BuddhaSasana Home Page Những
vấn đề của kiếp nhân sinh Hòa thượng
Narada Con người là ai? Từ
đâu đến? Ði về đâu? Tại sao? Mục tiêu của đời sống
là gì? Ðó là vài thắc mắc
quan trọng thường làm bận tâm toàn thể nhân loại. Con người là ai? Ðó
là câu hỏi đầu tiên của chúng ta.
Chúng ta hãy tuần tự
nghiên cứu. Trước tiên hãy khảo sát những gì tự nó biểu
hiện hiển nhiên mà mọi người đều có thể nhận ra. Con người có một cơ
thể vật chất mà giác quan của chúng ta có thể cảm nhận,
trực tiếp hay xuyên qua những dụng cụ. Cơ thể vật chất
nầy bao gồm những năng lực và những tính chất luôn luôn
biến chuyển. Nhà khoa học nhận thấy
khó mà định nghĩa vật chất là gì? Vài triết gia giải rằng,
"vật chất là cái gì trong đó có những biến đổi liên
tục diễn tiến gọi là di động, và di động là những biến
chuyển xảy diễn bên trong vật chất ấy." (Ouspensky, Tertium
Organium, trang 8.) Danh từ Pàli gọi vật
chất là Rùpa, Sắc. Sắc được giải thích là cái gì biến
đổi hay hư hoại. Sắc hay vật chất cũng được giải thích
là cái gì tự nó biểu hiện thành hình. Theo Phật Giáo, vật chất
được cấu thành do bốn nguyên tố căn bản là Pathavi
(Ðất), Àpo (Nước), Tejo (Lửa) và Vàyo
(Gió). Pathavi (Ðất),
là nguyên tố có đặc tính duỗi ra, nền tảng của vật chất.
Nếu không có nguyên tố Ðất, vật thể không thể chiếm
không gian. Tính chất cứng hay mềm chỉ là hai điều kiện
tương đối của nguyên tố Ðất. Nguyên tố Ðất luôn
luôn hiện hữu trong đất, nước, lửa và không khí. Thí dụ
như lớp nước ở dưới nâng đỡ lớp nước trên. Chính
nguyên tố Ðất, có đặc tính duỗi ra, hợp với nguyên tố
Gió, có đặc tính di động, đã tạo áp lực hướng lên
trên và do đó nâng đỡ lớp nước ở phần trên. Nước nóng
hay lạnh là do nguyên tố Lửa, Tejo. Thể lỏng của nước
do nguyên tố Nước (Àpo). Àpo (Nước)
là nguyên tố có đặc tính kết hợp lại và làm dính liền.
Không giống như với nguyên tố Ðất, ta không thể cảm nhận
nguyên tố Nước (Àpo) bằng xúc giác, tức không thể
nhận ra, hay biết nó được, bằng cách sờ đụng. Ðây là
nguyên tố có đặc tính kết hợp lại, làm dính liền nhau
những phần tử rời rạc của vật chất và cho ta ý niệm
vật thể.
Tejo
(Lửa) là nguyên tố có đặc tính nóng. Lạnh cũng là một
hình thức của Lửa (Tejo). Cả hai, nóng và lạnh, đều
là đặc tính của Lửa, bởi vì cả hai đều có khả năng
làm đổi thay, làm cho già, cho chín hay nói cách khác, tạo
sinh lực cho vật thể. Một vật được duy trì gìn giữ
lâu bền, hay bị hư hoại là do nguyên tố Lửa. Vàyo
(Gió) là nguyên tố có đặc tính di động. Có sự chuyển
động là do nơi nguyên tố nầy. Trạng thái di động được
xem là năng lực hay nguyên động lực làm phát sanh hơi nóng.
Di động và sức nóng trong lãnh vực vật chất cũng tương
ứng với nhau giống như tâm và nghiệp trong phạm vi tinh thần.
Bốn năng lực hùng mạnh
nầy tương quan với nhau mật thiết và không thể tách rời
lìa khỏi nhau. Nhưng trong một vật thể, thành phần nầy
có thể trội hơn thành phần khác. Như trong đất chẳng hạn,
nguyên tố Ðất trội hơn ba nguyên tố kia. Trong nước thì
nguyên tố Nước trội hơn v.v... Như vậy, Sắc (Rùpa)
bao gồm những năng lực và những tính chất trong trạng
thái luôn luôn biến chuyển, không bao giờ tồn tại giống
hệt trong hai khoảnh khắc kế tiếp. Theo Phật Giáo, Sắc (Rùpa)
chỉ tồn tại trong thời gian 17 chặp tư tưởng. (Chặp tư
tưởng -- cũng được gọi là sát-na tâm. Trong thời
gian của một cái nhoáng trời chớp, hằng tỷ tỷ chặp tư
tưởng có thể phát sanh) Theo các nhà sinh vật học,
vào lúc bà mẹ thọ thai, con người chỉ thừa hưởng nơi
cha mẹ một tế bào cực kỳ vi tế là một phần ba chục
triệu (1/30,000.000) bề kính, của một phân Anh (inch).
"Trong vòng chín tháng, đớm nhỏ cực vi nầy trở thành
một khối sinh vật 15,000 triệu lần lớn hơn lúc ban sơ"
(Sir Charles Sherrington -- Life's Unfolding, trang 32). Tế bào
vật-lý-hóa nầy là nền tảng vật chất của con người.
Theo Phật Giáo, nam tính hay nữ tính của một người được
quyết định vào lúc mẹ thọ thai. Phối hợp với phần vật
chất (Sắc), trong guồng máy phức tạp của con người còn
có một yếu tố quan trọng. Ðó là cái tâm. Cũng như có
vài tác giả uyên thâm thích nói, rằng con người không phải
là "Tâm cộng với Thân", hay "Danh và Sắc",
mà là "Danh-Sắc", một sự phối hợp chặt chẽ giữa
hai thành phần--vật chất và tâm linh. Các nhà khoa học nói
rằng đời sống khởi sanh từ vật chất, và tâm (phát
sanh) từ đời sống. Nhưng các vị nầy không cung ứng cho
ta một giải thích thỏa đáng về lịch trình phát triển của
tâm. Không giống như cơ thể
vật chất, ta không thể thấy cái tâm vô hình tướng, tuy
nhiên có thể trực tiếp thọ cảm. Có hai câu nói của người
thời xưa như sau: Tâm là gì? -- Không có
vật chất. Chúng ta hay biết, nhận
ra những tư tưởng, những cảm giác v.v... bằng cách trực
tiếp tri giác, và chúng ta suy luận rằng người khác cũng
tri giác cùng một thế ấy. Tiếng Pàli có nhiều
danh từ để chỉ cái tâm, trong đó ba danh từ mana, citta
và vinnàna là thông dụng nhất. Chúng ta hãy so sánh căn
"man", có nghĩa suy tư, với chữ "man"
trong tiếng Anh, có nghĩa con người, và Phạn ngữ "manussa",
có nghĩa người đã có tâm thức được phát triển. Trong Phật Giáo không
có sự phân biệt giữa "tâm" (citta) và
"thức" (vinnàna). Hai danh từ nầy được xử
dụng đồng nghĩa với nhau. Tâm chỉ giản dị được định
nghĩa là "sự hay biết đối tượng", bởi vì không
có một thực thể tác động, hay một linh hồn chỉ đạo tất
cả những sinh hoạt tâm linh. Chỉ có những trạng thái tâm
luôn luôn sanh rồi diệt nhanh như chớp. Sông từ nguồn chảy
ra biển cả. Trong dòng trôi chảy, sông tiếp nhận những luồng
nước mới từ các rạch ngòi đổ vào. "Với sự sanh
là nguồn và tử là cửa biển, tâm đều đặn trôi chảy
như một dòng sông, không ngừng tiếp nhận những luồng nước
khác nhau do các rạch ngòi giác quan cung ứng." Mỗi chặp tư tưởng
(sát na tâm) của dòng đời luôn luôn biến đổi nầy khi diệt,
chuyển trao tất cả năng lực, tất cả những cảm xúc đã
thâu nhận và không thể xóa bỏ, cho chặp tư tưởng kế đến.
Như vậy, mỗi chặp tư tưởng mới bao gồm những tiềm
năng của chặp trước và thêm vào những gì khác. Vì tất
cả những cảm xúc đã được ghi nhận vững chắc trong cái
tâm luôn luôn biến đổi, và bởi vì tất cả những tiềm
năng đều được chuyển trao từ kiếp sống nầy sang kiếp
khác nên có người còn có thể nhớ lại tiền kiếp, hoặc
một vài diễn biến của tiền kiếp, mặc dầu cơ thể đã
trải qua giai đoạn tạm thời hoại diệt. Nếu trí nhớ chỉ
tùy thuộc vỏn vẹn nơi bộ óc, thì khi cân não hoại diệt
cùng với cơ thể vật chất ắt không ai còn hồi nhớ gì. Như điện lực, tâm
có khả năng rất hùng mạnh, để xây dựng cũng như để
tiêu diệt, và giống như một khí giới bén cả hai bề mà
ta có thể xử dụng để làm điều phải hay điều quấy.
Chỉ một tư tưởng phát sanh trong cái tâm vô hình nầy cũng
có thể cứu vãn hay tiêu diệt thế gian. Một ý nghĩ có thể
giúp an cư lạc nghiệp hay tàn phá toàn thể một quốc gia.
Chính tâm tạo thiên đàng cho ta, cũng chính tâm tạo địa
ngục cho ta. Ouspenky viết: "Về năng lực ngủ
ngầm trong các hiện tượng tâm linh, chẳng hạn như trong những
tư tưởng, những cảm giác, những ham muốn, chúng ta khám
phá rằng tiềm năng của nó càng vô lượng vô biên hơn. Do
kinh nghiệm bản thân, do công trình khảo sát, do những văn
kiện lịch sử, chúng ta biết rằng những ý nghĩ, những cảm
giác, những ham muốn tự nó biểu hiện, có thể phóng
thích vô số năng lực và tạo nên chuỗi dài vô tận những
hiện tượng. Một tư tưởng có thể tác động trong nhiều
thế kỷ, nhiều ngàn năm, chỉ tăng trưởng và ăn sâu
thêm, không ngừng khơi dậy những hiện tượng mới, luôn
luôn giải phóng những năng lực mới. Chúng ta biết rằng tư
tưởng tiếp tục sống và tác động chí đến khi chính
danh tánh của người tạo ra nó đã biến thành nhân vật của
thần thoại truyền kỳ, như tên tuổi của các vị đã
sáng lập những tôn giáo cổ xưa, những thi gia thời cổ đã
làm ra những vần thơ bất hủ, các đấng anh hùng, những bậc
lãnh đạo và những nhà tiên tri. Lời nói của các vị nầy
vẫn còn được vô số những cặp môi lặp đi nhắc lại và
vẫn còn được chúng ta học hỏi và luận bình. "Mỗi tư tưởng của
một nhà thơ chắc chắn chứa đựng tiềm năng vô cùng trọng
đại -- như năng lực tiềm ẩn trong một cục than đá hay một
tế bào sống -- nhưng cũng vô cùng vi tế, không thể cân lường,
nhưng thật sự hùng mạnh."- (Ouspensky, "Tertium
Organum", trang 125). Chúng ta thử khảo sát
tiềm năng chứa đựng trong những lời dạy có ý nghĩa sau
đây của Ðức Phật: Mano-pubbangamà dhammà -
mano-setthà manomayà. Theo Phật Giáo, tâm hay
thức phát hiện ngay vào lúc được thọ thai, cùng một lúc
với phần vật chất. Như vậy, thức vẫn có hiện hữu
trong thai bào. Cái thức sơ khởi ấy mà kinh sách gọi là thức-tái-sanh,
hay thức-nối-liền (patisandhi vinnàna) khởi sanh do nghiệp
quá khứ của đương sự tạo duyên. Sự khác biệt tế nhị
về tinh thần, trí thức và đạo đức giữa những người
khác nhau của nhân loại là do cái thức được nghiệp quá
khứ tạo duyên của mỗi người. Thức-tái-sanh là yếu tố
thứ nhì của con người. Yếu tố thứ nhất là phần vật
chất, do cha mẹ cung cấp. Ðể cho đủ ba thành
phần tạo nên con người, còn có yếu tố thứ ba, hiện tượng
sống, tạo sinh lực cho cả hai, tâm và vật chất, hay Danh
và Sắc. Do có sinh lực thai mới trụ và có sự tái sanh.
Sinh lực biểu hiện trong cả hai hiện tượng, vật chất và
tâm linh. Danh từ Pàli để chỉ hai hình thức sinh lực ấy
là Nàmajivitindriya, Danh Sinh Lực và Rùpajivitindriya,
Sắc Sinh Lực, tức sức sống của phần tâm linh và sức sống
của cơ thể vật chất. Như vậy, vật chất, tâm,
và sinh lực, là ba yếu tố khác biệt tạo nên con người.
Với sự phối hợp của ba yếu tố nầy một năng lực gọi
là con người được thành hình với những khả năng không
thể quan niệm được. Con người tự tạo nên mình, cũng chính
con người tự tiêu diệt lấy mình. Bên trong con người có
một đống rác tật xấu và một kho tàng đức hạnh. Ta có
thể tìm thấy trong con người bản chất sâu bọ, cầm thú,
người, siêu nhân, trời, Phạm Thiên. Những khuynh hướng tội
lỗi và những tâm tánh thánh thiện đều có ngủ ngầm
trong đó. Con người có thể là một phước lành hay một tội
khổ cho mình và cho kẻ khác. Trong thực tế, con người tự
mình là cả một thế giới. Từ Ðâu Ðến?
là câu hỏi thứ nhì.
Khởi thủy, con người
phát sanh như thế nào? Hoặc có một khởi điểm
từ đó con người bắt đầu hiện hữu, hoặc không có khởi
điểm. Những vị thuộc trường phái đầu chủ trương có
một nguyên nhân đầu tiên, một năng lực của vũ trụ, hay
một Thần Linh Vạn Năng. Trường phái thứ nhì phủ nhận một
nguyên nhân đầu tiên bởi vì, theo kinh nghiệm chung, nhân trở
thành quả và quả trở thành nhân, trong một tiến trình
mãi mãi liên tục. Trong vòng quanh nhân quả ta không thể
quan niệm một khởi điểm. Theo luồng tư tưởng đầu thì
có một khởi điểm. Luồng tư tưởng thứ nhì chủ trương
không có. Theo nhận xét của vài người, quan niệm có một
nguyên nhân đầu tiên cũng vô lý như quan niệm có hình tam
giác mà tròn. Theo quan điểm của
khoa học, con người là sản phẩm trực tiếp của tinh
trùng và minh châu do cha và mẹ cung ứng. Trong khi quả quyết,
"Omne vivum ex vivo" --tất cả sự sống đều phát
sanh từ sự sống -- nhà khoa học cũng chủ trương rằng tâm
và sự sống phát nguyên từ trạng thái không có sự sống. Bây giờ, theo quan điểm
của nhà khoa học, con người được sanh ra hoàn toàn do cha
mẹ. Như vậy đời sống đến trước đời sống. [2] Ðối
với nguyên do của nguyên sanh chất đầu tiên của đời sống
(nguyên sanh chất đầu tiên -- gọi là protoplasm hay colloid.),
nhà khoa học nói không biết. Theo Phật Giáo, con người
được sanh ra từ bào thai hành động (kammayoni, bào
thai nghiệp). Cha mẹ chỉ cung ứng phần vật chất. Như vậy,
chúng sanh đến trước chúng sanh. Vào lúc được thọ thai,
chính nghiệp tạo duyên để thức đầu tiên làm nguồn sống
cho thai bào. Chính nghiệp lực vô hình phát sanh từ kiếp sống
quá khứ tạo những hiện tượng "tâm linh" và hiện
tượng "sinh lực" trong hiện tượng "vật chất"
sẵn có, hội đủ ba yếu tố (tam nguyên) cấu thành con người. Ðề cập đến vấn đề
thọ thai của chúng sanh, Ðức Phật tuyên ngôn; "Nơi nào có đủ
ba yếu tố phối hợp là mầm sống bắt đầu. Nếu cha và
mẹ gặp nhau mà không nhằm thời kỳ thọ thai của mẹ và
không có một chủng tử (gandhabba), thì không có mầm
sống. Nếu cha mẹ gặp nhau vào thời kỳ thọ thai của mẹ
mà không có một chủng tử hiện hữu, thì cũng không có mầm
sống. Nếu cha và mẹ gặp nhau vào thời kỳ thọ thai của
mẹ và có một chủng tử hiện hữu, chừng ấy, do sự phối
hợp của ba yếu tố, mầm sống bắt đầu." Nơi đây danh từ "gandhabba",
được phiên dịch là chủng tử, là một chúng sanh sẵn
sàng được sanh vào bào thai, chỉ dùng trong trường hợp riêng
biệt nầy. Ta không nên lầm lẫn với một linh hồn trường
cửu. Cho đặng có một
chúng sanh được thọ thai ở nơi nầy phải có một chúng
sanh chết ở một nơi nào khác. Cái sanh của một chúng sanh
trong hiện tại tương ứng với cái chết của một chúng
sanh trong kiếp vừa qua; cũng giống như thông thường ta nói
rằng mặt trời mọc ở một nơi có nghĩa là mặt trời lặn
ở một nơi khác. Ðức Phật dạy rằng: "Một khởi điểm
đầu tiên của chúng sanh -- vốn bị che lấp mù mịt trong
vô minh, bị trói buộc chặt chẽ trong ái dục, và triền
miên thênh thang bất định -- quả thật không thể quan niệm." Dòng đời trôi chảy
vô cùng tận ngày nào còn tiếp nhận bùn nhơ nước đục của
vô minh và ái dục. Chỉ khi nào chận đứng được hai luồng
rạch ngòi ô nhiễm nầy đời sống mới ngừng trôi chảy,
hiện tượng tái sanh mới không còn xảy diễn, như trường
hợp chư Phật và chư vị A La Hán. Trong khi còn mang nặng
vô minh và ái dục ta không thể nhận thức khởi điểm cùng
tột của dòng đời. Ðức Phật chỉ đề cập đến như
"khởi thủy của dòng đời" của chúng sanh. Hãy để
cho các nhà khoa học suy cứu về vấn đề nầy. Ði về đâu?
là câu hỏi thứ ba. Từ đây rồi con người sẽ đi về đâu? Theo chủ thuyết vật
chất của thời xưa -- mà danh từ Pàli và Samskrit đều gọi
là Lokàyata -- con người hoàn toàn tuyệt diệt sau khi
chết, bỏ lại sau lưng bất luận năng lực nào phát nguyên
trong đời sống. "Con người do bốn
nguyên tố cấu thành. Khi chết rồi thì nguyên tố Ðất trở
về và tan biến trong lòng đất; nguyên tố Nước trở về
với nước; nguyên tố Lửa trở về với lửa và nguyên tố
Gió trở về hòa tan trong không khí; giác quan tan biến trong
không gian. Người trí cũng như kẻ ngu, một khi thể xác tan
rã thì tất cả đều chấm dứt, hoại diệt, không còn tồn
tại nữa. Không có thế gian nào khác. Cái chết là mức tận
cùng của tất cả. Chỉ có thế gian hiện tại là thật
có. Cái được gọi là thiên đàng và địa ngục trường cửu
là những phát minh của hạng người gian manh mong vụ lợi."
(Sri Radhakrishna -- Indian Philosophy, tập I, trang 278.) Người sống theo chủ
thuyết duy vật chỉ tin những gì mà giác quan có thể cảm
nhận. Do đó, chỉ có vật chất là thực tại. Khởi nguyên
cùng tột là Tứ Ðại: Ðất, Nước, Lửa, Gió, và từ đó
đời sống tâm linh nhảy vọt ra một cách bí ẩn, giống như
ông thần xuất hiện khi Aladin chà tay trên ngọn đèn. Não
tiết ra tư tưởng cũng như gan tiết ra mật. Như Sri Radhakrisna tuyên
bố: Dưới cái nhìn của con người duy vật, tin có một thế
giới khác "là dấu hiệu của sự giả dối ươn hèn của
người có tính đàn bà, yếu ớt, hèn nhát và bất lương." Theo Cơ Ðốc Giáo, con
người không có dĩ vãng. Hiện tại chỉ là thời gian chuẩn
bị để tiến đến hoặc thiên đàng vĩnh cửu, hoặc địa
ngục trường tồn. Dầu xem đó là hai nơi chốn hay hai trạng
thái trong tương lai, con người sẽ hưởng lạc thú vô cùng
tận trên thiên đàng, hoặc vĩnh viễn phải chịu đau khổ
dưới địa ngục. Vậy sau khi chết con người không tuyệt
diệt mà phần tinh túy sẽ vĩnh cửu trường tồn. Schopenhaeur nói: "Bất cứ ai tự
xem mình được sanh ra từ hư không cũng phải nghĩ rằng mình
sẽ trở lại thành hư không; hoặc nữa, cho rằng trước
khi có mình đã có một quá khứ vô tận, rồi một thời
gian vô tận thứ nhì lại bắt đầu, và xuyên qua thời gian
ấy, ta không bao giờ ngừng sống. Thật là một ý nghĩ quái
dị." Tín đồ Ấn Ðộ Giáo
tin có quá khứ và hiện tại, và không chủ trương rằng
sau khi chết con người sẽ hoàn toàn tiêu diệt. Họ cũng không
cho rằng con người sẽ vĩnh cửu trường tồn. Họ tin có một
chuỗi dài những kiếp sống quá khứ và vị lai. Theo họ,
luồng sống của con người chảy trôi vô cùng tận ngày
nào mà nghiệp lực, tức năng lực của hành động, còn đủ
sức đưa đẩy. Vào đúng lúc, tinh hoa của con người có thể
nhập trở vào Thực Tại Cùng Tột (Paramàtma - Chân đế),
cái Ðại Hồn mà từ đó linh hồn đã phát xuất. Phật Giáo tin có hiện
tại rồi căn cứ trên hiện tại, suy diễn rằng có quá khứ
và vị lai. Cũng như ánh sáng đèn điện là sự biểu hiện
ra bên ngoài của luồng điện lực vô hình, cùng thế ấy,
con người chỉ là sự biểu hiện ra ngoài của năng lực vô
hình gọi là Nghiệp - Kamma. Bóng đèn điện có thể bể
và ánh sáng có thể tắt, nhưng luồng điện vẫn còn và
ánh sáng có thể trở lại khi gắn vào đó một cái bóng
khác. Cũng dường thế ấy, luồng Nghiệp lực vẫn trôi chảy
như thường, không bị sự tan vỡ của cơ thể vật chất làm
xáo trộn. Tâm thức của người lâm chung trong hiện tại chấm
dứt và, khi chấm dứt, tạo duyên cho một tâm thức mới
phát sanh trong kiếp sống kế. Nơi đây luồng điện giống
như luồng Nghiệp và cái bóng đèn mới có thể ví như tế
bào trứng của cha mẹ. Nghiệp quá khứ tạo
điều kiện cho sự sanh trong hiện tại, và Nghiệp hiện tại,
phối hợp với Nghiệp quá khứ, tạo điều kiện cho kiếp
sống tương lai. Hiện tại là con đẻ của quá khứ, rồi
đến lượt mình, trở thành cha mẹ của vị lai. Như vậy, chết không
phải là hoàn toàn tuyệt diệt, bởi vì mặc dầu kiếp sống
nầy chấm dứt, cái năng lực tạo sự sống cho nó không bị
tiêu diệt. Sau khi chết, dòng sinh lực của con người tiếp
tục trôi chảy vô cùng tận, ngày nào mà những luồng nước
vô minh và ái dục còn được cung cấp để dưỡng nuôi
nó. Theo ngôn ngữ chế định
thông thường chúng ta nói rằng con người không nhất thiết
phải tái sanh lại làm người, bởi vì con người không phải
là chúng sanh duy nhất. Hơn nữa, quả địa cầu, hầu như
chỉ là một điểm nhỏ không đáng kể trong vũ trụ bao la,
không phải là nơi chốn duy nhất mà chúng sanh có thể tái
sanh vào. Sau khi chết con người có thể tái sanh vào một cảnh
giới khác. ("Có khoảng một triệu hệ thống hành tinh
trong Dãy Ngân Hà trong đó có sự sống"- Xem Fred Hoyle, The
Nature of the Universe, trang 87-89.) Nếu con người muốn
chấm dứt chuỗi dài những kiếp sống triền miên, con người
có thể làm như Ðức Phật và chư vị A La Hán đã làm để
chứng ngộ Niết Bàn, chấm dứt trọn vẹn mọi hình thức
ái dục. Con Người Ði Về
Ðâu? Con người có thể đi
bất cứ nơi nào mình muốn, bất luận nơi nào mình quyết
chí đi, nếu hội đủ điều kiện thích nghi. Nếu không đặc
biệt có chú nguyện nào, con người sẽ lăn trôi theo con
đường mà những diễn biến của cuộc đời đưa đẩy mình
vào, và sẽ tái sanh vào trạng thái tương xứng với cái
Nghiệp của mình đã tạo. Tại Sao? Tại sao có
con người? Có chăng một
mục tiêu trong đời sống là thắc mắc cuối cùng của
chúng ta.
Tại sao có con người?
Cuộc sống nầy có mục tiêu gì? Ðây quả thật là một
vấn đề đã được bàn thảo sôi nổi. Quan điểm của
người sống thiên về vật chất là thế nào? Nhà khoa học
giải đáp: "Ðời sống có mục
tiêu không? Là gì, ở đâu, hay lúc nào? Vì người sống theo chủ
thuyết duy vật chỉ đơn thuần tự giới hạn mình trong những
dữ kiện do giác quan cảm nhận và chỉ biết đời sống vật
chất trong hiện tại, mà lờ đi những giá trị tinh thần
cho nên lối nhìn của họ nghịch hẳn quan điểm của nhà
đạo đức. Theo họ không có ai tạo mục tiêu cho đời sống
và -- vì lẽ ấy, đời sống không có mục tiêu. Những người
không tin có Thần Linh cũng nằm trong hạng người Phật tử,
không tin có một nhân vật tạo mục tiêu cho mình. "Ai tô điểm màu sắc
một cách tuyệt diệu cho con công, hay ai làm cho chim cu có tiếng
gáy lảnh lót?" Ðó là một trong những
lý luận chánh của thuyết duy vật, cho rằng tất cả đều
nằm trong trật tự thiên nhiên của sự vật. "Hãy ăn, uống, và
tận hưởng mọi lạc thú, bởi vì cái chết sẽ đến với
tất cả, chấm dứt cuộc sống của chúng ta" hình như
là đạo đức lý tưởng của hệ thống nầy. Theo quan niệm
của họ, như Sri Radhakrisna viết: "Ðạo đức là ảo
tưởng và hưởng thụ khoái lạc là thực tại duy nhất. Chết
là mức tận cùng của đời sống. Tôn giáo là một thác loạn
điên cuồng, một chứng bệnh thần kinh. Có sự ngờ vực tất
cả những gì tốt đẹp, cao cả, trong sạch, và bi mẫn. Lý
thuyết nầy chủ trương thỏa mãn dục vọng và lợi kỷ
và hiển nhiên xác nhận ý chí tục tằn thô bỉ. Không cần
phải kiểm soát khát vọng và bản năng, bởi vì đó là di
sản của thiên nhiên mà con người thừa hưởng." (Indian
Philosophy, Tập I, trang 201) Sarvadarsana Sangraha nói: "Trong khi đời sống
còn là của bạn, hãy thỏa thích sống, Bây giờ chúng ta hãy
trở về với khoa học để tìm một giải đáp cho câu hỏi
"Tại Sao?" Nên ghi nhận rằng
"khoa học tìm hiểu sự vật, nghiên cứu học hỏi để
biết sự vật 'là thế nào,' trong khi tôn giáo tìm hiểu những
lý tưởng, nghiên cứu học hỏi xem sự vật nên 'phải như
thế nào'." Sir Arthur Thompson khẳng
định rằng khoa học còn khiếm khuyết vì không thể giải
đáp câu hỏi tại sao. Ðề cập đến Mục Tiêu
của vũ trụ Bertrand Russell nhắc đến ba loại quan điểm:
Quan điểm tin có Thượng Ðế; quan điểm Phiếm Thần cho rằng
trời là tất cả vũ trụ hay vạn vật, và tất cả vũ trụ
là trời; và quan điểm thứ ba cho rằng sự vật nhô lên,
xuất hiện một cách không thể đoán trước. Ông viết: "Quan điểm thứ nhất
chủ trương rằng Thượng Ðế tạo nên thế gian và ban
hành những định luật thiên nhiên, bởi vì Ngài tiên đoán
rằng vào đúng lúc, sẽ có gì tiến hóa tốt đẹp. Theo
quan điểm nầy mục tiêu đã sẵn có một cách rõ ràng
trong tâm vị Thần Linh Tạo Hóa, vốn ở ngoài tạo vật của
mình. "Trong hình thức
'phiếm thần', Thượng Ðế không ở ngoài vũ trụ mà chính
là vũ trụ, xem như một toàn thể. Do đó không thể có tác
động sáng tạo mà chỉ có một loại năng lực sáng tạo
trong vũ trụ. Năng lực nầy làm cho vũ trụ phát triển theo
một kế hoạch. Ta có thể nói rằng xuyên qua suốt tiến
trình, kế hoạch nầy luôn luôn đi đôi với năng lực sáng
tạo. "Trong hình thức 'nổi
lên', mục tiêu càng mù mịt hơn. Vào một giai đoạn sơ khởi,
không có gì trong vũ trụ thấy trước giai đoạn sau, mà có
một năng lực mù quáng thúc đẩy đến những biến đổi,
và biến đổi tạo nên những hình thức phát triển trong đời
sống. Do đó, trong một ý nghĩa mù mờ, đoạn cuối đã
được hàm xúc ở đoạn đầu." (Bertrand Russell, Religion
and Science, trang 191) Chúng ta không phê
bình. Ðây chỉ là quan điểm của những học giả chuyên khảo
cứu về các tôn giáo và những tư tưởng gia trứ danh. Dầu có chăng một mục
tiêu trong vũ trụ, dầu sự hiện hữu của vũ trụ có nhằm
mục tiêu nào không, vẫn có vấn đề được nêu lên về
tính cách hữu dụng của các loài sán lãi, rắn rít, muổi
mòng v.v... và sự hiện hữu của bệnh chó dại. Phải giải
thích thế nào về vấn đề thiên tai? Những cuộc động đất,
những trận bão lụt, những bệnh truyền nhiễm nguy hại,
và chiến tranh có được trù hoạch trước không? Diễn đạt quan điểm
riêng của mình về Mục Tiêu Của Vũ Trụ, Russell mạnh mẽ
tuyên bố: "Dầu thế nào, tại
sao tán dương, tại sao ca ngợi con người? Còn sư tử, cọp
hùm thì sao? Chúng nó sát hại sanh linh -- thú và người --
ít hơn là chúng ta mà lại còn đẹp đẽ hơn chúng ta. Còn
loài kiến? Chúng nó quản trị một Ðoàn Thể Quốc Gia còn
tài tình hơn nhiều bất cứ người phát xít nào. Thế gian
loài chim hoạ mi, chim sơn ca, loài nai, có phải chăng là tốt
đẹp an bình hơn là thế gian tàn bạo, bất công và hiếu
chiến của loài người? Những người tin tưởng nơi mục
tiêu của vũ trụ căn cứ niềm tin ấy trên cái được giả
tưởng là sự sáng suốt của chúng ta, nhưng những gì họ
viết ra làm cho ta ngờ vực điều ấy. "Nếu tôi được là
một đấng toàn năng và có cả triệu năm để kinh nghiệm,
ắt tôi không nghĩ rằng Con Người có gì nhiều để kiêu
hãnh với thành quả cuối cùng của tất cả mọi nỗ lực
của tôi." Ðối với các tôn
giáo khác nhau thì mục tiêu của đời sống là gì? Theo Ấn Ðộ Giáo, mục
tiêu của đời sống là "đồng nhất thể với đấng
Brahma," hoặc "huờn nguyên, nhập trở vào Tinh Chất
Thần Linh, cái Ðại Hồn" mà từ đó linh hồn của con
người được tách rời ra. Theo Do Thái Giáo, Cơ Ðốc
Giáo và Hồi Giáo, mục tiêu của đời sống là "tôn
vinh và làm vẻ vang Thượng Ðế mãi mãi đời đời." Một người thường
trong bất luận tôn giáo nào có sẵn sàng từ bỏ kiếp sống
ở trần gian mà họ khư khư bám chặt, để vĩnh viễn sống
trong một thiên đàng cực kỳ an lạc không? Còn rất nghi ngờ, quả
thật vậy! Bây giờ, Phật Giáo giải
đáp thế nào câu hỏi, "Tại Sao?" Phật Giáo phủ nhận một
Thần Linh Tạo Hóa. Như vậy, theo quan điểm của Phật Giáo
không thể có một mục tiêu của đời sống đã được định
sẵn cho họ. Phật Giáo không chủ
trương có vận mạng, định mạng, hay tiền định bất di dịch
đã được sắp xếp an bài, kiểm soát tương lai của con
người ngoài ý muốn của họ, và không tùy thuộc hành động
của họ. Nếu tin vậy, tự do ý chí đã trở nên tuyệt đối
là một chuyện khôi hài và đời sống trở thành thuần
túy máy móc. Phần lớn hành động
của con người ít nhiều có tính cách tự động, hầu như
máy móc, vì đã chịu ảnh hưởng của thói quen, của môi
trường sinh sống, của giới thân cận v.v... Nhưng trong một giới hạn
nào, con người cũng có thể xử dụng tự do ý chí. Khi người
kia từ trên cao té xuống vực sâu thì chỉ rơi như một hòn
đá vô tri vô giác. Dầu có tâm chớ không phải như đá mà
người kia vẫn không thể xử dụng tự do ý chí của mình.
Nhưng lúc trèo lên cao, chắc chắn là anh có đủ tự do ý
chí -- quyết định có trèo lên hay không, hay trèo lên cách
nào -- và hành động theo ý mình. Hòn đá ngược lại, không
thể làm như vậy. Con người có đủ quyền
năng chọn lựa giữa điều phải và lẽ quấy, việc tốt
hay việc xấu. Con người có thể là
bạn lành hay là kẻ thù nghịch của chính mình và của người
khác. Tất cả đều do tâm và tiến trình phát triển của
tâm. Mặc dầu không có sẵn
mục tiêu đặc biệt nào cho kiếp nhân sinh, con người vẫn
được tự do tạo cho mình một lý tưởng của cuộc sống. Vậy, mục tiêu của đời
sống là gì? Ouspensky viết: "Vài người nói rằng
ý nghĩa của cuộc sống là phục vụ, là đè nén và hàng
phục cái tự ngã của mình, tự hy sinh, hy sinh tất cả,
chí đến mạng sống. Người khác tuyên bố rằng ý nghĩa của
cuộc đời là thỏa thích hưởng thụ, quên đi thảm trạng
rùng rợn cuối cùng xảy diễn trong hiện tượng chết. Vài
người thấy ý nghĩa của đời sống trong công trình tự cải
thiện, làm cho mình trở nên hoàn hảo và tạo dựng cho
mình một tương lai tốt đẹp hơn, ở bên kia nấm mồ. Người
khác nữa chủ trương rằng ý nghĩa của cuộc sống là cố
gắng đến gần trạng thái "không-sinh-tồn"; người
khác nữa tìm ý nghĩa của đời sống trong nỗ lực kiện
toàn loài người, tổ chức cuộc sống trên quả địa cầu;
trong lúc ấy có người khẳng định rằng, dầu chỉ là sự
cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của đời sống cũng không thể
được." Bác bỏ tất cả những
quan kiến trên nhà học giả uyên thâm viết: "Ðiểm sai lầm của
tất cả những giải thích trên là cố gắng khám phá ý nghĩa
của đời sống ở bên ngoài chính mình. Họ tìm trong bản
chất của nhân loại, hoặc trong vài cuộc sống mơ hồ bên
kia nấm mồ, hoặc nữa trong sự tiến triển của Tự Ngã
xuyên qua chuỗi dài những cuộc đầu thai -- luôn luôn một
cái gì ở ngoài đời sống hiện tại của con người. "Thay vì khảo sát
viển vong, nếu con người chỉ nhìn vào bên trong chính mình
họ sẽ nhận thức rằng trong thực tế, ý nghĩa của đời
sống không còn gì là mù mờ. Nó chỉ là hiểu biết."
- (Tertium Organum, trang 192) Theo quan điểm của Phật
Giáo, mục tiêu cứu cánh của kiếp nhân sinh là thành tựu
trạng thái Toàn Giác (Sambodhi), tức thấu triệt thực tướng
của chính mình, tự hiểu biết chính mình đúng như thật sự
mình là vậy. Sự Giác Ngộ Cao Siêu
nầy có thể thành đạt bằng cách nghiêm trì giới luật,
trau giồi tâm và khai triển trí tuệ, hoặc nói cách khác, bằng
cách phục vụ và trở nên hoàn toàn. Phục vụ bao gồm tâm
Từ, tâm Bi vô lượng vô biên và tuyệt đối vị tha, những
đức hạnh cao đẹp thúc giục con người giúp đỡ người
khác. Hoàn toàn là tuyệt đối
trong sạch và trí tuệ toàn hảo. [1] "What is mind?
-- No matter. What is matter? -- Never mind." Nhằm giúp quý
vị không đọc tiếng Anh có thể thưởng thức lối chơi chữ
hứng thú nầy, người dịch xin phụ chú rằng hai chữ
"no matter" vừa có nghĩa là "không có vật chất"
vừa là một lối nói rằng, "không sao đâu". Hai chữ
"never mind" là "không bao giờ có tâm" mà cũng
có nghĩa, "không có gì đâu", "không cần bận
tâm đến". [2] Ðời sống đến
trước đời sống -- Câu nầy có nghĩa là muốn có đời sống
hiện tại phải có đời sống trong quá khứ. Có con tức
là có cha mẹ, hoặc nữa, muốn có con phải có cha mẹ. (Lời
của dịch giả) -ooOoo- Chân thành cám ơn Bác
Phạm Kim Khánh đã gửi tặng bản điện tử (Bình Anson, 05-2002) [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Phạm Kim Khánh dịch
Vật chất là gì? -- Không bao giờ có tâm." [1]
Tâm dẫn đầu hành động;
tâm là chủ, và tất cả (hành động) đều do tâm tạo.
(Pháp Cú)
Từ không gian Vũ Trụ đến, Mặt Trời đến,
Quả Ðịa Cầu đến, Ðời Sống đến, Con Người đến, và
còn nhiều nữa phải đến.
Nhưng còn mục tiêu: Của ai và từ đâu?
Tại sao? Không có gì cả."
Không ai có thể thoát khỏi cặp mắt tìm tòi của Tử Thần;
Một khi chúng nó đã thiêu đốt thân xác nầy của ta,
Làm sao còn trở lại ?
Trong khi còn sống đây con người hãy sống an vui, Hãy ăn, uống
sung sướng, dầu có phải vay nợ." (Indian Philosophy,
trang 2)
updated: 09-05-2002