trong thế gian:...
* Xe báu (có thể chở một số lượng lớn người đi trên hư không .. ..)
* Châu ngọc báu (ngọc mani; ngọc như ý ...)
* Hoàng hậu báu (có nhan sắc xinh đẹp, da mát vào mùa hè và ấm vào mùa
đông ...)
* Phú hộ báu (những người giàu sang làm chủ các kho tàng trên thế gian,
khi cần Đức Chuyển Luân Thánh Vương mời gọi các phú hộ báu đến để hỗ trợ
cho Ngài...)
* Voi báu (có thể đưa Ngài bay quanh bốn biển và quay trở về kịp thời
bữa ăn sáng).
* Ngựa báu (có thể đưa Ngài bay quanh bốn biển và quay trở về kịp thời
bữa ăn sáng).
* Con trai báu (người xứng đáng kế thừa ngai vàng khi đức Chuyển Luân
qua đời).
Hằng tháng tới ngày bát quan trai giới, Đức Chuyển Luân Vương tắm gội
sạch sẽ, và nguyện thọ trì bát quan trai giới trong sạch...
6. Tích chuyện bố thí cơm:
Tính ngược thời gian cách đây chín mươi tư quả đất về trước, có một đức
Phật ra đời hiệu Sidatta.
Vào một thuở nọ Đức Phật Sidatta trên đường trì bình khất thực. Nhìn
thấy sắc tướng phát ra ánh sáng, dung mạo trang nghiêm từ Ngài, một chàng
trai phát sinh sự tôn kính, cung thỉnh Ngài về nhà, cúng dường cơm đến
Ngài.
Do nhân lành đó, bắt đầu kể từ kiếp ấy, sau khi chết chàng trai thường
tái sanh vào các cõi Trời; cõi Người, hưởng được nhiều sự giàu sang, an
lạc và không có một lần nào tái sanh vào một trong bốn đường ác đạo. Kiếp
cuối cùng của chàng trai ấy được sanh vào thời Đức Phật Thích Ca ra đời,
là một người đại phú, xin xuất gia trở thành tỳ kheo hành đạo và chứng đắc
đạo quả A la hán an vui giải thoát vĩnh viễn.
7. Tích chuyện bố thí nước
Vào thời quá khứ có một đức Phật hiệu là Padumuttara sau khi
Ngài nhập Niết Bàn, trong Giáo Pháp của Ngài, các bậc thiện nam, tín nữ
đến tưới nước vào cây Bồ Đề để tưởng nhớ ân đức Từ Bi của Ngài.
Vào lúc bấy giờ có một chàng trai trẻ tay bưng một lọ nước đẹp, trong
lọ chứa đựng nước hoa thơm, đến tưới vào gốc cây Bồ Đề.Bắt đầu từ kiếp đó,
chàng trai ấy thọ sinh vào cõi trời Đao Lợi và thường tái sinh làm vua
loài trời, vua loài người trong nhiều kiếp, hưởng thụ được nhiều sự an
lạc.
Kiếp cuối cùng của chàng trai ấy được sanh vào thời Đức Phật Thích Ca,
xin xuất gia trở thành tỳ khưu hành đạo và chứng đắc đạo quả A la hán.
8. Tích chuyện về bố thí hoa
Vào một ngày nọ, Đại đức Mục Kiền Liên, dùng thần thông đi du hóa tại
cõi trời ngoạn cảnh. Thấy trên một hồ nước nhiều loài hoa sen đua nở trông
thật đẹp mắt. Giữa hồ nước ấy Ngài phát hiện ra một toà lâu đài vô cùng
nguy nga tráng lệ, thấy một nữ Thiên chủ giữa đám Thiên nữ đang hầu hạ.
Ngài bèn đến hỏi:
- Nầy nữ thiên chủ! Do nhân lành nào mà nàng có được sự huy hoàng này?
Nữ thiên chủ cung kính thưa rằng:
- Kính bạch Đại đức! Kiếp trước đây, con là một cô gái tên là Petavati
ở tại phía Đông làng Nala thuộc kinh đô Yajagyo. Vào một ngày nọ, nhìn
thấy Ngài A la hán Sariputta (Xá Lợi Phất) tâm con vô cùng hoan hỷ, con đã
dâng thật nhiều hoa đến cúng dường Ngài, do nhân lành ấy mà con được toà
Thiên Cung huy hoàng nầy và sự an lạc ngày hôm nay, thưa Đại Đức!
9. Tích chuyện bố thí đèn
Vào thời Đức Phật Padumuttara còn tại thế, có một chàng trai
dùng năm ngọn đèn thắp xung quanh cúng dường cây Bồ Đề.
Do phước lành cúng dường đèn đến cây Bồ Đề, bắt đầu từ kiếp ấy chàng
trai liên tục tái sanh luân lưu trong hai cõi Trời - người, đặc biệt là
chàng trai có đôi mắt nhìn xa hàng trăm do tuần.
Kiếp cuối cùng của chàng trai ấy được sanh vào thời Đức Phật Thích Ca,
xin xuất gia trở thành Tỳ Kheo có tên là Pinsadipaka hành đạo và
chứng đắc đạo quả A la hán.
Đức Phật Sumingala, trong thời kỳ còn hành Bồ Tát Đạo để bổ túc
Ba la mật, do phước bố thí đèn từ quá khứ mà về sau từ kim thân Ngài, hào
quang thường xuyên toả chiếu suốt ngày lẫn đêm, lấn át ánh sáng của mặt
trăng, mặt trời và cả các vì tinh tú.
10.Người bố thí thuốc (Đại Đức Bakula)
Vào thời Đức Phật Anomadati, có một vị đạo sĩ hành đạo trong núi
Tuyết Sơn. Lúc bấy giờ Đức Phật đang mắc phải bệnh phong, đạo sĩ tìm kiếm
trong dãy núi Tuyết sơn những rễ và củ cây làm thuốc cúng dường đến Đức
Phật. Sau khi dùng thuốc bệnh phong Đức Phật được dứt khỏi. Từ phước lành
này đạo sĩ cầu nguyện xin Đức Phật chứng minh cho rằng: "những kiếp về
sau đạo sĩ không hề mắc bất kỳ một bệnh tật gì".
Do nhân lành của sự cúng dường thuốc đến Đức Phật, hàng trăm ngàn kiếp
trái đất về sau, đạo sĩ luân lưu tái sanh trong hai cõi Trời - người.
Vào thời Đức Thích Ca ra đời là kiếp cuối cùng đạo sĩ tái sanh làm một
chàng trai con nhà phú hộ giàu có tại thủ đô Baranasi (Balanại) có
tên là Bakula, thụ hưởng mọi an lạc trong thế gian đến năm 80 tuổi. Sau đó
ông đến xin Đức Phật xuất gia trở thành Tỳ Kheo, hành đạo không bao lâu
chứng đắc được đạo quả A la hán. Suốt trọn cả kiếp ấy chưa có một lần nào
bị bệnh gì cả (trở thành bậc đệ nhất về vô bệnh trong hàng đệ tử Phật),
hưởng thọ được 160 tuổi và cuối cùng nhập Niết Bàn giải thoát, chấm dứt
vòng sanh tử luân hồi.
-ooOoo-
Mục lục | 01
| 02 | 03 |
Đầu trang