|
Những vị Thiền sư đương thời (Living Buddhist Masters,
Jack Kornfield)
Tỳ kheo Thiện Minh dịch Việt, Sài Gòn, 1999
 |
Chương VIIThiền sư Achaan Buddhadasa
|
Có lẽ ngài Achaan Buddhadàsa là một
vị pháp sư nổi tiếng tại Thái Lan đương thời. Hơn nữa ngài là một
học giả vĩ đại theo truyền thống kinh điển của Phật giáo, ngài
đã học nhiều lãnh vực khác nhau. Ngài đã viết nhiều sách
thiền bằng tiếng Anh và tiếng Thái, giáo lý có so sánh và áp
dụng chánh pháp cho đời sống hàng ngày. Trong một bài kinh bao quát,
Anàpanasati - nhập tức xuất niệm - thiền sư Buddhadasa trình bày tỉ mỉ
phương pháp thực hành hơi thở chánh niệm đều đặn từ giai đoạn ban
đầu cho đến sự giác ngộ cuối cùng. Mặc dù đây là phương pháp chủ
yếu cho sự tu tập riêng của ngài, nhưng lúc nào ngài cũng thiên về
những điều này hơn để hướng dẫn theo một lối tu tập rất cởi mở,
sử dụng pháp thiền như là một phương tiện để tiếp cận
mỗi sinh hoạt trong đời sống. Ngài là bậc thầy chung cho tất cả. Người
nhấn mạnh rằng trái tim hay chân lý của các tôn giáo thì giống nhau, tự
do vay mượn các hình ảnh và các phương pháp của lời dạy từ tất cả các
truyền thống khác nhau. Nhờ đa pháp môn của ngài và những lời dạy đơn
giản cao quý, thiền sư Buddhadàsa đã trở nên có một tiếng nói
lãnh đạo ở Phật giáo Thái Lan, từ nghi lễ đơn giản cho đến một sự
hiểu biết là làm thế nào cho sự an lạc phát sinh từ lòng không cố
chấp.
Ði vào chùa Suan Moke (vườn hoa giác ngộ), ta sẽ bắt gặp một pháp môn
thiền giống như cảm giác an lạc và hài hòa với thiên nhiên. Suan Moke là
một ngôi chùa thiền dành cho một số chư ni và ba mươi đến năm mươi
chư tăng trú ngụ cùng với một trung tâm dành cho những du khách cư sĩ. Từ
đầu đến cuối, nó được bao bọc bởi một vẻ đẹp hào phóng, có ao
hồ tĩnh mịch và đất rừng của miền Nam nước Thái, lăn mình theo đồi
núi với những cốc liêu rải rác khắp nơi. Thiền sư Achaan Buddhadàsa đã
xây dựng một "Viện Bảo tàng" lớn, viện này dành để
trưng bày Phật pháp nhờ nghệ thuật tranh ảnh và nghệ thuật điêu khắc
từ những nước Phật giáo khác nhau và cũng như từ những tôn giáo khác nữa.
Một số những tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng nhứt ở viện bảo tàng
là do một người phương Tây thực hiện, theo truyền thống của người
Nhật Bản và sau đó ông đã qua đời trong khi ông hành thiền trong một
hang động trên bờ biển của miền nam nước Thái. Người ta tìm thấy
trong những bức tường hang động và cuốn sổ ghi chép của ngài, có nhiều
bức tranh thanh tú và những lời ghi chú nói lên niềm vui giải thoát.
Ði đến sống với thiền sư Buddhadàsa, người ta sẽ được tự do
để thực tập nhiều pháp môn khác nhau. Người ta có thể ngồi một
mình và theo dõi hơi thở chánh niệm đều đặn như là tu tập bình
thường có tập trung, hay học tập kinh điển dưới sự hướng dẫn của
ngài. Hầu hết chư tăng và chư ni sống ở Suan Moke tu tập một phương pháp
thiền trong khi làm việc ở những công trình khác nhau xung quanh tu
viện. Ðây là mục tiêu chính theo lời dạy của thiền sư Buddhadàsa -
phương pháp thiền tự nhiên - được thực hiện qua những hoạt động
hàng ngày. Mặc dù thiền sư Buddhadàsa không phản đối những phương pháp
thiền tích cực do những vị thiền sư của Phật giáo nguyên thủy cổ
xúy, có thể dẫn đến tuệ giác và giác ngộ, ngài cảnh giác chúng
ta về những nguy hiểm của sự chấp thủ với bất cứ phương pháp tu tập
theo nghi thức nào hoặc bất cứ trạng thái đặc biệt nào của tâm.
Trong việc cổ xúy một phương pháp phát huy tự nhiên của tuệ giác,
ngài Buddhadàsa không tự cho mình là một thiền sư, ngài hướng dẫn cho kẻ
khác tu tập như là một người bạn tốt, người đem lại một lối sống thích
hợp và một vài lời khuyên hay về một phương pháp, giúp cho việc phát
triển tự nhiên của tuệ giác. Một phần lớn phương pháp tự nhiên của
ngài là cổ vũ mọi người thấy rõ bất cứ sự ham muốn nào đều dẫn
đến sự đau khổ. Thiền mang lại sự đoạn trừ tà kiến. Hơn thế
nữa, chúng ta sẽ nhận thấy được sự vô ích trong việc tìm kiếm hạnh
phúc cá nhân, trong một thế giới thường xuyên thay đổi ở xung quanh chúng
ta và nhận chân được sự an lạc của tâm mà không cần phải nỗ lực tìm
kiếm. Con đường tự nhiên rộng mở này của giới, tâm thanh tịnh và hỉ xả
là phương pháp của ngài, giúp tiếp cận với giáo pháp. Nó rất trong
sáng, giản dị và không huyền hoặc, dẫn đến sự an vui của trí tuệ
và chấm dứt khổ đau.
Ngài Buddhadàsa nói tiếng Anh rất giỏi và có nhiều đệ tử
người phương Tây theo học với thiền sư. Ngài nhận được nhiều
sự viếng thăm của du khách. Ngài bao dung và độ lượng. Ðể tìm
hiểu thêm về thiền sư Buddhadàsa chúng ta có thể tìm đọc
quyển "Con đường đến chân lý" (Toward The Truth), một cuốn
sách do Donald Swearer biên soạn và nhà xuất bản Westminster Press phát hành.
Phương pháp tự nhiên để phát huy
Tuệ giác
do Thiền
sư Achaan Buddhadàsa giảng
Trong cuộc thảo
luận này, chúng ta sẽ tìm hiểu làm cách nào để đi đến sự tập
trung một cách tự nhiên và một mặt khác nữa đạt được kết quả của sự
tu tập có hệ thống. Kết quả cuối cùng là sự giống nhau ở cả hai
trường hợp: tâm được tập trung và thích hợp để thực hiện sự tỉnh
tâm sâu sắc. Tuy nhiên có một điều chúng ta cần phải lưu ý: sự tập
trung cao độ thì cần thiết và thích hợp cho việc tỉnh tâm và tuệ
giác, trong lúc đó sự tập trung đạt được từ một sự tu tập có hệ
thống thì thường thường quá độ, hơn là tu tập theo phương pháp tự nhiên.
Hơn thế nữa sự tập trung cao độ có thể dẫn đến một sự thỏa mãn
sai lầm. Trong khi tâm được tập trung quá mức nó có thể xảy ra sự cảm
nhận một thứ hạnh phúc giống như trên và hành giả có thể bị dính mắc
vào nó, hoặc tưởng tượng nó là kết quả của con đường đạt được quả
vị Níp-bàn. Sựĩ tập trung xảy ra tự nhiên, thì vừa đủ và thích hợp cho
việc tỉnh tâm, không nguy hại, không gặp phải những bất lợi thường xuyên
xảy ra trong việc tu tập bằng những phương pháp tu tích cực.
Trong kinh điển, có vô số điều để tham khảo giúp người ta
đạt được những giai đoạn giác ngộ một cách tự nhiên. Ðiều này đã
thường xuyên xảy ra trong thời Phật còn tại thế, nhưng nó cũng xảy ra
với các vị thầy khác sau này. Những người này không đi vào trong rừng ngồi
để tu tập, mà thực hành tập trung tinh tấn trên những đề mục nào
đó, hình thức này được mô tả trong những lời hướng dẫn sau đây.
Rõ ràng rằng khi năm vị đệ tử đầu tiên của đức Phật nghe thời pháp
về vô ngã hoặc hàng ngàn vị đạo sĩ nghe bài pháp về lửa đã đạt
đến sự giác ngộ hoàn toàn mà không ai liên quan đến sự nỗ lực
có chuẩn bị. Trong những trường hợp này, sự thể nhập tuệ giác sâu
sắc đã diễn ra một cách hoàn toàn tự nhiên. Những ví dụ điển hình này
cho thấy rõ ràng rằng sự tập trung tự nhiên thì có thể phát huy một cách
tự nhiên trong lúc một người cố tìm hiểu rõ ràng một vài vấn đề,
và tuệ giác có được hết sức sâu sắc và vững chải miễn là nó
được thiết lập kiên cố. Nó xảy ra một cách tự nhiên, tự động, và
giống như tâm được tập trung ngay khi chúng ta sắp sửa làm bài toán. Giống
như khi bắn súng, chúng ta nhắm mục tiêu, tâm tự động tập trung và vững
vàng. Ðây là sự tập trung xảy ra một cách tự nhiên là thế đó. Thông
thường chúng ta theo dõi nó một cách cẩn trọng bởi vì nó không xuất
hiện một cách huyền hoặc, kỳ diệu hoặc kinh hoàng. Nhưng qua sức
mạnh của sự tập trung một cách tự nhiên như thế này, trên thực tế,
hầu hết mọi người chúng ta có thể đạt được sự giải thoát.
Chúng ta có thể đạt được quả giải thoát, Níp-bàn, và sự giác ngộ
hoàn toàn, chỉ bằng những phương pháp tập trung tự nhiên.
Tuy nhiên chúng ta đừng quá quan tâm đến sự tập trung xảy ra một cách
tự nhiên này. Nó là một điều gì đó mà hầu hết chúng ta đã có
sẳn hoặc phát huy một cách dễ dàng. Chúng ta có thể sử dụng nó như hầu
hết những người xưa đã thành công trong việc đi đến giác ngộ ,
trong lúc đó họ hoàn toàn không biết gì những kĩ thuật tập trung
hiện đại.
Bây giờ chúng ta cần có một cái nhìn về bản chất của những giai đoạn
nhận thức của nội tâm dẫn đến tuệ giác đầy đủ của
"thân", đó là đi vào năm uẩn. Giai đoạn đầu là hỉ lạc. Làm một
vài điều tốt nào đó, ngay cả việc bố thí (được xem là hình thức
cơ bản nhứt của việc tạo phước thiện),có thể là một nguồn vui.
Cao hơn nữa là giới hạnh, mang lại nguồn vui cao quý hơn. Vượt xa hơn
giới hạnh là niềm vui của định. Chúng ta khám phá ra rằng có những sự
thỏa thích kỳ diệu hơn, đi liền theo với những giai đoạn thấp nhứt
của sự tập trung.
Khi hỉ lạc được phát huy, nó có một năng lực để dẫn đến sự an
tịnh. Thông thường tâm luôn luôn bị dao động, liên tục bị các ý tưởng
khống chế và những tình cảm bị lôi cuốn bởi những điều quyến rũ
bên ngoài. Nó thường dao động, không yên ổn. Nhưng khi hỉ lạc trở nên vững
chắc an lạc và kiên cố, sẽ liên kết để gia tăng sự cân xứng. Khi
người ta có một sự quyết tâm hoàn toàn thì sẽ đạt được sự tập trung
đầy đủ. Tâm người ấy trở nên vắng lặng, vững chắc, dễ điều
khiển, dễ sử dụng, sáng sủa và thoải mái. Bây giờ nó sẵn sàng sử dụng
cho bất cứ mục đích hoặc ước muốn nào, đặc biệt là cho việc loại
trừ những phiền não.
Sự phát sanh hỉ lạc và an tịnh này không có được với người có tâm
nghiêm khắc và lạnh lùng như đá. Thân tâm phải bình thường, đặc biệt
là tâm phải an tịnh và thích nghi, vào việc suy niệm và tỉnh tâm. Tâm
phải hoàn toàn trong sạch, mát mẻ, tĩnh lặng và không dao động. Nói một
cách khác, nó phải phù hợp với công việc, sẵn sàng để nhận
biết. Ðây là mức độ cần được đặt mục tiêu, đừng có tập trung quá
độ chai cứng như tượng đá, hoàn toàn thiếu đi sự nhận thức. Ngồi tập
trung quá độ như thế, người ấy không thể khám phá được bất cứ
điều gì. Một tâm tập trung quá độ không thể thực hành được sự an
tỉnh chút nào. Nó ở trong trạng thái không nhận thức và không sử dụng
để phát huy tuệ giác được. Sự tập trung quá độ là một trở ngại
lớn cho việc tu tập thiền quán. Ðể tu tập cho tâm an tỉnh, trước
tiên người ta phải trở về ở những mức độ tập trung thấp nhứt; rồi dần
dần dùng năng lực của tâm để đạt đến sự tập trung cao hơn. Thay vì
tập trung quá mức, chúng ta nhắm vào một tâm vững chắc và an tịnh, một
người quen thuộc với công việc như thế khi áp dụng vào việc tu
tập thiền quán, người ấy có được chánh kiến đối với tất cả chúng
sinh. Tuệ giác được phát huy như thế là một tuệ giác tự nhiên,
nó giống như những người đạt được tuệ giác trong lúc ngồi nghe pháp
của đức Phật. Nó dẫn đến ý tưởng và sự tỉnh tâm chơn chánh, sự
chơn chánh đó mang lại sự hiểu biết. Và nó cũng không liên hệ
đến những nghi thức hoặc những điều kỳ lạ.
Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là tuệ giác sẽ phát sanh ngay
lập tức. Người ta không có thể đạt được sự giác ngộ đầy đủ ngay
lập tức. Tuệ đầu tiên có thể xảy đến bất kỳ lúc nào, nhưng
tùy thuộc cả sức mạnh tập trung và nó được áp dụng như thế nào. Nhờ
tập trung, nhận biết trong sáng, những gì tuệ giác phát sinh hành giả
kinh nghiệm qua khá ly kỳ, sâu sắc. Nếu tuệ đã tu tập thì đó là
chánh tuệ, nó phù hợp với kinh nghiệm trực tiếp với thực tại, và
khi thực hành sâu sắc hơn nó sẽ tiến bộ nữa, chủ yếu là phát huy
chánh kiến về mọi hiện tượng. Dù là tuệ giác tu tập ở
một mức độ thấp, nhưng nó có thể hoán chuyển một người thành bậc
thánh ở giai đoạn thấp nhứt; hoặc là, nếu nó không có khả năng làm như
vậy, thì nó có khả năng xây dựng người ấy có tâm hồn cao thượng, phẩm
chất đạo đức tốt. Nếu hoàn cảnh thuận lợi và các đặc tính thích
đáng của tâm đã được thiết lập đầy đủ, hành giả sẽ giác ngộ hoàn
toàn. Tất cả đều tùy thuộc vào những hoàn cảnh. Tuy nhiên, xa hơn nữa,
miễn là tâm có sự tập trung tự nhiên, yếu tố này gọi là tuệ
giác phát sanh và tương ưng nhiều hay ít gần gũi với thực tại. Nếu
chúng ta là những hành giả biết lắng nghe, suy gẫm và học tập về
thế giới, thân và tâm, hoặc năm uẩn một cách thành thật, thì hy vọng
chúng ta sẽ hiểu rõ bản chất thật của chúng, từ đó suy ra tuệ giác
chúng ta đạt được trong trạng thái an tịnh và tập trung sẽ không bị lầm
lạc. Ðiều đó được thừa nhận là luôn luôn có hữu ích.
Sự biểu hiện "Tuệ giác vào bản chất thật của các sự
vật" liên quan với sự nhận biết về vô thường, khổ não, vô ngã,
thấy rằng không có cái gì trên đời này xứng đáng và tồn tại lâu dài,
nhận biết rằng không có bất cứ sự vật gì mà người ta phải dính mắc và
cố chấp vào như là một bản ngã hay là thuộc về cái tôi hay là thiện
ác, hấp dẫn hay ghê sợ. Thích hoặc không thích bất cứ điều gì, thậm
chí nó chỉ là một ý tưởng hay một nỗi nhớ, là một điều dính
mắc. Ðể nói rằng chẳng có cái gì đáng giá cả hoặc hiện hữu cũng
giống như người ta nói rằng chẳng có cái gì để chấp thủ cả. "Sở
hữu" đề cập đến tài sản địa vị, giàu sang hoặc bất cứ
điều gì mà con người thỏa thích. "Hiện hữu" đề cập
đến sự chấp thủ về nhận thức bản ngã của con người, dính mắc vào
chỗ tình trạng vợ chồng, giàu nghèo, được thua hoặc con người, hoặc
thậâm chí bản ngã hiện hữu. Nếu ta nhìn sâu sắc về sự việc
này, thậm chí ngay cả bản thân thì chẳng có gì vui vẻ, mà chỉ là một
điều buồn chán, bởi vì khi muốn đạt được cái gì đó chính là nguyên
nhân của đau khổ.
Nếu một người hoàn toàn có thể từ bỏ mọi chấp thủ về
ý niệm bản thân, bất cứ bản ngã nào, thì người ấy sẽ không còn
đau khổ nữa. Ðây là điều để nhận biết rằng hiện hữu chẳng
có gì đáng giá cả và thực chất của lời nói đó là chẳng có gì tồn tại,
chẳng có gì quan trọng, bị trói buộc là điều đau khổ ở một khía
cạnh nào đó phù hợp với tình trạng hiện hữu đó. Khi còn tồn tại bản
ngã, thì có nhiều điều bị trói buộc hơn chính bản ngã nữa và
người ta phải phụ thuộc vào nó. Như vậy khi một người có con, có vợ, có
cái này, cái nọ và những thứ khác. Rồi người ấy phải có bổn phận làm
chồng hoặc làm vợ, chủ hoặc tớ và . . .không có những tình trạng hiện
hữu như thế để bảo vệ thì sẽ không có sự dấn thân tranh đấu.
Sự phiền toái và đấu tranh để duy trì sự sống chỉ là kết quả
của sự mù quáng với những điều trên.
Nếu chúng ta buông xuôi mọi việc, thì làm thế nào chúng ta
có thể tiếp tục tồn tại? Ðây là nguyên nhân chính bị trói buộc bởi
chủ nghĩa hoài nghi cho bất cứ ai không có suy nghĩ vấn đề sâu sắc.
Những từ ''sở hưũ'' và ''hiện hữu'' được dựa trên tâm phiền não,
ái dục, ý tưởng về ''sự việc xứng đáng sống'', ''xứng đáng sở
hữu'', khơi gợi tâm để ''ham muốn'' và ''hiện hưũ'' trong sự thành
đạt thật sự trong tương lai. Ðiều này bị trói buộc để dẫn đến
sự buồn bã, lo âu, chán nản, bực bội hoặc ít nhứt dẫn đến sự lo nghĩ
trong tâm. Biết được chân lí này, chúng ta phải luôn luôn cảnh giác,
theo dõi tâm để biết rằng nó không làm nô lệ cho ''sở hữu và
hiện hữu'' do bởi ảnh hưởng của sự chấp thủ. Chúng ta phải đủ thông
minh để tránh xa những ảnh hưởng bất thiện này.
Tuy vậy, nếu chúng ta chưa có lập trường để từ bỏ hoàn toàn
ý tưởng hiện hữu, chúng ta phải chánh niệm và tỉnh giác, để
khi chúng ta đạt được điều gì khi chúng ta từ bỏ nó mà không bị dính
mắc, và không bị khó chịu.
Con người và vạn vật luôn có đặc tính vô thường, khổ não, vô ngã. Bất
cứ ai khi bị dính mắc vào bất cứ điều gì sẽ bị điều đó làm đau
đớn - ngay lúc ban đầu khi người đó ham muốn đạt được nó hoặc thành tựu
nó. Trong quá trình muốn đạt được điều mơ ước hoặc muốn thành tựu
điều mơ ước, và sau đó người ấy đạt được điều mơ ước hoặc
thành tựu ước nguyện. Tất cả mọi lúc, trước đó, trong khi và sau
đó nếu ai bị dính mắc, người ấy sẽ bị sự dính mắc này trói buộc như
sợi dây xích và nhận lấy vô số khổ đau, những gì anh ta dính mắc sẽ đưa
đến cái chết. Thậm chí điều đó giống như việc thiện, mà
mọi người đánh giá cao về nó. Nếu bất cứ ai làm điều
thiện mà còn dính mắc và chấp thủ, người ấy sẽ nhận nhiều đau khổ
như là anh ta làm điều xấu. Khi làm điều tốt, chúng ta phải ghi nhớ
điều này trong tâm và hãy cẩn thận để thực hiện ngay cả những
hành động tốt để không bị dính mắc vào.
Một người theo chủ nghĩa hoài nghi có thể hỏi: "Nếu không có
gì xứng đáng để đạt được thì có ai muốn làm hoặc xây dựng sự giàu
sang, địa vị và tài sản". Bất cứ ai hiểu biết được điều
này, đều nhận thấy rằng một người có chánh kiến và trí tuệ,
thì hiển nhiên có một lập trường tốt đẹp hơn để thực hiện
những công việc cần được làm trong thế giới này hơn là những người
ngu si và thiếu hiểu biết chỉ ham muốn những tham vọng tầm
thường. Chúng ta hẳn nhiên phải làm việc và hoạt động trong thế giới
này, nhưng để khỏi dính mắc vào những vấn đề như vậy chúng ta phải
thực hiện công việc hết sức chánh niệm, những hành động chúng
ta không bị kích động bởi tham dục. Và rồi chúng ta có thể để
kết quả công việc của chúng ta được trôi chảy ra khỏi thế giới
nội tâm một cách tự nhiên và thanh thản. Ðức Phật và các vị đại đệ
tử đã hoàn toàn thoát khỏi sự ham muốn, tuy vậy vẫn tiếp tục làm
nhiều công việc hữu ích hơn bất cứ ai trong chúng ta. Nếu chúng ta
xem kỷ những công việc mà đức Phật đã làm một ngày như thế
nào, chúng ta nhận thấy rằng ngài chỉ ngủ bốn giờ và dành toàn bộ thời gian
còn lại cho công việc. Chúng ta dành nhiều hơn bốn giờ trong một ngày
chỉ để vui chơi.
Nếu những phiền não vì tham dục cần phải đoạn trừ hoàn toàn thì
những sức mạnh nào đã thúc đẩy đức Phật và các đệ tử của ngài?
Chính trí tuệ đi cùng với lòng từ bi. Thậm chí những hành động dựa
trên những bản chất tham muốn tự nhiên chẳng hạn như nhận và ăn những thức
ăn để bát, đã được thực hiện bởi trí tuệ. Chư vị thoát khỏi
phiền não, ham muốn để tiếp tục sống để đạt được điều
này hoặc điều nọ; nhưng chư vị có khả năng để phân biệt
giữa những gì xứng đáng và những gì không xứng đáng là động lực thúc
đẩy thân chư vị đi ra ngoài tìm thực phẩm? Nếu chư vị tìm thấy thực
phẩm, thì tốt thôi, còn nếu không thì chẳng bận tâm. Khi chư vị bị cơn
sốt hành hạ, chư vị biết cách chế ngự nó và việc làm như
thế cũng có thể dựa trên căn bản sự hiểu biết này. Nhưng
nếu cơn sốt quá mạnh, chư vị nghĩ rằng chết là một điều tự
nhiên và lúc đó thân không còn kiểm soát được. Dù chết hoặc sống
điều đó không quan trọng với họ. Trong cách nhìn của họ hai
sự kiện này đều có giá trị tương đương. Chư vị không còn ham
muốn nữa.
Nếu một người hoàn toàn thoát khỏi đau khổ, đây là quan điểm
tốt nhứt mà họ đã đạt được. Không cần có suy nghĩ gì về bản ngã
là người chủ của bản thân; chỉ có trí tuệ mới có thể giúp thân
xác tiếp tục nhiệm vụ theo sức mạnh tự nhiên của nó. Chính trí
tuệ này đã giúp cho thân và tâm được thanh thản để tiếp tục
nhận thấy rõ mà không bị dính mắc hoặc ham muốn. Hình tượng của đức Phật
cho thấy rằng sức mạnh của trí tuệ trong sạch và thiện ý sẽ đủ
để tiếp tục làm một người thoát khỏi ham muốn sống trong thế
giới và làm được những điều tốt đẹp hơn những người vẫn còn lòng
ham muốn. Những người bất thiện thì làm những gì có lợi cho họ bởi
vì họ hành động theo sự ích kỷ. Ngược lại hành động của những vị
giác ngộ thì hoàn toàn vô tư và thật trong sạch.
Khi một người phàm tục nghe rằng, chẳng có gì xứng đáng để đạt
được hoặc thành tựu, nếu người ấy không được thuyết phục thì
người ấy sẽ không tin. Nhưng khi một người hiểu đúng ý nghĩa của
câu nói người ấy, sẽ cổ vũ và tin theo. Tâm người ấy làm chủ các vấn
đề và không bị chúng ràng buộc. Người ấy có khả năng thực hiện
bất cứ công việc nào một cách chắc chắn bằng sự hiểu biết rằng
anh ta không làm nô lệ cho nó. Lý do một người thường không thực
hiện công việc của mình một cách hoàn hảo, đó là anh ta luôn luôn
quá quan tâm để đạt một điều gì, và thành tựu được cái gì,
những vấn đề này luôn luôn bị thúc đẩy bởi lòng ham muốn của anh ta. Do
vậy anh ta không làm chủ được bản thân, và không thể tốt hoàn toàn,
trung thực và công bằng. Trong mọi trường hợp bị thất bại hoặc đổ vỡ,
nguyên nhân chính là sự nô lệ.
Ðể đi đến sự hiểu biết bản chất thực sự của vạn vật là
mục đích chân chánh của người Phật tử. Ðây là phương tiện giúp chúng
ta có thể tự giải thoát. Chúng ta không đặt hy vọng về những lợi
ích tầm thường giàu có, địa vị và danh tiếng - hoặc lợi ích cho
kiếp sau chẳng hạn như cõi trời hoặc lợi ích Níp-bàn - đạo quả giải
thoát - điều duy nhứt để đạt được nó là chánh kiến và tuệ
giác. Chúng ta nỗ lực tu tập thiền quán. Ở một số sách khác,
người ta nói rằng chúng ta chỉ thanh lọc tâm qua phương pháp thiền
quán ngoài ra không còn có phương pháp nào khác. Con đường đi đến
giải thoát của ta nằm trong thiền quán, nhận thức rõ ràng, chẳng có
điều gì có giá trị trong thế giới này. Chúng ta có mọi thứ và
những thứ đó chỉ là những tên gọi tầm thường, tục đế. Thông
thường chúng ta nói mình là thế này, thế nọ hoặc như vầy, bởi
vì trong bất cứ xã hội nào, đó là điều thiết thực để chứng
minh danh tánh và nghề nghiệp. Nhưng chúng ta đừng tin rằng chúng ta
thực sự thế này thế nọ; nó được gán vào theo mức độ tục
đế. Làm như vậy là cư xử giống như con dế, khi mặt chúng phủ đầy
bụi, mất phương hướng và rối trí, đá lẫn nhau cho đến khi chết.
Chúng ta là con người khi mặt chúng ta phủ đầy bụi, khi chúng ta chỉ
hướng đến những điều ham muốn và si mê, trở nên hoang mang và mất
phương hướng, đến nỗi chúng ta hành động khác đi, đối với những
gì chúng ta muốn. Vì vậy chúng ta đừng chấp thủ mù quáng với tục đế
vì đó là điều cơ bản cho một sự giao dịch trong một xã hội chứ không
là gì cả. Chúng ta phải nhận biết thân tâm thực sự là gì, bản chất
thực sự là gì. Ðặc biệt chúng ta nhận thức về sự vô thường, khổ
não, vô ngã của nó, và chúng ta phải luôn luôn chắc rằng mình không chấp
thủ vào nó.
Ðối với sự giàu sang, địa vị và v. v. .mà chúng ta cảm thấy không
thể làm thì không được, vậy chúng ta hãy xem nó như là điều tục
đế để chúng ta thoát khỏi những lời nói tầm thường, "Cái này
là như thế này. Cái này là như thế kia". Luật pháp sẽ bảo đảm
quyền sở hữu của chúng ta; chúng ta không cần phải dính mắc vào ý
tưởng của "tôi". Chúng ta phải có mọi thứ một cách trong sạch
và giản dị vì sự tiện nghi và thoải mái, chúng ta có thể làm chủ
tâm của mình. Khi chúng ta có sự hiểu biết rõ ràng này, mọi vật
sẽ là những người phục vụ và những người nô lệ cho chúng ta và chúng
ta sử dụng nó hơn là nó sử dụng chúng ta. Nếu tư tưởng của chúng ta
theo con đường chấp thủ, chúng ta sẽ mang ý tưởng có cái này có cái
kia, bám víu sâu xa vào những ý tưởng này, thì vật chất sẽ sai sử ta.
Chúng ta dành quảng đời của ta để cố gắng đạt được những thứ đó và
lo sợ việc mất mát tư hữu, danh vọng, giàu sang hoặc bất cứ điều
gì, và chúng ta sẽ làm đầy tớ và nô lệ cho chúng, dưới sự kiểm
soát của chúng. Cái bàn có thể dời đổi theo cách này hoặc cách khác,
nhưng chúng ta phải cẩn thận. Chúng ta phải sắp xếp mọi việc có
phương pháp để chúng ta tin chắc là giữ được sự thanh thản trong
mọi công việc. Nếu không giữ được sự thanh thản chúng ta sẽ có
một cuộc sống không giá trị khi đó những gì mà chúng ta bị dính mắc sẽ
dẫn đến cái chết, bởi vì mọi sự việc đều phải như vậy.
Khi mà chúng ta nhận thức rõ rằng không có cái gì đáng để đạt
được hay thành tựu, sự thoát ly tốt đẹp với thế gian phát huy cân xứng
bằng sức mạnh của tuệ giác. Ðây là dấu hiệu mà sự dính mắc trở
nên mờ nhạt và đang bắt đầu buông bỏ. Nó là dấu hiệu mà chúng ta đã
bị nô lệ quá lâu đến nỗi sau cùng chúng ta có ý định muốn
trốn thoát. Sự không mê muội và sự cảnh tỉnh này xuất hiện khi người ta
trở nên chán chường với những sự ngu xuẩn trong sự tham đắm và dính mắc
đối với mọi hiện tượng. Ngay khi sự cảnh tỉnh đã bắt đầu, có sự
ràng buộc xảy ra theo một tiến trình thoát khỏi tự nhiên, dường như sợi
dây thừng mà người ta bị trói buộc nay được mở ra; việc giặt rửa, khi
thuốc nhuộm được pha vào trong quần áo người ta giặt bằng thuốc nhuộm đó
trong tính chất chiếm hữu. Do đó tiến trình dính mắc này loại trừ
dẫn đến sự thoát ly, hoặc là xả bỏ thân xác, hay từ đối tượng dính
mắc đó được đức Phật dạy là "giải thoát". Tiến trình này
quan trọng nhất. Mặc dù không phải là giai đoạn cuối, nhưng nó là bước
quan trọng nhứt hướng đến sự giác ngộ hoàn toàn, giải thoát hoàn
toàn đau khổ. Ðiều này được người ta tin chắc là vậy.
Một khi không còn chấp hình sắc tình cảm và ý tưởng, người ta không
còn nô lệ cho thân xác này nữa. Hành giả trở nên thanh tịnh và trong
sạch mà trước kia hành giả bị ô nhiễm bởi tham, sân, si. Thoát khỏi sự nô
lệ để có được thân an lạc không còn sự dính mắc thì hành giả
đạt đến an vui và tự tại. Sự thanh tịnh thật sự này một khi đạt được
sẽ phát sinh niềm vui và hạnh phúc thật sự giải thoát tất cả tâm trạo
cử, xung đột và đau khổ. Trạng thái giải thoát khỏi sự áp bức và tâm trạo
cử này được đức Phật gọi là "an lạc tâm". Nó là sự trầm
lặng, mát mẻ trong mọi hoàn cảnh, một phương pháp thực nghiệm, một
loại Níp-bàn ngay trong kiếp sống này.
Níp-bàn đã được dịch là "vắng lặng các phiền não". Nói
cách khác, nó có nghĩa "dập tắt không còn dư sót". Vì thế cho
nên danh từ Níp-bàn có hai nghĩa rất quan trọng: thứ nhất là vắng lặng
và thiêu đốt nguồn gốc đau khổ, giải thoát các khổ cảnh và sự áp bức;
thứ hai là dập tắt, không còn phát sanh đau khổ thêm nữa. Kết hợp hai
ý nghĩa nầy ám chỉ Níp-bàn là sự giác ngộ hoàn toàn. Níp-bàn có
nhiều ý nghĩa hữu ích khác nhau. Nó có thể là dập tắt đau khổ,
đoạn trừ phiền não hoàn toàn, hay là trạng thái an lạc, là chấm dứt
mọi đau khổ, mọi phiền não, và mọi hành vi nghiệp báo.
Tuy nhiên danh từ Níp-bàn được sử dụng theo nhiều trường phái khác
nhau, tri giác và học hiểu danh từ Níp-bàn hoàn toàn không giống nhau.
Một số cho rằng Níp-bàn có nghĩa đơn thuần là thanh tịnh và mát mẻ, bởi
vì họ nhận ra Níp-bàn tâm định uyên thâm. Thậm chí một số khác cho
rằng Níp-bàn là an chỉ định hoàn toàn trong khoái lạc.
Ðức Phật định nghĩa Níp-bàn đơn thuần là sự giác ngộ khỏi ác đạo,
khổ ách và đau đớn mà những kết quả có được từ sự nhận biết bản
chất thực của pháp thế gian và tất cả mọi sự vật, và như vậy thì
có thể thoát khỏi mọi sự chấp thủ. Cần thiết để chúng ta
hiểu được giá trị tuệ giác rất là to tát trong bản chất thật của
các sự vật, và bằng cách này hay cách khác, hãy cố gắng tu tập tuệ giác
này. Ðơn thuần sử dụng một phương pháp, chúng ta phát huy tuệ giác
để nó tự xuất hiện một cách tự nhiên, bằng sự tu tập ngày và đêm
có được phỉ lạc là nhờ tâm thanh tịnh, chúng ta niệm cho đến khi có
những đặc tính dần dần xuất hiện. Phương pháp khác nữa gồm có sức
mạnh tâm tu tập bằng cách theo dõi một hệ thống tổ chức thực hành chỉ
quán. Phương pháp sau này thích hợp người có khuynh hướng vững chắc, và
nếu điều kiện thuận lợi, một số người sẽ tiến bộ nhanh. Tuy
nhiên chúng ta có thể thực tập phát huy tuệ giác bằng phương pháp tự
nhiên trong mọi hoàn cảnh và mọi thời gian - bằng cách thực hiện
lối sống hàng ngày của chúng ta cho trong sáng và thành thật, ở đó phát sanh
tâm an lạc, tuệ giác soi thấu được bản chất thực của vạn vật, giúp
chúng ta tỉnh thức, thanh tịnh và thoát ly mọi phiền não cấu uế và
sau đó là an lạc Níp-bàn, tịch lặng. Trong giai đoạn sự đau khổ sẽ giảm
dần mỗi một ngày qua, chúng ta nếm được hương vị giải thoát hầu
như hoàn toàn.
Tóm lại con đường của tuệ giác và thanh tịnh tự nhiên, nhờ thực
hiện lời dạy giác ngộ là không có gì đáng giá để đạt được cả,
nên chúng ta hiểu được làm thế nào một người có thể đạt
đến Níp-bàn và sự giác ngộ. Bất cứ ai muốn cảm nhận được sự giác
ngộ phải cố gắng để tự mình thanh tịnh và tu tập những đặc tính cá
nhân cho tốt đẹp. Từ những thanh tịnh này hành giả sẽ thấy được nguồn phỉ
lạc của chính mình trong lúc tu tập cũng như trong lúc thư nhàn. Ngay nguồn
phỉ lạc này sản sinh sự trong sáng, mát mẻ, tâm an lạc và tĩnh lặng một
cách tự nhiên, tâm thức có khả năng quán xét. Bằng cách tự xem xét lại nội
tâm này nên phát sinh tuệ giác. Thật vậy, chính tuệ giác đó nhận
biết không có gì đáng để đạt được hay tồn tại và tâm thức thì
không còn tham đắm vào mọi thứ mà một thời nó đã từng dính mắc và
tham đắm. Tâm thức có thể thảnh thơi mọi thứ trước đây nó từng
dính mắc vào bản ngã và cái tôi, và tất cả lòng tham muốn ái dục không
còn nữa. Ðau khổ (không còn nơi nào trú cả) biến mất, và nhiệm vụ
về diệt khổ đã được hoàn thành. Ðây là kết quả mà ai cũng có
thể đạt đuợc trong một phương pháp tự nhiên. Nội tâm an lạc này không
có gì sánh bằng, vượt trội hơn sự cảm nhận bất cứ kinh nghiệm nào hay
đối tượng như tôi hay bản ngã, đó là đỉnh cao của con đường thanh tịnh,
giải thoát thật sự của đức Phật.
Ðể hoàn tất cuộc thảo luận về tu tập tuệ quán, ở nơi đây
chúng ta cũng phải chú ý đến những hệ thống tổ chức về tu
tập tuệ giác mà Ðức phật không giảng dạy nhưng được tu tập do bởi
những vị tổ sư sau này. Loại tu tập này thích hợp cho người ở giai đoạn sơ
cơ, vẫn hiên ngang không chấp nhận đau khổ trong cuộc sống trần tục. Tuy
nhiên điều đó không có nghĩa là những kết quả đạt được do những
hệ thống này không có giá trị đặc biệt như đã đạt được bằng
phương pháp tự nhiên; bởi vì khi chúng ta chiêm nghiệm kinh điển sâu
sắc, chúng ta nhận biết phương pháp tự nhiên chỉ là một điều được
đề cập đến. Một số người nói, thật là khó để hiểu được
phương pháp tự nhiên hay tin rằng phương pháp tự nhiên có thể được tu
tập chỉ một người nào đó, người đó đã trở thành đạo đức gương mẫu
khá tốt hay đã có túc duyên. Ðối với người không có những nết hạnh
cao và tánh tình hay cố chấp. Các thiền sư dạy họ tu tập phương pháp
theo thứ tự, mở những khóa tu ngắn hạn bắt đầu từ những sự khó khăn (như
ngứa, đau. . .) và thiền sư thường xuyên theo dõiđể hướng dẫn
họ.
Tu tập theo phương pháp để phát huy tuệ giác, thuật ngữ chuyên môn
gọi là thiền quán (Vipassàna). Thiền quán hay tuệ giác thì
tương phản với pháp học; ngày nay cả hai được xem là những đường
hướng tu tập bổ sung. Thiền quán là pháp học được người ta tu tập
để luyện tâm cho nghiêm nhặt. Không có gì học trong sách vở cả.
Không có pháp học mà cũng không có pháp hành được đề cập trực
tiếp trong kinh điển, cả hai chỉ xuất hiện trong những kinh điển
sau này; tuy nhiên thiền quán là một pháp môn thực hành chủ yếu của
Phật giáo, thiết lập cho con người với mục đích đoạn trừ đau khổ. Nó
được dựa trên nền tảng vững chắc nội tâm an tịnh. Ðể giải thích
thiền quán cho mọi người, các vị thiền sư thời xưa ra những câu
hỏi sau đây:
- Nền tảng của thiền quán là gì?
- Những đặc tính nào mà chúng ta biết đó là thiền quán?
- Hoạt động nào thì được gọi là thiền quán?
- Kết quả cuối cùng của thiền quán là gì?
Khi được hỏi nền tảng của thiền quán là gì? Chúng tôi trả lời
giới và định. Thiền quán có nghĩa là "tuệ giác trong sáng",
và ám chỉ tri kiến mà có thể phát sanh khi tâm của một người đầy
ắp nguồn phỉ lạc và không có bất cứ phiền não nào. Phỉ lạc phát
triển là khi có giới thanh tịnh; giới là điều kiện quyết định
trước hết. Ðiều này được dạy trong kinh điển của đức Phật,
nơi nào người ta thực hành thì được xem là đang tiếp tục trong một
chuỗi giai đoạn mà được gọi là thất tịnh, và đạt đến quả vị
Níp-bàn. Những vị thiền sư xem sự thành đạt của giới thanh tịnh như là
điều đầu tiên của thất tịnh.
Lúc nào giới được viên mãn, thân an tịnh thì lúc đó hành động và lời
nói được thanh tịnh, kết quả sẽ là tâm an tịnh, dẫn đến những giai
đoạn thanh tịnh xa hơn; thoát khỏi sai lầm, thoát khỏi hoài nghi, trí tuệ
để nhận biết con đường nên đi và con đường không nên đi, trí
tuệ và tri kiến phát triển theo đạo lộ và cuối cùng là tuệ
giác hiểu biết hoàn toàn. Năm giai đoạn cuối cùng này thiết lập
thiền quán đúng mức. Ðơn thuần hành vi và tâm thanh tịnh là đường lối
đi vào thiền quán.
Hiện nay nhiều vị thiền sư dạy thiền quán bằng cách tu tập
có tổ chức. Trước tiên, những sự thực hành bao gồm những bài tập định tâm
như chánh niệm về hơi thở theo dõi bằng thiền quán hay thực hành
tuệ giác, hoặc là một số hệ thống thiền chính thức bắt đầu
luyện tập tuệ giác ngay từ đầu. Tiếp tục theo đuổi việc
luyện tập có tổ chức, thông thường hành giả đi đến những khóa tu
đặc biệt hay cách ly một thời gian. Trong suốt khóa tu, hành giả sẽ không
làm gì cả ngoại trừ thực hành thiền tích cực, cố gắng để phát huy
đầy đủ chánh định và chánh niệm để quân bình tâm và sẽ cảm nhận
được sự xuất thế, giải thoát Níp-bàn. Dù hành giả có thực hành trong
một khung cảnh cách ly nghiêm ngặt hay là thực hành phương pháp tự nhiên,
cuối cùng hành giả phải đi đến sự thích nghi tự nhiên của thiền
quán và chánh niệm trong đời sống hàng ngày. Thật ra người trí không có
suy nghĩ đến quá khứ và vị lai, vị ấy thấy rằng sự giác ngộ tùy thuộc
vào trí tuệ không có cái gì đạt được mà cũng không có cái gì mất
cả, không có cái gì thành tựu mà cũng không có cái gì tồn tại. Ước mong
trí tuệ này sẽ là nhân đạt đến chân hạnh phúc và giác ngộ cho tất
cả chúng sinh.
[Mục lục][Chương
kế] |