BuddhaSasana Home Page Lịch sử Kết tập Kinh điển và Truyền giáo Tỳ kheo Thiện Minh
Tất cả con người và vạn
vật trong Tam giới đều phải chịu sự chi phối của định lý vô thường. Ðại
Ðức Sarìputta và Moggallana là hai vị đại đệ tử của Ðức Phật đúng thời
điểm cũng phải xin đức Phật nhập diệt. Rồi lần lượt không bao lâu, khi Ðức
Phật đúng 80 tuổi đời, 45 tuổi đạo, Ngài cũng giã từ Tứ chúng để an hưởng
quả vị Vô Dư Níp-bàn. Sự viên tịch của Ðức Phật và hai vị đại đệ tử là một
mất mát to lớn cho hàng Tứ chúng. Kể từ khi vắng đức Phật và các đại đệ
tử, Phật giáo thường phải đối đầu với những tình trạng đen tối với những
diễn dịch sai lạc, bên cạnh đó chưa kể đến những thành phần bất hảo trong
Tăng đoàn. Tuy nhiên may mắn có những vị Trưởng lão Thánh Tăng từng thời
kỳ đã mang trách nhiệm và quan tâm đến việc gìn giữ và phát huy nền đạo
pháp. Do đó, những thời kỳ kết tập kinh điển ra đời để bảo tồn các lời dạy
của Đức Phật.
1.1 Ðại Hội Kết Tập Ðiển Kinh Lần Thứ Nhất a) Nguyên nhân: Ngài Mahakassapa nhận thấy Ðức Thế Tôn
nhập Níp-bàn mới có một tuần lễ mà lại có chuyện không hay xảy ra trong
Tăng đoàn. Chuyện là lúc ngài Mahakassapa và năm trăm Tỳ khưu đang chu du
truyền đạo ở Pàvà và nghe tin loan truyền từ người này sang người nọ, là
Ðức Thế Tôn viên tịch. Trước tin chẳng lành đó một số Chư Thánh Tăng điềm
nhiên trong oai nghi tế hạnh, còn một số phàm Tăng thì buồn bã tiếc nuối
bậc đạo sư rằng: "Sao Thế Tôn vội Níp-bàn sớm, ánh sáng chân lý và pháp
nhãn biến mất ở đời!" Rồi Chư Thánh Tăng an ủi và khuyến khích Chư Phàm
Tăng bằng thuyết vô thường. Tuy nhiên lúc đó có một vị Tỳ khưu lớn tuổi và
mới xuất gia tên là Subhada chưa có niềm tịnh tín nơi bậc Đạo sư nên có
những thái độ và những lời nói bất kính với Ðức Phật như sau: - "Này các bạn! Tại sao các vị thương tiếc
nhiều đến Ðức Phật làm chi, Ngài đã viên tịch rồi thì chúng ta về sau sống
thoải mái hơn lúc trước nhiều, không còn nghe những lời khuyên răn trách
cứ nữa: 'Hãy như thế này, hãy như thế kia ...'. Kể từ hôm nay chúng ta
muốn làm gì thì làm, không còn bị ràng buộc bởi các giới luật, vì Ðức Phật
đã viên tịch rồi". Câu nói của vị Tỳ khưu già đó tỏ ra xem
thường giáo pháp và chưa gì thì muốn tách rời pháp luật của bậc đạo sư.
Ngài Mahakassapa nghe như vậy cảm thấy xót xa và lo ngại cho tiền đồ của
Phật giáo, nhưng Ngài làm ngơ để lo chu toàn việc an táng Ðức Thế Tôn. Sau
khi an táng Thế Tôn xong, Ngài đem câu chuyện ấy trình bày lên Tăng chúng
và nói lên sự lo ngại cho nền đạo pháp về sau:
- Nếu vậy thì từ nay phi pháp, phi luật sẽ
phát huy, pháp và luật sẽ suy đồi; chủ trương phi pháp, phi luật sẽ nhiều,
còn những chủ trương pháp luật sẽ bị giảm thiểu. Cho nên với tư cách là một vị tăng được
Ðức Thế Tôn ban cho là đệ tử nhứt về "Hạnh đầu đà", ngài Mahakassapa không
muốn đạo pháp mai một về sau, và liền đứng ra triệu tập 500 vị Thánh Tăng
để kết tập. Tuy nhiên Ngài chỉ tuyển chọn được 499 vị nghĩa là còn thiếu
một vị nữa. Ngài thấy không vị nào ngoài Ðại Ðức Ananda được, vì Ðại Ðức
là một vị làu thông Phật ngôn do Ðức Thế Tôn thuyết giảng trong suốt 45
năm. Tuy nhiên, Ðại Ðức chưa phải là bậc Thánh A La Hán vô lậu nên ngài
Mahakassapa động viên Đại Đức, và chờ Đại Đức khi nào đạo quả viên mãn thì
cuộc kết tập mới khai mạc. b) Niên đại, địa điểm, vị chủ tọa và người
bảo trợ Niên đại chính xác của đại hội kết tập
kinh điển lần thứ nhất là sau ba tháng Ðức Thế Tôn viên tịch. Ngài Mahakassapa triệu tập đầy đủ 500 vị A
La Hán với nhau tại thạch động Sattapanna trên núi Vebhàra ở thành
Ràjagaha để kết tập Phật ngôn.
Sau khi tuyển chọn thành phần kết tập và
đã có địa điểm sẳn, Ngài Mahakassapa bắt đầu Tụng tuyên ngôn và đề nghị
với Chư Thánh Tăng ba điều:
- Số lượng tham dự kết tập kỳ này chỉ chọn
500 vị mà thôi, trong thời gian kết tập không được thêm hoặc bớt. - Chọn thạch động Sattapanna trên núi
Vebhàra trong thành Rajagaha là địa điểm kết tập.
- Cấm tuyệt đối những vị Tỳ khưu nào không
phải là thành viên kết tập kinh điển đến an cư kiết hạ mùa mưa tại thành
Rajagaha. Lý do như vậy là đề phòng hai điều xảy ra: a) chư vị kết tập sẽ
gặp khó khăn trong vấn đề đi khất thực; b) phòng ngừa sẽ có những vị ác
tâm đến phá cuộc kết tập kinh điển.
Chư Thánh hiền Tăng đã thỏa thuận với nhau
ba điều trên, rồi cùng nhau kéo đến thành Rajagaha yêu cầu nhà vua A Xà
Thế (Ajaratthu) giúp đỡ bằng cách cho nới rộng 18 Tăng đường cho chư vị
kết tập có chổ nghĩ ngơi. Ðức vua hoan hỷ nhận lời và đứng ra bảo trợ toàn
bộ chi phí cuộc kết tập kinh điển.
Lúc này Ðại Ðức Ananda cũng vừa đắc quả vị
A La Hán nên đại hội bắt đầu khai mạc. Người chủ tọa kết tập Tam tạng lần
thứ nhất là Trưởng lão Mahakassapa, đồng thời Ngài cũng là vị Vấn đạo sư
về pháp luật. Trưởng lão Upàli đã từng được Ðức Phật tuyên dương trước đại
chúng là đệ nhất về trí luật và đã thông thạo những điều giới luật Ðức
Phật đã đặt ra, về thời gian, địa điểm và đối tượng phạm giới lúc Ngài còn sinh
tiền, cho nên Ngài được chọn là vị đáp những câu hỏi của ngài Mahakassapa.
Còn Trưởng lão Ananda vốn đệ tử nhứt của Ðức Phật về hạnh đa văn, am tường
những bài thuyết của Ðức Thế Tôn trong suốt 45 năm, do đó Chư Thánh Tăng
chọn Ðại Ðức làm vị đáp về Kinh tạng lẫn Vi Diệu tạng.
c) Phương pháp kết tập Trước tam vị tuyên ngôn xác định vai trò
và vị trí của mình trong cuộc kết tập mà được Chư Thánh hiền tăng đã chọn
lựa, ngài Mahakassapa lần lượt nêu từng điều luật tỉ mỉ và chi tiết như
sau: "Này hiền giả Upàli! Nguyên nhân thế nào Thế Tôn cấm chế điều luật
này? Ai phạm? Ðiều phụ chế của điều luật ấy thế nào? Thế nào là sự phạm
tội trong những điều luật này?". Ngài Upàli căn cứ trên những câu hỏi ấy
mà đáp một cách rành mạch, theo thứ lớp. Mỗi câu trả lời của Ngài Upàli,
Chư Thánh Tăng cùng tụng lại điều luật ấy. Nếu không thấy sự lầm lẫn gì
trong câu đáp, các Ngài nhất trí nhau tuyên bố rằng đây là điều luật Thế
Tôn cấm chế và ban hành. Áp dụng cách thức kết tập như vậy cho đến hết
phần Luật tạng, và trong đại hội kết tập lần thứ nhất này phân Luật tạng
ra làm năm phần lớn: Àdikamma, Pàcittiya, Mahàvagga, Cullavagga, Parivàra. Khi kết tập phần Kinh tạng, các Ngài nhất
trí là bắt đầu bằng bài kinh Phạm Võng (Brahmajàlla sutta). Ngài
Mahakassapa vấn như sau: "Này hiền giả Ananda! Nguyên nhân nào mà Thế Tôn
thuyết bài kinh này? Ðịa điểm ở đâu? Ðối tượng thuyết giảng là ai? Nội
dung của từng bài kinh là gì?" Ðại Ðức Ananda trả lời xong, rồi Chư Tăng
bắt đầu cùng nhau tụng lại và xác nhận đây là lời của Thế Tôn. Cách thức
như vậy cho đến phần Kinh tạng, đồng thời trong kỳ kết tập này các Ngài
cũng phân ra năm bộ Nikàya. Cuộc kết tập này kéo dài bảy tháng mới hoàn
thành. Sau cuộc kết tập, Ðại Ðức Ananda có bạch
với Chư Thánh Tăng rằng lúc Như Lai sắp sửa viên tịch, Ngài có dạy: "Khi
ta viên tịch các vị có thể bỏ bớt những giới học nào không quan trọng".
Ngài Mahakassapa hỏi Ðại Ðức Ananda học giới nào là không quan trọng, ngài
Ananda trả lời vì lúc Ðạo sư Níp-bàn, Ðại Ðức quá bận rộn nên không hỏi
điều đó. Ngài Mahakassapa với tư cách là chủ tọa liền tụng tuyên trước Chư
Thánh Tăng như vầy: "Kính bạch Chư Tăng, vấn đề giới luật rất quan trọng,
nó liên quan đến đời sống của sa môn, nhưng Thế Tôn trước khi viên tịch
không nói rõ điều nào không quan trọng. Vì vậy cho nên kính xin Chư Thánh
hiền Tăng từ nay về sau Chư vị đừng thêm mà cũng đừng bớt học giới nào mà
Thế Tôn đã chế định, cứ vậy mà thực hành". 1.2. Ðại Hội Kết Tập Kinh Ðiển Lần Thứ Hai a) Nguyên nhân: Do sự bất đồng 10 điều giới luật giữa nhóm
Tỳ khưu Vajjputta và Ngài Yassakàkandaputta. Nhóm Tỳ khưu ở Vesàli không
hành trì 10 điều học quá lâu nên dân làng xứ Vajji cũng đã quen với nếp
sống của chư vị ở đây. Thường xuyên họ đem vàng bạc châu báu cúng dường
cho chư vị và họ suy nghĩ đây là sự cúng dường đúng pháp và giới luật.
Không may, một hôm nọ Ngài Yassa, một vị Thánh Tăng, từ Kosambì đi đến
Vesàli, tình cờ chứng kiến cảnh chư Tỳ khưu nhóm Vajjiputta tự do nhận
vàng bạc từ sự cúng dường của chư thiện nam tín nữ. Ngài khiển trách thiện
tín và khuyên chư tăng không nên thọ dụng vàng bạc như vậy, điều đó sẽ
không đúng với luật pháp của Ðức Phật, nhưng họ không nghe lời dạy của
Ngài Yassa. Sau khi thọ dụng vàng bạc xong, họ phân chia với nhau theo hạ
lạp, và lẽ cố nhiên họ cũng đem đến cúng dường Ngài Yassa một phần, nhưng
Ngài không nhận mà còn khiển trách việc làm của các vị một lần nữa. Nhóm Tỳ khưu Vajjiputta thấy thái độ của
Ngài Yassa làm như vậy quá đáng nên họp chư tăng lại tuyên ngôn xử phạt
Ngài Yassa theo Patisàranìyakamma, nghĩa là bắt Ngài Yassa phải đi xin lỗi
việc làm của Ngài xúc phạm đến niềm tin của cư sĩ; và lúc Ngài đi xin lỗi
phải có Tỳ khưu đại diện của phái họ đi theo để làm chứng. Trước áp lực đa
số hơn thiểu số, nên Ngài đành phải đi xin lỗi từng nhà. Tuy nhiên Ngài
vừa xin lỗi vừa giải thích giới luật của Chư Tăng cho các cư sĩ hiểu. Ngài
xác định với họ rằng việc làm của nhóm Tỳ khưu Vajjiputta là hoàn toàn
không đúng với tinh thần giới luật của Ðức Phật. Ngài lập lại câu Phật
ngôn cho các cư sĩ nghe: "Này các quí vị! Mặt trăng, mặt trời không
tỏ sáng được là do mây che, mù sương, vi trần và thần Rahu che khuất. Vị
Tỳ khưu trong giáo pháp của Ðức Phật không sáng chói được là do những
nguyên nhân: uống rượu, hành dâm, thọ lãnh và cất giữ vàng bạc, sống tà
mạng làm thầy này thầy nọ". Nhóm cư sĩ hoan hỷ với lời giảng dạy của
Ngài Yassa, họ xin lỗi việc làm của mình, và nhận ngài Yassa làm thầy để
học hỏi và lễ bái cúng dường. Tuy nhiên, vị Tỳ kheo tháp tùng đi theo Ngài
Yassa đem chuyện đó nói lại cho nhóm Tỳ khưu Vajjiputta. Các vị nghe thế
quyết định lấy số đông tuyên ngôn xử phạt Ngài Yassa một lần nữa theo cách
Ukkhepanìyakamma, nghĩa là cô lập mọi sinh hoạt của Ngài. Sau đó, tất cả
các vị đó cùng nhau kéo đến nơi cư ngụ của Ngài. Nhưng qua thần thông của
một vị A La Hán nên Ngài đã đi tự thuở nào rồi. Trên đường đi Ngài suy tư, nếu như ta làm
ngơ chuyện này thì giáo pháp của bậc đạo sư sẽ bị mai một và số vị ác Tỳ
khưu sẽ gia tăng. Cho nên, Ngài không màng gian lao đi vào thành Pàthà,
Avantì, và Dakkhinàpatha để thông báo cho Chư Tăng biết những chuyện phi
pháp luật của nhóm Tỳ khưu ở thành Vesàli với ý dụng là để giải quyết. Sau
đó nữa, Ngài vân du lên núi Adhogangà để bạch chuyện đó cho Trưởng lão
Sànasambhuta, ngài Trưởng lão này hoàn toàn nhất trí với Ngài Yassa là
hành vi của nhóm Tỳ khưu ở Vesàli làm như vậy là sai pháp luật. Sau đó, 60 vị A La Hán ở thành Pàthà và 80
vị ở thành Avantì và Dakkhinàpatha cùng nhau họp ở núi Adhogangà, với Ngài
Yassa và Trưởng lão Sànasambhùta. Chư vị đều nhất trí với nhau rằng việc
này nên thỉnh Ngài Revata, một bậc thánh tứ quả làu thông Phật ngôn để làm
chủ tọa giải quyết chuyện lộn xộn ở thành Vesàli. Ban đầu Ngài Revata
không đồng ý, nhưng sau đó Ngài đồng ý. Sở dĩ Ngài đồng ý là vì Trưởng lão
Sànasambhùta trình bày cho Ngài biết về 10 điều sai trái của các vị Tỳ
khưu ở thành Vesàli, yêu cầu Ngài giải quyết chuyện này, và sau hết là kết
tập Phật ngôn như các vị tiền bối đã làm. b) Niên đại, địa điểm, vị chủ tọa và người
bảo trợ Một trăm năm sau khi Ðức Thế Tôn viên
tịch, nhóm Tỳ khưu ở thành Vesàli không duy trì 10 điều học do Ðức Phật
ban hành, nên các vị Thánh Tăng tuyệt đối cấm các vị Tỳ Khưu không được
hành động nữa và đem chuyện này xử trước đại chúng tăng.
Sự việc này xảy ra ở thành Vesàli trong
chùa Vàlukàràma, do đó, Chư Thánh hiền Tăng cũng chọn địa điểm này để giải
quyết chuyện lộn xộn về giới luật và đồng thời cũng chọn ngôi chùa này để
kết tập Tam Tạng lần thứ hai.
Người chủ trương đầu tiên công việc này là
Ngài Yassa, tuy nhiên người chủ tọa để giải quyết nhóm Tỳ khưu Vajjiputta
thuộc phái Puràna không hành trì 10 điều học là Ngài Revata, và Ngài cũng
là vị chủ tọa cuộc kết tập Tam Tạng lần thứ nhì. Tỳ khưu Vajjiputta có lần đến yêu cầu Ngài
Revata che chở việc làm của mình, nhưng bị Ngài khiển trách. Cho nên các
vị theo phe Vajjiputta cùng vào hoàng cung yết kiến nhà vua Kàkàsoka và
bạch dối với nhà vua rằng khi họ trông coi tịnh xá thì có nhóm Tỳ khưu
khách đến có ý định chiếm chùa, Vua không hiểu đầu đuôi câu chuyện nên ra
lệnh cấm các vị Thánh Tăng không được vào chùa Valukàràma. Đêm đó, Vua nằm
mơ thấy quỷ sứ dưới địa ngục bắt Ngài bỏ vào chảo đồng. Lúc Vua tỉnh dậy
thì lo âu và sợ hãi, và sáng hôm sau em gái Vua là vị Thánh Ni Nandà vào
gặp Vua và giải thích đâu là đúng, đâu là sai cho Vua nghe. Thánh Ni Nandà
đề nghị nhà vua nên ủng hộ Chư Thánh Tăng để chấn hưng Phật giáo, và Vua
đồng ý. Vì vậy, người bảo trợ kết tập kinh điển lần thứ hai tại Vesàli là
Ðức vua Kàkàsoka. c) Phương pháp kết tập Trước khi chính thức kết tập kinh điển,
Ngài Revata tuyên ngôn bầu một ban giám luật gồm có: - Trưởng lão Sabbakàmì, Salha,
Khujjasobhita, và Vàsabhagàmì. Bốn vị này đóng vai trò đại diện cho phe bị
cáo nhóm Tỳ khưu phạm giới.
- Trưởng lão Sànasambhùta, Sumana, Yassa,
và Kàkandaputta đóng vai trò tuyên cáo, các vị này đại diện phần chấp pháp
để đối chất và giải quyết những người phạm luật. Ðiểm chú ý nơi đây, là Ngài Vàsabhagàmì và
Sumana là đệ tử của Ngài Anuruddha, còn 6 vị còn lại là đệ tử của Ngài
Ananda, mà các ngài Anuruddha và Ananda đều là những vị có tầm cở trong
đại hội kết tập kinh điển lần thứ nhất.
Bốn vị đại diện cho phe bị cáo và bốn vị
đại diện cho Chư Tăng trong ban giám luật. Thế là Ngài Revata nêu ra từng
điều một trong 10 điều chủ trương sai của phái Tỳ khưu Vajji để hỏi Ngài
Sabbakàmì: Ðiều sai trái thứ nhất, Ngài Sabbakàmì trả
lời rằng vị Tỳ khưu nào giữ muối riêng để dùng thì phạm tội Ưng đối trị. Ðiều sai trái thứ hai, Ngài Sabbakàmì trả
lời rằng ăn sái giờ là phạm tội, bất luận lúc đó là mặt trời chênh qua bao
nhiêu. Ðiều sai trái thứ ba, Ngài Sabbakàmì trả
lời rằng sau bửa ăn chính, vị nào còn dùng thêm một lần nữa thì phạm tội
Ưng đối trị. Ðiều sai trái thứ tư, Ngài Sabbakàmì trả
lời rằng khu vực Sìma, Chư Tăng không được chia ra làm nhiều nhóm để làm
lễ phát lồ. Ðiều sai trái thứ năm, Ngài Sabbakàmì trả
lời rằng theo Campeyyakhandhaka, các Tăng sư Chư Tỳ khưu phải vào một lượt
để cùng hành không được vào xen kẻ. Ðiều sai trái thứ sáu, Ngài Sabbakàmì trả
lời rằng không nên căn cứ theo thầy tế độ và giáo thọ sư mà mọi việc nên y
cứ theo kinh luật luận làm tiêu chuẩn để tu tập.
Ðiều sai trái thứ bảy, Ngài Sabbakàmì trả
lời rằng nếu vị nào không có bịnh hoạn mà sau giờ ngọ dùng sửa chua đặc
thì phạm tội Pàcittiya (Ưng đối trị). Ðiều sai trái thứ tám, Ngài Sabbakàmì trả
lời rằng vị Tỳ khưu tuyệt đối không được dùng rượu, dù rượu ở bất nồng độ
nào. Ðiều sai trái thứ chín, Ngài Sabbakàmì trả
lời rằng vị Tỳ khưu không được dùng tọa cụ không có biên, vị nào dùng thì
phạm tội. Ðiều sai trái thứ mười, Ngài Sabbakàmì trả
lời rằng vị Tỳ khưu nào cất giữ vàng bạc cho cá nhân thì phạm tội Ưng xả
đối trị, nếu phạm thì xã bỏ tất cả rồi sám hối mới hết tội. Mỗi câu trả lời của Ngài Sabbakàmì, Chư
Tăng xác nhận là đúng theo quan niệm của Ðức Phật đồng thời Chư Tăng cũng
tuyên bố rằng chủ trương của nhóm Tỳ khưu phá giới hành động theo 10 điều
phi pháp đó hoàn toàn sai lầm để cho đại chúng hiểu biết và am tường. Sau khi Ngài Revata điều chỉnh 10 điều phi
pháp luật của nhóm Tỳ khưu Vajjiputta xong, 700 vị Thánh Tăng vô lậu bắt
tay vào công việc kết tập Phật ngôn. Phương pháp kết tập kỳ này giống như
kỳ kết tập kinh điển lần thứ nhất, tuy nhiên kỳ kết tập kỳ này thời gian
kéo dài đến 8 tháng.
1.3 Ðại Hội Kết Tập Kinh Ðiển Lần Thứ Ba a) Nguyên nhân: Theo nhiều tài liệu, nhất là tài liệu
Mahavamsa (Ðại sử), trong triều đại vua Asoka, Phật giáo được xem là quốc đạo, Chư
Tăng được nhiều sự ưu ái, các tu sĩ ngoại đạo cũng thừa lúc này xuất gia
theo đạo Phật rất nhiều. Thế nhưng tổ chức tăng đoàn chưa chặt chẽ, nội bộ
Chư Tăng không đoàn kết, thường bất hòa, không tin tưởng nhau. Về mặt giới
luật có phần lỏng lẻo, có nơi thậm chí trong bảy năm trời Chư Tăng chưa hề
họp mặt nhau một lần để làm lễ Bố Tát (Uposattha). Chuyện này thấu đến tai
vua, vua cử một vị đại thần đến nhắc nhở Chư Tăng nhưng Chư Tăng vẫn không
vâng lệnh Vua. Cho nên vị đại thần rất tức giận, ra lệnh sát hại nhiều
tăng sĩ. Ngài Moggalliputta-Tissa thấy vậy liền trực tiếp ngăn cản. Vị đại
thần không dám giết Ngài và quay về báo cáo nhà vua. Vua nghe tin, rất lo
sợ vì cho rằng mình đã tạo một trọng nghiệp, nhúng tay vào vụ thảm sát Chư
Tăng.
Nhà vua rất hoang mang về chuyện xảy ra
trong hàng ngũ Tăng già và Ngài đem chuyện này hỏi các vị cao tăng, nhưng
mỗi người giải thích theo một cách, tất cả những vị này đều không đáp ứng
thỏa mãn của nhà vua. Cuối cùng, đức vua tìm đến Ngài Thánh Tăng
Moggalliputta-Tissa. Vị này giải thích cho vua hiểu: - "Này đại vương nếu
chuyện đó Ngài không cố ý ra lệnh thì Ngài không có quả báo ác, còn như
Ngài cố ý ra lệnh thì Ngài sẽ chịu quả báo ác. Vì Ðức Phật có dạy: Nghiệp
là sự cố ý, chỉ có cố ý mới tạo nghiệp". Lời khuyên của Thánh Tăng Tissa
có phần làm cho Vua Asoka bớt lo âu về luật nhân quả. Nhân cơ hội này,
Ngài giải thích cho vua hiểu thế nào là chánh pháp của Ðức Phật, thế nào
là phi pháp luật, đồng thời Trưởng lão cũng giải thích những hoài nghi của
nhà vua về chánh pháp. Ðức vua rất hoan hỷ về lời dạy của Trưởng lão, và
nhà vua hứa sẽ hỗ trợ Ngài chỉnh đốn hàng hàng ngũ Tăng già. Công việc này
rất nhiêu khê, không thể dùng tăng lệnh mà phải dùng cả vương lệnh nữa.
Ngoại đạo lúc này tu theo Phật giáo rất nhiều, họ có dụng ý thành lập một
bộ phái mới chủ trương giới luật và tri kiến hoàn toàn khác biệt với tinh
thần của đạo Phật. Chư Thánh Tăng biết được ý đồ của bọn ngoại đạo trà
trộn vào Phật giáo nên chư vị kết hợp với nhà vua Asoka thanh lọc hàng ngũ
Tăng già. Qua sự trắc nghiệm của chư vị Thánh Tăng, nếu vị nào không phải
là tu sĩ Phật giáo thật sự thì bị trục xuất ra khỏi giáo hội, và được cấp
phát quần áo để trở lại đời sống thường dân. Theo tài liệu Mahavamsa và
Samantapàsàdikà, trong cuộc thanh lọc này có khoảng 60.000 tu sĩ giả danh
bị trục xuất ra khỏi tăng đoàn. Sau khi thanh lọc giáo hội xong, vua hứa
với vị Thánh Tăng rằng nếu sau này có nhu cầu chi liên quan với Phật pháp
thì Ngài sẽ ủng hộ hết mình. Nhân lời tác ý của nhà vua, Trưởng lão
Moggalliputta-Tissa đề nghị nhà vua yểm trợ Chư Tăng để kết tập Phật ngôn.
Nhà vua hoan hỷ nhận lời. b) Niên đại, địa điểm, vị chủ tọa và người
bảo trợ Niên đại kết tập nếu tính theo Phật lịch
thì có nơi nói là năm 218, có nơi nói là 234. Lại có tài liệu khác nói là
vào năm 287. Có lẽ tài liệu này nói đúng vì dựa vào thời gian trị quốc của
các vị vua. Chư Thánh Tăng chọn ngôi chùa Asokàràma ở
kinh thành Pàtaliputta phía nam hoàng cung của nhà vua làm địa điểm kết
tập kinh điển lần thứ ba.
Ngài Thánh Tăng Moggalliputta-Tissa được
Chư Tăng thỉnh cử làm vị chủ tọa kết tập Phật ngôn kỳ này. Ngài Moggalliputta-Tissa chọn 1000 vị kết
tập Phật ngôn. Thời gian kéo dài 9 tháng. Các chi phí trong cuộc kết tập
được Vua Asoka hoàn toàn tài trợ cho Chư Tăng.
c) Phương pháp kết tập Theo các vị Thánh Tăng ghi lại thì Trưởng
lão Moggalliputta-Tissa xuất thân là một vị Phạm Thiên do hai vị Thánh
Tăng Siggava và Candavajji thỉnh cầu xuống cõi nhân loại để chấn hưng Phật
giáo. Vì hai vị Thánh Tăng này không có mặt không kỳ kết tập kinh điển lần
thứ nhất nên Chư Tăng giao nhiệm vụ trên cho nhị vị. Ngài Tissa giáng sinh
xuống cõi được 7 tuổi thì Trưởng lão Giggava tế độ cho xuất gia sa di và
dạy Phật pháp căn bản. Lúc hai mươi tuổi, Ngài Candavajji cho thọ cụ túc
giới và dạy Tissa những giáo lý cao siêu. Không bao lâu Ngài am tường Tam
tạng và đắc quả A La Hán, với tuệ phân tích. Khi ngoại đạo lộng hành trong
Phật giáo, Tăng già bất hòa nhau vì những vị chơn chánh không chịu làm lễ
Bố Tát với những tu sĩ ngoại đạo, vua Asoka phái nhiều phái đoàn thỉnh cầu
Ngài ở núi Adhoganga ra chấn hưng Phật giáo và làm chủ tọa kỳ kết tập kinh
điển lần thứ ba.
Cách thức kết tập kinh điển kỳ này cũng
giống như hai kỳ trước nhưng có một vài điểm khác nhau. Ngài chủ tọa cuộc
kết tập nêu ra những quan điểm và tri kiến sai lầm của các bộ phái qua ba
trăm vấn đề về giáo lý. Ngài dựa vào bộ phái gốc Theravàda để bác bỏ các
luận cứ sai lạc đó, và cho kết tập vào bộ Kathàvatthu của tạng Vi Diệu
Pháp - Abhidhamma. Ðiều chúng ta nên lưu ý ở đây là trong hai
kỳ kết tập Tam tạng đầu, chư vị A La Hán chỉ ghi bằng ký ức và truyền
miệng thôi, nhưng có giả thuyết cho rằng trong lần kết tập kỳ này, Tam
tạng bắt đầu bắt đầu ghi chép bằng văn tự Pàli [theo W.Rahula, History of
Buddhism in Ceylon].Tuy nhiên giả thuyết này chưa được đa số các nhà Phật
học chấp nhận. 1.4 Ðại Hội Kết Tập Kinh Ðiển Lần Thứ Tư a) Nguyên nhân Phái đoàn truyền giáo của vua Asoka và
Thánh Tăng Moggalliputta-Tissa cử Ngài Mahinda đến truyền đạo ở xứ Tích
Lan vào khoảng năm 236-287 dưới triều đại vua Devànampiyatissa. Ðược vua
hết lòng ủng hộ, việc truyền bá chánh pháp của Ngài Mahinda ở nơi đây
thành công rực rỡ. Chẳng bao lâu, từ hoàng gia cho đến thường dân đều quy
y theo Phật giáo. Ban đầu, nhà vua ủng hộ xây dựng đại tự Mahàvihàra cho
Chư Tăng cư ngụ để hoằng pháp, đồng thời vua khuyến khích mọi người xuất
gia theo chánh pháp. Lại nữa, vua cử người sang Ấn Ðộ yêu cầu Vua Asoka cử
phái đoàn ni chúng sang Tích Lan để cho phụ nữ Tích Lan được tu theo chánh
pháp. Vị công chúa con vua Asoka là Tỳ khưu ni Sanghamittà được đề cử làm
trưởng đoàn ni chúng sang Tích Lan để đáp lại lòng mong mỏi của nhà vua
Tích Lan. Từ đó nhiều phụ nữ trong hoàng tộc lẫn thường dân xuất gia Tỳ
khưu ni dưới sự hướng dẫn của Thánh Ni Sanghamittà. Ngoài ra, Vua Asoka
còn cho chiết nhánh cây Bồ Ðề ở Bodhi-gaya, gửi cho Bà Sanghamittà mang
tặng nhà vua Tích Lan. Nhờ đó, Phật giáo lúc bấy giờ rất hùng
mạnh, và người xuất gia rất đông đảo và lại thông hiểu giáo pháp. Để củng
cố Phật giáo lâu dài tại Tích lan, Ngài Mahinda yêu cầu nhà vua cho tổ
chức kết tập Phật ngôn. b) Niên đại,địa điểm, thời gian vị chủ tọa
và người bảo trợ Về niên đại kết tập kinh điển lần thứ IV,
có rất nhiều nguồn tài liệu nói khác nhau, nhưng theo Đại sử và các nhà
học giả hiện nay thì đó là vào năm Phật lịch 313 (năm 232 trước CN).
Ngôi chùa tháp Thùpàrama ở thủ đô
Anuradhapura được Chư Tăng chọn làm điểm kết tập. Vị chủ tọa kỳ kết tập
kinh điển này chính là Ngài Mahinda. Chư Thánh Tăng tham dự đại hội gồm có
68.000 vị. Thời gian kéo dài 9 tháng. Ðức vua Devànampiyatissa là người
bảo trợ cho cuộc kết tập kinh điển kỳ này. c) Phương pháp kết tập Thánh Tăng Mahinda đến Tích Lan năm Ngài
được 32 tuổi. Nơi đây, Ngài không những truyền bá Phật giáo mà còn phát
triển nền văn hóa Tích Lan nữa, như nghệ thuật kiến trúc chùa tháp... Ngài
còn mang đến Tích Lan cả Tam tạng lẫn Chú giải (Athakathà) [theo W.
Rahula, History of Buddhism in Ceylon, p.50- 60]. Ðể bảo tồn Tam tạng và
các bản Chú giải quí giá này và để cho Chư Tăng cũng như quần chúng nước
Tích Lan thông hiểu tường tận Giáo pháp, Ngài cho tiến hành kỳ kết tập
kinh điển lần thứ tư. Thêm vào đó, nhằm cũng cố Phật giáo Theravàda tại
Tích, sau kỳ kết tập, chư vị Thánh Tăng lại trước tác thêm các bản Chú
giải Tam tạng bằng chữ Pàli Tích Lan [W. Rahula, History of Buddhism in
Ceylon, p 50- 60]. Ðược biết về sau, khoảng thế kỷ thứ 5-6 sau Công
nguyên, Ngài Buddhaghosa sang Tích Lan dịch Tam tạng chú giải này sang chữ
Pàli để duy trì ngôn ngữ Pàli truyền thống của Ðức Phật. Phương pháp kết tập kinh điển kỳ này không
có gì mới lạ, chỉ y cứ trên số Tam tạng trong cuộc kết tập kinh điển kỳ
thứ ba ở Ấn Ðộ. Ngài Mahinda và chư vị Thánh Tăng căn cứ trên cơ sở đó
trùng tuyên lại lời dạy của Ðức Thế Tôn. Tuy nhiên, theo truyền thống của Ðại Chúng
Bộ, Phật lịch khoảng năm 400, chư Thánh hiền Tăng tổ chức kỳ kết tập kinh
điển lần thứ IV tại Kasmira thuộc nước Gandhàra, miền tây bắc Ấn Ðộ [theo
báo Giác Ngộ, số 12, trang 9]. Vị chủ tọa cuộc kết tập là Ngài Vasumitra
với sự bảo trợ của Hiếp Tôn giả. Người khởi xướng và bảo trợ cuộc kết tập
là đức vua Vasumitra được biết như là vị hộ pháp tương đương với A Dục
Vương. Lý do kết tập là do Chư Tăng các bộ phái bất đồng về kinh điển nên
mới mở đại hội. Mục đích của kỳ kết tập này là để soạn ra các bộ luận:
Kinh Sở, Luật Sở và Luận Sở, gồm có 30 vạn bài tụng 9.600.000 lời. Nhà vua
định đưa 500 vị đến thạch động ở Vương Xá Thành, nơi mà Ngài Kassapa kết
tập pháp luật đầu tiên nhưng các vị từ chối và tâu rằng: "Ðại vương, không
nên. Vì ở đó có nhiều ngoại đạo, nhiều luận sư khác phái rất phức tạp ắt
sẽ gây nhiều trở ngại cho cuộc kết tập". Chính vì lý do này nên đại hội
mới tổ chức tại Kasmira. Nhưng truyền thống của Theravàda thì không công
nhận đại hội này [theo "2500 Years of Buddhism", p.42]. Ðại hội này ra đời
chính là sự khởi điểm của Phật giáo Ðại thừa (Mahayana) về sau. Song song niên đại kỳ kết tập kinh điển
của Ðại Chúng Bộ này, tại Tích Lan vua Vattagàmani cũng bảo trợ kỳ kết tập
kinh điển do Ngài Maharakkhita chủ tọa, số Chư Tăng tham dự là 500 vị Tỳ
kheo. Mục đích của đại hội là đọc lại giáo điểm Tam Tạng của Trưởng lão
bộ, hiệu đính chú thích của ba tạng, sắp xếp thứ tự của kinh điển, viết
một bộ Tam tạng trên lá buông bằng tiếng Pàli, và chú giải bằng văn Tích
Lan [theo Chattha Sangàyana CD-ROM, do S.N. Goenka thực hiện]. Tóm lại trong phần này chúng ta cần lưu ý
một số vấn đề sau:
Theo Đảo Sử, kỳ kết tập kinh-luật-luận do
Ngài Mahinda chủ tọa và đức vua Devanampiya Tissa bảo trợ thì hình thức
kết tập vẫn còn là khẩu truyền tâm thọ. Nhưng kỳ kết tập do Ngài
Maharakkhita chủ tọa và đức vua Vattagàmani bảo trợ thì kinh điển mới viết
trên lá buông. Tuy nhiên theo Hòa thượng W.Rahula, trong
quyển "History of Buddhism in Ceylon", và một số nhà học giả thì cho rằng
chẳng những kỳ kết tập Tam tạng lần thứ IV do Ngài Mahinda chủ tọa đã được
viết thành văn mà còn kỳ kết tập lần thứ III tại Ấn Ðộ cũng đã viết Tam
tạng và chú giải bằng ngôn ngữ Pàli rồi. Tài liệu này cũng đáng tin tưởng
vì thời kỳ vua A Dục đã có chữ viết, điều đó chúng ta đã thấy trong những
sắc lệnh A Dục vương và những bia của vua. Về sau năm 1897 bác sĩ A.
Fuhrer có đào được nơi đó một trụ đá của Asoka, nội dung của bia đá: "đây
là nơi đánh dấu Ðức Phật ra đời".
Sau khi đại hội kết tạp giáo điển kỳ IV,
cả hai bộ phái lớn của Phật giáo đều có Tam tạng viết trên lá buông. Mặc
dù kỳ kết tập của bộ phái Đại chúng không được Trưởng lão bộ công nhận,
nhưng cả hai đều bảo vệ quan niệm lập trường và giáo lý của tông phái
mình. Ở kỳ đại hội này đánh dấu sự phân chia bộ phái cả hình thức lẫn nội
dung. 1.5 Ðại Hội Kết Tập Kinh Ðiển Lần Thứ Năm a) Nguyên nhân Phật lịch 2404 nhà vua Mindon cho xây một
tượng Phật đứng to lớn trên đỉnh núi Mandalay, ngón tay của tượng Phật trỏ
xuống thành Mandalay và tượng Ðại Ðức Ànanda quỳ chấp tay. Việc làm của
vua như vậy chứng minh huyền thoại của người dân Miến Ðiện, vì họ tin rằng
ngày xưa Ðức Phật và Ðại Ðức Ànanda có ngự đến núi này và Ðức Phật có một
tiên tri rằng ngọn này về sau sẽ trở thành một thành phố hưng thịnh. Xây
dựng xong, nhà vua đặt tên tượng Phật là Javeyattau. Sau đó, vào năm Phật
lịch 2407, vua cho tạc thêm một tượng Phật nữa trên núi. Vua và Chư Tăng
muốn cho kinh điển của Ðức Phật thống nhất và để bảo quản lâu dài. Cho nên
kỳ kết tập này ra đời.
b) Niên đại,địa điểm, thời gian vị chủ tọa
và người bảo trợ Niên đại kết tập kỳ này, nếu tính theo Tây
lịch là vào năm 1871. Chư Tăng chọn thủ đô Miến Ðiện là Mandalay làm địa
điểm kết tập. Thời gian kéo dài 5 tháng. Vị chủ tọa kết tập kinh điển lần
thứ 5 này là Trưởng lão Pong Yi Sayadaw và có 2400 Chư Tăng tham dự. Vua
Mindon là người bảo trợ cuộc kết tập kinh điển.
c) Phương pháp kết tập Cách thức kết tập kinh này cũng tương tự
như những kỳ kết tập trước. Các vị Thánh Tăng như Ngài Jàgaràbhivamsa,
Narindàbhidhaja, Sumangalasàmi cùng 2400 vị Chư Tăng đọc lại Tam tạng kinh
điển. Ðặc biệt sau kỳ kết tập này, tất cả Tam tạng được viết trên 729
phiến đá cẩm thạch, mỗi phiến đá cao hơn 1 thước rưỡi và rộng non 1 thước
tây, khắc chữ đầy cả hai mặt.
Luật tạng gồm có 101 phiến đá. Kinh tạng
khắc trên 520 phiến, và Luận tạng khắc trên 108 phiến đá cẩm thạch. Tổng
cộng 3 tạng là 727 phiến. Phần chú giải của Tam tạng thì khắc trên 1774
phiến đá khác. Tất cả được vua và Chư Thánh Tăng đem tôn thờ tại tháp
Mahalokamarakhin và tháp Candamunì. Có thể nói đây là một công trình tiến
bộ nhất của Phật giáo Trưởng lão bộ. 1.6 Ðại Hội Kết Tập Kinh Ðiển Lần Thứ Sáu a) Nguyên nhân Ðại hội kỳ này cũng được tổ chức tại Miến
Ðiện, thời gian cách đại hội kỳ V khoảng 83 năm. Phật giáo Miến Ðiện được
nhà nước chiếu cố quan tâm giúp đỡ ngay từ buổi đầu khi Phật giáo đặt chân
đến xứ sở này. Có lẽ do ảnh hưởng đạo đức của hai vị A La Hán trong phái
đoàn thứ 8 của vua Asoka, sự truyền thừa và tổ chức tăng đoàn có nề nếp
theo giới luật của Ðức Phật. Được nhà nước Miến Điện hết lòng yểm trợ, kết
tập kinh điển kỳ này nhằm ba mục đích:
- Ðoàn kết Phật giáo đồ. b) Niên đại, địa điểm, thời gian vị chủ
tọa và người bảo trợ Niên đại bắt đầu từ ngày 17.5.1954 đến
ngày lễ Tam Hợp (Phật đản) năm 1956, Phật Lịch 2500, nghĩa là trong 2 năm
mới hoàn tất. Nơi tổ chức kỳ kết tập là trong một thạch động vĩ đại tại
thủ đô Rangoon (Yangon). Ngài Nyungan Sayadaw được đại hội suy tôn làm vị chủ tọa.
Thủ tướng U Nu của chính phủ Miến Ðiện tài trợ chi phí cho cuộc kết tập
kinh điển kỳ này. c) Phương pháp kết tập Trong kỳ kết tập này, các Ngài căn cứ theo
hình thức kỳ kết tập thứ nhất tại Ấn Ðộ. Ngài Mahasi Sayadaw được đại hội
bầu là vị vấn những vấn đề Tam tạng chú giải, còn Ngài Bhadanta
Vicittasàra Bhivamsa sẽ đáp những câu hỏi của Ngài Mahasi. Trong lúc hỏi
đáp Tam tạng chú giải như vậy thì Ngài chủ tọa và 2500 vị Tỳ kheo lắng
nghe, nếu không đồng ý thì lên tiếng. Đặc biệt Ngài chủ tọa là vị làu
thông Tam tạng. Ngôn ngữ sử dụng trong đại hội gồm có 3 thứ tiếng: Pàli,
Miến Ðiện, và Anh ngữ. Trong kỳ kết tập Tam tạng lần thứ sáu này,
đại hội sử dụng 729 phiến đá khắc Tam tạng và 1774 phiến đá cẩm thạch khắc
chú giải của kỳ kết tập thứ 5 làm căn cứ. Ðồng thời các bản kinh cổ của
Tích Lan, Thái Lan, Cao Miên và Hiệp hội Thánh điển Pàli ở Luân Ðôn được
đem ra nghiên cứu, so sánh và hiệu đính. Sau khi đại hội hoàn mãn, Giáo
hội Tăng già Miến Ðiện cho in ra để phổ biến, tổng cộng là 45 cuốn chánh
tạng và 92 cuốn chú giải. Lần kết tập này có mời đại diện tám quốc gia
Phật giáo Nam truyền đến tham dự, trong đó có Việt Nam. Phái đoàn Việt Nam
do Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam tổ chức, vị trưởng đoàn là Hòa
thượng Bửu Chơn. Xem:
Hình ảnh các nơi kết tập. -ooOoo- 2. CHÍN PHÁI ÐOÀN TRUYỀN GIÁO CỦA VUA A-DỤC Sau khi thanh lọc
giáo hội Tăng già và đại hội kết tập kinh điển kì III ra đời, vua A Dục
muốn cho chánh pháp của Ðức Phật truyền bá sâu rộng vào các quốc gia lân
cận và để duy trì tinh hoa của Phật pháp về sau, nhà vua thỉnh ý các vị A
La Hán đương thời và bàn kế hoạch hoằng dương chánh pháp, thiếp lập các
đoàn truyền giáo gửi đi khắp nơi. Phương án của vua được chư vị A La Hán
hoan hỷ tán đồng, đặc biệt là Trưởng lão Moggaliputta Tissa. Chẳng bao
lâu, chín phái đoàn được thành lập, bắt đầu lên đường truyền bá chánh pháp
của Ðức Phật Gotama. 2.1 Phái đoàn thứ nhất Theo truyền thuyết, các vị Trưởng lão
Mahinda, Ittiya Uttiya, Sambala, Bhaddasàla và Sa-di Sumana nhận trọng
trách đi truyền giáo ở đảo Tích Lan (Lankà, Lankàdìpa, Lankàtala). Như đã ghi chép trong Mahàvamsa (Đại sử)
và Chú giải Luật tạng (Samantapàsàdikà), Tích Lan tuy là một nước nhỏ
nhưng rất quan trọng trong việc duy trì chánh pháp của Ðức Phật Gotama và
đồng thời, quốc gia đó còn có sự gắn bó, liên hệ đến ba vị Phật tổ trong
quá khứ [theo "Tự điển nhân danh và địa danh của Phật giáo - Buddhist
Dictionary of Proper Names"]. Ðịa danh hòn đảo Tích Lan vào thời ba vị
Phật quá khứ có tên gọi, thành phố thủ đô, và vị vua cai trị khác nhau.
Vào thời Ðức Phật Kasusandha, hòn đảo được gọi là Ojadìpa, đức vua là
Abhaya, thủ đô là Abhayapura và có các địa danh Mahàmeghavana, Mahàtittha.
Thời Ðức Phật Konàgamana, hòn đảo được gọi là Varadìpa, thủ đô là
Vaddhamàna, đức vua tên là Samiddha và có công viên tên là Mahànoma. Thời
Ðức Phật Kassapa, hòn đảo có tên là Mandadìpa, tên đức vua là Jayanta, thủ
đô là Visàlà và có công viên tên là Mahàsàgara. Ngoài ra vùng Mahàmeghavana có nét nổi bật
tự nhiên, một nửa của xứ Tích Lan ngày nay là đỉnh núi Sumanakùta, nơi đó
Ðức Phật Gotama còn để lại dấu chân của Ngài. Lúc còn sinh tiền Ðức Phật
Gotama đã 3 lần đến viếng xứ sở này, trong khi đó 3 vị Phật tổ quá khứ đến
một lần. Lần thứ nhất vào tháng thứ 9 sau khi Ngài thành đạo, lý do Ngài
đến là nhận thấy xứ Tích Lan sau này là một xứ sở mà giáo lý Ngài sẽ thịnh
hành và phát triển. Nhưng hiện tại nơi đây, có rất nhiều loài Dạ xoa
(Yakkha) và A tu la (Asura) nên Ngài đến để làm thanh tịnh hóa xứ sở này,
để sau này đệ tử của Ngài tiện bề truyền đạo. Lần thứ hai, vào năm thứ năm
sau khi Ngài thành đạo. Lý do Ngài đến kỳ này là để giải hòa dòng họ Long
Vương. Lần thứ ba là vào năm thứ tám sau khi Ngài thành đạo. Lần này Ngài
cùng đi với 500 vị Tỳ kheo. Lý do đi lần này là do Long Vương cung thỉnh
Ngài và Chư Tăng đến trú xứ của họ để thọ trai, và trong lần viếng thăm
này, Ngài có lưu lại dấu chân trên núi mà ngày nay vẫn còn dấu tích. Có tài liệu viết rằng phái đoàn do Ngài
Mahinda lãnh đạo sang Tích Lan truyền bá đi bằng thuyền, theo các nhà
thương buôn, nhưng theo quyển Mahàvamsa thì các Ngài vận chuyển thần thông
đi đến xứ sở này vào thời vua Devanampiyatissa cai trị. Vua Tích Lan và
vua Àsoka vốn có tình thân nên phái đoàn Ngài Mahinda khi đến Tích Lan
được nhà vua đón tiếp rất long trọng, vì vua biết Ngài Mahinda là hoàng tử
của vua Asoka. Vua nghĩ rằng Ngài Mahinda là một vị hoàng tử từng sống
trong cung hoàng điện ngọc mà dám bỏ tất cả để xuất gia sống cuộc đời khất
sĩ. Chắc chắn đây là một con người phi phàm hoặc trong giáo pháp của Phật
có nhiều điều nhiệm mầu nên mới thu hút hoàng tử như vậy. Chính vì vua
nghĩ như thế, niềm tin đối với phái đoàn Ngài Mahinda lại càng sâu sắc, và
vua mong mõi được gần gũi ngài Trưởng lão để được tìm hiểu thêm về đạo
Phật.
Sau khi chào hỏi thân thiện, Trưởng lão
Mahinda bắt đầu giảng đạo, thuyết pháp cho vua và các vị hoàng gia nghe về
bài Tiểu Kinh Tượng Tích Dụ, Trung Bộ (Cùlahatthipàdùpama suttanta). Khi
chấm dứt thời pháp, vua và nhiều tùy tùng xin được quy y Tam-Bảo. Vua hứa
từ nay về sau sẽ tận lòng ủng hộ công việc phát huy Phật giáo tại xứ
Lankà. 2.2 Phái đoàn thứ hai Ngài Trưởng lão Majjhantika nhận trách
nhiệm đi truyền giáo ở xứ Gandhàra và Kasmìra. Ngài là một vị A La Hán.
Trong kỳ Kết tập Kinh điển lần thứ ba, Ngài cũng là thành viên ưu tú tham
dự. Vùng Gandhàra dường như bao gồm cả
Kasmìra, vì thế, hai quốc gia này luôn luôn được nói đến như là
Kasmìra-Gandhàra. Thời Ðức Phật còn sinh tiền, nước này có
thủ đô quen thuộc mà chúng ta thường thấy khi đọc kinh điển. Đó là thủ đô
Takkasilà. Nơi đây nổi tiếng là có trung tâm học đường đào tạo nhân tài
cho quốc gia. Nhà vua cai trị thời đó là Pukkusàti. Nhà vua và vua
Bimbisàra của nước Magadha có liên hệ ngoại giao nhau rất thân thiện. Nhờ
sự liên hệ đó, khi Tam Bảo ra đời, vua nước Magadha gởi cho bạn mình một
bức thư báo tin rằng có Phật-Pháp-Tăng xuất hiện trên thế gian. Khi hay
tin này, nhà vua quyết định xin làm đệ tử của Ðức Phật, và ông từ bỏ ngai
vàng, đi đến Sàvatthi để gặp Ðức Phật, xin xuất gia, sống đời phạm hạnh.
Lúc Ngài Ðại Ðức Majjhantika đến hoằng
pháp ở xứ này thì dân chúng của nước Gandhàra đang bị nạn thiên tai như
bão lụt, hạn hán, thất mùa. Các thiên tai này là do Long vương Aravàla gây
ra. Ngài Trưởng lão biết được chuyện này nên dùng thần thông hóa giải, qua
một cuộc so tài với vua Rồng. Cuối cùng, vua Rồng biết thần thông của mình
không thể nào sánh bằng vị sa môn này, và cơn giận dữ và lòng ngã mạn bắt
đầu từ từ lắng dịu, hướng tâm về vị sa môn khả kính. Ngài Trưởng lão bắt
đầu thuyết pháp cho vua Rồng và tùy tùng của ông ta, qua bài Kinh Xà Dụ
(Alagaddupama suttanta). Khi bài pháp chấm dứt, vua Rồng cùng với tùy tùng
của ông, dạ xoa Pandaka và vợ của dạ xoa là Hàrita, xin qui y Tam Bảo và
hứa với ngài Trưởng lão là sẽ trọn đời hộ trì Tam Bảo. Sau khi tế độ được vua Rồng, dân chúngnước
Gandhàra được sống an lành. Ngài Majjhantika bắt đầu công việc hoằng pháp
độ sanh. Chẳng bao lâu, có rất nhiều thanh niên thiếu nữ xin xuất gia theo
Ngài. Theo bộ Mahàvamsa (Đại sử), trong thời gian đó có đến 100.000 người
xuất gia. Thế là từ đây, xứ Kasmìra và Gandhàra có một đội ngũ Tăng già
đông đảo và vững mạnh để xiển dương Chánh pháp.
2.3 Phái đoàn thứ ba Phái đoàn thứ ba do Trưởng lão Mahàdeva
nhận trách nhiệm đi truyền giáo ở xứ Mahisamandala. Trưởng lão cũng là một
thành viên xuất sắc trong kỳ Kết tập Kinh điển lần thứ ba.
Chưa thấy tài liệu nào nói rõ về địa danh
Mahisamandala này, nhưng có thể đó là vùng hạ lưu sông Godhàvarì, ngày nay
gọi là Mysore. Sông Godhàvarì ở Dakkhinàpatha [theo "Buddhist Dictionary
of Proper Names", Vol II, p. 815], tạo nên biên giới miền Nam. Vào thời
Ðức Phật, đức vua Alaka và vua Assaka định cư ở bờ sông phía bắc và cai
trị dân chúng sống trong vùng hẻo lánh ở Bàvarì. Theo Chú giải Sutta
Nipàta, dòng sông Godhàvarì phân chia làm hai nhánh ở gần nơi này. Có một
hòn đảo chu vi 3 dặm, và trên đó là một khu rừng dày đặc có tên là
Kaptthavana. Nơi hẻo lánh của người dân xứ Bàvarì chiếm một vùng năm dặm.
Trong quá khứ, khu vực này đã từng là trú xứ của những nhà hiền triết như
ngài Sarabhanga [theo Chuyện Tiền Thân, Jataka, V]. Theo Chú giải Tăng Chi
Bộ kinh, nơi hẻo lánh của Bàvarì là eo dòng sông (Godhàvarivamke). Sông
Godhàvarà là một trong những dòng sông linh thiêng nhất ở miền nam Ấn Ðộ. Trong quyển biên niên sử Tích Lan có đề
cập đến việc truyền bá Giáo Pháp khá thành công của ngài Ðại Ðức Mahàdeva
tại xứ Mahisamandala. Bài pháp đầu tiên mà Ngài thuyết tại xứ này là bài
kinh Thiên Xứ (Devadùta suttanta). Sau khi giảng xong bài pháp, hơn 40
ngàn người đã xin qui y Tam-Bảo, và sau đó, hàng người xin xuất gia, sống
đời phạm hạnh.
2.4 Phái đoàn thứ tư Do ngài Trưởng lão Rakkhita nhận trách
nhiệm truyền giáo ở xứ Vanavàsa. Ðịa danh Vanavàsa là một quận, có lẽ là
miền bắc của Kanara, nam Ấn Ðộ. Theo "Đại vương thống sử" [Mahavamsa - Tỳ
kheo Minh Huệ dịch] thì ngài Trưởng lão đến xứ này bằng thần thông. Khi
đến, ngài đứng giữa không trung thuyết pháp cho người dân xứ này nghe về
bài kinh Anamatagga Samyutta. Sau bài pháp, có 60 ngàn người qui y
Tam-Bảo, ba mươi bảy ngàn người xuất gia từ bỏ gia đình, và sau đó có 500
ngôi chùa được xây dựng cho Tăng chúng cư ngụ. Thế là giáo hội Tăng già
được thành lập trên xứ sở này. 2.5 Phái đoàn thứ năm Do ngài Trưởng lão Yonaka Dhammarakkhita
nhận trách nhiệm truyền bá chánh pháp của Ðức Phật tổ Gotama ở xứ
Aparantaka. Ngài sinh ra và lớn lên ở Hy Lạp, có duyên lành với chánh pháp
và được xuất gia, sau đó tu tập tinh chuyên và cuối cùng đắc chứng quả A
La Hán. Ngài cũng là một thành viên được tham dự đại hội Kết tập Kinh điển
lần thứ ba do vua Asoka bảo trợ. Sau đó, chư Tăng trong đại hội gởi ngài
đi hoằng pháp ở xứ Aparantaka, nay gọi là thành phố Bombay của Ấn Ðộ. Ðịa
danh Aparantaka là quốc gia bao gồm cả lãnh thổ miền bắc của nước Gujaràt,
Kàthiàwar, Kachch và Sindh, miền tây của nước Ràjaputana, Cutch, Gujarat
và một phần nối liền bờ biển trên miền hạ lưu của sông Narmadà.
Vào thời kỳ Ðức Phật, địa danh này được
người ta biết đến là Aparànta. Theo truyền thuyết, Mandhàtà đem bốn người
thiếu nữ đức hạnh từ ba châu lục khác nhau đến Jambudìpa và sống ở đây.
Khi vua băng hà, chính những người này không thể trở về được và xin phép
thừa tướng của vua cho phép mình định cư ở Jambudìpa. Thừa tướng đồng ý,
và từ đó địa danh Aparànta được đặt ra, có liên hệ đến việc định cư của
những người đến từ Aparagoyàna. Thời pháp đầu tiên mà ngài Trưởng lão
thuyết ở xứ này là bài kinh Hỏa ẩn dụ (Aggikkhandhopama Suttanta). Sau
thời pháp, có rất nhiều thanh niên thiếu nữ xuất gia tu tập. Theo quyển
Mahàvamsa, có khoảng một ngàn người xin xuất gia, trong đó có cả con trai,
con gái của những gia đình quí tộc. 2.6 Phái đoàn thứ sáu Do Trưởng lão Mahàrakkhita nhận trách
nhiệm đi hoằng dương chánh pháp tại Trung Á, miền bắc Iran. Ngôn ngữ Pàli
gọi xứ này là Yonaka. Vào thời kỳ vua Milinda, thủ đô của Yonaka
là thành phố Sàgala. Người ta nói rằng buổi lễ xây dựng đại bảo tháp
(Mahàthùpa) có ba chục ngàn Tỳ khưu đến tham dự, dưới quyền chủ tọa của
Trưởng lão Yonamahàdhammarakkhita. Ngài đến từ Alasandà ở nước Yona. Hẳn
nhiên Alasandà là trụ sở của Chư Tăng Phật giáo thời đó. Nói chung
Alasandà do vua Macedonian (Alexander) đồng hóa ở nước Paropanisadae gần
Kàbul. Trong kinh Assalàyana, nước Yona và Kamboja được nói đến như là
những địa danh mà trong xã hội chỉ có hai tầng lớp, đó là chủ và tớ, và
chủ bỗng nhiên biến thành tớ. Trong Chú giải Trung bộ kinh, Tập II-784, có
giải thích điều này như sau: vì giai cấp Bà la môn đi đến đó và chết cho
nên trẻ con của họ kết bạn với giai cấp tôi tớ, do đó chủ biến thành tớ. Quyển Mahàvamsa có đề cập đến sự truyền bá
thành công của ngài Trưởng lão Mahàrakkhita tại xứ sở này. Thời pháp đầu
tiên Ngài thuyết tại đây mang tựa đề là Kàlakàràma-suttanta. Sau thời
pháp, có một trăm bảy chục ngàn người chứng đắc đạo quả và mười ngàn người
xin xuất gia, sống đời phạm hạnh.
2.7 Phái đoàn thứ bảy Do Trưởng lão Majjhima, Kassapagotta,
Mùlakadeva, Durabhissara và Trưởng lão Deva Sahadeva nhận trách nhiệm
truyền bá chánh pháp ở khu vực Himàlaya. Ðịa danh Himàlaya có nhiều tên gọi khác
nhau: Himavà, Himàcala, Himavanta ... nhưng tên gọi phổ thông là Himàlaya
(tức là nơi có nhiều tuyết - Tuyết Sơn). Nó là một trong bảy dãy núi bao
quanh Gradhamàdana [theo Chú giải Sutta-nipata, i., 66]. Diện tích khoảng
300 ngàn dặm, có đến 84 ngàn đỉnh núi, đỉnh cao nhất là 500 do tuần
(Yojanas) tương đương với 8.000 km. Ở trong vùng Himavà có bảy cái hồ nước
lớn, mỗi cái có chiều dài, ngang, sâu khoảng 50 dặm. Tên bảy cái hồ đó là
Anotatta, Kannamunda, Rathakàra, Chaddanta, Kunàla, Mandàkinì và
Sìhappapàtaka. Tại những hồ này, ánh nắng mặt trời không bao giờ đốt nóng
được nước hồ. Nước từ Himavà chảy đổ vào 500 dòng sông. Tuy nhiên, theo
Chú giải Suttanipata và Milindapanha thì chỉ có 10 dòng sông nhận nước
trực tiếp từ Himavà, còn những dòng sông khác thì nhận nước gián tiếp.
Mười con sông đó là Ganga, Yamunà, Aciravatì, Sarabhù, Mahì, Sindhu,
Sarrassatì, Vettavatì, Vìtamsà và Candabhàgà. Trong Túc sanh truyện (Jàtaka), Himavà
được đề cập đến như là một nơi trú ngụ của các vị đạo sĩ khi bỏ đời sống
thế tục. Ở đây có nhiều rừng già rất thích hợp cho ẩn tu. Trong Chú giải
Tiểu bộ kinh Sutta Nipata có đề cập một đỉnh núi tại Himavà được đặt tên
là Mahàpapàta, nơi Ðức Phật Độc giác viên tịch. Chú giải Tương Ưng bộ
kinh, III-120, ghi rằng loài rồng (Nàgas) đi đến núi Himavà để sanh con.
Chú giải Trưởng lão Tăng kệ, II-138, có đề cập đến một lần Trưởng lão
Sìvalì từ Savatthi đi đến núi này cùng với 500 người bạn đồng tu. Cuộc
hành trình này làm mất thời gian chư vị khoảng 8 ngày. Quyển Mahàvamsa, XII.41, ghi năm vị Trưởng
lão thuộc phái đoàn vua Asoka đi đến nước Himavà hoằng pháp. Thời pháp đầu
tiên được thuyết ở xứ sở này là bài Kinh Chuyển Pháp Luân
(Dhammacakkappavatthanva suttanta). Sau khi bài kinh được thuyết giảng
xong, có 80 người phát khởi lòng tịnh tín. Năm vị Trưởng lão này thuyết
giảng tại 5 vương quốc chung quang vùng Himavà, và trong mỗi vương quốc có
khoảng 100 ngàn người xin xuất giat . 2.8 Phái đoàn thứ tám Do hai Trưởng lão Sona và Uttara nhận
trách nhiệm đi hoằng pháp ở xứ Suvannabhùmi. Cho đến nay các học giả vẫn chưa nhất quán
về nơi chốn của địa danh Suvannabhùmi. Sử liệu Thái Lan, Campuchia, Miến
Điện ... cho rằng phái đoàn thứ tám của vua Asoka có truyền giáo đến đất
nước họ. Như vậy Suvannabhùmi có lẽ là một quốc gia rộng lớn. Có thuyết cho rằng Suvannabhùmi là tiền
thân của xứ Phù Nam (Funan). Một số học giả trên thế giới phỏng định vị
trí của Phù Nam như sau [theo Lê Hương, "Sử liệu Phù Nam"]: * Ông Mã Ðoàn Lâm người đời nhà Tống
(960-1280), ở Lạc Bình, viết trong bộ "Văn Hiến Thông Khảo" rằng Phù Nam
ở một hòn đảo lớn về phía nam quận Nhật Nam, trong biển Tây, cách Nhật
Nam 7.000 lý (1 lý = 400 thước tây), về phía tây nam cách Lâm-Ấp 3.000
lý, diện tích lãnh thổ rộng 3.000 lý. * Trong quyển sử ký Tư Mã Thiên có đoạn
ghi rằng "... Dưới triều vua Thành Vương nhà Châu, năm Tân Mão (1109
trước dương lịch), có sứ nước Việt thường sang triều cống chim bạch trĩ.
Vị sứ giả không biết đường trở về được Châu Công Ðản cho năm xe Chỉ Nam
để dò đường. Sứ giả đi qua xứ Phù Nam, Lâm-Ấp, và trở về nước đúng một
năm".
* Ðường thư chép: "Bà Lợi (P' O-Li, tên
của Phù Nam) ở phía đông nam nước Chiêm Thành, phía nam có nước Chu Nại,
đến sau niên hiệu Vĩnh Huy (Ðường Cao Tông 650-655) bị nước Chân Lạp
chiếm". * Ông Klaproth và Paulhier cho rằng Phù
Nam ở vùng Pégou nước Miến Ðiện. * Ông Déguine cho rằng Phù Nam là một
hòn đảo ở phía tây nước Thái Lan.
* Ông Abel Résumat cho rằng Phù Nam là
một tỉnh của Trung Hoa ở miền bắc Việt Nam. * Ông Wilford cho rằng Phù Nam là một
vương quốc ở Mã Lai. * Ông Stanisla Julien cho rằng Phù Nam ở
Thái Lan. * Ông Barth cho rằng Phù Nam ở Ấn Ðộ. * Ông Schelegel cho rằng đất Thái bị một
chư hầu của Phù Nam chiếm đóng.
* Ông Bowring và ông Wade cho rằng vương
quốc Phù Nam ở Thái Lan, căn cứ theo danh từ Phù Nam do chữ TCHETOU
(Xích thổ) là một vùng đất đỏ nhờ phù sa bồi lên. * Ông Aymonur cho rằng Phù Nam gồm miền
nam nước Cao Miên, bây giờ là miền nam nước Việt Nam. * Ông Blagden cho rằng Phù Nam gồm đất
Cao Miên, Thái Lan cho đến vùng Pégou ở Miến Ðiện. Khi các vị Trưởng lão đến truyền bá đạo
Phật ở đây thì trong cung điện vua, các hoàng tử sinh ra thường xuyên đều
bị nữ Dạ Xoa biển ăn thịt. Sự hiện diện của các Trưởng lão lúc đó trùng
hợp ngày sinh của hoàng tử. Ban đầu dân chúng nghĩ rằng những vị này là
bạn của nữ Dạ Xoa và họ định dùng vũ khí giết các Ngài. Các Trưởng lão
giải thích cho họ biết các vị là những sa môn chân chánh, và tìm hiểu
nguyên nhân tại sao có sự hiểu lầm nầy. Sau khi biết rõ nguyên nhân, nhị
vị Trưởng lão liền dùng thần thông cảm hóa nữ Dạ Xoa. Sau khi cảm hóa Da
Xoa xong, nhà vua và dân chúng vô cùng hoan hỷ với phái đoàn truyền giáo.
Nhân đó, nhị vị Trưởng lão bắt đầu thuyết pháp cho vua và dân chúng nghe,
qua bài kinh Phạm Võng (Brahmajàla sutta), Trường bộ kinh. Sau khi giảng
xong, có 60.000 người xin qui y Tam-Bảo và 3.500 nam nữ con gia đình quý
tộc xin xuất gia. Thêm vào đó, về sau này mỗi khi có hoàng tử nào sanh ra,
nhà vua đều đặt tên là Sonuttara - ghép từ hai tên của nhị vị Trưởng lão
là Sona và Uttara. 2.9 Phái đoàn thứ chín Do Trưởng lão Mahàdhammarakkhita lãnh
trách nhiệm truyền giáo ở Mahàratthi. Về địa danh này, các học giả nhận
định đó là xứ Maràthì, mà có lẽ ngày nay là phía đông bắc của thành phố
Bombay, Ấn Ðộ. Trưởng lão Mahàdhammarakkhita là một vị
cao tăng đức hạnh, có thần lực phi phàm. Khi vịTrưởng lão đến xứ sở này,
dân chúng vô cùng ái mộ và đều theo ngài học tập giáo lý của Ðức Phật.
Thời pháp đầu tiên vị Trưởng lão thuyết ở đây là kinh Bổn Sanh (Jàtaka).
Kinh Bổn sanh là tập hợp những câu chuyện tiền thân của Ðức Phật, kể lại
tiền kiếp khi Ngài còn là vị Bồ tát đang thực hành pháp thập độ ba-la-mật.
Kinh này nằm trong Tiểu bộ kinh (Khuddaka Nikàya), thuộc tập thứ 10 trong
15 tập. Bộ kinh có giá trị luân lý, đạo đức qua các tấm gương giác ngộ
sáng ngời của các vị Bồ Tát tiền thân của Ðức Phật Gotama. Sau thời giảng,
dân chúng hoan hỷ tín thọ lời dạy của Trưởng lão. Có 84.000 người chứng
đắc đạo quả, và 30.000 người xin gia nhập Giáo đoàn. -ooOoo- Tỳ kheo Thiện Minh TÀI LIỆU THAM KHẢO 1) Malalasekera, Dictionary of Pàli
Proper Names, Pàli Text Society ấn hành -ooOoo- [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
1. SÁU ÐẠI HỘI KẾT TẬP KINH ÐIỂN
- Chấn hưng Phật giáo Trưởng lão bộ.
- Ðề cao địa vị độc lập của Miến Ðiện.
Chùa Kỳ Viên, Quận 3, TP HCM,
Tháng 2-2003
2) Tỳ kheo Minh Huệ dịch, Đại Vương Thống Sử (Mahavamsa)
3) Tỳ kheo Giác Nguyên, Phật Giáo Sử
4) P.V. Bapat, 2500 Years of Buddhism
5) W. Rahula, History of Buddhism in Ceylon
6) Lê Hương, Sử liệu Phù Nam
last updated: 20-03-2003