Thiền Vipassana
Những bài giảng về Thiền Minh Sát
Sayadaw U
Janakabhivamsa
Thiền viện Chanmyay Yeiktha
Yangon, Mianma
Diệu Tâm Phan Minh
Nguyệt dịch Việt
CHƯƠNG 4. TỨ NIỆM XỨ
Khi Đức Phật đã giảng xong bảy lợi ích của
thiền minh sát, Ngài tiếp tục giảng về Tứ Niệm Xứ:
Kayanupassana Satipatthana (quán thân
trên thân)
Vedananupassana Satipatthana (quán thọ trên thọ)
Cittanupassana Satipatthana (quán tâm trên tâm)
Dhammanupassana Satipatthana (quán pháp trên pháp)
Kayanupassana Satipatthana
có nghĩa là quán sát thân hay là tỉnh thức
đối với bất kỳ một quá trình nào của thân ngay khi nó xuất hiện.
Vedananupassana Satipatthana có nghĩa là sự tập trung vào các cảm giác
hay cảm thọ. Cảm giác hay cảm thọ này có ba loại:
Cảm giác hay cảm thọ vui (lạc thọ)
Cảm giác hay cảm thọ khổ (khổ thọ)
Cảm giác hay cảm thọ không khổ không vui (si thọ)
Cảm giác vui hay cảm thọ vui được gọi là
sukha-vedana (sukha có nghĩa là vui, hài lòng, vedana
là cảm giác hay cảm thọ). Cảm giác hay cảm thọ không vui được gọi là
dukkha-vedana trong tiếng Pali (dukkha ở đây có nghĩa là không
vui, không hài lòng). Si thọ được gọi là upekkha-vedana (upekkha
có nghĩa là trung lập - không vui cũng không khổ). Khi lạc thọ, khổ thọ
hay si thọ nảy sinh, một thiền giả phải ý thức nó rõ ràng như nó là. Một
vài thiền giả cho rằng không cần phải quan sát khổ thọ vì nó là khổ là khó
chịu. Thực ra thì tất cả các cảm thọ phải được ghi nhận một cách chăm chú
như chúng đang thực sự xuất hiện. Nếu chúng ta không quan sát hay ghi nhận
cảm thọ vui hay khổ, chúng ta chắc chắn sẽ bị dính mắc vào nó hay bị nó
đánh bại. Sự dính mắc hay tanhà đó phát sinh phụ thuộc vào cảm giác hay
cảm thọ. Trong trường hợp này, cảm giác vui là nhân và tham ái là quả.
Nếu một thiền giả thực hành tích cực và
kiên trì, định của anh ta sẽ trở nên sâu và mạnh. Khi định của thiền giả
trở nên sâu và mạnh, anh ta cảm thấy hạnh phúc và kinh nghiệm được sự sung
sướng vô ngần vì tại thời điểm đó tâm trí anh ta hoàn toàn thoát khỏi tất
cả các nhiễm ô như tham lam, căm ghét, ảo tưởng, kiêu mạn và những thứ
tương tự như thế. Và vị thiền giả kiên trì này đạt đến một giai đoạn phát
triển tuệ giác khá cao bởi vì tâm anh ta lúc này tĩnh lặng, bình an và
thanh thản. Nhưng nếu thiền giả thích thú trạng thái này và thoả mãn với
những gì mình đang kinh nghiệm thì có nghĩa là anh ta bị dính mắc vào nó,
và do đó anh ta không thể tiến lên những cấp độ cao hơn của tuệ. Kinh
nghiệm đó có thể đạt được vào bước đầu của tuệ thứ tư. Nếu anh ta hiểu
được điều đó, anh ta chỉ nên quan sát kinh nghiệm mà mình đạt được trong
giai đoạn này. Dù anh ta đang kinh nghiệm được bất kỳ điều gì trong giai
đoạn này, anh ta sẽ không dính mắc vào nó nếu anh ta quan sát kinh nghiệm
của mính một cách chăm chú và mạnh mẽ. Khi thiền giả ghi nhận nó một cách
chăm chú và kiên nhẫn, niềm hạnh phúc, bình an hay thanh thản đó sẽ không
được biểu lộ trong tâm anh ta một cách rõ ràng. Cái mà anh ta nhận thấy
tại thời điểm đó chỉ là cảm thọ sinh và diệt. Sau đó cảm thọ khác sinh và
diệt. Anh ta không thể phân biệt cảm thọ khổ và vui, do đó, anh ta không
bị dính mắc vào kinh nghiệm của mình và tiếp tục tiến lên thực hành cấp độ
cao hơn của tuệ. Chỉ sau đó anh ta mới có thể vượt được qua tuệ này.
Nếu một thiền giả bước đi trong chính
niệm, ghi nhận sáu phần của một bước chân:
Nhấc bàn chân,
Nâng các ngón chân,
Đưa bàn chân về phía trước,
Đạp bàn chân xuống,
Tiếp đất,
Và nhấn chân xuống,
K ết
quả là sức tập trung trở nên tốt hơn, sâu và mạnh, anh ta sẽ không ý thức
về hình thái của bàn chân. Anh ta cũng không ý thức về cơ thể hay hình
thái của cơ thể. Cái mà anh ta biết chỉ là chuyển động của bàn chân. Cảm
giác về chuyển động có thể nhẹ nhàng; anh ta có thể cảm thấy như thể anh
ta đang bước đi trong không khí. Anh ta có thể cảm thấy như là anh ta đang
được nhấc bổng lên không. Ở giai đoạn này, anh ta đang trải qua những kinh
nghiệm thiền định tuyệt vời. Nếu anh ta không quan sát những kinh nghiệm
này trong sự tỉnh thức, anh ta sẽ thích chúng và có thể mong ước chúng
nhiều hơn nữa. Anh ta có thể rất thoả mãn với sự thực hành của mình và
nghĩ rằng đây là Niết bàn bởi lẽ đây là kinh nghiệm tuyệt vời nhất mà anh
ta từng có. Tất cả những điều này xảy ra vì anh ta không quan sát những
kinh nghiệm dễ chịu của mình, và bị dính mắc vào chúng. Sự dính mắc này
phát sinh phụ thuộc vào cảm giác hay cảm thọ dễ chịu, hài lòng về những
kinh nghiệm tốt của anh ta.
Nếu một thiền giả thích thú với cảm giác
hay cảm thọ dễ chịu do kinh nghiệm tốt của mình đem lại mà không ý thức rõ
ràng chúng, anh ta chắc chắn sẽ dính mắc vào chúng. Vì thế anh ta nên quán
sát và ý thức rõ ràng bất kỳ một kinh nghiệm nào mà anh ta gặp phải trong
giai đoạn này. Anh ta không được phân tích nó hay nghĩ về nó mà phải nhận
thức kinh nghiệm này như nó thực sự đang xuất hiện để nhận ra rằng kinh
nghiệm này về quá trình tâm hay trạng thái tâm là vô thường. Bất cứ khi
nào ghi nhận anh ta sẽ nhận thấy rằng kinh nghiệm này không tồn tại mãi
mãi. Khi tâm ghi nhận trở nên liên tiếp, được duy trì và mạnh mẽ, nó sẽ
nhìn thấu suốt bản chất kinh nghiệm của anh ta, có nghĩa là trạng thái
tâm. Tâm ý bắt đầu nhận ra rằng kinh nghiệm đó đã biến mất. Bất kỳ khi nào
cảm thọ đó phát sinh, tâm sẽ ghi nhận nó và nó lại biến mất. Anh ta cuối
cùng kết luận rằng cảm giác dễ chịu này cùng với kinh nghiệm của anh ta là
vô thường (anicca) bởi vì anh ta đã hiểu được bản chất vô thường
nhờ kinh nghiệm của cá nhân mình về Pháp (Dhamma). Ở đây Dhamma
có nghĩa là các quá trình về tâm cũng như về thân. Vì anh ta đã nhận ra
rằng cảm giác hay cảm thọ dễ chịu cùng với kinh nghiệm tốt là vô thường
nên anh ta sẽ không bị dính mắc vào nó. Sự dính mắc sẽ không nảy sinh nếu
thiền giả hiểu đúng bản chất thật của các trạng thái tâm hay một kinh
nghiệm dễ chịu.
Chuỗi nhân quả
Khi không ái thì tham chấp (ngã chấp) hay
upadana cũng sẽ không phát sinh. Khi ngã chấp không nảy sinh thì sẽ
không có bất kỳ một nghiệp thân, khẩu, ý thiện hay ác nào. Nghiệp tạo ra
bởi ngã chấp được gọi là kàmma-bhava. Nó có thể là nghiệp lành hoặc
dữ. Nghiệp lành của thân được gọi là kusala kaya-kamma. Nghiệp ác
của thân là akusala kaya-kamma. Nghiệp khẩu thiện là kusala
vaci-kamma. Nghiệp ác của khẩu là akusala vaci-kamma. Nghiệp ý
thiện là kusala mano-kamma. Nghiệp ý ác là akusala mano-kamma.
Những nghiệp hay kamma này phát sinh bởi ngã chấp hay tham chấp này
là kết quả của sự dính mắc đối với cảc cảm thọ dễ chịu hay không dễ chịu.
Khi bất kỳ một hành động nào của thân,
khẩu hay ý được thực hiện, nó trở thành một nhân. Nhân này trổ quả ở đời
này hoặc những đời sau. Vì thế theo cách này một sinh vật được tái sinh
bởi nghiệp lành hay dữ của mình. Nghiệp đó được tạo ra bởi tham chấp, ngã
chấp, thủ chấp mà gốc rễ là ái, là sự dính mắc. Ái
lại được tạo ra bởi cảm giác hay cảm thọ, vedana. Theo cách này,
một người phải tái sinh trong kiếp sau để phải trải qua những nỗi khổ khác
nhau bởi vì anh ta đã không quan sát các cảm thọ dễ chịu cùng với kinh
nghiệp của mình.
Vì thế nếu một thiền giả cho rằng không
cần quan sát các cảm thọ thì anh ta sẽ bị dắt dẫn đi theo Vòng nhân duyên
(paticcasamuppada) để tái sinh trong kiếp sau và chịu mọi nỗi khổ.
Đó là lý do tại sao Đức Phật dạy chúng ta tỉnh thức đối với bất kỳ một cảm
giác hay cảm thọ nào dù là lạc thọ, khổ thọ hay si thọ.
Nhận diện các cảm thọ (quán thọ trên thọ)
Tỉnh thức đối với các cảm thọ hay quán sát
các cảm giác được gọi là Vedananupassana satipatthana. Thường khi
mới bắt đầu tập, thiền giả cảm thấy khó chịu về thân cũng như tâm. Ở đây
chúng tôi cần giảng lại một lần nữa về hai loại cảm thọ:
Kayika-vedana
Cetasika-vedana.
Nếu cảm giác hay cảm thọ nảy sinh phụ
thuộc vào các quá trình vật chất, nó được gọi là kayika-vedana.
Chúng ta có thể dịch nó là cảm giác hay cảm thọ vật lý hoặc cảm giác hay
cảm thọ của thân. Nếu cảm giác hay cảm thọ nảy sinh phụ thuộc vào các quá
trình tâm, nó được gọi là cetasika-vedana. Chúng ta có thể dịch nó
là cảm giác hay cảm thọ thuộc tâm. Thực ra thì mỗi cảm thọ hay mỗi cảm
giác đều là một quá trình tâm, không phải là một quá trình vật chất. Tuy
nhiên, đôi khi cảm giác hay cảm thọ phát sinh phụ thuộc vào quá trình
không thoải mái của thân. Khi một thiền giả cảm thấy không thoải mái trong
cơ thể thì sau đó cảm giác khó chịu sẽ xuất hiện. Cảm giác khó chịu đó
được gọi là kayika-vedana bởi vì nó phát sinh phụ thuộc vào các quá
trình thuộc thân.
Khi mới bắt đầu tu tập, thiền giả thường
phải thọ nhận toàn những cảm giác khó chịu về thân và tâm. Nhưng dù anh ta
kinh nghiệm bất kỳ cảm giác nào anh ta phải quan sát nó chăm chú, mạnh mẽ
và chính xác để có thể nhận ra bản chất thật của cảm giác hay cảm thọ đó.
Các đặc tính riêng và chung của cảm thọ đó phải được nhận diện hoàn toàn
để anh ta không bị dính mắc vào nó hay bị nó đánh bại. Đây là
Vedanaupassana Satipatthàna - sự tỉnh thức đối với các cảm giác hay
cảm thọ. Bất kỳ khi nào cảm thọ sinh khởi nó phải được quan sát và ghi
nhận như nó thực sự đang xuất hiện.
Một thiền giả e ngại cảm giác khó chịu về
thân mà anh ta trải qua trong quá trình hành thiền là điều tự nhiên, nhưng
cảm giác đau không phải là điều đáng lo ngại, và sợ hãi. Đau là một tiến
trình tự nhiên cần phải được hiểu thấu đáo nhờ nhận thức nó như nó đang
là. Khi một thiền giả có thể quan sát cái đau thành công với những nỗ lực
không ngừng, anh ta sẽ có thể nhận ra bản chất thật của chúng - bản chất
chung và riêng của cái đau. Sự hiểu biết sâu sắc, thấu đáo bản chất thật
của cái đau hay cảm giác khó chịu đó sẽ dẫn thiền giả đến những cấp độ cao
hơn của tuệ. Và cuối cùng, anh ta có thể đạt được giác ngộ nhờ nhận diện
cảm thọ đau này.
Nhận diện ý thức (quán tâm trên tâm)
Nội dung thứ ba của Tứ Niệm Xứ là
Cittanupassana Satipatthana có nghĩa là tỉnh thức đối với ý thức và
các trạng thái (cetasika, tâm sở) nảy sinh cùng với ý thức. Theo
luận Abhidhamma (Vi diệu pháp), mỗi "tâm"
được tạo nên bởi ý thức và các thứ đi cùng nó (concomitants, tâm sở).
Concomitants ở đây có nghĩa là các nhân duyên. Ý thức không bao giờ nảy
sinh một cách riêng lẻ mà nó sinh khởi cùng với các nhân duyên của nó. Tóm
lại, bất kỳ ý thức nào hoặc "tâm" hay trạng thái tâm nào xuất hiện đều
phải được tỉnh thức ghi nhận hay quan sát như nó đang thực sự xuất hiện.
Đây là Cittanupassana Satipatthana. Các trạng thái của tâm có thể
tốt, và các trạng thái cảm xúc có thể dễ chịu hơn. Dù như thế nào, nó cũng
phải được ghi nhận như nó thực sự đang là. Vì thế, khi bạn nảy ý tham lam
và dính mắc, bạn phải tỉnh thức nhận diện nó như nó đang là. Nếu bạn nảy ý
sân hận, bạn phải ghi nhận nó là sân hận. Lòng sân hận có thể được ghi
nhận là "sân hận" hay "sự sân hận" theo kinh Maha Satipatthàna Sutta.
Khi sức tỉnh thức chính niệm trở nên mạnh mẽ, sự sân hận sẽ biến mất.
Thiền giả sẽ nhận ra là sự sân hận không tồn tại mãi mãi - nó sinh và
diệt. Thiền giả có hai lợi ích nhờ việc quan sát sự sân hận:
1) Vượt qua được sự sân hận.
2) Nhận ra bản chất thực của sân hận (tính chất sinh diệt của sân hận
hay bản chất vô thường của sân hận).
Sân hận là một trong những trạng thái của
tâm có thể dẫn thiền giả đến chấm dứt khổ đau nếu biết ghi nhận nó với sự
tỉnh thức.
Nhận diện các Pháp (quán pháp trên pháp)
Nội dung thứ tư của Tứ Niệm Xứ là
Dhammanupassana Satipatthana có nghĩa là quán chiếu các Pháp hay sự
tỉnh thức đối với Pháp (dhamma). Ở đây dhamma bao gồm nhiều
phạm trù về các quá trình của thân và tâm. Phạm trù đầu tiên là năm
nivarana (ngũ cái):
1) Kamacchanda: Tham -
tham sắc, thanh, hương, vị, xúc (tham).
2) Vyapada: Sân hận hay ác
ý (sân).
3) Thina-middha: Giải đãi
và hôn trầm - ngủ gục, lờ đờ, chậm chạp uể oải chán nản (thuỵ miên).
4) Uddhacca-kukkucca: Hối
hận, lo lắng hay không vui vì những hành động đã qua. Không vui vì không
làm được những việc nên làm trong quá khứ là khía cạnh đầu tiên. Khía
cạnh thứ hai là không vui vì việc mình đã làm mà đáng ra không nên làm,
có nghĩa là một hành động không trong sạch sẽ mang lại kết quả xấu (
trạo hối)
5) Vicikiccha: Nghi ngờ.
Một khi tâm còn nhiễm ô thì thiền giả
không thể nhận ra bất kỳ một tiến trình thân hay tâm nào. Chỉ khi nào tâm
tập trung tốt vào đối tượng của thiền (các quá trình thân hoặc tâm), nó
mới thoát khỏi mọi nhiễm ô hay chướng ngại. Do đó tâm trở nên trong sáng
và sâu sắc; nó sâu sắc đến mức độ có thể nhận ra bản chất thực của các
tiến trình thân và tâm như chúng thực sự là. Vì vậy, bất cứ khi nào một
trong năm triền cái nảy sinh trong tâm thiền giả, anh ta phải nhận diện
chúng một cách rõ ràng.
Ví dụ, khi một thiền giả nghe thấy một bài
hát ngọt ngào từ bên ngoài và không ghi nhận nó, anh ta có thể mong ước
được nghe bài hát đó. Anh ta muốn nghe đi nghe lại bài hát này và trở nên
say mê nó. Mong ước được nghe bài hát này chính là sự tham đắm lục trần -
Kamacchanda. Vì vậy, khi anh ta nghe bất kỳ bài hát ngọt
ngào nào, anh ta phải ghi nhận là "đang nghe, đang nghe”. Mặc dù thế anh
ta vẫn có thể bị chìm đắm trong bài hát nếu sự tỉnh thức của anh ta không
đủ mạnh. Nếu anh ta biết quán xét rằng sự tham đắm bài hát của các căn có
thể dẫn anh ta đến những sự việc không mong muốn hay những tai nạn, hoặc
nó có thể là trở ngại cho sự tiến bộ trong hành thiền của anh ta, anh ta
sẽ ghi nhận nó là "mong ước, mong ước" cho đến khi nó bị diệt bỏ nhờ sự
tỉnh thức mạnh mẽ. Khi sự tỉnh thức trở nên liên tục và mạnh mẽ, mong ước
đó có thể biến mất. Lòng tham đắm này biến mất bởi vì nó đã được quan sát
một cách chăm chú và mạnh mẽ. Khi một thiền giả quan sát như thật hay nhận
diện được sự ham muốn của giác quan, dùng tâm ghi nhận "mong ước, mong
ước" có nghĩa là anh ta đang thực hành một cách nghiêm túc những điều Đức
Phật dạy trong Maha Satipatthana Sutta (Tứ Niệm Xứ). Tỉnh thức theo
cách này là Dhammanupassana Satipatthana - sự quán sát các đối
tượng của tâm, tức là quán chiếu các triền cái (nivaranas).
Thina-midda,
lười biếng và uể oải, thực ra có nghĩa là thụy miên. Lười biếng và uể oải
là người bạn rất đỗi quen thuộc của các thiền giả. Khi một thiền giả cảm
thấy buồn ngủ anh ta thích thú nó. Nếu một cảm giác dễ chịu nào đến anh ta
có thể quan sát nó nhưng nếu cơn buồn ngủ đến anh ta không có khả năng
nhận thức nó rõ ràng vì anh ta thích nó. Đó là lý do tại sao lười biếng và
uể oải hay trầm thụy là người bạn cũ của thiền giả. Nó khiến anh ta ở mãi
trong vòng luân hồi. Nếu anh ta không có khả năng quan sát sự buồn ngủ,
anh ta sẽ không thể vượt qua nó. Nếu anh ta không nhận ra bản chất thật
của giải đãi và uể oải hay buồn ngủ, anh ta sẽ dính mắc vào nó và thích
thú nó.
Khi chúng ta cảm thấy buồn ngủ chúng ta
phải nỗ lực tích cực hơn trong thực hành; điều đó có nghĩa là chúng ta
phải quan sát chăm chú hơn, mạnh mẽ hơn và chính xác hơn để chúng ta có
thể làm tâm năng động và cảnh giác hơn. Khi tâm trở nên năng động và cảnh
giác hơn, nó sẽ thoát khỏi sự buồn ngủ. Thiền giả sẽ vượt được qua cơn
buồn ngủ.
Uddhacca-kukucca
là chướng ngại thứ tư. Uddhacca là bồn chồn hay tán loạn,
kukucca là hối hận. Ở đây uddhacca có nghĩa là sự tán loạn của
tâm, sự bồn chồn không yên của tâm, tâm lăng xăng. Thay vào việc ghi nhận
đối tượng của thiền, tâm lại lăng xăng hay nghĩ về một điều gì khác thì đó
là tán loạn (uddhacca). Khi tâm của bạn lăng xăng, bạn phải ý thức
nó rõ ràng như nó thực sự là. Khi mới bắt đầu tập, một thiền giả có thể
không quán sát được nó. Thậm chí anh ta không biết rằng tâm đang lăng
xăng. Anh ta cứ nghĩ là tâm đang chú vào đối tượng của thiền, tức là sự
chuyển động của bụng hay sự thở. Khi anh ta ý thức rằng tâm đã lăng xăng,
anh ta phải ghi nhận “đăng lăng xăng, đang lăng xăng” hay “đang nghĩ, đang
nghĩ”. Như thế có nghĩa là uddhacca-kukkucca đang được quan sát.
Chướng ngại thứ năm là Cicikiccha
hay nghi ngờ. Bạn có thể nghi ngờ Phật, Pháp, Tăng hay về phương pháp
thiền. Bất kỳ mối nghi nào khởi lên đều phải được quán sát chăm chú, bạn
phải nhận diện nó rõ ràng như nó đang thực sự là.
Đây là Dhammanupassana Satipatthana - tỉnh thức về Pháp. Như
vậy, trên đây đã trình bày bốn nội dung của Tứ Niệm Xứ:
Kayanupassana Satipatthana :
quán sát thân hay các hiện tượng
vật lý.
Vedananupassana Satipatthana:
quán sát cảm thọ.
Cittanupassana Satipatthana:
quán sát ý thức cùng những vọng
tưởng.
Dhammanupassana Satipatthana:
quán chiếu các pháp (dhamma) hay đối tượng của tâm.
-ooOoo-
CHƯƠNG 5. BẢY BƯỚC THANH TỊNH
Để đạt được giác ngộ chúng ta phải đi qua bảy giai đoạn để thanh tịnh (visuddhi).
1)
Thanh tịnh giới
Đầu tiên là sila-visuddhi, thanh tịnh giới. Nếu không giữ được
tám giới thì ít nhất thiền giả phải giữ được năm giới để có thể đạt được
thanh tịnh giới. Giới thứ ba trong năm giới là không tà dâm, trong khi đó
giới thứ ba trong tám giới là không dâm dục. Nếu một thiền giả không tránh
dâm dục tâm trí anh ta sẽ bị nhiễm ô bởi chướng ngại do sự tham đắm sắc
dục (kamacchanda-nivarana). Chỉ khi nào tâm thoát khỏi mọi chướng
ngại thì thiền giả mới có thể nhận ra các tiến trình của thân và tâm theo
bản chất thực sự của chúng.
Tất nhiên nếu thiền giả giữ được tám giới
thì tốt hơn. Nếu họ không giữ tám giới họ có thể tham muốn thức ăn, ham
đắm sắc, thanh, hương, vị, xúc - năm món sắc dục của giác quan (kàmmaccahanda)
trong tâm họ. Nhờ tuân giữ tám giới, một người có thể thanh tịnh lời nói
và hành động của mình có nghĩa là thanh tịnh giới (sìla-visuddhi).
Khi giới được thanh tịnh, ở một mức độ nào đấy, tâm cũng được thanh tịnh.
Khi tâm thanh tịnh, nó trở nên tĩnh lặng,
bình an, thanh thản, hạnh phúc và có thể tập trung vào đối tượng của
thiền. Thiền giả sẽ đạt được Tâm thanh tịnh, có nghĩa là Citta-visuddhi
- giai đoạn thứ hai của sự thanh tịnh.
Khi Đại đức Uttiya - một trong những đệ tử
của Đức Phật bị ốm, Đức Phật đã đến thăm Ngài và hỏi về tình trạng sức
khoẻ của Ngài. Đại đức Uttiya bạch Phật về bệnh tình của mình:
Bạch Đức Thế Tôn, bệnh của con không giảm
mà đang nặng lên. Con không biết liệu con có thể sống nốt hôm nay hay ngày
mai. Vì thế con muốn hành thiền để phá sạch các nhiễm ô, đạt đến giai đoạn
giác ngộ thứ tư - quả vị Alahán trước khi con chết. Xin Đức Thế Tôn cho
con một lời chỉ dẫn ngắn gọn có thể giúp con phát triển thiền định đạt tới
quả vị Alahán.
Đức Phật dạy:
Uttiya, con nên làm sạch căn nguyên. Nếu
nguyên nhân đã được làm thanh tịnh thì con sẽ đạt được quả vị Alahán.
Đức Phật lại hỏi “ Cái gì là căn
nguyên?". Và Ngài tự trả lời: "Ở
đây căn nguyên là giới (hay sila) được thanh tịnh và chính kiến
(Samma-ditthi). Chính kiến có nghĩa là hiểu và tin tưởng vào Luật Nhân Quả
(báo ứng của nghiệp) hay Luật Kamma".
Đức Phật nói tiếp:
Uttiya, con nên thanh tịnh giới và chính
kiến. Sau đó, dựa trên giới đức thanh tịnh, con nên phát triển Tứ Niệm Xứ.
Thực hành như vậy con sẽ đạt được diệt đế.
Đức Phật Thích Ca nhấn mạnh vào sự thanh tịnh giới hay sìla bởi vì nó
là yêu cầu cơ bản để phát triển định cũng như tuệ. Khi giới thanh tịnh thì
tâm trở nên tĩnh lặng, bình an và hạnh phúc. Nếu nuôi dưỡng sự tỉnh thức,
anh ta sẽ dễ dàng tập trung vào bất kỳ đối tượng nào của các tiến trình
thân và tâm. Vì vậy giới đức thanh tịnh là điều kiện tiên quyết để một
thiền giả đạt tiến bộ.
2)
Thanh tịnh tâm
Bước thanh tịnh thứ hai là thanh tịnh tâm
(Citta-visuddhi). Nếu bạn muốn đạt được tuệ minh sát, tâm bạn phải
trong sạch thoát khỏi mọi nhiễm ô. Khi tâm tập trung tốt vào bất cứ một
hiện tượng thân hay tâm nào, nó thoát khỏi mọi chướng ngại. Điều này được
gọi là làm thanh tịnh tâm - Citta-visuddhi. Với sự thanh tịnh này,
tâm có thể hiểu thấu các tiến trình thân và tâm theo bản chất thực của
chúng. Đầu tiên anh ta phân biệt được đâu là tiến trình thân đâu là tiến
trình tâm (nama và rupa) nhờ kinh nghiệm của bản thân. Điều đó được
gọi là Namarupapariccheda-nana - hiểu biết về sự khác nhau giữa
trạng thái tâm lý và vật chất.
3)
Thanh tịnh tri kiến
Thứ ba là Thanh tịnh tri kiến (Ditthi-visuddhi).
Khi một thiền giả hiểu thấu bản chất thực của các tiến trình thân và tâm,
anh ta không xem chúng là một con người hay một sinh vật, một linh hồn hay
một bản ngã. Anh ta đã thanh tịnh tri kiến của mình, anh ta đã đạt được
Ditthi-visuddhi.
4)
Sự thanh tịnh nhờ vượt qua được sự nghi ngờ
Thứ tư là làm thanh tịnh nhờ vượt qua được
nghi ngờ (Kankhavitarana-visuddhi). "Kankha" có nghĩa là
nghi ngờ, "visuddhi" có nghĩa là làm thanh tịnh nhờ vượt qua được
nghi ngờ. Khi một thiền giả đạt đến cấp độ thứ hai của tuệ minh sát - Tuệ
Nhân Quả (Paccayapariggaha-nana), anh ta không bao giờ còn nghi ngờ
về kiếp trước của mình. Do đó anh ta vượt qua được nghi ngờ. Đây là làm
trong sạch nhờ vượt qua được nghi ngờ.
Để đạt được tuệ này anh ta phải quan sát tất cả mọi ý định, ao ước hay
mong muốn trước mỗi hành động hay cử động. Mọi hành động đều có ý định, ao
ước hay mong muốn đi trước. Đó là lý do tại sao ta phải tỉnh thức đối với
mỗi ý định trước mỗi hành động hay chuyển động. Khi chúng ta có ý định
nhấc bàn chân lên, chúng ta nên ghi nhận nó là "đang có ý định, đang có ý
định”, sau đó “nhấc, nhấc”. Khi chúng ta có ý định gập cánh tay lại, chúng
ta phải ghi nhận là "đang có ý định, đang có ý định” sau đó là "gập, gập".
Khi chúng ta đang ăn, chúng ta có ý định mở miệng để ăn thì đầu tiên chúng
ta phải ghi nhận "đang có ý định, đang có ý định”, sau đó “mở, mở”. Trong
hành động mở miệng, ý định là nguyên nhân, và mở miệng là kết quả.
Nếu không có ao ước hay mong muốn đến đây,
bạn có thể đến đây không? Vậy thì cái gì là nguyên nhân cái gì là kết quả?
Hành động đến là kết quả, ý định là nguyên nhân. Và tại sao bạn lại ngồi
trên cái ghế? Rõ ràng là chính do ý định đã khiến bạn ngồi vào cái ghế. Có
một người ngồi ở đó không? Nếu bạn nghĩ rằng có một con người ngồi ở cái
ghế đó thì chúng ta nên mang một xác chết ở bệnh viện đến đặt vào cái ghế.
Xác chết đó không thể ngồi bởi vì nó không có ý định. Chỉ có ý định - một
tiến trình tâm mới là nguyên nhân của hành động hay chuyển động. Vậy thì
tư thế ngồi đó là một người đàn ông hay một người đàn bà, một sa di (samanera)
hay một tỳ khiêu (bhikkhu)? Nó không là gì trong những thứ này.
Trong tư thế ngồi có một tiến trình thân được nâng đỡ bởi phong đại (vayo-dhatu
- yếu tố gió trong và ngoài cơ thể). Ngồi là một tiến trình thân.
Vì vậy nếu chúng ta muốn ngồi, đầu tiên
chúng ta phải ghi nhận "đang có ý định, đang có ý định” sau đó “ngồi,
ngồi, ngồi”. Tất cả các cử động ngồi phải được quan sát sau khi chúng ta
đã ghi nhận ý định. Khi chúng ta gập cánh tay lại, đầu tiên chúng ta phải
ghi nhận ý định sau đó là cử động gập cánh tay lại. Khi chúng ta duỗi cánh
tay ra, đầu tiên chúng ta phải ghi nhận ý định sau đó là cử động duỗi là
"duỗi, duỗi, duỗi". Khi định của chúng ta đủ sâu, nhờ ý thức rõ ràng ý
định và những hành động đi theo nó, chúng ta sẽ nhận ra là không có cái gì
sinh khởi mà không có nguyên nhân. Mọi thứ sinh khởi đều phụ thuộc vào
nguyên nhân.
Vì thế, cái gọi là con người, đàn ông hay
đàn bà chỉ là một tiến trình nhân và quả. Không có một người hành động,
một người làm bất kỳ điều gì. Nếu chúng ta tin rằng có một con người thực
hiện hành động ngồi, nó được gọi là Sakkaya-ditthi hay
Atta-ditthi (quan niệm sai lầm cho rằng có một con người hành động).
Nếu chúng ta quán chiếu một cách thấu triệt mối quan hệ nhân và quả, cái
chúng ta nhận biết chỉ là một tiến trình tự nhiên. Sẽ không có một "con
người" nào trở thành tổng thống, không một "con người" nào trở thành ông
vua. Thế thì cái gì đã tồn tại trong quá khứ? Trong quá khứ chỉ tồn tại
tiến trình nhân và quả. Chúng ta sẽ không nghi ngờ gì về tiền kiếp của
chúng ta. Theo cách này chúng ta có thể vượt qua được nghi ngờ về tiền
kiếp của chúng ta, điều này được gọi là làm thanh tịnh nhờ vượt qua được
nghi ngờ (Kankhàvitarana-visuddhi).
Một số thiền giả thấy khó theo dõi ý định
của mình trước mỗi hành động bởi vì họ không đủ kiên nhẫn. Để quan sát ý
định, chúng ta phải kiên nhẫn với những hành động hay cử động của mình để
có thể theo dõi ý định trước mỗi hành động hay cử động. Khi chúng ta quan
sát ý định trước khi nhấc chân, chúng ta sẽ nhận ra mối liên quan giữa ý
định và hành động nhấc bàn chân. Và lại như thế, khi chúng ta quan sát ý
định trước khi bước chân, chúng ta sẽ nhận ra mối liên hệ giữa ý định và
cử động bước chân. Khi chúng ta quan sát ý định trước khi đạp chân, chúng
ta cũng sẽ nhận ra mối liên hệ giữa ý định và cử động đạp của bàn chân và
những cử động tương tự. Khi chúng ta nhận ra được mối liên hệ nhân quả
này, chúng ta gần như đã hoàn toàn nhận ra Luật Nhân và Quả. Nhờ sự nhận
biết này chúng ta vượt qua được nghi ngờ là liệu có một cá nhân hay một
thực thể tồn tại mãi mãi trong chúng ta hay không. Và cái thực sự tồn tại
chỉ là tiến trình nhân và quả.
5)
Làm trong sạch cái hiểu và cái thấy về Đạo và
Không phải Đạo
Visuddhi thứ năm là làm thanh tịnh cái
thấy và cái hiểu về Đạo và Không-đạo (Maggamagga-nanadassana-visuddhi).
Ở cấp độ này của tuệ, bạn có được những kinh nghiệm rất tốt, khinh an,
hạnh phúc, tĩnh lặng, bình an.... Đôi khi bạn cảm thấy thân thể bạn trở
nên nhẹ nhàng như thể nó được nhấc bổng lên hay như là nó đang bay trên
bầu trời. Bạn luôn giữ được chính niệm, nỗ lực đều đặn, không uể oải cũng
không hăng hái hay cứng nhắc mà vừa phải, đều đặn và vững chắc. Định của
bạn sâu vì thế bạn kinh nghiệm được sự thanh bình, bình tĩnh, thanh thản,
hạnh phúc và sung sướng tột đỉnh.... Đây là một giai đoạn rất tốt mà thiền
giả phải đi qua. Thiền giả có thể trải qua giai đoạn này trong khoảng hai
tuần nếu hành thiền tích cực, nhưng có một vài thiền giả đi qua giai đoạn
này trong vòng một tuần. Với những kinh nghiệm tốt như vậy, thiền giả có
thể nghĩ rằng "Đây hẳn là niết bàn - thật là tuyệt diệu, tôi chưa bao giờ
trải qua nó, nó còn hay hơn là có một triệu đô la - bây giờ tôi đã đạt
được đến niết bàn. Anh ta không thể tiến xa hơn vì anh ta đang bị dính mẵc
vào nó. Anh ta nghĩ là nếu anh ta đi xa hơn anh ta sẽ vược qua khỏi niết
bàn. Nếu thiền giả chấp rằng đây là niết bàn, thì đây là con đường sai
lầm. Vì thế anh ta phải tiếp tục hành thiền và thực tập một cách tích cực.
Đây chỉ là một kinh nghiệm nhỏ tầm thường và anh ta không nên thoả mãn với
nó mà phải tiếp tục hành thiền.
6)
Thanh tịnh cái thấy và cái biết về phương
pháp
Visuddhi thứ sáu là
Patipada-nanadassana-visuddhi. "Patipada" có nghĩa là phương
pháp thực hành, "nana" có nghĩa là kiến thức (cái biết),
"dassana" có nghĩa là quan điểm (cái thấy). "Nana" và
"dassana" ở đây được đề cập đến với cùng một nghĩa. Để nhấn mạnh vào
tuệ minh sát, bài giảng này dùng hai từ đồng nghĩa - knowledge và vision
(cái biết và cái thấy). Vì thế Patipada-nanadassana-visuddhi có
nghĩa là làm thanh tịnh quan điểm về phương pháp thực hành. Nó có nghĩa là
khi chúng ta đã vượt qua sự thanh tịnh cái thấy và cái hiểu về đạo và
không phải đạo (Maggamagga-nanadassana-visuddhi), chúng ta đang đi
đúng con đường dẫn đến quả vị Alahán hay đến chấm dứt khổ đau.
Nếu chúng ta đi sai đường, chúng ta sẽ
dừng lại ở Maggamagga-nanadassana-visuddhi. Vì chúng ta đi đúng
đường, chúng ta phải đi qua chín cấp độ của tuệ giác và đang tiến tới
đích, vì thế chúng ta có thể đánh giá là phương pháp của chúng ta là đúng.
Chúng ta sẽ không nghi ngờ gì về phương pháp hành thiền. Nghi ngờ đã bị
phá bỏ nhờ hiểu biết về phương pháp thực hành. Do đó ta có sự thanh tịnh
trong cái hiểu và cái biết của mình về phương pháp thực hành chân chính -
Patipada-nanadassana-visudhi. Khi bạn tiến đến cấp độ đó, bạn đã
đạt được Anuloma-nàna (cái biết của sự thích ứng) bởi vì kinh
nghiệm của bạn phù hợp với cấp độ thấp nhất cũng như những cấp độ cao hơn
của tuệ giác.
Trí tuệ khi chín muồi
Nếu chúng ta tiếp tục thực hành, chúng ta
sẽ đến ‘ranh giới’ trong một thời gian ngắn. Trong hai hay ba giây suy
nghĩ chúng ta sẽ tiến đến ‘ranh giới’ và đứng ở đó. ‘Ranh giới’ ở đây có
nghĩa là ranh giới giữa phàm phu (puthujjana) và Thánh Nhân (ariya).
Khi bạn ở trên ranh giới, bạn muốn tiến lên tiếp hay muốn quay trở lại?
Nếu bạn muốn quay trở lại, sự chú tâm của bạn sẽ hướng về quá khứ, nếu bạn
muốn tiến lên, sự chú tâm của bạn sẽ hướng về trước. Phía trước là chấm
dứt những thứ giả hợp, tức là chấm dứt tất cả các trạng thái tâm lý (nama)
và vật lý (rupa) (trạng thái thân tâm). Nếu bạn muốn tiến lên thì
khi đứng trên ranh giới bạn nhìn về phía trước cũng như về phía sau. Và
bạn sẽ biết rằng "Nếu tôi đi lên phía trước, tất cả khổ đau sẽ chấm dứt.
Vậy thì tôi có nên đi lên phía trước không?" Bạn sẽ nghĩ về điều đó. Câu
trả lời là có, bởi vì bạn đã chịu đau khổ trong bao nhiêu thời kiếp (kappas)
rồi. Từ "kappa" có nghĩa là số kiếp sống không thể tính đếm. Khi
chúng ta ở trên ranh giới chúng ta sẽ suy ngẫm về các kinh nghiệm đã qua
"Tôi đã trải qua một số thân không thể tính đếm trong vòng đau khổ. Tôi đã
nếm quá đủ và tôi phải chấm dứt chuỗi đau khổ này".
Bạn sẽ chú tâm vào sự chấm dứt khổ đau.
Tuệ ranh giới được gọi là Gotrabhu-nana (Tuệ Chuyển tính). "Gotra"
có nghĩa là Puthujjana (phàm phu) hay hậu thân. Ở tại ranh giới
này, sẽ hoàn toàn không còn hậu thân phàm phu nữa. Sẽ không còn
Puthujjana (thân phàm phu) nào nữa. Một khi bạn đã vượt qua ranh giới,
bạn trở thành một vị Thánh (ariya) bởi vì bạn đã cắt đứt nhân làm thân
phàm phu (Puthujjana). Đại đức Nyanaponika Thera dịch nó là tuệ
chín muồi (maturity knowledge hay knowledge of maturity) bởi
vì trí tuệ của thiền giả đã đủ chín muồi để đạt đạo. Thực ra thì chúng ta
có thể dịch từng chữ là tuệ mà đã trừ bỏ hậu thân phàm phu. Khi hậu thân
phàm phu đã bị trừ bỏ, thiền giả đạt được Sotapatti-magga-nana (Tuệ
đạo dự lưu) - anh ta đã trở thành một vị Thánh, một Ariya.
Tuệ Đạo
Ngay sau tuệ chín muồi là Tuệ Đạo (Magga-nana)
- nhận chân Tứ Diệu Đế:
Dukkha-sacca
- khổ đế
Samudaya-sacca - tập đế
Nirodha-sacca - diệt đế
Magga-sacca - đạo đế
7)
Làm thanh tịnh cái thấy và quan điểm
Bởi vì hành giả đã nhận chân được Tứ Diệu
Đế, nên cái thấy biết của anh ta được làm thanh tịnh. Vì thế tuệ minh sát
này được gọi là Nanadassana-visuddhi, làm thanh tịnh cái thấy biết.
Visuddhi thứ bảy đề cập đến
Sotàpatti-nàna, tuệ đầu tiên về Đạo - Nanadassana-visuddhi.
"Nana" là kiến thức, "dassana" là tầm nhìn, quan điểm,
"visuddhi" là làm trong sạch.
Khi bạn đã đạt được sự thanh tịnh (visuddhi)
thứ bảy này bạn đã trở thành một Sotapanna (bậc Dự lưu). "Sota" có
nghĩa là dòng suối; "apanna" có nghĩa là người tham dự.
"Sotapanna" có nghĩa là Dự lưu. Khi bạn đã đạt được Sotapatti-nana,
bạn đã đi vào dòng chảy của Bát chính đạo, chỉ sau khi bạn đã đạt được
Nanadasana-visuddhi - làm trong sạch cái thấy biết.
-ooOoo-
CHƯƠNG 6. CHÍN CÁCH ĐỂ MÀI SẮC TÂM CĂN
Năm tâm căn của một thiền giả là
saddha, viriya, sati, samadhi, và panna. Năm tâm căn này được gọi là
Pancindriya (ngũ căn, panca có nghĩa là năm, indriya
có nghĩa là khả năng) hay cũng gọi là Pancabala (năm sức mạnh của
tâm, ngũ lực).
Saddha
có nghĩa là lòng tin nhờ chính kiến (tín căn)
Viriya có nghĩa là nỗ lực tích cực (tấn căn).
Sati có nghĩa là tỉnh thức liên tục, vững chắc (niệm căn).
Samadhi có nghĩa là định sâu (định căn).
Panna có nghĩa là trí tuệ, tuệ giác hay giác ngộ (tuệ căn).
Đối với thiền thì năm tâm căn này phải hùng mạnh và cân bằng như được
nhắc đến trong luận về Visuddhimagga (Thanh tịnh đạo). Saddha - tín
căn - phải vững chắc, không dao động và sati - tấn căn - phải mạnh
mẽ, samadhi phải sâu và panna phải là sự thể nhập.
Cân bằng các tâm căn
Để cho năm tâm căn được mạnh mẽ, hùng cường và cân bằng, một thiền giả
phải tuân theo chín lời chỉ dẫn. Nếu năm tâm căn mạnh mẽ nhưng không cân
bằng, một thiền giả không thể đạt được tuệ và không giác ngộ được diệt đế.
Tín (Saddha) phải cân bằng với tuệ (panna) và định (samàdhi)
phải cân bằng với tấn (viriya). Yếu tố chủ yếu của tâm - sự tỉnh
thức (chính niệm), không cần phải cân bằng với bất kỳ tâm căn nào; nó phải
thường hằng, mạnh mẽ, vững chắc và không gián đoạn.
Nếu tín yếu và tuệ mạnh, một thiền giả có
thể sẽ phân tích kinh nghiệm của anh ta theo phương pháp thiền. Trong khi
kinh nghiệm một tiến trình nào đó của thân hay tâm anh ta sẽ phân tích nó,
đặc biệt nếu anh ta có một kiến thức rộng về (pháp) Dhamma. Khi anh
ta phân tích kinh nghiệm của mình, kiến thức phân tích đó cản trở sự định
tâm của anh ta. Và thế là định của anh ta sẽ bị phá vỡ hay bị yếu đi. Ở
đây không có chỗ cho lập luận lôgích hay tư duy triết học hay phân tích
vốn không phải là sự hiểu biết đúng đắn về tiến trình tự nhiên của các
hiện tượng thân và tâm. Nếu một pháp không được hiểu đúng, không được nhận
thức đúng, một thiền giả có thể thuyên giảm lòng tin hay đánh mất lòng tin
nơi Phật pháp do lối tư duy lý luận về pháp hay kinh nghiệm của anh ta.
Chỉ sau khi anh ta đã hoàn thành việc hành thiền và kinh nghiệm được sự
giác ngộ, anh ta mới có thể phân tích nó theo bất kỳ cách nào. Anh ta sẽ
có lòng tin không lay chuyển vào Phật, Pháp, Tăng nhờ trí tuệ đã được qua
kinh nghiệm của anh ta.
Nếu một thiền giả tin vào Đức Phật hay
giáo lý của Đức Phật thì trí tuệ hay tuệ giác của anh ta sẽ cân bằng với
đức tin vững chắc của anh ta (saddha). Anh ta có thể tiến bộ trong
hành thiền mà không bị trở ngại bởi kiến thức phân tích hay suy luận hoặc
tư duy triết học. Một vài thiền giả muốn thể hiện kiến thức của họ về Đạo
Phật hay Pháp, vì thế đôi khi họ phân tích điều họ trải qua trong khi hành
thiền và nói về điều gì đó mâu thuẫn với sự thật. Theo luận về
Visuddhimagga, đức tin phải cân bằng với trí tuệ, tuệ giác
(panna) và ngược lại.
Lần đầu tiên khi tôi tập thiền minh sát
mục đích của tôi là kiểm tra xem liệu phương pháp có đúng không. Trước khi
tập thiền minh sát, tôi đã đọc hết hai quyển “Thiền Vipassana” của Đại Đức
Mahasi Sayadaw. Lúc đó tôi vẫn chưa được gặp riêng Đại Đức (Sayadaw). Tuy
nhiên, việc tập trung vào chuyển động ở bụng là rất dễ làm đối với những
người đã học phương pháp thiền qua sách. Tôi thừa nhận phương pháp thiền
đó là chân thực và đúng đắn bởi vì tôi biết rằng chuyển động ở bụng là
phong đại (vayo-dhatu), và chuyển động ở bụng cũng bao gồm ba đại
khác là: hoả đại (tejo-dhatu), thuỷ đại (apo-dhatu) và địa
đại (pathava-dhatu). Vì chúng ta có thể quán sát bốn đại, phương
pháp này hẳn là đúng đắn.
Thông thường, chúng ta có khuynh hướng
thích phương pháp thiền quán sát hơi thở (anapanasati). Tôi thực
hành anapanasati khi tôi là một samanera (sa di) từ lúc 17
tuổi đến khi 24 tuổi. Mặc dù giờ đây tôi chắc rằng phương pháp của Ngài
Mahasi Sayadaw là đúng đắn, nhưng trước kia tôi không thấy phương pháp đó
là thoả đáng bởi vì tôi đã bị dính mắc vào phương pháp quán sát hơi thở
truyền thống đó. Đấy là lý do tại sao tôi lại muốn kiểm tra phương pháp
của Ngài Mahasi được bắt đầu bằng việc quán sát chuyển động ở bụng. Cho dù
tôi cũng đã đến trung tâm thiền Mahasi và bắt đầu thực hành phương pháp
này nhưng trong lòng rất đỗi nghi ngờ khi thực hành. Đó là năm 1953, tôi
đã ở đó 4 tháng trong thời gian vassa (kiết hạ) để tham gia một khoá
thiền. Lúc đó tôi đã là một giảng viên của trường Đại học Phật giáo ở
Mandalay. Tôi thực hành dưới sự hướng dẫn của Đại Đức U Nandavamsa. Ngài
dạy tôi:
U Janaka, con đã vượt qua những kỳ thi cấp
cao và bây giờ là giảng viên đại học. Con hãy gác lại một bên những kiến
thức về Pháp trong sách vở nếu con muốn đạt được một điều gì đó trong hành
thiền.
Vâng theo lời khuyên của Ngài, tôi đã gác
lại một bên kiến thức của mình và thực hành theo lời hướng dẫn của thầy
tôi. Như thế, đức tin của tôi cân bằng với tuệ bởi vì tôi không phân tích
kinh nghiệm hay phương pháp dựa trên những định kiến hay kiến thức mà tôi
học được trong sách.
Nếu panna (trí tuệ) yếu và
saddha (đức tin) mạnh, một thiền giả có thể nhẹ dạ. Chúng tôi nói là
anh ta nhẹ dạ bởi vì anh ta tin mà không có hiểu biết, không có trí tuệ
hay sự thông minh và có khuynh hướng tin một cách dễ dàng vào bất kỳ một
học thuyết hay giáo lý nào. Nếu một thiền giả nhẹ dạ, anh ta có thể rơi
vào một học thuyết hay giáo lý dẫn anh ta đi sai đường. Do đó đức tin (saddha)
phải cân bằng với panna, trí hay trí tuệ. Theo cách này,
Saddhindriya và Pannindriya phải cân bằng.
Samadhi
(định) và viriya (tinh tấn) cũng lại phải cân bằng với nhau. Nếu
tinh tấn (viriya) mạnh hơn định (samadhi) bạn sẽ không thể
tập trung tốt vào đối tượng của thiền. Luận nói:
Nếu viriya mạnh hơn samàdhi,
tâm của thiền giả có thể trở nên tán loạn và điên cuồng (uddhacca).
Khi mới tập thiền thì định tâm của thiền
giả thường yếu và tâm thường lăng xăng. Vì thế, anh ta nên theo dõi tâm và
nhận diện nó như nó đang là. Nếu một thiền giả hăng hái tích cực để đạt
được tuệ, anh ta có thể nỗ lực quá nhiều trong việc thực hành và khiến cho
tâm trở nên tán loạn và điên cuồng. Tấn lực phải được giữ cân bằng với
định (samàdhi). Để làm được điều này, anh ta phải giảm nỗ lực và
giữ cho tâm ổn định, vững chắc, đều đặn, ghi nhận bất kỳ cái gì nảy sinh
trong tâm và thân một cách chăm chú nhưng không qúa tốn sức. Anh ta sẽ dần
dần đạt được một cấp độ nào đó của định. Nhờ định này, nỗ lực của anh ta
sẽ vững chắc và ổn định, không quá mạnh hay quá yếu.
Trong một vài trường hợp khi thiền giả đã
tập thiền hai hay ba tuần, anh ta định rất sâu và mạnh, tâm ghi nhận tự
động ghi nhận đối tượng thiền mà không cần nỗ lực. Tuy nhiên, nếu thiền
giả không nỗ lực đúng mức, tâm ghi nhận sẽ dần trở nên lờ đờ và nặng nề.
Vì thế định đó biến thành sự lười biếng, uể oải và ngủ gục. Luận nói:
Nếu định quá mạnh và tấn quá yếu thì định
đó sẽ biến thành giải đãi và uể oải hay hôn trầm (thina-middha).
Vì vậy định phải được giữ cân bằng với tấn
(viriya). Tư thế ngồi thụ động sẽ chỉ làm tâm tập trung hơn vào đối
tượng và khi mà càng ngày càng ít cần đến nỗ lực thì tâm sẽ càng ngày càng
trở nên lờ đờ. Để giữ cho định cân bằng với tấn, thiền giả nên đi kinh
hành lâu hơn là ngồi thiền. Tuy nhiên chỉ có rất ít thiền giả có định mạnh
hơn tấn. Và cũng có một vài thiền giả có tấn lực vượt định. Định phải giữ
cân bằng với tấn tuỳ thuộc vào mỗi trường hợp.
Theo Luận thì chúng ta không bao giờ có
thể nói sati (tỉnh thức, chính niệm) là quá mạnh hay quá yếu bởi vì
cách tốt nhất là bạn nên tỉnh thức từng sát na đối với từng hoạt động của
tâm và thân. Sự tỉnh thức sẽ trở nên thường trực, vững bền, không gián
đoạn và liên tục, do đó sẽ khiến định được sâu. Khi định sâu, tuệ minh sát
sẽ được khai mở một cách tự nhiên và bạn sẽ có khả năng nhận ra các tiến
trình thân và tâm (nama và rupa). Vì thế chúng ta có thể nói
rằng sự tỉnh thức không bao giờ là quá mạnh.
Theo Visuddhimagga, một thiền giả phải
thực hiện chín cách để mài sắc năm tâm căn này.
Cách thứ nhất
là thiền giả phải ghi nhớ rằng anh ta sẽ nhận ra sự biến mất của tiến
trình thân và tâm hay những thứ giả hợp khi anh ta nhận diện hay quan sát
chúng như chúng đang thực sự là. Một thiền giả nên có thái độ như vậy. Đôi
khi thiền giả không tin là tất cả các tiến trình thân và tâm là vô thường,
là tuỳ thuộc vào sự sinh và diệt (anicca). Do thành kiến này anh ta
có thể không có khả năng nhận ra bản chất thực của các tiến trình
thân-tâm. Mặc dù anh ta có thể đạt được một mức độ định nào đó, nó chỉ
khiến anh ta đạt được sự thanh bình và hạnh phúc ở một mức độ giới hạn.
Luận viết:
Một thiền giả phải ghi nhớ rằng anh ta sẽ
nhận ra tính vô thường của sự vật tồn tại hay của các tiến trình thân-tâm
khi anh ta quan sát chúng.
Cách thứ hai
là anh ta phải coi trọng việc thực hành chính
niệm, có nghĩa là anh ta phải thực hành thiền tỉnh thức một cách nghiêm
túc. Nếu anh ta thiếu tôn trọng phương pháp hay mục đích của thiền anh ta
sẽ không nỗ lực đầy đủ trong việc thực hành. Hậu quả là anh ta không thể
định tâm vào đối tượng của thiền. Và anh ta không thể nhận ra bản chất
chân thật của các tiến trình thân và tâm (nama và rupa).
Cách thứ ba
là sự tỉnh thức của anh ta đối với các tiến trình thân và tâm phải thường
hằng, được duy trì, liên tục và không gián đoạn. Chỉ sau đó anh ta mới đạt
được định sâu, dựa vào nó anh ta có thể xây dựng tuệ minh sát hiểu thấu
bản chất thật của các tiến trình thân và tâm. Đây là một điểm rất quan
trọng mà tất cả các thiền giả đều phải tuân theo. Khi bạn thức, bạn phải
thường xuyên, liên tục ý thức rõ ràng bất cứ cái gì sinh khởi trong tâm và
thân bạn. Hãy tỉnh thức cả ngày không một phút ngơi nghỉ. Khi tôi nói
"sati", nó có nghĩa là sự tỉnh thức thường xuyên, được duy trì và
không gián đoạn chứ không phải là sự tỉnh thức tầm thường.
Cách thứ tư
là bảy thứ tiện nghi (bảy thứ thích hợp) mà một thiền giả phải phụ thuộc:
một nơi thích hợp để tập thiền, thức ăn, thời tiết, v.v. Dù các điều kiện
có phù hợp hay không bạn vẫn phải nỗ lực trong hành thiền. Đôi khi thiền
giả rất dính mắc vào cái quạt bởi vì trời nóng. Anh ta muốn ngồi dưới cái
quạt. Thực ra thì thiền giả phải thờ ơ với việc trời nóng hay ấm hay lạnh;
anh ta không được lựa chọn.
Tỉnh thức thực sự là nguồn gốc của mọi sự
thành công. Nhờ tỉnh thức anh ta có thể thay đổi một “kẻ thù" thành mọt
"người bạn". Nếu anh ta cảm thấy nóng, anh ta nên nhận diện nó. Nếu anh ta
làm như vậy, cái nóng dần dần sẽ trở thành một "người bạn". Với cái đau
cũng như vậy. Khi anh ta theo dõi nó, định trở nên mạnh hơn và cái đau
dường như dữ dội hơn. Thực ra thì nó không trở nên dữ dội hơn; đó chỉ là
do tâm ý, với định sâu, đã trở nên nhạy cảm hơn. Vì thế nó biết cái đau
ngày càng rõ hơn làm cho cái đau có vẻ nghiêm trọng hơn. Nhưng khi anh ta
nhận ra rằng cái đau chỉ là cảm giác khó chịu thuộc tiến trình tâm, anh ta
sẽ không bao giờ để ý đến bản thân hay hình thái cơ thể anh ta. Cái mà anh
ta nhận ra tại thời điểm đó chỉ là cảm giác đau và tâm ghi nhận nó. Anh ta
có thể phân biệt cảm giác này và tâm ghi nhận nó. Anh ta không đồng nhất
cái đau với bản thân anh ta vì thế cái đau không gây phiền toái cho định
tâm của anh ta. Nó giống như một “người bạn”. Tỉnh thức là nguồn gốc của
mọi thành công. Mặc dù bạn biết nó trên lý thuyết, bạn cũng nên biết nó
trên phương diện thực hành. Nhờ tỉnh thức bạn có thể biến một "kẻ thù"
thành một "người bạn". Một hành giả thiền minh sát không có một kẻ thù nào
trên khắp thế giới. Tất cả các hiện tượng đều là "bạn" bởi vì chúng đều có
ích cho việc đạt được tuệ giác hay giác ngộ - sự chấm dứt khổ đau.
Cách thứ năm
là một thiền giả phải ghi nhớ cách mà anh ta đạt được định sâu. Anh ta
phải ghi nhớ cách đó và thực hành đi thực hành lại bằng cách sử dụng kỹ
năng đã đạt được để giúp anh ta đạt được định sâu.
Cách thứ sáu
là một thiền giả phải phát triển thất bồ đề phần (bojjhanga). Bạn
phải phát triển bảy giác chi (bojjhanga) vì và khi ta cần đến
chúng, đó là: niệm, trạch pháp, tinh tiến, hỷ, khinh an, định và xả.
Cách thứ bảy
là bạn không được lo về thân bạn hay đời sống của bạn. Đôi khi một thiền
giả phấn đấu rất tích cực trong hành thiền từ bốn giờ sáng đến chín hay
mười giờ đêm không nghỉ sẽ lo ngại rằng mình sẽ bị yếu. Anh ta lo lắng và
nghĩ rằng nếu anh ta tiếp tục ráng sức theo cách đó trong vòng một tháng
anh ta có thể chết vì mệt mỏi hay một căn bệnh nào đó. Do đó anh ta sẽ
không nỗ lực đầy đủ trong việc hành thiền và anh ta sẽ không tỉnh thức
thường xuyên, liên tục. Khi sự tỉnh thức bị gián đoạn thì không thể có
định sâu. Khi định yếu, trí tuệ nhận biết bản chất thật của các tiến trình
thân và tâm sẽ không được khai mở. Đó là lý do tại sao bài giảng này lại
nói là để mài sắc năm năng lực này của tâm (năm tâm căn), bạn không được
lo lắng về thân và sức khỏe của mình. Hãy phấn đấu hết mình, thực hành
tích cực suốt ngày không nghỉ và không lo lắng gì cho thân mình.
Cách thứ tám
là bất cứ khi nào cái đau về thân hoặc tâm nảy sinh bạn phải cố gắng ghi
nhận nó bằng cách nỗ lực hơn trong thực hành. Khi cái đau xuất hiện, bạn
sẽ có xu hướng hay mong muốn thay đổi vị trí để cái đau biến mất bởi vì
bạn không sẵn sàng ghi nhận nó. Thay vì làm như vậy, bạn phải nỗ lực thực
hành hơn để vượt qua cái đau bằng cách ý thức nó một cách chăm chú, mạnh
mẽ và chính xác hơn. Cái đau sẽ trở thành "bạn" của bạn bởi vì nó khiến
bạn đạt được định sâu và tuệ sáng.
Cách thứ chín
là bạn không được dừng lại nửa đường. Điều
này có nghĩa là bạn không được dừng tập thiền minh sát cho đến khi bạn đạt
được quả vị Alahán. Vì bạn háo hức đạt được quả vị Alahán, bạn sẽ nỗ lực
đúng mức trong thực hành, nhờ thế bạn sẽ làm cho Năm tâm căn trở nên mạnh
mẽ.
Tóm lại, có chín cách để mài sắc Năm Tâm
Căn:
1. Luôn ghi nhớ mục đích của hành thiền là
nhằm nhận ra tính chất vô thường của tiến trình thân-tâm.
2. Thực hành Pháp với sự tôn trọng và
nghiêm túc.
3. Duy trì sự tỉnh thức thường xuyên, liên
tục, không gián đoạn bằng cách ý thức những hoạt động hàng ngày từng giây
từng phút không ngơi nghỉ.
4. Tuân thủ bảy loại tiện nghi (bảy thứ
thích hợp).
5. Hằng nhớ không quên cách đạt được sức
định như đã từng đạt được trước đó.
6. Phát triển bảy giác chi.
7. Không lo lắng về sức khoẻ thân thể và
đời sống trong thời gian hàn h thiền.
8. Vượt qua cái đau về thân -
dukkha-vedana nhờ nỗ lực tích cực trong thực hành.
9. Không dừng lại nửa chừng. Điều đó có
nghĩa là bạn phải luôn luôn phấn đấu chừng nào bạn chưa đạt được quả vị
Alahán.
-ooOoo-
CHƯƠNG 7. NĂM YÊU CẦU ĐỐI VỚI MỘT THIỀN GIẢ
Để một thiền giả có thể đạt được tiến bộ trong thiền minh sát, anh ta
phải thoả mãn năm yêu cầu.
Yêu cầu thứ nhất
là đức tin. Một thiền giả phải có lòng tin mạnh mẽ và vững chắc vào Phật,
Pháp và Tăng, đặc biệt là tin vào Pháp bao gồm phương pháp thiền mà anh ta
đang thực hành.
Yêu cầu thứ hai
là anh ta phải khoẻ mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần. Nếu anh ta bị đau
đầu, cảm thấy chóng mặt hay có những vấn đề về đường ruột hay dạ dày hay
bất kỳ một căn bệnh nào khác không có nghĩa là anh ta không khoẻ. Anh ta
được xem là khoẻ ở chỗ anh ta có thể quan sát bất kỳ một tiến trình thân
hay tâm nào. Thức ăn anh ta ăn phải tiêu hoá được (có nghĩa là thức ăn
không gây ra những rối loạn trong dạ dày) bởi vì nếu anh ta khó tiêu thì
anh ta không thể thực hành tốt được.
Yêu cầu thứ ba
là anh ta phải trung thực và thẳng thắn, tức là anh ta không được nói dối
thầy của mình hay các bạn đồng tu. Trung thực là cách xử sự tốt nhất.
Yêu cầu thứ tư
là nghị lực (viriya) - không phải là nghị lực tầm thường mà là nghị
lực vững chắc mạnh mẽ, không lay chuyển (padhàna). Một thiền giả
phải có nhân tố này để thành công trong nỗ lực đạt giải thoát. Anh ta
không bao giờ được để viriya hay nỗ lực suy giảm, mà nên tinh tiến
không ngừng. Khi viriya hay padhàna tăng lên, sự tỉnh thức sẽ trở nên liên
tục, thường xuyên và không gián đoạn. Khi sự tỉnh thức trở nên liên tục,
thường xuyên và không gián đoạn, định sẽ trở nên sâu và mạnh. Tuệ minh sát
sẽ trở nên sắc bén và sâu sắc đưa đến sự hiểu biết rõ ràng trong sáng về
các tiến trình thân và tâm theo đúng bản chất thật của chúng.
Yêu cầu thứ năm
là pannà hay trí tuệ. Mặc dù chúng ta sử dụng từ pannà, nó không
phải là pannà tầm thường hay kiến thức. Nó là trí tuệ hiểu biết sâu sắc về
sự sinh và diệt của các tiến trình thân (nama) và tâm (rupa)
(udayabbaya-nana), là cấp độ thứ tư của tuệ minh sát. Cấp độ
thứ nhất là Namarupa-pariccheda-nana (trí tuệ biết phân biệt sự
khác nhau giữa tâm lý và vật chất). Cấp độ thứ hai là
Paccayapariggaha-nana (hiểu biết về Luật nhân quả). Tuệ thứ ba là trí
tuệ hiểu biết đúng như thật - Samma-sana-nana. Trí tuệ hiểu biết
đúng như thật là sự hiểu thấu suốt và nhận ra ba đặc tính của các tiến
trình thân và tâm là anicca, dukkha và anatta (vô thường,
khổ, vô ngã). Tuệ thứ tư là trí tuệ hiểu biết về sự sinh diệt của các hiện
tượng thân và tâm - Udayabbaya-nana.
Vì thế Đức Phật nói rằng ở đây panna
đề cập đến tuệ minh sát thứ tư là tuệ thấu suốt sự sinh diệt của các trạng
thái tâm và vật chất. Một thiền giả cần phải thoả mãn các yêu cầu này. Khi
mới bắt đầu thiền giả có thể không có tuệ sinh diệt này nhưng anh ta phải
cố gắng với padhàna (viriya hay sự nỗ lực, tinh tiến mạnh mẽ và
vững chắc) để tập trung vào các tiến trình thân và tâm nhằm đạt được tuệ
thứ tư, tức là Udayabbaya-nàna, tuệ sinh diệt. Nếu một thiền giả có
trí tuệ anh ta chắc chắn sẽ tiến bộ cho đến khi anh ta ít nhất đạt được
quả vị thấp nhất - Sotapatti-magga-nàna. Đó là lý do tại sao Đức
Phật nói rằng một thiền giả phải có trí tuệ nhận ra sự sinh diệt của các
hiện tượng thân và tâm. Đây là năm nhân tố mà một thiền giả phải có.
Khi một thiền giả đã đạt được quả Dự lưu (Sotàpatti-magga-nàna),
bậc thứ nhất của giác ngộ, anh ta đã nhổ tận gốc rễ khái niệm về một linh
hồn hay một bản ngã, cá tính hay con người cá nhân (sakkàya-ditthi)
và cả sự nghi ngờ (vicikicchà) đối với Tam Bảo. Khi một thiền giả
đã thanh tịnh tâm ý, tâm anh ta trở nên đủ sắc bén để hiểu thấu bản chất
thật của các tiến trình thân-tâm. Anh ta sẽ phân biệt được sự khác nhau
giữa các tiến trình thân và tâm và nhận ra các đặc tính riêng có của các
hiện tượng thân và tâm. Đây là cấp độ thứ nhất của tuệ minh sát. Khi anh
ta có thể nhận ra các đặc tính riêng có của các hiện tượng thân và tâm và
có thể phân biệt sự khác nhau giữa nàma và rùpa, anh ta có
thể phá vỡ sakkaya-ditthi và atta-ditthi. Ở cấp độ này của
tuệ, anh ta đã nhổ tận gốc rễ sakkaya-ditthi và atta-ditthi.
Khi anh ta chưa kinh nghiệm được tuệ này, sakkaya-ditthi và
atta-ditthi sẽ còn quay trở lại dù không mạnh lắm. Sakkaya-ditthi
chỉ có thể bị nhổ tận gốc rễ nhờ đạt được cấp độ đầu của giác ngộ,
Sotapatti-magga-nana.
Atta
trong đạo Bà la môn
Trước hết, chúng ta tìm hiểu khái niệm về
sakkaya-ditthi và atta-ditthi (khái niệm về một linh hồn hay
bản ngã) theo quan điểm của đạo Hin-đu.
Theo đạo Hin-đu hay đạo Bà la môn, toàn bộ
thế giới được tạo bởi Mahàbrahma
(Đại Phạm thiên). Mahabrahma
có rất nhiều tên như Isvara, Paramatma và Prajapati.
"Pati" có nghĩa là đấng sáng tạo hay chúa tể. "Praja" có nghĩa
là sinh vật sống. Vì thế Mahabrahma là chúa tể của mọi sinh vật
sống bởi vì ông ta sáng tạo ra chúng. Paramatma là một thuật ngữ
bằng tiếng Hinđu hay tiếng Sanskrit (tiếng Phạn). Trong tiếng Pali nó là
Paramatta (Đại ngã).
Khi chúng ta chia từ Paramatma thành hai từ nó sẽ là Parama
và atma. Ở đây "parama" có nghĩa là thánh thiện nhất, linh
thiêng nhất; "atma" có nghĩa là linh hồn hay bản ngã. Vì thế
"paramatma" có nghĩa là linh hồn linh thiêng nhất. Một vài người dịch
từ này là đại ngã hay linh hồn vĩ đại. Linh hồn này đủ lớn để sáng tạo ra
thế giới và sinh vật sống. Khi điều kiện trên thế giới đủ tốt để sinh vật
sống, ông ta tạo ra tất cả các sinh vật sống - con người, trời (deva),
Phạm thiên (Brahma) và loài vật. Ông ta thậm chí đã tạo ra cả hổ,
sư tử và rắn độc là mối nguy hiểm cho con người. Khi Mahabrahma hay
Paramatma lần đầu tiên tạo ra sinh vật sống, chúng giống như những
xác chết; chúng không thể chuyển động, ngồi hay đứng. Sau đó Mahabrahma
muốn làm cho những sinh vật này sống. Vì thế Mahabrahma thổi linh
hồn vào mỗi sinh vật. Thế là tất cả các sinh vật thức dậy và chuyển động,
đứng, ngồi v.v...Theo đạo Bà la môn thì theo cách này linh hồn nhỏ bé hay
tiểu ngã đó đã tồn tại ở tất cả các sinh vật sống. Thậm chí một con côn
trùng cũng có một linh hồn nhỏ trong nó. Linh hồn đó được gọi là
Jiva-atta (tiểu ngã). Nó bất tử và không thể phá hoại, nó không thể bị
diệt phá bởi bất kỳ phương tiện nào dù là một quả bom nguyên tử bởi vì nó
được nâng đỡ bởi Mahabrahma hay Prajapati. Nhưng khi cơ thể này sắp tan
rã, linh hồn đó biết rằng cơ thể sắp tan rã và nó phải chuẩn bị rời cơ thể
đó và tái sinh trong một cơ thể khác. Nó phải tái sinh trong một cảnh giới
thấp hơn hay cao hơn tuỳ thuộc vào nghiệp (kamma) của nó trong đời
này. Nếu linh hồn đó làm những việc thiện trong đời này, những việc thiện
đó là nghiệp tốt dẫn linh hồn đến một cảnh giới cao hơn. Khi linh hồn tái
sinh trong một cơ thể khác, chúng ta gọi nó là hậu thân. Nhưng linh hồn
bất diệt đó, jiva-atta hay bản ngã đó cũng không thể bị phá huỷ
trong kiếp sống sau. Vì thế vòng tái sinh tiếp tục. Đây là điều mà đạo Bà
la môn tin tưởng về linh hồn. Tóm lại, theo Bà la môn giáo, có một thực
thể tồn tại mãi mãi trong chúng ta, nó được gọi là tôi, linh hồn hay bản
ngã.
Sự tin tưởng hay khái niệm về một thực
thể, linh hồn hay bản ngã bất diệt được gọi là Atta-ditthi đó là do
không nhận ra bản chất thật của các tiến trình tự nhiên.
Atta
trong đạo Phật
Chúng ta không phải là người Hindu nhưng
chúng ta cũng có khái niệm về một linh hồn mặc dù khái niệm này không quá
mạnh bởi vì chúng ta đi theo giáo lý của Đức Phật. Chúng ta hiểu về mặt lý
thuyết là không có một linh hồn hay bản ngã hay không có một thực thể bất
diệt song chúng ta tin rằng khi một người chết, thần thức anh ta sẽ rời
khỏi cơ thể và quanh quẩn ở nhà hay xác hoặc quan tài của anh ta. Người ta
tin rằng nếu chúng ta không cúng dường các vị tăng (bhikkhus) và
không hồi hướng công đức của mình cho những người đã quá cố, thần thức đó
sẽ phải sống chung quanh chúng ta.
Mặc dù chúng ta tin vào giáo lý của đức
Phật, trong chúng ta vẫn còn tồn tại khái niệm này về atta-ditthi, và dựa
trên khái niệm này chúng ta có một khái niệm khác về cá nhân, cá thể, một
sinh vật, một người đàn ông hay một người đàn bà - sakkaya-ditthi (sakkaya
ở đây có nghĩa là nama và rupa, ditthi có nghĩa là
quan điểm sai lầm). Chúng ta có khái niệm này bởi vì chúng ta không hiểu
các đặc tính chung và riêng của các tiến trình thân-tâm; chúng ta xem
chúng là tồn tại mãi mãi.
Nếu bạn tự hỏi mình là "Ngày mai tôi sẽ
chết à?" - bạn sẽ không dám trả lời câu hỏi này. Nếu tôi nói với bạn là
ngày mại bạn sẽ chết, bạn sẽ nổi giận với tôi bởi bạn giữ quan niệm về
tính lâu dài của các tiến trình thân và tâm. Bạn nghĩ rằng các tiến trình
thân-tâm của bạn là lâu dài; ít nhất là cho đến ngày mai. Đúng thế, đó là
ý tưởng về tính vĩnh cửu. Bạn nắm giữ nó bởi vì bạn không nhận ra sự sinh
diệt của quá trình của các hiện tượng thân và tâm. Nếu bạn nhìn thấy sự
sinh diệt nhanh chóng và thường xuyên của các hiện tượng thân và tâm, bạn
sẽ không tin chúng là vĩnh cửu.
Theo giáo lý của Đức Phật thì bạn có thể
hiểu về mặt lý thuyết là không có một tiến trình thân và tâm nào kéo dài
đến một giây, nhưng về mặt thực hành thì bạn không tin nó bởi vì bạn không
nhận ra tính chất vô thường của chúng. Chỉ khi bạn có kinh nghiệm cá nhân
về Pháp, bạn mới kết luận nó là vô thường. Sau đó bạn có thể chấp nhận là
"Tôi có thể không sống đến ngày mai. Tôi có thể chết ngay giây phút này
bởi vì tất cả các hiện tượng đều phụ thuộc vào tính vô thường". Thực ra
thì khi con người không nhận ra sự sinh diệt của các hiện tượng thân và
tâm, anh ta coi chúng là thường còn. Ý niệm về một con người cá nhân được
dựa trên sự tin tưởng vào một thực thể trường tồn trong chúng ta. Vì thế
atta-ditthi và sakkaya-ditthi là giống nhau.
Nếu chúng ta nói là "Bây giờ tôi đang nhấc
bàn tay lên" bạn sẽ hỏi tôi là ai đang nhấc bàn tay lên. Tôi sẽ nói là
"Tôi đang nhấc bàn tay lên". Ai là "tôi"? Một tỳ khiêu (bhikkhu),
một con người hay một sinh vật đang sống? Nếu chúng ta không tin vào tính
chất trường tồn của các tiến trình thân-tâm, chúng ta sẽ không xem chúng
là một sinh vật. Thực ra thì quá trình kép của trạng thái tâm và thân mà
tạo nên cái gọi là một con người này phụ thuộc vào sự thay đổi, sinh và
diệt nhưng chúng ta không nhận ra nó. Chúng ta xem quá trình kép này là
một con người, một sinh vật, một con chó hay một con vật. Quan điểm này
được gọi là sakkaya-ditthi. Nếu chúng ta không hiểu đúng các tiến
trình thân và tâm này theo bản chất thật của chúng thì chúng ta không thể
vượt qua hay phá vỡ được quan điểm sai lầm này.
Đó là lý do tại sao Đức Phật dạy chúng ta tỉnh thức đối với bất kỳ hoạt
động nào của tâm và thân hay các tiến trình thân và tâm như chúng thực sự
là để chúng ta có thể nhận ra hai tiến trình này là các tiến trình tự
nhiên. Tuệ này được gọi là tuệ Sabhava-lakkhana (hiểu biết đúng về
các đặc tính riêng có của các hiện tượng thân và tâm). Tuệ minh sát này
phá vỡ khái niệm sai lầm về một linh hồn hay một bản ngã, một con người
hay một sinh vật là nguyên nhân chính của các nhiễm ô (kilesas) như
tham, sân, ảo tưởng, kiêu mạn và những thứ tương tự như thế. Do đó, chúng
ta có thể nói rằng khái niệm về một linh hồn hay bản ngã này là hạt giống
của tất cả các nhiễm ô. Khi chúng ta đã diệt trừ được hạt giống (chủng tử)
này thì sẽ không có nhiễm ô nào sinh khởi và chúng ta thoát khỏi khổ đau.
Đó là: Sakkaya-ditthi pahanaya
sato bhikkhu paribbaje.
"Sakkaya-ditthi pahanaya" có nghĩa
là vượt qua quan điểm sai lầm về một linh hồn, bản ngã hay một con người;
"sato" có nghĩa là tỉnh thức, bhikkhu có nghĩa là tăng. Một
vị tăng tỉnh thức đối với các hiện tượng phải phấn đấu hay thực hành để
vượt qua quan điểm sai lầm này. Khi anh ta có khả năng phá vỡ được
sakkaya-ditthi đó, anh ta chắc chắn sẽ thoát khỏi mọi khổ đau.
Sakkaya-ditthi là nguyên nhân của mọi ô nhiễm hay là hạt giống của mọi
phiền não. Vì thế chúng ta phải cố gắng phá bỏ nó nhờ sự hiểu biết đúng về
các tiến trình thân và tâm bằng phương tiện của thiền minh sát.
Chúc các bạn thực hành thiền minh sát tích
cực và đạt đến chỗ chấm dứt khổ đau.
Sadhu! Sadhu! Sadhu!
-ooOoo-
Phụ lục 1. Hướng dẫn tập thiền
Giới luật
Thanh tịnh giới luật là điều kiện tiên
quyết để một thiền giả đạt tiến bộ trong hành thiền. Chỉ khi đó anh ta mới
không bị lương tâm dằn vặt vì mặc cảm tội lỗi, không bị dính mắc và có thể
định tâm một cách dễ dàng. Trong khoá tu thiền, hành giả phải tuân theo
tám giới:
1) Không sát sinh.
2) Không trộm cắp.
3) Không dâm dục.
4) Không nói dối.
5) Không uống rượu và các thứ làm say.
6) Không ăn phi thời.
7) Không nhảy múa, hát các thứ nhạc và xem các thứ trình diễn không
chỉnh tề, không sử dụng vòng hoa, nước hoa, dầu thơm và những thứ làm
đẹp và trang điểm.
8) Không nằm ngồi giường cao tốt đẹp.
Ý nghĩa của Vipassana
Nếu một thiền sinh không hiểu mục đích của
thiền Vipassana, anh ta sẽ không cố gắng nỗ lực khám phá một điều gì đó
bằng việc ghi nhận các tiến trình thân và tâm.
Vipassna
là kếp hợp của hai từ: vi- và passana. Vi có nghĩa là
đa dạng, tức là ba đặc tính (vô thường, khổ, vô ngã). Passana có nghĩa là
chính kiến hay nhận thức đúng nhờ sự tỉnh thức đối với các trạng thái tâm
và thân. Vipasana có nghĩa là trực tiếp nhận thấy ba đặc tính của
các trạng thái tâm và thân.
Ghi nhận trong tỉnh thức
Ghi nhận chăm chú và chính xác.
Việc ghi nhận hời hợt có thể làm tâm trí
bạn trở nên rối loạn, vọng tưởng nhiều hơn.
Ghi nhận trong hiện tại, sống trong hiện
tại.
Nếu bạn tìm kiếm điều gì đó trong khi thực
hành, tâm trí bạn sẽ ở trong hiện tại.
Nguyên tắc cơ bản là quan sát bất cứ điều
gì khi nó vừa sinh khởi.
"Gọi tên" là một người bạn của sự tỉnh
thức khi mà định còn yếu. Nếu bạn không đặt tên, bạn sẽ có xu hướng quên
mất đối tượng. Các từ ngữ không phải là cần thiết nhưng đôi khi lại đặc
biệt hữu ích khi mới bắt đầu thực hành. Trừ khi nó trở thành một chướng
ngại, bạn không nên bỏ việc đặt tên.
Ghi nhận chính xác tất cả các tiến trình
thân và tâm là rất quan trọng và chúng cần được nhận ra theo đúng bản chất
của chúng.
Toạ thiền
Khi ngồi thân của thiền giả phải cân bằng.
Không được ngồi dựa vào tường hay những
thứ nâng đỡ khác. Điều này sẽ làm suy giảm sự tinh tiến (samma-vayama)
và bạn sẽ cảm thấy buồn ngủ.
Ngồi trên đệm bị nén chặt hay đắp nổi sẽ
làm cho thân bị đổ về trước. Điều này sẽ làm cho bạn cảm thấy buồn ngủ.
Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên không sử dụng bất kỳ một đệm nào để ngồi
thiền.
Trước khi ngồi thiền bạn phải đi thiền một
giờ đồng hồ (có thể giảm nếu không ở trong thiền viện và thời gian bị giới
hạn).
Khi đổi từ đi thiền sang ngồi thiền, không
nên phá vỡ sự tỉnh thức và định tâm.
Khi mới bắt đầu tập người mới tập có thể
bị bối rối vì không biết phải ghi nhận cái gì. Đại đức Mahasi Sayadaw
hướng dẫn là một thiền sinh có thể bắt đầu bắt việc quan sát chuyển động
phồng xẹp của bụng, ghi nhận trong tâm là "phồng" khi quan sát chuyển động
ra và "xẹp" khi quan sát chuyển động vào.
Điều này phù hợp với chương về bốn đại trong kinh Maha Satipatthana
Sutta. Chuyển động của bụng là vayo-dhatu (phong đại).
Mỗi yếu tố có các đặc tính riêng và chung
của nó.
Các đặc tính riêng của địa đại (pathavi-dhatu)
là cứng và mềm.
Các đặc tính riêng của thuỷ đại (apo-dhatu)
là tính lỏng lẻo và tính dính kết.
Các đặc tính riêng của hoả đại (tejo-dhatu)
là nóng và lạnh.
Các đặc tính riêng của phong đại (vayo-dhatu)
là chuyển động, nâng đỡ, chống đỡ.
Khi một người chính niệm và nhận diện được
chuyển động của bụng thì ta có thể nói rằng người đó hiểu đúng bản chất
thật của phong đại và phá vỡ được quan niệm sai lầm về bản ngã.
Khi mới bắt đầu tập bạn có thể đặt bàn tay
lên bụng nếu bạn không thể cảm thấy chuyển động ở bụng.
Việc thở phải bình thường. Đừng thở nhanh
hay sâu, bạn sẽ mệt. Thư giãn tâm và thân càng nhiều càng tốt.
Khi chuyển động ở bụng từ từ và rõ ràng
hơn, bạn có thể ghi nhận thường xuyên hơn: "phồng... phồng....phồng",
"xẹp...xẹp...xẹp". Nếu chuyển động phức tạp, chỉ nên ghi nhận chung.
Mặc dù thiền sinh được dạy là bắt đầu với
việc theo dõi sự phồng xẹp của bụng, anh ta không được dính mắc vào nó. Nó
không phải là đối tượng duy nhất mà chỉ là một trong rất nhiều đối tượng
khác nhau của thiền Vipassanà.
Nếu bạn nghe thấy âm thanh, hãy ghi nhận
"đang nghe”. Lúc đầu thì điều đó không dễ nhưng càng ghi nhận nhiều càng
tốt. Chỉ khi sự tỉnh thức đã đủ, bạn mới có thể trở về đối tượng cơ bản
của thiền (có nghĩa là "phồng" và "xẹp").
Nếu có một khoảng cách giữa "phồng" và
"xẹp" thì hãy ghi nhận là "đang ngồi” và/hoặc "đang xúc chạm”.
Không mở mắt trong khi ngồi thiền. Nếu bạn
làm như vậy định sẽ bị phá vỡ.
Đừng vừa lòng với một tiếng ngồi thiền. Ngồi càng lâu càng tốt.
Đừng thay đổi tư thế của bạn.
Thiền hành
Đi thiền một cách nghiêm túc. Chỉ bằng cách đi thiền một người có thể
đạt đến quả vị Alahán, chẳng hạn như Đại đức Subhadda - đệ tử Alahán cuối
cùng của Đức Phật.
Hướng sự chú ý của bạn vào bàn chân trong
khi đi thiền. Ghi nhận chuyển động với ý thức sắc bén. Khi mới bắt đầu,
chỉ ghi nhận toàn bộ từng bước chân, ghi nhận trong tâm "phải" và "trái".
Không nhắm mắt mà mở nửa mắt, nhìn về phía
trước khoảng 1,2m đến 1,5m.
Không cúi đầu quá thấp. Nếu bạn cúi đầu
thấp sẽ bị căng thẳng và chóng mặt trong một thời gian ngắn. Không nhìn
xuống chân bạn, bạn sẽ bị vọng tưởng.
Khi bạn theo dõi chuyển động của bàn chân,
bạn không được nhấc bàn chân quá cao.
Các đối tượng được ghi nhận được tăng lên
từ từ, có nghĩa là số phần của một bước chân mà được quan sát được tăng
lên dần dần.
Sau đó thiền giả có thể theo dõi toàn bộ
từng bước chân trong vòng mười phút, tiếp theo theo dõi ba phần "nhấc",
"bước", "hạ". Cuối cùng có thể tăng lên nhiều hơn: "ý định”, “nhấc”,
“bước”, “hạ”, “chạm”, “nhấn”.
Bạn nên xem xét điều này: trong vòng một
tiếng đồng hồ đi thiền, tâm chắc chắn sẽ chạy lăng xăng vài lần.
Bạn không được nhìn ngó xung quanh trong
khi đi thiền. Bạn đã có và sẽ có rất nhiều năm để nhìn quanh. Nếu bạn làm
như thế trong thiền viện nghĩa là bạn nói lời tạm biệt với định. Ghi nhận
“mong muốn” nhìn xung quanh. Cái tật ngó nghiêng là một vấn đề rất khó
khăn đối với một thiền sinh.
Chúng tôi đề nghị mỗi ngày bạn nên ngồi
thiền và đi thiền mỗi thứ ít nhất năm hoặc sáu tiếng.
Tỉnh thức đối với các hoạt động hàng ngày
Thiền tỉnh thức là cách sống của Đức Phật.
Ý thức rõ ràng các hoạt động hàng ngày là
đời sống của một thiền sinh. Một khi thiền sinh không quan sát được một
hoạt động thì anh ta đánh mất đời sống của anh ta. Có nghĩa là anh ta
không phải là một thiền sinh bởi vì anh ta không có niệm, định và tuệ (sati,
samadhi và pannà).
Hãy tỉnh thức đối với từng và tất cả các
hoạt động hàng ngày.
Nếu bạn không thể tỉnh thức đối với các
hoạt động hàng ngày, đừng trông chờ tiến bộ.
Không ghi nhận hoạt động hàng ngày dẫn đến
những khoảng không tỉnh thức rộng. Tính liên tục là cần thiết để đưa sự
tỉnh thức tiếp nối trong từng sát na.
Năng lực tỉnh thức (satindriya) của
một thiền sinh liên quan đến sự tỉnh thức liên tục không gián đoạn trong
cả ngày.
Sự tỉnh thức liên tục không gián đoạn làm
phát sinh định sâu. Chỉ khi có định sâu thiền giả mới có thể nhận ra bản
chất bên trong của các hiện tuợng tâm và thân, và đưa thiền giả đến diệt
đế.
Mỗi ngày ta có thể khám phá ra nhiều điều
mới lạ nếu bạn có sự tỉnh thức liên tục không gián đoạn.
Trong thời gian chuyên tu thiền, tất cả
điều bạn phải làm là tỉnh thức. Bạn không cần phải vội vàng.
Đại đức Mahasi Sayadaw so sánh một thiền giả với một người ốm đi lại
loanh quanh rất chậm.
Làm mọi việc cực kỳ chậm làm tâm bạn định.
Nếu bạn có ý định đạt được một điều gì đó trong hành thiền, bạn phải quen
với việc làm chậm lại.
Khi một cái quạt chạy nhanh, bạn không thể
nhìn thấy nó như thật. Nếu nó chạy chậm, bạn có thể nhìn thấy nó như thật.
Vì thế bạn phải làm chậm lại để có thể nhìn rõ ràng các tiến trình thân và
tâm như chúng đang thật sự là.
Khi bạn bị bao quanh bởi những con người
đang làm việc hối hả, bạn phải quên những gì xung quanh và nỗ lực ghi nhận
bất kỳ hoạt động thân hay tâm nào.
Nói chuyện là một mối nguy hại ghê gớm đối
với sự tiến bộ của trí tuệ.
Năm phút nói chuyện có thể phá vỡ sự định
tâm của một thiền sinh trong cả ngày.
Đừng đọc, kể lại hay hồi tưởng lại. Chúng là những chướng ngại đối với
tiến bộ trong hành thiền của bạn.
Cái Đau và đức kiên nhẫn.
Cái đau là người bạn của thiền giả, đừng
lẩn tránh nó, nó có thể dẫn bạn đến Niết bàn.
Cái đau không phải thông báo cho bạn biết
về sự xuất hiện của nó. Nó có thể biến mất. Nếu nó biến mất, bạn có thể
khóc vì nó vì người bạn đã đi mất. Một vài thiền sinh thậm chí còn cố tình
gây cảm giác đau bằng cách gập chân lại và ngồi lên.
Cái đau được quan sát không phải để làm
cho nó biến đi mà là để nhận ra bản chất thật của chúng.
Đau l à chìa khoá để mở cánh
cửa Niết bàn.
Khi ta có sức định tốt thì cái đau không
thành vấn đề. Nó là một tiến trình tự nhiên, không khác "phồng - xẹp". Nếu
bạn quan sát nó một cách chăm chú, tâm trí sẽ bị cuốn hút vào nó và khám
phá ra bản chất thật của nó.
Khi cái đau đến nó sẽ được ghi nhận một
cách trực tiếp nhưng chỉ được lờ đi nếu nó trở nên dai dẳng một cách thái
quá. Nó có thể bị vượt qua nhờ định sâu được đem lại bởi sự tỉnh thức liên
tục.
Nếu trong khi đi mà bị đau quá thì thiền
giả nên thỉnh thoảng dừng lại và ghi nhận nó.
Kiên nhẫn dẫn đến Niết bàn, không kiên
nhẫn dẫn đến địa ngục.
Hãy kiên nhẫn với bất kỳ thứ gì kích động
tâm bạn.
Có ai đó đã nói rằng bất kỳ điều gì cũng
đều đáng để cho ta thưởng thức?
Ghi nhận các trạng thái tâm và cảm xúc
Nếu bạn ghi nhận bất kỳ một trạng thái tâm
hay cảm xúc nào, bạn phải ghi nhận khá nhanh, mạnh và chính xác để tâm ghi
nhận liên tục và trở nên mạnh mẽ. Nhờ thế vọng tưởng sẽ tự nó dừng lại.
Ghi nhận các ý nghĩ một cách nhanh chóng
như là bạn đang vụt chúng bằng gậy vậy:
"đang nghĩ, đang nghĩ, đang nghĩ ...” hay
"buồn ngủ, buồn ngủ, buồn ngủ ..." hay
"hạnh phúc, hạnh phúc, hạnh phúc ..." hay
"buồn, buồn, buồn ...".
chứ đừng chậm chạp như:
"đang nghĩ...đang nghĩ...” hoặc
"buồn ngủ.... buồn ngủ...".
Bạn đừng hy vọng định được tâm trừ khi bạn
có thể ghi nhận tâm lăng xăng của bạn. Nếu tâm bạn vẫn lăng xăng điều đó
chỉ có nghĩa là bạn vẫn chưa ghi nhận nhận một cách đủ mạnh. Khả năng ghi
nhận này là rất cần thiết.
Nếu bạn ý thức rõ nội dung của ý nghĩ, nó
sẽ có xu hướng tiếp tục. Nếu bạn ý thức bản thân ý nghĩ thì sự suy nghĩ sẽ
chấm dứt.
Đừng dính mắc vào tư duy và lý thuyết.
Trí tuệ mang đến định sâu còn tự duy lôgíc
và triết học đi kèm với sức định hời hợt.
Háo hức và lo lắng về việc đạt định có thể
gây ra tán loạn, vọng tưởng.
Có thể vượt qua trạng thái lờ đờ hôn trầm
bằng cách nỗ lực nhiều hơn. Đặt tên cho những hoạt động được ghi nhận cũng
rất hữu ích.
Sự tò mò và trông đợi rõ ràng sẽ cản trở
sự tiến bộ của bạn. Nếu chúng phát sinh, đừng bám vào chúng. Hãy ý thức
sắc bén chúng.
Ghi nhận sự buồn ngủ một cách mạnh mẽ,
thật nhanh và liên tục.
Nếu bạn muốn đạt được một điều gì đó trong
hành thiền, bạn sẽ phải nỗ lực nhiều hơn trong việc thực hành.
Thực ra thì năng lực ghi nhận luôn có. Vấn
đề là bạn không sẵn sàng sử dụng nó. Nhân tố tâm lý là rất quan trọng.
Đừng bi quan. Nếu bạn lạc quan, nghĩa là bạn tạo ra cho mình cơ hội. Bạn
sẽ cảm thấy hài lòng trong mọi tình huống và bạn cũng ít bị vọng tưởng
hơn.
Nếu một thiền sinh tỉnh dậy vào 3 giờ
sáng, anh ta phải dậy để thiền. Anh ta không nên đợi đến 4 giờ sáng. Đó
không phải là một quan điểm đúng đắn.
Nếu bạn cảm thấy buồn ngủ khi tỉnh dậy,
bạn hãy đứng dậy và đi bộ. Nếu không bạn sẽ thích ngủ. (Trong thiền viện,
theo thời gian biểu, thiền sinh phải thức dậy vào 4 giờ)
Nếu bạn buồn ngủ, hãy lùi nhanh về phía
sau và đi nhanh về phía trước dưới ánh mặt trời.
Con người có những có rất nhiều sức mạnh
và khả năng để làm nhiều việc. Bạn phải phấn đấu chứ không phải chỉ thử
sức.
Nếu bạn nỗ lực đầy đủ, bạn có thể đạt được
bốn quả vị.
Một tuần thực hành chỉ là một quá trình
học. Sự thực hành thật sự chỉ bắt đầu sau đó.
Thiền siêu vượt thời gian và không gian.
Vì thế đừng để thời gian và không gian làm gián đoạn.
Năm tâm căn (pancindrya)
Năm năng lực này của thiền giả phải khoẻ,
mạnh, sắc bén và cân bằng.
Chúng là:
Saddhindriya
- đức tin mạnh mẽ và vững chắc dựa trên
chánh kiến (tín)
Viriyindriya - nỗ lực mạnh mẽ và tích cực trong thực hành (tấn)
Satindriya - tỉnh thức liên tục (niệm)
Samadhindriya - định sâu (định)
Pannindriya - trí tuệ thấu biết, tuệ minh sát (tuệ)
Năm năng lực này phải được cân bằng để đạt
được tuệ. Đức tin phải cân bằng với tuệ, tấn lực phải cân bằng với định.
Sự tỉnh thức không cần phải cân bằng với bất kỳ một yếu tố nào. Nó là năng
lực quan trọng nhất để dẫn bốn yếu tố kia đi đến mục đích của chúng.
Trình pháp
Hàng ngày, thiền sinh phải báo cáo thầy
hướng dẫn thiền để kiểm tra sự thực hành của anh ta. Sau khi anh ta đã báo
cáo về những gì anh ta đã làm và trải qua trong một ngày hành thiền, thầy
hướng dẫn sẽ sửa chữa, hướng dẫn thêm hoặc khích lệ anh ta tiến bộ hơn
nữa. Như vậy mối liên lạc hiệu quả giữa họ là cực kỳ quan trọng.
Ở thiền viện, mỗi nhóm trình pháp với
Sayadaw vào các giờ khác nhau.
Một thiền sinh không nên cố gắng đến trước
giờ qui định của mình trừ khi anh ta có lý do. Mặt khác, việc trình pháp
không nên làm chướng ngại sự hành thiền của anh ta, anh ta có thể đến muộn
hơn giờ đã định.
Khi đợi đến lượt mình trong nhóm đừng phí
thời gian. Hãy ngồi xuống và chính niệm cho đến khi được gọi. Người tiếp
theo nên sẵn sàng bên cạnh người đang được hỏi.
Các thiền sinh nên thận trọng, đặc biệt
khi có nhiều thiền sinh đang đợi và thời gian là quí báu. Hãy nói ngắn
gọn, xúc tích, và đi thẳng vào vấn đề:
Đừng trở nên hào hứng, lo lắng hay e ngại. Hãy bình tĩnh và cởi mở. Nói
những câu đầy đủ rõ ràng, rành rẽ. Đừng nuốt từ hay nói lộn xộn, thì thầm.
Đừng đợi những lời nhận xét. Chỉ sau khi bạn đã kể lại tất cả các kinh
nghiệm của bạn thì mới có lời nhận xét.
Hãy nghe một cách cẩn thận những lời hướng
dẫn và tuân theo chúng một cách nghiêm khắc và siêng năng. Nếu có nghi ngờ
hãy hỏi.
Khi được hỏi hãy trả lời mà đừng nói về
một điều gì khác.
Hãy báo cáo những kinh nghiệm của mình mặc
dù chúng có vẻ không quan trọng đối với bạn.
Ghi lại vài điều ngắn gọn ngay sau khi
thiền có thể giúp ích nhưng thiền giả không nên khiến nó là một điểm phải
ghi nhớ trong khi đang hành thiền bởi vì điều này sẽ gây cản trở cho định.
Đến và rời buổi trình pháp trong sự tỉnh thức.
-ooOoo-
Phụ lục 2. Thời khoá biểu tại thiền viện
4.00 sáng |
thức dậy
(khai tĩnh) |
4.30 |
kinh hành |
5.30 |
ngồi thiền
* |
6.30 |
kinh hành |
7:00 |
bữa sáng |
8:00 |
kinh hành |
9:00 |
ngồi thiền |
10:00 |
kinh hành |
11:00 |
bữa trưa
(ngọ trai) |
12:00 |
nghỉ |
|
|
1:00 chiều |
ngồi thiền
* |
2:00 |
kinh hành |
3:00 |
ngồi thiền |
4:00 |
kinh hành |
5:00 |
uống nhẹ
|
5:30 |
kinh hành |
6.30 |
ngồi thiền |
7.30 |
kinh hành |
8.00 |
giảng Pháp |
9.30 |
ngồi thiền |
10.30 |
thiền cá
nhân |
* Những buổi tập thiền theo nhóm là bắt
buộc trong phần sau của khoá chuyên tu.
-ooOoo-
Ðầu trang | 01 | 02 |