-II-
(tiếp theo)
3. Sự báo ứng của Nghiệp
"Chính Nghiệp dẫn dắt thế
gian nầy"
-- Atthasalini
S ự
báo ứng của Nghiệp là một tiến trình vô cùng phức tạp mà chỉ có Đức Phật
mới có thể am tường thấu đáo. Để nhận thức phần nào vấn đề khó khăn ấy, ta
cần phải biết lịch trình tiến triển của dòng tư tưởng (citta vithi).
Tâm, hay thức, phần tinh túy của cái được
gọi là chúng sanh, đóng vai trò tối quan trọng trong guồng máy phức tạp
của con người. Chính tâm làm cho ta trong sạch, cũng chính tâm làm cho ta
ô nhiễm. Trong thực tế, tâm là người thù nguy hiểm nhất mà cũng là người
bạn chí thân của con người.
Khi ngủ say, không chiêm bao mộng mị, tâm
của ta ở trong một trạng thái ít nhiều tiêu cực, tương tợ như trạnh thái
tâm của người vừa chết, hay lúc được thọ thai. Danh từ Phật Giáo gọi loại
tâm ấy là Bhavanga, hay yếu tố của đời sống. Bhavanga cũng có nghĩa
là nguyên do tối cần, hay điều kiện tối cần để tồn tại. Phát sanh và hoại
diệt từng khoảnh khắc, luồng Bhavanga trôi chảy như một dòng suối, luôn
luôn biến đổi, không khi nào giống hệt nhau trong hai chập tư tưởng kế
tiếp.
Không phải chỉ lúc ngủ mê không nằm mộng
ta mới có loại tâm Bhavanga, mà lúc thức cũng có. Trong đời sống, ta có
loại tâm ấy nhiều hơn tất cả những loại tâm khác. Do đó Bhavanga là điều
kiện tối cần thiết cho đời sống .
Có vài học giả cho rằng Bhavanga đồng
nghĩa với tiềm thức. Theo Tự Điễn Triết Học [1], tiềm thức là một ngăn
trong tâm mà vài tâm lý gia và triết gia cho rằng ngăn ấy nằm cạnh phía
dưới ngưỡng cửa của thức.
Theo các triết gia tây phương, tiềm thức
và thức cùng tồn tại trong cùng một lúc [2]. Nhưng theo Phật Giáo, hai
loại tâm không thể tồn tại trong cùng một lúc.
Bhavanga không phải là một "hạ tầng cảnh
giới" cũng không như "tâm cao thượng" của F.W. Myer. Hình như trong tất cả
nền triết học Âu Tây, không có khoảng nào đề cập đến cái gì như Bhavanga.
Bhavanga là yếu tố chánh yếu duy trì cuộc
sống. Danh từ gần Bhavanga nhất có lẽ là "Liên Tục Sinh Tồn", có nơi gọi
là "Luồng Hộ Kiếp", vì nó là điều kiện tất yếu cho kiếp sống sinh
tồn.
Nếu không bị ngoại cảnh xâm nhập, như lúc
ngủ say không mộng mị, thì những chập tư tưởng Bhavanga liên tục nối tiếp
như dòng nước. Khi có một đối tượng xuất hiện - vật chất hay tinh thần -
thí dụ như một hình sắc, thì luồng Bhavanga rung động trong hai chập tư
tưởng, rồi tắt. Lúc luồng Bhavanga vừa tắt thì "ngũ môn hướng tâm" hay
"ngũ khai môn" (pancadvaravajjana) phát sanh và hoại diệt. Tác động của
tâm nầy là hướng về đối tượng, trong trường hợp nầy đối tượng là hình sắc.
Tức thì, nhãn thức (cakkhu-vinnana) thấy đối tượng, nhưng chưa biết gì. Kế
đó là "tiếp thọ tâm", hay "tâm tiếp thâu" (sampaticchana). Tiếp theo là
"suy đạc tâm" (santirana) quan sát, dò xét đối tượng. Rồi "xác định tâm"
(votthapana) phân biệt, lựa chọn, thu nhận hay loại bỏ. Đến đây là vai trò
của tự do ý trí. Do nơi chập tư tưởng quyết định, phát sanh tiến trình
Javana, một giai đoạn tối quan trọng, vì chính ở giai đoạn nầy hành động
thiện hay bất thiện biểu hiện. Chính Nghiệp được tạo nên trong giai đoạn
nầy.
Nếu quyết định chánh đáng (yoniso
manasikara) thì tạo thiện nghiệp. Nếu quyết định sai lầm (ayoniso
manasikara) thì tạo bất thiện nghiệp. Mặc dầu đối tượng có đáng được ưa
thích hay không, ta vẫn có thể tạo một tiến trình Janava thiện hay bất
thiện theo ý muốn. Thí dụ như khi gặp người thù nghịch, tức nhiên là sự
giận dữ phát sanh ngoài ý muốn của ta. Nhưng bậc thiện trí thức có thể chế
ngự tâm mình, thay vì nổi giận, rải tâm Từ đến người ấy. Vì lý do đó mà
Đức Phật dạy:
"Làm ác do ta.
Làm cho ta nhơ bẩn do nơi ta.
Không làm ác do ta.
Làm cho ta trong sạch cũng do nơi ta.
Cả hai, nhơ bẩn và trong sạch, chỉ tùy thuộc nơi ta.
Không ai khác có thể làm cho ta trong sạch. [3]"
Dĩ nhiên là trong đời sống, tư tưởng của
ta bị rất nhiều yếu tố bên ngoài chi phối như giới thân cận, tập tục, lễ
nghi v.v... Trong những trường hợp ấy thì tự do ý trí cũng bị lũng đoạn.
Tuy nhiên, dầu ở trường hợp khó khăn nào, ta cũng có đủ khả năng dùng tự
do ý chí vượt qua các áp lực bên ngoài và tạo những tư tưởng thiện hay bất
thiện. Một người thân cận có thể là yếu tố có nhiều ảnh hưởng, nhưng chính
ta phải chịu trách nhiệm về tất cả các hành động của ta và chỉ có hành
động của ta mới theo sát ta như bóng với hình.
Javana
là một Phạn ngữ rất khó chuyển dịch ra ngôn ngữ khác. Vài học giả dịch là
"trực cảm". Danh từ "xung lực" đôi khi cũng được dùng. Trong quyển
sách nầy, Phạn ngữ Javana được giữ nguyên vẹn.
Theo đúng nguyên căn, Javana có nghĩa là
chạy, bởi vì trong tiến trình tâm, mỗi loại thường phát sanh trong một,
hai, hay ba chập tư tưởng, chỉ có tâm Javana phát sanh liên tiếp trong bảy
chập lúc bình thường và năm chập khi lâm chung, và tất cả bảy chập đều
cùng chung một đối tượng. Những tâm sở phát sanh trong bảy chập tư tưởng
ấy đều giống hệt nhau, nhưng năng lực thì không đồng đều, có chập mạnh có
chập yếu hơn.
Tiến trình tâm (citta vithi), hay lộ trình
tiến triển của một tư tưởng, một thời gain cực nhỏ, chấm dứt bằng "đăng ký
tâm" hay "tâm ghi nhận" (tadalambana) trong hai chập. Như vậy, trọn lộ
trình tư tưởng có tất cả mười bảy chập.
Kinh sách thường diễn tả lịch trình tiến
triển của tâm như sau:
"Người kia nằm dưới gốc cây xoài, lấy khăn
trùm đầu lại, ngủ mê. Một ngọn gió thổi qua làm rung động nhánh cây và một
trái xoài rụng xuống cạnh bên đầu anh chàng đang ngủ. Anh tung khăn ra và
hướng tầm mắt về phía có tiếng động. Thấy một vật, anh cầm lên, quan sát
và nhận ra đó là một trái xoài. Anh hả miệng cạp ăn, và nuốt cùng với nước
miếng. Xong, nằm xuống ngủ lại."
Trong câu truyện, giấc ngủ say là luồng
Bhavanga yên tĩnh trôi chảy. Ngọn gió thoảng qua cây xoài là tâm "Bhavanga
vừa qua" (atiti Bhavanga ). Nhánh cây rung động là tâm "Bhavanga rung
động" (Bhavanga calana). Trái xoài rụng là tâm "Bhavanga dứt vòng"
(Bhavanga upaccheda). Hướng về đối tượng là "ngũ môn tâm hướng"
(pancadvaravajjana). Thấy đối tượng mà chưa biết gì là "ngũ quan thức"
(panca vinnana), trong trường hợp nầy là nhãn thức. Nhặt lên là "tiếp thọ
". Quan sát là "suy đạc tâm". Nhận định rằng đó là một trái xoài là "xác
định tâm". Chính sự thưởng thức trái xoài là tiến trình Javana (7 chập),
va sự nuốt miếng xoài, là "đăng ký tâm". Khi ăn xong trái xoài người kia
nằm ngủ lại, là khi trãi qua trọn lộ trình thì tâm trở lại trạng thái
Bhavanga.
Tóm lại mỗi lộ trình tư tưởng chia làm 17
chập: 3 chập Bhavanga, 1 ngũ môn hướng tâm, 1 ngũ quan thức, 1 tiếp thọ
tâm, 1 suy đạc tâm, 1 xác định tâm, 7 chập Javana và 2 chập đăng ký, như
sau:
Chập tâm |
Lộ Trình Tiến Triển Của
Một Tư Tưởng |
1 |
Atita
Bhavanga
(Bhavanga vừa qua) |
2 |
Bhavanga
Calana
(Bhavanga rung động) |
3 |
Bhavanga
Upaccheda
(Bhavanga dứt vòng) |
4 |
Pancadvaravajjana
(Ngũ môn hướng tâm) |
5 |
Panca
Vinnana
(Ngũ quan thức) |
6 |
Sampaticchana
(Tiếp thọ tâm) |
7 |
Santirana
(Suy đạc tâm) |
8 |
Votthapana
(Xác định tâm) |
9 |
Javana
(Xung lực) |
10 |
11 |
12 |
13 |
14 |
15 |
16 |
Tadalambana
(Đăng ký tâm) |
17 |
Trong 7 chập tư tưởng của tiến trình
Javana, chập đầu có năng lực tạo Nghiệp yếu nhất nên trổ quả trong kiếp
hiện tại, gọi là "Hiện Nghiệp" (dittha dhamma vedaniya kamma, nghiệp có
hiệu năng tức khắc trong hiện tại). Nếu không trổ sanh trong kiếp hiện tại
thì quả ấy sẽ tiêu mất, gọi là quả không trổ sanh, hay "Nghiệp Vô Hiệu
Lực" (Ahosi).
Chập tư tưởng yếu kế đó là chập thứ 7 của
tiến trình Javana. Quả của chập nầy trổ sanh trong kiếp sống kế liền sau
kiếp hiện tại, gọi là "Hậu Nghiệp" (upapaja vedaniya kamma, nghiệp có hiệu
năng liền kế đó). Nghiệp nầy trổ quả kế tiếp theo, cũng tự nhiên trở nên
vô hiệu lực nếu không trổ sanh trong kiếp kế liền đó.
Quả của 5 chập tư tưởng còn lại, từ chập 2
đến chập 6 của tiến trình Javana, có thể trổ sanh bất cứ lúc nào trong
vòng luân hồi, từ kiếp kế kiếp hiện tại đến lúc hoàn toàn giải thoát, gọi
là "Nghiệp Vô Hạn Định" (aparapariya vedaniya kamma, quả trổ sanh trong
thời gian vô hạn định).
A. Phân loại theo Thời gian
Như vậy, theo thời gian, Nghiệp có thể
được phân loại như sau:
1.- Hiện Nghiệp (Dittha dhamma vedaniya
kamma), quả trổ sanh trong kiếp hiện tại.
2.- Hậu Nghiệp (Upapajja vedaniya kamma), quả trổ sanh trong kiếp kế
kiếp hiện tại.
3.- Nghiệp Vô Hạn Định (Aparãpariya vedaniya kamma), quả trổ sanh không
nhất định lúc nào trong thời gian chưa đắc Quả Niết Bàn.
4.- Nghiệp Vô Hiệu Lực (Ahosi Kamma).
Những câu chuyện thí dụ:
Hiện nghiệp
a) Quả lành trổ sanh trong kiếp hiện tại.
Hai vợ chồng kia chỉ có một cái áo (choàng
theo lối người Ấn). Khi chồng có việc đi đâu, mặc áo, thì vợ phải ở nhà.
Nếu vợ đi thì chồng ở nhà. Một ngày kia, chồng đi nghe Đức Phật thuyết
pháp, lấy làm thỏa thích, khởi sanh ý muốn dâng lên Đức Phật cái áo duy
nhất ấy, nhưng lòng luyến ái cố hữu của con người trỗi dậy, và một cuộc
tranh đấu diễn ra bên trong anh. Sau cùng, tâm bố thí chế ngự lòng luyến
ái. Anh hết sức vui mừng, reo lên: "Ta đã chiến thắng, ta đã chiến thắng",
và hành động đúng y sở nguyện, dâng cái áo lên Đức Phật.
Câu truyện lọt đến tai vua. Đức vua lấy
làm hoan hỷ, truyền lệnh ban cho anh 32 bộ áo. Người chồng có tâm đạo
nhiệt thành ấy lựa ra hai bộ, một bộ cho mình và một bộ cho vợ, còn lại
bao nhiêu dâng hết lên Đức Phật. [4]
b) Quả dữ trổ sanh kiếp hiện tại.
Một người thợ săn dắt bầy chó vào rừng
kiếm thịt, thấy bên đàng một vị tỳ khưu đang đi khất thực. Hôm ấy anh đi
cả buổi mà không săn được gì, người thợ săn lấy làm bực tức cho rằng vì
gặp vị đạo sĩ giữa đàng, đó là điềm xấu nên xui xẻo. Lúc trở về lại gặp vị
đạo sĩ ấy nữa, người thợ săn nổi giận xua chó cắn, mặc dù vị tỳ khưu kia
hết lời năn nỉ van lơn. Không còn cách gì khác nữa, vị tỳ khưu bèn trèo
lên cây để tránh bầy chó dữ. Người thợ săn chưa đã nư giận, chạy đến gốc
cây, dương cung bắn lên, nhằm bàn chân vị tỳ khưu. Trong lúc sợ hãi mất
bình tỉnh và vô cùng đau đớn, vị tỳ khưu đánh rơi cái y của mình xuống,
chụp lên đầu và bao trùm lên mình thợ săn. Bầy chó dữ thấy một người đang
lúng túng trong bộ y vàng ngỡ là nhà sư đã té xuống nên áp lại cắn xé chủ
mình. [5]
Hậu Nghiệp:
Quả trổ sanh trong kiếp kế liền, sau kiếp hiện tại.
Có người làm công cho nhà triệu phú nọ,
một người rằm, sau khi làm việc cực nhọc ngoài đồng, chiều về thấy cả nhà
đều thọ bát quan ngày ấy. Mặc dầu chỉ còn có nửa ngày, anh liền xin thọ
giới và nhịn đói buổi chiều. Bất hạnh thay, sang hôm sau anh qua đời. Nhờ
tâm trong sạch nghiêm trì bát quan trai giới, anh tái sanh lên cõi trời.
Vua Ajatasattu (A Xa Thế), con Vua Bình Xa
Vương (Bimbisara), liền sau khi chết, tái sanh vào cảnh khổ vì mang trọng
tội giết cha.
Nghiệp Vô Hạn Định:
Quả trổ sanh bất cứ lúc nào,từ kiếp kế kiếp hiện tại đến lúc giải thóat
hoàn toàn.
Không ai có thể lẫn thoát ra khỏi Nghiệp
nầy. Chư Phật và chư vị A La Hán cũng không thể tránh khỏi quả dữ của
những Nghiệp đã gieo trong thời dĩ vãng.
Đức A La Hán Moggallana (Mục Kiền Liên), trong một kiếp quá khứ xa xôi,
đã nghe lời người vợ tàn ác âm mưu ám hại cha mẹ [6]. Do hành động sai lầm
ấy, Ngài đã trãi qua một thời gian lâu trong cảnh khổ và, trong kiếp cuối
cùng, bị một bọn cướp giết chết.
Đức Phật bị vu oan là giết chết một nữ tu sĩ theo đạo lõa thể. Kinh
sách chép rằng sở dĩ Đức Phật phải chịu tiếng oan như vậy là vì trong một
tiền kiếp, Ngài đã thiếu lễ độ với một vị Độc Giác Phật.
Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) toan giết Đức
Phật, lăn đá từ trên núi cao làm trầy chân Ngài. Kinh sách chép rằng vào
một tiền kiếp xa xôi, Đức Phật đã lỡ tay giết người em khác mẹ trong một
vụ tranh chấp tài sản.
B. Phân loại theo Tác động
Theo một lối phân loại khác, căn cứ trên
tác động, Nghiệp chia làm bốn:
1.- Nghiệp Tái Tạo (Janaka Kamma)
2.- Nghiệp Trợ Duyên (Upatthambhaka Kamma)
3.- Nghiệp Bổ Đồng (Upapidaka Kamma)
4.- Nghiệp Tiêu Diệt (Upaghataka Kamma)
Theo Phật Giáo, chập tư tưởng cuối cùng
của đời sống thật quan trọng, vì trong giờ phút lâm chung, Nghiệp lành hay
dữ có năng lực mạnh nhất tạo điều kiện cho sự tái sanh liền kế đó. Nghiệp
ấy gọi là Nghiệp Tái Tạo (Janaka Kamma).
Cái chết của một chúng sanh chỉ là sự "sự
gián đoạn tạm thời của một hiện tượng tạm thời". Mặc dầu thể xác hiện tại
hoại diệt nhưng một hình thể khác sẽ phát sanh thích ứng tùy theo tư tưởng
mạnh nhất trong giờ lâm chung, và hình thể sau nầy không hoàn toàn giống
hình thể trước mà cũng không tuyệt đối khác. Thể xác tan rã, nhưng luồng
Nghiệp lực vẫn tồn tại. Tiến trình tư tưởng cuối cùng ấy, gọi là "Nghiệp
Tái Tạo", quyết định cảnh giới của kiếp sống tới.
Thông thường, tiến trình tư tưởng cuối
cùng của một người tùy thuộc nơi phẩm hạnh của người ấy trong đời sống.
Tuy nhiên, cũng có trường hợp đặc biệt mà ngoại cảnh tạo cơ hội thuận lợi
hay bất lợi, làm cho một người tốt có thể có những tư tưởng xấu, hay người
xấu có những tư tưởng tốt lúc thở hơi cuối cùng. Chính chập tư tưởng cuối
cùng ấy tạo điều kiện cho sự tái sanh trong kiếp kế. Trong trường hợp nầy
phẩm hạnh của người kia trong đời sống không đem lại ảnh hưởng nào cho sự
tái sanh. Nhưng, như vậy không có nghĩa là quả phải có của những hành động
trong quá khứ đã tiêu tan mất. Quả ấy sẽ trổ sanh đúng lúc và tương xứng
với nhân đã gieo.
Những biến đổi bất ngờ trong lúc tái sanh
giải thích vì sao có những đứa con hung dữ, xấu xa, trong một gia đình
lương thiện và những người hiền lành đạo đức sanh trưởng trong một gia
đình hư hèn tàn ác.
Nghiệp Tái Tạo cũng có thể bị Nghiệp quá
khứ chen vào để trợ lực hay để làm suy nhược và ngăn trở. Những ảnh hưởng
và duy trì gọi là "Nghiệp Trợ Duyên" (Upatthambhaka Kamma).
Những ảnh hưởng làm suy nhược và ngăn trở
gọi là "Nghiệp Bổ Đồng" (Upapidaka Kamma).
Theo định luật Nghiệp Báo, khả năng trổ
quả của Nghiệp Tái Tạo cũng có thể bị một Nghiệp quá khứ khác, nghịch
chiều và mạnh hơn, hoàn toàn tiêu diệt một cách bất ngờ, cũng như một
chướng ngại vật chận đứng sức tiến của một làn tên bay đến là rơi mũi tên
xuống đất. Ảnh hưởng phản nghịch ấy gọi là "Nghiệp Tiêu Diệt" (Upaghataka
Kamma). Nghiệp nầy mạnh hơn hai Nghiệp trên vì chẳng những gây trở ngại mà
còn tiêu diệt hoàn toàn năng lực của một Nghiệp khác.
Trường hợp của Devadatta (Đề Bà Đạt Đa)
được sanh trưởng trong hoàng tộc. Nghiệp Trợ Duyên giúp Ngài trưởng thành
trong hoàn cảnh tiện nghi, sung túc. Đến khi manh tâm chia rẽ Tăng Già,
tạo Nghiệp Bổ Đồng, do Nghiệp nầy Ngài bị trục xuất ra khỏi Giáo Hội và
phải chịu nhục nhã. Sau cùng, Nghiệp Tiêu Diệt dẫn ông vào khổ cảnh.
C. Phân loại theo Báo ứng
Căn cứ trên khả năng báo ứng
(vipakadanavasena), Nghiệp có thể phân làm bốn loại:
1.- Trọng Nghiệp (Garuka Kamma ),
2.- Cận Tử Nghiệp (Asanna Kamma ),
3.- Thường Nghiệp (Acinna Kamma ),
4.- Tích Trữ Nghiệp (Katatta Kamma ).
Loại Nghiệp đầu tiên là "Trọng Nghiệp"
(Garuka Kamma ), có nghĩa là hành động trọng yếu, nghiêm trọng, một cái
Nghiệp nặng, vì nó chắc chắn trổ quả trong kiếp hiện tại hay kế tiếp, sau
kiếp hiện tại. Nếu là một Trọng Nghiệp thuộc về loại "thiện "thì đó là kết
quả của thiền (Jhana). Người đắc tứ Thiền Sắc Giới chẳng hạn thì hưởng quả
vị của Thiền ấy ngay trong kiếp hiện tại hay trong kế tiếp.
Nếu là một Trọng Nghiệp thuộc về loại "bất
thiện", thì đó là hậu quả của năm tội ác, Anantariya Kamma, Ngũ Nghịch Đại
Tội, tức là: giết cha, giết mẹ, giết một vị A La Hán, gây thương tích cho
Đức Phật, và gây chia rẽ Tăng Già.
Đức Phật có lưu ý hàng đệ tử rằng nếu không phạm tội giết cha thì Vua
Ajatasattu (A Xà Thế) đã đắc quả Tu Đà Hườn rồi. Trong trường hợp nầy
Trọng Nghiệp bất thiện được gây ra trước, và ngăn cản tiến bộ tinh thần về
sau.
Nếu không có một Trọng Nghiệp làm điều
kiện cho sự tái sanh trong kiếp kế liền đó, thì "Cận Tử Nghiệp"(Asanna
Kamma ) là nghiệp dắt dẫn đi thọ sanh. Cận Tử Nghiệp là hành vi cuối cùng,
hay hành vi nào mà chập tư tưởng cuối cùng nhớ đến trước khi lâm chung. Vì
lẽ ấy, trong các xứ Phật Giáo thường có tập tục nhắc nhở người sắp lìa
trần những hành vi tốt đẹp của họ trong đời sống, giúp đỡ, khuyến khích họ
tạo một vài nghiệp lành ngay trước giờ lâm chung như đọc kinh, niệm Phật,
bố thí v.v...
Đôi khi người xấu có thể chết một cách yên ổn và tái sanh vào cảnh giới
hữu phúc nếu họ được may mắn hồi nhớ lại, hoặc làm một điều thiện trong
giờ phút cuối cùng. Như vậy không có nghĩa là người ấy - dầu tái sanh
trong nhàn cảnh - tránh khỏi quả dữ của nhân ác đã gieo trong quá khứ.
Mặc khác, một người lành có thể thọ sanh
trong cảnh khổ vì bất thình lình trong giờ phút cuối cùng lại có một hành
vi hay tư tưởng bất thiện. Trong trường hợp nầy cũng vậy, nhân lành đã
gieo sẽ trổ quả đúng lúc, nhưng vì có chập tư tưởng bất thiện cuối cùng,
người ấy phải chịu tái sanh trong cảnh khổ.
Loại nghiệp thứ ba là 'Thường Nghiệp"
(Acinna Kamma). Thường Nghiệp là hành động hằng ngày, những việc làm mà ta
thường lập đi lập lại, hay thường nhắc nhở, nhớ đến, và ưa thích hơn hết.
Những thói quen, lành hay dữ, dần dần trở thành bản chất và ít nhiều uốn
nắn tâm tánh con người. Trong khi nhàn rỗi tâm thường duyên theo những tư
tưởng, những hành vi quen thuộc một cách tự nhiên, lắm khi vô ý thức. Cùng
một thế ấy, trong giờ phút lâm chung, trừ khi bị một ảnh hưởng nào mạnh
hơn, ta thường nhớ lại những hành vi và tư tưởng quen thuộc. Như bác sĩ
thì nhớ bệnh nhân, giáo sư thì nhớ cử tọa v.v...
Sau cùng là "Nghiệp Tích Trữ"(Katatta
Kamma ), bao gồm tất cả những trường hợp không có kể trong ba loại nghiệp
trên. Những trường hợp nào không nằm trong ba loại nghiệp kể trên gom
chung lại thành một loại: Nghiệp Tích Trữ. Nghiệp nầy giống như cái vốn dự
trữ của một cá nhân.
D. Phân loại theo Cảnh giới
Lối phân loại cuối cùng căn cứ trên những
cảnh giới mà quả có thể trổ sanh. Theo lối nầy quả có thể chia làm bốn:
1.- Những hành động bất thiện (akusala)
tạo quả trổ sanh trong Dục Giới (kamaloka),
2.- Những hành động thiện (kusala), tạo quả tái sanh trong Dục Giới,
3.- Những hành động thiện, tạo quả tái sanh trong Sắc Giới (rupaloka),
và
4.- Những hành động thiện, tạo quả tái sanh trong Vô Sắc Giới
(arupaloka).
Những Hành Động Bất Thiện Tạo Quả Trổ Sanh
Trong Dục Giới
Có mười hành động bất thiện, tạo nghiệp
dữ. Trong 10 hành động ấy,
- Ba biểu hiện bằng việc làm (thân nghiệp
) là: sát sanh (panatipata), trộm cắp (adinnadana), và tà dâm (kamesu
micchacara)
- Bốn biểu hiện bằng lời nói (khẫu nghiệp)
là: nói dối (musavada), nói đâm thọc (pisunavaca), nói lời thô lỗ cộc cằn
(pharusavaca), nói nhảm nhí vô ích (samphappalapa).
- Ba biểu hiện bằng tư tưởng (ý nghiệp )
là: tham lam (abhijjha), sân hận (vyapada), và tà kiến (micchaditthi).
Sát sanh là cố ý giết chết một chúng sanh.
Trong Phạn ngữ Panatipata, "pana" có nghĩa là đời sống tâm-vật-lý của một
chúng sanh. Xem thường đời sống, tiêu diệt, cắt đứt, ngăn chặn sức tiến
của năng lực một đời sống, không để nó tiếp tục trôi chảy là panatipata.
"Pana" có nghĩa là cái gì đó có hơi thở.
Do đó tất cả những động vật - gồm cả loài thú - đều được xem là "pana".
Cây cỏ không có phần tinh thần, tuy nhiên giới luật hàng xuất gia không
cho các vị tu sĩ xâm phạm đến đời sống của cỏ cây. Giới nầy không áp dụng
cho người cư sĩ.
Có năm chi tạo nghiệp sát sanh: 1.- Có một
chúng sanh; 2.- Biết rằng đó là một chúng sanh; 3.- Ý muốn giết; 4.- Cố
gắng để giết; 5.- Chính hành động giết chết.
Nghiệp bất thiện được gây nên do hành động
sát sanh nặng hay nhẹ tùy tánh cách quan trọng của chúng sanh bị giết,
lành hay dữ, lớn hay nhỏ v.v... Giết một bậc vĩ nhân hiền đức hay một con
thú to lớn tạo nghiệp nặng hay là giết một tên sát nhân hung dữ hay một
sinh vật bé nhỏ, vì sự cố gắng để thực hiện hành động sát sanh và tai hại
gây ra quan trọng hơn. Quả dữ của nghiệp sát sanh là mạng yểu, bệnh hoạn,
buồn rầu, đau khổ vì nạn chia ly và lo sợ.
Có năm chi tạo nghiệp trộm cắp: 1.- Có một
vật thuộc sở hữu của người khác; 2.- Biết như vậy; 3.- Có ý muốn đoạt vật
ấy làm sở hữu của mình; 4.- Cố gắng trộm cắp; 5.- Chính hành động trộm
cắp. Quả đương nhiên của nghiệp trộm cắp là nghèo nàn, khốn khổ, thất vọng
và làm thân nô lệ.
Có bốn chi tạo nghiệp tà dâm là: 1.- Ý
nghĩ muốn thỏa mãn nhục dục; 2.- Cố gắng tiếp theo; 3.-Tìm phương tiện để
đạt mục tiêu; 4.- Chính hành động tà dâm. Quả đương nhiên của nghiệp tà
dâm là có nhiều kẻ thù, đời sống gia đình (giữa vợ và chồng) không có hạnh
phúc, tái sanh làm đàn bà hay người bán nam bán nữ.
Có bốn chi tạo nghiệp nói dối: 1.- Có sự
giả dối (không chân thật) trong lời nói; 2.- Ý muốn làm người khác hiểu
sai sự thật; 3.- Thốt ra lời; 4.- Tạo sự hiểu biết sai lạc cho người khác.
Quả đương nhiên của nghiệp nói dối là bị mắng chửi nhục mạ, tánh tình đê
tiện, không ai tín nhiệm và miệng thúi.
Có bốn chi tạo nghiệp nói đâm thọc: 1.- Có
những người sẽ là nạn nhân của sự chia rẽ; 2.- Ý muốn phân ly những người
ấy hay muốn lấy lòng một người; 3.- Cố gắng thực hiện tình trạng phân ly;
4.- Thốt ra lời nói đâm thọc. Quả của nghiệp nói đâm thọc là bị chia rẽ
với bạn bè.
Có ba chi để tạo nghiệp nói thô lỗ: 1.-
Một người khác; 2.- Tư tưởng sân hận; 3.- Thốt ra lời thô lỗ. Quả của
nghiệp nói thô lỗ là không làm gì ai cũng bị ghét, tiếng nói khàn khàn.
Có hai chi tạo nghiệp nói nhảm: 1.-Ý muốn
nói chuyện nhảm nhí; 2.- Thốt ra lời nói nhảm. Quả của nghiệp nói nhảm là
thân thể không nở nang đều (có một bộ phận nào trong mình yếu kém), lời
nói không rõ ràng minh bạch làm cho người ta không tin.
Có hai chi tạo nghiệp tham lam: 1.- Vật sở
hữu của người khác; 2.- Tâm thèm muốn, ước mong được làm chủ vật ấy. Quả
của nghiệp tham lam là không được mãn nguyện.
Có hai chi để tạo nghiệp sân hận: 1.- Một
người khác; 2.- Tư tưởng muốn tạo phiền não cho người đó. Quả của nghiệp
sân hận là thân hình xấu xa, nhiều bệnh hoạn và bẩm tánh khó thương.
Tà kiến là thấy sự vật không đúng, hiểu
biết sai lầm, tin rằng không có quả báo.
Có hai chi để tạo nghiệp tà kiến: 1.- Nhìn
sự vật một cách sai lầm; 2.- Khư khư cố chấp quan niệm sai lầm ấy. Hậu quả
đương nhiên của tà kiến là: ham muốn thấp hèn, thiếu trí tuệ, kém thông
minh, bệnh hoạn kinh niên và có những tư tưởng đáng chê trách.
Theo Phật Giáo có 10 loại tà kiến:
1.- Tin rằng không có gì gọi là "để
bát"(dinnam). Câu nầy hàm ý là để bát chư Tăng không đem lại lợi ích gì.
2.- Tin rằng không có gì là "cúng đường"(ittham), hay
3.- "dâng tặng"(hutam). Nơi đây cũng vậy hai câu nầy có nghĩa là để bát
cúng dường Đức Phật và chư Tăng, bố thí vật thực và dâng tặng vật dụng
đến những người cần món ấy không đem lại lợi ích gì.
4.- Tin rằng không có nhân quả. Hành động thiện hay bất thiện đều không
gây hậu quả nào.
5.- Tin rằng không có gì gọi là "thế gian nầy", hay
6.- "Thế gian tới", tức những người sanh ở đây không chấp nhận có kiếp
quá khứ và những người ở đây không chấp nhận một đời sống vị lai.
7.- Tin rằng không có "mẹ", hay "cha". Hai câu nầy ngụ ý rằng đối xử với
cha mẹ như thế nào cũng không đem lại hậu quả gì.
9.- Tin rằng không có chúng sanh chết và tái sanh.
10.- Tin rằng không có những bậc tu sĩ xa lánh chốn phồn hoa đô hội, tìm
nơi vắng vẻ để hành thiền và những bậc thiện trí thức, đức độ cao cả,
đạo hạnh trang nghiêm đã chứng đạt Đạo Quả (ám chỉ chư Phật và chư vị A
La Hán ).
Nghiệp Lành Tạo Quả Trổ Sanh Trong Lục
Giới
Có 10 loại hành động tốt tạo nghiệp lành
(kusalakamma) trổ quả trong Dục Giới là:
1.- Bố thí (dana) hay là lòng quảng đại
rộng rãi;
2.- Trì Giới (sila);
3.- Tham thiền (bhavana);
4.- Lễ bái (apacayana), biết trọng người đáng kính;
5.- Phục vụ (veyyavacca);
6.- Hồi hướng phước báu (pattidana);
7.- Hoan hỷ với phước báu của người khác (anumodana), tâm Hỷ;
8.- Nghe Pháp (dhamma savana);
9.- Hoằng Pháp (dhamma desana); và
10.- Củng cố chánh kiến của mình (ditthijjukamma).
Đôi khi thiện nghiệp thứ bẩy được chia làm hai: "tán dương phước báu
của người khác" (pasamsa) được thêm vào cùng "hoan hỷ với phước báu của
người khác" (anumodana). Điểm thứ 10, chánh kiến cũng được chia làm hai là
qui y Tam Bảo(tisarana) và niệm (anussati).
Nếu tính như thế ấy thì mười thiện nghiệp
trở thành mười hai.
Đức khoan dung quảng đại hay "Tâm Bố Thí" tạo quả dưới hình thức được
nhiều của cải, sự nghiệp. "Trì Giới" đem lại sự tái sanh trong gia tộc quý
phái và hoàn cảnh an lành hạnh phúc. "Tham Thiền" đưa đến sự tái sanh
trong Sắc Giới và Vô Sắc Giới và nâng đỡ, đưa hành giả đến giác ngộ và
giải thoát. Quả của sự "Hồi Hướng Phước Báu" là được một đời sống sung
túc, dồi dào phong phú. "Hoan Hỷ với phước báu của người khác" đem lại
trạng thái an vui, bất luận trong cảnh giới nào. "Nghe Pháp" và "Hoằng
Pháp" đem lại trí tuệ. "Kính Trọng Người Đáng Kính"là nhân tạo quả được có
thân bằng quyến thuộc quý phái thượng lưu. "PhụcVụ" tạo quả dưới hình thức
có nhiều người theo hầu hạ và giúp đỡ. "Tán Dương Hành Động của kẻ khác"
đem lại hậu quả là được nhiều người khen tặng. "Quy Y Tam Bảo" sớm chấm
dứt phiền não. "Niệm" đem lại hạnh phúc dưới nhiều hình thức.
Thiện Nghiệp Tạo Quả Có Thể Trổ Sanh Trong
Sắc Giới
Sau đây là năm tầng thiền Sắc Giới (Rupa
Jhanas) [7] hoàn toàn thuộc về tâm:
1.- Tâm thiện của sơ thiền, gồm: tầm
(vitakka), sát (vicara), phỉ (piti), lạc (sukha), và trụ (ekaggata).
2.- Tâm thiện của nhị thiền gồm: sát, phỉ, lạc, trụ.
3.- Tâm thiện của tam thiền gồm: phỉ, lạc, trụ.
4.- Tâm thiện của tứ thiền gồm: lạc và trụ, và
5.- Tâm thiện của ngũ thiền gồm: xả (upekkha) và trụ.
Mỗi tầng trong năm tầng thiền ấy đều là
nhân tạo quả tương xứng cho hành giả thọ hưởng trong cảnh sắc giới, sau
khi từ bỏ xác thân nầy.
Thiện Nghiệp Tạo Quả Trổ Sanh Trong Vô Sắc
Giới
Có bốn tầng Thiền Vô Sắc tạo quả cho hành
giả thọ hưởng trong những cảnh trời Vô Sắc:
1.- Tâm thiện đeo níu trạng thái "không
vô biên thiên"(Akasanancayatana).
2.- Tâm thiện đeo níu trạng thái "thức vô biên thiên" (Vinnanancayatana)
3.- Tâm thiện đeo níu trạng thái "vô sở hữu thiên"(Akincannacayatana).
4.- Tâm thiện đeo níu trạng thái "phi tưởng, phi phi tưởng
thiên"(Nevasanna nasannayatana). [8]
-ooOoo-
Chú thích:
[1] Dictionary of Philosophy.
[2] Theo triết học Phật Giáo, không lúc
nào không có một loại tâm đang đeo níu một đối tượng, vật chất hay tinh
thần. Nói cách khác, tâm luôn luôn có đối tượng. Đối tượng của tâm có thể
là vật chất như tiếng động, hình sắc hay tinh thần như một tư tưởng, tâm
Từ chẳng hạn. Mỗi chập tư tưởng phát sanh rồi hoại diệt và, trước khi
diệt, tạo điều kiện cho chập tư tưởng kế tiếp phát sanh. Sự tồn tại của
một chập tư tưởng như vậy nhanh đến độ giác quan của con người khó có thể
ý thức được. Những nhà chú giải ghi nhận rằng trong thời gian một cái
nhoáng, có hằng tỷ tỷ chập tư tưởng phát sanh và hoại diệt.
[3] Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 165.
[4] Buddhist Legends -
Dhammapadatthakatha, phần 2, tr. 262.
[5] Buddhist Legends, trang 282.
[6] Theo một vài quyển sách, chính ông đã
giết mẹ.
[7] Theo Vi Diệu Pháp Toát Yếu,
Abhidhammatha Sangaha, Thiền Sắc Giới (Rupa Jhana) có năm tầng, nhưng sách
Visuddhi Magga, Thanh Tịnh Đạo, chỉ nêu lên bốn tầng. Không có nhiều khác
biệt giữa hai lối giải thích. Theo Vi Diệu Pháp, mỗi tầng Thiền (Jhana)
tương ứng với một chi thiền (tầm, sát, phỉ, lạc, trụ). Trong sách Thanh
Tịnh Đạo tầnh nhị thiền không còn hai chi tầm, sát nữa mà chỉ gồm ba chi
thiền: phỉ, lạc, trụ.
[8] Để có thêm chi tiết, xem "A Manual of
Abhidhamma", tác giả Narada Thera, trang 43-56.
4. Tính chất của Nghiệp
"Gieo giống nào, gặt giống
nấy." -- Tạp A Hàm
C húng
ta có phải gặt hái tất cả những nhân đã gieo không? Không nhất thiết phải
như thế. Trong bộ Anguttara Nikaya, Tăng Nhứt A Hàm, Đức Phật dạy:
"Nếu có ai cho rằng con người phải gặt hái
trọn hậu quả theo tất cả những hành động trong quá khứ thì không thể có
đời sống đạo đức, và con người cũng không thể có cơ hội tận diệt phiền
não: Nhưng nếu nói rằng quả phải gặt tương xứng với nhân đã gieo thì ắt có
đời sống đạo đức và con người sẽ có cơ hội dập tắt phiền não." [1]
Như vậy, theo Phật Giáo có thể uốn nắn,
chuyển hoán cái nghiệp, mặc dầu kinh Pháp Cú, câu 127, có dạy:
"Không phải bay lên trời cao, lặn xuống
biển sâu, hay chui vào hang núi, mà ta có thể tìm được nơi nào trên thế
gian nầy để lẫn tránh quả dữ của Nghiệp xấu."
Nếu như phải trả quả của tất cả những
nghiệp đã tạo trong quá khứ thì chúng sanh ắt phải chịu vĩnh viễn sống
trong đau khổ và không thể mong có ngày giải thoát.
Dầu không hoàn toàn làm chủ cái Nghiệp -
vì nhân đã gieo - nhưng ta cũng không tuyệt đối phải bó tay chịu làm nô
lệ. Dầu con người xấu xa đê tiện nhất cũng có thể cố gắng trở nên trong
sạch đạo đức. Chúng ta luôn luôn biến đổi và luôn luôn trở thành một cái
gì mới, và cái mới ấy tùy thuộc chính ta, tùy thuộc nơi hành động của
chính ta. Từng giây, từng phút ta có thể tự cải hoán, làm cho ta trở nên
tốt đẹp hơn, cũng như xấu xa hơn. Dầu người tội lỗi hư hèn nhất cũng không
đáng khinh. Trái lại, nên tạo cho họ một niềm tin tưởng nơi sự cố gắng cải
thiện bẩm chất bình sanh của họ. Nên thương hại họ, biết đâu một lúc nào
trong quá khứ ta cũng cùng ở trong tình trạng với hạng người hư hèn ấy và
ta đã tiến bộ. Hôm nay ở một vị trí thấp kém, họ cũng có thể cố gắng theo
ta và có khi tiến trổi hơn ta.
Ai biết được cái nghiệp đã tích trữ của
một người khác?
Angulimala, tên sát nhân lừng danh khét
tiếng một thời, đã giết chết cả ngàn anh em đồng loại, trở thành một vị A
La Hán và thoát khỏi quả dữ của những hành động tàn ác ấy.
Cô Ambapali, một gái giang hồ biết hồi tâm
tu hành cũng đắc Quả A La Hán.
Alavaka, dạ xoa hung tợn thường ăn thịt
người, từ bỏ thói dữ và cố gắng tu tập, cũng đắc Quả Tu Đà Hườn.
Vua Asoka (A-Dục) có tiếng là hung ác bạo
tàn, trở thành một đấng minh quân, đổi những trận giặc xâm lăng khốc liệt
ra những chiến dịch truyền bá đạo lý cao siêu thâm diệu và giáo huấn từ bi
của Đức Phật, để mưu cầu hạnh phúc cho một phần nhân loại:
"Giữa oai danh của trăm ngàn vua chúa
trong lịch sử nhân loại, danh thơm cao quý vừa hùng vĩ vừa dịu dàng, vừa
trong sáng vừa trầm lặng, của Hoàng Đế A Dục chói ngời rực rờ như một vị
sao tỏ rạng."
Đó là một vài trường hợp hiếm hoi chỉ rằng nhờ ý chí hùng dũng, con
người có thể đổi hẳn tâm tánh, từ xấu ra tốt, từ dữ ra lành.
Trong một vài trường hợp khác, cũng có thể
quả của một nhân yếu mà tái sanh tròn đủ, còn quả của một nhân mạnh lại
được lắng dịu.
Đức Phật dạy:
"Hỡi nầy các Tỳ khưu, người kia không biết
khép mình vào kỹ cương của thân, của đạo lý, của tâm, của trí tuệ, người
kém đạo đức, kém giới hạnh và do đó, sống đau khổ.
"Dầu một hành động tầm thường của người ấy
cũng đủ tạo quả đưa vào cảnh khổ.
" Hỡi nầy các Tỳ khưu, người nọ có nếp
sống kỹ cương về phương diện vật chất cũng như về mặt tinh thần đạo đức,
và trí tuệ, người đạo đức cao thượng, biết làm điều thiện và lấy tâm Từ vô
lượng đối xử với tất cả mọi chúng sanh.
"Người như thế, dầu có một hành động lầm
lạc tầm thường như kể trên, hành động ấy không tạo quả trong hiện tại hay
trong kiếp vị lai. [2]
"Tỷ như có một người kia sớt một muổng
muối vào bát nước. Nầy hỡi các Tỳ khưu, các thầy nghĩ như thế nào? Nước
trong bát có thể trở nên mặn và khó uống không?
- Bạch hóa Đức Thế Tôn, có.
- Tại sao?
- Bạch Đức Thế Tôn, vì nước trong bát thì
ít mà cho vào một muổng muối thì phải mặn.
- Bây giờ, tỷ như người kia đổ muổng muối
ấy xuống sông Hằng (Ganges), nầy hỡi các Tỳ khưu, các thầy nghĩ sao? Nước
sông Hằng có vì muối ấy mà trở nên mặn và khó uống không?
- Bạch hóa Đức Thế Tôn, không?
- Tại sao?
- Bạch Đức Thế Tôn, vì sông Hằng rộng lớn,
nước nhiều, chỉ bấy nhiêu muối ấy không đủ làm mặn.
- Cũng dường thế ấy, có trường hợp người
kia vì phạm một lỗi nhỏ mà chịu cảnh khổ. Người khác cũng tạo một lỗi
tương tợ nhưng gặt quả nhẹ hơn và sau khi chết, quả kia không trổ sanh
nữa, dầu trổ một cách nhẹ nhàng.
"Có thể có trường hợp người kia bị bỏ tù
vì ăn cắp nửa xu, một xu, hay một trăm đồng xu, và cũng trong trường hợp
người nọ không bị bỏ tù vì nửa xu, một xu, hay một trăm đồng xu.
"Ai bị bỏ tù vì nửa xu, một xu, hay một
trăm xu?
"Khi người ta nghèo khổ, túng thiếu, bần
cùng thì dầu chỉ nửa xu, một xu, hay một trăm đồng xu cũng bị bỏ tù.
"Ai không bị bỏ tù vì nữa xu, một xu, hay
một trăm đồng xu?
"Khi người ta giàu có, dư dả, sung túc,
thì không bị bỏ tù vì nửa xu, một xu, hay một trăm đồng xu.
"Cùng một thế ấy, có trường hợp người kia
chỉ có một vài hành động bất thiện nhỏ nhặt mà phải lâm vào cảnh khốn
cùng, và có trường hợp người nọ cũng phạm lỗi lầm y như vậy mà không phải
gặt quả nào trong kiếp hiện tại. Hành động bất thiện ấy cũng không có hậu
quả nhỏ nhen nào sau kiếp sống nầy. [3]"
Nguyên Do Vì Sao Đôi Khi Quả Trổ Sanh Trái Ngược Với Nhân Đã Gieo
Nhân lành tạo quả lành. Nhưng đã gieo nhân
lành rồi còn hối tiếc, đã làm một việc thiện mà còn ăn năn, hối hận, thì
quả trổ sanh không được tương xứng với nhân.
Tích chuyện sau đây là một ví dụ:
Ngày kia Vua Pasenadi xứ Kosala đến hầu
Đức Phật và bạch rằng:
"Bạch Đức Thế Tôn, tại thành Savatthi (Xá
Vệ) có một nhà triệu phú vừa qua đời mà không có người thừa kế. Vì lẽ ấy
bao nhiêu tài sản của ông, gồm hàng trăm thoi vàng, ngoài số bạc và của
cải khác, đều được bổ xung vào kho. Bạch Đức Thế Tôn, người giàu có lúc ấy
còn sanh tiền sống thật kham khổ, ăn thì chỉ cơm nát với thức ăn thừa và
thiu, mặc thì chỉ dùng vải thô và chỉ gai, còn di chuyển thì chỉ có một
chiếc xe cũ kỹ với con ngựa gầy."
Đức Phật dạy:
"Mặc dầu vậy, trong một tiền kiếp nhà
triệu phú ấy thường để bát cúng dường đến một vị Độc Giác Phật tên là
Taragasikhi. Tuy để bát cúng dường nhưng ông không bao giờ quan tâm đến
công đức ấy. Ông lại có ý hối tiếc vì đã mất của, và tự nghĩ thầm: 'Phải
chi ta để dành vật thực ấy cho người ăn kẻ ở trong nhà còn hơn.' Ngoài ra,
ông còn giết chết một người cháu để sang đoạt gia tài.
"Do quả lành của công đức bố thí cúng
dường, ông tái sanh bảy lần trong cảnh Trời. Cũng do quả lành ấy ông tái
sanh bảy lần làm triệu phú tại thành Savatthi (Xá Vệ) nầy. Vì ông đã hối
tiếc, nghĩ thầm rằng: 'Phải chi ta để dành vật thực ấy cho người ăn kẻ ở
trong nhà còn hơn', nên mặc dầu giàu có, ông không thể toại hưởng sự
nghiệp vĩ đại ấy, không dám ăn ngon, không dám mặc đẹp, luôn luôn lo sợ
hết của, không dám nhờ tiền để tạo tiện nghi cho đời sống vật chất.
"Vì đã giết chết một người cháu để sang
đoạt tài sản, nhà triệu phú độc ác ấy phải chịu đau đớn nhiều năm, nhiều
trăm năm, trong cảnh khổ. Và cũng vì hành động ác độc ấy ông phải chịu
tuyệt dòng liên tiếp trong bảy kiếp, do đó bao nhiêu tài sản của ông phải
bị xung vào quốc khố. [4]"
Nhà triệu phú được một sự nghiệp vĩ đại
nhờ nhân tốt đã gieo. Tuy nhiên đã gieo nhân lành mà còn hối tiếc nên dù
được sự nghiệp lớn lao, ông không được hưởng.
Duyên Hỗ Trợ và Duyên Trở Ngại
Trong sự báo ứng của nghiệp ta nên biết
rằng có những năng lực hỗ trợ, nâng đỡ, tạo điều kiện, trợ duyên cho quả
sớm trổ sanh, và ngược lại cũng có những năng lực kiềm hãm, ngăn chặn,
không cho quả trổ sanh, hay nghịch duyên.
Sự sanh trưởng (gati), thời gian hay hoàn
cảnh (kala), nhân cách hay tướng mạo (upadhi), và sự nỗ lực cố gắng
(payoga) là những năng lực trợ duyên hay nghịch duyên, hỗ trợ hay ngăn cản
quả trổ sanh.
Thí dụ như người kia sanh trưởng trong một
gia đình quý phái, giàu sang, hay trong hoàn cảnh an lành, sự tái sanh tốt
ấy đôi khi là một năng lực ngăn chặn không cho quả dữ trổ sanh.
Trái lại, người nọ sanh trưởng trong gia
đình ghèo khó khốn cùng, hay trong cảnh khổ, sự tái sanh bất hạnh của
người nầy tạo điều kiện thuận tiện cho quả dữ trổ sanh.
Danh từ Phật Giáo gọi những năng lực ấy là
"tái sanh thuận lợi" (gati sampatti) và "tái sanh bất thuật lợi" (gati
vipatti).
Người kia, dầu không phải là hạng thông
minh, mà nhờ có Nghiệp tốt, sanh trưởng trong hoàng tộc thì cũng được
thiên hạ kính nể kiêng vì. Nếu cũng kém thông minh như người ấy mà sanh
trong gia đình túng thiếu bần hàn thì ắt không được kính trọng như vậy.
Đức vua Dutthagamani xứ Tích Lan gieo nhân xấu vì đã gây chiến tranh
chống tộc Tamil, đồng thời cũng tạo nhiều Nghiệp tốt do các công tác từ
thiện có tánh cách tôn giáo và xã hội. Nhờ Nghiệp Tái Tạo tốt ấy Ngài được
tái sanh vào cỏi Trời. Tục truyền rằng đến thời Đức Phật Di Lạc (Metteya)
ra đời, Ngài sẽ trở xuống một lần chót. Nhân bất thiện mà Ngài đã gieo
không trổ quả, nhờ được "tái sanh thuận lợi" trong hoàn cảnh tốt.
Trường hợp vua Ajatasattu (A-Xà-Thế) là
một thí dụ khác. Phạm trọng tội giết cha, nhưng về sau ông đến gần Đức
Phật và trở nên một vị minh quân có tâm đạo nhiệt thành. Vì mang trọng
giết cha, ông phải tái sanh vào cảnh khổ, và do sự tái sanh bất thuận lợi
ấy, bao nhiêu nhân lành ông đã gieo không đủ duyên hỗ trợ để trổ quả .
Dung mạo đẹp đẽ (upadhi sampatti) hay xấu
xa (upadhi vipatti) là hai yếu tố khác có thể hộ trợ hay gây trở ngại cho
sự báo ứng của Nghiệp.
Nếu nhờ Nghiệp tốt mà người kia được tái
sanh thuận lợi, nhưng bất hạnh phải tật nguyền hay có tướng mạo dung nhan
xấu xí thì cũng không hoàn toàn trọn hưởng phước lành của mình. Một vị
hoàng tử đáng lẽ phải nối ngôi cha để trị vì thiên hạ, nhưng nếu vị ấy tật
nguyền cũng có thể đó là một trở ngại, không được lên ngôi báu.
Trái lại, diện mạo phương phi là yếu tố
giúp thành công. Một đứa trẻ tuy nghèo nhưng mặt mày thông minh sáng sủa
có thể làm cho người khác chú ý đến và gieo ít nhiều thiện cảm đến người
khác.
Thời gian hay cơ hội thuận lợi và bất
thuật lợi (kalasampatti và kalavipatti) là hai yếu tố khác có thể ảnh
hưởng đến sự báo ứng của Nghiệp. Thí trong một thiên tai, tất cả đều phải
cùng chung chịu một số phận. Đó là điều kiện bất thuận lợi, trợ duyên cho
nghiệp xấu trổ sanh. Cũng có những điều kiện thuận lợi làm suy giảm năng
lực hoặc ngăn chặn không cho Nghiệp xấu trổ sanh.
Trong các năng lực trợ duyên và nghịch
duyên, hạnh tinh tấn hay sự nỗ lực cố gắng (payoga) là quan trọng hơn tất
cả. Trong sự báo ứng xủa Nghiệp, tình trạng cố gắng hay thiếu cố gắng giữ
một vai trò chánh yếu. Do cố gắng trong hiện tại, ta có thể chuyển Nghiệp,
tạo Nghiệp mới, hoàn cảnh mới, môi trường mới, cả một thế giới mới.
Dầu có điều kiện thuận lợi và được trợ
duyên đầy đủ mà nếu không nỗ lực cố gắng thì chẳng nhưng ta bỏ mất cơ hội
quý báu, mà có khi còn hoang phí cả sự nghiệp, vật chất hay tinh thần.
Nếu bệnh mà không tìm thầy thuốc. Nếu gặp
khó khăn mà không cố gắng giải quyết, không nỗ lực để vượt qua, thì quả dữ
ắt được trợ duyên đầy đủ để trổ sanh. Trái lại, nếu ta tận lực cố gắng để
vượt qua mọi khó khăn, luôn luôn cải thiện hoàn cảnh, tận dụng mọi khả
năng mọi cơ hội hiếm có để vững vàng tiến bộ thật sự, Nghiệp tốt sẽ được
trợ duyên đầy đủ để trổ sanh.
Mặc dầu không hoàn toàn làm nô lệ cũng
không tuyệt đối làm chủ cái Nghiệp, chắc chắn là những yếu tố trợ lực và
nghịch duyên ấy cũng ảnh hưởng phần nào năng lực báo ứng của Nghiệp, do sự
tái sanh, hoàn cảnh, cá tính, cố gắng cá nhân, và những yếu tố tương tợ.
Chính lý Nghiệp Báo đem lại cho người Phật tử sự an ủi, niềm hy vọng, chỗ
nương tựa và khích lệ tinh thần để có thể đảm vững bước trên con đường
tiến bộ.
Khi có việc bất chắc xảy đến, khi gặp trợ
ngại, khó khăn, thất bại, và hoàn cảnh bất hạnh, người Phật tử nhận định
rằng mình đang gặt hái giống nào mà trước kia chính mình đã gieo, mình
đang trang trãi một món nợ đã vay lúc nào trong quá khứ.
Tuy nhiên, thay vì phải bó tay chịu quy
hàng hoàn cảnh để cho định luật Nghiệp Báo tự nhiên diễn tiến, người Phật
tử tận lực cố gắng diệt trừ, bứng tận gốc rễ giống cỏ xấu, và gieo trồng
những giống tốt. Tương lai hoàn toàn nằm trong tay ta.
Người tin tưởng lý Nghiệp Báo không khi
nào lên án kẻ hư hèn tội lỗi bởi vì mọi người đều có khả năng và cơ hội để
tự cải thiện bất cứ lúc nào. Người kia dầu phải chịu đau khổ trong hiện
tại nhưng vẫn có hy vọng như mọi người, rằng trong một ngày tươi đẹp nào,
chính mình cũng có thể đạt Đạo Quả cao thượng, an vui hạnh phúc vĩnh cửu
trường tồn. Ta tạo địa ngục cho ta, do chính hành động của ta. Cũng do
hành động của chính ta, ta tạo thiên đàng cho ta.
Một người Phật tử thuần thành và hiểu biết
chắc chắn định luật Nghiệp Báo không khi nào van vái cầu xin được cứu rỗi.
Trái lại, đặt trọn niềm tin nơi chính mình, nơi hạnh tinh tấn của mình, để
được giải thoát. Thay vì bó tay đầu hàng hay vuốt ve tâng bốc một thần lực
siêu nhân nào, người Phật tử đặt trọn niềm tin mình trên ý trí của mình,
và không ngừng hoạt động để tạo an lành cho tất cả.
Niềm tin vững chắc nơi Nghiệp Báo "nâng
cao giá trị của hạnh tinh tấn và kích thích lòng nhiệt thành", bởi vì lý
Nghiệp Báo dạy mỗi người phải lãnh lấy trách nhiệm của mình.
Đối với người Phật tử sơ cơ, định luật Nghiệp Báo là một điều răn. Với
hạng người trí thức, Nghiệp Báo là một khích lệ.
Luật Nhân Quả giải thích vấn đề đau khổ,
giải thích tình trạng bí ẩn của cái được gọi là Số Mạng và Tiền Định của
một vài tôn giáo và, trên hết, giải thích hoàn cảnh chênh lệch giũa loài
người, giữa chúng sanh.
Chúng ta là vị kiến trúc sư xây đắp số
phận của chúng ta. Chính ta tạo ra hay tiệu diệt ta. Chính ta tạo thiên
đàng cho ta và cũng chính ta tạo địa ngục cho ta.
Những gì ta nghĩ, nói, và làm, là của ta.
Chính tư tưởng, lời nói và hành động là Nhgiệp. Và Nghiệp đưa ta lên hay
xuống từ kiếp nầy sang kiếp khác, mãi mãi trong vòng luân hồi.
Đức Phật dạy:
"Phước và tội mà con người tạo ra là những
gì mà con người làm chủ, những gì đưa con người đi, từ nơi nầy...
Là những gì bén gót chạy theo con người như bóng theo hình.
Vậy, từ đây con người hãy tích trữ cái tốt để đem đi nơi khác, trong tương
lai.
Hãy tạo một nền tảng vững chắc cho thế gian ngày mai." [5]
-ooOoo-
Chú thích:
[1] Anguttara Nikaya, Tăng Nhứt A Hàm,
phần 1, trang 249. Xem Warren, "Buddhism in Translations", trang 218.
[2] Đức Phật muốn ám chỉ các vị A La Hán.
[3] Aguttara Nikaya, Tăng Nhứt A Hàm, phần
1, trang 249, Xem Warren, "Buddhism in Translations", trang 218.
[4] Samyutta Nikaya, Tạp A Hàm, phần i,
trang 91. Xem Warren, "Buddhism in Translations", trang 296; và Grimm,
"The Doctrine of the Buddha", trang 248.
[5] Kindred Sayings, phần i, trang 98.
-ooOoo-
Ðầu trang |
Phần I | Phần II |