ó nhiều khuynh hướng về đạo Phật hiện hành được
nhận ra ở Miến Ðiện, Thái Lan và một phần của các nước Ðông Nam Á.
Trước tiên, có một tôn giáo mà mọi người ái mộ, tôn giáo này đòi
hỏi người ta phải thực hiện hành động phước thiện như bố thí, trì
giới để có được kiếp sống lai sinh sáng sủa hơn. Sau đó có những
cuộc nghiên cứu sâu sắc về ngôn ngữ Pàli và Sankrit cùng với kinh
điển Phật giáo đã cống hiến một phương pháp tu tập truyền
thống. Cũng có những truyền thống phục vụ xã hội mà những nhà sư đã
dạy dỗ và giúp đỡ tín đồ trong đời sống hàng ngày. Nói chung Phật
giáo ở Ðông Nam Á có chức năng giống như những tổ chức tôn giáo lớn trên
thế giới.
Thêm vào đó, có truyền thống những người xuất gia và tại gia liên
quan đến sự tu tập bằng sự thực hành con đường giác ngộ do đức Phật
khám phá. Mặc dù có một số trung tâm thiền và thiền viện ở Lào
và Campuchia, những thiền viện ở đây không thể có những người
phương Tây đến tu tập được, vì hoàn cảnh chính trị đương thời và
có thể chẳng còn hy vọng tí nào trong tương lai. Trong số hàng ngàn
ngôi chùa ở Thái Lan, đặc biệt là có hàng trăm ngôi chùa riêng biệt
chú trọng đến việc tu thiền. Trong hàng trăm ngôi chùa này,
lại có hàng chục trung tâm thiền vĩ đại được duy trì do những vị
thiền sư nổi tiếng có số lượng tín đồ đông đảo. Tôi nhận thấy
rằng pháp môn thiền chỉ có một số nhỏ quần chúng và giáo hội tu tập mà
thôi. Tuy nhiên nó đóng một vai trò cực kỳ quan trọng việc bảo tồn
giáo pháp của đức Phật.
Có lẽ đạo Phật ở Miến Ðiện mạnh hơn ở Thái Lan. Người Miến
Ðiện chú trọng nhiều đến tôn giáo của họ và trải qua
thời gian ở chùa nhiều hơn. Tuy nhiên ở đây cũng vậy, truyền thống tu
tập thiền của người xuất gia và tại gia chỉ có một phần trăm . Còn lại,
họ quan tâm nhiều đến nghi lễ cúng kiến, trở thành nhà nghiên
cứu hay nhà cố vấn xã hội. Như thế ở Miến Ðiện hơn mười ngàn
ngôi chùa chỉ có một thiểu số là trung tâm và thiền viện. Trong
số thiền viện này có nhiều loại khác biệt. Ðặc biệt có
một số thiền viện dành cho người tại gia, còn một số dành cho những
người xuất gia; còn một số nữa vừa dành cho người xuất gia lẫn tại gia.
Có một ít điểm khác biệt quan trọng giữa trung tâm thiền và
thiền viện. Trung tâm thiền được thiết kế chủ yếu dành
cho những khóa thiền tích cực, có cả người xuất gia và tại gia. Nó
được phổ thông ở Miến Ðiện dành cho những ai muốn trải qua mùa hè
hàng năm của mình ở trung tâm thiền. Ở những trung tâm nầy, người ta
bỏ thời gian mười ngày cho đến vài tháng hay lâu hơn nữa để tu tập
rất tích cực. Họ cố gắng tu tập nhanh chóng để đạt được mức định
tâm cao và thực chứng được tuệ giác và trí tuệ.
Theo truyền thống, những trung tâm thiền được thành lập vững chắc
nhứt ở Miến Ðiện, mặc dù cũng có một số trung tâm thiền được
thành lập ở Thái Lan. Những trung tâm này thật là thanh tịnh, có một môi
trường khá đặt biệt, nơi đó mọi nhu cầu đều hạn chế và
không tiếp xúc nhiều với xã hội, ngoại trừ với một vị thầy. Người
ta tu tập hầu hết ở nơi tĩnh mịch, hay có lẽ dành một ít thời gian trong
ngày lo công việc chung, hầu hết thời gian trong ngày dành cho việc
tu thiền. Môi trường những trung tâm này đáp ứng một nhu cầu đặc
biệt, thiền hành và thiền tọa đúng giờ, và mọi nhu cầu
giải trí được giảm thiểu tối đa.
Trái lại thiền viện là nơi cư ngụ cho tăng ni dài hạn (có
nhiều ni chúng ở Ðông Nam Á). Trong thiền viện, người ta dạy
thiền như một cách sống trọn vẹn, tu tập cả ngày. Người ta dạy
thiền liên quan đến sự phát huy nhận thức mọi khía cạnh đời sống
hàng ngày của mình như ăn mặc, may vá, đi đứng, lau chùi, cũng như sự tác
động qua lại với xã hội trong tăng đoàn. Những thiền viện này,
thiền trở nên một lối sống chứ không phải là một sự tu tập đặc
biệt. Tuy nhiên, lời dạy cũng bao gồm sự tu tập thiền tọa và
thiền hành hàng ngày đều đặn. Những thiền viện tốt đẹp nhất
có được tăng đoàn hoà hợp, thực hành giới luật do đức Phật cấm chế.
Cách sống này được đưa ra để phát huy những yếu tố giác ngộ nhờ
chánh niệm cả ngày. Thực ra, một trong những vị thiền sư của thiền
viện này nói rằng ngài đã học được nhiều pháp bảo từ sự nhận
thức tu tập và tâm từ bi trong việc tiếp xúc với nhiều du khách
đến thăm, đáp ứng được các vấn đề của họ, bởi vì ngài đã
tu tập nhiều đề mục khác nhau. Mặc dù ngài kiên trì ngồi thiền
nhiều giờ mỗi ngày, ngài cảm thấy rằng do tác động xã hội thiền
định cũng quan trọng tương đương, học hỏi để phát huy trí
tuệ trong mọi hoàn cảnh.
Những trung tâm thiền dành cho kỳ tu tập tích cực ngắn hạn, và
thiền viện thì dành cho việc sống theo thiền tất cả đều
cung cấp một môi trường có lợi cho sự phát triển tâm linh. Trung tâm và
thiền viện đều có thầy chỉ dạy, đối với việc giải trí thì
rất giới hạn, tất cả thời gian chỉ để theo dõi tâm của mình. Tất cả
đều hướng đến sự tu tập.
Trong trung tâm thiền, các sinh hoạt hàng ngày hầu hết bao gồm toàn
bộ thời gian của mình dành cho việc thực tập thiền quán (ngồi một
mình hay ngồi với một nhóm thanh tịnh), có lẽ mười hai giờ đến hai mươi
giờ mỗi ngày. Nói chung, thiền hành và thiền tọa xen kẻ, người
ta không ngồi liên tục hai mươi giờ trong trong tư thế thiền tọa.
Thường mỗi ngày có một lần trình pháp với thiền sư hoặc cách một
ngày một lần, và chỉ dành một ít thời gian lo nhu cầu đời sống thôi. Những
sinh hoạt khác nếu là bậc xuất gia phải đi khất thực, ăn một hoặc hai
buổi vào buổi sáng, tắm rửa, và cuối cùng đi ngủ, được phép ngủ bốn giờ
mỗi đêm. Tu tập ở trung tâm, tất cả mọi người đều hướng
đến sự phát huy định tâm và chánh niệm.
Trái lại đời sống trong thiền viện thì đa đoan hơn. Buổi sáng chư
sư thức dậy rất sớm, ngồi thiền, và sau đó tụng kinh công phu sáng. Sau
nữa chư sư đi khất thực, thức ăn người cư sĩ đã chuẩn bị sẵn sàng
để cúng dường cho chư vị. Khi đi khất thực về, cả thiền viện
đều thọ thực, chư vị được phép dùng hai bửa một ngày. Tất cả thực
phẩm được ăn trước giờ ngọ. Sau buổi ăn, thiền sư có thể giảng
đạo khuyến khích chư vị tu tập. Nghỉ trưa xong, chư vị hành thiền,
học tập hay thực hiện các công việc của tăng đoàn như quay nước
giếng, xây dựng sửa chữa những chỗ cần thiết, sửa hàng rào, quét
dọn, lau chùi. Những công việc này chia đều cho chư sư để
trong suốt một ngày chư vị có thể hành thiền, học tập, và làm
công việc cho tăng đoàn. Thêm nữa, chư tỳ khưu có thể giúp đỡ dạy
học và dạy thiền cho người tại gia cư sĩ. Thiền viện trong
rừng chư vị cũng có thể may vá và nhuộm y của mình. Chư tỳ khưu chấp
nhận những nhu cầu sống trong lối sống tri túc của mình. Cuối cùng vào buổi
tối chư vị trở lại công việc với thiện nam tín nữ như tụng kinh,
hành thiền một giờ hoặc lâu hơn nữa, và thiền sư giải đáp các câu
hỏi và các vấn đề của tăng đoàn đặt ra trong một ngày qua. Sau đó tất
cả đều trở về cốc liêu của mình hay sinh hoạt cá nhân rồi hành
thiền cho đến giờ đi ngủ. Ðiều đó nhấn mạnh rằng tất cả những
sinh hoạt đời sống hàng ngày của tăng đoàn là hành thiền. Khi chính
thức ngồi thực hiện bài tập thiền như thở, hay làm công việc quay
nước giếng, hoặc thực hiện công việc tăng đoàn, người ta chủ
trương làm như vậy bằng chánh niệm và tập trung càng nhiều càng hay.
Ðiểm khác nhau giữa trung tâm thiền tích cực và thiền viện
là việc trình pháp. Ở trung tâm thiền, bằng sự tu tập tích cực,
thiền sư khuyến khích trình pháp mỗi ngày hoặc cách một ngày
đến trình pháp, đôi khi thậm chí nhiều lần hơn cũng được. Hành
giả tiếp xúc với thiền sư để trình lại những tiến trình hành
thiền của mình và nhờ thiền sư động viên khuyến khích nhắc nhở,
tu tập. Bởi vì tu tập tích cực những nơi như thế, đây là khía cạnh quan
trọng của việc tu tập giáo pháp. Trái lại ở thiền viện
việc trình pháp thì hiếm mặc dù các thiền sư thì thường hay cởi
mở cho hành giả để hỏi những vấn đề thắc mắc. Bởi vì ở thiền
viện việc thuyết pháp thì chú trọng hơn việc trình pháp.
Trong thực tế, ở thiền viện người ta cảm nhận được cách sống có
giá trị hơn, khi các thiền sinh và hành giả hiểu được câu trả lời
cho chính mình, liên quan đến hoài nghi của họ, theo dõi tiến trình
hoài nghi và các câu hỏi hiện ra trong tâm họ. Bằng cách này họ
trực tiếp trở về cảm nhận chính mình và học cách giải quyết
các vấn đề của họ được xem như một phần tu tập mà không bị dính
mắc vào công việc trình pháp hàng ngày và cần đến sự hướng dẫn
trực tiếp nơi vị thầy của họ. Một lần nữa chúng ta có thể nhận
ra cả hai phương pháp đối với vị thầy việc trình pháp là những hình
thức có hiệu quả để phát huy con đường tu tập. Sự kiện thích
hợp đó tùy thuộc vào quý vị bắt đầu từ đâu và đang ở đâu.
Những môi trường được làm cho thích hợp như thế ở các trung tâm và
thiền viện mang lại lợi ích khác nhau là gì? Ngoài việc tạo nên
cảnh bề ngoài yên lặng cần thiết cho việc tập trung cao độ, làm
giảm đi sự mâu thuẫn giúp cho chúng ta tránh được sự phóng dật. Chúng ta
phải đương đầu với những tư tưởng và những sự thay đổi của trạng thái
tâm. Sự chú niệm cần được hướng vào nội tâm. Chúng ta khám phá được
nội tâm của mình. Thậm chí ngay cả trong cuộc sống đơn giản của một nhà
sư, người ấy cũng nhận thấy rằng cái thói quen dính mắc vào những môi
trường xung quanh mạnh đến nỗi nó xảy ra liên tục. Ngay cả chỉ có ba
hoặc bốn món vật dụng người đó cũng trở nên dính mắc vào y bát, cho rằng
chúng đẹp hơn hoặc trong một hình thức nào đó chúng tốt hơn những cái
khác. Người ấy sợ đánh mất chúng. Thật là ngạc nhiên để biết
được rằng ngay cả trong đời sống đơn giản nhất, tâm luôn luôn tìm
kiếm những cái mới để dính mắc và tiếp tục quá trình chấp thủ.
Tuy nhiên chỉ qua việc nhìn thấy sự việc một cách rõ ràng người ta
có thể đoạn trừ được nó. Mặc dù các thiền sư là một con số ít so
với hàng ngàn vị sư ở Ðông Nam Á, họ vẫn là những người nổi tiếng
và được kính trọng nhất trong giáo đoàn. Họ được kính trọng
bởi đức hạnh trong sạch và đời sống thánh thiện, và trong những phẩm
chất đó người ta tin rằng họ làm chủ được bản thân mình. Trong cuốn
sách này, hầu như tôi không đề cập đến những sức mạnh đã đạt
được qua thiền định. Ðiều này theo truyền thống thiền ở
những quốc gia Ðông Nam Á được gìn giữ. Ngay cả các vị thiền sư đã
đạt được năng lực cao nhất cũng không đề cập đến năng lực
thiền định hoặc quan tâm đến năng lực huyền bí này. Sự say đắm
những mãnh lực này sẽ đi lạc không phát huy được từ bi và trí tuệ, và
các vị thiền sư này chỉ lưu tâm đến một điều duy nhất:
"Ðường giác ngộ cho tất cả chúng sinh."
Hiện nay những người phương Tây không được phép ở Miến Ðiện
hơn hai tuần là do Lào và Campuchia vẫn còn nhiều biến cố chính trị,
nên hầu hết những người phương Tây muốn tu tập Phật giáo nguyên thủy
phải đi đến Thái Lan. Bây giờ ở Thái Lan có khoảng năm mươi hoặc tám
mươi tỳ khưu người phương Tây. Con số này gấp đôi những năm trước đây.
Ði đến Thái Lan xuất gia cũng có những khó khăn về hộ chiếu,
và Nhà nước Thái Lan yêu cầu người phương Tây sắp xếp thời gian rời
khỏi đây đúng quy định. Và cũng có một vấn đề nữa là bất đồng ngôn
ngữ. Người ta có thể đi đến Miến Ðiện trong một tuần lễ tu
tập thiền ở các thiền viện, nơi đây có nhiều người nói
tiếng Anh, bởi vì Miến Ðiện đã từng là thuộc địa của Anh. Tuy
nhiên ở Thái Lan có ít vị thiền sư nói được tiếng Anh. Người tu
tập thiền phải học tiếng Anh, hoặc ở trung tâm thiền có phiên
dịch, nhưng người phiên dịch thì khó tìm.
Trong thực tế, những người phương Tây thật sự được chư sư
khuyến khích và động viên xuất gia. Những ngôi chùa nổi tiếng nhất,
thời gian đầu, người này học làm chú điệu và rồi xuất gia sa-di,
học giới luật, kinh tụng và oai nghi tế hạnh của nhà sư trước khi
xuất gia.
Ở những trung tâm thiền và thiền viện ở Ðông Nam Á, quý
vị sẽ học được giáo pháp rất rộng rãi; các vị thầy sẵn sàng chia sẻ
toàn bộ triết lý thiền cho bất cứ ai đến cầu học. Ngoài
việc làm lễ xuất gia tỳ khưu thì không còn làm lễ nào khác nữa, không
còn bí mật, không có những nghi thức huyền bí. Mọi việc đều
được phơi bày, ngay thẳng và giản dị. Người ấy được hướng dẫn tu tập
và động viên tuân theo những giới luật. Người phương Tây đến chùa
hoặc trung tâm thiền thường được sự tiếp đãi đặc biệt, bởi vì
người Miến điện và người Thái Lan hết sức hoan hỉ những người
phương Tây đến với Phật giáo và đặc biệt rất hoan hỉ giúp đỡ
những ai muốn đến với giáo pháp. Những người ở đây thường kính
trọng các nhà sư phương Tây, vì họ nhìn người phương Tây theo quan
niệm thiên đàng của họ, vì người phương tây có truyền hình, xe
hơi, tủ lạnh và nhà đẹp. Nếu một ai từ bỏ thiên đụường đó đến
đây sống thật giản dị trong một trung tâm thiền thì đó là một điều
họ rất khâm phục. (Mấy năm sau khi tôi trở thành một nhà sư, tôi thường
nhấn mạnh với dân làng rằng thiên đàng ở phương tây không là tất cả, theo
thực tế nó dường như giống bất cứ thứ hạnh phúc nào đến từ các
cảm giác thì không bao giờ đạt được thỏa mãn tuyệt đối. Nó phát sinh
và biến mất, đến và đi, chẳng bao giờ mang đến sự thỏa mãn của
an lạc và trí tuệ).
Là cư sĩ ở thiền viện hoặc ở trung tâm, quí vị sẽ luôn luôn gìn
giữ bát giới. Các giới này bao gồm không sát sinh, không nói dối, không trộm
cắp, không tà dâm (khi quý vị là thành viên của giáo hội) tránh xa các
chất say, kích thích. Quý vị cũng được yêu cầu không nên sử dụng
tiền, xức dầu thơm, ăn mặc quần áo đẹp, giường cao xa xỉ, và cuối cùng
không ăn quá ngọ. Một hoặc hai buổi ăn sẽ được phục vụ vào buổi sáng
hoặc vào buổi trưa. Các giới luật này nhằm có một cuộc sống giản dị và
tạo cho vẻ bề ngoài đơn giản và hoà đồng với chư tăng và giúp cho
quý vị tiếp tục việc tu tập.
Vấn đề được đặt ra cho mọi người là làm thế nào tìm được
một vị thầy và một trung tâm. Có một câu chuyện trong Phật giáo có
thể giúp cho quý vị hiểu được câu trả lời cho vấn đề này.
Khi đức Phật ngồi ở một khu vườn cùng với các đệ tử bao quanh. Một
người đàn ông đến trước Ngài, bày tỏ sự cung kính, và bắt đầu ca
ngợi tăng già, giáo đoàn chư tăng mà đức Phật đã làm lễ cho xuất gia. Và
sau khi vị này ca tụng tăng già xong, đức Phật chỉ các nhóm tỳ khưu trong
vườn, Ngài ca ngợi giới hạnh của chư vị và nói: "Hãy xem kìa, những
người đó rất thiên về việc tu tập bằng các sức mạnh thần thông và
đã được đại đệ tử của ta Mahà Moggallana kết nạp (Ngài được xem
là một vị có thần thông đệ nhất trong thời kỳ của đức Phật). Và những
người kia do hạnh nguyện đã đưa họ đến tu tập con đường trí
tuệ và đã được đại đệ tử Như Lai Sàriputta tập họp ở đó
(Ngài được xem như là vị có trí tuệ đệ nhất chỉ kém hơn đức
Phật thôi). Và những ai do hạnh nguyện tu tập giới hạnh thì được đại
đệ tử của Như Lai là Upàli qui tụ (Upali là giáo thọ sư về luật
học). Và những ai có khuynh hướng tu tập pháp môn thiền thì quy tựu
với vị chuyên về thiền.
Thậm chí ở thời kỳ của đức Phật, lúc đó có nhiều pháp môn và
nhiều đề mục thiền để tu tập, đến nỗi Ngài dạy: Ai
vốn có tính tầm nhiều, Ngài dạy họ hướng tâm vào tính tầm đó tu
tập. Cho nên chúng ta thấy rằng không có đề mục nào hay hơn đề mục
nào, nhưng đề mục nào tự nhiên nhất, đề mục nào phù hợp với cá
tính của mình và đem đến cho mình sự quân bình và thoải mái nhứt đó
là kết quả của sự tu tập.
Chọn một vị thầy hay trung tâm thiền đòi hỏi phải có nhiều
yếu tố. Một là trực giác. Quý vị có thể gặp một vị thiền sư
và phát sinh một cảm giác, lập tức cảm thấy quan trọng và mình muốn
học thiền với ngài, điều đó là quý vị có nhân duyên rất
lớn với ngài, và phương pháp giảng dạy của ngài sẽ phù hợp cho quý vị.
Nói một cách khác điều này không phải ngẫu nhiên. Trong trường hợp đó,
cách khôn ngoan là tầm nhiều thầy, nhiều trung tâm trong xứ sở này hay
ở châu Á, để xác định môi trường nào, giới luật nào, loại tu tập nào
cảm thấy phù hợp nhất cho quý vị. Hãy tin tưởng vào trái tim và trực
giác riêng của quý vị, như vậy nó cũng cho thấy được kinh nghiệm và
phương pháp mà quý vị đã chọn được từ đó. Quý vị sẽ phải
lựa chọn có nên đi đến một nơi hành thiền được kết hợp
lại thành một lối sống cao cả hơn, và ở đó quý vị có thể trải qua
một thời gian lâu dài, hoặc là đi đến một trung tâm để tu tập tích
cực một thời gian ngắn hạn. Quý vị có muốn tu tập với một vị thầy luôn
bắt buộc tuân theo một số nguyên tắc giới luật nghiêm ngặt hay một vị thầy
quá dễ dãi không?
Ở trung tâm và thiền viện không những có phương pháp và kỷ
luật dạy khác nhau, mà cũng còn có sự khác nhau ở những cá tính và phương
pháp dạy. Về phong cách dạy, theo truyền thống có nói rằng những vị
thầy dạy khác nhau đó chắc hẳn đã đạt tuệ giác. Từ tuệ giác đó,
nên làm nổi bật ba tướng vô thường, khổ não, vô ngã (mặc dù ba tướng có
cùng một tuệ giác), và cho thấy rằng điều đó cũng sẽ ảnh hưởng
đến phương pháp dạy của chư vị. Một số thiền sư đã được chánh
kiến nhờ thể nhập tướng vô ngã (anatta) của các pháp và có năng
khiếu phát huy trí tuệ, liễu ngộ lời dạy của mình. Trong chương cuả
ngài thiền sư Buddhadassa đã áp dụng phương pháp này. Những vị thiền
sư khác đã liễu ngộ chân lý do thể nhập tướng khổ đế và chư
vị có năng khiếu phát huy tinh tấn trong sự tu tập. Ngài thiền sư
Sunlun Sayadaw nhấn mạnh đến phương pháp này. Một ít thiền sư nữa
đã thể nhập pháp nhờ tướng vô thường và người ta nói rằng quý
ngài có khuynh hướng phát huy niềm tin trong sự tu tập. Thiền sư U Ba
Khin là một điển hình cho loại tu tập này. Dĩ nhiên, những đặc tính này
thường không được cho là chân lý, và một vị thiền sư uyên thâm sẽ
nhấn mạnh rằng cái nào thì hữu ích nhất cho mỗi cá tính của hành giả.
Cá tính và phong cách của những vị thiền sư có lẽ không giống nhau.
Thầy của hai vị thiền sư Achaan Maha Boowa và Achaan Chaa là thiền sư
Achaan Mun, ngài là một trong những vị thiền sư người Thái Lan nổi
tiếng nhất của thế kỷ này. Ngài áp dụng nhiều nguyên tắc trong
sự dạy dỗ. Ngài khó chịu, dữ tợn và rất nghiêm khắc với những đệ
tử. Có những vị thiền sư khác như Achaan Jumnien, vị này hết sức từ
bi và cởi mở. Trong hai vị thiền sư trên không vị nào hơn vị nào; sự
khác nhau đơn thuần là nghiệp hay cá tính của vị thầy đó, hay lối tu
tập riêng biệt của thiền sư đó, và cách đó ngài cho là tốt nhất
để dạy đệ tử. Một lần nữa, khi quý vị định một nơi tu tập thì
lúc đó trực giác rất mạnh để quyết định chọn vị thầy nào
đúng hay tốt nhất cho quý vị nương theo tu tập.
Có nhiều phương pháp để vị thầy áp dụng trong việc dạy
dỗ. Phương pháp thứ nhất, vị thầy dạy là qua lòng từ của ngài, và
những ai chấp nhận đi đến với ngài, điều này giúp cho họ có
tình thương và sự hoan hỉ. Ðây là phẩm chất tâm quan trọng để phát
huy trên con đường tu tập. Phương pháp nữa là quân bình hóa tâm tánh. Một
vị thầy bắt buộc hành thiền nghiêm khắc để làm quân bình sự khó
khăn cho đệ tử. Ví dụ người nào có nhiều tâm sân thì ngài dạy tu
tập thiền tâm từ; đối với người nào có tâm tham nhiều, thì
thiền sư dạy đề mục quán tử thi. Thiền sư thấy năng lực và tập
trung của người nào đó không thăng bằng thì ngài dạy người đó phải đi
kinh hành nhiều giờ hay tu tập tích cực để sửa đổi cá tính bất
thường. Hay là ngài nhận thấy niềm tin và trí tuệ của người nào đó
không có quân bình - đến nỗi có lúc nhiều đức tin không có phát
huy được trạch pháp, không có quán chiếu rõ ràng tiến trình thân
tâm. Ðể khôi phục lại sự quân bình đó, thiền sư dùng một câu
chuyện để cho đệ tử của ngài thấy là ngài không nắm được tình
tiết trong câu chuyện, ngài làm giảm bớt đức tin của ngài để cho
đệ tử đặt nghi vấn, phát huy trí tuệ. Toàn bộ sự phát huy tâm linh
là cả quá trình tu tập. Và chức năng của thiền sư là dạy cho học
trò của mình tu tập được sự quân bình.
Mỗi bí quyết khác nhau của mỗi vị thầy là chỉ cho thấy được
sự chấp thủ của chính mình. Khi thiền được phát huy thì tâm trở nên vi
diệu hơn, những chấp thủ xuất phát từ hình thức bên ngoài của tham dục,
của bản chất thô thiển cho đến chấp thủ bên trong nữa như chấp thủ
vào những loại khoái lạc, ánh sáng êm dịu mà có thể đến từ
thiền định. Khi hành thiền mà gặp bất cứ những điều gì đang xảy
ra như trên thì phải đến gặp thiền sư. Ngài sẽ biết chúng ta
dính mắc ở đâu, chúng ta dính mắc vào cái gì, và dạy chúng ta từ bỏ sự
chấp thủ, sẽ dẫn đến sự giác ngộ. Có thể dạy sự không chấp thủ
bằng cách kể những câu chuyện, thay đổi phương pháp hành thiền,
hoặc thậm chí ở phương pháp thiền tông là đánh hành giả ngay giây phút
đó. Tuy nhiên trong tất cả những phương pháp dạy, hành giả là người đóng
vai trò chính trong việc tu tập. Vị thầy chỉ là người hỗ trợ hành
giả đi đúng con đường và giữ cho quân bình.
Ðiều quan trọng là không vội đánh giá một vị thầy hay trung tâm
thiền với vẻ bên ngoài. Ðó là kinh nghiệm của tôi khi lần đầu tiên
đến một tu viện rất nghiêm khắc và có giới luật. Thiền sư Achaan
Chaa rất khó tính, nghiêm khắc và sâu sắc, tiêu biểu cho nhà sư có một
cuộc sống giản dị. Rồi khi tôi đến chùa Miến Ðiện với một vị
hoàn toàn khác biệt, vị này có hàng ngàn đệ tử trước khi tôi
đến; tuy vậy tôi gặp gỡ ông ta với một dáng vẻ lè phè, y áo của ngài
kéo lê thê trên đất, lại hút xì gà Miến Ðiện, và dành nhiều
thì giờ tiếp xúc với phụ nữ trong chùa không đúng theo phong cách của
nhà sư, không giống như vị thầy cũ của tôi. Ðôi lúc ngài giận dữ và quan
tâm đến những việc nhỏ nhặt. Trong hai tháng đầu tiên trong việc
tu tập tích cực ở đó, tôi hết sức khổ tâm trong việc so sánh giữa
hai vị thầy này. Vị thầy Miến Ðiện rất tử tế với tôi cho tôi
một cái cốc đẹp nhất ở gần cái cốc của ngài, kết quả hàng ngày tôi
phải trông thấy ngài hút thuốc và ngồi nói chuyện với phụ nữ. Tôi gặp
khủng hoảng trong sự tu tập. Tôi tự nhủ: "Tôi đang học được gì nơi
người này?" Trong lúc tôi đang ra sức tu tập thiền định thì ngài ở
ngoài kia lại có những hành động như vậy, ngài chẳng dạy tôi được
điều gì. Tại sao ngài không sống theo như thiền sư Achaan Chaa đã
thực hiện? Tôi phải mất nhiều tháng để nhận thấy rằng vẻ bề
ngoài của ngài đã không làm giảm đi những giá trị mà tôi đã đạt được
từ thiền định. Và do đó, để đánh giá và so sánh vẻ bề ngoài,
để tìm kiếm một vị thầy trong Phật giáo nó chỉ đơn thuần làm cho
tôi phiền não. Khi tâm phân biệt thì tạo nên đau khổ. Cuối cùng khi
tôi từ bỏ được, tôi đạt được những sự lợi ích to tát từ việc dạy
và hướng dẫn của ngài, và ngài là vị thầy tốt của phương pháp thiền
định này. (và thiền định không hữu ích khi tôi bỏ ngài). Ðiều đó
mang lại nhiều đau khổ mới hiểu được làm cách nào phân biệt tâm
gây ra những phiền muộn; nhưng khi đạt được tôi không bỏ ngài được.
Nhiều người theo Phật giáo nguyên thủy (và thực ra trong mọi
truyền thống tu tập) trở nên cố chấp trong sự phê bình và so sánh những
phương pháp thầy dạy. Phương pháp và thầy của họ thì tốt nhất, phương
pháp trong sạch hay truyền thống cao thượng. Loại phân biệt này đưa
con người ta đến một thế giới bằng những khái niệm thiện và
ác. Ðây là thiện đó là ác. Tà kiến này là nguyên nhân gây ra
nhiều lo sợ và nhiều đau khổ.
Không có điều nào thiện hay ác trên đời. Ðiều ác chỉ có
trong tâm của chúng ta, trạng thái đau khổ là do tham, sân, si, và để cho
tâm trong sạch hoàn toàn không còn hành động ác hiện hữu nữa, mà cũng
không thể như vậy một cái tâm bị phóng túng lay chuyển là do bởi sanh
diệt của hiện tượng - vì nhìn thế gian bằng trí tuệ, vô ngã,
không có cái tôi. Một cách tương tự, những ai dính mắc hay đòi hỏi có một
nền tảng hoặc đi theo truyền thống "nguyên thủy" và giáo phái
nguyên thủy có thể đôi khi đưa người ta đến chỗ hiểu sai
lệch giáo lý căn bản của đức Phật. Sự trong sạch không có trong phạm
vi một truyền thống tôn giáo nào. Chỉ có một sự trong sạch căn bản mà
đức Phật dạy trong sạch là sự giải thoát, và đó là tâm trong sạch giải
thoát khỏi tham, sân, si. Ngoài sự trong sạch nội tâm này, lại còn đòi hỏi
khéo tác ý đến sự trong sạch nếu không sẽ gia tăng sự dính mắc
và sự phân biệt. Ðiều cốt lõi của sự tu tập là để đoạn trừ
tất cả sự dính mắc và lòng ích kỉ. Hãy sử dụng một hay tất cả phương
pháp này cho tốt đẹp, nhưng đừng trở nên cố chấp vào phương tiện hay
vị thầy đã làm sai lệch những phương tiện đó đối với chân lý
của đức Phật. Hãy thực hành siêng năng và bỏ lại tất cả sự trói buộc
đó, đừng chấp nhận cái gì ngoại trừ giải thoát bản thân của quý vị.
Khi quý vị liên tục hành thiền, sự thực hành sẽ trở thành
điểm nương tựa. Trước khi đức Phật viên tịch, ngài khuyên chư đệ
tử hãy tuân theo giáo pháp chứ đừng tin theo bất cứ truyền thống nào.
Ngài không phân công ai lãnh đạo tăng đoàn tỳ khưu, tỳ khưu ni nào cả.
Chánh pháp là thầy của chư vị. Vì vậy đối với chúng ta không có niềm
tin mù mờ trong đạo Phật. Ðơn giản là chúng ta đủ tin tưởng khả năng giác
ngộ và đủ có trí tuệ để thấy đau khổ trong cuộc sống của mình
để có niềm tin tu tập. Và trong thực hành, chúng ta tự thấy chơn
lý. Ðức Phật sách tấn mọi người bằng những lời "Hãy
tự mình là ngọn đèn, hãy tự mình là một ánh sáng".
Bằng sự tu tập này sẽ đi đến sự giải thoát.