BuddhaSasana Home Page Niệm và người hành thiền Một cuộc phỏng vấn Ngài Thiền Sư U Pandita Phạm Kim Khánh dịch
Ngài Thiền Sư Sayadaw U Pandita xuất gia tại
một ngôi chùa xa xôi hẻo lánh của xứ Miến Ðiện vào lúc vừa lên bảy. Từ đó
Ngài chuyên cần tu tập trong cả pháp học lẫn pháp hành và đến nay là một
trong những vị thiền sư lỗi lạc nhất theo truyền thống Mahasi Sayadaw. Từ năm 1951 Ngài Thiền Sư U Pandita đã dạy
hằng ngàn thiền sinh và châu du hoằng pháp, hướng dẫn những khóa thiền
trong nhiều quốc gia Á Ðông cũng như ở Âu châu, Úc châu và Hoa Kỳ. Hiện nay Ngài là Tăng Trưởng Thiền Viện
Panditarama tại Rangoon, Miến Ðiện, nơi đây Ngài dạy những bậc xuất gia và
hàng tại gia cư sĩ. Những lời dạy của Ngài U Pandita, rút tỉa từ trên sáu
mươi năm kinh nghiệm bản thân trong đời sống tự viện, thật rất đơn giản và
cụ thể rõ ràng, thích hợp với cả hai hạng thiền sinh, hàng sơ cơ và những
vị đã tiến bộ thâm sâu. Lời mở đầu Ðức Phật thường khuyến khích hàng đệ tử
nên hành thiền vì đó là con đường duy nhất (ekayanomaggo) đưa đến trạng
thái tâm thanh bình an lạc, và giải thoát ra khỏi đau khổ.
Nhân ngày lễ Phật Ðản chúng tôi nghĩ rằng
phát hành một bài viết về đề tài Thiền Minh Sát (Vipassanà) là thích nghi.
Sau đây là một cuộc phỏng vấn Ngài Thiền Sư Sayadaw Upanditabhivamsa người
Miến Ðiện, do Ðại Ðức Visuddhacara thực hiện. Ðại Ðức Visuddhacara thuộc Trung tâm Hành
Thiền Phật Giáo Mã Lai ở Penang (Malaysian Buddhist Meditation Centre,
Penang), phỏng vấn Ngài Sayadaw U Pandita tại thiền viện Panditarama
Meditation Centre, Rangoon, trong khi lưu ngụ tại đây. Bài tường thuật
cuộc phỏng vấn đã được đăng tải trong Bản Tin tháng Tư, 1991 của thiền
viện.
Bài viết này giải đáp nhiều câu hỏi có thể
đặc biệt hữu ích cho người hành thiền, như "sau khi tích cực tham dự một
khóa thiền, làm cách nào hành giả có thể tiếp tục pháp hành của mình khi
trở lại đời sống hằng ngày?", "trong khi tích cực hành thiền tra trau giồi
loại niệm (sati) nào?" và "làm sao loại trừ ô nhiễm (kilesa) bằng cách ghi
nhận?" Ngài Thiền Sư đi sâu vào chi tiết, giảng
về điều cần thiết phải hành pháp hiểu biết rõ ràng mục tiêu hay lợi ích
(satthaka sampajanna) và hiểu biết rõ ràng hoàn cảnh thích nghi (sappaya
sampajanna), trong đời sống hằng ngày. Ngài thảo luận về đặc tướng
(lakkhana), chức năng (rasa), sự biểu hiện (paccupatthàna) và nguyên nhân
kế cận (padatthàna) của niệm (sati) - theo đúng đường lối trình bày của
Chú giải (atthakatha). Ngài giải thích dong dài làm cách nào hành giả phải
ghi nhận - lao mình xông ngay vào đề mục mà không lệch lạc nghĩ suy v.v...
Ngài giảng về phương cách loại trừ ô nhiễm (kilesa) trong khi ghi nhận (tadanga
pahàna) và cách loại trừ ô nhiễm ngoài lúc ghi nhận (vikkhambhana
pahàna). Ngài Ðại Ðức Thiền Sư dùng rất nhiều danh
từ Pali, và nơi đây xin giữ lại một số, trước là để đọc giả có thể hiểu
biết một cách chính xác, sau nữa là để giữ lại chút "hương vị" của Giáo
Pháp (Dhamma). Pali là ngôn ngữ của Ðức Phật, và hành giả cũng nên làm
quen. Ðề tài rất thích hợp với người hành thiền,
nhưng chúng tôi nghĩ rằng quý vị độc giả không quen với pháp hành cũng sẽ
thấy thích thú theo dõi cuộc thảo luận. Quý vị sẽ có một ý niệm về bản
chất và lợi ích của pháp hành, và có thể sự hiểu biết này sẽ khích lệ quý
vị. Quả thật là điều kỳ diệu, Ðức Phật muốn chúng ta thừa hưởng tinh hoa
của giáo huấn mà Ngài ban truyền, chỉ có thể thấu đạt bằng cách hành pháp
Tứ Niệm Xứ (Satipatthàna). Về phần chúng tôi, Trung tâm Hành Thiền Phật
Giáo Mã Lai, chúng tôi xin gởi lời đến tất cả quý liệt vị chưa có dịp làm
quen với thiền minh sát, mời quý vị nếm thử hương vị và tự quý vị sẽ nhận
thức lợi ích của pháp hành. Ngưỡng nguyện tất cả chúng sanh đều an vui
hạnh phúc. Ngưỡng nguyện tất cả chúng sanh đều khai triển trí tuệ, và giải
thoát ra khỏi mọi đau khổ. Hoe Soon Ying -ooOoo- Một cuộc phỏng vấn Ngài Sayadaw U Pandita do Tỳ Khưu
Visuddhacara thực hiện. Tỳ Khưu Visuddhacara (TLV):
Bạch Ngài Thiền Sư, đối với thiền sinh, giữ tâm niệm trong một khóa thiền
tích cực có thể dễ dàng, nhưng khi trở về với công việc bình thường hằng
ngày thì không thể được vậy. Trong khóa thiền, thiền sinh được dạy làm gì
cũng chậm chạp và đặt chú niệm vào tất cả mọi cử động. Nhưng khi mãn khóa,
trở về cuộc sống thường nhật, thì tốc độ của mọi cử động lại nhanh lên, có
khi đến cuồng loạn. Thật vô cùng khó mà niệm như lúc ở trong khóa thiền.
Vậy thiền sinh phải làm thế nào?
Thiền Sư Pandita (TSP):
Nơi đây có một vài điều mà thiền sinh nên thấu hiểu. Thái độ của thiền
sinh là quan trọng. Thiền sinh nên cố gắng chú niệm, càng nhiều càng tốt
và nên hoan hỷ với sự cố gắng của mình. Thiền sinh không thể kỳ vọng trạng
thái toàn hảo, ít nhất là cho đến khi thành tựu đạo quả A La Hán. Chỉ một
vị A La Hán mới có thể lúc nào cũng niệm. Những ưu tiên của Giáo Pháp (Dhamma) và ưu
tiên của thế gian rất khác biệt. Trong một khóa thiền, ta chú trọng đến
việc trau giồi niệm (sati), để có thể đạt đến trí tuệ cao siêu nhất của
Niết Bàn (Nibbàna). Ta chuyên cần ghi nhận tất cả những cử động của thân
và những tiến trình tâm. Ghi nhận liên tục, nối tiếp không gián đoạn như
vậy dẫn đến niệm, cho đến khi niệm trở thành tự động, máy móc, hồn nhiên,
không có sự cố gắng. Với niệm (sati) mạnh mẽ như vậy ta có thể thấy sự
phát sanh và hoại diệt của những hiện tượng, thấm sâu vào những chân lý vô
thường (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anattà) và chứng ngộ đạo quả Niết
Bàn (magga-phalanibbàna), chấm dứt những hiện tượng kết hợp (các pháp hữu
vi). Theo mức độ mà ta thấu hiểu bản chất vô thường, khổ và vô ngã
(anicca, dukkha, anattà) của vạn pháp, tùy theo mức độ hiểu biết ấy, cuộc
sống của ta sẽ sáng suốt, an vui và có ý nghĩa đến độ nào. Vị A La Hán, đã
thấu triệt Giáo Pháp (Dhamma), đã thành đạt đạo quả A La Hán
(arhatta-magga-phala), lúc nào cũng trầm tĩnh và thanh bình an lạc. Ngài
không còn ô nhiễm và không bị giao động. Ðến khi tịch diệt, Ngài không còn
tái sanh trở lại. Ðó là chấm dứt đau khổ.
Nhưng ưu tiên của thế gian thì khác hẳn.
Nơi đây người hành thiền còn phải gánh vác nhiều trách nhiệm khác nhau. Họ
có những công ăn việc làm, và họ phải ra sức để làm nhanh chóng. Họ còn có
những công việc liên hệ đến vợ hay chồng, con, đến những người trong gia
quyến và những nhiệm vụ đối với xã hội. Lẽ dĩ nhiên họ phải chú trọng
nhiều đến việc hoàn tất nhiệm vụ, hơn là trau giồi niệm (sati). Vả lại, họ bị đủ loại dục lạc và quyến rũ
tấn công từ mọi hướng, do đó không thể có loại niệm (sati) mà họ có thể
phát triển trong một khóa thiền. Thiền sinh phải thấu hiểu và phải chấp
nhận điều này. Vì lẽ ấy, thỉnh thoảng ta nên tham dự những khóa thiền để
trau giồi thâm sâu Niệm và Định (sati và samàdhi). Chừng đó, trở lại cuộc
sống hằng ngày, ta có thể đem theo về với ta trí tuệ đã trực tiếp phát
triển. Như vậy, phần lớn các thiền sinh cảm thấy
rằng niệm (sati) của mình có phần suy giảm một khi trở về với nếp sống
thường ngày. Ðiều đó là bình thường, tự nhiên. Sati, niệm, mà được trau
dồi trong một khóa thiền là supatthita sati - chú niệm vững chắc,
kiên cố. Khi trở về nhà, vị thiền sinh không thể ghi nhận một cách liên
tục và tỉ mỉ. Niệm (sati) sẽ suy giảm. Ta có thể nói rằng điều đó là bình
thường, không chi lạ. Trong một ngày có nhiều khoảng trống mà lúc ấy ta
không ghi nhận gì cả. TKV:
Như vậy thiền sinh phải làm sao? Pháp hành của họ phải như thế nào?
TSP:
Họ phải đưa Giáo Pháp (Dhamma) vào cuộc sống thường ngày. Họ phải cố gắng
ghi nhận càng nhiều càng tốt - những sinh hoạt hằng ngày, những biến
chuyển của trạng thái tâm v.v... Họ phải thấu hiểu những thái độ và những
nguyên tắc của Giáo Pháp và ý thức áp dụng. Họ phải tìm thì giờ để mỗi
ngày ngồi lại hành thiền, như buổi sáng, hoặc buổi chiều, hoặc bất luận
lúc nào thuận tiện. Có thể 15 phút, nửa giờ, hay hơn nữa, họ phải xem thì
giờ hành thiền là một phần trong thời biểu hằng ngày. CHÁNH NIỆM Niệm là điều cần thiết, không thể không
có. Trong bất luận công việc gì ta làm đều cần phải có niệm, nếu không,
không thể hoàn tất một cách tốt đẹp. Nhưng loại niệm (sati) mà ta thảo
luận ở đây là chánh niệm (sammà-sati, chú niệm chân chánh) tức loại niệm
(sati) thấm sâu vào các chân lý vô thường, khổ, vô ngã (anicca, dukkha,
anattrà). Chính loại sati, niệm, có tánh cách đạo đức, thiện, này làm cho
người hành thiền tránh xa những hành động bất thiện (akusala). Nếu muốn có
cuộc sống đạo đức, thiện, thì loại niệm này là tối cần thiết. Ðó là loại
niệm (sati) mà ta chú trọng đến ở đây. Ðó là loại niệm (sati) mà ta phải
phát triển. Sati này bảo vệ hành giả chống lại hiểm nguy. Cũng như người vào một nơi có hơi ngạt
phải mang mặt nạ. Mặt nạ sẽ lọc chất độc trong khói. Tuy nhiên, chí đến
khi ấy cũng có chút ít khói lẫn vào và người kia cũng cảm nghe nóng ở mặt.
Cùng thế ấy khi thiền sinh trau giồi sati ngoài khóa thiền. Bởi có nhiều
hoàn cảnh mê loạn và nhiều điều kiện trong thế gian bên ngoài, mặc dầu có
hành sati người ấy vẫn còn cảm nghe khói và hơi nóng của ô nhiễm (kilesas,
những ô nhiễm của tham, sân, si v.v...). Nơi đây cần phải có nhiều kiên
nhẫn. Không thể thành công trong một sớm một chiều. Do đó luôn luôn cần
phải có sự chú tâm chánh đáng, thích nghi (yoniso mansikàra). Về điểm này
điều quan trọng là thiền sinh phải trau giồi satthaka sampajanna và
sappaya sampajanna. Satthaka sampajanna
là hiểu biết rõ ràng mục tiêu hay lợi ích. Khi muốn nói hay làm điều gì vị
hành giả phải xem xét mục tiêu - tức xem coi mình nói hay làm điều ấy có
lợi hay không. Dầu có lợi, cũng phải xét suy xem nói hay làm như vậy vào
thời điểm này có thích hợp hay không. Ðó là Sappaya sampajanna
(hiểu biết rõ ràng tánh cách hợp thời). Ðôi khi nói hay làm điều nào đó
thì có lợi, nhưng có thể không thích nghi vào lúc bấy giờ. Thí dụ như
khuyên dạy một người là tốt, nhưng làm như vậy trước mặt mọi người thì có
thể không thích nghi. Phải nói một cách kín đáo, vào lúc mà người ấy sẵn
sàng hơn để nghe. Nếu có thể thường áp dụng hai sự hiểu biết rõ ràng
(sampajanna) này, quý vị sẽ tránh được nhiều vấn đề phiền phức và trở
thành khôn khéo hơn trong khi giao dịch với người khác. Hai hiểu biết rõ ràng (sampajanna) này
cùng chung hợp lại cũng được gọi là parihariya pannà, có nghĩa là
trí tuệ để: 1) thực hiện những hành động thiện, có lợi và 2) tránh xa
những hành động bất thiện, không lợi ích. Nó cũng được gọi là nepakka
pannà có nghĩa trí tuệ thuần thục, trí tuệ đã chín mùi. Nếu đã tiến bộ khả quan trong khóa thiền,
vị thiền sinh sẽ thấy rằng niệm (sati) thỉnh thoảng sẽ đến với mình một
cách tự nhiên, nhất là khi có nguy cơ phạm giới (không sát sanh, không
trộm cắp, không tà hạnh, không nói dối, không dùng chất say v.v...). Vị ấy
cũng giống như người đang mặc một bộ đồ trắng tinh - tự nhiên tránh xa cát
đất bụi bặm, sợ làm lấm dơ quần áo của mình. Một vị Tu Ðà Hườn chẳng hạn,
sẽ không bao giờ phạm lỗi nào trong năm giới. Vị ấy cũng không cần phải cố
gắng kiêng cữ; một cách tự nhiên vị ấy không có ý muốn làm điều gì phạm
giới. Người mà trí tuệ minh sát vẫn còn yếu phải
cần đặc biệt gia công chú niệm để giữ mình khỏi phạm giới. Ðều đặn hành
thiền là một thói quen rất quan trọng. Khi niệm trở thành là thói quen, nó
sẽ hoạt động như một cái thắng, kềm hãm lại, không để ta làm những chuyện
bất thiện điên rồ. Trong khi thiền sinh thực tập hành thiền tâm chú niệm
sẽ đến, ngày càng dễ dàng hơn, tự nhiên hơn và một cách hầu như tự động.
NHỮNG NGÀY XA XƯA VÀ HIỆN NAY TKV:
Kính bạch Thiền Sư, trong những ngày xa xưa, hình như người ta chứng đắc
đạo quả hay Niết Bàn (magga-phala) khá dễ dàng, dầu trong khi đang làm
công việc hằng ngày như nấu ăn, giặt giệm quần áo v.v... Hành giả ngày nay
tại sao không được vậy? Ngoài khóa thiền họ có thể tiếp tục giữ chánh niệm
trong khi làm việc này việc nọ trong nhà không?
TSP:
Chắc như vậy, ghi nhận là con đường dẫn đến đạo quả (magga-phala). Giờ
phút nào ghi nhận là thiền sinh đi đúng trên đường đến Niết Bàn. Nhưng
hiện nay, trong khi lăng xăng bận rộn với những sinh hoạt hằng ngày, vô
cùng khó cho hành giả thành công. Trong những ngày xa xưa thì khác. Trước
tiên, có Ðức Phật ở sẵn bên cạnh để chỉ giáo, đúng ngay pháp hành nào cần
cho hành giả nào, vào đúng lúc. Hơn nữa, những vị hành giả lúc bấy giờ đã
tạo đủ những ba-la-mật cần thiết. Những vị ấy đã có xây đắp nền tảng trong
nhiều kiếp sống quá khứ. Tâm các Ngài đã trong sạch và sẵn sàng để hấp thụ
Giáo Pháp (Dhamma). Trong hiện tại, người ta thường bị ô nhiễm tấn công
liên tục. Họ có nhiều quyến rũ của dục vọng. Tâm của họ không mấy trong
sạch. Ngũ căn của họ (indriyas: tín căn, tấn căn, niệm căn, định
căn và tuệ căn) chưa được thuần thục. Như vậy rất khó cho họ thành đạt
tiến bộ như những vị hành giả thời xa xưa. Tuy nhiên, không có cố gắng nào mất luôn.
Nếu hành giả chuyên cần ghi nhận mỗi ngày, nó sẽ trở thành thói quen và
khi tham dự một khóa thiền, thói quen ấy sẽ làm tăng trưởng niệm (sati) và
sẽ giúp tiến bộ đáng kể.
NHỮNG ÐẶC TÁNH CỦA NIỆM (SATI) TKV:
Bạch Ngài, nhằm lợi ích cho hành giả, nơi đây chúng ta có thể thảo luận về
loại niệm (sati) nào hành giả trau giồi trong một khóa thiền chăng?
TSP:
Ðược, cũng như Sư đã biết, sati là niệm, hay biết. Chúng ta sẽ khảo sát
bản chất của sati, satipatthàna (niệm và niệm xứ) và hành giả phải ghi
nhận và quan sát như thế nào. Trước tiên, ta phải hiểu biết đặc tướng
(lakkhana), chức năng (rasa), sự biểu hiện (paccupatthàna) và nguyên nhân
kế cận (padatthàna) của niệm (sati). Ðặc tướng của niệm là apilana.
Apilana là không nổi trên mặt; pilana là "nổi". Apilana - không nổi - có
nghĩa là chìm. Nếu không nổi tức chìm. Nơi đây ý muốn nói là niệm (sati)
có đặc tướng là chìm trong đề mục. Sati không nổi trên bề mặt mà thấm sâu,
hay chìm trong đó, cũng giống như ta ném một cục đá xuống nước, đá không
nổi trôi trên mặt nước mà chìm xuống đáy. Cùng thế ấy đặc tướng (lakkhana)
của niệm (sati) là chìm trong đề mục.
Chức năng (rasa), của niệm (sati) là
asammoha (theo nghĩa từng chữ là "không mơ hồ"). Nơi đây có nghĩa là
chức năng, phận sự, hay việc làm của niệm (sati) là bảo đảm rằng đề mục
không lẫn thoát. Tâm ghi nhận liên tục theo dõi đề mục từ đầu đến cuối
không gián đoạn. Bất luận gì phát sanh, tâm không để mất. Tâm nhận ra và
chìm vào trong đó. Nó đánh ngay vào đích. Ðó là chức năng của niệm (sati);
ghi nhận đề mục không để mất, không để đề mục lẫn biến khỏi tầm mắt, mà
liên tục theo dõi từ lúc khởi sanh đến lúc nó chấm dứt.
Sự biểu hiện (paccupatthàna) của niệm
(sati) là visayàbhimukha. Visaya hàm xúc đề mục, và abhimukha có
nghĩa "đối diện với đề mục, mặt giáp mặt, nhìn thấy đề mục". Như vậy niệm
(sati) biểu hiện là thấy đề mục một cách trực tiếp, diện đối diện, hiểu
biết rõ ràng, tường tận. Khi chức năng (rasa) của sati đã hoàn thành thì
sati sẽ tự nhiên biểu hiện là thấy đề mục rõ ràng, mặt giáp mặt. Một biểu
hiện khác của niệm (sati) là arakkha (giữ gìn, bảo vệ). Niệm (sati)
bảo vệ tâm không để ô nhiễm (kilesa) làm hoen ố. Không ô nhiễm nào có thể
xâm nhập vào tâm trong khi có mặt chánh niệm (sammà sati). Cũng như ta
khóa kín cửa lại không để ô nhiễm (kilesa) xâm nhập vào, hay cũng như đóng
cửa sổ lại không cho mưa gió lọt vào. Nguyên nhân kế cận (padatthàna) của niệm
(sati) là thirasannà - sự hay biết liên tục, vững chắc. Sự hay biết
đề mục càng vững chắc mạnh mẽ - về những đặc tánh của nó như nóng, lạnh,
cứng, căng thẳng v.v... - niệm (sati) càng vững. Hay biết ở đây có nghĩa
là hay biết đề mục, hiểu biết, nhận ra đối tượng đúng như bản chất thật sự
của nó là vậy, không lầm lẫn với vật gì khác. Giờ đây hãy xem qua danh từ
"satipatthàna", niệm xứ. Danh từ này có thể là được phân tích thành
sati + pa + thàna. "Sati" là niệm. "Pa" ở đây có nghĩa phân biệt. Ðây là
sự ghi nhận mạnh mẽ, nhiệt liệt, vững chắc, phi thường, liên tục, không
lay chuyển, hay niệm. "Thàna" hàm xúc nơi chốn (xứ) mà ta kiên cố thiết
lập chú niệm trên đó, tức thân (kàya), thọ (vedanà), tâm (citta), và pháp
(dhamma). Như vậy niệm xứ (satipatthàna) có thể được
hiểu là tâm chú niệm mạnh mẽ vững chắc và không lay chuyển, phát sanh liên
tục, không gián đoạn, thâm nhập thấm sâu vào đề mục khởi phát, dầu là
thân, thọ, tâm hay pháp. KHÔNG CÓ THÌ GIỜ ÐỂ NGỪNG NGHỈ , CỨ LAO MÌNH VÀO ÐỀ MỤC Ta hãy tiến sâu thêm vào vấn đề. Hành giả
phải ghi nhận như thế nào? Hành giả phải lao mình xông thẳng vào đề mục.
Vừa khi đối tượng khởi sanh - như phồng, xộp, ngồi, đụng, căng thẳng, ngứa
v.v... - niệm (sati) phải gấp rút và mạnh mẽ xông thẳng vào. Không thể
hưỡn đại chậm lại hay biến bước từ từ. Không nên để mất khoảnh khắc nào,
và tuyệt đối không có thì giờ để suy tư. Không có thì giờ để nghĩ ngợi như
"Cái này là gì? Cái này như thế nào? Tại sao cái này?" Ta cứ xông xáo sấn
thẳng vào đề mục mà không suy tưởng, khảo sát hay phân tích. Chỉ có thế! Khoảnh khắc nào mà ta suy
tưởng hay khảo sát là làm mất đà của niệm (sati). Trong khoảnh khắc ấy ta
không đánh thẳng vào đích, ta sẽ mất trung tâm của mục tiêu. Ðể có một thí
dụ khác, đây cũng như xung kích vào để chiếm mục tiêu, như nhân viên cảnh
sát chạy ùa vào để bắt một tội phạm.
Hơn nữa, niệm (sati) chẳng những phóng
mình xông vào bên trong đề mục mà còn trải rộng ra bao phủ nó. Niệm (sati)
bao trùm toàn thể đề mục, không phải chỉ một phần. Chẳng hạn như nếu ghi
nhận bụng phồng lên và xộp xuống, hành giả gom hẹp sự chú tâm vào phần của
bụng phồng lên và xộp xuống v.v... và cùng lúc ấy cũng bao gồm toàn vùng,
hay biết sự căng thẳng, chặt, cứng, hay bất cứ gì có thể nổi bật. Ðôi khi
niệm (sati) kiên cố vững chắc, có thể "bao gồm" cả toàn thân tức có thể
hay biết những hiện tượng như phát sanh và hoại diệt của những vùng khác
nhau trong thân. [Xin xem tường thuật của Ngài Thiền Sư về
kinh nghiệm của nhiều vị thiền sinh có chú niệm (sati) mạnh mẽ, ở phần phụ
bản về "Chú Niệm đặc biệt", cuối trang.] ÐƯỜNG ÐẾN THÀNH CÔNG TKV:
Bạch Thiền Sư, xin Ngài vui lòng giải thích những tương quan giữa tinh tấn
(viriya) niệm (sati) và định (samàdhi)?
TSP:
Ðược, nhưng phải bắt đầu từ trước tinh tấn (viriya) và đi xa hơn, vượt qua
khỏi định (samàdhi). Trước tiên, hành giả phải có niềm tin (saddhà) nơi
pháp hành này. Ðức Phật tuyên ngôn rằng pháp hành Tứ Niệm Xứ
(Satipatthàna) là con đường dẫn đến thanh lọc tâm, khắc phục ưu phiền, ta
thán, đau khổ về vật chất cũng như tinh thần, thành đạt đạo quả
(magga-phala) và chứng ngộ Niết Bàn (Nibbàna). Hành giả phải hiểu rõ rằng thanh lọc tâm
là điều tốt và những thành quả mà Ðức Phật hứa rằng người gia công thực
hành pháp này sẽ thành đạt, hoàn toàn là đáng được mong muốn. Hành giả
phải có niềm tin nơi những lời của Ðức Phật đến một mức độ nào đó. Ngài là
bậc Toàn Giác, đã nói đúng theo những gì Ngài chứng nghiệm và Ngài biết
mình nói gì. Một khi bắt đầu thực hành và có được kết quả thì niềm tin sơ
khởi của hành giả cũng trở nên vững chắc. Ðến lúc hiểu biết thấm sâu vào
các đặc tướng vô thường, khổ và vô ngã (anicca, dukkha và anattà) và thành
đạo đạo-quả Niết Bàn (magga-phala-Nibbàna), niềm tin của vị ấy không còn
lay chuyển. Như vậy hành giả nên có niềm tin (saddhà)
sơ khởi nơi pháp hành này. Sau đó phải có ý muốn đạt đến thành quả. Một
khi có ý muốn hành giả phải gia công cố gắng cần thiết (viriya, tinh tấn). Có ba tầng lớp tinh tấn: 1. Arambha dhàtu, yếu tố khích
động, là cố gắng sơ khởi, tinh tấn thúc đẩy hành giả khởi đầu pháp hành. 2. Nikkama dhàtu, yếu tố đẩy mạnh.
Trong khi thực hành, hành giả sẽ gặp trở ngại như buồn chán, dã dượi,
phóng dật v.v... Ðây là sự cố gắng (viriya, tinh tấn) khắc phục các trở
ngại ấy. 3. Parakkama dhàtu, yếu tố kiên
trì. Ðây là kiên trì cố gắng và giữ vững pháp hành, hầu tiến đạt tuệ giác
(nàna) này đến tuệ giác khác, cho đến khi thành tựu mục tiêu. Tâm của hành
giả chìm sâu vào đề mục từ lúc nó vừa khởi phát. Khi niệm (sati) vững
chắc, tâm không thể phóng dật; nó nằm trong đề mục. Do đó định (Samàdhi)
phát sanh. Vì tâm của hành giả, nhờ tinh tấn và niệm
(viriya và sati), nâng đỡ, tập trung vững chắc vào đối tượng được ghi
nhận, chánh kiến (samma-ditthi) phát sanh. Hành giả hiểu biết đề mục đúng
như nó thật sự là vậy, dầu là nóng, cứng, căng thẳng v.v...
Vừa lúc ấy hành giả trực nhận những đặc
tướng vô thường (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anattà) của đề mục.
Như vậy, tóm lược bằng cách đi ngược dòng:
trí tuệ phát sanh do tâm định, định trở nên vững chắc nhờ niệm, niệm vững
chắc nhờ tinh tấn, tinh tấn nhờ có ý muốn thành đạt kết quả, ý muốn nhờ có
niềm tin sơ khởi vào pháp hành Tứ Niệm Xứ (Satipatthàna). BỐN YẾU TỐ ÐỂ PHÁT TRIỂN NIỆM (SATI) Niệm (sati) đóng vai trò then chốt. Khi
Niệm (sati) vững chắc có mặt thì Tinh tấn và Định (viriya và samàdhi) cũng
có mặt. Cả ba chi này hợp thành nhóm "Định" của Bát Chánh Ðạo. Có bốn điều
giúp phát triển niệm (sati):
1. Liên tục ghi nhận. Công phu liên tục
ghi nhận này làm khởi sanh niệm (sati và làm cho niệm ngày càng dũng
mãnh cho đến khi trở thành thói quen. Như vậy, hành giả phải ghi nhận
tất cả những cử động của mình và bất luận gì phát sanh nơi sáu cửa (lục
căn).
2. Nên tránh những người không có niệm
(sati). Nếu ta chọn những người không có niệm (sati) làm thầy, hay làm
mẫu mực để noi gương ắt sẽ gặp phiền phức.
3. Hãy kết hợp với những người có niệm
(sati). Có thể tôn những vị ấy làm thầy hoặc làm mẫu mực để noi theo
gương.
4. Hãy hướng tâm về niệm (sati). Ðiều
này có nghĩa là ta nên chú trọng và đặt ưu tiên cho công trình phát
triển vững chắc chú niệm. Nên cẩn trọng thực hành một cách nghiêm chỉnh,
không dể duôi. LÀM CÁCH NÀO SỰ GHI NHẬN TIÊU TRỪ Ô NHIỄM (KILESA) TKV:
Bạch Thiền Sư, xin Ngài giảng rộng thêm, bằng cách nào sự ghi nhận tiêu
trừ những ô nhiễm (kilesas)?
TSP:
Trước tiên, Sư giải thích hai lối tiêu trừ những ô nhiễm (kilesas) tức
khắc xảy diễn đến vị hành giả ghi nhận. Ðó là tadanga pahàna và
vikkhambhana pahàna. Tadanga pahàna có nghĩa là tiêu trừ những
ô nhiễm (kilesas, như tham, sân, si) trong khi ghi nhận. Còn
Vikkhambhana pahàna là tiêu trừ những ô nhiễm dầu trong lúc ấy có thể
ta không ghi nhận. Trước tiên nên hiểu biết ý nghĩa của danh
từ "pahàna". Ta có thể dịch là diệt trừ, khắc phục, bỏ ra, dứt bỏ. Nhưng
nơi đây phải hiểu rằng không phải dứt bỏ, diệt trừ hay khắc phục một cái
gì đã sẵn hiện hữu. Không phải là ô nhiễm (kilesa) có mặt sẵn đó rồi, giờ
đây ta phải khắc phục hay diệt trừ nó. Thay vì là vậy, đây là sự ngăn cản,
không cho ô nhiễm có cơ hội để khởi sanh. Tiến trình xảy diễn như thế này:
Khi hành giả ghi nhận một đề mục thì tâm mài miệt chăm chú, tập trung vào
công phu ghi nhận. Hành giả hiểu biết bản chất thật sự của đối tượng. Hành
giả hiểu biết sự liên quan giữa tâm và vật chất (danh và sắc), nguyên nhân
và hậu quả, sự phát sanh và hoại diệt, những đặc tướng vô thường, khổ, vô
ngã và uế trược (anicca, dukkha, anattà và asubha) cố hữu dính liền với đề
mục.
Thí dụ người ấy đang ghi nhận một cảm giác
nóng, "nóng, nóng". Tâm của người ấy chăm chú vào cảm giác nóng, và có thể
cũng hiểu biết rằng trong thực tế chỉ có hai việc: cảm giác nóng và cái
tâm hay biết cảm giác nóng. Ðó là tuệ phân biệt danh sắc. Người ấy hiểu biết nguyên nhân và hậu quả.
Thí dụ hiểu biết rằng bởi vì có hơi nóng nên có sự ghi nhận hơi nóng. Nơi
đây, hơi nóng là nhân, và sự ghi nhận, tức hay biết, là quả. Khi thấy hơi
nóng kế tiếp nhau phát sanh rồi hoại diệt, người ấy hiểu biết bản chất vô
thường, khổ và vô ngã (tức phát sanh do điều kiện, tự nhiên phát sanh chớ
không có người kiểm soát hay điều khiển).
Người kia không cần suy tư để hiểu biết
những điều ấy. Sự hiểu biết và thấu đạt sẽ đến một cách hồn nhiên và tự
nhiên trong khi ghi nhận. Như vậy, ghi nhận và hiểu biết như thế thì ô
nhiễm (kilesas) không có cơ hội để phát sanh. Nếu không ghi nhận thì những
ô nhiễm như tham lam (abhijja) và sân hận (domanassa) có thể phát sanh.
Thí dụ như nếu đối tượng đáng được ưa thích, thì tham lam có thể phát sanh
và nếu không vừa lòng thì có phiền muộn hay sân hận. Nhưng khi ta đang ghi
nhận và chăm chú trong sự hiểu biết đối tượng đúng theo thực tướng của nó,
những ô nhiễm kia không thể phát sanh. Bởi vì trong mỗi khoảnh khắc mà ta
ghi nhận, trong khoảnh khắc ấy không có ô nhiễm. Như vậy tadanga pahàna
cũng được gọi là tạm thời khắc phục ô nhiễm. Có nghĩa là lúc nào mà ta
đang ghi nhận thì ô nhiễm (kilesa) không thể phát sanh. Nếu liên tục ghi
nhận trong 10 chập hay 1000 chập tư tưởng, hay một giờ, không gián đoạn,
thì trong thời gian dài ấy ô nhiễm (kilesa) không thể phát sanh. Ðó là
tadanga pahàna, diệt trừ ô nhiễm trong khi ghi nhận. Hơn nữa, ô nhiễm không thể phát sanh, vì
nơi mà nó có thể phát sanh, ta đã kiên cố thiết lập niệm và tuệ, như hiểu
biết vô thường, khổ, vô ngã (anicca, dukkha, anattà) v.v... Như vậy
tadanga pahàna cũng được gọi là khắc phục hay dứt bỏ những ô nhiễm
bằng cách thay thế vào đó cái đối nghịch, bởi vì ta thay thế vô minh
(avijjà) bằng minh (vijjà), thay thế sự hiểu biết chân chánh về đặc tướng
vô thường (anicca) của vạn pháp vào chỗ tri giác sai lầm cho rằng vạn vật
là thường còn (nicca), lấy tri giác chân chánh về đặc tướng đau khổ
(dukkha) thay vào chỗ hiểu biết lầm lạc xem là hạnh phúc (sukha), lấy tri
giác chân chánh về đặc tướng vô ngã (anattà) thay thế hiểu biết sai lầm
cho đó là tự ngã (attà), lấy tri giác chân chánh về sự uế trước (asubha)
thay thế hiểu biết sai lầm cho đó là đẹp đẽ (subha).
Danh từ "tadanga" có thể chia làm hai
phần, "tad" và "anga". Tad theo ngữ nguyên, có nghĩa là "cái đó", hàm xúc
ô nhiễm (kilesa) mà có thể phát sanh nếu ta không ghi nhận, hay niệm. Anga
là chân tay (chi), một phần, một đơn vị. Nơi đây danh từ này hàm xúc sự
ghi nhận, có thể khắc phục ô nhiễm (kilesa) đó, trong ý nghĩa là không cho
ô nhiễm có cơ hội để khởi phát.
DỨT BỎ Ô NHIỄM BẰNG CÁCH ÐÈ NÉN (VIKHAMBHANA) Bây giờ, khi tadanga pahàna liên
tục xảy diễn hằng loạt trong một lúc thì vikkhambhana pahàna phát
sanh. Ðiều này có nghĩa là chí đến khi hành giả có thể không ghi nhận (thí
dụ như hành giả phóng tâm, không ghi nhận trong chốc lát, hoặc khi hành
giả đang ngồi rồi đứng dậy) ô nhiễm (kilesa) sẽ không phát sanh. Tại sao?
Bởi vì trước đó hành giả liên tục ghi nhận và tadanga pahàna liên
tục xảy diễn, tâm của hành giả trở thành rất tế nhị và trong sạch, hậu quả
của tâm ấy còn kéo dài cái đà của nó trong một lúc. Vào lúc ấy, mặc dầu
hành giả không ghi nhận, ô nhiễm (kilesa) cũng không thể xâm nhập. Ðạt đến
mức độ tâm như vậy là vikkhambhana pahàna. Ta có thể dịch là dứt bỏ
ô nhiễm bằng cách đè nén, trong ý nghĩa là ô nhiễm không có cơ hội để khởi
sanh trong những đối tượng mà hành giả không ghi nhận. Ðến giai đoạn này
hành giả có thể nghĩ rằng mình đã hoàn toàn khắc phục ô nhiễm và ô nhiễm
không còn khởi sanh lên nữa. Nhưng, dĩ nhiên, không phải vậy. Ô nhiễm chỉ
tạm thời không thể xâm nhập. Khi ảnh hưởng của sự dứt bỏ ô nhiễm bằng cách
đè nén (vikkhambhana pahàna) suy giảm dần (như sau khi hành thiền
một thời gian) hành giả lại bị ô nhiễm tấn công trở lại. Ðể có một thí dụ,
nếu ta để một cục sắt trong lửa cho đến nóng đỏ rồi lấy ra. Vừa lúc lấy ra
ta không thể lấy tay sờ cục sắt, mặc dầu đã lấy nó ra ngoài, không còn
trong lửa nữa. Cùng thế ấy, ô nhiễm (kilesa) không thể phát sanh khi hành
giả vừa ngưng ghi nhận, vì ảnh hưởng của tadanga pahàna vẫn còn.
Nhưng nếu để cục sắt ở ngoài lửa một lúc, nó sẽ nguội và ta có thể lấy tay
sờ. Ở đây cũng vậy, khi năng lực tiêu trừ ô nhiễm (tadanga pahàna)
yếu dần, ô nhiễm (kilesa) lại có thể phát sanh. Cuối cùng, khi thành đạt đạo quả
(magga-phala) ta cũng thành tựu khả năng dứt bỏ ô nhiễm bằng cách cắt đứt
(samuccheda-pahàna). Có nghĩa là ô nhiễm (kilesa) bị cắt đứt hoàn toàn và
vĩnh viễn, không bao giờ còn phát sanh trở lại. Vị A La Hán đã diệt trừ
tận gốc rễ tất cả mọi thằng thúc (samyojana, dây trói buộc chúng sanh vào
vòng luân hồi, kiết sử), ô nhiễm không bao giờ còn có thể phát sanh đến
Ngài. Ðối với vị Tu Ðà Hườn (sotapana, nhập lưu, người chứng đắc tầng
thánh đầu tiên), một ít ô nhiễm (kilesa) còn có thể phát sanh vì vị này
chỉ cắt đứt ba thằng thúc là thân kiến (sakkàya-ditthi), hoài nghi
(vicikiccha) và giới cấm thủ (sìlabbata-paràmàsa, chấp thủ vào những nghi
thức lễ bái suông). Vị ấy còn tham và sân nhưng ở mức độ rất vi tế, không
bao giờ có loại ô nhiễm thô thiển có thể đưa vào khổ cảnh (apàya). Những
quả (vipàka) xấu do nhân bất thiện mà Ngài đã tạo trong một tiền kiếp, vốn
có thể đưa tái sanh vào khổ cảnh, cũng không còn hiệu lực. Ngài cũng không
bao giờ còn có những hành động xấu như vậy nữa.
Tiếp theo đó là dứt bỏ ô nhiễm bằng trạng
thái an tĩnh (patipassaddhi-pahàna). Ðiều này hàm xúc sự chứng đắc quả tuệ
(phala-nàna), vốn tự động tức khắc theo liền đạo tuệ (magga-nnàna). Ðể có
một thí dụ, cũng giống như có một vật bị cháy trong lửa và khi ngọn lửa
tàn, ta tạt thêm nước lạnh vào làm cho vật cháy nguội hẳn. Cùng thế ấy,
quả (phala) có ảnh hưởng làm mát mẻ người đã đắc đạo (magga). Khi một hành
giả thánh nhân (ariya yogi) - tức người hành thiền đã chứng đắc đạo quả
(magga-phala) thánh - nhập trở lại chập tâm quả (phala), vị ấy thọ hưởng
hạnh phúc Niết Bàn (Nibbàna). Cuối cùng là dứt bỏ bằng cách thoát ra khỏi
ô nhiễm (nissarana-pahàna). Ðiều này chỉ có thể xảy đến một vị A La Hán,
vì Ngài đã thành tựu đạo quả A La Hán (arahatta magga-phala). Khi chứng
đắc đạo quả Niết Bàn A La Hán (arahatta magga-phala-Nibbàna) thì hành giả
đã thoát ra khỏi vòng quanh ô nhiễm (kilesa vatta), vòng quanh nghiệp
(kamma vatta) và vòng quanh quả (vipaka vatta). Có nghĩa là không còn tái
sanh nữa; vị ấy đã thoát ra khỏi vòng luân hồi (samsàra) - cuộc đi triền
miên bất tận trong biển trầm luân. Ô NHIỄM Ở NHỮNG TẦNG LỚP KHÁC NHAU TKV:
Bạch Thiền Sư, xin Ngài giải thích, làm thế nào hành giả có thể hưởng lợi
ích khi thoát ra khỏi những ô nhiễm ngủ ngầm trong đề mục (àramanànusaya
kilesa), bằng cách ghi nhận?
TSP:
Trước tiên để Sư giải thích vitikkhama, pariyutthana và anusaya kilesa. Vitikama-kilesa
là ô nhiễm của sự vi phạm. Có nghĩa là những ô nhiễm biểu hiện ra ở tầng
lớp thân hay khẩu, tức bằng việc làm hay lời nói, như sát sanh hay nói
dối. Ðây là những ô nhiễm thô thiển. Pariyutthàna kilesa
là những ô nhiễm ám ảnh, chỉ xảy diễn trong tâm, ở tầng lớp tinh thần. Ðây
là những tư tưởng bất thiện phát sanh trong tâm nhưng không diễn đạt ra
bằng thân hay khẩu.
Anussaya kilesa
là những ô nhiễm ngủ ngầm trong tâm và sẽ khởi dậy khi có điều kiện thuận
tiện. Những ô nhiễm này luôn luôn sẵn sàng trỗi dậy mỗi khi có cơ hội - và
những cơ hội này thì có rất nhiều trong một ngày. Trong khi ghi nhận, hành giả không có ô
nhiễm, điều này đã rõ ràng. Nhưng một khi ngưng ghi nhận, những ô nhiễm
của sự vi phạm và ám ảnh (pariyutthàna và vitikama kilesa) sẽ khởi sanh
trở lại, vì những ô nhiễm ngủ ngầm (anusaya kilesa) luôn luôn vẫn còn đó.
Khi ta cắt đứt những ô nhiễm ngủ ngầm trong luồng nghiệp (anussaya kilesa)
thì cả hai pariyutthàna và vitikama kilesa không thể khởi sanh. Sẽ không
còn tư tưởng bất thiện và do đó không còn việc làm và lời nói bất thiện. Bây giờ, có hai loại ô nhiễm ngủ ngầm
(anussaya kilesa), đó là arammanànusaya và santanànusaya.
Hành giả không thể cắt đứt santanànusaya kilesa cho đến khi chứng đắc đạo
quả (magga-phala), nhưng có thể dứt lìa arammanànusaya kilesa bằng cách
ghi nhận. Anusaya là khả năng có thể trổi dậy, còn santana là luồng trôi
chảy phức tạp danh và sắc, tâm và thân. Như vậy santanànusaya kilesa là
những ô nhiễm có khả năng khởi sanh trong luồng trôi chảy danh sắc. Ngày
nào mà ta chưa chứng đắc đạo quả (magga-phala) thì những ô nhiễm ngủ ngầm
(anusaya kilesa) này chưa bị bứng nhổ tận gốc rễ và có thể phát sanh khi
có cơ hội. Arammanànusaya kilesa là những ô nhiễm có
thể phát sanh với đối tượng mà ta ghi nhận. Thí dụ như nếu ta ghi nhận một đối tượng
vừa lòng mà không có trí tuệ minh sát, ắt lòng ham muốn hay ái dục có thể
phát sanh. Hoặc khi gặp một đối tượng không vừa lòng thì phiền muộn hay
bất mãn có thể khởi sanh. Dầu ô nhiễm không phát sanh vào lúc ấy vì ta áp
dụng sự chú tâm và suy tư chân chánh (yoniso manasikàra) nhưng về sau, khi
hồi nhớ lại đối tượng, lòng ham muốn hay ái dục có thể khởi dậy. Ðó là ô
nhiễm có khả năng khởi sanh với đối tượng vì ta không quan sát đối tượng
với tuệ minh sát (aramanànusaya-kilesa). Tuy nhiên, vị hành giả ghi nhận
với tuệ minh sát thì bứng tận gốc rễ những ô nhiễm rammanànusaya kilesa.
Ðiều này có nghĩa là chẳng những ô nhiễm không phát sanh trong khi ghi
nhận, mà về sau, khi hồi nhớ lại đối tượng ấy, cũng không có ô nhiễm phát
sanh. Thay vì ô nhiễm, chỉ có tuệ giác hiện hữu vào lúc ta bắt đầu ghi
nhận, sẽ phát sanh. Vì lẽ ấy ghi nhận những hiện tượng tinh thần và vật
chất phát sanh là rất quan trọng. Bằng cách đó hành giả vĩnh viễn cắt lìa
những ô nhiễm phát sanh với đối tượng ghi nhận (arammanànusaya kilesa) và
đây là loại lợi ích duy nhất mà hành giả có thể thọ hưởng dầu chưa thành
tựu đạo quả (magga-phala) nào. Nếu có thể thấu hiểu lợi ích này, hành giả
nên cố gắng chuyên cần và kiên trì ghi nhận để cắt lìa những ô nhiễm
arammanànusaya này càng nhiều càng tốt. Về điểm này hành giả nên thấu hiểu
thích đáng nimitta-gaha và anuvyanjana-gaha. Nimitta theo nghĩa đen là
"dấu hiệu". Nơi đây danh từ này hàm xúc đối tượng nguyên nhân làm phát
khởi ô nhiễm. Gaha là nắm lấy hay chấp thủ. Anuvyanjana là "chi tiết", tức
những chi tiết của đối tượng. Nimitta là đối tượng xem như một toàn thể mà
không đi vào chi tiết. THẤY MÀ KHÔNG BÁM NÍU Giờ đây hãy lấy một thí dụ. Như chàng kia
thấy một thiếu phụ xinh đẹp (hay ngược lại, thiếu phụ kia thấy một người
đàn ông xinh đẹp). Trước tiên, người ấy nhìn toàn diện thiếu phụ, nhận ra
đây là một người đàn bà đẹp và vào lúc ấy tâm tham ái, lòng ham muốn hay
ái dục (tanhà) có thể phát sanh. Kế đó, người ấy bắt đầu đi sâu vào chi
tiết của đối tượng, quan sát vẻ mặt, hình dáng, tác phong v.v... Rồi nghĩ
rằng thiếu phụ có cặp mắt xinh, lông nheo, mũi, môi, ngực, tay, chân đẹp
v.v... Người ấy có thể ưa thích lối nói chuyện, cái miệng mỉm cười, lối
đi, cách đứng, lối chải tóc, giọng nói v.v... Bằng cách đó người ấy nhìn
sâu vào những chi tiết. Ðó là anuvyanjana-gaha - nắm lấy hay bám níu
(gaha) những chi tiết (anuvyanjana) của đối tượng. Tự nhiên, những ô nhiễm
ham muốn, ái dục v.v... phát sanh càng mạnh mẽ hơn nơi người quan sát đối
tượng theo cách đó.
Nhìn đối tượng xem như một toàn thể
(nimitta-gaha), thì ô nhiễm (kilesa) không thể phát sanh mạnh mẽ. Nhưng
nếu ta không ngưng ở mức đó mà tiến xa thêm, bám níu vào những chi tiết,
ắt nó sẽ kéo ta đi sâu hơn. Thí dụ như ăn cơm với các thức ăn khác nhau.
Ăn cơm trắng không mà không có thức gì khác là như nhìn toàn diện đối
tượng (nimitta-gaha). Nhưng khi ta thêm vào thịt, cá, hay rau cải v.v...
thì có nhiều mùi vị hơn. Cũng như nhìn vào chi tiết (anuvyanjana-gaha). Vị hành giả mà chuyên chú ghi nhận thì
không bám níu vào hình dáng toàn diện mà cũng không bám níu vào những chi
tiết của đối tượng. Ðó là na-nimitta-gaha và na-anuvyanjana,
"na" là không. Bằng cách không bám vào toàn thể mà cũng không bám vào chi
tiết hành giả cắt đứt lìa ô nhiễm phát sanh với đối tượng. Như thế nào?
Vào lúc người kia (hành giả) thấy một người, mà không khái niệm đó là đàn
ông hay đàn bà, xấu hay đẹp, v.v..., tâm chăm chú ghi nhận thực tế cùng
tột (chân đế), thấy thực tướng của đối tượng, thấy đối tượng đúng như bản
chất thật sự của đối tượng là vậy. Người ấy nhìn đối tượng dưới ánh sáng
của tuệ minh sát, hiểu biết danh sắc, nhân quả, vô thường, khổ, vô ngã
v.v... Bằng cách ấy, chí đến những ô nhiễm của lối nhìn toàn diện
(nimitta-gaha kilesa) cũng không thể phát sanh, nói chi đến ô nhiễm của
lối nhìn chi tiết (anuvyanjana kilesa). Ðó là năng lực của niệm (sati).
Chỉ ghi nhận suông - như thấy, thấy v.v... - mà tâm chú niệm ấy có nhiều
năng lực rất hùng mạnh và khả năng cắt đứt lìa ô nhiễm rất hữu hiệu. Sau đây là một câu chuyện xảy diễn vào
thời Ðức Phật. Một lần nọ vua Udena hỏi Ðại Ðức Pindolabharadvaja làm thế
nào những vị sư trẻ tuổi kiểm soát tham dục của mình. Vua thấy những vị sư
ấy còn đang tuổi thanh xuân, trẻ trung đẹp đẽ và cường tráng, ắt phải có
nhiều quyến rũ của nhục dục ngũ trần. Làm thế nào các vị sư ấy có thể ngăn
ngừa những ô nhiễm phát sanh trong tâm?
Ðại Ðức Pindolabharadvaja giải đáp rằng
nhà sư phải nhìn mọi người phái nữ như là mẹ mình, là cô, là dì, hay chị
mình v.v... Tùy theo tuổi tác, nhà sư phải đặt người phụ nữ mà mình gặp
vào vị trí thân bằng quyến thuộc của mình. Bằng cách đó, tham ái sẽ không
phát sanh.
Vua không thỏa mãn, nói rằng dầu làm như
vậy đi nữa, nhà sư cũng có thể lệch lạc ra khỏi con đường chân chánh, sống
trong những tư tưởng dục lạc. Ðại Ðức Pidolabharadvaja mới nói rằng nhà sư
phải hành pháp niệm về những uế trược (asubha) của thân, tức dùng tâm chia
chẻ thân làm nhiều phần - như tóc, lông, móng, răng, da, v.v... - và xem
xét những sắc thái dơ bẩn của nó. Khi khảo sát ruột, gan, tim, thận và
những bộ phận khác nhau chả thân như phẩn, nước tiểu, mồ hôi, v.v... ta
thấy rõ ràng không có gì tốt đẹp trong đó. Bằng cách ấy dục lạc không phát
sanh. Vua vẫn không thỏa mãn, nói rằng tâm rất xảo quyệt gian trá và rất
khó kiểm soát. Dầu trong lúc sống với những hình thức nhơ bẩn (asubha)
khác nhau của thân, vua chủ trương rằng tâm vẫn thấy nó là xinh đẹp và
đáng được ưa thích (sabha).
Ðại Ðức Pindolabharadvaja bèn nói: "Troing
trường hợp ấy, nhà sư phải niệm (sati)". Ðến đây vua thỏa mãn. Vua xem lời
giải đáp như vậy là thỏa đáng, vì chính vua đã có hành pháp chú niệm và
thấy hữu hiệu. Vua thuật rằng mỗi khi Ngài vào cung điện của các bà mỹ nữ
thì rất khó mà tự kiểm soát. Các bà này làm cho Ngài xao lãng và khi bị
tham dục và ham muốn khắc phục Ngài không thể gom tâm vào gì khác. Nhưng
khi ấy Ngài hành pháp Tứ Niệm Xứ (satipatthàna) và thấy mình có thể kiểm
soát tâm. Vua có thể sống mát mẻ giữa khuê phòng của những cung phi mỹ nữ
mà tham ái không phát sanh! Vậy, pháp hành Tứ Niệm Xứ (satipatthàna)
này rất hữu ích, kiểm soát tâm rất hữu hiệu và cuối cùng dẫn đến trí tuệ
cao siêu nhất và giải thoát, Niết Bàn. Hành giả nên hoan hỷ với lời bảo đảm của
Ðức Phật, nên nhiệt thành và kiên trì chuyên chú thực hành. Ðể chấm dứt,
Sư cầu chúc cho quý vị thiền sinh có thể chuyên cần thực hành và không bao
lâu sẽ tìm thấy hạnh phúc từ lâu hết lòng mong mỏi. PHỤ BẢN NIỆM ÐẶC BIỆT Khi niệm (sati) đặc biệt mạnh, nhất là ở
mức tuệ sanh diệt (udayabbaya-nàna, tuệ giác chứng nghiệm sự phát sanh và
hoại diệt của những hiện tượng), vài người hành thiền có thể thấy quá khứ,
thấy một vài chuyện xảy ra trong hiện tại mà ở nơi khác, và thấy vị lai.
Ngài Thiền Sư thuật lại đây trường hợp của ba thiền sinh đặc biệt mà Ngài
dạy 20 năm về trước.
"...Khi niệm (sati) trở thành đặc biệt
dũng mãnh, tâm của hành giả và đối tượng ghi nhận cũng trở nên rất rõ
ràng. Ðến giai đoạn này vài hành giả có thể hồi nhớ những kiếp sống quá
khứ hay những chuyện xảy ra trong thời thơ ấu mà theo bình thường thì
không thể nhớ. Cách nay 20 năm có một bé sa-di (sàmanera)
chín tuổi, hành thiền dưới sự hướng dẫn của Sư. Chú bé sa-di này có thể
hồi nhớ những ngày thơ ấu của chú, chi tiết đến độ nhớ lúc được thọ thai
như thế nào. Chú có thể tường thuật lúc được thọ thai như thế nào và được
cấu hợp thành một vật như bọt (tiếng Pali là kalala) - giai đoạn
thai nhi đầu tiên trong bụng mẹ. Chú mô tả với chi tiết lúc nở thành một
thai bào màu đỏ hồng, rồi tay chân, thân mình, đầu, v.v... xuất hiện. Chú
cảm nghe khó chịu khi bà mẹ di động. Khi mẹ ăn thức ăn cay, nồng, chú cũng
cảm nghe ảnh hưởng.
Qua ngày hôm sau, khi bảo thuật câu chuyện
thọ thai lại thì thoạt tiên chú bé sa-di không thể thuật. Nhưng bảo cố hồi
nhớ thì chú định thần một lúc và có thể tường thuật với nhiều chi tiết như
ngày hôm trước. Ðó là một loại khả năng tinh thần chỉ tồn tại tạm thời.
Khi niệm (sati) mất năng lực phi thường của nó thì khả năng ấy cũng không
còn. Rồi có vài thiền sinh có thể thấy chuyện
gì xảy ra ở nhà trong lúc ngồi thiền tại thiền viện. Có một thiền sinh,
khi thấy như vậy thì nhìn đồng hồ và ghi giờ. Sau đó, khi người nhà đến
viếng, ông ta hỏi lại thì đúng vào giờ đó công chuyện ở nhà xảy ra y như
ông thấy trong khi ngồi thiền ở thiền viện. Một thiền sinh khác, một người Nhật độ 40
tuổi, trong khi ngồi thiền tại Trung tâm Màhasi Yeiktha tại Rangoon, nghĩ
đến một người bạn Miến Ðiện đến bàn với ông về chuyện làm ăn. Sau đó, khi
xả thiền, ông ngồi dậy, và ngay lúc xuống trai đường ông gặp chính ông bạn
Miến Ðiện ấy đến bàn về chuyện làm ăn.
Cũng ông ấy, trong lúc ngồi thiền nghĩ đến
một trường hợp kiện thưa về đất đai của ông ở Nhật. Một lúc sau ông nhận
được thơ của người chị cho biết tin về vụ kiện liên quan đến thửa đất ấy". -ooOoo- Chân thành cám ơn Tỳ kheo
Thiện Minh đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 02-2003) [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
do Tỳ Khưu Visuddhacara thực hiện
Tác giả
Malaysian Buddhist Meditation Centre
(Trung tâm Hành Thiền Phật Giáo Mã Lai)
355 Jalan Mesjid Negeri
11600 Penang. Malaysia
Tháng 5-1991
last updated:
21-02-2003