|
 |
Những Giai
Đoạn Tiến Triển của Thiền Minh Sát
Một khái luận về
Thiền Tứ Niệm Xứ
do Ngài Mahàsi Sàyadaw viết ra bằng tiếng Miến Điện
và dịch sang cổ ngữ Pàli.
Ngài Nyànaponika Thera chuyển ngữ từ Pàli sang Anh và chú giải.
Phạm
Kim Khánh dịch từ Anh sang Việt
|
Bản khái luận nầy trình bày sự tiến
triển của tuệ minh sát [1], cùng với những giai đoạn Thanh Lọc tương
đương của Thanh Tịnh Đạo [2] và được viết ra một cách khái quát, nhằm
giúp người hành giả đã thâu đạt một vài thành quả rõ rệt trong pháp hành
hiểu biết dễ dàng hơn chứng nghiệm của mình. Bài nầy nhằm giúp những ai,
trong khi hành Thiền Minh Sát dùng làm đề mục, hoặc sự xúc chạm bằng
thân với tiến trình di động [3] (nguyên tố gió của tứ đại), hiển nhiên
cảm thấy bụng di chuyển, phồng lên và xẹp xuống [4], hoặc trong sự xúc
chạm với tiến trình thân do ba nguyên tố kia của sắc (đất, nước, lửa)
[5], hiển nhiên trong xúc giác; nhằm rọi sáng cho những ai, trong khi
thực tập Thiền Minh Sát, đã tuần tự phát triển những tuệ liên quan đến
danh-và-sắc qua sáu cửa [6]: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, và cuối
cùng đã nhìn thấy Giáo Pháp (Dhamma), đã đến Giáo Pháp, đã vượt qua mọi
ngờ vực, đã thoát ra khỏi mọi hoài nghi, đã tiến đến trạng thái châu
toàn và đã thành tựu tình trạng độc lập của những vị khác trong giáo
huấn của Đức Bổn Sư. [7]
Phần chú thích trong sách nầy được viết
ra dựa theo lời giải của Ngài Nyanaponika, vị Đại Đức đã phiên dịch Bản
Khái Luận nầy từ Pàli sang Anh ngữ.
I. Giới Tịnh
Giới Tịnh, hay giới hạnh trong sạch, ở đây
có nghĩa là nghiêm chỉnh thọ lãnh và hành trì giới luật: hoặc năm, hoặc
tám, hoặc mười giới, trong trường hợp người cư sĩ tại gia, nam hay nữ. [8]
Về phần chư vị tỳ khưu, Giới Tịnh là trong
sạch giữ gìn bốn phần giới luật của hàng xuất gia, Tứ Thanh Tịnh Giới, bắt
đầu bằng sự khép mình vào nếp sống kỷ cương của vị tỳ khưu, gọi là
Pàtimokkha, Giới Bổn hay Ba La Đề Mộc Xoa. Trong Tứ Thanh Tịnh Giới,
phần đầu tiên, tức Pàtimokkha là quan trọng nhất vì chỉ khi nào
giới hạnh trong sạch mới có thể thành công phát triển pháp hành. [9]
Sơ Lược Về Pháp Hành Thiền Minh Sát
Có hai pháp hành thiền là Vắng Lặng (Samatha)
và Minh Sát (Vipassanà). Người bắt đầu trau giồi Thiền Vắng Lặng và
sau khi đã vững chắc an trụ trong Cận Định (Upaccàra Samàdhi) hoặc
Toàn Định (Appanà Samàdhi)[10], tiếp tục quán niệm năm nhóm đối
tượng của sự bám níu (Pancupàdànakkhandha, ngũ uẩn thủ) [11] thì
được gọi là Samatha-yànika, người đã dùng Thiền Vắng Lặng làm cổ
xe, hay người đã dùng Thiền Vắng Lặng làm phương tiện tu tập.
Về phương pháp áp dụng để thành đạt tuệ
minh sát của người nầy, sách Papancasùdanì, chú giải bài kinh
Dhammadàyàda Sutta của bộ Trung A Hàm, dạy:
"Nơi đây, người kia đạt đến Cận Định hay
Toàn Định, đó là Vắng Lặng. Rồi người ấy áp dụng pháp Minh Sát vào tâm
Định và những tâm sở đồng phát sanh, thấy nó là vô thường v.v..., đó là
Minh Sát."
Sách Thanh Tịnh Đạo cũng có lời dạy:
"Người
đã dùng Vắng Lặng làm cổ xe phải xuất ra khỏi Thiền Sắc Giới hay Vô Sắc
Giới (Rùpa hay Arùpa Jhàna) -- ngoại trừ trường hợp căn bản của thiền nầy
bao gồm Phi-Tưởng-Phi-Phi-Tưởng -- rồi phân biện rõ ràng, thích ứng với
đặc tánh, cơ năng v.v... của các chi thiền gồm: tầm, sát v.v...và những
tâm sở liên hệ." (Thanh Tịnh Đạo,
ch XVIII, 3)
Lại có người, không bao giờ đạt đến Cận
Định hay Toàn Định, nhưng từ lúc đầu dùng Minh Sát quán chiếu ngũ uẩn thủ
thì được gọi là Suddha-vipassanà-yànika [12], tức người dùng Minh
Sát Thuần Túy làm cổ xe. Về phương pháp để thành đạt tuệ minh sát của
người nầy, bản chú giải của bài kinh Dhammadàyàda Sutta dạy,
"Có người kia, vẫn chưa đạt đến Vắng Lặng,
áp đặt minh sát vào ngũ uẩn thủ và thấy rằng nó là vô thường, v.v..."
Theo sách Thanh Tịnh Đạo,
"Người đã dùng Minh Sát Thuần Túy làm cổ
xe ... quán chiếu bốn nguyên tố (tứ đại) ...."
Trong bài kinh Susìma-paribbàjaka Sutta
của phẩm Nidànavagga Samyutta, Đức Phật dạy,
"Trước tiên có tuệ hiểu biết sự phát sanh
thật sự của sự vật (dhammatthiti-nàna) và sau đó khởi phát tuệ chứng ngộ
Niết Bàn (nibbàne nàna)."
Khi giới đức đã được kiên cố vững chắc vị
hành giả đã chọn phương pháp dùng Minh Sát Thuần Túy làm cổ xe phải gia
công quán niệm danh-sắc (nàma-rùpa). Vị ấy phải niệm ngũ uẩn thủ
(năm uẩn đối tượng của sự bám níu) thích ứng với những đặc tánh của nó
[13], tức những tiến trình vật chất và tâm linh nào trở thành hiển nhiên
trong cuộc sống hằng ngày của mình (qua sáu cửa nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt,
thân, ý).[14]
Trong thực tế, tuệ minh sát phải được phát
triển bằng cách ghi nhận [15], tùy hợp theo những đặc tánh cá biệt và
những đặc tánh tổng quát [16] tức những tiến trình của danh và sắc vốn đã
trở thành hiển nhiên ở lục căn. Tuy nhiên, vào lúc ban sơ, quả thật khó mà
theo dõi và ghi nhận rõ ràng tất cả những tiến trình danh và sắc, vốn
không ngớt sanh khởi từ lục căn. Do đó người hành thiền còn sơ cơ trước
tiên phải ghi nhận tiến trình xúc chạm một cách hoàn toàn rõ rệt. Sách
Thanh Tịnh Đạo dạy rằng trong pháp hành Thiền Minh Sát hành giả phải gom
tâm vào cái gì thật rõ rệt. Khi ngồi, có tiến trình xúc chạm thân qua tư
thế ngồi và qua xúc giác của thân. Những tiến trình xúc giác ấy phải được
ghi nhận, "Ngồi ... Đứng ..v.v..." một cách thích nghi. Lại nữa, nơi bụng
hành giả, tiến trình xúc chạm thân do hơi thở tạo điều kiện, được tri giác
dưới hình thức phồng lên và xẹp xuống của bụng. Sự kiện nầy cũng vậy, phải
được ghi nhận, "Phồng, Xẹp" v.v... Trong khi hành giả gia công ghi nhận,
nguyên tố di động không ngừng xúc chạm thân ở bụng, xúc giác xuyên qua
thân căn nầy trở thành hiển nhiên đối với hành giả trên các phương diện
gồng cứng lên, rung chuyển và đẩy tới đưa lui. Nơi đây, trạng thái gồng
cứng lên là đặc tánh bản chất nâng
đỡ của nguyên tố di động; sự rung
chuyển là cơ năng chánh yếu
của sự di động; và đưa tới đẩy lui là sự
biểu hiện của nguyên tố di động.[17]
Như vậy, vị hành giả ghi nhận tiến trình
xúc chạm của thân do sự phồng lên và xẹp xuống ở bụng, quán chiếu tiến
trình "sắc" (rùpa) bằng cách hiểu biết đặc tánh bản chất cá biệt
v.v... của nguyên tố di động (nguyên tố gió trong tứ đại). Về sau, khi
quán chiếu danh (nàma), và quán chiếu cả hai, danh và sắc (nàma-rùpa)
hành giả sẽ hiểu biết những đặc tánh tổng quát của tiến trình, tức trạng
thái vô thường, phải chịu đau khổ và không có một tự ngã đơn thuần. Tuy
nhiên, trong khi hành giả chỉ gia công ghi nhận bụng phồng lên và xẹp
xuống và những tiến trình xúc chạm khác, sẽ có phát sanh những ý muốn
v.v... những cảm thọ ... hoặc những hành động xoay trở bộ phận nào trong
thân để được thoải mái. Ngay trong lúc ấy dầu ý muốn, cảm thọ, hay động
tác nào cũng phải được ghi nhận. Nhưng sau khi đã ghi nhận xong hành giả
phải quay trở về, liên tục ghi nhận tiến trình xúc chạm của bụng phồng lên
và xẹp xuống, vì đó là đề mục quán niệm căn bản trong pháp hành nầy.
Trên đây chỉ phác họa những nét đại cương
của phương pháp hành Thiền Minh Sát mà không đi sâu vào chi tiết của pháp
hành, bởi vì bài nầy nhằm trình bày sự tiến triển của tuệ minh sát qua
những giai đoạn của Thanh Tịnh Đạo.
II. Tâm Tịnh
Vào lúc ban sơ, khi chưa quen thuộc nhiều
với lối thực hành có phương pháp, tâm của hành giả chưa được thanh lọc đầy
đủ, vì lẽ ấy, do những suy tư hướng đến những đối tượng của tham dục
v.v... tâm phóng dật của hành giả sẽ phát hiện từng chặp giữa những chặp
tâm niệm ghi nhận (những đề mục hành thiền). Đôi khi vị hành giả (sơ cơ)
hay biết những gián đoạn ấy, đôi khi không. Nhưng dầu có hay biết những
chặp tâm phóng dật ấy đi nữa, nó chỉ khởi phát và tồn tại trong một thời
gian ngắn, rồi qua. Vì tâm an định của người sơ cơ vẫn còn mỏng manh và
yếu ớt, nên những chặp tư tưởng phóng dật tiếp tục gây trở ngại trong khi
hành giả gia công phát triển chánh niệm. Do đó, những chặp tư tưởng phóng
dật ấy được gọi là "chướng ngại".
Tuy nhiên, khi trạng thái tâm tạm thời an
định của hành giả trở nên mạnh mẽ vững chắc, tiến trình quán niệm cũng
được kiên cố dõng mãnh. Vì lẽ ấy, trong khi theo dõi đề mục cần phải được
ghi nhận -- di động của bụng, ngồi, đứng, co vào, duỗi ra, thấy, nghe
v.v... -- những chặp tư tưởng ghi nhận của hành giả dường như rơi vào đề
mục, áp đặt vào đề mục, và liên tục đối diện với đề mục. Đến chừng ấy,
thông thường, tâm không còn phóng đi đâu khác nữa, hoặc chỉ thỉnh thoảng
xẹt thoáng đi và dầu trong những trường hợp như vậy, hành giả sẽ ghi nhận
liền rằng tâm mình đã rời khỏi đề mục, 'ngay lúc nó phóng đi' -- như người
ta thường nói. Trong thực tế, một cách chính xác, vị ấy ghi nhận tức khắc
sau khi tâm phóng dật vừa khởi sanh. Chừng ấy, sau khi bị ghi nhận, những
tư tưởng phóng dật sẽ tan biến và không còn phát hiện trở lại. Hành giả
giờ đây có thể quay trở về ghi nhận đề mục nào trở thành hiển nhiên với
mình.
Tâm hành giả lúc bấy giờ được gọi là
"không bị chướng ngại".
Trong khi thực tập ghi nhận như vậy với
"tâm không bị chướng ngại" hành giả chú niệm càng chặt chẽ hơn vào bất
luận đề mục nào, và công trình liên tục diễn tiến mà không bị gián đoạn.
Lúc bấy giờ phát sanh đến hành giả, liên tục không gián đoạn, "tâm an trụ
kéo dài một thời gian", hướng về đề mục được ghi nhận.
Đó là "Tâm Tịnh" [18], hay trạng thái tâm trong sạch.
Mặc dầu tâm an trụ nầy chỉ tồn tại tạm
thời (Tạm Định), sức kháng cự hay năng lực chống lại không để bị những tư
tưởng đối nghịch của nó tràn ngập, cũng tương đương với tâm Cận Định. Bản
Chú Giải Thanh Tịnh Đạo, Visuddhi Magga, trong khi giải thích đoạn liên
quan đến pháp niệm hơi thở có lời dạy:
"Trạng thái 'tâm hợp nhất tạm thời' có
nghĩa là tâm an trụ chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn. Loại tâm an trụ
nầy cũng vậy, khi phát sanh liên tục không gián đoạn, gắn liền với đề mục
cùng một cách thức ấy và không bị tư tưởng đối nghịch tràn ngập, sẽ giữ
tâm vững chắc không chao động, cũng như trường hợp nhập thiền."
Nơi đây, "phát sanh liên tục không gián
đoạn, gắn liền với đề mục" hàm ý có sự nối tiếp liên tục không gián đoạn
những tư tưởng chăm chú vào công trình ghi nhận. Sau khi ghi nhận một đề
mục, hành giả theo dõi đề mục khác phát sanh tức khắc kế đó [19], cùng một
thế ấy, rồi tiếp tục ghi nhận đề mục kế đó nữa v.v...
"Cùng một cách thức" có nghĩa: mặc dầu
những đối tượng của sự ghi nhận phát sanh nhiều và rất khác biệt nhau,
năng lực gom tâm gia công ghi nhận không gián đoạn vẫn được giữ đều đặn
một mực. Điều nầy có nghĩa là đối tượng đầu tiên được ghi nhận với mức độ
tâm an trụ như thế nào, các đối tượng kế tiếp, thứ nhì, thứ ba, và sau
nữa, cũng được ghi nhận với mức độ tâm an trụ như vậy.
"Không bị những tư tưởng đối nghịch tràn
ngập" có nghĩa là tâm định, theo dòng trôi chảy không gián đoạn của nó,
không bị những chướng ngại tinh thần tràn ngập. [20]
"Cũng như trường hợp nhập thiền" có nghĩa
là năng lực của tâm Tạm Định ấy cũng mạnh mẽ giống như năng lực của loại
tâm đã tiến đến Toàn Định. Tuy nhiên, trạng thái giống nhau giữa tâm Tạm
Định và tâm Toàn Định chỉ trở thành hiển nhiên khi vị hành giả thực tập
Thiền Minh Sát theo đúng phương cách, đạt đến mức độ cùng tột. [21]
Nhưng có phải chăng trong Bản Chú Giải,
danh từ "Tâm Tịnh" chỉ áp dụng riêng cho Cận Định và Toàn Định? Đúng vậy,
nhưng ta phải hiểu lời dạy nầy theo ý nghĩa, "tâm Tạm Định cũng được bao
hàm trong Cận Định". Bởi vì Bản Chú Giải kinh Niệm Xứ dạy rằng:
"Mười hai bài tập còn lại là những
đề mục hành thiền chỉ dẫn đến Cận Định"
[22]. Bây giờ, trong trường hợp các đề mục được đề cập đến trong
những phần của bài Kinh Niệm Xứ liên quan đến pháp quán niệm bốn oai nghi,
sự hiểu biết rõ ràng và tứ đại, sự an trụ tâm của người gia công thực tập
những bài ấy nhất định chỉ dẫn đến Tạm Định mà thôi. Tuy nhiên, vì Tạm
Định có khả năng khắc phục các Chướng Ngại Tinh Thần giống như Cận Định
[23] và bởi vì đây là tâm định kế cận với loại tâm tiến bước vào Thánh Đạo
[24], như vậy tâm Tạm Định ấy được gọi là Cận Định và đề mục hành thiền
nhằm thành đạt tâm Tạm Định ấy cũng được gọi là "đề mục hành thiền dẫn đến
Cận Định". Như vậy, tâm Tạm Định mà có khả năng chế ngự các Chướng Ngại
Tinh Thần cũng được gọi là Cận Định, và đó là "Tâm Tịnh". Nếu không vậy
người chỉ dùng thiền Minh Sát Thuần Túy Làm Cổ Xe không bao giờ có Tâm
Tịnh, bởi vì những vị nầy không trau giồi Cận Định hoặc Toàn Định.
III. Kiến Tịnh
1. Tuệ Phân Tích Danh Sắc
Vị hành giả đã viên mãn thành tựu "Tâm
Tịnh" và tiếp tục gia công ghi nhận danh và sắc như sau: "Tác động phồng
lên (ở bụng) là một tiến trình; xẹp xuống là một tiến trình; ngồi là một
tiến trình; đứng là một tiến trình v.v..." Bằng cách ấy hành giả biết làm
thế nào để phân biệt rõ ràng mọi tiến trình của thân mà mình đã ghi nhận.
Lại nữa, "Hiểu biết trạng thái phồng lên là một tiến trình; hiểu biết xẹp
xuống là một tiến trình." Bằng cách ấy hành giả biết mọi tác động của tâm
ghi nhận. Lại nữa, "Cử động phồng lên là một tiến trình; sự hiểu biết cử
động ấy là một tiến trình khác. Cử động xẹp xuống là một tiến trình; sự
hiểu biết cử động ấy là một tiến trình khác v.v... Bằng cách ấy hành giả
biết làm thế nào để phân biệt rành mạch và rõ ràng mọi tiến trình của thân
(sắc) và của tâm (danh). Tất cả những kiến thức ấy, quả thật vậy, hành giả
chỉ thâu thập bằng cách ghi nhận, không phải bằng lý luận. Điều nầy có
nghĩa: đây là tuệ giác mà hành giả trực tiếp chứng nghiệm, chỉ bằng cách
ghi nhận, không phải kiến thức được thâu thập do suy luận.
Như vậy, khi mắt thấy một hình thể, hành
giả biết làm thế nào phân biệt rõ ràng từng yếu tố đã tạo nên sự thấy:
"con mắt (nhãn căn) là một, hình thể (nhãn trần) là yếu tố khác, và sự
hiểu biết hình thể (nhãn thức) là một yếu tố khác nữa." Trường hợp các
giác quan khác cũng phải được hiểu cùng một thế.
Lúc bấy giờ, trong mỗi tác động ghi nhận
hành giả biết phân biệt rõ ràng tiến trình danh của sự ghi nhận và những
tiến trình danh của suy tư và quán niệm. Hành giả tự mình thấu hiểu bằng
cách trực giác, trực tiếp chứng nghiệm như sau: "Bản chất của danh là
hướng về một đối tượng, thiên về một đối tượng, hay biết một đối tượng."
Đàng khác hành giả biết phân biệt rõ ràng tiến trình vật chất (sắc) đang
diễn tiến trong toàn thân, mà ở đây được gọi bằng tên là "cử động phồng
lên và xẹp xuống của bụng", "ngồi", "đứng" v.v... và hiểu biết như sau:
"Bản chất của sắc không phải là hướng về đối tượng, thiên về đối tượng,
hay biết đối tượng." Sự hiểu biết như vậy được gọi là "tuệ hiểu biết sắc
(hay thân) do sự biểu hiện 'không có quyết định' của nó."
Bản Phụ Chú Giải, tức chú giải Chánh Yếu
của Bản Chú Giải (Mùla-Tikà), bộ Abhidhamma Vibanga (Phân Biệt
Luận), có ghi như sau:
"Nói cách khác, 'không có quyết định' phải
được hiểu là không có khả năng hay biết một đối tượng."
Một kiến thức như vậy, phân tích từng sinh
hoạt ghi nhận của cả hai: tiến trình sắc được ghi nhận và tiến trình danh
làm công việc ghi nhận, thích ứng với bản chất chánh yếu thật sự của nó,
được gọi là "Tuệ Phân Tích Danh-Sắc".
Khi tuệ giác nầy được phát triển đến mức
độ thuần thục hành giả thấu hiểu rằng: "Lúc thở vào, chỉ có chuyển động
phồng lên ở bụng và sự hay biết chuyển động ấy, ngoài ra không có cá nhân,
"Tôi", hay "Tự Ngã". Lúc thở ra, chỉ có chuyển động của bụng xẹp xuống và
sự hay biết chuyển động ấy, ngoài ra không có tự ngã. Thấu hiểu điều nầy
như vậy, trong trường hợp nầy và trong những trường hợp khác, hành giả tự
mình thấu hiểu và tự mình thấy, do sự ghi nhận, như sau: "ở đây chỉ có cặp
đôi: một tiến trình sắc làm đối tượng và một tiến trình danh hiểu biết đối
tượng ấy. Và chỉ có cặp đôi nầy mà trong ngôn ngữ chế định thông thường
(tục đế), người ta gọi là "chúng sanh", "người", hay "linh hồn", "tôi",
hay "người khác", "đàn ông", hay "đàn bà". Ngoài tiến trình cặp đôi nầy
không có riêng rẽ người hay chúng sanh, tôi hay người khác, đàn ông hay
đàn bà.
Đó là "Kiến Tịnh", hay quan kiến trong sạch.
IV. Đoạn Nghi Tịnh
2. Tuệ Phân Biện Nhân Duyên
Khi quan kiến Thanh Tịnh của hành giả trở
nên thuần thục, nhân duyên cần thiết để cho tiến trình danh-sắc được ghi
nhận cũng trở thành hiển nhiên. Trước tiên, cái tâm tạo duyên (điều kiện)
cho tiến trình sắc khởi phát trở thành hiển nhiên. Bằng cách nào? Thí dụ,
khi co tay vào hoặc co chân vào, cái tâm muốn co tay hoặc chân vào là hiển
nhiên. Vậy hành giả bắt đầu ghi nhận cái tâm ấy, và kế đó ghi nhận tác
động co vào v.v... Chừng đó, do kinh nghiệm trực tiếp, hành giả hiểu biết:
"Khi tâm có ý muốn co tay vào, tiến trình co tay vào của thân khởi diễn;
khi tâm có ý muốn duỗi tay ra, tiến trình duỗi tay ra của thân khởi diễn."
Và cùng một thế ấy hành giả cũng hiểu biết những trường hợp khác, bằng
cách trực tiếp kinh nghiệm.
Cũng do kinh nghiệm trực tiếp, hành giả
hiểu biết nhân duyên làm cho tiến trình tâm linh phát sanh như sau: "Trong
trường hợp tâm muốn phóng ra khỏi đề mục, trước tiên có loại tâm tương ứng
hướng sự chú tâm sơ khởi về đối tượng ngoài đề mục. Nếu không được ghi
nhận (với chánh niệm) tâm nầy sẽ chạy ra khỏi đề mục. Nhưng nếu sự chú tâm
sơ khởi có khuynh hướng vượt ra ngoài đề mục được ghi nhận và hay biết kịp
thời ắt tâm phóng dật không phát sanh. Trong trường hợp các loại tâm khác
như thỏa thích, sân hận, khát vọng v.v... cũng dường thế ấy. Khi cả hai,
nhãn căn và nhãn trần hiện diện tức có nhãn thức. Nếu không, ắt không có
nhãn thức phát sanh. Trường hợp các căn kia như nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý
cũng phải được hiểu cùng một thế ấy. Khi có đối tượng có thể được ghi nhận
hoặc hay biết, ắt có tâm ghi nhận, hoặc suy tư, hoặc lý luận, hoặc hiểu
biết, tùy trường hợp. Nếu không có đối tượng ắt không có loại tâm như vậy
phát sanh. Hành giả cũng hiểu biết, cùng thế ấy, tất cả các trường hợp xảy
diễn ở các căn khác.
Lúc bấy giờ, thông thường hành giả cảm
nghe đau nhức hay khó chịu ở nơi nào trong thân. Khi một trong những thọ
khổ ấy được ghi nhận (mà không có lo âu hay bận rộn vì nó) một thọ cảm
khác sẽ phát sanh ở một nơi khác; và khi cảm giác nầy được ghi nhận lại có
cảm giác khác nữa phát sanh ở một nơi khác. Và cứ thế hành giả theo dõi và
ghi nhận mỗi thọ cảm phát sanh. Tuy nhiên, mặc dầu gia công ghi nhận những
thọ cảm ấy khi nó phát sanh, hành giả chỉ tri giác giai đoạn "sanh" sơ
khởi mà không hay biết giai đoạn "tan biến".
Lúc ấy có thể cũng có những hình ảnh khác
nhau phát hiện trong tâm hành giả: chùa, tháp, sư, người, nhà, huê viên,
lâu đài ở cảnh Trời, mây, và nhiều loại hình ảnh khác nhau phát hiện. ở
đây cũng vậy, khi hành giả còn đang ghi nhận một hình ảnh nào trong tâm
thì một hình ảnh khác xuất hiện và khi ghi nhận hình ảnh kia thì một cái
khác nữa lại phát hiện. Hành giả tiếp tục theo dõi và ghi nhận những hình
ảnh nầy mỗi khi nó phát sanh, nhưng mặc dầu vậy, chỉ tri giác giai đoạn sơ
khởi phát sanh mà không hay biết giai đoạn hoại diệt của nó.
Bây giờ vị hành giả hiểu biết: tâm thức
phát sanh tùy hợp theo đối tượng nào trở nên hiển nhiên. Nếu có một đối
tượng thì tâm thức phát sanh; nếu không có đối tượng ắt tâm thức không
phát sanh.
Giữa những giai đoạn ghi nhận như vậy hành
giả suy diễn và hiểu rằng: "Vì có những nguyên nhân và những điều kiện --
nhân và duyên, như vô minh, ái dục, nghiệp v.v... -- nên danh và sắc tiếp
tục diễn tiến." Sự phân tích và biện giải tương tợ, do kinh nghiệm trực
tiếp và suy diễn như trên trong khi ghi nhận danh và sắc cùng với những
nhân duyên của nó, được gọi là "Tuệ Phân Biện Nhân Duyên".
Khi tuệ nầy trở nên thuần thục hành giả sẽ
thấu hiểu rằng chỉ có tiến trình danh và sắc phát sanh, hoàn toàn tùy hợp
theo nhân và duyên cá biệt thích ứng, và hành giả đi đến kết luận: "Đây
chỉ là một tiến trình danh-sắc tạo nhân duyên và một tiến trình danh-sắc
do nhân duyên tạo nên. Ngoài ra không có người làm ra tác động co tay vào
v.v... hay người kinh nghiệm thọ khổ v.v...
Đó được gọi là "Đoạn Nghi Tịnh".
3. Tuệ Thấu Đạt
Khi Tuệ Phân Biện Nhân Duyên được trau
giồi đến mức thuần thục hành giả sẽ phân biện rành mạch các giai đoạn
sanh, trụ và diệt của đối tượng được ghi nhận. Đến đây, trong trường hợp
những đối tượng khác nhau được ghi nhận, hành giả phân biện rõ ràng rằng
chỉ sau khi một tiến trình trước chấm dứt tiến trình kế sau đó mới phát
sanh. Thí dụ như khi di động phồng lên ở bụng chấm dứt, di động xẹp xuống
mới khởi phát; chỉ khi nào di động xẹp xuống chấm dứt bụng mới phồng lên
trở lại. Trong trường hợp thiền hành cũng vậy, chỉ khi nào dơ chân lên
xong mới đưa chân tới; chỉ khi đưa chân tới xong mới đặt chân xuống.
Trường hợp những cảm giác đau khổ cũng
vậy, chỉ sau khi đã phát sanh ở một nơi nhất định và đã chấm dứt, cảm giác
khác mới bắt đầu khởi phát ở một nơi khác. Trong khi tiếp tục theo dõi hết
cảm giác nầy đến cảm giác khác như vậy, hai lần, ba lần, hoặc nhiều hơn
nữa, hành giả sẽ nhận thức rằng những cảm giác ấy sẽ giảm suy dần dần và
rốt cùng hoàn toàn chấm dứt.
Trường hợp các hình thể khác nhau phát
hiện trong tâm, chỉ sau khi một hình ảnh được ghi nhận biến dạng rồi một
đối tượng khác mới bắt đầu phát hiện. Khi chăm chú ghi nhận một lần, hai
lần, ba lần hoặc nhiều lần hơn nữa hành giả sẽ thấy rõ rằng những đối
tượng của tâm mà đã được ghi nhận liên tục di chuyển từ nơi nầy sang nơi
khác và dần dần trở nên nhỏ hơn và lu mờ hơn cho đến khi cuối cùng, hoàn
toàn tan biến. Hành giả không tri giác được bất luận gì thường còn, tồn
tại lâu dài hoặc không hoại diệt và tan biến.
Nhận thấy mọi sự vật đều hoại diệt và tan
biến như thế nào -- ngay trong lúc được ghi nhận -- hành giả thấu hiểu rõ
ràng tính chất vô thường của nó, trong ý nghĩa là nó phải chịu biến đổi và
hoại diệt. Hơn nữa, hành giả thấu hiểu đặc tánh đau khổ dính liền với nó,
trong ý nghĩa là nó phải tan rã sau khi phát sanh. Đã nhận thấy những cảm
giác đau khổ khác nhau liên tục phát sanh như thế nào: một thọ khổ chấm
dứt thì có một thọ khổ khác nối tiếp phát sanh, và sau khi thọ khổ nầy
chấm dứt thì lại có cái khác nữa phát sanh liền tiếp theo, đã nhận thấy
như vậy, hành giả thấu triệt rằng những sự vật được ghi nhận riêng rẽ ấy
chỉ hợp thành một nhóm đau khổ. Sau nữa hành giả thấu đạt rằng sự vật chỉ
là những hiện tượng vô ngã, không có người làm chủ, trong ý nghĩa là không
phải tự nó có khả năng phát sanh mà chỉ phát sanh tùy thuộc nhân duyên rồi
tan biến.
Nhận thức một đối tượng được ghi nhận là
vô thường, khổ, và vô ngã bằng cách hiểu biết bản chất vô thường v.v... và
chỉ do nhờ ghi nhận mà không có suy tư hay lý luận, sự thấu hiểu như vậy
được gọi là "Tuệ Hiểu Biết Sự Vật Do Kinh Nghiệm Trực tiếp".
Đã nhận thấy ba đặc tướng vô thường, khổ, vô ngã, một lần, hoặc nhiều
lần, bằng cách trực tiếp kinh nghiệm, hành giả dựa trên kinh nghiệm trực
tiếp ấy mà suy diễn và thấu hiểu tất cả những tiến trình danh và sắc trong
quá khứ, trong hiện tại và trong tương lai, trong toàn thể thế gian, rồi
đi đến kết luận:
"Tất cả đều như vậy: vô thường, khổ, và vô
ngã." Đó là Tuệ Hiểu Biết Sự Vật Do Suy Diễn".
ám chỉ tuệ giác nầy, sách Patisambhidà
Magga có lời dạy:
"Bất luận sắc nào ở thời quá khứ, hiện
tại, hay vị lai, bên trong hay bên ngoài, thô kịch hay vi tế, thấp hèn hay
cao thượng, xa hay gần -- tất cả các sắc ấy là vô thường. Đó là một loại
hiểu biết sáng suốt ..."
Bản Chú Giải bộ Kathavatthu (Thuyết Sự,
một trong bảy bộ của Tạng Luận), cũng có lời dạy:
"Dầu
chỉ có một hành (sankhàra, pháp hữu vi, hay vật được cấu tạo) được nhận
thức là vô thường bằng cách quy nạp, ta có thể nhận thức rằng: tất cả các
pháp hữu vi đều vô thường."
Những danh từ "tất cả các pháp hữu vi đều
vô thường" hàm ý rằng đây là do phương pháp quy nạp (tức là rút kinh
nghiệm trong những sự việc xảy ra ở nhiều nơi và nhiều lúc mà kết quả
giống nhau để đạt thành một luật chung), chớ không phải hiểu biết nhờ tri
giác các đối tượng (đồng thời hiện hữu) cùng một lúc (Đoạn chú giải nầy
giải thích vì sao dùng danh từ "Minh Sát Quy Nạp").
Lại nữa, trong Bản Chú Giải của bộ
Majjhima Nikàya, Trung A Hàm [25], có lời dạy:
"Bởi vì trong trường hợp cảnh giới Phi
Tưởng Phi Phi Tưởng chỉ có chư Phật mới có khả năng Minh Sát quán chiếu
vào những diễn tiến nối tiếp của các trạng thái tâm -- chớ chư vị đệ tử
của Ngài thì không có -- nên Đức Phật dạy như vậy, hàm ý Minh Sát Từng
Nhóm ..."
Đoạn nầy giải thích vì sao dùng danh từ "Thấu Đạt Từng Nhóm"). [26]
4. Tuệ Sanh Diệt
Mười Ô Nhiễm Của Tuệ Minh Sát
[27]
Trong khi gia công thực tập ghi nhận, đến
một lúc nào, hành giả có thể cột tâm chuyên chú vào tiến trình danh và sắc
hiện tại mà không nhìn trở lại quá khứ hay hướng đến tương lai. Chừng ấy,
do năng lực của tuệ minh sát, một vừng ánh sáng sẽ phát hiện trong
tâm hành giả. Vài người thấy như ánh sáng một ngọn đèn, người khác như
trời chớp, cũng có người thấy như ánh sáng mặt trăng hay mặt trời v.v...
Đối với vài người, ánh sáng ấy chỉ thoáng qua, còn vài người khác thì thấy
lâu hơn.
Vào lúc bấy giờ cũng phát sanh đến hành
giả tâm chú niệm dõng mãnh trong chiều hướng minh sát. Do đó, tất
cả những tiến trình danh và sắc liên tục nối tiếp sẽ phát hiện không thiếu
sót trước tâm niệm của hành giả một cách dễ dàng, làm như tự nó đến; và
tâm niệm ấy hình như cũng diễn tiến nhẹ nhàng, thanh thoảng. Hành giả tin
rằng, "không có tiến trình danh và sắc nào mà tâm ghi nhận mình không hay
biết."
Sự hay biết trong chiều hướng minh sát, ở
đây gọi là "sự ghi nhận", cũng sẽ trở nên bén nhọn, dõng mãnh và trong
sáng. Do đó hành giả sẽ phân biện rõ ràng và rành mạch các hình thể khác
nhau của tất cả những tiến trình danh và sắc được ghi nhận, cũng như khi
dùng dao bén xắc một mục măng non ra từng mảnh vụn và phân biện, nhìn rõ
từng miếng nhỏ. Hành giả tin rằng: "Không có tiến trình danh và sắc nào mà
ta không ghi nhận." Khi quán chiếu vào những đặc tánh vô thường v.v...
hoặc vào sắc thái thực tiễn nào khác, hành giả thấu hiểu tức khắc và rõ
ràng tất cả mọi sự vật, và tin tưởng rằng đó là thấu đạt sự vật bằng cách
trực tiếp chứng nghiệm.
Lại nữa, hành giả có niềm tin
mãnh liệt nơi tuệ minh sát. Do ảnh hưởng của đức tin nầy tâm hành giả
trở nên tinh khiết, tĩnh lặng và không chút chao động mỗi khi ghi nhận hay
suy tư, và khi hành giả quán tưởng đến các ân đức của Phật, Pháp, Tăng tâm
dễ dàng an trụ vào đề mục. Lúc bấy giờ phát sanh đến hành giả "ý muốn
hoằng dương Giáo Huấn do Đức Phật ban truyền"; trạng thái thỏa thích tin
tưởng nơi đức hạnh của những ai gia công hành thiền; ý muốn khuyên nhủ bạn
bè và quyến thuộc nên hành thiền; hồi nhớ với lòng tri ân sâu xa các vị
thầy tổ đã dạy mình hành thiền -- những tiến trình tâm tương tợ sẽ phát
sanh đến hành giả.
Cũng phát sanh đến hành giả
năm loại phỉ lạc
[28] bắt đầu bằng phỉ lạc nhỏ. Khi tâm thanh tịnh dần dần tiến triển, ấn
chứng phỉ lạc có thể bắt đầu khởi hiện như làm nổi da gà (rỡn óc), rung
rẩy tay chân v.v..., và sau đó tạo nên cảm giác an lạc cao nhã thơ thới lạ
thường, thấm nhuần toàn thể châu thân một luồng phấn khởi dịu dàng và tế
nhị. Do ảnh hưởng của những cảm giác an lạc như vậy hành giả tưởng chừng
như cơ thể mình nhẹ nhàng hỏng lên khỏi mặt đất, hay là mình đang ngồi
trên một cái gối hơi, hoặc nữa mình nhẹ nhàng di động lên xuống.
Rồi phát sanh đến hành giả trạng thái
tâm an tĩnh có đặc tánh làm lắng dịu những khuấy động của tâm và các
tâm sở của nó, và tiếp theo là tâm nhẹ nhàng thơ thới v.v... [29] Trong
khi đi, đứng, nằm, ngồi, dưới ảnh hưởng của những trạng thái tâm an tĩnh
ấy không có loại tâm và những tâm sở khuấy động hoặc trạng thái nặng nề,
thô cứng, không thích ứng, ương yếu, hoặc quanh co. [30]
Thay vì bị những loại bất thiện pháp ấy
làm chao động, tâm và các tâm sở của hành giả lúc bấy giờ an tĩnh, yên
lặng, nhờ đã đạt đến mức tự tại tuyệt đỉnh cao thượng và nhất tâm chú niệm
mà không có sinh hoạt nào khác [31]. Các loại tâm ấy nhẹ nhàng (an khinh)
vì luôn luôn sinh hoạt nhanh chóng; nhu thuận, vì lúc nào cũng có thể
hướng về đối tượng; thích ứng, vì nó có thể theo dõi đề mục, bao lâu cũng
được. Các loại tâm ấy cũng rất minh mẫn sáng suốt vì đã tinh luyện, trong
ý nghĩa làm cho tuệ minh sát dễ dàng quán chiếu xuyên thấu đề mục; không
quanh co, vì được hướng về, thiên về, và đi thẳng vào những sinh hoạt nào
có tánh cách thiện mà thôi. Lúc ấy cũng phát sanh đến hành giả một cảm
giác hạnh phúc vô cùng an lạc, tỏa khắp châu thân và làm cho hành giả
thỏa thích không sao xiết kể, tin rằng, "giờ đây, ta mãi mãi hạnh phúc!"
hoặc, "quả thật vậy, giờ đây ta đã tìm ra trạng thái an lạc mà trước kia
chưa từng bao giờ có!" Rồi hành giả phát tâm muốn nói lên cho người khác
biết kinh nghiệm của mình. Khi nhắc đến tình trạng phỉ lạc ấy, có lời dạy:
"Thầy tỳ khưu đã rút vào ẩn dật đơn
độc nơi vắng vẻ tĩnh mịch, đã giữ tâm thanh bình an lạc, đã thấu triệt
Giáo Pháp, vị ấy chứng nghiệm phỉ lạc siêu phàm" "Mỗi khi suy niệm về pháp
sanh-diệt của các uẩn, người ấy thành đạt phỉ và lạc. Đối với những ai
thấu hiểu, đó là trạng thái Bất Diệt."
(Dhammapada, Pháp Cú Kinh, 373, 374)
Đức hạnh tinh tấn cũng phát sanh. Hành giả không quá dể duôi chểnh
mảng, cũng không quá căng thẳng, mà luôn luôn trì chí, đều đặn chuyên cần.
Trước kia, đôi khi hành giả còn bê trể buông lơi và bị hôn trầm, thụy
miên, gây trở ngại, không thể ghi nhận một cách sắc bén và liên tục đề mục
đã trở nên hiển nhiên và vì đó, không hiểu biết rõ ràng. Vào những lúc
khác, vì tinh tấn quá dõng mãnh, hành giả bị lo âu và phóng dật làm chướng
ngại, không thể ghi nhận đề mục một cách bén nhạy. Nhưng giờ đây thì mức
độ tinh tấn của hành giả đã trở nên điều hòa, vừa phải, không quá chểnh
mảng cũng không quá căng thẳng mà luôn luôn đều đặn và dõng mãnh. Hành giả
đã vượt qua khỏi những chướng ngại tinh thần (pháp triền cái) hôn trầm,
thụy miên và lo âu, phóng dật mà có thể ghi nhận đề mục hiện hữu một cách
liên tục và sắc bén, và thấu hiểu rõ ràng.
Cũng phát sanh đến hành giả tâm xả
vững chắc, liên hợp với trí tuệ. Tâm luôn luôn thản nhiên và quân bình,
không chao động trước các pháp hữu vi (sankhàra). Dưới ảnh hưởng
của tâm xả mạnh mẽ nầy hành giả thản nhiên quán chiếu bản chất vô thường
v.v... của vạn hữu mà không chao động, và có thể ghi nhận một cách liên
tục và sắc bén các tiến trình danh và sắc phát sanh vào lúc ấy. Chừng ấy
công trình ghi nhận của hành giả được thực hiện dễ dàng và tự nó hồn nhiên
tiến hành, không cần phải cố gắng. Khi hướng về đề mục với tâm xả mạnh mẽ
như vậy tâm cũng nhanh chóng tiến vào đề mục. [32]
Rồi phát sanh đến hành giả một sự luyến
ái vi tế, bám níu vào bản chất an tĩnh vắng lặng và thanh thoảng thỏa
thích trong các ấn chứng phỉ lạc như ánh sáng v.v... Mặc dầu vậy, hành giả
không thể phân biện rõ ràng những thỏa thích ấy là tùy phiền não, những ô
nhiễm đeo đuổi theo làm chướng ngại tuệ minh sát, mà chỉ tin tưởng rằng đó
chính là hạnh phúc phát sanh do pháp hành thiền. Vì lẽ ấy, có những vị
hành giả vui mừng, "Chí đến bây giờ ta mới trọn vẹn thỏa thích đầy đủ
trong pháp hành!"
Đã hưởng được phỉ lạc an vui khi nhìn thấy "ánh sáng" và thỏa thích
trong chính sự ghi nhận toàn hảo giúp mình triến triển dễ dàng và nhanh
chóng, lúc bấy giờ hành giả tin rằng, "Chắc chắn là ta đã thành đạt Thánh
Đạo và Thánh Quả [33]! Bây giờ ta đã làm xong nhiệm vụ hành thiền." Đó là
hiểu biết sai lầm, ngỡ là Thánh Đạo và Thánh Quả trong khi thật sự không
phải là vậy, và đó là ô nhiễm làm chướng ngại cho con đường khai triển tuệ
minh sát. Do đó tuệ giác bao hàm sự ghi nhận, dầu sinh hoạt rất nhanh
chóng, được gọi là "giai đoạn sơ cơ (hay yếu ớt) của Tuệ Sanh Diệt", nếu
còn bị các tùy phiền não ấy vướng víu và thâm nhiễm. Cũng chính vì lẽ ấy
mà lúc bấy giờ hành giả không ở được trong cương vị có thể phân biện rành
mạch tiến trình sanh và diệt của danh và sắc.
V. Đạo Phi Đạo Tri Kiến Tịnh
Trong khi gia công ghi nhận, hoặc tự mình
nhận thức hoặc nhờ người khác chỉ dạy, hành giả đạt đến quyết định, "ánh
sáng và những ấn chứng khác mà ta đã chứng nghiệm không phải là Con Đường
(Đạo). Thỏa thích trong những hiện tượng ấy chỉ là ô nhiễm và chỉ làm trở
ngại tuệ minh sát. Thực hành pháp liên tục ghi nhận đề mục khi nó trở
thành hiển nhiên quả thật là đường lối duy nhất để đạt đến tuệ minh sát.
Ta phải tiếp tục chỉ tập trung nỗ lực vào công trình ghi nhận nầy." Quyết
định như vậy được gọi là "Đạo Phi
Đạo Tri Kiến Tịnh", trạng thái
trong sạch do sự thấu hiểu và nhận thấy rõ ràng cái nào là con đường và
cái nào là không-phải-con-đường.
VI. Đạo Tri Kiến Tịnh
Sau khi ghi nhận sự phát hiện ánh sáng và
nhiều ấn chứng khác, hoặc sau khi đã tách lìa, không quan tâm đến các ấn
chứng ấy nữa hành giả liên tục ghi nhận tiếp theo như trước kia, những
tiến trình danh và sắc khi nó trở thành hiển nhiên ở sáu cửa (mắt, tai,
mũi, lưỡi v.v...). Trong khi gia công ghi nhận như vậy, vị hành giả đã
vượt qua các tùy phiền não như ánh sáng, phỉ lạc, an tĩnh, hạnh phúc,
luyến ái v.v... vốn gây chướng ngại cho con đường đưa đến tuệ minh sát và
sự hay biết của hành giả chỉ chăm chú vào tiến trình sanh và diệt của danh
và sắc mà mình ghi nhận. Bởi vì lúc bấy giờ mỗi khi ghi nhận hành giả
thấy: "Đề mục được ghi nhận vừa phát sanh liền hoại diệt tức khắc", và
hành giả cũng nhận thấy rõ ràng rằng mọi sự vật đều tan biến tức khắc vừa
lúc mới phát sanh; nó không di chuyển đi nơi nào khác. Theo đường lối ấy
hành giả thấu hiểu, bằng cách trực giác chứng nghiệm, rằng những tiến
trình danh và sắc sanh khởi và tan biến trong từng khoảnh khắc. Hay biết
và thấu hiểu như vậy do nhờ công trình liên tục ghi nhận những tiến trình
danh và sắc phát sanh và hoại diệt trong từng khoảnh khắc và phân biện
từng giai đoạn riêng biệt sự phát sanh và hoại diệt của mọi tiến trình --
trong khi không bị những tùy phiền não làm trở ngại. Sự hay biết và thấu
triệt ấy được gọi là "Tuệ Quán Chiếu Sanh Diệt". Đó là bước đầu của giai
đoạn "Thanh Lọc Bằng Cách Thấu Hiểu Và Nhận Thấy", Đạo Tri Kiến Tịnh,
trong Thanh Tịnh Đạo, khởi đầu từ tuệ nầy đến Tuệ Thuận Thứ (tuệ thứ 13).
5. Tuệ Diệt
Ghi nhận những tiến trình danh và sắc
trong khi nó đang phát sanh hành giả nhận thấy danh và sắc từng phần (hết
phần nầy đến phần khác), từng đoạn, từng mảnh, từng phân số vi tế, "Giờ
đây nó phát sanh. Giờ đây nó tan biến." Khi Tuệ Sanh Diệt trở thành thuần
thục, sâu sắc và dõng mãnh nó sẽ phát sanh dễ dàng và tiến triển không
gián đoạn như tự nó tự nhiên đến, và chừng ấy hành giả cũng phân biện dễ
dàng tiến trình danh và sắc. Khi tuệ giác của hành giả được tiếp tục duy
trì và các pháp hữu vi được phân tích và biện giải dễ dàng thì sự "khởi
phát của tiến trình danh và sắc" (sanh), cũng như giai đoạn giữa, gọi là
"hiện hữu" (trụ) và sự liên tục trôi chảy của tiến trình danh và sắc, gọi
là "biến chuyển liên tục xảy diễn" (trở thành) đều không hiển hiện trước
mắt hành giả. Hình thể của tay chân, mặt, thân v.v... cũng không hiển
hiện. Chỉ có trạng thái chấm dứt (diệt) của tiến trình là nổi bật và được
gọi là "tan biến" hay chấm dứt.
Thí dụ, trong khi ghi nhận di động phồng
lên ở bụng, không phải giai đoạn sơ khởi (lúc bụng bắt đầu phồng lên),
cũng không phải giai đoạn giữa, mà chỉ giai đoạn cuối cùng, mới hiển hiện
nổi bật. Và khi bụng xẹp xuống cũng vậy, hành giả chỉ thấy giai đoạn cuối
cùng của di động. Cùng thế ấy, trong trường hợp co tay, hay co chân vào,
trong khi ghi nhận tác động co vào, không phải giai đoạn sơ khởi hay giai
đoạn giữa mà chỉ có giai đoạn hoại diệt mới hiển hiện nổi bật. Trong các
trường hợp khác như duỗi tay ra hay duỗi chân ra v.v... cũng cùng thế ấy.
Vào lúc bấy giờ mọi sự vật mà hành giả ghi
nhận hình như hoàn toàn không có, hay đã trở thành không còn hiện hữu. Do
đó, đến từng tuệ nầy, đối với hành giả hình như tự mình đang gia công ghi
nhận những gì đã trở thành không còn tồn tại, hoặc đã không còn hiện hữu
nữa vì đã tan biến. Cái tâm thức đang ghi nhận hình như đã mất liên lạc
với đối tượng được ghi nhận. Vì lẽ ấy đến đây hành giả có thể nghĩ rằng:
"Ta đã mất tuệ minh sát"; nhưng không nên nghĩ vậy.
Trước kia, ở tình trạng bình thường, tâm
thức của hành giả thỏa thích trong những đối tượng khái niệm về hình thể
[34] v.v... và chí đến từng Tuệ Sanh Diệt, ý niệm về các pháp hữu vi (sankhàra,
hành, các vật được cấu tạo) cùng với tánh chất đặc biệt của nó luôn luôn
hiển hiện nổi bật trước hành giả [35]. Do đó, vào lúc ấy tâm của hành giả
thỏa thích trong một đối tượng bao gồm những pháp hữu vi được phân biệt rõ
ràng, cùng với hình thể đặc thù cấu thành nó [36] và ý niệm về tánh chất
đặc biệt của nó. Nhưng giờ đây, tuệ giác của hành giả đã được khai triển
theo đường lối như đã được trình bày ở phần trên thì ý niệm, hình thể, hay
tánh chất đặc biệt của các pháp hữu vi không còn phát hiện rõ rệt đến hành
giả, càng ít hơn nữa, những khái niệm thô kịch khác. Đến tầng phát triển
nầy sự phát sanh của các pháp hữu vi, tức giai đoạn sơ khởi của tiến trình
sanh, không hiển hiện nổi bật (như ở tầng Tuệ Sanh-Diệt), Chỉ có giai đoạn
diệt, tức giai đoạn cuối cùng, hiển hiện nổi bật, do bản chất tan biến của
nó. Do vậy, tâm của hành giả, trước tiên không thỏa thích, nhưng có thể
chắc chắn rằng không bao lâu, sau khi trở thành quen thuộc (với giai đoạn
thực hành nầy) tâm mình sẽ thỏa thích trong sự chấm dứt, cũng được gọi là
trạng thái "diệt" (của các hiện tượng). Khi được bảo đảm yên tâm như vậy
rồi, hành giả cố gắng quay về pháp hành liên tục ghi nhận của mình.
Khi gia công thực hành như vậy hành giả
nhận thấy rằng mỗi lần ghi nhận, có hai yếu tố hiện hữu, một có tánh cách
khách quan: đối tượng được ghi nhận, và một chủ quan: trạng thái tâm hiểu
biết đối tượng. Và hai yếu tố nầy hoại diệt và tan biến từng cặp, hết cặp
nầy đến cặp khác. Bởi vì thật sự, trong mỗi tác động của bụng khi phồng
lên có vô số những tiến trình vật chất liên tục nối tiếp để tạo thành cử
động phồng lên. Và hành giả nhận thấy các tiến trình vật chất ấy nối tiếp
nhau tan biến. Cũng dường như ta thấy ảo cảnh ở mùa Hè kế tiếp nhau tan
biến trong từng khoảnh khắc, hay cũng như trong một trận mưa to, ta đứng
bên bờ hồ nhìn những cái bong bóng trên mặt nước mau chóng và liên tục kế
tiếp nhau tan vỡ, hoặc nữa, cũng giống như những ngọn nến hay những ngọn
đèn dầu mà chư thiện tín trong chùa dâng cúng trên bàn Phật, bị một luồng
gió mạnh thổi qua, nhanh chóng kế tiếp nhau tắt rụi. Cũng dường thế ấy,
trước mắt hành giả các tiến trình của thân được ghi nhận cũng hiển hiện
hoại diệt và biến tan trong từng khoảnh khắc.
Trạng thái hoại diệt và tan biến trong
từng khoảnh khắc của tiến trình thân được ghi nhận cũng phát hiện cùng thế
ấy. Và trạng thái tan biến của tâm ghi nhận những tiến trình thân ấy cũng
phát hiện đến hành giả, cùng lúc với tiến trình tan biến của thân. Lại
nữa, trong khi ghi nhận các tiến trình danh-sắc khác, trạng thái hoại diệt
và tan biến của nó cũng hiển hiện cùng thế ấy. Do đó tuệ giác phát sanh
đến hành giả rằng bất luận phần nào trong toàn thể châu thân mà được ghi
nhận thì đối tượng được ghi nhận ấy tan biến trước, và tức khắc liền sau
đó cái tâm ghi nhận đối tượng ấy cũng chấm dứt. Vị hành giả sẽ thấu hiểu
tận tường trường hợp mỗi cặp nối tiếp tan biến của bất luận đối tượng nào
và sự tan biến của tâm ghi nhận chính đối tượng ấy. (Ta nên nhận thức rằng
đây chỉ là thấu đạt sự vật bằng cách trực tiếp chứng nghiệm, chỉ phát sanh
đến vị hành giả đã gia công ghi nhận; không phải là ý kiến xảy đến do luận
lý suông).
Đây là sự thấu triệt một cách rành mạch, tận tường và toàn hảo, trạng
thái hoại diệt của hai yếu tố đi chung từng cặp -- đối tượng phát hiện ở
sáu cửa (lục căn) và tâm thức ghi nhận chính đối tượng ấy.
Sự thấu triệt nầy được gọi là "Tuệ Diệt".
6. Tuệ Kinh Sợ
Khi Tuệ Diệt đã thuần thục chín mùi, sẽ
đến lúc mà hành giả chỉ nhìn sự tan biến của tất cả các pháp hữu vi đối
tượng, rồi dần dần "Sự Hay Biết Trạng Thái Kinh Sợ" [37] và các tuệ giác
cao thượng khác phát sanh, cùng với những sắc thái kinh sợ của nó v.v...
[38]
Đã nhận thấy tận tường trạng thái tan biến của bất luận đối tượng nào
được ghi nhận và cái tâm quan sát ghi nhận đối tượng ấy -- xảy diễn trong
từng khoảnh khắc -- vị hành giả suy diễn và thấu hiểu rằng trong quá khứ
cũng vậy, tất cả các pháp hữu vi đều tan vỡ cùng thế ấy. Cũng cùng thế ấy
các pháp hữu vi trong tương lai đều phải tan vỡ. Trong hiện tại các pháp
hữu vi cũng tan vỡ. Và ngay vào lúc ghi nhận bất cứ pháp hữu vi nào hiển
nhiên, các pháp hữu vi ấy sẽ phát hiện trước hành giả với những sắc thái
kinh sợ. Do đó ngay trong hành vi ghi nhận, hành giả cũng sẽ thấu hiểu,
"Những pháp hữu vi nầy quả thật đáng kinh sợ." Sự thấu hiểu trạng thái
kinh sợ ấy được gọi là "Tuệ Hay Biết Trạng Thái Kinh Sợ", hay "Tuệ Kinh
Sợ". Vào lúc bấy giờ tâm của hành giả bị kềm kẹp trong tình trạng sợ hải
và hình như không có lối thoát.
7. Tuệ Khổ
Khi, do Tuệ Kinh Sợ, hành giả nhận thức
trạng thái đáng kinh sợ của các pháp hữu vi, rồi tiếp tục ghi nhận không
gián đoạn thì không bao lâu sau Tuệ Khổ sẽ khởi sanh. Khi tuệ nầy phát
sanh, tất cả các pháp hữu vi ở cùng khắp -- dầu trong sự vật được ghi nhận
hay trong trạng thái tâm ghi nhận, hay bất luận trong cuộc sống hay kiếp
sinh tồn nào mà hành giả nghĩ đến -- đều sẽ lạt lẽo, vô bổ [39] và bất
toại nguyện. Do đó, lúc bấy giờ hành giả chỉ thấy có đau khổ, bất toại
nguyện và khốn cùng. Vì lẽ ấy tuệ giác nầy được gọi là "Tuệ Khổ".
8. Tuệ Chán Nản
Khi nhận thức rằng tất cả các pháp hữu vi
là khổ, tâm của hành giả không tìm thấy thỏa thích trong các sự vật đầy
đau khổ ấy nữa mà hoàn toàn chán nản. Đôi khi tâm của hành giả trở nên bất
mãn và thờ ơ lãnh đạm. Mặc dầu vậy, hành giả không bỏ cuộc mà vẫn gia công
tiếp tục thực hành Thiền Minh Sát. Như vậy, hành giả phải hiểu rằng trạng
thái chán nản ấy không phải là chán hành thiền mà, một cách chính xác, đó
là "Tuệ Chán Nản", biểu hiện dưới hình thức nhàm chán các pháp hữu vi. Dầu
hành giả có hướng tâm về cuộc sống hay kiếp sinh tồn nào hạnh phúc nhất,
hay về đối tượng nào thú vị và đáng được ưa thích nhất, tâm vẫn không thể
thỏa thích, không thấy thỏa mãn trong ấy. Trái lại, tâm hành giả sẽ thiên
về, dựa vào, và hướng đến Niết Bàn. Do đó, giữa những khoảnh khắc ghi
nhận, ý tưởng sau đây phát sanh đến hành giả: "Chấm dứt các pháp hữu vi --
vốn đang tan vỡ trong từng khoảnh khắc -- duy có sự chấm dứt ấy là hạnh
phúc."
9. Tuệ Muốn Giải Thoát
Hành giả đã tiến đến Tuệ Chán Nản. Do tuệ
nầy hành giả cảm nghe nhàm chán tất cả những pháp hữu vi được ghi nhận.
Lúc bấy giờ phát sanh đến hành giả ý muốn lìa bỏ, giải thoát, vượt ra khỏi
các pháp hữu vi ấy. Tuệ giác có liên quan đến lòng ham muốn nầy được gọi
là "Tuệ Muốn Giải Thoát". Vào lúc ấy, thông thường hành giả có cảm giác
đau đớn khó chịu trong cơ thể và bực bội, bức rức, ở không yên trong một
oai nghi nào. Dầu cho những trạng thái khó chịu ấy không phát sanh đi nữa,
bản chất kém tiện nghi của các pháp hữu vi cũng sẽ trở thành hiển nhiên
hơn lúc nào hết. Vì lẽ ấy, trong những khoảnh khắc ghi nhận, hành giả cảm
nghe có sự ham muốn từ bên trong thúc giục: "Ước gì ta có thể lẫn thoát ra
khỏi trạng thái nầy! Phải chi ta có thể đạt đến trạng thái mà các pháp hữu
vi nầy chấm dứt! Ngưỡng mong ta có thể hoàn toàn tách rời và bỏ lại trọn
vẹn các pháp hữu vi nầy!" Đến giai đoạn nầy tâm của hành giả đang gia công
ghi nhận hình như rụt rè co rút lại trước đối tượng trong mỗi khoảnh khắc
mà hành giả ghi nhận, và ước muốn lẫn thoát ra khỏi đó.
10. Tuệ Quán Chiếu Trở Lại
Hết lòng mong muốn lẫn thoát ra khỏi các
pháp hữu vi, hành giả càng nỗ lực mạnh mẽ thêm trong công trình thực hành
ghi nhận các pháp hữu vi ấy, với mục tiêu duy nhất là tách rời, thoát ra
khỏi nó. Vì lẽ ấy, tuệ giác phát sanh vào lúc bấy giờ được gọi là "Tuệ
Quán Chiếu Trở Lại". Những danh từ "quán chiếu trở lại" đồng nghĩa với
"ghi nhận trở lại", hoặc "suy tư trở lại". Chừng ấy, bản chất (hay những
đặc tướng) của các pháp hữu vi -- vô thường, khổ, vô ngã -- sẽ hiển nhiên
sáng tỏ cho hành giả, và trong ba đặc tướng ấy, sắc thái đau khổ sẽ đặc
biệt nổi bật.
Đến giai đoạn nầy cũng vậy, thông thường hành giả cảm thọ những loại
đau nhức buốt xương khác nhau, rất dữ dội và càng lúc càng gia tăng. Do đó
cùng khắp châu thân cũng như toàn thể hệ thống tâm linh của hành giả dường
như một khối bệnh tật khó thể chịu đựng, hay một nơi chồng chất khổ đau
phiền lụy. Và một trạng thái băn khoăn bồn chồn thường phát hiện, làm cho
hành giả bực dọc, không thể ở yên một lúc trong oai nghi nào. Ngồi rồi
đứng, đứng rồi nằm, hay ngồi trở lại, rồi đi v.v... luôn luôn có sự thúc
giục thay đổi oai nghi. Tuy nhiên, trạng thái ấy chỉ biểu hiện bản chất
không thể chịu đựng của các pháp hữu vi. Mặc dầu hết lòng mong muốn thay
đổi oai nghi nhưng hành giả không dễ dàng quy hàng mà càng nỗ lực ở yên
không di động trong một oai nghi, và tiếp tục hành pháp liên tục ghi nhận.
Bằng cách thực hành như vậy hành giả có thể vượt qua chướng ngại phóng
dật, không còn bồn chồn hay để tâm phóng đi đầu nầy đầu kia.
Giờ đây tuệ minh sát của hành giả đã mạnh
mẽ, vững chắc và trong sáng, nhờ đó những cảm giác đau đớn nhức nhối sẽ
tức khắc chấm dứt khi hành giả chăm chú ghi nhận. Dầu có một cảm giác đau
đớn không hoàn toàn chấm dứt, hành giả cũng sẽ tri giác rõ ràng là nó đang
tan biến, từng phần nầy đến phần khác, trong từng khoảnh khắc. Điều nầy có
nghĩa là sự chấm dứt -- tức trạng thái mất dần và tan biến -- của từng cảm
giác trong khoảnh khắc vi tế sẽ trở thành hiển nhiên mỗi khi ghi nhận. Nói
cách khác, giờ đây thì không phải như lúc còn ở giai đoạn "Tuệ Thấu Đạt"
(tuệ thứ 3), khi mà luồng trôi chảy đều đặn không dứt, hay sự tiếp nối
liên tục những cảm giác cùng một loại còn hiển nhiên nổi bật như một đơn
vị. Tuy nhiên, nếu hành giả vẫn tiếp tục gia công thực hành, không bao lâu
cảm giác đau nhức sẽ hoàn toàn chấm dứt. Và khi thọ khổ chấm dứt bằng cách
nầy, nó sẽ tiêu tan luôn và không còn trở lại nữa. Tuy rằng đến đây tuệ
minh sát đã trở nên rất vững mạnh và trong sáng toàn hảo, hành giả vẫn
chưa thỏa mãn mà còn nghĩ rằng: "Tuệ minh sát của ta chưa đủ sáng tỏ."
Hành giả nên gạt bỏ ý nghĩ tương tợ bằng cách chăm chú hướng tâm niệm mình
vào nó và tiếp tục tập trung nỗ lực vào công trình liên tục ghi nhận danh
pháp và sắc pháp, đúng như nó phát hiện.
Nếu hành giả kiên trì thực hành như vậy,
mức độ ghi nhận sẽ trở nên càng lúc càng tỏ rạng hơn, từng phút, từng giờ,
từng ngày. Chừng ấy hành giả sẽ khắc phục những cảm giác đau nhức và trạng
thái phóng dật bồn chồn, có thể ở lâu trong một oai nghi và cùng lúc, cũng
chế ngự ý nghĩ rằng tuệ minh sát của mình không sáng tỏ rõ ràng. Chừng ấy
sự ghi nhận của hành giả sẽ bén nhạy, lanh lẹ và trong mỗi khoảnh khắc ghi
nhận sẽ thấu hiểu rõ ràng bất luận đặc tướng nào trong tam tướng: vô
thường, khổ, vô ngã.
Sự thấu triệt ba đặc tướng vô thường, khổ,
vô ngã ấy -- do công trình ghi nhận bén nhạy, sâu sắc và liên tục tiếp nối
nhanh chóng -- được gọi là Tuệ Dõng Mãnh Quán Chiếu Trở Lại, hay "Tuệ Quán
Chiếu Trở Lại".
11. Tuệ Xả Hành
Khi Tuệ Quán Chiếu Trở Lại nầy đã thuần
thục, sẽ phát sanh đến hành giả tuệ giác nhận thức rõ ràng những tiến
trình danh và sắc liên tục tiếp nối nhau một cách rất tự nhiên như tự nó
tự động xảy diễn. Đó là Tuệ Bình Thản (tâm xả) Đối Với Các Pháp Hữu Vi,
nói gọn lại là "Tuệ Xả Hành". "Hành" ở đây là một danh từ khác để gọi pháp
hữu vi, hay các vật được cấu tạo (sankhàra).
Trong công trình ghi nhận hành giả không
cần phải cố gắng nữa để niệm, hoặc để thấu hiểu các pháp hữu vi. Sau mỗi
khi ghi nhận, đối tượng được ghi nhận sẽ tự nó tự nhiên phát hiện, và tuệ
minh sát cũng vậy, sẽ tự nhiên ghi nhận và thông suốt đối tượng. Hình như
hành giả không cần cố gắng nữa. Trước kia, vì hành giả trông thấy trạng
thái hoại diệt của các pháp hữu vi nên tuần tự phát sanh sắc thái kinh sợ,
tri giác nỗi thống khổ, tình trạng chán nản, lòng mong muốn giải thoát và
trạng thái không thỏa mãn, với những tuệ đã thâu đạt. Nhưng giờ đây, các
tâm trạng ấy không còn phát sanh đến hành giả nữa, mặc dầu đến giai đoạn
nầy các pháp hữu vi tan vỡ và diệt vong càng nhanh chóng hơn và được hay
biết càng tận tường hơn trước. Dầu có cảm giác đau nhức phát sanh trong
thân, tâm hành giả không cảm nghe phiền toái và thiếu nghị lực để chịu
đựng. Đến giai đoạn nầy thông thường hành giả không còn nghe đau nhức --
tức trạng thái đau nhức không còn phát sanh đến hành giả nữa. Dầu cho có
nghĩ đến điều gì đáng kinh sợ hay buồn thảm, tâm vẫn thãn nhiên, không bị
khuấy động vì sợ hãi hay phiền muộn. Đầu tiên, đây là sự "lìa bỏ kinh sợ"
ở tầng "Xả Hành", hoàn toàn xả chấp, thản nhiên đối với các pháp hữu vi.
Trước kia, khi đạt đến tầng Tuệ Sanh Diệt,
hành giả cảm nghe rất thỏa thích vì tuệ minh sát sáng tỏ rõ ràng. Nhưng
giờ đây loại phỉ lạc ấy không còn phát sanh, dầu rằng hành giả đang ở
trong trạng thái vô cùng an lạc và tâm sáng tỏ tuyệt vời, vốn là hai đặc
tánh của Tuệ Xả Hành. Dầu hành giả thật sự thấy những đối tượng đáng được
ưa thích khả dĩ dẫn đến phỉ lạc, và mặc dầu hành giả nghĩ đến nhiều điều
thích thú khác nhau, nhưng vẫn không có cảm giác thỏa thích mạnh mẽ phát
sanh. Đó là "lìa bỏ thích thú" ở tầng Xả Hành.
Hành giả không nuôi dưỡng lòng ham muốn
hay ghét bỏ đối với bất luận điều gì hay sự vật nào phát hiện ở lục căn
mình, dầu điều nầy đáng hay không đáng được ưa thích, mà xem tất cả đều
giống nhau trong sự ghi nhận và thông hiểu nó (đây là sự hiểu biết thuần
túy. Chỉ hiểu biết mà không có ý ưa thích hay ghét bỏ). Đây là "quan kiến
bình thản" ở tầng "Xả Hành".
Về ba đặc tánh vừa nêu trên, sách Thanh
Tịnh Đạo (Vissudhi Magga) viết:
"Đã gạt bỏ kinh sợ và thỏa thích, hành giả
vô tư và (giữ tâm ở trạng thái) trung hòa (bình thản, thản nhiên) đối với
tất cả các pháp hữu vi".
Nếu hành giả trở lại thực hành pháp ghi
nhận với ý nghĩ: "Giờ đây ta sẽ mạnh dạn thực hành trở lại" thì không bao
lâu sau, sự ghi nhận sẽ công hiệu một cách tự nhiên như tự nó phải tiến
hành như vậy.
Kể từ đây hành giả không cần phải quyết
tâm nỗ lực nữa. Dầu không quyết tâm nỗ lực, sự ghi nhận của hành giả sẽ
diễn tiến trôi chảy liên tục và vững mạnh trong một thời gian lâu, có thể
tiếp tục kéo dài đến hai hay ba tiếng đồng hồ không gián đoạn. Đó là
"trạng thái (pháp hành) kéo dài" của Xả Hành mà khi đề cập đến, sách
Patisambhidà Magga viết:
"Trí Tuệ Bền Vững Lâu Dài là tuệ giác hiện
hữu trong những trạng thái tâm của Xả Hành".
Bản Chú Giải quan trọng về Con Đường Thanh
Lọc (Vissuddhi Magga, Thanh Tịnh Đạo) giải thích như sau:
"Điều nầy được nêu lên có liên quan đến
tuệ giác tác hành trong một luồng trôi chảy liên tục."
Bây giờ, khi sự ghi nhận tự động tác hành
như tự nhiên tự nó xúc tiến thì cái tâm, dầu hành giả muốn gởi nó đến một
số những đối tượng khác, thông thường vẫn từ chối không đi, hoặc nếu có đi
vẫn không ở lại đó lâu mà sớm quay trở về đối tượng quen thuộc rồi sẽ tiếp
tục ghi nhận liên tục. Trong ý nghĩa đó sách viết:
"Nó co rút, giựt lùi lại và thối lui;
không tiến đến nơi ấy."
12. Tuệ Đưa Vượt Lên
Do Tuệ Xả Hành, hành giả có tâm "Xả" hoàn
toàn đối với các pháp hữu vi, có rất nhiều phẩm hạnh cao thượng, rất nhiều
phước lành, rất nhiều oai lực và do đó, ghi nhận các pháp hữu vi đúng như
nó phát sanh. Khi tuệ giác nầy thuần thục chín mùi và trở nên sắc bén thâm
sâu, dõng mãnh và trong sáng đến mức tuyệt đỉnh thì chỉ nhìn thấy sự tan
biến của vạn pháp, nó sẽ thấu triệt tận tường rằng bất luận pháp hữu vi
nào cũng vô thường, hoặc khổ, hoặc vô ngã. Bây giờ, sự ghi nhận bất cứ đặc
tướng nào trong tam tướng (vô thường, khổ, vô ngã) -- càng tỏ rạng hơn
trong sự hiểu biết toàn hảo -- tự biểu hiện hai hoặc ba lần, hay nhiều hơn
nữa, tiếp nối nhau một cách nhanh chóng. Đó là tuệ giác dẫn đến trạng thái
vượt lên, "Tuệ Đưa Vượt Lên" [40]. Vào lúc bấy giờ, tức khắc sau chập tâm
cuối cùng trong chuỗi dài ghi nhận, vẫn còn thuộc về Tuệ Đưa Vượt Lên, tâm
của hành giả nhảy vọt vào Niết Bàn, sự chấm dứt của tất cả các pháp hữu vi
(tức tâm hành giả chụp lấy Niết Bàn làm đối tượng).
Và chừng đó, đối với hành giả tất cả mọi
sự vật (tức tất cả các pháp hữu vi) đều lắng xuống và ngưng động, một
trạng thái yên tĩnh gọi là "sự chấm dứt". Cách thức chứng ngộ Niết Bàn nầy
đã được đề cập đến trong nhiều bài kinh của Đức Bổn Sư, thí dụ như:
"Tri kiến đến với hành giả rằng: bất luận
gì có bản chất sanh khởi tức nhiên phải chấm dứt".
Nơi đây, cụm từ "phải chấm dứt" chỉ rõ sắc
thái chứng ngộ sự ngưng động và chấm dứt tất cả các pháp hữu vi mà bản
chất vốn là sanh khởi. Sách Milinda Vấn Đạo cũng có ghi:
"Tâm của hành giả, trong khi thực hành
công trình ghi nhận, vượt qua khỏi những diễn biến liên tục của các hiện
tượng và hạ xuống, đáp vào trạng thái không-diễn-biến. Người đã thực hành
theo đường lối chân chánh, đã hạ xuống đáp vào trạng thái không-diễn-biến,
Tâu đại Vương, được xem là đã chứng ngộ Niết Bàn".
Đoạn nầy có ý nghĩa như sau: Vị hành giả muốn chứng ngộ Niết Bàn phải,
xuyên qua công trình ghi nhận, nằm lòng tất cả mọi tiến trình danh và sắc
phát hiện ở bất cứ cửa nào của lục căn. Khi hành giả chăm chú nằm lòng như
vậy thì cái tâm của mình, vốn không ngừng gia công ghi nhận trong từng
khoảnh khắc cho đến lúc thành đạt Tuệ Thuận Thứ, rơi vào tiến trình biến
đổi của danh và sắc mà ở đây gọi là "diễn biến liên tục", bởi vì những
biến đổi ấy liên tục xảy diễn, dài dài trong một luồng trôi chảy không
gián đoạn như dòng nước của một con sông. Nhưng đến giai đoạn cuối cùng,
thay vì rơi vào sự "liên tục diễn biến" ấy, tâm hành giả vượt lên khỏi nó
và nhẹ nhàng hạ xuống, đáp vào trạng thái "không-diễn-biến" (đối nghịch
với những tiến trình biến đổi của danh và sắc mà ở đây gọi là "diễn
biến"). Nói cách khác, tâm của hành giả đạt đến trạng thái
"không-diễn-biến', có nghĩa là: cũng dường như nhẹ nhàng đáp xuống -- nó
đạt đến sự chấm dứt, vốn là sự ngưng động của các pháp hữu vi. Khi vị hành
giả, trước kia đã có thực hành chân chánh và không sai lạc tách rời đường
lối, xuyên qua Tuệ Sanh Diệt và những tuệ khác (hoặc xuyên qua những giai
đoạn Giới Tịnh, Tâm Tịnh, Kiến Tịnh v.v...) đạt đến trạng thái
"không-diễn-biến" (do tâm mình hạ xuống, đáp vào trạng thái ấy), vị ấy
được xem là đã chứng ngộ "Niết Bàn", và được gọi là người trực tiếp chứng
đắc và đã thật sự thấy Niết Bàn.
13. Tuệ Thuận Thứ
Nơi dây, do công trình ghi nhận, tuệ giác
phát sanh trong chuỗi dài những tuệ giác hợp thành "Tuệ Đưa Vượt Lên" được
gọi là "Tuệ Thuận Thứ" [41]. Đến đây chấm dứt giai đoạn "Đạo Tri Kiến
Tịnh", quan kiến Trong Sạch Thấu Hiểu Và Nhận Thấy Con Đường.
14. Tuệ Chuyển Tánh
Tức khắc liền sau đó một loại tuệ giác tự
phát hiện và rơi vào Niết Bàn lần đầu tiên. Niết Bàn vốn không có pháp hữu
vi (tức những hiện tượng phát sanh do điều kiện), chính vì đây là sự chấm
dứt các pháp hữu vi. Tuệ nầy được gọi là "Tuệ Chuyển Tánh", tuệ giác đã
thuần thục chính mùi. [42]
VII. Tri Kiến Tịnh
15. Đạo Tuệ
Tức khắc liền theo sau là tuệ giác --
giống như Tuệ Chuyển Tánh trước đó -- cũng cùng ở Niết Bàn, vốn không có
pháp hữu vi, vì Niết Bàn là sự chấm dứt các pháp hữu vi. Tuệ nầy được gọi
là "Đạo Tuệ" [43], cũng được gọi "Tri Kiến Tịnh", quan kiến trong sạch
(thanh tịnh) thành đạt do thấu hiểu (tri) và nhận thấy (kiến).
16. Quả Tuệ
Một lần nữa, đây là tuệ giác tức khắc theo
liền sau, thuộc về giai đoạn cuối cùng, và tiếp tục luồng trôi chảy của
Đạo Tuệ: tuệ nầy cũng cùng ở Niết Bàn, vốn không có pháp hữu vi, vì Niết
Bàn là sự chấm dứt các pháp hữu vi, và được gọi là "Quả Tuệ".
17. Tuệ Duyệt Xét
Thời gian của bộ ba, Tuệ Chuyển Tánh, Đạo
Tuệ và Quả Tuệ quả thật không dài mà rất ngắn, chỉ tồn tại trong khoảnh
khắc, giống như thời gian của một chặp tư tưởng ghi nhận. Sau khi ba tuệ
trên vừa chấm dứt thì liền phát sanh "Tuệ Duyệt Xét", cũng được gọi là Tuệ
Nhìn Trở Lại. Do Tuệ Duyệt Xét nầy hành giả phân biện rằng Tuệ Đưa Vượt
Lên đã sanh khởi cùng với chức năng ghi nhận thật nhanh chóng, và tức khắc
liền sau giai đoạn cuối cùng của sự ghi nhận,
Con Đường Của Tâm Thức đưa ngay vào sự
chấm dứt (các pháp hữu vi). Đó là "Tuệ Duyệt Xét Con Đường".
Hành giả cũng phân biện rằng lúc bấy giờ
tâm thức cũng ở chung, cùng một trạng thái chấm dứt, trong khoảng thời
gian giữa Đạo Tuệ và Tuệ Duyệt Xét. Đây là "Tuệ Duyệt Xét Quả".
Lại nữa, hành giả phân biện rằng đối tượng
mà mình vừa chứng nghiệm không có pháp hữu vi. Đó là "Tuệ Duyệt Xét Niết
Bàn".
Về điểm nầy sách Thanh Tịnh Đạo ghi nhận:
" 'Theo Con Đường nầy, quả thật vậy, ta đã
đến', bằng cách ấy hành giả duyệt xét Đạo. 'Hạnh phúc nầy ta, đã thành
đạt', bằng cách ấy hành giả duyệt xét Quả. 'Trạng thái nầy, ta đã chứng
nghiệm và thấm nhuần như một đối tượng' [44], bằng cách ấy, hành giả duyệt
xét trạng thái Bất Diệt, Niết Bàn."
Có vài vị -- không phải tất cả -- có sự
Duyệt Xét Ô Nhiễm. [45]
Sau khi duyệt xét theo phương cách nầy
hành giả vẫn tiếp tục thực hành ghi nhận tiến trình danh và sắc khi nó trở
thành hiển nhiên. Tuy thế, trong khi gia công ghi nhận như vậy, các tiến
trình danh và sắc phát hiện đến hành giả khá thô kịch, chớ không được vi
tế như trước kia, lúc ở Tuệ Xả Hành. Tại sao? Là vì tuệ giác mà hành giả
đạt đến trong hiện tại có bẩm chất của Tuệ Sanh Diệt. Lý do là khi bậc
Thánh Đệ Tử (như các vị Tu Đà Huờn v.v...) thực hành minh sát trở lại
(bằng cách ghi nhận) thì thông thường Tuệ Sanh Diệt sanh khởi trước hết.
Đó là dòng trôi chảy thông thường theo thứ tự mà các tuệ phát sanh.
Có những vị hành giả, khi vừa xuất ra khỏi
Đạo và Quả thì bị niềm tin dõng mãnh, hạnh phúc, phỉ lạc và an tĩnh --
phát sanh do sự chứng nghiệm Đạo Quả -- đượm nhuần và tràn ngập cùng khắp
toàn thể châu thân. Vì lẽ ấy các Ngài không thể tiếp tục ghi nhận những gì
phát hiện hiển nhiên vào lúc bấy giờ. Dầu có lập tâm quyết tinh tấn gắp
đôi và cố gắng thực hành minh sát đi nữa, các Ngài vẫn không thể phân biện
những hiện tượng một cách rành mạch và rõ ràng, vào lúc các hiện tượng ấy
phát hiện. Các Ngài chỉ tiếp tục chứng nghiệm phỉ, an, lạc, mà lúc bấy giờ
xảy diễn đến một cách mãnh liệt.
Trạng thái tâm nầy, một trạng thái vắng
lặng và tự tại khác thường phát sanh do niềm tin dõng mãnh, kéo dài trong
một tiếng, hai tiếng đồng hồ, hoặc hơn nữa mà không gián đoạn. Do sự kiện
nầy, hành giả cảm nghe như mình ở trong không gian rộng lớn vô biên, tràn
đầy hào quang sáng chói và thích thú tuyệt vời. Trạng thái phỉ, lạc, và
vắng lặng, mà hành giả chứng nghiệm lúc bấy giờ được tán dương như sau:
"Chắc chắn là ta chưa từng cảm thọ và chứng nghiệm hạnh phúc như thế nầy!"
Sau thời gian hai, hoặc ba tiếng đồng hồ
trôi qua, niềm tin, hạnh phúc, phỉ, lạc, và an tĩnh dần dần phai lạt.
Chừng ấy hành giả có thể tiếp tục trở lại thực hành ghi nhận các tiến
trình danh và sắc khi nó xảy diễn, phân biệt rành mạch từng tiến trình
một, và có thể phân biện tận tường. Nhưng vào lúc bấy giờ cũng vậy, Tuệ
Sanh Diệt cũng sanh khởi đầu tiên.
18. Chứng Quả
Trong khi hành giả gia công thực hành ghi
nhận, tuệ minh sát sẽ dần dần tăng trưởng và sẽ sớm đạt đến giai đoạn Xả
Hành trở lại. Nếu tâm định của hành giả chưa đến mức độ toàn hảo, chỉ có
Tuệ Xả Hành liên tiếp phát sanh trở đi trở lại. Nhưng nếu tâm định của
hành giả đã đạt đến mức toàn hảo thì, trong trường hợp vị hành giả minh
sát thực hành ghi nhận với quyết định chỉ nhằm thành đạt Đạo và Quả đầu
tiên thì chỉ có tâm Quả của Tu Đà Huờn Đạo tiến đến trạng thái chấm dứt
các pháp hữu vi bằng cách chứng Quả [46]. Sự chứng ngộ nầy xảy diễn
chính xác giống hệt như tâm Đạo và tâm Quả đã phát sanh trước kia, khi
hành giả lần đầu tiên chứng đắc Tu Đà Huờn Đạo. Chỉ có sự khác biệt duy
nhất là lần nầy khả năng chứng nghiệm Quả vị kéo dài hơn.
Đến đây hành giả phải lập tâm nhất quyết gia công vững tiến thêm: có
thể lặp đi lặp lại nhiều lần sự chứng Quả, thành tựu nhanh chóng, và khi
đã thành tựu, ẩn náu trong Quả vị ấy lâu dài, thí dụ 6, 10, 15, hoặc 30
phút, một giờ hoặc lâu hơn nữa.
Khi vị hành giả cố gắng chứng Quả như vậy
thì Tuệ Sanh Diệt sẽ phát sanh trước tiên. Tuần tự vững tiến trong chiều
hướng nầy hành giả sớm đạt đến Tuệ Xả Hành. Nhưng nếu công trình thực hành
đã đạt đến mức độ thuần thục thì Tuệ Xả Hành sẽ phát sanh một cách nhanh
chóng, chỉ sau bốn hay năm chặp tư tưởng ghi nhận. Nếu định lực của hành
giả đã đến mức toàn hảo, tâm Quả sẽ liên tiếp rơi nhập vào trạng thái chấm
dứt, bằng cách chứng Quả. Dầu trong khi đi kinh hành hoặc đang thọ trai,
tâm của hành giả cũng có thể nhập vào trạng thái nầy và Quả vị thành tựu
có thể kéo dài bao lâu tùy mình quyết định. Trong khi chứng nghiệm Quả vị,
tâm sẽ chỉ an trú trong sự chấm dứt các pháp hữu vi, và sẽ không hay biết
gì khác.
19. Đạo Và Quả Cao Thượng
Khi đã thuần thục và quen thuộc với sự
chứng Quả, hành giả quyết tâm tiến đến các Đạo và Quả cao thượng hơn.
Trong sự cố gắng ấy, hành giả phải làm gì? - Chỉ như trước, phải tiếp tục
gia công thực hành ghi nhận (bất luận gì xảy diễn) ở sáu cửa giác quan.
Kể từ đây hành giả phải ghi nhận bất luận
tiến trình danh và sắc nào phát hiện hiển nhiên ở lục căn. Khi gia công
thực hành như vậy, đến giai đoạn Tuệ Sanh Diệt, hành giả sẽ nhận thấy rằng
những đối tượng đầu tiên bao gồm các pháp hữu vi, hiển hiện đến mình một
cách thô kịch và tâm định của mình không an trụ đúng mức. Trong thực tế,
công trình khai triển tuệ minh sát thuộc các Đạo cao thượng không dễ dàng
như tuệ minh sát thuộc Thánh Quả mà mình đã thành tựu trước đây. Trong
thực tế thì quả thật là khó, vì phải bắt đầu trở lại như mới. Dầu sao cũng
không đến đỗi khó như lúc mới khởi sự lần đầu tiên. Trong một ngày, hay
chỉ trong một giờ, hành giả có thể đạt đến Tuệ Xả Hành. Nói như vậy là căn
cứ trên kinh nghiệm thông thường của các hành giả ngày nay.
Những vị nầy cần phải được hướng dẫn từ
lúc ban sơ, và họ không đặc biệt sáng suốt. Nơi đây chỉ đề cập đến hạng
người thông thường. Tuy nhiên, dầu đã đạt đến Tuệ Xả Hành, nếu Ngũ Căn
[47] của hành giả chưa được trau giồi đầy đủ, tuệ nầy chỉ liên tiếp lặp đi
lặp lại. Dầu vị hành giả đã chứng Quả (thấp hơn) có thể nhập vào Tuệ Xả
Hành nhiều lần trong một giờ, nhưng nếu Ngũ Căn của Ngài chưa đủ thuần
thục thì cũng không thể tiến đến tầng Đạo cao thượng hơn kế đó trong thời
gian một ngày, hai ngày, hoặc hơn nữa. Vị ấy chỉ ở trong Tuệ Xả Hành.
Nhưng nếu vào lúc bấy giờ Ngài hướng tâm nhằm đạt đến Quả mà mình đã chứng
đắc trước kia thì sẽ thành công dễ dàng, không chừng trong hai, hay ba
phút.
Trong trường hợp mà Ngũ Căn đã thuần thục,
vị hành giả gia công thực hành minh sát để tiến đến tầng Đạo cao thượng
hơn sẽ thấy rằng tức khắc sau khi Tuệ Xả Hành đã tiến triển đến mức tuyệt
đỉnh của nó thì Đạo và Quả cao thượng sẽ phát sanh giống như trước kia
(khi thành tựu Đạo và Quả đầu tiên), có nghĩa lả liền sau khi những giai
đoạn Thuận Thứ và Chuyển Tánh chấm dứt. Sau Quả, giai đoạn Duyệt Xét
v.v... tiếp nối theo cũng cùng một lối như trước.
Bất luận gì khác liên quan đến phương pháp
thực hành minh sát và khai triển các tuệ minh sát, thẳng tiến đến tầng A
La Hán có thể được hiểu là giống y hệt như đã trình bày ở phần trên. Do đó
nơi đây không cần phải thảo luận thêm dong dài.
* * *
Giờ đây, bản khái luận về
"Lịch Trình Tiến Triển Của Tuệ Minh Sát Qua
Những Giai Đoạn Thanh Tịnh" nầy đã
được soạn thảo một cách giản lược và rõ ràng để cho người hành thiền có
thể thấu hiểu dễ dàng. Do đó, ở đây không trình bày đầy đủ chi tiết. Và
bởi vì bài nầy được viết ra nhằm giúp người đọc lãnh hội dễ dàng nên có
nhiều đoạn trong Tam Tạng kinh điển liên quan đến vấn đề không được viện
dẫn, nhiều sự lặp đi lặp lại và nhiều lỗi văn chương trong phương cách
trình bày. Tuy nhiên, người đọc có thể bỏ qua những thiếu sót trong lối
trình bày và những phần kém đầy đủ trong sự trích dẫn kinh điển. Người
khôn ngoan sáng suốt chỉ quan tâm đến ý nghĩa và mục tiêu của bài viết.
Kính mời quý đọc giả chú tâm vào điểm nầy.
Mặc dầu trong Lời Tựa có viết rằng bản
khái luận nầy được viết ra cho những vị hành giả đã thâu đạt một vài thành
quả rõ rệt trong pháp hành, những vị khác cũng có thể đọc và thâu hoạch
lợi ích.
Đối với quý vị nầy, giờ đây, để chấm dứt, Sư có lời ước nguyện và cầu
chúc như sau: Cũng như một thức ăn rất ngon, có nhiều hương vị, trông rất
hấp dẫn và có nhiều chất dinh dưỡng, chỉ có thể được thưởng thức trọn vẹn
khi nào người ta thật sự ăn. Người không nếm qua không thể thưởng thức.
Cùng thế ấy, chỉ có những vị đã tự mình nhận thấy và trực nghiệm mới có
thể lãnh hội trọn vẹn và đầy đủ toàn thể chuỗi dài những tuệ giác được
phát triển như đã trình bày ở đây, không phải bằng cách nào khác.
Vậy, Sư ngưỡng mong tất cả quý vị thành
đạt giai đoạn hiểu biết không thể còn hoài nghi, toàn thể chuỗi dài tiến
trình phát triển các tuệ minh sát! Ngưỡng mong tất cả quý vị tinh tấn
chuyên cần để thành tựu mục tiêu!
*
Bản khái luận nầy,
đề cập đến những giai đoạn Thanh Lọc và Minh Sát,
được NgàI Mahasi Sayadaw,
vị Thiền Sư trứ danh và nhiều kinh nghiệm,
soạn thảo bằng tiếng Miến Điện và chuyển dịch ra Phạn ngữ,
nhằm giúp những vị hành giả đã ít nhiều thấy rõ sự vật,
dầu kho tàng kiến thức còn khiêm tốn
Bản khái luận về
những giai đoạn Thanh Tịnh và những Tuệ Minh Sát,
Được soạn thảo ngày 22 tháng 5, 1950,
Đến đây chấm dứt.
Tóm Lược
I. Giới Tịnh
II. Tâm Tịnh
III. Kiến Tịnh
1. Tuệ Phân Tích Danh Sắc
IV. Đoạn Nghi Tịnh
2. Tuệ Phân Biện Nhân Duyên
3. Tuệ Thấu Đạt
4. Tuệ Sanh Diệt
V. Đạo Phi Đạo Tri Kiến Tịnh
VI. Đạo Tri Kiến Tịnh
5. Tuệ Diệt
6. Tuệ Kinh Sợ
7. Tuệ Khổ
8. Tuệ Chán Nản
9. Tuệ Muốn Giải Thoát
10. Tuệ Quán Chiếu Trở Lại
11. Tuệ Xả Hành
12. Tuệ Đưa Vượt Lên
13. Tuệ Thuận Thứ
14. Tuệ Chuyển Tánh
VII. Tri Kiến Tịnh
15. Đạo Tuệ
16. Quả Tuệ
17. Tuệ Duyệt Xét
18. Chứng Quả
19. Đạo và Quả Cao Thượng
Chú giải
[1] Nơi đây, cũng như tựa của tập khái
luận nầy, Phạn ngữ nàna được phiên dịch là "Tuệ Minh Sát"
(Insight). Danh từ thường dùng để dịch chữ nàna là "sự hiểu biết"
(knowledge), nhưng theo bài nầy những chữ "sự hiểu biết" có phần nhẹ
nhàng, không diễn tả đầy đủ ý nghĩa. Tuy nhiên trong tất cả những phần sau
"tuệ minh sát" chỉ dùng để dịch chữ "vipassanà". Khi đề cập đến những giai
đoạn tuệ giác. Anh ngữ "knowledges" được dùng ở số nhiều để thích hợp với
danh từ Pàli nànàni.
[2] Trong Kinh Điển Phật Giáo,
bảy giai đoạn Thanh Lọc
(visuddhi) được đề cập đến trong bài kinh "Discourse on the Stage
Coaches số 24 của Bộ Trung A Hàm, Majjhima Nikàya, tựa đề "Rathanavinìta
Sutta", bài kinh về "Những Trạm Xe". Một hình ảnh ngụ ngôn thuật rằng Vua
Pasenadi đang ở Sàvatthi, có việc cần phải đi Sàketa. Bảy trạm xe liền
được tổ chức dài theo con đường từ Sàvatthi đến Sàketa. Vua dùng chiếc xe
đầu tiên để di chuyển xuyên qua đoạn đầu, rồi bỏ xe đó, sang qua chiếc thứ
nhì để trải qua đoạn kế, rồi chiếc xe thứ ba, thứ tư v.v... để cuối cùng
chiếc xe thứ bảy đưa Vua thẳng vào cung điện ở Sàketa. Dựa vào câu chuyện
trên làm khuôn khổ Ngài Buddhaghosa soạn thảo Bản Chú Giải trứ danh tựa đề
Visuddhi Magga, Thanh Tịnh Đạo, mô tả bảy giai đoạn "thanh tịnh" đưa chúng
sanh đến trạng thái hoàn toàn trong sạch, trí tuệ tuyệt hảo và giải thoát
ra khỏi mọi hình thức khổ đau phiền lụy của những kiếp sinh tồn. Bảy giai
đoạn ấy là: I. Giới Tịnh, II. Tâm Tịnh, III. Kiến Tịnh, IV. Đoạn Nghi
Tịnh, V. Đạo Phi Đạo Tri Kiến Tịnh, VI. Đạo Tri Kiến Tịnh, VII. Tri Kiến
Tịnh. Đây là khuôn khổ sách "Thanh Tịnh Đạo" (Visuddhi-Magga) của
Ngài Buddhaghosa (xem bản dịch của Ngài Nyanamoli Thera, do nhà xuất bản
A. Semage, Colombo, Sri Lanka ấn hành)
[3]
Tiến trình di động
(vàyo, theo nghĩa đen là gió, không
khí) là nguyên tố cuối cùng trong bốn nguyên tố chánh yếu (Tứ Đại) cấu
thành phần vật chất, sắc. Ba nguyên tố kia là Đất (có tánh đặc, cứng hay
mềm), Nước (có đặc tánh làm dính liền), và Lửa (có đặc tánh nóng hay
lạnh). Trong tất cả các hình thức vật chất đều có đủ bốn nguyên tố nầy,
không thể thiếu một. Tứ Đại luôn luôn dính liền nhau và liên quan với nhau
rất mật thiết. Tuy nhiên, trong một loại vật chất, thành phần nầy có thể
trội hơn các thành phần kia. Như trong đất (theo nghĩa được hiểu thông
thường) thì thành phần "đất" trội hơn ba thành phần "nước", "lửa", "gió".
Trong nước thì thành phần "nước" trội hơn v.v... nhưng trong đất, cũng như
trong nước, đều có đủ bốn thành phần. Trong sách nầy, đoạn "Nguyên Tố
Gió bên trong" hàm xúc những sinh hoạt của vật chất như di động, rung
chuyển, gây sức ép, tự biểu hiện dưới hình thức luồng gió lưu thông bên
trong cơ thể (như hơi thở), hoặc dưới hình thức chuyển động và gây sức ép
(như sự di chuyển của tay, chân, hay một bộ phận nào trong thân v.v... và
trở thành đối tượng của xúc giác do sức ép tạo nên)
[4] Sự
chú tâm hướng về di động
phồng lên xẹp xuống của bụng là lối thực hành do tác giả, Ngài Mahàsi
Sàyadaw, đưa vào làm đề mục căn bản cho phương pháp hành thiền Minh Sát.
Muốn có thêm chi tiết xin xem The Heart of Buddhist Meditation, do
tác giả Nyànaponika Thera (Rider & Co, London, 1962), trang 94 trở lên và
106. Nếu chọn pháp Niệm Hơi Thở (ànàpànasati) theo phương pháp
thông thường xin xem "The Heart of Buddhist Meditation", trang 108
trở lên; "Mindfulness of Breathing" do tác giả Nyanamoli Thera (Buddhist
Publication Society, Kandy)
[5] Theo Phật Giáo (Abhidhamma, Vi
Diệu Pháp), ta chỉ có thể cảm xúc ba nguyên tố đất, lửa và gió trong phần
vật chất (sắc), mà không thể tiếp nhận nguyên tố Nước, dầu ở trong những
sự vật ở chất lỏng. Cảm xúc của ta khi đụng vào nước là do ba nguyên tố
đất, lửa, gió.
[6] "Sáu cửa" là một lối diễn đạt
bằng hình ảnh sáu giác quan (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, và ý) vì đó là
sáu đường lối tiếp xúc với trần cảnh.
[7]
"... đã nhìn thấy Giáo Pháp, đã đến Giáo Pháp
..." Sự phối hợp danh từ thường
được dùng trong những bài Kinh (Sutta) của Đức Phật liên quan đến
những vị đã chứng đắc giai đoạn đầu tiên trên con đường của chư Thánh, tức
Nhập Lưu, Nhứt Lai hay Bất Lai. Xem chú thích số 33. Danh từ Dhamma
(Pháp) ở đây là Niết Bàn.
[8]
I. Ngũ Giới, năm giới dành cho
tất cả những người Phật tử cư sĩ là kiêng cử: 1. sát sanh, 2. trộm cắp,
3. tà dâm, 4. vọng ngữ, và 5. dùng chất say.
II. Tám giới, hay Bát Quan Trai Giới, là kiêng cử: 1. sát sanh,
2. trộm cắp, 3. tất cả mọi hình thức thông dâm, 4. vọng ngữ, 5. dùng
chất say, 6. ăn vật thực từ đúng ngọ đến sáng ngày hôm sau, 7. tránh
không (a) múa, hát, đờn kèn. hay xem múa, hát, đờn kèn, (b) trang điểm,
dùng tràng hoa, xức dầu thơm v.v... 8. nằm giường cao, đẹp, sang trọng.
Người Phật tử có tâm đạo nhiệt thành thọ tám giới nầy trong những ngày
Mồng Một, Rằm hoặc các ngày giới khác, nhiều hay ít ngày trong tháng,
tùy theo ước nguyện của mình.
III. Thập Giới, dành cho các thầy sa-di, hoặc vị cư sĩ nào ước
nguyện thọ trì, gồm: từ giới (1) đến giới (6) giống như tám giới. Giới
thứ 7. múa hát đờn kèn hoặc xem múa hát đờn kèn, 8. không trang điểm,
dùng tràng hoa, xức dầu thơm v.v... 9. không nằm giường cao, đẹp, sang
trọng và 10. không nhận vàng, bạc, hoặc tiền v.v...
[9] Trong Tứ Thanh Tịnh Giới, phần
đầu giống như mười giới của sa-di. Ba phần kia là: thu thúc lục căn, chánh
mạng trong sạch và giới hạnh trong sạch liên quan đến các nhu cầu thiết
yếu của một nhà sư như vật thực, chỗ ở, y, và thuốc men.
[10]
Tâm Định
(samàdhi) là trạng thái tâm vững chắc được giữ chặt chẽ không lay
chuyển ("sam" + căn "dha"),
cột chắc tâm vào một đối tượng duy nhất. Tâm Định có thể được phân biệt ở
ba mức độ là 1. khanika samàdhi, tạm định, chỉ tạm thời "định"
trong một thời gian ngắn, 2. upacàra samàdhi, cận định, mức độ an
trụ đã đến gần tâm "Định" nhưng chưa vững chắc, và 3. appanà samàdhi,
toàn định. Đây là tâm vững chắc an trụ, không lay chuyển, nhưng còn là
loại tâm thuộc về Dục Giới (kàmàvacara), trong khi đó các tầng
Thiền (jhànas) thuộc về sấc giới (rùpàvacara) hay vô sắc
giới (arùpàvacara).
[11] Ngũ uẩn thủ, nhóm năm khối đối
tượng của sự bám níu, là: 1. sắc, 2. thọ, 3. tưởng, 4. hành, 5. thức.
[12] Cũng được gọi là
sukkha-vipassanà-yànika
[13]
Theo đặc tánh của nó,
trong ý nghĩa, "theo bản chất thật sự và cơ
năng của nó."
[14] Pháp hành này nhằm "khai triển tuệ
giác bằng cách trực tiếp chứng nghiệm" (paccakkhanàna). Hành giả
hướng tâm niệm vào những tiến trình danh và sắc bên trong mình. Vì lẽ ấy
nơi đây nhấn mạnh vào điểm "trong cuộc sống liên tục hằng ngày của mình",
có nghĩa là hành giả liên tục quán niệm các tiến trình danh và sắc bên
trong chính mình. Về sau, khi đã viên mãn trực tiếp chứng nghiệm tiến
trình danh và sắc bên trong, hành giả sẽ hướng sự chú niệm vào những tiến
trình bên ngoài, bằng cách suy diễn (anumàna). Xem trong kinh Tứ
Niệm Xứ. Satipatthàna Sutta, lặp đi lặp lại đoạn "quán chiếu thân
v.v... bên ngoài"
[15] Ghi nhận, là danh từ then chốt
trong bản khái luận nầy. Động từ Pàli tương đương sallakkheti
(sam-lakh) mà chữ nầy được phiên dịch có nghĩa, 'ghi nhận một cách rõ
ràng', quan sát, quán xét, ghi nhận. Do đó, danh từ ghi nhận được chọn,
đồng nghĩa với sự 'chú tâm suông', trơ trọi, hoàn toàn tách rời xa khỏi
mọi suy tư, tưởng tượng hay hồi nhớ. Danh từ nầy được dùng trong quyển
"The Heart of Buddhist Meditation" (London, 1962, Rider & Co).
[16] Bản Phụ Chú Giải kinh Brahmajàla giải
thích như sau: 'Trong bản chất thật sự của những sự vật
(paramattha-dhamma), tức theo chân đế, có hai đặc tánh: đặc tánh cá
biệt và đặc tánh tổng quát.
Hiểu biết đặc tánh cá biệt là "hiểu biết qua sự chứng nghiệm"
(paccakkhana-nàna, hiểu biết do chứng nghiệm), trong khi hiểu
biết đặc tánh tổng quát là "hiểu biết qua sự diễn đạt" (anumàna-nàna).
Thí dụ như hiểu biết những đặc tánh cá biệt của Nguyên Tố Di Động
(vàyo-dhàtu, tức nguyên tố Gió), bản chất của nó là nâng đỡ, cơ năng
của nó là di động, còn đặc tánh tổng quát là vô thường v.v...
[17] Ba cụm từ in bằng chữ nghiêng
(bản
chất nâng đỡ, cơ năng chánh yếu, và sự biểu hiện của nguyên tố Di Dộng)
là cách định nghĩa tiêu chuẩn được dùng trong những bản chú giải Phạn ngữ
và trong sách Thanh Tịnh Đạo, Trong trường hợp các hiện tượng tâm linh thì
có thêm vào lối định nghĩa thứ tư là "nhân duyên kế cận" (padatthàna).
Thí dụ như định nghĩa của Nguyên Tố Di Động (tức nguyên tố Gió) trong sách
Thanh Tịnh Đạo (bản dịch của Nànamoli Thera trang 399)
[18] "Tâm Tịnh" là tâm an trụ trong
trạng thái Toàn Định hoặc Cận Định (xem chú giải số 10). Trong hai trạng
thái định nầy tâm tạm thời được thanh lọc, không còn bị năm pháp Triền Cái
gây trở ngại trên con đường tiến bộ tinh thần (xem chú giải số 20)
[19] Những
"đề mục khác "
cũng có thể cùng thuộc trong một diễn biến, thí dụ như trạng thái phồng
lên xẹp xuống luôn luôn tiếp diễn của bụng.
[20] Có năm Chướng Ngại Tinh Thần (nìvarana,
pháp triền cái) gây trở ngại cho sự chú tâm là: 1. tham dục, 2. oán ghét,
3. hôn trầm dã dượi., 4. phóng dật lo âu, và 5. hoài nghi. Muốn có thêm
chi tiết xin đọc "The five Mental Hindrances and their Conquest" do tác
giả Nyanaponika Thera (TheWheel, số 27, Buddhist Publication Society,
Kandy)
[21]
Mức độ "cùng tột"
nầy là giai đoạn "Tri Kiến Tịnh" của Thanh Tịnh Đạo. Xem Chú Giải số 41 và
đoạn đầu Chương XXI sách Visuddhi Magga.
[22] Đoạn nầy trích dịch từ sách The
Way of Mindfulness của tác giả Soma Thera (ấn bản lần thứ 3, Kandy
1967) trang 104, nơi đây những danh từ "access concentration" (tạm định)
hàm ý "partial absorption", (an trụ từng phần) được dùng.
[23] Phát sanh trong khi hành thiền Vắng
Lặng.
[24] Đây là tâm hoàn toàn an trụ mà hành
giả thành tựu khi bước vào Thánh Đạo và Thánh Quả.
[25] Trong Bản Chú Giải Bài Kinh thứ 111,
Anupada Sutta, của bộ Majjhima Nikàya, Trung A Hàm.
[26] Sách Visuddhi Magga nói rằng
cả hai cụm từ "minh sát quy nạp" và
"thấu đạt từng nhóm"
đều cùng là tên của một loại tuệ Minh Sát. Theo bản chú giải của Visuddhi
Magga, sách Paramattha Manjusà, cụm từ "minh sát quy nạp" được dùng
ở Tích Lan, còn cụm từ "thấu đạt từng nhóm" thì được dùng ở Ấn Độ.
[27] Mười Ô Nhiễm Của Tuệ Minh Sát
(vipassanùpakkilesa), đầu tiên được đề cập đến trong sách
Patisambhidà Magga (PTS, tập 11, trang100) và sau đó được giải thích trong
sách Visuddhi Magga, Thanh Tịnh Đạo (do Ngài Nànamoli Thera phiên dịch,
trang 739). Đây là mười ấn chứng phát sanh khi hành giả đạt đến Tuệ
Sanh Diệt. Mười ấn chứng nầy vốn là thiện pháp, nhưng nếu không thận trọng
hành giả có thể lầm tưởng rằng mức độ tiến bộ khá cao nầy là Thánh Quả rồi
phát tâm ưa thích và luyến ái, thì nó trở thành chướng ngại (hay ô nhiễm)
trên con đường thành tựu Tuệ Minh Sát.
[28]
Năm loại phỉ lạc
(pìti) được đề cập đến trong sách Thanh Tịnh Đạo là: 1. phỉ lạc
chút ít, không quan trọng như rởn óc, mát mẻ v.v... 2. phỉ lạc tạm thời,
chỉ phát sanh trong chốc lát cảm nghe như có kiến bò trong mình hay ruồi
bu v.v... rồi dứt, 3. cảm nghe như nước tràn ngập, sóng vỗ vào mình v.v...
4. cảm nghe nhẹ nhàng, có khi thân hỏng lên khỏi tọa cụ, 5. cảm nghe trạng
thái mát mẻ thấm nhuần cùng khắp châu thân.
[29] Đoạn nầy đề cập đến sáu cặp những yếu
tố liên quan với phẩm chất của các sinh hoạt tâm linh mà theo Vi Diệu
Pháp, có mặt trong tất cả các loại tâm thiện, mặc dầu ở mức độ khác nhau.
Cặp đầu tiên là trạng thái an tĩnh của tâm vương và các tâm sở đồng phát
sanh. Năm cặp khác là những loại tâm ít nhiều liên quan đến trạng thái nhẹ
nhàng, nhu thuận (mềm dẽo, không thô cứng), thích ứng (có đặc tánh tiêu
trừ trạng thái không dùng được như tham ái, oán ghét, hoài nghi), tinh
luyện (có đặc tánh tiêu trừ trạng thái ương yếu), và chánh trực (ngay
thẳng, không quanh co), cùng với những tâm sở đồng phát sanh. Muốn có thêm
chi tiết đọc Abhidhamma Studies, tác giả Nyanaponika Thera (ấn bản
thứ nhì, Buddhist Publication Society), trang 81 trở lên.
[30] Sáu loại chướng ngại tâm linh nầy bị
loại trừ do sáu cặp những yếu tố trên (được đề cập ở chú giải số 29 và
những câu kế tiếp trong bài)
[31] "Không có sinh hoạt nào khác",
đoạn nầy hàm ý là không có suy tư, tưởng tượng, hồi nhớ v.v... chỉ nhất
tâm chú niệm, có ghi nhận suông.
[32] "Hướng tâm về", ở đây là giai
đoạn sơ khởi trong lộ trình tiến triển của một tư tưởng, giai đoạn "hướng
về" đối tượng. Nói cách khác, đây là chặp tư tưởng "ý môn hướng tâm" trong
lộ trình tâm, như được phân tích trong Vi Diệu Pháp.
[33]
Đạo và Quả Siêu Thế
là các tầng Thánh: Nhập Lưu, Nhứt Lai, Bất Lai, A La Hán. Khi thành tựu
tầng thứ nhứt, Đạo và Quả Nhập Lưu, chỉ còn tái sanh tối đa là bảy lần.
[34] Khái niệm về hình thể (santhàna
pannatti). Hai loại khái niệm kia là khái niệm về cá thể, tức do sự
liên tục tiếp diễn (continuity) của chuỗi dài những hiện tượng, ta có
khái niệm về một cá nhân (santati pannatti), và khái niệm tổng hợp
(sammùha pannatti), phát sanh do sự cấu hợp thành nhóm
(agglomeration) của những hiện tượng.
[35]
"ý niệm về những tánh chất đặc biệt của nó",
câu nầy giải rộng ý nghĩa của danh từ Pàli nimitta được dùng ở đây,
có nghĩa dấu hiệu, ký hiệu, tánh chất đặc biệt, hình ảnh hay ý niệm đặc
biệt.
[36]
"Với những hình thể đặc thù cấu thành nó"(sa-viggaha):
rõ ràng, đặc biệt (vi-) có thể nắm lấy (gaha) hình thể
của một vật.
[37] Trạng thái kinh sợ,
bhay-upatthàna. Danh từ "bhaya" ở đây hàm xúc cả hai sắc thái
-- chủ quan và khách quan -- của sự kinh sợ. Hành giả cảm nghe sợ hải (sắc
thái chủ quan), và mối hiểm họa đáng kinh sợ của đối tượng (sắc thái khách
quan).
[38] Điểm nầy hàm xúc những tuệ giác được
trình bày trong đoạn tới (từ tuệ thứ 7 đến tuệ 11)
[39] Nirojà theo nghĩa đen là không
có bản chất dinh dưỡng
[40]
Tuệ Đưa Vượt Lên,
theo sách Thanh Tịnh Đạo, Vissuddhi Magga, là mức độ phát triển tuyệt đỉnh
của tuệ minh sát, và giống y hệt như ba tuệ: Xả Hành, Muốn Giải Thoát và
Quán Chiếu Trở Lại. Được gọi là "Đưa Vượt Lên" bởi vì từ sự quán chiếu các
pháp hữu vi, tuệ nầy vượt trổi lên đến Thánh Đạo, lấy Niết Bàn làm đối
tượng.
[41] Tuệ Thuận Thứ. Theo sách Thanh
Tịnh Đạo (Visuddhi Magga) Tuệ Thuận Thứ được gọi như vậy vì nó sanh khởi
điều hòa và thuận chiều theo những trạng thái tâm trước và trạng thái tâm
sau kế liền đó. Tự nó thuận chiều theo tám tuệ minh sát trước đó cùng với
những cơ năng cá biệt của từng tuệ giác và thuận chiều theo ba mươi bảy
Phẩm Trợ Đạo (cũng gọi là Bồ Đề Phần, hay ba mươi bảy yếu tố của sự giác
ngộ) tiếp theo sau.
[42] Tuệ Chuyển Tánh (Gotrabhu
nàna), đúng theo nghĩa từng chữ, là tuệ giác của người đã trở thành
một (phần tử) trong huyết thống "gotra". Vị hành giả đã đạt đến
tầng nầy bỏ lại phía sau giai đoạn tại thế, và bước vào dòng dõi của hàng
Thánh Nhân, tức Tu Đà Huờn v.v... Đến đây tuệ minh sát đã chín mùi đầy đủ
để nhập vào Thánh Đạo và Thánh Quả. Tuệ Chuyển Tánh chỉ phát sanh trong
một chặp tư tưởng, và không còn trở lại, bởi vì tức khắc sau đó chặp tâm
Đạo Tuệ liền phát sanh.
[43] Đạo Tuệ, Magga Nàna, là
tuệ giác có liên quan đến bốn Thánh Đạo: Tu Đà Huờn Đạo, Tư Đà Hàm Đạo
v.v... Nơi đây, trong đoạn nầy, chỉ hàm xúc Tu Đà Huờn Đạo. Cũng như Tuệ
Chuyển Tánh, Đạo Tuệ chỉ tồn tại trong một chặp tư tưởng, và tức khắc sau
đó liền phát sanh Quả Tuệ. Quả Tuệ là hậu quả tức khắc của Đạo Tuệ, có thể
lặp đi lặp lại nhiều lần (trong khi ấy Đạo Tuệ chỉ phát sanh một lần duy
nhất), và cũng có thể tùy theo ý muốn của hành giả mà phát sanh, bằng cách
"Chứng Quả".
[44] Đoạn nầy có nghĩa là giờ đây Niết Bàn
đã trở thành đối tượng được trực tiếp chứng nghiệm chớ không còn là một
khái niệm do tưởng tượng tạo nên.
[45] Tuệ Duyệt Xét Ô NhiễmTrở Lại
vẫn còn, cho đến tầng A La Hán, tầng Thánh mà khi thành tựu, đã tận diệt
tất cả mọi nhiễm ô. Không nhất thiết, nhưng ô nhiễm vẫn còn có thể khởi
sanh trong ba tầng Thánh đầu tiên (Tu Đà Huờn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm).
[46] Xem Chú Giải số 43
[47]
Ngũ căn
là: tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn và tuệ căn. Muốn có thêm chi tiết
xin đọc The Way of Wisdom, tác giả Edward Conze (The Wheel số
65/66, Buddhist Publication Society, Kandy)
-ooOoo-
Ðầu trang | Anh ngữ |
|