BuddhaSasana Home Page
Truyện ngụ ngôn "Bốn con rắn"
Phạm Kim Khánh ... "Ðại Ðức NÀRADA, Mahà Thera là
một vị Tỳ Khưu trứ danh người Tích Lan. Ngài là một vị cao tăng đã nắm
vững chắc phần giáo lý cao siêu nhà Phật. Thêm vào đó Ngài đã hấp thụ
được phần uyên thâm hoằng đại
của nền văn hóa Tây Phương, về triết học cũng như về khoa học tối tân
hiện đại.
"Do cái thiên tư hiếm có ấy Ngài đã
giúp cho hàng học giả Âu Tây thấu hiểu rõ ràng những điểm rất tế nhị
trong Tam Tạng Pali về vũ trụ quan và tâm linh quan. Cũng nhờ sở năng
đặc biệt đó mà Ngài trình bày dễ dàng và rành mạch, ai cũng hiểu được,
bao nhiêu tài liệu căn bản trong kinh sách Phật Giáo mà đúng ra những ai
không phải là nhà chuyên môn khó lòng lãnh hội..." Bác sĩ MIGOT -ooOoo- LỜI TỰA Trong ba tháng kiết hạ tại chùa Kỳ Viên,
Chư Tăng Việt Nam và Ðại đức NÀRADA Mahà Thera đã sống một nếp sống gương
mẫu. Quý Ngài đã tận dụng thì giờ quý báu vào công trình xây dựng đạo pháp
và tỏ ra rất xứng đáng với chú nguyện giải thoát và nhiệm vụ lãnh đạo tinh
thần của hàng Tăng Bảo.
Ngoài sự trau dồi Giới - Ðịnh - Tuệ, các
Ngài nỗ lực khảo cứu Tam Tạng, giảng đạo, thuyết pháp, soạn thảo, trích
dịch những tài liệu Phật học và tích cực gia công đào tạo các thầy Sadi
gương mẫu để giao phó nhiệm vụ hoằng pháp trong tương lai.
Chư vị Tỳ Khưu cũng như Ðại đức NÀRADA
Mahà Thera đã thực hiện tròn đủ tôn chỉ tự độ, độ tha. Ban đêm tham thiền
minh sát, ban ngày vừa tiếp rước khách thập phương, vừa chia thì giờ viết
sách, sửa bản in, dạy kinh, giảng đạo và huấn luyện các em Thanh Thiếu
Niên Phật tử, các Ngài còn tổ chức những công tác xã hội như giúp đỡ người
nghèo nàn thiếu thốn, tại chùa tại các trại dưỡng lão, các cô nhi viện
v.v... Các Ngài luôn luôn sẵn sàng đem lòng bác ái xoa dịu mọi niềm đau
khổ.
Chẳng biết lấy chi đền đáp ân đức cao dầy
của Chư Tăng và Ðại đức NÀRADA Mahà Thera giới cư sĩ chúng tôi chung cùng
ấn tống quyển "Chuyện ngụ ngôn Bốn Con Rắn" trong dịp các Ngài ra Hạ, mong
tạo phước lành hồi hướng đến các Ngài và cầu nguyện oai lực Tam Bảo hộ trì
các Ngài dồi dào sức khỏe để phụng sự Phật pháp và sớm thành đạt đạo quả
Niết Bàn. Công phu tạo phần pháp thí này do đạo hữu
Phạm Kim Khánh đã lưu tâm ghi chép các bài pháp của Ðại đức NÀRADA Mahà
Thera cùng sưu tập những tài liệu quý giá trong kinh sách, nhất là quyển
VI DIỆU PHÁP (Abhidhamma) và cố gắng mô tả phần nào những pháp vô hình cấu
tạo con người, mong giúp chư độc giả ý thức tính cách vô thường của kiếp
sống, hầu nông trang theo dõi Ðức Phật trên đường tiến hóa đến nơi Vô Sanh
Bất Diệt. Âu cũng là một sự đóng góp hữu hiệu của một Phật tử chân thành
trong công trình hoằng dương Phật pháp. Dĩ nhiên công tác Phật sự này vừa
đem lại cho tác giả một nguồn phước báu vô biên vừa là một tiến bộ vững
chắc của đạo hữu Phạm Kim Khánh trên đường giác ngộ.
Cầu xin quả phúc do sự ấn tống quyển kinh
này sớm đem lại hòa bình cho quê hương tổ quốc và hạnh phúc an vui cho dân
tộc. Tín đồ Phật Giáo Nam Tông -ooOoo- Tích chuyện Một ông Vua kia có nuôi bốn con rắn độc.
Con thứ nhất tên "Rắn mỏ cây" (Kattha mukha) vì có cái mỏ cứng như cây, mổ
đau lại có nọc độc. Rắn thứ nhì tên "Rắn mỏ thúi" (Puti Mukha) vì mỗi lần
cắn ai thì thân thể người ấy sình thúi và tan rã ra nước. Thứ ba là "Rắn
mỏ lửa"vì ai bị rắn này cắn thì nghe trong mình nóng như bị lửa thiếu đốt
đến chết. Thứ tư là "Rắn mỏ khí giới" (Sattha Mukha) vì có răng thật bén,
mỗi lần cắn ai thì cũng như dùng khí giới gây tử thương người đó. Vua giao
phó việc chăm nom bốn con rắn ấy cho một ông quan cận thần. Khi nào có ai
phạm trọng tội thì bị cho rắn cắn. Lúc có chiến tranh thì Vua thả rắn ra
diệt trừ quân địch.
Hôm nọ có một tên trộm đáng bị tử tội. Vua
truyền đem tội nhân cho rắn cắn. Ông quan dẫn tên tử tội đến chuồng rắn và
mở nắp ra. Một trong bốn con rắn bò ra, quấn tay mặt tội nhân và gác đầu
bên vai trái. Con thứ nhì quấn mình quanh tay trái và gác đầu lên vai mặt.
Con thứ ba quấn ngang bụng. Con thứ tư quấn cổ và gác mỏ lên đầu tên trộm.
Bị rắn quấn đầy mình mà anh không tỏ vẻ lo sợ chút nào. Vừa lúc ấy có một
vị hiền nhân giàu lòng bác ái đi ngang qua thấy vậy hỏi:
- Anh không sợ chết hay sao? Anh vừa chỉ rắn vừa đáp:
- Ðây là các vật trang sức của tôi. Tay
tôi đeo neo, bụng thắt dây lưng, cổ có kiềng và dây chuyền, đầu lại đội
mão. - Không phải đâu, đó chỉ là bốn con rắn
độc.
- Tôi có thấy đâu là rắn độc. Nó có vẻ
hiền lành lắm và đeo trên mình tôi thế này là đẹp lắm đấy chớ!
- Bạn nên suy nghĩ lại kỹ càng và hãy bắt
đầu lo từ bây giờ. Không nên lãng quên. Một ngày kia một con rắn sẽ bảo
bạn đứng dậy nếu không thì nó không chịu. Nếu bạn làm theo thì ba con rắn
kia bất bình. Rồi con thứ nhì sẽ bảo bạn đi tới. Rồi con thứ ba bảo bạn
nằm, con thứ tư bảo bạn ngồi. Bạn không thể nào thoát khỏi ách nô lệ của
chúng nó và bạn luôn luôn bị tai họa. - Vậy bây giờ tôi phải làm thế nào? - Bạn hãy lén lén bỏ rắn vào chuồng và mau
chạy thoát ra khỏi chốn này. Tên tội nhân làm y theo lời dạy. Khi ông quan hay được thì vào triều tâu
lại tự sự cho Vua. Vua truyền thả rắn ra rượt theo. Bốn con rắn cố sức
chạy theo tên tội. Cùng một lúc ấy vua truyền năm tên binh sĩ theo phụ sức
với rắn bắt cho được tên trộm, nếu thành công sẽ được trọng thưởng.
Vua cũng truyền gọi một người bạn chí thân
của tội nhân đến dạy phải rượt bắt. Nếu bắt được tội nhân, vua sẽ phong
cho làm đại tướng.
Nói về tên trộm, khi thoát ra khỏi chỗ
nguy hiểm thì có ý dễ duôi hưởn đãi. Vị hiền nhân xuất hiện và nhắc nhở
anh rằng tuy đại nạn vừa thoát khỏi nhưng anh chưa được châu toàn đâu. Hãy
cố gắng, cố gắng tìm phương thoát nạn. Anh vâng lời ráng sức chạy. Ðược một đỗi
thì đến một làng nọ. Bụng đói, sức đuối, anh chạy riết vào làng tìm thức
ăn và chỗ nghỉ nhưng đó chỉ là một làng bỏ hoang. Trong làng có sáu cái
nhà mà nhà nào cũng vắng tanh. Chén dĩa nồi niêu đều trống không. Anh đâm
ra chán nản, tìm một gốc cây dựa lưng vào nghỉ. Vị hiền nhân lại xuất hiện và khuyên anh
chớ nên trì hưỡn vì có thêm sáu tướng cướp đang chạy vào làng cùng bắt
anh. Anh hoảng sợ bỏ chạy nữa. Một lúc sau anh đến trước một con sông rộng
lớn. Từ bờ bên này qua bờ bên kia xa xa có một cù lao, có tất cả ba cù
lao. Trong lòng sông, bốn giòng nước lũ gặp nhau xoay tròn thành một cái
xoay rộng lớn. Bên kia bờ cỏ cây có vẻ yên tĩnh, nhàn lạc và an toàn. Còn
bờ bên này thì chông gai đầy dẫy, phía sau lại có bốn con rắn, năm tên
lính, người bạn thân trở mặt và sáu tên cướp đang rượt theo.
Nhưng làm sao qua sông? Không có cầu.
Thuyền cũng không. Anh liền tìm cây và dây trong rừng kết lại làm một
chiếc bè và hết sức cố gắng dùng cả tay lẫn chân bơi cho bè mau tách xa
bờ. Khi đến cù lao thứ nhất anh ngoảnh nhìn lại phía sau thì thấy rắn,
lính, người bạn và tướng cướp tất cả đều đến ven sông. Nhìn ra phía trước
thấy còn hai cù lao và bờ bên kia. Anh lại nỗ lực bơi riết qua cù lao thứ
nhì, thứ ba và rốt cùng đặt chân lên bờ bên kia, trên giải đất an lành
tươi đẹp. Anh nghe trong người khoan khoái nhẹ nhàng, sẵn sàng bỏ lại sau
lưng chiếc bè và bao nhiêu gian lao nguy khổn. Bốn con rắn, năm tên lính, người bạn thân
và sáu tên cướp biết rằng không thể nào bắt được tên tội nên buồn rầu. kẻ
trước người sau, tất cả đều chết.
* * * Trong chuyện ngụ ngôn kể trên, ông vua
tượng trưng cho Nghiệp. Tên trộm là chúng sanh. Bốn con rắn tượng trưng
bốn yếu tố (tứ đại) cấu thành phần vật chất của con người. Năm tên lính là
ngũ uẩn. Người bạn thân trở mặt làm thù là cái gọi là "bản ngã" của con
người. Sáu cái nhà bỏ không là lục căn. Sáu tên cướp lùng bắt tên trộm là
lục trần. Rắn, lính, bạn, tướng cướp, tất cả mười sáu điều đó là những
pháp làm cho chúng sanh phải đắm đuối trong vòng luân hồi. Sự tham dục, sự
luyến ái theo đời sống, tà kiến và vô minh là bốn giòng nước lũ. Chiếc bè
là Bát Chánh Ðạo, và ba cù lao là ba đạo quả thánh Tu Ðà Hườn, Tư Ðà Hàm
và A Na Hàm. Khi đắc đạo quả thứ tư - A la Hán - là bước chân lên bờ bên
kia, bờ giải thoát của Niết Bàn vậy. -ooOoo- PHẦN CHÚ GIẢI Ông Vua tượng trưng cái Nghiệp. Nghiệp
(Kamma), tiếng Bắc Phạn là Karma, là hành động.
Ðịnh nghĩa cùng tột của Nghiệp là tác ý,
tốt hay xấu (Kusala, Akusala Cetàna). Mỗi tư tưởng, lời nói hay việc làm
của ta đều do ý muốn làm động cơ thúc đẩy. Ta gọi ý muốn hay ý chí ấy là
tác ý (Cetàna). Tác ý có thể tốt hay xấu. Tác ý thiện (Kusala) hay bất
thiện (Akusalà) đều tạo Nghiệp.
Ðức Phật dạy: "Này hỡi các Tỳ Khưu Như Lai
tuyên bố rằng chính Tác ý là Nghiệp. Có ý muốn mới có hành động, bằng
thân, khẩu, hay ý".
Ngoại trừ những hành động của chư Phật và
chư vị A La Hán, mỗi hành động có tác ý đều gọi là Nghiệp. Mặc dầu chư
Phật và chư vị A La Hán vẫn còn phải chịu ảnh hưởng của những nhân đã gieo
trong quá khứ, các Ngài không còn tạo Nghiệp mới nữa vì đã hoàn toàn đoạn
tuyệt mọi tham vọng. Các Ngài đã thoát ra ngoài cái lành hay cái dữ. Hành
động của các Ngài không thiện (Kusala), cũng không ác (Akusala), mà hành
(Kiriya), nghĩa là tuyệt đối không gây quả, không tạo Nghiệp.
Chính Tâm tạo ra Nghiệp. Nếu không có Tâm
trong việc làm thì không có Nghiệp. Cây cỏ không tạo Nghiệp vì không có
Tâm. Cây cỏ không tạo Nghiệp vì không có Tâm, mặc dầu có cử động. Những
vật vô tri vô giác như kim đồng hồ, cánh quạt, mặc dầu có cử động không
tạo Nghiệp vì không có Tâm tức là không có ý muốn. Một hành động vô tình
nghĩa là không do một ý muốn thúc đẩy thì không tạo Nghiệp bởi vì Nghiệp
tùy thuộc nơi ý muốn hay tác ý dẫn đến hành động. Vậy một hành động không
có tác ý không tạo Nghiệp.
Có một vài hệ thống tín ngưỡng cũng nhìn
nhận rằng mọi sự chênh lệch trong xã hội đều do nơi Nghiệp, nhưng khi đề
cập đến Nghiệp lại chủ trương rằng mọi hành động, có tác ý cùng không, đều
tạo Nghiệp. Theo chủ trương ấy thì một người giết cha giết mẹ, dầu cố tâm
hay vô ý, đều phạm trọng tội như nhau. Người sát nhân hay đối xử tàn ác
với một chúng sanh khác, dầu vô tình hay cố ý, đều phạm tội bằng nhau cũng
như thò tay vào lửa là bị nóng. Dầu cố tình hay vô ý, thọc tay vào lửa thì
cũng bị phỏng như nhau, không hơn không kém. Một lập luận như vậy dĩ nhiên sẽ đưa đến
một kết luận phi lý. Ðứa bé vô tội trong bào thai vô tình làm cho mẹ đau
đớn, bà mẹ vô ý làm đau con trong lòng hẳn cũng phạm tội ác? Vả lại nêu ra
một sự kiện để giải thích một sự kiện tương tợ như trường hợp của người
thọc tay vào lửa và người hành động ác là một luận cứ không thể đứng vững.
Thí dụ theo luận cứ trên, nếu ông A sai ông B đi giết người thì chính ông
B phạm tội sát nhân mà ông A thì không sao cả vì chỉ có ông B thọc tay vào
lửa. Hơn nữa cũng theo luận cứ trên, một hành động ác không có tác ý có
thể còn tai hại hơn là hành động ác có tác ý. Nói một cách khác cố ý làm
ác bị hại ít hơn là vô tình vì theo thí dụ người thọc tay vào lửa, biết
rằng lửa nóng người cố tâm tất phải dè dặt hơn nên ít bị nóng, người vô
tình, vì không định ý trước, không kịp ngăn ngừa ắt bị phỏng nhiều hơn
[1]. Theo Phật Giáo, trong sự báo ứng của
Nghiệp, Tâm là yếu tố quan trọng. Tất cả những việc làm, lời nói và tư
tưởng đều do nơi Tâm. Không kềm chế Tâm tức nhiên không kềm chế được việc
làm, lời nói và tư tưởng. Kềm chế Tâm tức là kềm chế thân, khẩu, ý. "Chính Tâm dẫn dắt thế gian. Chính Tâm lôi
kéo thế gian. Và tất cả mọi người đều làm chủ cái Tâm". Kinh Pháp Cú cũng có câu: "Tâm dẫn đầu mọi hành động. Tâm là chủ.
Tâm tạo tác tất cả. Nếu ta nói hay làm với Tâm ác thì sự đau khổ sẽ theo
ta như bánh xe lăn theo dấu chân con bò kéo xe". và: "... Nếu ta nói hay làm với Tâm trong
sạch, hạnh phúc sẽ theo ta như bóng theo hình".
Ta lại thắc mắc vì sao một vật vô hình như
Tâm lại có thể gây ra những sự xáo trộn cho thế gian vật chất. Thật ra
không có gì lạ mà cũng không có gì khó hiểu. Chính những bộ máy cực kỳ
hùng mạnh và có khả năng làm đảo lộn thế gian hiện đại chỉ là sản phẩm của
những bộ óc phong phú. Tên trộm là cái được gọi là chúng sanh.
Tất cả chúng sanh trong dục giới và sắc giới [2] đều là sự cấu
thành của hai yếu tố danh và sắc (nàma rùpa). Nói một cách khác trong con
người có hai phần: 1. Phần vật chất hữu hình, biểu hiện ra
ngoài bằng hình thể mà ngũ quan có thể nhận thức được; và Hai phần, hữu hình và vô hình, cùng phát
sanh một lượt và phối hợp mật thiết để sinh hoạt.
Mặc dầu tất cả mọi người đều do danh và
sắc hợp thành, không thể có hai người hoàn toàn giống nhau về mặt vật chất
cũng như về phương diện tinh thần. Sự khác biệt ấy có phải do giới thân cận
không? Hay do luật truyền thống? Cả hai đều không hoàn toàn đúng vì không
giải thích được tại sao hai đứa trẻ sinh đôi, cùng một huyết thống, cùng
trưởng thành trong một nhà, mà tánh tình lại khác nhau. Chắc chắn rằng giới thân cận và huyết
thống có một ảnh hưởng quan trọng trong bản tính con người. Nhưng hai yếu
tố ấy không đủ tạo nên một người. Thuyết truyền thống không thể giải thích
vì sao trong một gia đình có tiếng là hiền lương trong sạch từ mấy đời lại
sanh ra một đứa con ngỗ nghịch, sát nhân, hay vì sao một đứa trẻ hiền lành
đạo đức lại là con của một tên cướp tàn ác hung tợn. Nếu đi ngược giòng thời gian và dò lần trở
lên nguồn gốc một kiếp sống ta sẽ đến tế bào đầu tiên của bào thai và tế
bào này là sự phối hợp của hai yếu tố: tinh trùng và minh châu của cha mẹ. Hai yếu tố ấy có đủ để tạo một bào thai
không? Nếu cho rằng đủ thì ta không thể hiểu được vì sao một ông A lại có
diễm phúc lọt vào bào thai của nhà đại phú gia kia còn ông B thì vào bào
thai người cùng đinh nọ.
Phật Giáo chủ trương phải có một yếu tố
thứ ba, rất quan trọng, để tạo thành bào thai. Nếu không có yếu tố này,
tinh trùng và minh châu chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn rồi tiêu diệt
và chính do yếu tố thứ ba mà có sự khác biệt tế nhị giữa chúng sanh. Yếu
tố ấy là "thức tái sanh" (Patisandhi-vinnàna) hay là Tâm Thức nối liền hai
kiếp sống. Ðức Phật dạy: "Này hỡi các Tỳ Khưu! nơi
nào có ba yếu tố ấy phối hợp lại là mầm sống phát sinh. Nếu cha và mẹ gặp
nhau mà không nhằm thời kỳ sanh sản của mẹ và không có một "chúng sanh đi
tái sanh" (Gandhabba) thì không có mầm sống. Nếu cha mẹ gặp nhau trong
thời kỳ sanh sản của mẹ mà không có một "chúng sanh đi tái sanh" thì cũng
không có mầm sống. Nếu cha mẹ gặp nhau nhằm thời kỳ sinh sản của mẹ và có
một "chúng sanh đi tái sanh" thì có mầm sống, do sự phối hợp của ba yếu
tố" [3]. Một "chúng sanh đi tái sanh" ở chỗ này tức
nhiên phải có một chúng sanh chết ở một nơi nào khác. Có sanh ở một kiếp
này tức có tử ở một kiếp trước. Sanh và tử chỉ là hai giai đoạn của một
tiến trình. Sanh rồi tử, tử rồi sanh, sự luân lưu bất tận sanh tử, tử sanh
của chuỗi dài những kiếp sống gọi là luân hồi (Samsara, Ta-bà). Vậy, tế bào đầu tiên của bào thai không
phải là khởi điểm của sự sống. Nhưng ngũ quan và luận lý hạn định của ta
không thể đi xa hơn đó nữa và cũng không thể nhận thức được nguồn gốc của
"thức tái sanh".
Ðức Phật đã trau dồi trí tuệ đến mức tuyệt
đỉnh. Ngài thông suốt những cảnh giới ngoài phạm vi hiểu biết do ngũ quan
ta và thấu triệt rành mạch nguồn gốc của "thức tái sanh". Ðức Phật dạy
rằng thức tái sanh làm khởi điểm một kiếp sống mới tùy thuộc nơi chập tư
tưởng cuối cùng của kiếp sống quá khứ và tiến trình sanh tử, tử sanh luôn
luôn biến đổi, luôn luôn trở thành là kết quả của Nghiệp tức là của hành
động [4]. Tóm tắt, cái được gọi là chúng sanh là sự
phối hợp của hai yếu tố, danh và sắc. Và Nghiệp là nguyên do. Phật Giáo không chủ trương có một đấng Tạo
Hóa toàn tri toàn năng tạo ra muôn loài vạn vật, cũng không tin có một
linh hồn trường cửu, bất di bất dịch. Ðức Phật dạy rằng chính ta tạo ra
ta. Chính hành động (Nghiệp) của ta trong quá khứ tạo thể xác hiện tại của
ta. Mà cũng chính ta tiêu diệt ta. Ta tạo thiên đàng cho ta. Ta tạo địa
ngục cho ta. Chính cái nghiệp của ta, tức là hành động của ta trong dĩ
vãng, làm cho ta hôm nay giàu hay nghèo, sang hay hèn, thông minh hay ngu
dốt v.v... Thay vì tin rằng có một thần linh tối thượng sanh ra ta và cho
ta một số mạng, ta tin nơi Nghiệp. Nói một cách khác, thay vì đổ lỗi cho
người khác, chúng ta hoàn toàn nhận lấy trách nhiệm và bổn phận xây dựng
một tương lai tốt đẹp hơn.
Lời mẹ dạy con: "Nếu con ngoan thì mẹ
cưng. Nếu con nghịch thì mẹ đánh" là giáo lý Nghiệp Báo của nhà Phật. Gieo
giống nào thì gặt giống nấy. Gieo lành thì gặt lành. Gieo dữ thì gặt dữ. 1. TỨ ÐẠI Bốn con rắn, "mỏ cây", "mỏ thúi", "mỏ khí
giới", và "mỏ lửa" tượng trưng bốn nguyên tố Ðất, Nước, Lửa, Gió cấu thành
vật chất. Ta gọi là Tứ Ðại. Trong 45 năm hoằng pháp Ðức Phật gặp rất
nhiều hạng người. Ðể cho mỗi người đều có thể lãnh hội giáo lý, lắm lúc
Ngài thuyết những bài pháp sâu xa tế nhị, đôi khi Ngài cũng dùng ngôn ngữ
thông thường giản dị, tùy trường hợp, tùy căn cơ của người thính pháp.
Trong tạng Luật và tạng Kinh Ðức Phật dùng
danh từ ước định (conventionnel) thông thường, như người, thú, chúng sanh
v.v... trái lại trong tạng. Luận mỗi sự vật đều phải được phân tách tỉ mỉ
đến mức cùng tột nên Ðức Phật dùng những danh từ trừu tượng (abstrait). Có hai thực tế. Một biểu hiện ra ngoài mà
ngũ quan ta có thể thâu nhận và một thực tế cùng tột. Thực tế bề ngoài là
những chân lý ước định, (Samuti Sacca, vérité conventionnelle). Thực tế
cùng tột (Paramattha Sacca, vérité abstraite) là những chân lý trừu tượng,
tuyệt đối.
Thí dụ như cái bàn, cái quạt, con người,
con vật v.v... là những thực tế ước định, bề ngoài. Bằng một cách ước
định, chúng ta chấp nhận danh từ bàn, quạt, người v.v... để chỉ những vật
ấy. Nhưng phân tách cái bàn ta thấy rằng cái mà ta gọi là bàn chỉ là sự
kết hợp của những tế bào và tế bào chỉ là sự kết hợp của những năng lực
(force) và bẩm tính (qualité). Vậy, phân tách đến mức cuối cùng, vật chất
chỉ là sự cấu thành của những năng lực và bẩm tính. Năng lực và bẩm tính
ấy là thực tế cùng tột, chân lý trừu tượng. Một thí dụ khác: Khi nói chuyện với mọi
người, nhà bác học gọi nước là nước. Nhưng trong phòng thí nghiệm, để chỉ
nước, nhà bác học gọi là H2O mà không gọi nước. Nước là danh từ ước định,
phổ thông. H2O là danh từ trừu tượng, chuyên môn. Tứ Ðại là bốn thành phần căn bản trong vật
chất, "bất khả phân tán". Mỗi bản thể vật chất, từ vật vi tế nhất đến vật
to lớn nhất đều do bốn yếu tố này cấu hợp. Danh từ Ðất, Nước, Lửa, Gió
dùng ở đây không phải là đất như ta thường biết, nước, lửa, gió cũng vậy
mà dùng theo nghĩa trừu tượng. Ðất, Nước, Lửa, Gió ở đây là những chân lý
cùng tột. (Paramattha Sacca) [5]. Cách đây không bao lâu khoa học còn chủ
trương rằng đơn vị nhỏ nhất và bất khả phân tán của vật chất là nguyên tử.
Nhưng đến mấy năm sau này thì các nhà bác học đã phân tán được nguyên tử
và khám phá rằng trong nguyên tử còn có điện tử, dương tử v.v..
Ở Ấn Ðộ, vào thời Ðức Phật, danh từ
Paramanu có nghĩa tương đương như danh từ nguyên tử của thời đại hiện kim.
Một hột bụi rất nhỏ mà ta thấy vởn vơ trong làn ánh sáng, gọi là
Ratharenu, có thể phân làm 16 Tajjàris. Một Tajjàri chia làm 16 Anus, và
một Anu chia làm 16 Paramanus. Vậy, nếu ta chia hột bụi làm 4096 phần thì
Paramanu là 1 phần nhỏ ấy. Theo quan niệm thời bấy giờ thì Paramanu là đơn
vị vi tế nhất của vật chất, không thể phân tách được nữa.
Trí tuệ siêu thế của Ðức Phật phân
paramanu ra làm những thực thể cùng tột (paramatthas), không thể phân tán.
Những thực thể cùng tột ấy là: - Nguyên tố Ðất (Pathavi-Dhàtu) NGUYÊN TỐ ÐẤT (Pathavi Dhàtu) Phạn ngữ Dhàtu có nghĩa là cái gì giữ đặc
tính riêng biệt của mình. Pathavi là Ðất. Pathavi Dhàtu là thành phần đất
trong vật chất làm nền tảng cho các phần tử khác. Pathavi (Do căn nguyên
puth) còn có nghĩa là lan rộng ra, duỗi ra. Vậy Pathavi Dhàtu là phần tử
trong vật chất có tánh cách duỗi ra, nở ra, lan rộng ra để chiếm không
gian.
Tánh cách cứng rắn hay mềm mại - hoàn toàn
tương đối - cũng do nguyên tố Ðức (Pathavi Dhàtu ). Trong tất cả mọi hình
thức vật chất (trong đất, trong nước, lửa hay trong không khí) đều có
nguyên tố Ðất. Cũng như trong tất cả mọi hình thức vật chất đều có ba
nguyên tố Nước, Lửa, Gió. Nhưng trong một thể chất, nguyên tố này có thể
nhiều hơn nguyên tố kia. Trong gỗ chẳng hạn, nguyên tố Ðất trội hơn ba
nguyên tố kia. Trong dầu thì nguyên tố nước trội hơn v.v... Trong một ly nước, do tánh cách duỗi ra
của nguyên tố Ðất hợp với tánh cách chuyển động của nguyên tố Gió, lớp
nước ở dưới tạo một áp lực để nâng đỡ lớp trên. Tánh cách nóng hay lạnh
của ly nước là do nguyên tố Lửa. Chính nguyên tố Nước tạo nên thể lỏng. NGUYÊN TỐ NƯỚC (Àpo Dhàtu) Ðúng nghĩa là phần tử lỏng. Phạn ngữ Àpo
do căn nguyên Ap nghĩa là đến hay là do hai căn nguyên ã và pãy nghĩa là
lớn lên trưởng thành, thêm lên. Nguyên tố Nước (Àpo Dhàtu) là phần tử
trong vật chất có tánh cách dính liền hay kết hợp lại. Theo Phật Giáo,
chính nguyên tố này kết hợp các phần tử vi tế rời rạc trong không gian và
cho ta ý niệm "hình thể" (corps). Khi một "hình thể" ở thể đặc - như các
loài kim khí - mà biến ra thể lỏng, nguyên tố Nước trở nên trội hơn ba
nguyên tố kia. Khi ta nghiền vật chất ra thành bột nhuyễn, trong mỗi hột
bột vi tế kia cũng có đủ bốn nguyên tố. Tánh cách lỏng và tánh cách teo lại cũng
do nguyên tố Nước. Ta nên ghi nhớ rằng lạnh không phải là một
đặc tánh của nguyên tố Nước. Hai nguyên tố duỗi ra và kết hợp lại (Ðất
và Nước) liên quan với nhau mật thiết đến đỗi khi một trong hai mất thì
nguyên tố kia cũng tiêu. NGUYÊN TỐ LỬA (Tejo Dhàtu) Là thành phần trong vật chất có tánh cách
nóng. Phạn ngữ Tejo do căn nguyên Tij, có nghĩa là làm cho bén
nhọn, hay làm cho chín mùi. Nguyên tố Lửa (Tejo Dhàtu) tạo sinh lực cho
vật chất, làm cho vật chất biến đổi, trở nên già, chín. Giữ cho vật chất
tồn tại hay hủy hoại vật chất đều do nguyên tố Lửa. Ðặc tánh của nguyên tố
này là làm cho vật chất tự hồi sinh. Nóng và lạnh đều là đặc tánh của nguyên tố
Lửa. Nguyên tố Lửa nhiều là nóng, ít là lạnh. Ta không nên hiểu lầm rằng
lạnh là đặc tánh của nguyên tố Nước và nóng là đặc tánh của nguyên tố Lửa.
Nếu hiểu như vậy thì cả hai, nóng và lạnh, tồn tại chung trong một hình
thể cùng một lúc. NGUYÊN TỐ GIÓ (Vàyo Dhàtu ) Là thành phần trong vật chất có tánh di
động, luôn luôn dính liền với nguyên tố lửa. Phạn ngữ Vàyo do căn nguyên
Vày có nghĩa là di chuyển hay rung động. Mọi sự di chuyển mọi dung động,
mọi áp lực của vật chất đều do nguyên tố Gió. Chính sự chuyển động là năng lực hay là
động lực phát sanh hơi nóng. Chuyển động và hơi nóng trong địa hạt vật
chất có thể so sánh với Tâm và Nghiệp trong lãnh vực tinh thần. Bốn nguyên tố Ðất, Nước, Lửa, Gió luôn
luôn dính liền với nhau trong vật chất. * * * Trong chuyện ngụ ngôn kể trên, bốn con rắn
là bốn nguyên tố cấu thành vật chất, ám chỉ tấm thân tứ đại của chúng ta.
Thể xác này ví như rắn độc vì nếu ta lơ
đỉnh, không kiểm soát được nhục dục thì chính thân này là mối nguy cơ vô
cùng tai hại vậy. Trái lại, nếu ta thận trọng xem xác thân này như những
con rắn độc thì ta sẽ không bám bíu vào nó, không chú trọng đến nó, tức
nhiên ta sẽ không thèm thuồng, ước mong được có một thân hình đẹp đẽ hơn,
cũng không thất vọng nếu ta không có sắc đẹp. Ta sẽ không phung phí thì
giờ quý báu và ít oi của ta để sửa soạn, chăm nom, săn sóc thể xác và luôn
luôn cung phụng đầy đủ để thỏa mãn những sự đòi hỏi của nó. Hiểu như vậy
ta sẽ hết sức cố gắng tránh xa những điều kiện nào khả dĩ tạo cho ta những
con "rắn độc mới".
2. NGŨ UẨN Cái được gọi là chúng sanh là sự kết hợp
của hai phần: Danh (Nàma) và Sắc (Rùpa). Danh và Sắc cùng phát sanh một lượt và
cùng phối hợp mật thiết để sinh hoạt. Kinh sách thường so sánh Danh và Sắc
với hai người, một mù một què. Riêng rẽ từng người thì người mù không thấy
đường, người què thiếu chân, cả hai cùng không thể di chuyển. Nhưng nếu
phối hợp lại, người mù cõng người què, người què chỉ đường cho người mù
thì cả hai đều di chuyển được. Cùng một thế ấy Sắc, vật chất, chỉ là vô
tri vô giác. Danh là vô hình, không thể hoạt động riêng rẻ. Nhưng phối hợp
lại, Danh và Sắc có thể hoạt động. Một thí dụ: muốn có sự thấy cần phải có
ba yếu tố, nhãn quan, nhãn trần và nhãn thức. Mắt, vật để thấy (đối tượng
của sự thấy) và thức, phối hợp hoạt động tạo nên sự thấy. Như muốn thấy
cái bàn thì cần phải có cái bàn (nhãn trần), cặp mắt (nhãn quan) và nhãn
thức [6]. Theo Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), Sắc (Rùpa)
gồm các đơn vị căn bản, những năng lực (Tứ Ðại) và những biến đổi, bẩm
chất. Có tất cả 28 loại vật chất.
Danh gồm các tâm sở (Cetasika) và thức
(Vinnàna) [7] . Có tất cả 52 tâm sở. Thọ (Vedanà) là một. Tưởng
(Sannà) là một tâm sở khác. 50 tâm sở còn lại được gọi chung là Hành
(Sankhàra). Nơi tập trung các tâm sở ấy là thức (Vinnàna). Theo sự phân
tách trên, chúng sanh là sự kết hợp của năm yếu tố gọi là Ngũ Uẩn: Sắc
(Rùpa), Thọ (Vedanà), Tưởng (Sannà), Hành (Sankhàra) và Thức (Vinnàna). SẮC (Rùpa), tức là vật chất. Các nhà khoa học cho rằng rất khó mà định
nghĩa danh từ "vật chất" một cách chính xác. Một vài triết học gia định
nghĩa "Vật chất là cái gì trong đó có sự biến đổi gọi là chuyển động và sự
chuyển động là các biến đổi trong vật chất (Ouspensky, Tertium organum,
trang 8). Trong Phạn ngữ, vật chất là Rùpa. Danh từ
Rùpa do căn nguyên rup là bể ra, tiêu diệt (nasa). Theo kinh Vibhàvini Tikà, Rùpa là cái gì
biến hình hay có một hình thái khác do những điều kiện vật lý như nóng,
lạnh v.v...
Theo Phật Giáo, vật chất (Rùpa = sắc)
không những luôn luôn biến đổi mà còn tiêu diệt nữa (khaya - vaya). Một
đơn vị vật chất chỉ tồn tại trong thời gian của 17 chập tư tưởng [8].
Vật chất biến thay nhanh chóng đến nỗi ta không thể gõ trên bàn hai cái gõ
hoàn toàn giống hệt nhau [9]. Vật chất thay đổi, thời gian thay đổi,
không gian cũng đổi vì trong khoảng thời gian ấy, vị trí của ta trong
không gian, theo sự xoay chuyển của quả địa cầu, cũng đã thay đổi rất
nhiều.
Ðề cập đến vật chất trong quyển sách "Ý
nghĩa của đời sống" (Meaning of Life), C.E.M. Joad viết: "Như vậy thì vật
chất hiển nhiên tự phân tán dưới mắt ta. Vật chất không còn ở thể đặc nữa.
Không còn tồn tại bền vững nữa..." Cách đây không bao lâu, nguyên tử được coi
là đơn vị nhỏ nhất của vật chất, không thể phân chia được nữa và không thể
tiêu diệt. Nhưng khoa học hiện đại phát minh rằng trong nguyên tử còn có
điện tử, dương tử, quan tử v.v...
Phạn ngữ Rùpa (sắc, vật chất) có khi cũng
được định nghĩa là cái gì tự, mình biểu hiện (Rùpakàsane) Phật Giáo không chủ trương tìm hiểu nguồn
gốc của vật chất mà xem vật chất như một vật sẵn có và dạy rằng vật chất
gồm những năng lực và những bẩm chất. Những năng lực là bốn nguyên tố căn
bản: Ðất, Nước, Lửa, Gió, rất hùng hậu, luôn luôn dính liền nhau và liên
quan với nhau rất mật thiết. Từ vật vi tế như hột cát hột bụi cho đến vật
to lớn như quả địa cầu hay các hành tinh đều do bốn nguyên tố ấy cấu
thành. Bẩm chất của Sắc (Rùpa) hay là những tính
chất phát xuất từ Tứ Ðại, gòm có 24 loại. Vậy, theo Phật Giáo, có 28 loại
vật chất kể cả Tứ Ðại. Năng lực và bẩm chất của Sắc (Rùpa) phát sanh cùng
một lượt, cùng nhau tồn tại và trưởng thành và cũng cùng tiêu diệt một
lúc. Tóm tắt, vật chất gồm những năng lực và
những bẩm chất luôn luôn biến đổi, không thể giữ y một trạng thái trong
hai khoảnh khắc kế tiếp. Vật chất chỉ tồn tại trong thời gian 17 chập tư
tưởng.
Các nhà khoa học giải thích rằng vật chất
tồn tại trong một phần rất ngắn của giây đồng hồ
[10].
Theo các nhà sinh lý học, tế bào đầu tiên
mà con người thọ hưởng của cha mẹ thật là vi tế, bằng phần rất nhỏ của một
phân Anh [11]. Theo kinh sách tế bào đầu tiên của con
người rất vi tế, sánh như một giọt dầu vi tế dính nơi chót một sợi lông
sau khi rảy bảy lần. Khoảng thời gian 9 tháng trong bào thai tế
bào ấy trở nên 15.000 triệu lần lớn hơn (Sir Charles Shermington, "Life
Unfolding", trang 32) THỌ (Vedanã) Phạn ngữ "Vedanà" do căn nguyên "Via" là
kinh nghiệm. Thọ (Vedanà) phát sanh do Xúc (Phassa). Thọ là một cảm giác
khách quan có ý thức nhưng không có sự hiểu biết và không có sự hình dung
đối tượng. Khi sờ một vật ta ý thức rằng vật ấy nóng hay lạnh, cứng, mềm
v.v... nhưng không biết vật ấy là cái gì và cũng không biết hình dáng vật
ấy ra sao. Ðó là Thọ (Vedanà), tức là cảm giác. Cũng như Xúc (Phassa) Thọ là một tánh chất
chánh yếu của tất cả các tâm. Nói một cách khác, trong các loại Tâm Vương
(Citta) đều có tâm sở Thọ. Thọ có năm:
1. Cảm giác vui thích về tinh thần, hạnh
phúc (Somanassa) như khi nhận được một tin lành, nghe một bài pháp hay
v.v... 2. Cảm giác đau khổ về tinh thần
(Domanassa), như khi nhận được tin dữ, hay nghe những lời nói hung tợn
v.v...
3. Cảm giác khoái lạc về vật chất
(Sukha) như khi dùng bữa cơm ngon, ngủ trong phòng lạnh có nệm êm v.v... 4. Cảm giác đau đớn về vật chất
(Dukkha), thiếu tiện nghi, như ngồi chật hẹp trên một chiếc xe cũ, đi
ngoài nắng, uống thuốc đắng v.v...
5. Cảm giác vô ký (Upekkhà), không vui,
không buồn, không khoái lạc, không đau đớn. Như đi nghe Pháp mà không
quan tâm đến thành ra không vui thích mà cũng không bực mình. Chính Thọ thâu nhận quả lành hay dữ của
những hành động trong quá khứ. Ngoài tâm sở Thọ không có một linh hồn hay
một bản ngã nào hưởng quả lành hay chịu quả dữ. Ta nên ghi nhận rằng đạo quả Niết Bàn là
một hạnh phúc không có liên quan gì đến Thọ hết. Ðức Phật dạy rằng đạo quả
Niết Bàn là hạnh phúc cao thượng nhất trong các hạnh phúc (Sukha) nhưng đó
không phải là sự thọ hưởng những cảm giác vui thích hay khoái lạc. Ðạo quả
Niết Bàn là hạnh phúc giải thoát khỏi vòng đau khổ.
Thọ (Vedanà) biến đổi cảnh trạng Tâm. Thọ
là một năng lực có thể nâng đỡ mà cũng có thể hủy hoại đời sống. Hạnh phúc
nâng đỡ, sự đau khổ làm trở ngại đời sống. Vậy, Thọ thủ một vai trò quan
trọng trong đời sống con người.
Ý thức được hương vị của một vật là tác
dụng của Thọ (Vedanà). Cảm giác hạnh phúc hay khoái lạc làm cho ta ưa
thích. Cảm giác đau khổ làm cho ta ghét. Sự ưa thích hay ghét bỏ phần
nhiều tùy thuộc nơi ngoại cảnh và đến với ta một cách hồn nhiên. Thí dụ
như nằm trên nệm ta ý thức được sự êm dịu và ưa thích nằm nệm. Còn đi
ngoài trời trưa nắng ta nghe nóng bức và ghét, khó chịu. Sự ưa thích nằm
nệm cũng như sự ghét đi ngoài nắng tùy thuộc nơi ngoại cảnh và đến với ta
một cách hồn nhiên, máy móc, không có sự suy luận. Tuy nhiên, đôi khi ý chí của một người có
thể áp đảo ảnh hưởng của ngoại cảnh và quyết định được Thọ. Thí dụ như gặp
một người thù nghịch thường ta có cảm giác không vui. Nhưng một người hiểu
biết chánh đáng trái lại, rải tâm Từ của mình đến người thù ấy và tự nhiên
hưởng được cảm giác hạnh phúc.
Nhà hiền triết Hy Lạp Socrate xưa kia, bị
bắt buộc phải uống thuốc độc, cạn ly độc dược một cách vui vẻ và vui vẻ
nhận cái chết. Một vị Bà la Môn, một hôm nọ, mắng chửi
Ðức Phật thậm tệ. Nhưng Ðức Phật thản nhiên. Ngài rải tâm Từ đến người ấy
để đáp lại những lời nguyền rủa.
Vị đạo sĩ Khantivàti mặc dầu bị hành hung
tàn nhẫn, vẫn thành thật ước mong cho ông vua say rượu ác độc đã ra lịnh
hại Ngài được sống lâu và khỏi bị quả dữ của hành động ấy.
Trái lại, một người ngoại đạo cuồng tín có
thể có những tư tưởng thù hận khi gặp Ðức Phật. Cảm giác của người ấy lúc
đó là đau khổ mặc dầu ngoại cảnh đáng lẽ phải tạo cảm giác hạnh phúc, cũng
như một Phật tử cuồng tín có thể có những cảm giác tương tợ khi gặp giáo
chủ của một tôn giáo khác. Một vật thực rất bổ ích cho người này có thể
gây tai hại cho người khác. Khoái lạc vật chất thường được người đời ưa
thích và yêu chuộng nhưng đối với nhà tu ẩn sĩ có trí tuệ, đó chỉ là những
trở ngại trên đường thu hành và sẵn sàng từ khước đời sống sung túc để
tình nguyện sống nghèo nàn và cô độc. Thật vậy, thiên đàng của một hạng
người có thể là địa ngục cho một hạng người khác. Chính chúng ta tạo thiên
đàng cho ta, chính chúng ta tạo địa ngục cho ta. Và, ít nhiều, chính Tâm
tạo tác tất cả. TƯỞNG (Sannà) Phạn ngữ Sannà do hai căn nguyên Sam
và Na là hiểu biết (giống như chữ la-tinh cognoscere) Ðặc tánh của Tưởng (Sannà) là nhận thức
một vật nhờ dấu hiệu riêng. Tỷ như khi có cảm giác lạnh và mềm ta biết là
nước. Sự nhận ra nước là Tưởng. Chính do Tưởng (Sannà) mà, xuyên qua lục
căn và thức, ta nhận ra một vật đã từng biết rồi. Anh thợ mộc muốn tạo một cái sườn nhà phải
chuẩn bị dọn cây, cây nào làm cột, cây nào làm đòn dông, cây nào là kèo
v.v... rồi đánh dấu trên những khúc ấy. Ðến khi ráp, anh nhìn vào những
dấu hiệu ấy. Sự nhận ra những dấu hiệu trên các khúc gỗ là Tưởng (Sannà). Vậy Tưởng (Sannà) là tri giác, tức là sự
nhận thức một vật như cây cối, nhà cửa, bàn ghế v.v... khi giác quan bị
kích thích. Ðể hiểu danh từ Tưởng (Sannà) rõ ràng hơn,
ta thử so sánh ba Phạn ngữ Sannà (Tưởng), Vinnàna (Thức) và Pannà (Trí
Tuệ). Một em bé thấy một đồng tiền. Nhờ màu
trắng, hình tròn và kích thước của vật thấy, em biết đó là một đồng tiền.
Nhưng không biết giá trị của đồng tiền ấy. Ðó là Tưởng (Sannà), chỉ nhận
ra một vật đã biết rồi mà thôi. Một người lớn, thấy đồng tiền thì phân
biệt đồng ấy với những đồng khác, biết đó là một đồng bạc và biết rằng với
đồng bạc ấy có thể mua một cái bánh. Nhưng anh không biết đồng tiền ấy làm
bằng những chất gì. Ðó là Thức (Vinnàna). Một người rành về hóa học phân tách đồng
tiền ấy, biết tận tường những loại kim khí nào đã được dùng để làm ra đồng
tiền ấy và mỗi kim khí có đặc tánh nào v.v... Ðó là Trí Tuệ (Pannà). HÀNH (Sankhàra) Sankhàra là một Phạn ngữ có rất nhiều
nghĩa. Trong Thập Nhị Nhân Duyên (Paticca Samuppàda) danh từ Hành
(Sankhàra) là tất cả những hành động có tác ý, những tư tưởng tốt và xấu. Ðể chỉ những gì chịu biến đổi, đau khổ
v.v... thì danh từ Sankhàra là "pháp hữu lậu", những gì có một hoặc nhiều
nguyên nhân tạo điều kiện để phát sanh.
Kể như một trong năm uẩn (Pancà Khanda)
Hành (Sankhàra) là danh từ gọi chung 50 trong 52 tâm sở. Hai tâm sở kia là
Thọ và Tưởng. THỨC (Vinnàna) Thức nơi tụ hội các tâm sở, là sự hiểu
biết, sau Thọ và Tưởng. Trong Ngũ Uẩn, kinh sách thường ví Sắc như cái nồi
để nấu cơm, Thọ như gạo, Tưởng như các món gia vị như cà ri, Hành như
người nấu ăn và Thức như người ăn.
* * * Tóm tắt, năm yếu tố, Sắc, Thọ, Tưởng,
Hành, Thức phối hợp lại cấu thành cái được gọi là chúng sanh. Nói một cách
khác, con người cấu thành do Ngũ Uẩn tức là do Danh và Sắc, phần tinh thần
và phần vật chất. Vật chất gồm những năng lực và những bẩm
chất luôn luôn biến đổi, không thể tồn tại trong hai khoảnh khắc kế tiếp.
Phần tinh thần, tâm, là sự ý thức một
việc. Ngoài ra không có một cá nhân hay một linh hồn nào điều khiển các
hành động. Tâm gồm những tâm sở nhất thời, sanh rồi diệt, vô cùng nhanh
chóng. Tâm cũng như một dòng sông bắt nguồn từ chỗ sanh chảy một mạch ra
cửa biển, là chỗ chết, luôn luôn thâu nhận những luồng nước từ các rạch
ngòi của lục căn chảy đến.
Ta nên ghi nhận rằng tâm không phải là sự
nối tiếp liên tục của những chập tư tưởng riêng biệt không liên quan với
nhau, như những vòng khoen trong một sợi lòi tói. Mỗi chập tư tưởng luôn luôn đổi mới của
đời sống tinh thần, trước khi diệt, chuyển tất cả năng lực cùng với tất cả
những ấn tượng đã thâu nhận cho chập tư tưởng kế. Như vậy, một chập tư
tưởng gồm có những tiềm năng do chập trước chuyển sang và những gì khác
nữa. Chập tư tưởng sau không hoàn toàn khác chập trước mà cũng không hoàn
toàn giống. Bởi vì tất cả những ấn tượng đều được thâu
nhận trong một cái tâm luôn luôn đổi mới và bởi vì tất cả tiềm năng của
chập tư tưởng trước đều được chuyển sang chập sau, từ kiếp này đến kiếp
kế, mặc dầu vật chất đã tan rã, ta có thể giải thích được tại sao người
trong một kiếp có thể nhớ được những sự kiện đã xảy ra trong một kiếp
trước. Nếu trí nhớ chỉ do nơi bộ óc vật chất thì làm thế nào giải thích
được sự kiện đó.
Cũng như điện, tâm là một năng lực có thể
xây dựng mà cũng có thể tàn phá. Tâm là một loại khí giới có thể dùng
trong việc lành cũng như trong điều ác. Chỉ một tư tưởng, dầu vô hình,
cũng có thể cứu vãn hay tiêu diệt thế gian. Chính tâm tạo thiên đàng. Cũng
chính tâm tạo địa ngục.
3. NGƯỜI BẠN THÂN Bản ngã là gì? Người bạn chí thân trở mặt
làm thù, rượt theo bắt tên tội nhân tượng trưng cái gọi là bản ngã của
chúng sanh. Vậy, bản ngã là gì? Cái mà chúng sanh chấp
là "Ta" là gì? Nhìn mặt bàn với cặp mắt thường ta thấy
trơn láng. Nếu nhìn mặt bàn ấy xuyên qua kính hiển vi thì ta không còn
thấy nó trơn láng nữa mà những sớ cây nổi lên ghồ ghề, có góc có cạnh. Bây
giờ, nếu dùng một ống kính hiển vi thật mạnh để nhìn mặt bàn ta sẽ không
thấy những sớ cây nữa mà dưới mắt ta là sông, núi, rạch ngòi, thung lũng,
đồng bằng v.v... Cả ba trạng thái của mặt bàn đều là thực tế vì chính mắt
ta chắc chắn đã trông thấy. Vậy ta phải tin thế nào? Cũng cái bàn ấy, đối với nhà khoa học, chỉ
là sự phối hợp những nguyên tử, điện tử, dương tử, quan tử v.v...
Một cách ước định, ta nói rằng mặt bàn
trơn láng vì mọi người, với cặp mắt thường đều nhận thấy như vậy.
Cùng một thế ấy, Ðức Phật dùng những danh
từ ước định thông thường như người, thú, bàn, ghế v.v... trong tạng Luật
và tạng Kinh. Nhưng khi phân tách tỷ mỷ những yếu tố cấu thành con người
thì Ðức Phật chỉ còn thấy những năng lực, những bẩm chất, những cảm giác,
tri giác v.v... luôn luôn biến đổi, cũng như nhà khoa học, trong phòng thí
nghiệm không còn thấy nước là nước mà chỉ thấy hai phần Hydro và một phần
Oxy (H2O). Ta nhận thức sự vật xuyên qua ngũ quan và
tìm cái gì ngũ quan thâu nhận. Một em bé thường ngày thấy mặt trời mọc ở
hướng Ðông và lặn về hướng Tây thì tin chắc chắn rằng mỗi sáng mặt trời
mọc lên và mỗi chiều lặn xuống. Nếu có ai bảo em bé rằng không phải mặt
trời mọc và lặn mà chính quả địa cầu chuyển động quay tròn và vòng quanh
mặt trời thì em bé sẽ cười và không tin. Bậc thánh nhân đã diệt mọi ảo kiến và thấy
chân tướng sự vật. Ðức Phật dạy rằng phân tách đến mức cùng
tột thì không thể có một bản ngã trường tồn bất biến. Mọi yếu tố cấu thành
con người đều ở trong trạng thái luôn luôn biến đổi. "Không có người làm
mà chỉ có việc làm". Không có người thấy mà chỉ có sự thấy. Tóm tắt con
người chỉ là sự phối hợp của năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Trong
con người không có cái chi có thể gọi là một bản ngã vững bền tồn tại,
không biến đổi.
Về điểm này triết học gia Descartes có
viết "Cogito, Ergo Sum", tôi suy tưởng, tức là có tôi. Nhà triết học Pháp
căn cứ luận lý của ông trên sự "tôi suy tưởng" nhưng không chứng minh rằng
có cái "Tôi" để suy tưởng.
Trên 2500 năm sau Ðức Phật, triết gia
William James cũng có một quan điểm như Phật Giáo. Ông chủ trương "Không
có người suy tưởng mà chỉ có sự suy tưởng". Theo Phật Giáo cái bản ngã hay là cái Ta
chỉ là sự kết hợp của những yếu tố luôn luôn biến đổi. Ngoài ra không có
cái gì có thể gọi là một linh hồn vĩnh cửu hay một bản ngã trường tồn.
Phật Giáo không nhìn nhận có những nguyên do huyền bí tạo nên một bản ngã
bất diệt. Về điểm này ta nên phân biệt thuyết tái
sanh của Phật Giáo với thuyết "đầu thai" tức là sự thoát xác của một linh
hồn để nhập vào một xác khác cũng như người bỏ một căn nhà cũ nát để ở
trong một căn nhà mới. Một linh hồn trường cửu tất nhiên phải bất
biến. Nếu có một linh hồn bất diệt làm bản ngã cốt yếu của con người thì
tất nhiên linh hồn ấy không phát sanh, không biến đổi và cũng không tiêu
diệt. Ngoài ra ta cũng không thể hiểu tại sao từ lúc mới tạo ra, các linh
hồn lại khác biệt với nhau dường ấy. Quan sát đến mức cùng tột người Phật tử
hiểu biết không thể quan niệm được một linh hồn bất biến bên trong một vị
Chư Thiên, trong con người hay trong một loài cầm thú nào. Những hình thể
người, thú hay Chư Thiên chỉ là sự biểu hiện bề ngoài của luồng Nghiệp
lực. "Chúng sanh" chỉ là một khái niệm và danh từ người, thú, hay Chư
Thiên chỉ là một sự ước định. Nói một cách chính xác, chúng sanh chỉ là sự
phối hợp của Danh và Sắc. Ðể biện minh rằng có đời sống tối đại hạnh
phúc trên một thiên đàng trường cửu và có những cực hình vô tận trong một
địa ngục vĩnh viễn, một linh hồn bất di bất dịch là tối cần. Nếu không có
một linh hồn trường tồn bất diệt thì cái gì làm tội trên thế gian và cái
gì phải chịu khổ hình ở địa ngục?
Nhà học giả trứ danh, ông Bertrand Russel
có viết: "Ðúng lý ra ta phải nói rằng sự phân biệt cũ kỹ giữa linh hồn và
thể xác từ lâu đã tiêu tan như mây khói vì vật chất đã mất dần đặc tánh
cứng rắn và vững bền, mà linh hồn cũng đã mất một phần thần tính của nó.
Tâm Lý Học vừa bắt đầu trở thành một ngành khoa
học và trong tình trạng hiện hữu của Tâm Lý Học sự tin tưởng nơi một linh
hồn trường cửu không thể đòi hỏi khoa học tán trợ. Theo nhà học giả uyên bác, tác giả quyển
"The Riddle of Universe" (Sự bí ẩn của vũ trụ) "Biện chứng Thần Linh Học
chủ trương có một đấng Tạo Hóa thổi vào con người một linh hồn bất diệt
(linh hồn của con người thường được xem là một phần của một Ðại hồn của
tạo hóa). Ðó là một câu chuyện thần thoại. "Biện chứng Vũ Trụ Luận cho rằng muốn tạo
một thế gian điều hòa trong vòng trật tự tinh thần đạo đức cần phải có một
linh hồn trường tồn bất diệt. Ðó là một giáo điều vô căn cứ.
"Biện chứng Chung Quả Luận chủ trương rằng
do sự tiến triển không ngừng của con người để cải thiện vận mạng mình
những khuyết điểm của linh hồn phải được cải tiến mãi mãi trong đời sống
và sau kiếp sống. Ðó là một lối hiểu sai lầm của Sinh thuyết Vật Ðồng Nhân
(Anthropomorphisme) cho rằng tất cả sinh vật đều có những hành động và tư
tưởng như người. "Theo biện chứng Ðạo Ðức Luận những khuyết
điểm và những tham vọng chưa được thỏa mãn trong đời sống phải được bổ
khuyết và đền bù một cách công bình và vĩnh viễn sau đời sống. Ðó chỉ là
một điều mong ước cuồng nhiệt.
"Biện chứng Nhân Chủng Luận cho rằng sự
tin tưởng nơi tính cách bất diệt của linh hồn cũng như sự tin tưởng nơi
một đấng Tạo Hóa là một chân lý cố hữu trong toàn thể nhân loại. Ðó hiển
nhiên là một sai lầm. "Biện chứng Bản Thể Luận chủ trương rằng
linh hồn đã là một thực thể vô hình và bất khả phân chia tất không thể bị
liên quan đến sự vong hoại do cái chết gây ra. Ðiều này căn cứ trên quan
niệm sai lạc của hiện tượng tâm linh một ảo mộng của Duy Thần Luận. "Tất cả những biện chứng kể trên cũng như
tất cả những giả thuyết tương tợ về bản ngã đã lâm vào tình trạng nguy
ngập trong vòng mười năm nay và đã bị khoa học chỉ trích và bác bỏ hoàn
toàn". Một nhà bác học khác, ông Hume, sau khi
gia công tìm kiếm một linh hồn bất diệt đã viết trong quyển "Religion and
Science" (Tôn Giáo và Khoa Học) như sau: "Có vài triết gia tưởng tượng
rằng trong mỗi chập tư tưởng chúng ta mật thiết nhận thức cái gọi là Ta và
chúng ta cảm giác rằng cac "Ta" có thật và thật sự tồn tại. Các triết gia
ấy, ngoài sự hiển nhiên của mọi luận chứng, cũng quả quyết rằng cái Ta
hoàn toàn không biến đổi và không thể phân chia. "Riêng về phần tôi, khi thâm nhập mật
thiết vào cái mà tôi gọi là "Tôi" thì luôn luôn tôi vấp phải một cảm giác
đặc biệt như nóng hay lạnh, sáng hay tối, thương hoặc ghét, vui hoặc buồn,
sáng hay tối, thương hoặc ghét, vui hoặc buồn. Tôi chưa từng bắt được cái
"Tôi" ngoài những cảm giác ấy và tôi chưa hề chiêm nghiệm được cái gì
ngoài cảm giác..." Về vấn đề linh hồn, Giáo sư William James
có viết trong quyển "Principles of Psychology" (Những Nguyên Tắc về Tâm Lý
Học trang 351) "... Cái Ta (dùng như một túc từ, complément) là một sự kết
hợp do kinh nghiệm cấu tạo với sự vật đã được biết một cách khách quan.
Vậy cái Ta (dùng như một chủ từ sujet) biết được sự vật ấy không thể là
một sự kết hợp. Không thể dùng cái Ta ấy trong những mục tiêu thuộc về Tâm
Lý và xem nó như một thực thể siêu hình không biến đổi, một linh hồn
trường tồn bất biến. Cũng như không thể xem nó như một nguyên lý, một bản
ngã siêu việt vượt ra ngoài thời gian. Cái "Ta" chỉ là một tư tưởng biến
đổi từng chập. Không một tư tưởng nào giống chập tư tưởng trước kế đó,
nhưng luôn luôn thuận ứng theo chập tư tưởng trước để cùng chung hợp lại
thành một tư tưởng riêng biệt". Trên hai ngàn năm trăm năm về trước Ðức
Phật Gotama đã từng thuyết minh những điều này khi ngài châu du hoằng pháp
trong lưu vực sông Hằng (gange). Phật Giáo dạy một thứ Tâm Lý Học trong đó
khong có tâm linh. Phật Giáo giải thích rằng con người do Danh (Nàma) và
Sắc (Rùpa) cấu tạo và hai phần này ở trong một trạng thái luôn luôn biến
đổi như một dòng suối trường lưu bất tức. Ðể cho mọi người được hiểu dễ dàng, đôi
khi Ðức Phật gọi toàn thể tiến trình của những hiện tượng tâm vật lý ấy là
cái Ta (Atta) vì đó là một danh từ ước định đã được thông dụng. Thực ra
trong biến đổi của danh và sắc chỉ có sự tiến trình là đồng nhất (không
biến đổi) mà không có vật đồng nhất (không có cái chi là trường tồn bất
biến). * * * Về mặt tâm lý học, thuyết vô ngã (Anatta)
là một chân lý. Ðứng về phương diện luân lý thuyết ấy là một lợi ích quan
trọng. Bao nhiêu tội lỗi đã gây ra chỉ vì ta chấp
ngã. Ta luôn luôn nói rằng đây là Ta cái này "Của Ta"và tận dụng tất cả
năng lực và thì giờ để phụng sự cái "Ta". Cái nào thuận chiều với nó thì
ta luyến ái tức là tham (Lobha). Vật nào hay sự việc nào nghịch lại thì ta
bất mãn tức là Sân (Dosa). Tham với Sân vì bị lớp Si (Moha) bao phủ như
đám mây mờ. Ta nhận ảo là thực, chấp cái ta huyền ảo và luôn luôn biến đổi
là một thực thể trường tồn. Theo Phật Giáo, Tham, Sân, Si là nguồn gốc
của tất cả tội lỗi. Vi Diệu Pháp dạy rằng hành động ác là những hành động
do các loại tâm bất thiện (Akusala citta) làm động cơ thúc đẩy. Và tâm bất
thiện là những loại tâm bắt nguồn từ Tham (Lobha), Sân (Dosa) và Si
(Moha). Vì thế người Phật tử phải luôn luôn chiến đấu để diệt cái "Ta" cái
ngã chấp. "Hãy dứt bỏ cái gì không phải của con. 4. LỤC CĂN VÀ LỤC TRẦN Sáu cái nhà bỏ không trong làng là Lục
Căn. So sánh như vậy vì khi người trí tuệ quan sát ngũ quan và cái tâm của
mình thì chỉ thấy sự trống không. Không dấu vết nào của một cái gì - vật
chất hay tinh thần - có thể gọi là của mình. Không thể tìm ra một linh hồn
hay một yếu tố nào vững bền tồn tại, khả dĩ gọi là bản ngã. Lục căn là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý.
Nên hiểu rằng nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, v.v... ở đây không có nghĩa là con mắt
hay lỗ mũi bằng da bằng thịt v.v... Nhãn đây là nhãn căn nhãn quan, phần
nhạy trong con mắt, cái khả năng thấy trong con mắt. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân,
ý cũng thế. Ý ở đây có nghĩa là nơi xuất phát ra tư tưởng.
[12]
Tất cả chúng sạnh trong dục giới
(Kàmaloka) đều có đủ lục căn, trừ hững người câm, điếc, mù từ lúc lọt lòng
mẹ. Theo Vi Diệu Pháp, chúng sanh trong sắc
giới (Rùpaloka) không có tỷ căn, thiệt căn và thân căn. Như vậy có nghĩa
là các vị ấy cũng có mũi, lưỡi và thân nhưng không có khả năng hửi, nếm và
xúc vì các Ngài, ở trên một tầng cao, đã diệt trừ mọi luyến ái trong dục
giới (Kàmaraga). Tuy nhiên các Ngài vẫn còn nhãn căn và nhĩ căn để dùng
trong các việc thiện. Chúng sanh trong vô sắc giới, vì không có
sắc, không có lục căn. Do ý chí của các Ngài và năng lực của Thiền, tâm
các Ngài không cần phải nương tựa nơi một loại sắc nào để tồn tại.
Sáu tên cướp chạy vào làng lùng bắt tên
tội là Lục Trần. Lục căn luôn luôn bị lục trần xâm nhập và lôi cuốn. Lục trần là Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc,
Pháp. Sắc (Rùpa) là đối tượng của sự thấy, vật
thấy, cái gì có hình thể mà mắt nhận thấy được. Nói một cách khác, sắc là
nơi nương tựa, phạm vi, khu vực có màu, là hiện thân của màu sắc. Thinh (Sadda), âm thanh, hay là tiếng
động, phát sanh do sự cọ sát của yếu tố đất trong vật chất.
Hương (Gandha) và Vị (Rasa) phát sanh do
cả bốn yếu tố của vật chất (Tứ Ðại). Xúc (Phottobbàrammana) là vật có thể sờ
đụng được (tangible), là đối tượng của thân căn. Nên ghi nhận rằng xúc
(phottabbàrammana) không phải chỉ là sự đụng chạm (contact). Trong vật
chất, ba yếu tố Ðất, Lửa, Gió có thể sờ đụng được. Ngũ quan không thâu
nhận được nguyên tố Nước. Pháp (Dhammàrammana) là tất cả những đối
tượng của tâm. Pháp (Dhamma) có thể là những hiện tượng vật chất hay tinh
thần. Tên cướp thứ nhất là Sắc. Ðức Phật dạy
rằng trên đời không có chi làm cho tâm một người đàn ông rung động bằng
hình dáng của người đàn bà. Và không có chi làm cho tâm một người phụ nữ
rung động bằng hình dáng của người đàn ông. Rất khó mà kiểm soát và thu thúc được nhãn
căn vì bao nhiêu hình sắc đẹp đẽ của ngoại cảnh luôn luôn sẵn sàng làm cho
ta xao xuyến. Lịch sử nhân loại đã chứng tỏ rằng bao nhiêu cơ đồ đã sụp đổ
và bao nhiêu công nghiệp đã phải suy tàn chỉ vì sắc đẹp. Kinh sách có ghi
lại chuyện tích một vị Bồ Tát đã đắc được nhiều thần thông, chỉ vì không
tự kềm chế được, để tâm rung động trước hình dáng một phụ nữ mà bao nhiêu
công đức tu tập phải tiêu ban như bọt nước. Chuyện kể ra như sau: Một vị Bồ Tát kia đã đắc được nhiều thần
thông, thường ngày được vua thỉnh vào cung điện để dâng cúng vật thực.
Một hôm, từ xa đằng vân tới hoàng thành, vừa hạ xuống hậu cung, Bồ Tát
chợt thấy Hoàng Hậu từ phòng tắm bước ra chỉ khoác một tấm choàng mỏng.
Bất hạnh cho Bồ Tát, trong một phút xúc động đã mất hết các phép thần
thông. Ta nên ghi nhớ rằng đây là một câu chuyện
xảy đến, không phải cho một người thường, mà cho một vị Bồ Tát là người đã
trong sạch phát tâm tự nguyện cố gắng trở thành một vị Phật. Ðã là Bồ Tát
và có nhiều thần thông Ngài hẳn đã vượt qua năm chướng ngại tinh thần
(Nivaranà) mà còn phải bị sa ngã trước hình dáng yêu kiều của một phụ nữ.
Vậy chúng ta, còn phàm phu, phải hết sức cố gắng kềm chế nhãn căn.
Cũng vì lẽ ấy mà Ðức Phật hằng khuyên nhủ
hàng tín đồ nên luôn luôn thận trọng từng ly từng tý trong việc kiểm soát
nhãn quan, như người lính gác cửa thành từng giây từng phút canh chừng
quân địch. Một khoảnh khắc lơ đỉnh có thể ảnh hưởng rất tai hại. Bởi thế
ai là cha mẹ thầy cô, những người có trách nhiệm dạy dỗ trẻ em, phải hết
sức chú trọng đến vấn đề nam nữ và luôn luôn ngăn ngừa hậu quả của sự thân
cận giữa đôi bên, người Phật tử thuần thành cũng phải thận trọng kiểm soát
mọi Ái Dục phát sanh do nhãn quan. Tuy nhiên, Ðức Phật không khi nào cố ý
khuyên tất cả chúng ta từ khước mọi lạc thú vật chất để vào rừng tìm nơi
thanh vắng tu hành. Chúng ta không tìm cách xa lánh những hạnh
phúc vật chất, tuy là tạm bợ nhưng cũng không làm nô lệ cho thể xác. Ta
cảm thấy có hạnh phúc khi một điều mong mỏi được thỏa mãn. Nhưng bản chất
của chúng sanh là không khi nào biết là đủ. Ðược thỏa mãn một điều là mong
muốn điều khác, không khi nào hoàn toàn mãn nguyện. Bởi thế ta cần phải cố
gắng luôn luôn giữ tâm trong sạch và thận trọng thu thúc dục vọng. Một tích chuyện ghi rằng một ni cô đang
hành thiền trong rừng. Một người đàn ông đi ngang qua, thấy ni cô phải
lòng, mãi theo ve vãn dụ dỗ, Ni cô hỏi: "Tại sao ông lại thương tôi?" - "Vì Ni cô có cặp mắt hết sức đẹp". Người
đàn ông trả lời. Ni cô liền thò tay móc tròng mắt ra, đặt
trong lòng bàn tay, đưa cho người đàn ông và nói: "Ðây là con mắt của tôi,
ông còn thấy đẹp nữa không?".
Muốn giảm bớt bám bíu vào hình sắc chúng
ta nên niệm về sự ô trược của thể xác là một phương pháp rất hiệu nghiệm.
Quán tưởng thấy xác thân cấu hợp bởi một bộ xương, nhiều bắp thịt đắp bên
ngoài, tất cả bao bọc trong một lớp da mỏng. Thật không đáng cho ta quý
mến chút nào. Vào thời Ðức Phật có nhiều vị Tỳ Khưu đã đắc quả A La Hán
nhờ tham thiền với đề mục này. Một hôm có vị Tỳ Khưu vừa đi bên đàng vừa
quán tưởng đề mục xương. Một người phụ nữ mới giận chồng đi ngược chiều,
gặp vị Tỳ Khưu lại hả miệng cười. Một chập sau chồng của cô chạy theo tìm
cô, thấy vị Tỳ Khưu đi bên đàng thì dừng lại lễ phép hỏi có thấy một người
đàn bà đi trên đường này không. Vị Tỳ Khưu thản nhiên trả lời: "Bần tăng
không đặng rõ là đàn bà hay đàn ông, bần tăng chỉ thấy có một đống xương
vừa đi qua".
Vị Tỳ khưu trả lời như vậy vì trong lúc
quán tưởng đề mục xương, mắt vừa thấy hàm răng thì ấn tượng của toàn thể
bộ xương của người phụ nữ phát sanh ra trong nhãn thức ngay. Mắt bị rung động vì hình sắc, thì tai bị
cảm xúc vì âm thanh, mũi bị kích thích vì hương, lưỡi vì vị. Về điểm này
ta cũng nên hết sức thận trọng vì mùi ngon ngọt của những vật thực có chất
độc, chất say như rượu mạnh, thuốc phiện v.v... Một vài hớp rượu mạnh
không phải là một trọng tội, tuy nhiên đó là một khởi điểm nhỏ nhen để đưa
ta đến thói quen chấm chút có chừng mực và cuối cùng tha hồ say sưa vô
đội. Một câu chuyện ngụ ngôn thuật lại như sau:
Một chàng kia, sau khi ăn học thành tài,
từ phương xa về quê nhà, đi ngang qua một thành phố nọ, nghe tiếng đồn có
một đền đài vô cùng đẹp đẽ, bên trong lại có nhạc kịch tuyệt trần. Anh lần
mò tìm đến và xin vào. Ở một cửa nọ người ta bảo anh rằng muốn vào chỉ cần
phải giết một con vật sẵn có phía trong. Anh nghĩ thầm: "Xem cung điện và
nghe âm nhạc thì rất là thích thú, nhưng phải giết một sinh mạng để mua
vui thì anh không đành". Anh tìm đến cửa khác thì được biết rằng muốn vào
phải trộm cắp. Anh không chịu. Qua cửa thứ ba, người ta buộc anh làm điều
tà dâm, cửa thứ tư phải nói dối. Anh cũng từ chối luôn. Cửa thứ năm, nhỏ
hơn các cửa kia, anh được biết rằng muốn vào phải uống rượu. Anh không
chịu. Nhưng người gác cửa nài nỉ rắng uống chút rượu thì cũng không hại gì
mà được xem cung điện và nghe âm nhạc thì thật là thú vị và mời anh nếm
một giọt thôi. Anh nghĩ thầm: "Uống rượu là một tật xấu, nhưng nếm thử một
giọt nghĩ cũng không đến đỗi là một lỗi lầm trọng đại. Ta hãy thử nếm một
chút xem sao". Anh chàng liền bằng lòng nếm thử. Thấy ngon và không có chi
hại, anh liền nhắm một hớp, rồi một hớp nữa. Ngon miệng anh uống một hơi
quá chén, và đến lúc bấy giờ thì, mất bình tĩnh, kém sáng suốt, không tự
kềm chế được, anh hăng hái lần lượt làm những điều xấu xa mà trước kia anh
đã can đảm quyết tâm từ chối. Anh phạm bao nhiêu lỗi lầm chỉ vì xem thường
một giọt rượu. Thân của ta cũng là một nhịp cầu để cho
ngoại trần xâm nhập và làm cho ta say mê, sa đọa.
Tâm cũng bị ảnh hưởng của những tư tưởng
xấu xa. 5. BỐN DÒNG NƯỚC LŨ Chúng sanh bị lôi cuốn trong bốn dòng nước
lũ (Oghà) hùng mạnh và xoay tròn thành một cái xoáy vĩ đại, vô cùng nguy
hiểm, tràn ngập ba giới bốn loài. Bốn dòng nước ấy là: - Tham Dục (Kàma), Bốn dòng nước lũ này nhận chìm và lôi cuốn
chúng sanh vào khổ cảnh. Dòng nước lũ đầu tiên là Tham Dục (Kàma),
Sự thỏa thích, ham muốn, luyến ái, đeo níu theo nhục dục ngũ trần.
Phần trên đã đề cập đến mối nguy cơ của sự
dễ duôi để cho lục trần lôi cuốn. Trong kinh (Potaliya Sutta, M. 54) Ðức
Phật so sánh lòng tham dục với: 1. Một khúc xương khô, không dính chút
thịt, không còn chút máu mà người ta vứt cho con chó đói. Chó gậm xương mà
vẫn đói. Cùng một thế ấy chúng sanh đeo níu theo nhục dục nhưng không được
thỏa mãn. 2. Một miếng thịt mà những loại chim như
kên kên, quạ, ó, cắn đá nhau để dành ăn. Nếu một con ngậm được mà dành lấy
một mình thì những con kia bay lại vừa mổ vừa đá, không chết thì cũng chịu
đau đớn. Lòng tham dục cũng đưa chúng sanh vào những cuộc cạnh tranh huynh
đệ tương tàn như vậy thật vô cùng nguy hiểm. 3. Một cây đuốc cháy để phía trên gió. Nếu
không cẩn thận chạy tránh thì ắt bị tàn đuốc bay đến làm phỏng da. Cũng
dường thế ấy, tham dục đốt cháy những ai không chịu suy tưởng, không thận
trọng chạy tránh, nhắm mắt lao mình vào những khoái lạc vật chất với lòng
tin tưởng rằng nó sẽ đem lại ánh sáng và hạnh phúc. 4. Một hầm than đang cháy đỏ, và chúng
sanh như người kia, bị đám người khác kéo lôi đến. Nếu không mau chân chạy
thoát đám người hung tợn nọ thì ắt bị xô đẩy vào hầm lửa. Tham dục không
khác nào một bể lửa khổng lồ (Mahàbhitàba) và nạn nhân là những ai bị lục
trần lôi cuốn. Lòng tham dục đưa chúng sanh đến sự tái sanh trong khổ
cảnh.
5. Một giấc mộng đẹp. Nằm mơ thấy phong
cảnh đẹp đẽ hữu tình. Lòng nhẹ nhàng khoan khoái. Nhưng khi tỉnh giấc,
cảnh đẹp đều tan đâu mất. Cùng một thế ấy, tham dục là một ảo kiến ngắn
ngủi (Ittarapaccupathàna), không khác một giấc mộng. Khi tỉnh giấc mơ, trở
về với thực tế, với những lo âu, phiền não hằng ngày, nạn nhân lấy làm
thất vọng và đau khổ.
6. Một món đồ vay mượn mà người cuồng sĩ
lấy làm hãnh diện khoe khoang với hàng xóm láng giềng. Khi món đồ bi đòi
lại thì người hàng xóm chỉ coi anh là người nói khoác. Tham dục là lòng
ham muốn những thú vui tạm bợ, huyền ảo. 7. Một trái cây. Chàng kia thèm thuồng,
trèo cây bẻ trái. Một người khác, cũng ham muốn trái ấy mà không trèo
được, sanh lòng ganh tỵ, chặt ngã cây nếu không nhanh chóng tuột xuống thì
anh trèo cây phải bị té, không gãy chân gãy tay thì cũng mang thương tích.
Người có lòng tham dục, nhắm mắt chạy theo nhục dục ngũ trần cũng bị gãy
tay gãy chân như vậy và thương tích đây có thể là những thương tích vật
chất lẫn tinh thần. Dòng nước lũ thứ nhì là sự luyến ái, bám
chặt vào đời sống (Bhàva). Chính Bhàva tạo điều kiện để tái sanh. Bhàva là
dòng nước lũ nguy hiểm lôi cuốn chúng sanh mãi mãi lặn hụp trong vòng luân
hồi. Tà kiến (Ditthi) là dòng nước lũ thứ ba.
Phạn ngữ (Ditthi) do căn nguyên "dis" có nghĩa là thấy, trông thấy. Ditthi
là quan điểm, sự tin tưởng, ý kiến v.v... Sammà Ditthi là chánh kiến.
Miccha Ditthi là tà kiến. Ðứng lẻ loi một mình Ditthi có nghĩa là tà kiến. Tà kiến (Ditthi) không đồng nghĩa với S,
(Moha). Si (Moha) như đám mây mờ bao phủ che án, không cho tâm trông thấy
sự vật. Tà kiến (Ditthi) quả là một quan điểm rõ ràng. Tà kiến gồm hai
giai đoạn: nhận xét sai lầm và hiểu biết theo quan điểm sai lầm ấy. Người
có tà kiến nghĩ: "Thực tế phải như vầy, thế này mới đúng, tất cả đều sai".
Tà kiến nghịch nghĩa với trí tuệ. Trí tuệ nhận xét thực tướng của sự vật.
Tà kiến gạt bỏ chân tướng và chấp nhận một quan điểm sai lầm.
Người tà kiến hiểu rằng đây là "Ta". Cái
này "của Ta" và do đó bao nhiêu lỗi lầm phát sanh. Có mười tà kiến: 1. Tin rằng không có cái gì gọi là "để
bát" (dinnan) (câu này có nghĩa để bát chư Tăng không đem lại cho ta lợi
ích nào). 2. Tin rằng không có cái gì gọi là "Cúng
dường" (ittham), hay 3. Tin rằng không có cái gì gọi là "Dâng
tặng" (butan). (Hai câu này có nghĩa là cúng dường
Ðức Phật và Chư Tăng, bố thí vật thực và dâng tặng vật dụng đến những
người cần đến không đem lại cho ta lợi ích gì). 4. Tin rằng không có nhân quả. Hành động
thiện hay ác đều không gây hậu quả nào. 5. Tin rằng không có cái gì gọi là "thế
gian này", hay 6. Tin rằng không có cái gì gọi là "Thế
gian tới". (Những người sanh ở đây không chấp
nhận có kiếp sống quá khứ và những người sống ở
đây không chấp nhận một đời sống vị
lai).
7. Tin rằng không có "mẹ", hay 8. Tin rằng không có "Cha". (Hai câu này ngụ ý rằng đối xử với
cha mẹ như thế nào cũng không có hậu quả). 9. Tin rằng không có chúng sanh chết và
tái sanh (Opapàtika). 10. Tin rằng không có những bậc tu sĩ xa
lánh chốn phồn hoa đô hội để tìm nơi vắng vẻ tham thiền và những bậc thiện
trí thức, đức độ cao thượng, đạo hạnh trang nghiêm đã thành tựu đạo quả
(ám chỉ chư Phật và chư vị A La Hán). Dòng nước lũ thứ tư là Vô Minh (Avijja)
không hiểu biết. Vô Minh là không hiểu biết Tứ Diệu Ðế. Vô Minh dẫn dắt
chúng sanh đi mãi trong vòng luân hồi. 6. CHIẾC BÈ - BÁT CHÁNH ÐẠO Chiếc bè tượng trưng Bát Chánh Ðạo, con
đường duy nhất dẫn chúng sanh đến Niết Bàn, mục tiêu cứu cánh của người tu
Phật. Bát Chánh Ðạo là: Chánh Kiến (Sammà Ditthi), Chánh Tư Duy (Sammà
Sankappa). Chánh Ngữ (Sammà Vacca), Chánh Nghiệp (Sammà Kammanta), Chánh
Mạng (Sammà Ajiva), Chánh Tin Tấn (Sammà Vàyàma), Chánh Niệm (Sammà Sati)
và Chánh Ðịnh (Sammà Samàdhi). Trong tám yếu tố này Chánh Kiến và Chánh
Tư Duy thuộc về Trí Tuệ; Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp và Chánh Mạng thuộc về
Giới; Chánh Tin Tấn, Chánh Niệm và Chánh Ðịnh thuộc về Ðịnh. Giới (Sila): Chánh Ngữ Ðịnh (Samàdhi): Chánh Tinh Tấn Tuệ (Pannà): Chánh Kiến Theo thứ tự, Giới, Ðịnh, Tuệ là ba giai
đoạn của "con đường" dẫn dắt đến Niết Bàn. Một hôm, Ðức Phật dạy các Tỳ Khưu như sau: "Hỡi này các Tỳ Khưu, thí dụ như có một
người đi trên đường, thấy trước mặt có một con sông rộng lớn. Bờ bên này
thì hiểm nghèo đáng sợ còn bờ bên kia thì an toàn và không nguy hiểm. Ngó
quanh quẩn, anh không tìm đâu ra được thuyền bè hay cầu để sang bên kia
bờ. Khách đi đường mới nghĩ: "Ðây là một con sông rộng lớn. Bờ bên này thì
hiểm nghèo đáng sợ. Bờ bên kia thì an toàn và không nguy hiểm. Ðể sang
sông lại không có thuyền bè, cầu cũng không. Tại sao ta lại không tìm lau,
sậy, cây, nhánh, lá để kết lại làm một chiếc bè?". Nghĩ vậy anh liền gom
góp lau, sậy, cây, nhánh, lá, kết lại thành bè. Ngồi trên chiếc bè ấy, anh
dùng cả tay lẫn chân, hết sức cố gắng bơi riết, băng sông qua bờ bên kia.
Ðến bờ an toàn anh lại nghĩ: "Chiếc bè này thật hữu ích. Nhờ nó mà ta vượt
qua được con sông rộng lớn. Vậy, bây giờ ta có nên đội nó trên đầu hay
khiêng trên vai để luôn luôn đem nó theo ta không?" Các vị Tỳ Khưu nghĩ
thế nào? Người đi đường có nên vác chiếc bè theo bên mình không? - Bạch Ðức Thế Tôn, không. - Vậy anh phải làm thế nào với chiếc bè? Và Ðức Phật nói tiếp: "Hỡi này các Tỳ
Khưu, khi đã vượt con sông rộng lớn và bước chân lên bờ bên kia, người đi
đường nghĩ: "Chiếc bè này quả thật hữu ích. Nhờ nó và nhờ sự cố gắng dùng
cả tay lẫn chân để bơi, ta đã vượt qua sông và đến bờ an toàn. Bây giờ ta
kéo nó lên bờ rồi bỏ đi hay để nó trôi theo dòng nước, còn ta thì thong
thả nhẹ nhàng đi đâu tùy thích. Như vậy có nên không?" Hỡi này các Tỳ
Khưu, người đi đường có nên hành động như thế không?
Cùng một thế ấy, những lời dạy của Như Lai
cũng như chiếc bè: Mục đích của nó là đưa ta vượt sông chớ không phải để
ta bám vào nó". * * * Bát Chánh Ðạo (Magga Ariya Sacca) chỉ là
những phương tiện đưa đến Niết Bàn. Tất cả các pháp hữu lậu đều là VÔ THƯỜNG,
KHỔ NÃO, VÔ NGÃ. Người sáng suốt nhận thức như vậy và sẽ chán chê thân Ngũ
Uẩn. Ðó là Thanh Tịnh Ðạo. -- (Kinh Pháp Cú) Bố thí vì lòng từ bi... * * * Hạnh phúc thay Chư Phật
giáng sinh!
Chú thích: [1] Poussin. "The Way to Nirvana" trang
68. [2] Theo Phật giáo có ba giới: 1. Dục giới (Kàmaloka), chia làm 11
cảnh là 4 cảnh khổ (Apàya) 1 cảnh người (Manussaloka) và 6 cảnh trời dục
giới (Sagga). Theo thường, danh và sắc cùng phát sanh
một lượt và phối hợp mật thiết để sinh hoạt, không thể bị phân tán. Nhưng
trong những trường hợp đặc biệt, do nơi ý chí dõng mãnh trong lúc tham
thiền, hành giả có thể tách rời danh và sắc, như ở cõi vô sắc, thể xác
không còn là một yếu tố cần thiết để tâm tồn tại.
[3] Majjhima Nikaya (Trung A Hàm) -
Mahatanhà Samkhaya Sutta, Kinh Đoạn Tận Ái, số 38.
[4] Có thể nói thức tái sanh này là điểm
kết hợp (point de liaison) hoặc là một hình thức di chuyển của giòng
nghiệp lực từ một chúng sanh vừa tắt thở qua một thai bào thích ứng khác
để thể hiện một chúng sanh tương xứng với sức phản động của hành vi thiện
ác quá khứ (nghiệp lực). [5] Parama là cái gì không thể thay
thế (aviparita) trừu tượng (nibbattita). Attha là vật.
Paramattha là vật không thể thay thế, vật trừu tượng, thực tế trừu
tượng. [6] Trong sự thấy, mắt, vật để thấy và
thức là 3 yếu tố cần thiết. Ánh Sáng là môi vật (medium). Cũng như không
khí là môi vật của sự nghe và sự ngửi. [7] Theo Vi Diệu Pháp, Vinnàna (Thức) đồng
nghĩa với Citta (tâm vương).
[8] Trong một chớp nhoáng có hằng triệu
triệu chập tư tưởng. [9] Vì trong khoảng thời gian giữa hai cái
gõ thì bao nhiêu triệu tế bào đã tiêu diệt và được thay thế trong ngón tay
cũng như trong chất gỗ của bàn. [10] Nếu phân một giây đồng hồ ra làm
1.000.000.000.000.000.000.000.000.000. Vật chất tồn tại trong 1 phần ấy. [11] Phân Anh (inch), bằng 2,54 cm. Chia
2,54 cm ra làm 30 triệu lần. Tế bào đầu tiên của con người lớn bằng 1
phần. [12] Có thuyết chủ trương rằng tư tưởng
xuất phát từ trái tim, khoa học chủ trương rằng tư tưởng xuất phát từ bộ
óc. Ý ở đây chỉ có nghĩa là nơi xuất phát của tư tưởng. -ooOoo- Chân thành cám ơn Tỳ kheo Thiện
Minh đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 09-2002). [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Phỏng viết theo bài Pháp của ÐẠI ÐỨC NÀRADA MAHÀ THERA,
thuyết tại Kỳ Viên Tự, Sài gòn, ngày 11-07-1964
Kỳ Viên Tự, Sài gòn, 1964
2. Phần tinh thần, vô hình, nằm bên trong.
- Nguyên tố Nước (Àpo-Dhàtu)
- Nguyên tố Lửa (Teyo-Dhàtu)
- Nguyên tố Gió (Vàyo-Dhàtu )
"Sự dứt bỏ ấy sẽ đem lại cho con Hạnh Phúc và An Vui.
"Cái gì không phải của con?
"Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức không phải của con.
"Con hãy dứt bỏ Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức
"Ðó là một sự dứt bỏ sẽ tạo cho con Hạnh Phúc và An Vui"
-- Tạp A Hàm, XXII, 33
- Bám bíu vào đời sống (Bhàva),
- Kiến (Ditthi), và
- Vô Minh (Avijja).
Chánh Nghiệp
Chánh Mạng
Chánh Niệm
Chánh Ðịnh
Chánh Tư Duy
Cho những người thiếu thốn với tấm lòng thương xót...
Ðó là mầm giống quý báu, cao thượng hơn tất cả những gì rực rỡ huy hoàng
mà vô bổ.
Với tấm lòng thành kính, dâng cúng đến bậc thầy tổ, mẹ cha, đến bậc ân
nhân và bậc thiện trí thức... lại càng cao quý.
Cho ra để gieo duyên lành, truyền bá chân lý và mở đường dẫn lối đến Giới,
Ðịnh, Tuệ.
Ðó là bố thí cao thượng!
Hạnh phúc thay Giáo Pháp cao minh!
Hạnh phúc thay Tăng Già Hòa hiệp!
Hạnh phúc thay Tứ Chúng đồng tu!
-- (Kinh Pháp Cú)
2. Sắc giới (Rùpaloka) gồm 16 cảnh mà những người đắc thiền sắc giới
(Rùpaijhànas) tái sanh vào đó.
3. Vô sắc giới (Arùpaloka). Do nhờ năng lực thiền định, hành giả thọ
sanh trong cảnh vô sắc, chỉ có tâm (danh) mà không có hình thể (sắc).
updated: 17-09-2002