|
Chú Giải Kinh Căn Bản
Pháp Môn
Tỳ khưu Giác Lộc
dịch
PHẦN HAI (tt)
10. PHẦN VỀ NHƯ LAI
A: Như vậy sau khi cho thấy tiến trình nhận
thức của bậc thánh vô lậu về các cơ sở như đất v.v.., với những lời 'Này
các tỳ kheo, Như Lai,' tiếp theo Thế Tôn có bắt đầu chỉ dạy tiến trình
nhận thức của bản thân ngài
Nơi đây, 'Như Lai': Thế Tôn được gọi là Như
Lai vì tám lý do: bởi vì ngài đã 'đến như vậy' (tathā āgata); bởi vì
ngài đã 'đi như vậy' (tathā gata); bởi vì ngài đã đến như thực tướng
(tathalakkhanaṃ āgata); bởi vì ngài đã giác ngộ như thực pháp y theo
chơn lý (tathadhamme yāthāvato abhisambuddha); bởi vì ngài là người thấy
như thực (tathadassitāya); bởi vì ngài là người nói như thực
(tathāvāditāya); bởi vì ngài thực hành theo lời ngài dạy (tathākāritāya)
và Ngài là Như Lai theo nghĩa tối thắng (abhibhavanaṭṭhena).
[1]
Ngài là một 'arahat' (A la hán) vì
những lý do sau đây: (i) bởi vì Ngài đã viễn ly các phiền não (āraka);
(ii) bởi vì những kẻ thù (ari)
và (iii) các căm xe đã bị diệt (hata); (iv) bởi vì ngài xứng đáng (araha)
nhận các vật cúng dường; (v) bởi vì ngài đã lìa xa các ác hạnh khuất lấp
(rahābhāva) và ngài là bậc Toàn giác (sammāsambuddha)
bởi vì ngài đã được hoàn toàn (sammā)
và tự ngài (sāmaṃ) giác ngộ (buddha)
đối với tất cả pháp. Đây là phần tóm lược; về phần nghiên cứu chi tiết
hai từ này, hãy tham khảo Visuddhimagga, chương nói về Tùy niệm Đức
Phật.[2]
BỞI VÌ NHƯ LAI ĐÃ
HIỂU RÕ NÓ MỘT CÁCH TOÀN TRIỆT (pariññātantaṃ tathāgatassa).
A: Ở đây, cơ sở của tưởng tượng Như Lai đã hiểu rõ.
Nó được 'hiểu rõ một cách toàn triệt': có nghĩa là Như Lai đã hiểu rõ
đến cùng tận, đã hiểu rõ đến cực biên, đã hiểu rõ không có mảy may dư
tàn nào. Vì mặc dù không có sai biệt giữa chư Phật và các thanh văn về
phương diện từ bỏ các phiền não do nhờ bốn đạo, cũng có nét riêng về
phạm vi hiểu rõ của cả hai. Chư thanh văn có thể chứng Niết Bàn sau khi
quán chỉ một phần trong bốn đại. Nhưng đối với chư Phật không có pháp
hành vi tế nào mà không được thấy, ước lượng, quán sát và thực chứng với
quán trí.
BỞI VÌ NGÀI ĐÃ HIỂU
RẰNG HỶ LẠC LÀ CĂN BẢN CỦA ĐAU KHỔ (nandī dukkhassa mūlaṃ) VÀ DO
DUYÊN HỮU CÓ SANH. ĐỐI VỚI CÁI GÌ ĐÃ SINH THÀNH LÀ CÓ GIÀ VÀ CHẾT.
A: 'Hỷ lạc' là ái dục trước (purimataṇhā), 'đau
khổ' là ngũ uẩn (pañcakkhandhā), 'căn bản' là khởi đầu (ādi). 'Đã hiểu':
Ngài đã biết rằng hỷ lạc (phát sinh) trong đời trước là căn bản của đau
khổ hiện tại. 'Hữu'= nghiệp hữu. 'Sanh'= những uẩn dị thục. Vì những ai
sinh ra được gọi là 'sanh,' Đây là ý nghĩa: ngài đã biết rằng có nghiệp
hữu (làm duyên) sanh hữu khởi lên. 'Cái gì đã sinh thành' (bhūta) = một
chúng sanh (satta). Ý câu này là: ngài đã biết rằng già và chết tấn công
các uẩn của chúng sanh nào đã sinh thành qua sanh hữu.
Đến phạm vi này, khi cho thấy nguyên nhân để loại
trừ các tưởng tượng của ngài là sự thâm nhập lý duyên khởi vào lúc ngài
chứng nhất thiết chủng trí sau khi nội quán các hành trong thế ngồi bất
khả lay chuyển dưới cội cây Bồ đề, ngài chỉ dạy lý duyên khởi với bốn bộ
phận (catusaṅkhepa), ba liên kết (tisandhi), ba thời (tiyaddha) và hai
mươi hành tướng (vīsat'ākāra).[3]
Tất cả điều này được chỉ dẫn như thế nào? Ở đây, hỷ
lạc là một bộ phận. Đau khổ là bộ phận thứ hai, hữu là bộ phận thứ ba,
sanh, già và chết là bộ phận thứ tư. Như vậy bốn bộ phận nên được hiểu.[4]
Giữa ái (= hỷ lạc) và đau khổ có một liên kết, giữa đau khổ và hữu có
một liên kết thứ hai và giữa hữu và sanh có một liên kết thứ ba. Như
vậy, giống như có ba liên kết giữa bốn ngón tay, cũng có ba liên kết
giữa bốn nhóm. Hỷ lạc thuộc về thời quá khứ, sanh, già và chết thuộc về
thời vị lai, đau khổ và hữu thuộc về thời hiện tại. Như vậy, ba thời nên
được hiểu.
Trong quá khứ có năm hành tướng, trong đó riêng ái
mang tên 'hỷ lạc'. Nhưng mặc dù kinh văn không đề cập đến, vô minh,
hành, thủ và hữu được bao gồm cùng với ái, vì chúng đều dự phần vào đặc
tính làm các duyên. Cụm từ 'sanh, lão và tử' chỉ định các uẩn lệ thuộc
sanh, già và chết, như vậy thức tương lai, danh - sắc, sáu xứ, xúc và
thọ được bao hàm.[5]
Hai mươi hành tướng này có những đặc tính được diễn tả như sau: 'Trong
nghiệp hữu quá khứ, vô minh có tướng si, các hành có tướng tích tập, ái
có tướng dính mắc, thủ có tướng thâu tóm và hữu có tướng cố ý- năm pháp
này trong nghiệp hữu quá khứ là các duyên cho tục sinh ở đời này.
Ở đây, thức có đặc tính tục sinh, danh sắc có đặc tính đi xuống, sáu xứ
có đặc tính nhạy cảm, xúc có đặc tính va chạm và thọ có đặc tính cảm
giác- năm pháp này trong sanh hữu ở đời này do nghiệp đã làm trong quá
khứ trợ duyên. Với quá trình già dặn của các xứ đời này, vô minh
có đặc tính si, các hành có đặc tính tích tập, ái có đặc tính dính mắc,
thủ có đặc tính thâu tóm, hữu có đặc tính cố ý- năm pháp này trong
nghiệp hữu hiện tại là các duyên cho tục sinh tương lai. Trong
tương lai, thức có đặc tính tục sinh, danh sắc có đặc tính đi xuống, các
xứ có đặc tính nhạy cảm, xúc có đặc tính va chạm và thọ có đặc tính cảm
giác- năm pháp này trong sanh hữu tương lai do nghiệp đã tạo trong đời
này trợ duyên.'[6]
Như vậy theo phát biểu: 'Ngài đã biết rằng hỷ lạc
là căn bản của đau khổ và do duyên hữu có sanh, đối với cái gì đã sinh
thành là có già và chết,' toàn thể lý duyên khởi này với bốn bộ phận, ba
liên kết, ba thời và hai mươi hành tướng đã được chỉ rõ.
Kế đến Thế Tôn dạy:
DO VẬY, NÀY CÁC TỲ
KHEO! TA TUYÊN BỐ, NHỜ DIỆT TẬN TẤT CẢ ÁI, SỰ LY THAM, TỊCH LẶNG, TỪ
KHƯỚC VÀ LY THOÁT TẤT CẢ ÁI, NHƯ LAI ĐÃ TỰ MÌNH GIÁC NGỘ HOÀN TOÀN VÔ
THƯỢNG CHÁNH ĐẲNG GIÁC
(TASMĀ TIHA BHIKKHAVE TATHĀGATO SABBASO TAṆHĀNAṂ KHAYĀ VIRĀGĀ NIRODHĀ
CĀGĀ PAṬINISSAGGĀ ANUTTARAṂ SAMMĀSAMBODHIṂ ABHISAMBUDDHO TI VADĀMI)
A: Ở đây 'tất cả ái' tương tự
như hỷ lạc 'sự diệt tận' (khaya) là sự diệt trừ tối hậu bằng siêu thế
đạo. Những từ tiếp theo cũng đồng nghĩa với từ diệt tận. Đối với
những ái bị diệt thì cũng có ly tham, tịch lặng, từ khước, ly thoát các
ái đó. Hoặc 'sự diệt tận' có thể được lý giải như là chức năng chung
cho bốn đạo, 'sự ly tham' (virāga) là cho 'sơ đạo', 'sự tịch
lặng' (nirodha) là cho nhị đạo, 'sự từ khước' (cāga) là cho 'tam đạo' và
'sự ly thoát' (paṭinissagga) là cho 'tứ đạo'.[7]
Hoặc là: qua 'sự diệt tận' ngài diệt những loại ái mà khiến ngài có thể
tưởng tri đất là đất; qua 'sự ly tham' ngài ly tham những ái mà khiến
ngài có thể tưởng tượng đất; qua 'sự tịch lặng' ngài tịch lặng những ái
mà khiến ngài có thể tưởng tượng trong đất; qua 'sự từ khước' ngài từ
khước những ái mà khiến ngài có thể tưởng tượng từ đất và qua 'sự
ly thoát' ngài ly thoát những ái mà khiến ngài có thể tưởng tượng 'đất
là của ta'. Hoặc là: qua 'sự diệt tận' ngài diệt tận những ái mà khiến
ngài có thể tưởng tượng đất v.v... cho đến qua 'sự ly thoát' ngài ly
thoát những ái mà khiến ngài có thể hoan hỷ trong đất. Những lý giải này
đều có thể chấp nhận; không có điều gì bị loại trừ.
'Vô thượng chánh đẳng giác' (anuttara
sammāsambuddha): sự giác ngộ hoàn toàn và tự mình giác ngộ (sammā
sāmañca bodhi) không ai sánh bằng, toàn hảo giữa mọi loài.
Từ
bodhi
được dùng trong các kinh văn để chỉ một loại cây, đạo, nhất thiết chủng
trí (sabbaññutañāṇa)
[8]
và niết bàn. Trong những đoạn văn: 'lần đầu tiên được giác ngộ dưới gốc
cây Bồ đề' và 'giữa Bodhi và Gayā' (Vin.III.I), đó là loại cây gọi là
bodhi.[9]
Trong đoạn văn: 'trí của bốn đạo được gọi là bodhi,' (C.Nd,p.213), đó là
đạo.[10]
Trong đoạn văn: 'Ngài đã chứng Bodhi trong trí tuệ thậm thâm thù thắng'
(D.30), đó là nhất thiết chủng trí. Trong đoạn văn sau đây Bodhi chỉ cho
niết bàn: Sau khi đã thành đạt bodhi, sự bất tử, vô vi' (không để lại
dấu vết). Ở đây Bodhi có ý nói A la hán đạo trí của Thế Tôn. Những người
khác cũng nói là nhất thiết chủng trí.
A hán đạo mà các thanh văn đã chứng có phải là vô
thượng giác ngộ không? Không phải thế. Tại sao? Bởi vì trí này không
mang lại tất cả thánh đức (guṇa).Đối với một số đệ tử, A la hán đạo chỉ
mang lại A la hán quả; đối với một số vị đạo trí mang lại ba minh; đối
với một số vị đạo trí mang lại lục thông (abhiññā); đối với một số vị
đạo trí mang lại tứ vô ngại giải (paṭisambhidā); đối với một số vị A la
hán đạo mang lại các ba la mật (pāramī) trí của hàng thanh văn. Đối với
chư phật độc giác (paccekabuddhas) đạo trí chỉ mang lại tuệ giác của vị
phật độc giác. Nhưng đối với chư Phật toàn giác đạo trí mang lại
khả năng đặc thù gồm tất cả thánh đức, y như vị vua đã đăng quang tỏa
vương quyền khắp quốc độ. Vì vậy bất cứ trình độ giác ngộ nào khác
không phải là vô thượng giác ngộ.
'Đã giác ngộ' (abhisambuddho): Đã thắng tri, đã
thâm nhập, đã chứng ngộ, đã thành tựu. 'Ta tuyên bố' (iti vadāmi): Ta
giải thích, Ta giáo giới, Ta tuyên thuyết, Ta xác lập, Ta khai thị, Ta
phân tích, Ta hiển lộ. Nơi đây, cách lý giải thế này:- Này các tỳ
kheo, Như Lai không tưởng tượng (chính mình là) đất... không hoan hỷ
trong đất. Do duyên cớ nào? Bởi vì ngài đã hiểu rằng hỷ lạc là căn bản
của đau khổ và với hữu (làm duyên) có sanh, đối với cái gì có sinh thành
là có lão và tử? ... Hơn nữa: vì ngài đã hiểu lý duyên khởi như vầy, ái
dục được gọi là 'hỷ lạc' đã được Như Lai từ bỏ mọi mặt. Qua sự diệt tận
tất cả ái, Như Lai đã hoàn toàn giác ngộ vô thượng chánh đẳng giác; vì
vậy ngài không tưởng tượng (chính Ngài là) đất... không hoan hỷ trong
đất.' Phần này có nghĩa là: Do nhân duyên giác ngộ ngài không tưởng
tượng và không hoan hỷ.'
Hoặc là: 'Vì các ái dục đã đến chung cuộc qua việc
hiểu lý duyên khởi theo phương pháp 'Hỷ lạc là căn bản của đau khổ,' do
vậy, này các tỳ kheo , ta tuyên bố qua sự diệt tận tất cả ái, Như Lai đã
hoàn toàn giác ngộ vô thượng chánh đẳng giác. Do nhân duyên giác ngộ,
ngài không tưởng tượng đất ... không hoan hỷ trong đất.'
'Thế Tôn đã giảng như vậy': Thế Tôn
đã giảng toàn thể kinh này, từ lời mở đầu đến những lời 'Ta tuyên bố đã
hoàn toàn giác ngộ vô thượng chánh đẳng giác.' Cho thấy nhất thiết chủng
trí thậm thâm của Ngài và trí ấy không có một trí giả nào len vào được.
Kinh này gồm có hai phần tụng và tám phần giải
thích chính:
Phàm phu (1)
Hữu học (1)
A-la-hán (4)
Như Lai (2)
Từng phần chính bao hàm hai
mươi bốn phần nhỏ, lần lượt từ đất cho đến Niết Bàn.
(Bổn sanh 500 tỳ kheo)
Nhưng mặc dù Thế Tôn thuyết kinh 'Căn bản pháp môn'
bằng nhiều phương pháp phong phú và lời dạy trang nhã, pháp âm của Ngài
vi diệu như Phạm thiên, thanh tao như tiếng hót của chim Ca lăng tần
già, làm êm tai, đưa thẳng vào tâm người có trí với vị bất tử,
'các tỳ kheo đó không hoan hỷ trong lời dạy của Thế Tôn.' Tại sao không
hoan hỷ? Bởi vì chư vị không hiểu lời dạy. Vì không hiểu ý nghĩa của
kinh này, chư vị không hân hoan trong đó. Mặc dù vào lúc Thế Tôn thuyết
kinh này có nhiều phương pháp phong phú và lời dạy trang nhã, như thức
ăn ngon đặt trước miệng một người bị miếng vải dày và rộng buộc chặt.
Nhưng phải chăng Thế Tôn đã tròn đủ pháp độ trong
bốn A tăng kỳ và trăm ngàn đại kiếp, Ngài đã đạt đến nhất thiết chủng
trí tất cả vì mục đích thuyết pháp cho quần sanh bằng một phương cách mà
họ có thể hiểu được? Nếu thế, tại sao các tỳ kheo kia không hiểu lời
ngài chỉ dạy? Lý do đã được nêu ra trong phần giải thích về những cơ sở
để thuyết kinh này: 'ngài khai thị giáo lý này vì mục đích đập tan kiêu
mạn của chúng tỳ kheo đó.' Do vậy, nơi đây không cần lập lại đoạn này.
Sau khi nghe giảng dạy, các tỳ kheo này suy nghĩ: 'ngài nói, kẻ lý
thuyết tưởng tượng đất. Hữu học, A la hán và Như Lai thắng tri đất. Đây
nghĩa là gì? Đây là thế nào? Trước đây chúng ta có thể hiểu chớp nhoáng
bất cứ điều gì Thế Tôn đã dạy. Nhưng bây giờ chúng ta không thể hiểu ất
giáp gì về 'kinh căn bản pháp môn' này' Ôi! Chư Phật vô lượng và vô nghì
thay!" Như vậy các tỳ kheo này trở nên khiêm tốn, như những con rắn bị
nhỗ hết răng nọc, chư vị cung kính đến hầu hạ Đức Phật và lắng nghe
pháp.
Sau đó không lâu một số tỳ kheo, khi cùng nhau ngồi
trong pháp đường, bắt đầu câu chuyện sau đây: " Ôi, Phật lực thật cao
cả! Các tỳ kheo dòng bà la môn kia quá kiêu mạn, nhưng lời dạy của bậc
Đạo sư về pháp môn căn bản đã làm cho chư vị khiêm tốn.' Đây là lời bàn
tán tiếp tục trong số các tỳ kheo này. Lúc đó Thế Tôn ra khỏi hương
thất, đến pháp đường đang diễn ra những lời thán phục về trường
hợp đó và ngồi xuống chỗ đặc biệt dành riêng cho ngài. Thế Tôn nới với
các Tỳ kheo 'Này chư tỳ kheo,vừa rồi các ngươi đang bàn chuyện gì?' Các
vị này tường thuật vấn đề lên bậc đạo sư. Ngài nói: 'Này chư tỳ kheo,
không phải chỉ nay, nhưng trong quá khứ cũng vậy ta đã làm cho các người
này biết nhún nhường trong khi chúng quá kiêu mạn'. Rồi Thế Tôn kể lại
câu chuyện sau đây trong quá khứ, đối chiếu với sự việc hiện tại:-
Này chư tỳ kheo, thuở xưa, một Bà la môn trứ danh
đang sống ở Bénares - một giáo sư về tam
Phệ Đà, hiểu biết ngữ nguyên và văn cảnh Itihāsa, phần thứ năm trong
những tài liệu bà la môn đáng tin cậy, với những chú thuật, nghi lễ và
phân tích từ ngữ, vị ấy thông suốt khoa học tự nhiên và các tướng của
bậc đại nhân. Vị ấy dạy Mantras
cho 500 thanh niên Bà la môn. Những thanh niên đó, thông minh, rất trí thức, nắm vững bài
học và không quên những gì đã học. Vị bà la môn không dấu nghề như
một số giáo sư, nhưng dạy chúng mỗi ngành kiến thức như thể rót nước vào
cái chai, bảo chúng: 'Ngành kiến thức này dẫn đến nhiều lợi ích như thế
trong đời này và đời sau.' Đúng lúc các thanh niên bà la môn phát sanh
kiêu mạn: 'Bất cứ điều gì thầy của chúng ta biết, điều đó chúng ta cũng
biết. Bây giờ chúng ta cũng làm thầy được rồi'. Từ đó chúng tỏ ra bất
kính với thầy của mình và xao lãng các bổn phận. Biết tình trạng đó, vị
giáo sư suy nghĩ: 'Ta sẽ cắt đứt kiêu mạn của chúng.' Một hôm, khi các
thanh niên đến phụng sự thầy. Sau khi chúng thi lễ và kiếm chỗ ngồi, vị
giáo sư nói: 'Này các con, ta sẽ cho các con một câu đố. Hãy giải ra nếu
các con có thể.' 'Hãy đố đi, thưa thầy! Hãy đố đi!'. Chúng hăm hở đáp,
chúng quá mê cuồng vì lòng tự hào trong sở học của mình. Vị giáo sư ra
câu đố:
[11]
'Thời gian nuốt hữu tình
Nuốt luôn cả chính nó
Ai nuốt được thời gian
Kẻ diệt hữu tình diệt.' (Jāt.v.190)
Này các con, hãy trả lời câu đố đi. Nhưng mặc dù
các thanh niên này suy nghĩ nhiều lần chúng không sao hình dung ra ý
nghĩa, tất cả ngồi nín lặng. Vị giáo sư đuổi chúng đi 'Hôm nay đủ rồi!
Hãy đi đi! Ngày mai các ngươi sẽ có thể giải đáp câu đố.'
'Nhưng dù chia ra nhiều nhóm cùng nhau cố gắng giải
nó, các thanh niên này vẫn mù tịt. Hôm sau chúng đến vị giáo sư và thưa
'Chúng con không sao hiểu nghĩa của câu đố này.' Để cắt đứt kiêu mạn của
chúng, vị giáo sư ngâm bài kệ :
Nhiều kẻ non nớt quá cao ngạo,
Nhưng người trí làm cho chúng nhún nhường.' (Jāt.v.191)
Khi nghe câu này, các thanh niên đó trở nên im
lặng, xấu hổ, thụt vai, cúi xuống, cào đất với các ngón tay. Kế đó khi
thấy rằng chúng đã hổ thẹn, vị giáo sư nói: 'Này các con, hãy học đáp
án cho câu đố này'. Rồi giáo sư giải thích:
'Thời gian' là phần trước ngày và phần sau ngày.
'Hữu tình' là chúng sanh. 'Thời gian nuốt hữu tình'. Thời gian không ăn
da và thịt của chúng sanh, nhưng nuốt vào và ăn sống chúng bằng sự cướp
đi của chúng sanh về mạng sống, sắc đẹp và sức mạnh, bằng sự chinh phục
tuổi trẻ và tiêu diệt sức khỏe của chúng. 'Nuốt luôn cả chính nó' như
vậy ăn sống chúng, nó không bỏ sót bất cứ cái gì nhưng ăn sống tất cả.
Nó không những ăn sống tất cả chúng sanh, mà còn ăn sống chính nó. Vì
phần trước ngày không còn khi phần sau đến và phần sau ngày không còn
khi ngày kế tiếp đến. 'Ai nuốt được thời gian'- đây là vị A la hán, bậc
thánh vô lậu. Vị ấy được gọi là người 'nuốt chửng thời gian', bởi vì
ngài đã 'ăn sạch' thời gian bằng sự bít nẻo tái sanh trong tương lai.
'Kẻ diệt hữu tình diệt': Chính là ái dục thiêu đốt chúng sanh trong
những cảnh giới đau khổ. Vị A La Hán đã thiêu hủy ái dục bằng lửa bát
nhã và tiêu diệt nó không còn chút dư tàn nào. Do đó vị A la hán
được nói là thiêu đốt kẻ thiêu đốt chúng sanh'.
'Khi vị giáo sư giải thích xong, các thanh
niên đó thông suốt ý nghĩa của câu đố như những chỗ phẳng và lồi lõm
trên đường đi được soi tỏ vào ban đêm nhờ ánh sáng của một ngàn ngọn
đèn. Cả bọn đồng thề 'Chừng nào mạng sống còn, chúng tôi sẽ sống dưới sự
chỉ dạy của thầy chúng tôi.' Các bậc thầy này thực sự cao cả thay! Chúng
ta quá kiêu mạn vì sở học đến nổi chúng ta không biết ngay cả ý nghĩa
của một câu kệ bốn dòng'. Từ đó chúng biết khiêm tốn và thực hành bổn
phận thích đáng đối với thầy như chúng đã làm trước đây và được sanh
thiên giới trong đời sau.'Này chư tỳ kheo, vào lúc đó, ta là vị giáo sư
và những tỳ kheo kia là các thanh niên bà la môn. Như vậy trong quá khứ
ta cũng làm cho những vị này khiêm tốn khi họ khởi sanh lòng kiêu mạn.'
Sau khi nghe câu chuyện quá khứ, các tỳ kheo đó suy
nghĩ 'trong quá khứ chúng ta cũng đã gục ngã vì lòng kiêu mạn,' chư vị
trở nên khiêm tốn và chăm chú nhiều hơn vào các đề tài thiền quán của
mình.
Về sau khi du hóa qua miền quê, đến Vesāli, nơi đó
Thế Tôn trú tại điện Gotamaka. Biết rằng tuệ của năm trăm tỳ kheo đó đã
được thuần thục, ngài dạy họ kinh Gotamaka (Gotamaka Sutta -
A.III.13.3): 'Này chư tỳ kheo, qua thắng trí (abhiññāya), Ta dạy Pháp,
không phải không có thắng trí. Ta dạy Pháp có căn cứ vững chắc với những
nền móng vững chắc (sanidāna), không phải không có căn cứ. Ta dạy Pháp
làm cho tín phục (sappāṭihāriya), không phải không tín phục. Vì Ta dạy
Pháp qua thắng trí, v.v..., sự khích lệ và lời hướng dẫn của ta các
ngươi nên thọ trì. Này chư tỳ kheo, đó là đủ cho các ngươi để hài lòng,
hoan hỷ, hân hoan: 'Thế Tôn là bậc Toàn giác, Pháp khéo giải thích, Tăng
đang thực hành thiện đạo.' Thế Tôn đã dạy như vậy. Trong khi pháp môn
này được giảng thì mười ngàn thế giới rung động.
Sau khi nghe kinh này, năm trăm tỳ kheo kia đều
chứng A la hán cùng với bốn tuệ phân tích (paṭisambhidā) ngay tại chỗ
ngồi. Như vậy trong trường hợp này lời dạy hiện tại (tức là kinh căn bản
pháp môn) đã tròn đủ ý nghĩa.
Dứt
chú giải kinh căn bản pháp môn
TÁM NGHĨA NHƯ LAI
(dịch thêm từ "The discourse on the all embracing net of views" by
Bhikkhu Bodhi )
NHƯ LAI LÀ GÌ?
A. Thế Tôn được gọi là Như Lai do tám nguyên do:
1) Ngài đã đến như vậy
(Tathā
āgato)
2) Ngài đã đi như vậy (Tathā
gato)
3) Ngài đã đến với như thực tướng (của các pháp) (Tathalakkhanaṃ
āgato)
4) Ngài đã giác ngộ như thực pháp y theo chân lý (Tathadhamme
yāthāvato abhisambuddho)
5) Ngài là người thấy như thực (Tathadassitāya)
6) Ngài là người nói như thực (Tathavāditāya)
7) Ngài thực hành những gì Ngài dạy (Tathakāritāya)
8) Ngài là Như Lai theo nghĩa chiến thắng hoặc tối thắng (Abhibhavanaṭṭhera)
I. ĐÃ ĐẾN NHƯ VẬY
A[12]
:
Thế Tôn đã đến y như thể thức mà chư Phật toàn giác quá khứ đã đến. Thế
Tôn của chúng ta đã thành tựu nguyện vọng như chư Phật quá khứ, đã thành
tựu ba mươi pháp độ, năm pháp đại thí, đã thành tựu ba mươi bảy phẩm trợ
đạo y như các Thế Tôn quá khứ.
Ṭī
[13]
: Đề cập nguyện vọng là chỉ con đường đi đến. Đề cập các
Ba la mật là chỉ trung đạo và đề cập ba mươi phẩm trợ đạo là chỉ sự hoàn
thành.
II. ĐÃ ĐI NHƯ VẬY
A: Thế Tôn đã đi như thế nào? Thế Tôn đã đi như chư
Phật quá khứ đã đi. Như có lời rằng 'Ngay khi sanh ra Bồ Tát đứng vững
trên đất và quay về phương Bắc bước bảy bước. Có cây lọng trắng che cho
Ngài. Sau khi quan sát các phương Ngài thốt lên lời như con ngưu vương "Aggo'haṃ
asmi lokassa..." Khi Bồ Tát đứng vững trên đất báo trước
rằng Ngài sẽ đạt đến tứ như ý túc. Ngài đi về hướng Bắc báo trước rằng
Ngài sẽ là bậc tối thượng trong tất cả thế giới. Đi bảy bước báo trước
sự thành đạt bảy báu là thất giác chi. Cây lọng trắng che cho Ngài báo
trước Ngài sẽ được thanh tịnh không tỳ vết qua sự giải thoát của vô lậu
quả. Quan sát các phương báo trước sự thành đạt toàn giác huệ. Thốt ra
lời như con ngưu vương báo trước Ngài sẽ quay bánh xe pháp cao thượng và
không một ai đảo ngược được.
Y như các Thế Tôn quá khứ đã đi như vậy, Thế Tôn
hiện tại cũng đi tương tự, Ngài đã đi bằng cách phá hủy các phiền não
đồng sanh với tà kiến nhờ dự lưu đạo. Từ bỏ các phiền não thô nhờ tư đà
hàm đạo. Đào bứng các phiền não tế nhờ A na hàm đạo và tận diệt tất cả
phiền não nhờ A la hán đạo.
III. ĐẾN VỚI NHƯ
THỰC TƯỚNG
A: Sáu nguyên tố: đất, nước, lửa, gió, hư không,
thức. Năm uẩn. Năm chi thiền. Ngũ căn. Ngũ lực. Thất giác chi. Bát chánh
đạo. Thập nhị nhân duyên. Tất cả các pháp này có tướng riêng và những
tướng này là thật, không phải hư nguỵ. Qua tiến trình trí tuệ, Ngài đã
đi đến thực tướng của các pháp. Do vậy, Ngài được gọi là Như Lai.
IV. GIÁC NGỘ NHƯ
THỰC PHÁP
Tứ diệu đế được gọi là như thực pháp. Như có lời
rằng: 'Này các tỳ kheo, tứ diệu đế là như thực: Đây là khổ v.v... Thế
Tôn đã giác ngộ những chân lý đó. Lại nữa, già và chết có sanh làm duyên
là như thực. Hành có vô minh làm duyên. Hành làm duyên cho thức... Sanh
làm duyên cho lão tử là thật. Tất cả những pháp đó Thế Tôn đã giác ngộ
nên gọi là Như Lai."
Ṭī: Tứ đế là thật bởi vì chúng có đặc tính không bị
bóp méo và không bị thay đổi.
V. THẤY NHƯ THỰC
A: Thế Tôn thấy với Phật tuệ, Ngài thấy các pháp
theo thực tính của chúng và phân tích các pháp bằng nhiều tên gọi như
các loại tâm, các loại sắc v.v...
Ṭī: Các pháp được phân loại dưới nhiều tên gọi,
nhiều thành phần như tìm thấy trong pháp tụ. Đây là thật vì không thể
bác bỏ sở kiến của Thế Tôn và tính cách bất hủ trong lời dạy của Ngài.
Thế Tôn đã thấy và biết các pháp theo cách chúng hiện khởi cùng với
những đặc điểm của chúng. Do vậy Ngài đựơc gọi là Như Lai.
VI. NÓI NHƯ THỰC
Trong bốn mươi lăm năm giữa đêm Thế Tôn chiến thắng
Ma Vương và giác ngộ vô thượng chánh giác, cho đến đêm Thế Tôn chứng Bát
Niết Bàn trong khi nằm giữa cội song thọ. Bất cứ điều gì Thế Tôn nói ở
đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối như khế kinh, ứng tụng v.v... Tất cả
đều không thể chê trách được về ý nghĩa và về văn tự, dù một khuyết điểm
nhỏ như sợi tóc cũng không có... Lời dạy của Thế Tôn là như nhất, chẳng
khác nào đuợc đóng với một con dấu. Suốt từ đầu đến cuối tất cả là sự
thật, không sai khác, do vậy Ngài được gọi là Như Lai.
VII. THỰC HÀNH NHỮNG
GÌ NGÀI DẠY
Thân hành của Thế Tôn thích ứng với lời nói của
Ngài và lời nói của Ngài thích ứng với thân hành của Ngài. Vì vậy Ngài
là người thực hành điều gì Ngài dạy và dạy điều gì Ngài thực hành như có
lời nói rằng: Như Lai nói sao, làm vậy; Như Lai làm sao, nói vậy. Do vậy
Ngài được gọi là Như Lai.
VIII. THEO NGHĨA
CHIẾN THẮNG HOẶC TỐI THẮNG
Khắp vô số thế giới, Như Lai vượt xa tất cả chúng
sanh về phương diện giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến.
Không có ai ngang hàng hoặc sánh bằng Thế Tôn. Ngài là bậc vô tỷ lượng,
là vua của các vua, chư Thiên của các chư Thiên, Đế Thích của các Đế
Thích, Phạm Thiên trên các Phạm Thiên. Thế Tôn được gọi là Như Lai bởi
vì Ngài đã đạt đến chân lý nhờ hiểu biết toàn thể thế giới qua việc quán
về ba tướng vô thường, khổ, vô ngã. Ngài là Như Lai vì đã sang bờ giác
ngộ nhờ hiểu biết thấu đáo thế giới qua việc từ bỏ nguồn gốc của nó.
Ngài là Như Lai bởi vì Ngài thâm nhập thực tại nhờ chứng nghiệm thế giới
diệt tận. Ngài là Như Lai vì đã thực hành con đường dẫn đến thế giới
diệt tận. Do đó, Thế Tôn có dạy: 'Thế giới đã được Như Lai giác ngộ. Như
Lai đã từ bỏ thế giới. Nguồn gốc của thế giới đã được Như Lai giác ngộ,
Như Lai đã từ bỏ nguồn gốc của thế giới. Sự diệt thế giới đã được Như
Lai giác ngộ. Như Lai đã chứng nghiệm sự diệt của thế giới. Như Lai đã
phát triển con đường dẫn đến sự diệt thế giới. Bất cứ gì hiện hữu trong
thế giới này cùng với các chư thiên v.v... Tất cả đã được Như Lai giác
ngộ'. Do vậy, Ngài được gọi là Như Lai.
-----*-----
[1]
Lời người dịch: Tối thắng nghĩa là vượt lên trên tất cả.
[2]
Vism VII. 4-29, pp.206-212.
[3]
Về cách giải thích những loại này hãy xem Vism XVII.287-297,
pp.669-672. Lời người dịch: Hành tướng
(ākāra) nghĩa là cách thức, trạng thái, tính cách.
[4]
Trong bốn bộ phận này, hỷ lạc = bộ phận tạo nhân quá khứ; đau khổ = bộ
phận kết quả hiện tại; hữu = bộ phận tạo nhân hiện tại; sanh,
già và chết = bộ phận kết quả tương lai.
[5]
Quả hiện tại (đau khổ) bao gồm năm pháp bắt đầu với thức; nhân hiện
tại (hữu) bao gồm năm pháp bắt đầu với vô minh.
[7]
Bốn đạo là dự lưu đạo, nhất lai đao, bất lai đạo và A la hán
đạo.
[8]
Xem giải thích ở trang 78
[9]
Tức là cây Bodhi nổi tiếng, Assattha Banyan, Đức Phật đã chứng tuệ
giác dưới cội cây này.
[11]
Kālo ghasati bhūtāni / Sabbā'eva sah'attanā / Yo ca
kālaghaso bhūto / Sa bhūtapacaniṃ paci ti //
[12]
A: Aṭṭhakathā (chú giải)
-ooOoo-
Ðầu trang | 01
| 02 | 03 | 04 |
|