BuddhaSasana Home Page
Thực tập Thiền minh sát
Thời Pháp do Ngài
Mahàsi Sayàdaw U Nyi Nyi
phiên dịch từ Miến sang Anh ngữ Mỗi khi thấy, nghe, hửi, nếm,
sờ đụng, hoặc suy nghĩ phải ghi nhận những sự việc nầy. Nhưng vào giai
đoạn sơ cơ trong pháp hành ta không thể ghi nhận đầy đủ tất cả những sự
việc xảy ra. Do đó, nên bắt đầu ghi nhận những gì phát hiện hiển nhiên
và dễ cảm nhận. Khi thở thì bụng phồng lên và xẹp xuống.
Ðó là cử động hiển nhiên. Ðó là tính chất vật lý gọi là vàyodhàtu nguyên
tố di động trong vật chất [1], thường được gọi là nguyên tố gió. Nên bắt đầu ghi nhận di động ấy, tâm
chăm chú theo dõi quan sát bụng. Ta sẽ thấy bụng phồng lên khi thở vô và
xẹp xuống khi thở ra. Trạng thái phồng lên phải được ghi nhận thầm,
"phồng, phồng", và di động xẹp xuống, "xẹp, xẹp". Trong trường hợp không
thấy rõ ràng trong tâm cái bụng phồng lên và xẹp xuống bằng cách ghi
nhận thầm thì hành giả có thể dùng hai bàn tay đặt lên bụng. Không nên
sửa đổi lối thở, cứ thở tự nhiên như thường. Không nên thở chậm lại hay
mau lên. Cũng không nên thở mạnh hay yếu hơn. Bởi vì khi thay đổi lối
thở như vậy thì hành giả sẽ chóng mệt. Cứ thở đều đặn như thường và ghi
nhận trạng thái phồng lên và xẹp xuống của cái bụng -- ghi nhận thầm chà
không nói ra lời. Trong pháp hành Thiền Minh Sát (Vipassanà),
bất luận danh từ nào mà ta nói lên, hay tên nào mà ta gọi đến, cũng
không thành vấn đề. Vấn đề thật sự là hay biết hoặc cảm nhận. Ta phải
ghi nhận cái bụng phồng lên khi nó mài bắt đầu nổi lên, và liên tục theo
dõi di động của bụng cho đến khi nó không còn phồng lên nữa, cũng rõ
ràng giống như ta nhìn thấy và theo dõi cử động phồng lên bằng mắt. Khi
bụng xẹp xuống cũng vậy, ghi nhận di động của bụng từ đầu đến cuối. Phải
ghi nhận như thế nào mà sự hay biết của ta và sự di động của bụng đồng
thời phát hiện cùng một lúc. Cử động và tâm hay biết phải trùng hợp vài
nhau giống như chọi viên đá vào tường. Ðá và tường chạm nhau cùng một
lúc. Cùng thế ấy, hành giả ghi nhận cử động xẹp xuống của bụng.
Trong khi ghi nhận cử động của bụng như
thế thì tâm hành giả có thể phóng đi nơi khác. Sự kiện nầy cũng phải
được ghi nhận liền bằng cách nói thầm, "phóng tâm, phóng tâm". Khi ghi
nhận như vậy một hoặc hai lần thì tâm ngừng phóng đi và hành giả trở lại
bụng phồng xẹp. Nếu tâm phóng đến một nơi nào, ghi nhận, "đến, đến", rồi
trở về phồng xẹp. Nếu hành giả tưởng tượng gặp một người nào, ghi nhận,
"gặp, gặp", rồi trở về phồng xẹp. Nếu hành giả tưởng tượng gặp và nói
chuyện vài người nào thì cũng ghi nhận, "nói chuyện, nói chuyện". Tóm tắt, bất luận ý nghĩ hay suy tư nào
phát sanh đến cũng phải được hành giả tỉ mỉ ghi nhận. Nếu tưởng tượng,
ghi nhận "tưởng tượng, tưởng tượng". Nếu suy nghĩ, "suy nghĩ". Nếu toan
tính, "toan tính". Nếu nhận thấy, "nhận thấy". Nếu suy tư, "suy tư". Nếu
cảm nghe hạnh phúc, "hạnh phúc". Nếu nhàm chán, "nhàm chán". Nếu cảm
nghe bằng lòng, "bằng lòng". Nếu buồn phiền, "buồn phiền". Sự ghi nhận
tất cả những sinh hoạt của tâm như vậy được gọi là cittànupassanà,
niệm tâm, hay tâm quán niệm xứ. Vì thiếu sót, không ghi nhận những sinh
hoạt của tâm như vậy nên ta có khuynh hướng đồng hóa sinh hoạt tâm linh
ấy vài một người, một cá nhân. Thấy tâm là người, người là tâm, tâm vài
người là một. Ta có khuynh hướng nghĩ rằng chính "Ta" đang tưởng tượng,
suy tư, toan tính, hiểu biết v.v... Ta nghĩ rằng có một người sống và
suy tư từ bé đến làn. Ðúng ra thì không có một người như vậy hiện hữu.
Thay vì một người, xem như một thực thể đơn thuần, nguyên vẹn, chỉ có
hành vi của tâm liên tục nối tiếp. Vì lẽ ấy ta phải ghi nhận những sinh
hoạt tâm linh và thấu đạt thực tướng của nó, hiểu biết đúng như thật sự
nó là vậy. Vì lẽ ấy phải ghi nhận tất cả và mỗi hành vi của tâm, ngay
lúc nó khởi phát. Khi được ghi nhận như vậy thì nó có khuynh hướng tan
biến. Chừng đó hành giả quay trở về phồng xẹp. Tọa thiền, khi ngồi một lúc lâu hành giả
cảm nghe người tê cứng hoặc nóng. Phải thận trọng ghi nhận những cảm
giác ấy. Cùng thế ấy, phải ghi nhận những cảm giác đau đàn, khó chịu, và
mệt mỏi. Tất cả những cảm giác ấy là dukkhavedanà, thọ khổ, và sự
ghi nhận ấy là vedanànupassanà, niệm thọ, hay thọ quán niệm xứ.
Vì thiếu sót không ghi nhận những cảm thọ ấy nên ta có khuynh hướng nghĩ
rằng "Tôi" bị tê cứng, "Tôi" cảm nghe nóng, "Tôi" đau nhức. Mới vừa rồi
"Tôi" nghe thoải mái dễ chịu. Giờ đây "Tôi" cảm nghe bực bội vài những
cảm giác khó chịu nầy. Ðồng hóa cảm giác vài tự ngã là lầm lạc. Trong
thực tế không có "Tôi" mà chỉ có những cảm giác khó chịu liên tục nối
tiếp. Một cảm giác khó chịu mài, kế tiếp liền theo cảm giác khó chịu
trước. Cũng như những xung lực của luồng điện
làm phực sáng bóng đèn điện, mỗi khi có sự tiếp xúc khó chịu trong thân
thì những cảm giác khó chịu nối tiếp phát sanh, cái nầy tiếp liền theo
cái khác. Những cảm giác ấy phải được chăm chú ghi nhận một cách tỉ mỉ,
dầu đó là cảm giác tê cứng, nóng, hoặc đau nhức. Vào lúc sơ cơ, khi mà
hành giả mài bắt đầu tập hành thiền, những cảm giác khó chịu ấy có thể
có khuynh hướng gia tăng và thúc giục hành giả nảy sanh ý muốn xoay trở,
đổi thay tư thế ngồi. Phải ghi nhận ý muốn ấy, và sau đó trở lại trạng
thái tê cứng v.v... "Hạnh nhẫn nhục dẫn đến Niết Bàn". Thành
ngữ nầy rất thích nghi vài công trình hành thiền. Phải nhẫn nhục. Nếu ta
cứ xoay trở hay mãi mãi đổi thay lối ngồi vì không thể nhẫn nhục chịu
đựng những cảm giác tê cứng, đau nhức hay nóng, thì không thể phát triển
tâm định (samàdhi). Nếu không định ắt không tiến đến Tuệ Minh
Sát, và không có trí tuệ ắt không chứng đắc Ðạo (Magga, con đường
dẫn đến Niết Bàn), Quả (Phala, thành quả của con đường) và Niết
Bàn. Vì lẽ ấy hạnh nhẫn nhục là tối quan trọng và rất cần thiết trong
pháp hành. ở đây, phần làn là nhẫn nhục chịu đựng những cảm giác khó
chịu của thân như tê cứng, nóng nực và đau nhức. Khi cảm giác ấy phát
sanh, ta không nên vội gián đoạn thời thiền tập và đổi thay thế ngồi.
Phải nhẫn nhục kiên trì và ghi nhận, "tê cứng, tê cứng", hoặc "nóng,
nóng". Nếu đó là những cảm giác không đến đổi quá khó chịu đựng, khi ta
nhẫn nhục niệm như thế thì nó sẽ tan biến. Ðến khi tâm an trụ của hành
giả trở nên mạnh mẽ vững chắc thì dầu cảm giác thật khó chịu đi nữa cũng
có khuynh hướng tan mất dần. Khi đó trở về niệm phồng xẹp ở bụng.
Nếu, mặc dầu đã gia công ghi nhận như
vậy một lúc lâu mà cảm giác khó chịu càng gia tăng thì lẽ dĩ nhiên, hành
giả phải thay đổi thế ngồi. Trước tiên, phải ghi nhận ý muốn, "muốn đổi
thế ngồi, muốn đổi thế ngồi". Nếu dở tay lên, ghi nhận, "dở tay, dở
tay". Tay cử động, ghi nhận, "cử động, cử động". Sự đổi thay thế ngồi
nầy phải được thực hiện nhẹ nhàng, chậm chạp và luôn luôn chăm chú ghi
nhận, "dở tay, dở tay", "cử động, cử động", và "đứng, đứng". Khi thân
người nghiêng về phía trước để ngồi dậy, ghi nhận, "nghiêng mình,
nghiêng mình". Nếu dở chân, "dở chân, dở chân". Chân bước tới, ghi nhận,
"bước tới, bước tới". Ðặt chân xuống, "hạ chân xuống, hạ chân xuống".
Nếu ngồi yên, trở về bụng và niệm phồng xẹp. Phải luôn luôn ghi nhận,
ghi nhận liên tục, không để gián đoạn giữa hai điểm ghi nhận mà chỉ có
sự tiếp nối. Ghi nhận nầy nối tiếp ghi nhận trước, trạng thái tâm định (samàdhi)
nầy vừa dứt, tức thì có trạng thái tâm định (samàdhi) khác tiếp
theo không gián đoạn. Sự hay biết trước vừa qua, liền có sự hay biết
khác nối tiếp. Chỉ đến chừng ấy trạng thái tâm hay biết của hành giả mài
đạt đến những giai đoạn nối tiếp hướng đến tâm thuần thục. Ðạo Tuệ và
Quả Tuệ (Magga Nyàna và Phala Nyàna, tuệ giác hiểu biết
Con Ðường và thành quả của Con Ðường) chỉ có thể thành đạt nhờ trạng
thái tâm thuần thục như vậy. Tiến trình hành thiền cũng giống như người
thời xưa dùng hai khúc gỗ liên tục cọ xát vào nhau để làm ra lửa. Lửa
chỉ có thể phát sanh nếu ta kiên trì liên tục cọ xát mạnh hai khúc gỗ
vào nhau để tạo sức nóng cần thiết.
Cùng thế ấy, trong pháp hành Thiền Minh
Sát hành giả phải ghi nhận một cách liên tục bất luận hiện tượng nào có
thể xảy ra, không ngừng nghỉ, không có gián đoạn giữa hai thời điểm mà
ta ghi nhận. Thí dụ như cảm giác ngứa phát sanh mà hành giả muốn gãi vì
không chịu nổi, cả hai hiện tượng -- ngứa và muốn gãi -- đều phải được
ghi nhận liền chà không phải gãi cho hết ngứa trước rồi mài niệm. Nếu ta
kiên trì ghi nhận như thế ấy, thông thường trạng thái ngứa sẽ tan biến.
Và trong trường hợp nầy, trở về ghi nhận phồng, xẹp, ở bụng. Như không
hết ngứa, lẽ dĩ nhiên ta phải gãi. Nhưng trước khi đó phải ghi nhận ý
muốn gãi và tất cả những cử động trong tiến trình gãi phải được ghi nhận
đầy đủ, nhất là khi tay đụng chỗ ngứa, đẩy tới và kéo lui, móng tay quàu
nhẹ trên chỗ ngứa v.v... xong rồi quay trở về phồng xẹp ở bụng. Mỗi khi thay đổi oai nghi, như ngồi rồi
đứng hay đứng rồi đi, phải bắt đầu ghi nhận ý định hoặc ý muốn thay đổi
oai nghi và liên tục thận trọng ghi nhận chi tiết mỗi cử động như ngồi
dậy, dở tay lên, duỗi tay ra. Phải ghi nhận chi tiết từng cử động, cùng
lúc mà ta cử động. Nghiêng mình về phía trước, ghi nhận, "nghiêng mình".
Trong khi nhàm thân người lên để đứng dậy, ghi nhận ngay trong lúc ấy.
Hãy chăm chú vào tất cả những chi tiết và từ từ ghi nhận, "ngồi dậy,
ngồi dậy". Hành giả phải cử động như người bệnh còn
yếu. Người mạnh khoẻ ngồi dậy dễ dàng và nhanh chóng. Người vừa hết
bệnh, còn yếu, thì không được vậy, làm gì cũng chậm chạp và nhẹ nhàng.
Người bị đau lưng cũng vậy, ngồi dậy từ từ để lưng đỡ đau. Người hành
thiền cũng vậy, phải thay đổi oai nghi từ từ và nhẹ nhàng. Chỉ có bằng
cách ấy niệm, định, và tuệ mài phát triển tốt đẹp.
Vì lẽ ấy, phải cử động nhẹ nhàng và chậm
chạp. Khi ngồi dậy hành giả phải dậy một cách khoan thai, huỡn đãi như
người bệnh mài khỏi và cùng lúc, phải ghi nhận, "ngồi dậy, ngồi dậy".
Không những chỉ có vậy, mà mặc dầu mắt có thấy, phải làm như không thấy.
Cùng thế ấy, trong khi hành thiền, tai có nghe nhưng hành giả chỉ chăm
chú vào việc ghi nhận, "nghe, nghe", không bận tâm đến những gì mà mình
nghe hay thấy. Dầu điều gì lạ lùng hay bất ngờ như thế nào mà ta có thể
nghe hay thấy, phải làm như không thấy, không nghe. Chỉ thận trọng ghi
nhận. Khi cử động thân, phải từ từ giống như
người bệnh mài khỏi, còn yếu, chậm chậm cử động tay chân, co vào hoặc
duỗi ra, cúi đầu xuống hoặc ngẩng đầu lên. Tất cả những cử động ấy phải
được thực hiện nhẹ nhàng, chậm chạp. Khi đang ngồi mà đứng dậy, phải
nhàm mình lên từ từ và ghi nhận, "nhàm dậy, nhàm dậy". Khi đứng, thẳng
người lên và ghi nhận, "đứng, đứng". Khi nhìn đầu nầy đầu kia, ghi nhận,
"nhìn, nhìn". Khi đi, ghi nhận từng bước đi. Bước chân mặt, ghi nhận
"mặt bước". Bước chân trái, ghi nhận, "trái bước". Ta phải tỉ mỉ hay
biết tất cả những cử động trong khi nó đang liên tục tiếp diễn, từ khi
dở chân lên đến lúc hạ chân xuống. Ghi nhận từng bước, bước mặt hay bước
trái. Ðó là phương cách ghi nhận khi đi mau. Khi hành giả đi nhanh và đi
một đoạn đường dài thì ghi nhận như vậy là đủ.
Khi đi chậm, tới lui trên đường kinh
hành (cankama), mỗi bước phải được ghi nhận vào ba giai đoạn: dở
chân lên, đưa chân tới, và hạ chân xuống. Hành giả bắt đầu vài hai điểm
ghi nhận, dở chân lên và hạ chân xuống. Phải hay biết rõ ràng cái chân
dở lên. Cùng thế ấy, khi hạ chân xuống phải hay biết rõ ràng cái chân
"nặng nề' đặt xuống.
Khi ngồi xuống, ghi nhận chi tiết tất cả
những cử động của chân và của tay. Ðến lúc ngồi lại yên không còn cử
động nào thì trở lại niệm phồng xẹp ở bụng. Trong khi niệm như vậy mà
nghe tay chân tê cứng, hoặc nghe nóng ở một nơi nào trong thân, hãy ghi
nhận những cảm giác ấy, rồi trở lại niệm phồng xẹp. Lúc niệm mà nghe có
ý muốn nằm xuống, hãy ghi nhận ý muốn nằm và tất cả những cử động của
tay, chân và thân mình trong khi nằm xuống. Dở tay lên, đưa tay ra, dựa
cùi chỏ trên giường, nghiêng mình, duỗi chân ra, từ từ đặt mình xuống,
nằm, tất cả những cử động ấy phải được ghi nhận tỉ mỉ.
Ghi nhận như vậy khi nghiêng mình nằm
xuống thật là quan trọng. Trong khoảng thời gian từ lúc ngồi đến lúc nằm
hành giả có thể đắc Ðạo Tuệ và Quả Tuệ [2]. Khi Ðịnh (Samàdhi) và
Tuệ (Nyàna) đã được củng cố vững mạnh thì Ðạo Tuệ và Quả Tuệ có
thể phát sanh bất luận lúc nào. Chỉ trong một động tác tầm thường như
"co tay vào" hay "duỗi tay ra" những tuệ giác đặc biệt ấy có thể phát
sanh bất ngờ, như trường hợp Ngài Ànanda đắc Quả A La Hán.
Trong đêm, trước ngày Kết Tập Tam Tạng
Lần Thứ Nhất, Ðức Ànanda tận lực kiên trì, gia công hành thiền để thành
đạt Ðạo Quả A La Hán. Trọn suốt đêm Ngài thực hành pháp vipassanà,
minh sát, gọi là kàyagatàsati, niệm thân. Ði tới lui kinh hành, ghi nhận
từng bước, mặt hay trái, dở chân lên, đưa tới và đặt chân xuống; Ngài
ghi nhận từng chi tiết tất cả những gì xảy diễn, ý muốn đi và những động
tác của tay chân trong khi đi. Mặc dầu Ngài nỗ lực thực hành như vậy từ
đầu hôm đến sáng mà không thành tựu Ðạo Quả A La Hán. Vào lúc bình minh,
nhận định rằng mình đã cố gắng quá sức trong đêm, cần phải quân bình
"Ðịnh Căn" (Samàdhindriya) và "Tấn Căn" (Viriyindriya) nên
Ngài dừng lại, không đi kinh hành nữa mà vào tịnh thất nằm xuống trong
lúc vẫn luôn luôn an trú trong chánh niệm. Ngài ngồi trên giường và ngã
lưng nằm. Khi nghiêng mình nằm xuống vài tâm ghi nhận, "nằm xuống, nằm
xuống", ngay trong khoảnh khắc ấy Ngài đắc Quả A La Hán.
Trước khi nằm xuống Ngài Ànanda chỉ mài
là Tu Ðà Huờn (Sotàpanna, Nhập Lưu, người mài bước vào dòng suối
chảy đến Niết Bàn, người thành đạt giai đoạn đầu tiên trên con đường đến
Niết Bàn). Từ Tu Ðà Huờn Ngài đắc liên tiếp ba Thánh Ðạo và ba Thánh
Quả: Tư Ðà Hàm (Sakadàgàmi, Nhất Lai, tầng Thánh thứ nhì, chỉ còn
trở lại thế gian nhiều lắm là một lần), A Na Hàm (Anàgàmi, Bất
Lai, tầng Thánh thứ ba, không còn trở lại thế gian nữa) và A La Hán (Arahat,
Ứng Cúng, bậc Thánh cùng tột, giai đoạn cuối cùng của con đường). Ngài
thành tựu liên tiếp ba Thánh Quả cao thượng chỉ trong khoảnh khắc. Chúng
ta hãy xem gương lành của Ngài Ànanda mà suy gẫm. Ðạo Quả cao thượng
tuyệt đỉnh có thể được thành tựu bất luận vào lúc nào, không phải mất
nhiều thì giờ. Vì lẽ ấy người hành thiền phải chuyên
cần liên tục ghi nhận, đều đặn và không gián đoạn. Không nên ngừng nghỉ,
tưởng rằng, "chỉ trong một khoảnh khắc ít oi thì không có gì quan
trọng". Tất cả những động tác trong khi ngã lưng nằm xuống, sắp xếp tay
chân, phải được tỉ mỉ ghi nhận, không bỏ sót chi tiết nào. Khi đã nằm
yên, không còn cử động nữa thì trở lại phồng xẹp ở bụng. Dầu đi ngủ trể
cũng vậy, hành giả phải luôn luôn liên tục niệm từng chi tiết. Một người
hành thiền thật sự nghiêm chỉnh phải chuyên cần giữ tâm niệm như mình sẽ
không ngủ. Vị ấy vẫn tiếp tục chuyên cần ghi nhận cho đến khi ngủ. Nếu
thật sự pháp hành vững chắc tốt đẹp và thắng cơn buồn ngủ, người ấy sẽ
không ngủ. Trái lại, nếu buồn ngủ thắng thế, người ấy sẽ ngủ lúc nào mà
không hay biết. Khi cảm nghe buồn ngủ, hành giả phải niệm, "buồn ngủ,
buồn ngủ". Nếu nghe mí mắt sụp xuống, ghi nhận, "sụp mắt, sụp mắt". Nếu
nghe nặng nề, "nặng, nặng". Nếu nghe xốn mắt, ghi nhận, "mắt xốn, mắt
xốn". Có thể rằng khi ghi nhận như vậy thì cơn buồn ngủ sẽ qua và mắt
nhẹ nhàng sáng tỏ trở lại. Lúc ấy hành giả ghi nhận, "sáng, sáng" và
tiếp tục niệm phồng xẹp ở bụng. Tuy nhiên, dầu hành giả có thể chuyên
cần và kiên trì như thế nào, nếu thật sự là buồn ngủ ắt phải đi ngủ. Ngã
ra ngủ thì không có gì khó, trong thực tế, quả thật là dễ dàng. Hành giả
cứ tiếp tục niệm phồng xẹp trong oai nghi nằm, rồi dần dần thiu thỉu, mơ
màng và ngủ luôn. Vì lẽ ấy người mài tập hành thiền không nên hành nhiều
trong oai nghi nằm vì dễ ngủ quên. Nên thực hành trong oai nghi đi và
ngồi. Nhưng khi quá trể về khuya và đã đến giờ ngủ thì hành giả phải
tiếp tục niệm trong tư thế nằm, ghi nhận phồng xẹp ở bụng. Tự nhiên giấc
ngủ sẽ đến.
Giờ ngủ là giờ mà hành giả nghỉ ngơi.
Nhưng người hành thiền thật sự nghiêm chỉnh nên rút ngắn bàt thời gian
ngủ nghỉ xuống còn độ bốn tiếng đồng hồ. Ðó là thời gian "giữa đêm" mà
Ðức Phật cho phép ngủ nghỉ. Ngủ bốn tiếng là đủ lắm rồi. Nhưng vị hành
giả sơ cơ cảm thấy bốn tiếng là không đủ để giữ sức khoẻ thì có thể kéo
dài đến năm, hoặc sáu tiếng cũng được. Ngủ sáu tiếng đồng hồ thì rõ ràng
là đủ để khỏi mất sức khoẻ.
Khi vừa tỉnh giấc, hành giả nên lập tức
niệm trở lại. Vị hành giả thật sự quyết tâm thành tựu Ðạo Tuệ và Quả Tuệ
phải liên tục chú niệm, chỉ ngừng nghỉ trong khi ngủ mê mà thôi. Ngoài
ra, giờ phút nào còn thức thì phải luôn luôn ghi nhận một cách liên tục,
không gián đoạn. Vì lẽ ấy, lúc vừa tỉnh giấc hành giả tức khắc bắt đầu
ghi nhận trạng thái tâm của mình, "thức, thức". Nếu không kịp hay biết
liền lúc vừa thức giấc thì phải bắt đầu niệm phồng xẹp ở bụng.
Nếu có ý định ngồi lên, phải ghi nhận,
"muốn ngồi dậy, muốn ngồi dậy". Rồi tiếp tục ghi nhận những động tác
liên tục tiếp nối để ngồi dậy như sắp xếp chân, tay v.v... Khi ngẩng đầu
lên, ghi nhận, "ngẩng đầu, ngẩng đầu". Khi ngồi dậy, ghi nhận, "ngồi,
ngồi". Nếu có những động tác nào khác nữa của tay hoặc chân, tất cả đều
phải được ghi nhận. Nếu không có gì thay đổi mà chỉ ngồi yên, hành giả
trở lại niệm phồng xẹp ở bụng. Cũng phải thận trọng ghi nhận khi rửa
mặt và khi tắm. Thông thường những cử động trong lúc ấy khá mau lẹ. Nếu
không niệm hết từng chi tiết cũng phải cố gắng ghi nhận càng nhiều càng
tốt. Rồi đến lúc lau mình, mặc quần áo, sắp xếp lại chỗ ngủ, mở cửa
phòng đi ra và đóng cửa lại, tất cả đều phải được ghi nhận.
Vào giờ độ ngọ, khi hành giả đến trai
đường nhìn thấy vật thực bày trên bàn, phải ghi nhận, "nhìn thấy, nhìn
thấy". Khi đưa tay đến thức ăn, tay sờ đụng đồ ăn, ngón tay trộn và đưa
lên miệng, cúi đầu xuống, đưa thức ăn vào miệng, rồi để tay xuống, ngẩng
đầu lên, tất cả những cử động ấy phải được ghi nhận [3]. Khi nhai đồ ăn,
hành giả ghi nhận, "nhai, nhai". Khi biết được vị của thức ăn, ghi nhận,
"biết, biết". Trong khi thưởng thức món ăn và nuốt, vật thực xuống đến
cuốn họng, hành giả ghi nhận tất cả những sự việc ấy. Ðó là phương cách
mà người hành thiền phải ghi nhận trong khi ăn một miếng. Vị ấy tiếp tục
ghi nhận như vậy trong mỗi miếng ăn, lặp đi lặp lại, hết miếng nầy đến
miếng khác. Khi ăn canh, tất cả những cử động như đưa tay ra, lấy muổng
cầm trên tay, mút nước canh v.v... tất cả đều phải được ghi nhận tỉ mỉ.
Ghi nhận đầy đủ như vậy trong buổi ăn quả thật không phải là việc dễ
làm, vì có rất nhiều chi tiết để quan sát và ghi nhận. Vị hành giả còn
sơ cơ ắt phải bỏ quên nhiều điều, nhưng hãy quyết tâm cố gắng, ghi nhận
đầy đủ. Lẽ dĩ nhiên là vị ấy không thể tránh những sơ xuất và bỏ sót chi
tiết. Nhưng, tâm định (samàdhi) càng vững mạnh vị ấy càng dễ dàng
theo dõi một cách chặt chẽ tất cả những gì xảy diễn. Ðúng thật là Sư (tức Ngài Mahàsi) đã nêu
ra quá nhiều sự việc mà hành giả cần phải ghi nhận, nhưng nếu tóm tắt
thì chỉ có một vài điều thiết yếu. Khi đi mau, niệm, "mặt bước", "trái
bước", rồi khi đi chậm, thêm vào "dở lên", "đặt xuống". Lúc ngồi lại
yên, chỉ niệm phồng xẹp ở bụng. Cùng thế ấy khi nằm, nếu không có gì đặc
biệt xảy ra, chỉ niệm phồng xẹp. Vào lúc ấy, nếu tâm phóng, ghi nhận
sinh hoạt của tâm vừa khởi hiện rồi trở về phồng xẹp. Cũng ghi nhận
những cảm giác tê cứng, đau nhức, mỏi hoặc ngứa, mỗi khi nó vừa sanh
khởi, rồi trở về phồng xẹp. Cùng thế ấy, ghi nhận mỗi khi co tay vào,
duỗi tay ra, hoặc bất luận cử động nào khác của tay, chân, hoặc khi
ngẩng đầu lên, nghiêng mình hay ngồi ngay thẳng, rồi trở về phồng xẹp ở
bụng. Khi liên tục chuyên cần chú niệm như vậy
một ít lâu hành giả sẽ thuần thục dần dần và ngày càng ghi nhận được
thêm nhiều chi tiết hơn. Lúc mài tập thiền tâm hành giả phóng đi nơi nầy
nơi khác và hành giả bỏ sót, quên niệm nhiều việc. Nhưng, không nên thất
vọng. Người nào mài tập thiền cũng gặp khó khăn trở ngại ấy. Dần dần rồi
mình sẽ quen và hay biết liền khi tâm phóng, và như vậy cho đến khi tâm
an trụ, không còn phóng nữa. Chừng đó tâm sẽ kiên cố vững chắc trên đề
mục, tức trên đối tượng của sự chú tâm. Tâm niệm và đề mục khởi sanh
cùng một lúc, như khi niệm phồng xẹp, tâm ghi nhận và bụng di động phát
sanh một lượt. Khi phồng cũng như lúc xẹp.
Ðối tượng vật chất của sự chú tâm --
trong trường hợp nầy là cái bụng phồng xẹp -- và tâm ghi nhận, phát sanh
đồng thời, gắn liền như một cặp. Trong sự phát sanh trùng hợp của cặp
"niệm và đối tượng", chỉ có đối tượng vật chất của sự chú tâm và tâm ghi
nhận. Vào đúng lúc, hành giả sẽ tự bản thân thật sự chứng nghiệm. Trong
khi ghi nhận trạng thái phồng lên và xẹp xuống của bụng, một lúc nào
hành giả sẽ phân biệt rõ ràng rằng bụng phồng lên là hiện tượng vật lý,
và sự ghi nhận -- tức sự hay biết cái bụng phồng lên -- là hiện tượng
tâm linh. Cùng thế ấy, bụng xẹp xuống là hiện tượng vật lý và sự ghi
nhận là hiện tượng tâm linh. Như vậy, hành giả sẽ chứng nghiệm rành mạch
sự phát sanh từng cặp của những hiện tượng tâm-vật-lý. Do đó, mỗi khi
ghi nhận hành giả sẽ tự bản thân hiểu biết tận tường rằng chỉ có những
đặc tính vật lý -- đối tượng của sự hay biết, hoặc đối tượng của sự chú
tâm -- và những đặc tính tâm lý, ghi nhận hiện tượng vật lý ấy. Sự hiểu
biết rành rẽ và tận tường ấy được gọi là Nàmarùpa Pariccheda Nyàna,
Tuệ Phân Tích Danh Sắc, bước đầu của Vipassanà Nyàna, Tuệ Minh
Sát. Vững chắc đạt đến tuệ giác nầy là mức tiến rất quan trọng. Khi hành
giả tiếp tục chuyên cần chú niệm, tuệ giác thấu triệt và phân biệt rõ
ràng nguyên nhân và hậu quả sẽ phát sanh, gọi là Paccaya Pariggaha
Nyàna, Tuệ Phân Biện Nhân Duyên. Hành giả vẫn tiếp tục ghi nhận và tự bản
thân kinh nghiệm rằng những gì khởi sanh ắt phải nhanh chóng hoại diệt.
Người không hiểu biết ngỡ rằng cả hai hiện tượng, vật chất và tâm lý,
mãi mãi tồn tại suốt đời, từ bé đến làn. Trong thực tế không phải vậy.
Không có hiện tượng nào vĩnh cửu thường còn. Tất cả các hiện tượng đều
khởi sanh và hoại diệt một cách rất nhanh chóng, không tồn tại được đến
thời gian một nháy mắt. Vị hành giả sẽ tự mình nhận thức điều nầy trong
khi liên tục chú niệm. Vị ấy sẽ nhận định rõ rệt và tin chắc trạng thái
vô thường của tất cả mọi hiện tượng. Niềm tin vững chắc ấy được gọi là
Aniccà-nupassanà Nyàna, tuệ giác phát sanh do quán niệm về đặc
tướng vô thường của vạn pháp. Tiếp theo tuệ nầy là Dukkhànupassanà
Nyàna, nhận thức rằng tất cả những gì vô thường là đau khổ. Trong
lúc ấy cũng có thể hành giả đang chứng nghiệm đủ loại khó chịu trong
thân mình và nhận thức rằng thân nầy chỉ là nơi tàng trử đau khổ. Ðó
cũng là Dukkhànupassanà Nyàna, tuệ giác phát sanh do quán niệm về
đặc tướng đau khổ.
Kế đó hành giả tự bản thân chứng nghiệm
và nhận thức chắc chắn rằng tất cả những hiện tượng tâm-vật-lý ấy tự nó
phát sanh, chà không phải được sanh ra do ý muốn của ai. Những hiện
tượng ấy không cấu hợp thành một cá nhân hay một "thực thể-tự ngã" nào.
Sự chứng ngộ ấy là Anattànupassanà Nyàna, tuệ giác phát sanh do
quán niệm về đặc tướng vô ngã. Mài miệt chuyên cần như vậy, đến lúc
chứng ngộ vững chắc rằng tất cả những hiện tượng ấy là vô thường, khổ,
vô ngã, hành giả sẽ đắc Niết Bàn. Tất cả chư Phật trong quá khứ, chư vị
A La Hán và các bậc Thánh Nhân cũng đều nhờ noi theo chính con đường ấy
mà chứng đắc Niết Bàn. Tất cả những vị đang hành thiền ở đây phải nhận
thức rằng trong giờ phút hiện tại nầy mình đang đi trên con đường quán
niệm (Sati-Patthàna, Niệm Xứ) để thành tựu trọn vẹn ước nguyện
chứng ngộ Ðạo Tuệ (Magga Nyàna), Quả Tuệ (Phala Nyàna) và
Niết Bàn Pháp (Nibbàna Dhamma), tùy hợp theo trạng thái chín mùi
của những Ba La Mật (Pàramis) mà mình đã tạo. Quý vị hành giả
phải cảm nghe sung sướng về điều mình đang làm vài triển vọng chứng
nghiệm tâm Ðịnh cao thượng (Samàdhi, tâm vắng lặng mà hành giả
thành đạt do nhờ an trụ nhất điểm) và Tuệ Giác (Nyàna, tri kiến
siêu thế, hay trí tuệ) mà xưa kia chư Phật, chư vị A La Hán và các bậc
Thánh Nhân đã chứng nghiệm. Ðó là những gì mà trước kia họ chưa từng
chứng nghiệm. Trong một thời gian không lâu lắm họ sẽ
tự bản thân chứng nghiệm Ðạo Tuệ, Quả Tuệ, và Niết Bàn mà chư Phật, chư
vị A La Hán và các bậc Thánh Nhân đã chứng nghiệm. Trong thực tế, họ có
thể chứng đắc trong vòng một tháng, hoặc hai mươi ngày, hoặc mười lăm
ngày cần mẫn chú niệm. Những vị đã có đầy đủ Ba La Mật thật sự đặc biệt
có thể chứng đắc các pháp cao thượng ấy trong vòng bảy ngày. Như vậy, quý vị hành giả hãy yên tâm tin
tưởng rằng mình sẽ chứng đắc các pháp cao thượng ấy trong thời gian nói
trên và sẽ vượt qua khỏi những trói buộc của Sakkàya ditthi, Thân
Kiến, và Vicikicchà, Hoài Nghi, và tránh khỏi hiểm họa phải tái
sanh vào các khổ cảnh. Hành giả nên tiếp tục tu niệm và gia công hành
thiền trong niềm tin vững chắc. Ước mong tất cả quý vị thiền sinh có thể
hành thiền tốt đẹp và nhanh chóng chứng đắc Niết Bàn mà chư Phật, chư vị
A La Hán và chư Thánh Nhân đã chứng ngộ. Sàdhu! Sàdhu! Sàdhu! Ghi chú: [1] Kinh điển Hán tự gọi là Phong Ðại,
một trong Tứ Ðại Chánh Yếu (Mahàbhùtani), tức bốn nguyên tố
chánh cấu thành vật chất: đất, nước, lửa, gió. [2] Magga Nyàna, Ðạo Tuệ -- là
tuệ giác hay biết con đường và Phala Nyàna, Quả Tuệ -- là hay
biết thành quả của con đường.
[3] Phần trên đây là ghi nhận những cử
động trong khi ăn theo lối người Miến Ðiện, Người dùng dao nĩa hoặc
đủa sẽ ghi nhận theo lối ăn của mình. Phật ngôn (Kinh Pháp cú)
Sabbe sankhàrà aniccà'ti "Tất cả các pháp hữu vi
đều vô thường". Sabbe sankhàra dukkhà'ti "Tất cả các pháp hữu vi
đều đau khổ" Sabbe dhammà anattà'ti "Tất cả các pháp đều vô
ngã" Tri ân Chư vị đạo hữu thập phương và các đạo
hữu của Narada Center, Seattle, Hoa Kỳ, chung cùng ấn tống quyển kinh
nầy để tạo phần công đức thanh cao, và thành tâm kính dâng đến:
* Tất cả chư Thiên, chư Phạm Thiên và
chư Long Vương cùng khắp mười phương thế giới; * Các bậc Thầy Tổ, từ ngàn xưa đã bước
theo dấu chân của Ðức Bổn Sư, đã gìn giữ Giáo Pháp, và trao truyền
nguyên vẹn đến chúng ta;
* Các vị cư sĩ tiền bối, đã dày công
hộ trì Tam Bảo, giúp cho Giáo Pháp được truyền thừa đến ngày nay; * Các đấng ông bà cha mẹ, cửu huyền
thất tổ nhiều đời, còn tại tiền hay đã quá vãng; và * Tất cả chúng sanh trong ba giới bốn
loài. Ngưỡng nguyện Giáo Pháp trường tồn, tất
cả chúng sanh đều an vui hạnh phúc trong Chánh Pháp.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật. -ooOoo- Chân thành cám ơn Bác
Phạm Kim Khánh đã gửi tặng bản điện tử (Bình Anson, 05-2003) [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
thuyết giảng cho một nhóm đệ tử mới, tại Thiền Viện Sàsana Yeiktha, Rangoon,
Miến Ðiện.
Phạm Kim Khánh chuyển dịch từ Anh sang Việt ngữ
Thực
hành Thiền Minh Sát là cố gắng thấu hiểu rõ ràng và chính xác bản chất
của những hiện tượng tâm-vật-lý đang diễn tiến bên trong chính bản thân
mình. Hiện tượng vật lý là những sự vật hay những gì quanh mình mà ta
cảm nhận rõ ràng. Toàn thể châu thân của mình mà ta cảm nhận rõ ràng hợp
thành một nhóm những tính chất vật lý (rùpa, sắc, hay phần vật
chất). Hiện tượng tâm linh là những sinh hoạt của tâm, hay sự hay biết (nàma,
danh, hay phần tinh thần). Ta cảm nhận rõ ràng những danh-sắc nầy mỗi
khi thấy, nghe, hửi, nếm, sờ đụng, hoặc nghĩ đến. Phải giác tỉnh hay
biết nó bằng cách quan sát và ghi nhận, "thấy, thấy", "nghe, nghe", "hửi
mùi, hửi mùi", "nếm vị, nếm vị", "sờ đụng, sờ đụng" hoặc "suy tư, suy
tư".
Lành Thay! Lành thay! Lành thay!
Yadà pannàya passatì
Atha nibbindati dukkhe
Esa maggo visuddhiya.
Khi sáng suốt nhận thức phân biệt điều nầy,
Ta nhàm chán phiền não.
Ðó là con đường trong sạch (Thanh Tịnh Ðạo)"
Yadà pannàya passati
Atha nibbindati dukkhe
Esa maggo visuddhiyà.
Khi sáng suốt nhận thức phân biệt điều nầy,
Ta nhàm chán phiền não
Ðó là con đường trong sạch (Thanh Tịnh Ðạo)"
Yadà pannàya passati
Atha nibbindati dukkhe
Esa maggo visuddhiyà.
Khi sáng suốt nhận thức phân biệt điều nầy,
Ta nhàm chán phiền não
Ðó là con đường trong sạch (Thanh Tịnh Ðạo)"
updated: 05-05-2003