ục đích của
giáo pháp là dẫn người ta đến sự giải thoát, Níp-bàn. Lời dạy này
vạch ra một con đường bằng những giai đoạn tiến triển cao hơn. Giai
đoạn đầu tiên trên con đường này là giới hạnh và việc thực hành giới
tâm được an lạc và hạnh phúc Ðịnh, giai đoạn thứ hai, thâm chí nó mang
lại hạnh phúc cao hơn, một loại tâm thanh tịnh nhờ định chúng ta mới cảm
nhận được nhiều mức độ của những trạng thái hoan lạc, tính nhẹ nhàng,
và niềm vui khôn tả. Tuy nhiên, tập trung một mình vẫn thiếu năng lực
để nhổ tận những phiền não ngủ ngầm trong tâm mà làm cho chúng ta
dính mắc trong sự vô minh và tái sinh. Giai đoạn tiếp theo, chỉ có trí
tuệ của thiền quán mới có thể giải thoát và đưa chúng ta đạt
đến hạnh phúc cao tột nhất, Níp-bàn.
Ðạt đến sự giải thoát chính mình, chúng ta phải phát huy sự hiểu
biết về thiền quán, nó được người ta tu tập như thế nào và
mục đích của nó là gì. Ðức Phật dạy hành giả phải áp dụng thiền quán
để loại bỏ tà kiến về tự ngã và thế giới. Thiền quán là
một phương pháp nhận biết thế gian một cách rõ ràng. Tà kiến dẫn
chúng ta luân hồi và đau khổ. Do đó chúng ta phải cố gắng tu tập điều
này giống như một người tóc bị cháy hoặc là ngực của người ấy bị người
ta đâm bằng mác. Cơ hội để cố gắng tu tập thiền quán này thì thật
sự quý hiếm.
Khi chúng ta tu tập trí tuệ bằng thiền quán, nó dẫn đến nhập
lưu, cảm nhận Níp-bàn, có năng lực tốt để thiêu hủy những tà kiến
về bản ngã. Từ xưa đến nay, đức Phật đã tuyên bố rằng, những lợi
ích của đạo quả nhập lưu thì thậm chí cao cả hơn sự thành đạt của vị vua
Chuyển luân thánh vương bởi vì vị thánh nhập lưu đã tự mình giải
thoát hoàn toàn khỏi vòng sanh tử luân hồi. Vị này sống trên thế gian
không quá bảy kiếp nữa thì sẽ giải thoát Níp-bàn.
Do đó hành giả tích cực tinh tấn để đạt đến quả vị ít nhất là
Tu-đà-huờn - đạo quả Níp-bàn - Ðể đạt đến giai đoạn này, chúng
ta phải nương theo phương pháp thực hành khuôn mẫu và dễ hiểu này của
thiền sư Mogok Sayadaw dựa vào sự quán niệm trong tâm và trên những
cảm thọ. Khi những cảm thọ và tâm cùng phát sinh, cùng hiện hữu,
và cùng diệt, sự quán chiếu trên cái này thì giống như sự quán
chiếu trên cái khác.
Trong phương pháp thực hành thiền này, hành giả sẽ nhận thấy dễ
tiếp thu hơn phương pháp thiền trên tiến trình thân. Ðiều đó
không chối cãi là tâm cũng phát sinh liên hệ cùng với hơi thở ra và
những khía cạnh khác của thân. Tuy nhiên, đối với những hành giả ngày nay,
hành thiền trực tiếp trên tiến trình tâm được xem như là thuận
lợi và hữu hiệu nhứt.
Trước khi hành giả hành bất kỳ loại thiền nào, nó thì hết sức
quan trọng và cần thiết đối với hành giả để đạt được tri
kiến hiểu biết về những điều nào đó. Ðây là những
điều cần thiết cho việc hành thiền.
Hành giả phải biết sự khác nhau giữa pháp tục đế và pháp chân
đế. Pháp chân đế thì có bốn: tâm, sở hữu tâm, sắc pháp và
Níp-bàn. Thiền quán thì dựa trên sự quán niệm của pháp chân đế,
mà pháp chân đế đặt nền tảng cho pháp tục đế.
Ðể hiểu biết thêm nữa, đây là một sự phân loại của pháp
chân đế hoặc là thực thể tuyệt đối, những khía cạnh đó thuộc
về thế giới của chúng ta mà có thể cảm nhận trực tiếp được
mà không có những khái niệm:
Tâm - có tám mươi chín loại tâm, nhưng vì mục đích của
thiền quán, thiền sư Mogok đã rút lại những loại tâm này xuống chỉ
còn mười ba loại tâm thôi điều này có thể được nói là cả một sự
hàm súc.
Sở hữu - có năm mươi hai sở hữu. Ðối với hành giả chỉ
cần thiết để làm quen với xúc, thọ, tưởng, hành, thức, tham, sân,
si, ngã mạn, tà kiến, ganh tị, bỏn sẻn, và nghi ngờ [1].
Sắc uẩn - có hai mươi tám sắc uẩn, đối với những hành
giả những sắc uẩn sau đây thì rất quan trọng để lưu tâm:
Yếu tố cứng và mềm (Ðất)
Yếu tố dính liền và trạng thái lỏng (Nước)
Yếu tố vận chuyển và di chuyển (Gió)
Yếu tố nóng và lạnh (Lửa)
Ðiều này được gọi là bốn yếu tố căn bản [2]. Hai mươi bốn
sắc pháp còn lại cũng có nguồn gốc tứ đại mà ra.
Níp-bàn - đây là loại thứ tư của pháp chân đế bởi
vì nó có thể cảm nhận trực tiếp bằng tâm.
Bây giờ, ở điểm này, nó có thể giúp chúng ta để phân
biệt được pháp tục đế. Những khái niệm là những ý định
về một hoàn cảnh sống đối nghịch với pháp chân đế, chân đế có
thể hành giả cảm nhận trực tiếp được. Pháp tục đế bao gồm tất
cả những khái niệm, ý tưởng, tư duy, và danh tánh, ví như con tôi,
giọng nói của phụ nữ, xe ngựa... mặc dù những ý niệm được dùng
cho mục đích tiện lợi và cách nói phổ thông, nhưng chúng không phải là
những đối tượng tuyệt đối về việc cảm nhận của chúng ta và như
thế không thể nào thực hiện được những đề mục quán
niệm, vì những đề mục đó hành giả hướng tâm đến pháp chân
đế.
Có nhiều thứ ý niệm, nhưng chỉ cần một vài thứ được đề
cập đến ở đây. Những thứ đó là:
- Những ý niệm về danh tánh
- Những ý niệm như ý nghĩ hay quan hệ như con trai, con gái, mẹ
và cha.
- Những ý niệm về tập hợp hay nhóm như gia đình, chủng tộc...
- Những ý niệm về hình thức như chùa, tu viện, trường học.
- Những ý niệm về địa danh như Ấn Ðộ, Tích lan.
- Những ý niệm về thời gian như sáu trăm năm trước Công nguyên,
hôm qua và ngày mai.
- Những ý niệm về không gian như một lỗ trống trên trần nhà,
một cái hang, chân trời.
- Những ý niệm về sự tiếp nối như một đoàn xe lửa dài, một
dòng sông, một bộ phim.
- Những ý niệm về tưởng tượng như sừng thỏ, lông rùa.
Thiền quán thì chỉ liên quan với pháp quán chân đế mà không liên
quan với pháp tục đế. Khi nào hành giả hiểu được điều này thì
có thể phân biệt được pháp tục đế và pháp chân đế, thêm
nữa hành giả cần phải làm quen những yếu tố cơ bản rất quan trọng
này, những khía cạnh cơ bản của cuộc sống: (1) năm uẩn, (2) sáu căn, (3) tứ
đại, (4) và định lý nhân duyên.
Năm uẩn là sự miêu tả những pháp đó bao gồm cả thân và tâm. Chúng gồm
có:
Sắc uẩn (thân và tất cả những yếu tố vật chất):
Sắc tứ đại
Sắc y sinh (sắc do bốn đại sinh ra)
Thọ uẩn (là một khía cạnh của tâm):
Thọ vui
Thọ khổ
Thọ vô ký
Tưởng uẩn (là một khía cạnh của tâm):
Tưởng về những điều gì có tri giác và không tri giác hay về
những màu sắc, hoặc những kích cỡ.
Hành uẩn:
Có năm mươi loại, bao gồm tâm sân, chánh niệm, tham, thương, và an
lạc.
Thức uẩn:
Nhãn thức
Nhĩ thức
Tỉ thức
Thiệt thức
Thân thức
Tâm thức
Hành giả phải trở nên quen thuộc với những yếu tố thân-tâm này. Hành
giả cũng phải hiểu rằng đối với mỗi loại, sáu thức có sáu giác quan
tương xứng nhau (mắt, tai...) và sáu trần cũng tương xứng nhau (màu, sắc, âm
thanh, mùi vị) [3].
Ðối với hành giả, điều quan trọng là để biết thức sanh
khởi như thế nào. Ðức Phật dạy mỗi loại của sáu thức phát sinh tùy
thuộc vào hai nguyên nhân căn và trần. Như vậy trong sự thấy, chỉ có sự sanh
khởi của nhãn thức tùy thuộc vào việc tác động trên nhãn căn của sắc
trần. Nói khác hơn chỉ có ba yếu tố cùng hiện hữu không có gì khác
hơn nữa, không có người thấy, không có "tôi", "anh",
"hắn" hoặc ai thấy cả. Ðiều đó chỉ là một tiến trình nhãn
thức sanh khởi. Trong sự nghe và nếm... tiến trình thì cũng giống nhau.
Trong mỗi sự cảm nhận của thức chỉ có những cơ cấu của tiến trình
rỗng không này.
Ðiều đó phải được lưu ý là sau sự sanh khởi của nó, thức không
tồn tại cùng với hai sát-na liên tục. Một sát-na nó sanh, sát-na kế nó
diệt, để được thay thế chỗ cũ bằng một thức mới.
Lời khuyên là trước khi thực hành thiền, hành giả phải nghiên cứu sự
thật của tâm, năm uẩn, bốn đại, và sáu thức, và những thứ đó hành giả
nên hiểu biết một cách trọn vẹn. Hơn nữa, hành giả phải trở nên
thuần thục với định lý nhân duyên mà nó cho thấy danh pháp và sắc pháp
sanh khởi như thế nào.
Ðịnh lý Nhân duyên (khía cạnh
hiện tại)
Thiền sư Mogok Sayadaw giải thích định lý nhân duyên đặc biệt
là lợi ích cho những hành giả mới. Ðiều này có thể được gọi
là con đường tắt cho sự quán niệm tu tập đối hành giả bởi vì nó vạch
ra khía cạnh hiện tiền của việc áp dụng giáo lý, nó có
thể làm cho một hành giả để hiểu biết tứ đại, sự bắt đầu,
nguyên nhân của chúng, và sự hoại diệt diễn ra mỗi sát-na .
Hãy bắt đầu bằng mắt và sắc trần. Khi sự tác động của hai thứ này xảy
ra, ở đó phát sinh nhãn thức. Chú ý là chỉ có nhãn thức sanh khởi.
Không có người thấy, không có tôi, không có anh hay chị trong mắt hay sắc
trần. Mà cũng không có tôi, anh hay chị trong nhãn thức. Nhãn thức chỉ là
nhãn thức, không hơn hay không kém, và nhãn thức này không nên lầm lẫn với
một bản ngã, nó không nên được nhân cách hóa.
Sự kết hợp của mắt, sắc trần và nhãn thức là duyên phát sinh xúc, và
tùy thuộc vào xúc nên ở đó phát sinh cảm thọ. Như thế trong các cảm
thọ, không có "tôi, anh, chị" không có bản ngã được tìm thấy.
Tiến trình của nhân duyên liên tục. Vì cảm thọ ở đó phát sinh khát
ái và vì khát ái ở đó phát sinh chấp thủ và dựa trên sự chấp thủ này ở
đó ở đó sinh khởi thân hành, khẩu hành và ý hành. Tam hành này tạo
nghiệp và năng lực của nghiệp là duyên cho sự tái sinh.
Sau sự tái sinh phải có già, bịnh, sầu, bi, khổ, ưu, não. Như vậy lúc đó
hành giả có cả khối đau khổ.
Khi được hiểu bằng mắt, trần và nhãn thức, tương tự chúng ta phải
hiểu tiến trình này bằng tai, mũi, lưỡi, thân và tâm các căn và
thức tương xứng, cho nên chúng ta có thể hiểu được sự chuyển
động của bánh xe nhân duyên.
Ðể đạt được kết quả của sự trong sạch và thanh tịnh, vấn
đề này sẽ giải thích một cách rõ ràng hơn bằng một cách nói khác:
Khi "A" thấy một đối tượng đẹp, anh tham đắm, dính mắc vào và
cố đạt được nó. Ðây là tham ái, muốn đạt được đối tượng đẹp đã
lấn áp anh ta. Rồi anh ta làm tất cả mọi nỗ lực, tinh thần, lời nói
và thể xác cho sự chấp thủ này. Chính điều này dẫn đến sự tái
sinh, thậm chí những sự chấp thủ vi tế nhứt cũng lôi kéo chúng ta
đến vòng tái sinh. Sự tái sinh có thể liên quan đến già,
chết, sầu, bi, khổ não và thất vọng. Như vậy toàn bộ sự tu tập
về lý nhân duyên được phát huy. Chúng ta có thể thấy được
điều này rõ bằng cách theo dõi sự sanh diệt của năm uẩn, tiến
trình thân tâm của chúng ta. Khi chúng ta nhận thức rõ ràng hơn và hiểu
rằng cái cơ bản của những uẩn và chu kỳ tái sinh thông thường của thân và
tâm chẳng là gì cả ngoại trừ sự khổ đau của nó.
Ðối với độc giả đã thông suốt, sẽ rõ ràng nhận thấy rằng, chúng ta sẽ
gặp tiến trình sinh diệt này xảy ra liên tục bao nhiêu lần trong một
ngày: sự phát sinh ái dục và chấp thủ tạo nên trong hành động hoặc tư
tưởng. Chúng ta nhìn thấy chúng ta ham muốn và chúng ta bị lấn áp bởi lòng
ham muốn và chấp thủ. Ðể thỏa mãn điều này, chúng ta bị hệ lụy
vào tất cả các hành động - thân, khẩu, ý. Tương tự như thế,
nếu chúng ta thích thú điều mà chúng ta nghe được, ái dục sẽ phát
sinh, và khi ấy ái dục sẽ lấn áp chúng ta, nó tạo ra sự dính mắc, và
để thỏa mãn điều này, chúng ta bị liên lụy đến tất cả những
hoạt động mà chúng ta hy vọng sẽ kéo dài sự khoái lạc của chúng ta.
Sự việc tương tự như thế được áp dụng cho việc ngửi,
nếm, xúc chạm và suy nghĩ. Biết và không biết, chúng ta luôn luôn
bị rơi vào tiến trình này.
Ðộc giả phải chuyển sự chú ý của mình đến sự việc là
lý nhân duyên chẳng là gì cả ngoại trừ là một chuỗi hành động của
mình. Anh ta có thể tập trung sự chú ý của mình đến các uẩn,
thân và tâm, và nhìn thấy được bản thân và hành động của chính mình ra
sao đối với luật nhân quả này cùng với luật nhân duyên.
Nếu anh ta nghĩ đây là lúc để ngưng lại chuỗi hành động của
mình mà nó đưa vào tiến trình liên tục này, có một cách thoát ra khỏi
vòng sanh tử. Nhưng nếu anh ấy tiếp tục hành động như thường lệ,
chu kỳ này sẽ liên tục đi mãi trong tiến trình dể duôi này dẫn
đến sầu, bi, khổ, ưu, não.
Ðây là một điều minh họa: người cha nghe tiếng gọi của
đứa con nhỏ trên đường đi học về. Ngay khi nghe được tiếng
gọi này, người cha bồn chồn muốn gặp được con mình, muốn ôm con vào
lòng, vuốt ve và ôm hôn nó. Người cha có thể nghĩ và nói rằng ông ta
đã làm tất cả điều này bởi vì nó là con của ông ấy và ông ấy yêu
thương nó; không sợ phạm tội hoặc tội lỗi đối với ông ta bởi vì ông
ta không vi phạm bất cứ đạo đức nào. Tuy nhiên đây là sự thật, thậm chí
ở nơi đây, không do bởi hành động nhưng mà bởi sự chấp thủ tạo nên động
lực này, đó là tiến trình cố định của luật nhân duyên đã phát
triển và tiếp tục đi vào trong tiến trình này.
Thậm chí chúng ta có thể thấy được ví dụ dường như không có vẻ
nguy hại này đã khởi đầu định luật nhân duyên liên hệ đến
việc nghe giọng nói của người con trai lúc đi học về là
thế nào. Ngay khi người cha nghe giọng con trai đã phát sinh lòng ái
dục muốn gặp và vuốt ve đứa con; bởi vì lòng ái dục phát sinh đầy ắp và
sự ham muốn nó là nhân của hành động vuốt ve đứa con trai. Sự vuốt ve này
là hành động được tạo nên do bởi sự chấp thủ và luật này tạo nên nhân
cho sự tái sinh sau này. Khi nghiệp lực phát sinh, đi kèm theo sự sinh. Thậm
chí đức Phật cũng không thể ngăn chặn nghiệp lực.
Từ sáng cho đến tối, tiến trình này liên tục phát sinh. Khi hành
giả thấy một đối tượng đẹp ở đó phát sinh ái dục và vì ái dục này nên
ở đó phát sinh chấp thủ, vì chấp thủ nên nghiệp lực sinh khởi, và như
vậy toàn bộ chu kỳ trên liên tục thay đổi không ngừng.
Trong thực tế, mỗi khi sắc, thinh, hương, vị, xúc - trần tiếp
xúc qua môn căn của nó, ở đó luôn luôn sẽ phát sinh ái dục và một
chuỗi của những yếu tố khác. Những chuỗi tiến trình như vậy
không là gì cả ngoại trừ những tiến trình tham ái. Tham ái lần lượt sản
sinh ra những tiến trình nghiệp hay hành động tạo nghiệp, lại nữa
từ những hành động tạo nghiệp bắt nguồn cho những tiến trình nhân
quả, như vậy tạo nên dòng luân hồi.
Toàn bộ tiến trình từ xúc cho đến thức, thủ và tái sinh, mỗi
phút giây hành giả đều theo dõi và quán niệm như là thiền quán,
nói một cách khác, tiến trình sanh tử luân hồi vô tận sẽ liên tục mang
lại nhiều đau khổ. Khi thực hành thiền quán, chúng ta có thể thấy
càng rõ hơn bất kỳ hành động tạo nghiệp nào đều dẫn đến thức
tái sinh. Như vậy điều này trở nên duyên cho sự sanh khởi của thức,thân
và tâm, và chúng ta thấy những điều như thế này cố nhiên dẫn
đến các căn và xúc. Xúc ở sáu căn (bao gồm tâm) là duyên cho cảm
thọ, mà cảm thọ thì duyên bởi ái và thủ, cố nhiên nó tạo nghiệp
và tái sinh. Nhân duyên không là gì cả mà chính là tiến trình năm uẩn
của chúng ta, năm uẩn bị hoại diệt, thì năm uẩn mới sinh khởi. Nó là
một tiến trình nhân quả sanh diệt liên tục của danh pháp và sắc pháp.
Người ta nói rằng, sự khởi đầu của luân hồi thì không thể hiểu
nổi. Bị bao phủ bởi màn vô minh và bị trói buộc bởi ái dục, không có sự
bắt đầu của chúng sinh - những người nằm trong vòng tái sinh hết kiếp
này đến kiếp khác- Nếu gom tất cả xương của một người trong
suốt cuộc luân hồi, chúng có thể cao bằng ngọn núi vĩ đại Vepulla,
mà người phải mất bốn ngày mới leo lên được. Khi vòng luân hồi kéo dài
vô tận, và người ta nói rằng chu kỳ nhân duyên thì không có sự bắt đầu
và khổ đau thì kéo dài liên tục.
Người ta nói rằng tiềm năng và năng lực đi tái sinh thì không
biết được. Ðiều này đừng nên đổ lỗi với bất cứ nhân đầu
tiên nào hoặc một đấng tối cao nào. Rồi câu hỏi được nêu lên:
Vô minh là gì? --Nó là sự không biết về tứ diệu đế:
1. Không biết về khổ đau.
2. Không biết nhân khổ đau.
3. Không biết đoạn trừ khổ đau (Níp-bàn).
4. Không biết con đường dẫn đến đoạn trừ khổ đau.
Ðể lý giải:
1. Thiếu hiểu biết về ngũ uẩn của chúng ta hoặc những thành
phần của thân tâm là sự đau khổ tột cùng thì được gọi là không
biết về khổ đau.
2. Nó tồn tại ở mỗi người trong chúng ta để đạt được sở hữu
và tham ái hạnh phúc tinh thần và giàu sang. Lòng tham ái này là nhân khổ
đau. Sự thiếu hiểu biết về điều này là không biết
nhân của khổ đau.
3. Thiếu hiểu biết về sự đoạn trừ tất cả khổ đau
(Níp-bàn) được gọi là không biết chấm dứt sự khổ đau.
4. Thiếu sự hiểu biết về bát chánh đạo là con đường dẫn
đến Níp-bàn thì được gọi là không biết về con đường chánh
đạo.
Tất cả thân khẩu ý nghiệp của chúng ta phát sinh từ sự không
biết này. Cho nên đức Phật dạy rằng vì không biết nhân của tất cả
phiền não và khổ đau, nên người ấy làm tất mọi hành động vì bản
thân, gia đình, đất nước..., dùng tất cả phương tiện khéo léo bất
kể đến bản chất của chúng (thiện, bất thiện, đạo đức, phi
đạo đức) để tích lũy của cải, địa vị, hoặc tìm cách đạt được
hạnh phúc ở thế giới luân hồi.
Một người có thể nói, rằng anh ấy đang sống tốt đẹp bởi vì anh ấy
đang làm nghề mua bán hợp pháp, nhưng từ quan điểm của nhân duyên anh
ấy vẫn không thoát khỏi xiềng xích luân hồi; mà chính anh ấy đang đi
vào tiến trình đau khổ. Khi được hỏi "anh ấy đã làm điều gì
tội lỗi". Chúng tôi trả lời điều đó không thể nói được
là anh ta bị buộc là phạm tội hoặc không, nhưng anh ta đã bị dính mắc vào
chuỗi tham muốn và tái sinh, tiếp tục tiến trình tạo nghiệp.
Ðối với hành giả, để quyết định ở điểm nối tiếp này
hoặc là để mong chờ được tái sinh cho kiếp sau. Khi được tái sinh
thì điều gì liên hệ với nó? Ðiều gì sẽ là phần thưởng cuối
cùng? Hiển nhiên rằng tái sinh là không thoát khỏi đau khổ, già và
chết. Ðây là vòng nhân duyên được trình bày phù hợp với lời dạy của
đức Phật.
Nó là một lời khuyên chính đáng cho hành giả có dự định đi vào
việc tu tập thiền quán được quen thuộc với những cơ bản của giáo
pháp. Không có tri kiến đầy đủ về những điều kiện tiên
quyết cơ bản này, hành giả không đạt được tiến bộ trong thiền
quán. Phạm vi hiểu biết của hành giả không quán triệt được những
điều kiện tiên quyết này sẽ bị giới hạn trong bản ngã. Không
biết Phật pháp, hành giả sẽ không vượt qua bản ngã.
Ðiều này cần được nói lại ở đây, những điều kiện tiên
quyết này gồm có năm uẩn, lục căn, tứ đại, thập nhị nhân duyên và tứ
đế. Một người thể nhập vào sự suy niệm thì không thể không
có sự hiểu biết về vạn pháp, bởi vì nó dựa vào ngay những ngũ
uẩn này và những tiến trình mà sự suy niệm cần đến. Hành giả
phải phân biệt chân đế và tục đế để đoạn trừ tà kiến
về một sự thường hằng "tôi hoặc bản ngã".
Ðối với những ai thích thú và cố gắng học hỏi giáo pháp cơ bản này,
chắc hẳn để đạt đến cơ bản cho một sự tu tập thích hợp. Chỉ như
vậy mới phù hợp đối với họ để tiến đến thiền quán.
Thiền quán (Vipassana)
Thiền quán có nghĩa là suy niệm sâu sắc về vô thường, khổ
não, vô ngã. Ðiều này được giải thích trong bài pháp của đức Phật
về chánh niệm. Có khía cạnh của chánh niệm; chúng giống như bốn
con đường vòng dẫn đến chùa. Nếu chùa là trí tuệ mà người ta
có thể đến được bằng bất cứ bốn đường vòng nào. Những con
đường vòng này là bốn khía cạnh của chánh niệm: (1) suy niệm về
thân, (2) suy niệm về cảm thọ, (3) suy niệm về tâm, (4) suy
niệm về pháp. Ðiều quan trọng để ghi nhận là theo dõi từng
phần trong thiền định, hành giả không loại trừ ba khía cạnh còn lại. Một
trong những khía cạnh này có thể nổi bật trong sự nhận thức.
Theo thiền sư Mogok Sayadaw, việc tu tập thiền quán được phát huy
qua ba giai đoạn. Giai đoạn đầu là chánh niệm hoặc nhận thức về sự
tập trung. Thứ hai suy niệm về sanh diệt của ngũ uẩn. Cuối cùng là
sự hiểu biết chơn chánh về con đường dẫn đến sự đoạn trừ
của vạn pháp, sự sanh diệt của thân và tâm. Những điều này có
thể giải thích rõ sau đây:
1. Tập trung tâm vào bất cứ đề mục nào đưa ra, chẳng hạn như thở ra,
hít vào, hoặc ghi nhận sự chuyển động thân tâm, được gọi là chánh
niệm về sự tập trung.
2. Suy niệm về sắc, thọ, tâm hoặc đối tượng tâm và sự sanh
diệt của chúng được gọi là chánh niệm về tiến trình hành
thiền.
3. Sự hiểu biết về bản chất nhân duyên, thấy được sự sanh
diệt của ngũ uẩn là ghê tởm và hoại diệt, được gọi là con
đường dẫn đến sự đoạn trừ sanh và diệt. Cho đến khi có sự
hiểu biết về sự sanh diệt của năm uẩn, cho đến khi nào
chúng ta thấy được tất cả là vô thường, khổ não, vô ngã, thiền định
chẳng bao giờ có nghĩa là thiền quán đích thực.
Thiền quán đích thực bắt đầu khi hành giả có thể quan sát sự sanh
diệt của thân và tâm, không nhìn vào nó là "bản ngã, tôi, hoặc của
tôi". Sự chánh niệm rõ ràng này ở chỗ hành giả không nghĩ nó
là "tôi", người hành thiền hoặc tâm của tôi được tập trung
thì phải hợp với thiền định. Tầt cả năm uẩn sẽ được chúng ta nhận
thấy rõ là vô thường, khổ não, vô ngã.
Sự phát huy chỉ ở giai đoạn đầu hoặc hai giai đoạn được đề cập ở
trên sẽ không dẫn đến giải thoát sanh tử luân hồi. Ðức Phật dạy rằng,
chỉ có thiền định thôi thì hành giả không thể nhận thức được
Níp-bàn. Chỉ có thiền quán mới có thể đạt được quả Níp-bàn hoặc
giải thoát. Tuy thế, điều quan trọng phải ghi nhớ nơi tập trung vào
giai đoạn đầu của việc phát huy thiền định.
Thực tế, trước khi phát huy thiền quán ở những giai đoạn hai và ba,
hành giả đòi hỏi phải tạo dựng một số định tâm. Ðiều này thực
hiện tốt khi ngồi và chú tâm trên chót mũi, nhận thức đầy đủ hơi thở
ra vào. Hành giả phải ngồi kiết già trong một không khí vắng lặng và yên
tĩnh. Bài tập định tâm này cần phải luyện tập ít nhất hai mươi hoặc
hai mươi lăm phút trước khi đi vào thiền quán. Với tâm yên lặng và tập
trung, hành giả sẵn sàng phát huy thiền quán bằng sự nhận thức và cảm
thọ theo như lời dạy của thiền sư Mogok Sayadaw.
Chúng ta bắt đầu ở đâu? Chúng ta phải bắt đầu bằng cái tâm. Ðức Phật
giải thích sự quan trọng của thiền trên tâm thức. Ngài dạy: "Như
Lai thấy không có một pháp nào khác mang lại sự lợi lạc và hữu dụng
nhiều như khi tâm của chúng ta được tu tập và phát huy".
Ðiều đó có thể hiểu rằng những kết quả của sự không tu tập
và không phát huy thì tâm không có hữu ích gì cả.
Tâm dẫn đầu mọi hành động và đi trước tất cả mọi hiện
tượng. Không có điều gì hành giả làm mà không có tâm, không có sự
hợp tác hay kết hợp của tâm. Khi chúng ta thực hiện hành động tốt
hoặc xấu, tâm đóng vai trò quan trọng. Không có hành động nào mà không
có sự suy nghĩ trước; suy nghĩ chỉ có trong tâm. Khi tâm được kiềm
chế, thân của chúng ta có sự kiểm soát. Lúc tâm phóng túng và không
có kiềm chế, thì thân hành không có sự thận trọng, phiền não
dễ dàng phát sinh qua tư duy và cảm xúc của chúng ta. Như vậy tâm là yếu
tố chính và nó làm chủ mọi hành động. Ðó là tâm tà kiến hoặc ngã
mạn hoặc ích kỷ. Ảo giác về tôi hoặc bản ngã là lực lôi kéo đi
theo phía sau tâm ảo tưởng. Ðiều quan trọng để ghi nhận yếu
tố của sự nhận biết này với cá thể hoặc bản ngã đã làm lu mờ tâm.
Như vậy để dập tắt đau khổ, ích kỷ, tà kiến, chúng ta phải
hiểu biết tâm.
Thiền sư Mogok Sayadaw đã tạo ra một công thức rất đơn giản về
đề mục thiền dựa trên tâm thức, được xem là thích hợp nhất cho
những hành giả ngày nay. Phương pháp thiền này là thiền quán dựa
trên sự chánh niệm của tâm thức hoặc chánh niệm về cảm thọ.
Mặc dù những khía cạnh này được cho là trội hơn, nhưng phần còn lại
của thiền quán cũng không được bỏ qua. Nó giống như sirô mà trong đó
có nước chanh tươi, đường, muối và nước là những thành phần. Khi chúng ta
nhận thức về bất cứ những phẩm chất này, chúng ta phát hiện rằng khi
một thành phần được đề cập thì phần còn lại cũng được nhận
biết, mặc dù chúng không trội hơn và dễ nhận thấy như là sự nhận thức
đề mục lúc ban đầu. Tứ niệm xứ cùng tồn tại, cùng xảy ra trong sự
sanh diệt của chúng.
Tại sao thiền sư Mogok Sayadaw nhấn mạnh đề mục thiền về
tâm? Ðại đức Mahàsarìputta dạy rằng mặc dù người ta không dễ dàng
hiểu được tâm của người khác, nhưng rất dễ dàng biết được
việc gì đang xảy ra trong tâm của mình. Khi tâm tham xảy ra trong tâm,
quý vị có thể dễ dàng nhận thấy tâm tham đó đang xảy ra như thế
nào. Nếu tâm sân, si, ác ý, ganh tỵ xảy ra trong tâm của quý
vị, quý vị có thể lập tức nhận biết rằng nó đang xảy ra, nếu
nó biến mất quý vị cũng biết nó biến mất.
Một lý do khác để nhấn mạnh đề mục thiền về tâm, đặc
biệt chánh niệm về tâm thức là để đoạn trừ tà kiến đã
ăn sâu liên quan đến tâm thức như là thường hằng hoặc "bản ngã,
linh hồn", thậm chí nó cũng có trong nhiều người phật tử. Hầu
hết các phật tử đều có cảm tưởng sai lệch là có linh hồn. Nó
chuyển hóa hoặc tái sinh từ kiếp này sang kiếp khác. Một số người
khác đi xa vấn đề hơn, nói rằng linh hồn tách rời thể xác khi người
ấy chết. Thậm chí một số người tin rằng linh hồn không tách rời thể
xác miễn là không có chỗ trống để nó nương náu nhưng nó vất
vưởng cho đến khi tái sinh ở một nơi thích hợp. Loại tà kiến này bị
ăn sâu vào tiềm thức và truyền từ thế hệ này sang thế
hệ khác. Những đức tin như thế được xem như là sự chuyển hóa
của linh hồn hoặc tái sinh từ kiếp này sang kiếp khác thì không đúng.
Như đã được đề cập ở trên thì không có chỗ nương náu và bảo
vệ bởi vì tin rằng tâm thức thì bền bỉ và thường hằng và thậm chí
tồn tại ngay khi thân thể mục nát. Tuy thế người ta không có sự
hiểu biết đúng đắn về định luật nhân duyên để giúp họ
hiểu rằng tâm thức thì cũng vô thường và là chủ thể đối với
tiến trình sanh diệt. Trong một khoảnh khắc không gian và thời gian nó
tái sanh và không thể di chuyển chút nào từ nơi nó tái sinh và cũng
không giữ lại cùng một hình thể như vậy trong hai sát-na.
Ðể xua đuổi tà kiến đã ăn sâu trong tiềm thức của chúng ta
và hiểu biết đúng đắn về tâm, thiền sư Mogok Sayadaw đã dạy
thiền quán dựa trên sự chánh niệm tâm thức và chánh niệm cảm
thọ. Cả hai phương pháp đều thích hợp cho những hành giả tu tập vào
thời này.
Tu tập Thiền trên Tâm thức [4]
Những ai thiết tha đạt đến sự giác ngộ hoàn toàn phải bắt đầu
sự đoạn trừ những tà kiến và niềm tin về bản ngã. Ðể đạt
được mục đích này, thiền sư Mogok Sayadaw đã tạo ra một phương pháp
đơn giản về sự suy niệm dựa trên tâm thức, nó có thể dễ dàng
áp dụng và thích hợp cho mọi người. Có mười ba loại tâm thức dưới
đây để suy niệm cùng một lúc, người ta chỉ quán chiếu và quan
sát duy nhất một tâm thức, và khi nó phát sinh, người ta phải nhớ rằng chỉ
duy nhất có một tâm thức có thể phát sinh trong một lần. Ngay khi một tâm
thức bị hoại diệt, cái khác sinh khởi.
Thông thường người ta tin rằng có nhiều loại tâm thức xảy ra trong con
người chúng ta. Mặc dù có thể có đến hàng ngàn loại, nhưng chúng
chỉ xếp thành mười ba loại như sau:
Nội thức:
1. Nhãn thức.
2. Nhĩ thức.
3. Tỷ thức.
4. Thiệt thức.
5. Thân thức.
6. Tâm tham.
7. Tâm sân.
8. Tâm si.
9. Tâm vô tham.
10. Tâm vô sân.
11. Ý thức.
Chủ thức:
12. Tâm thở vào.
13. Tâm thở ra.
Mười ba loại tâm thức trên có thể được gọi là bao trùm tất cả
những loại tâm thức. Phải ghi nhớ rằng bất cứ loại tâm thức gì phát sinh nó
chỉ là kết quả của sự tiếp xúc giữa cảnh và căn môn [5]. Chỉ do sáu
căn môn tâm thức mới có thể phát sinh; nó không bao giờ có thể phát
sinh ngoài sáu căn môn này.
Cũng nên ghi nhận rằng thức và cảm thọ cùng hiện hữu, cùng hình
thức. Thức và cảm thọ cũng là những yếu tố của tâm mà phát sinh
bằng mỗi tâm thức. Khi năm uẩn đồng sinh, đồng hiện hữu và cùng
hiện tượng diệt, điều đó có thể nói rằng quán một trong năm
uẩn có thể phát huy tuệ giác vào trong những uẩn còn lại [6]. Vì mục
đích của chúng ta, khi mười ba loại tâm thức này là những yếu tố tâm
nổi bật và rõ ràng, chúng là sự tập trung cho thiền dựa trên sự cảm
nhận của tâm thức.
Ðể xem xét danh sách mười ba loại tâm thức được đề cập
đến, có tâm tham trong sự muốn ăn, ngửi. . .ghen tị và ác ý được
phân loại như là tâm sân trong khi suy nghĩ để làm công việc, giúp
đỡ hay từ thiện rơi vào tâm vô tham.
Khi mở mắt, chúng ta thấy trước mắt mọi vật như màu sắc và hình
dáng. Ðây là sự phát sinh của nhãn thức và hành giả phải hiểu và nhận
thức về sự sanh khởi này khi nó xuất hiện. Khi nào hành giả nghe một
âm thanh, nhĩ thức sanh khởi và sự phát sinh này phải được nhận thức và
hiểu biết. Lại nữa, nếu hành giả cảm thấy có bất kỳ sự ngứa
ngái, cảm giác dễ chịu và khó chịu nào, lúc đó phát sinh thân thức. Hành
giả phải hiểu và nhận thức mỗi thức sanh diệt, từng cái một [7].
Trong tiến trình tu tập, sự hiểu biết hay tuệ giác của hành
giả rõ ràng hơn, những sự lo âu biến mất, và chánh niệm của hành
giả trở nên tập trung chỉ trên sự sanh diệt. Sau đó sự nhận thức về
sanh diệt của tâm thức trở nên nhanh chóng. Thông thường ở điểm này
hành giả thấy rõ ràng bằng tuệ giác mà bất kỳ tâm thức nào sanh khởi,
nó chấm dứt trong giây phút sau. Hành giả có thể nhìn thấy rõ ràng không
có tâm thức nào có thể tồn tại cho hai sát-na liên tục như nhau. Thọ
mạng của tâm thức thì ngắn ngủi. Khi một sát-na tâm được theo dõi thì
người ta thấy rằng tâm thức đó đã diệt rồi bởi vì thọ mạng của
một trong năm uẩn chỉ tạm thời thôi. Ngay lúc theo dõi thì nó đã biến
mất. Tâm thức sanh sau đó lại diệt. Cho nên khi quán, hành giả phải nhận
biết rằng tâm thức mà mình quán đã hoại diệt rồi [8]. Nó hoại
diệt ngay sau khi nó sanh. Do đó khi hành giả hành thiền hoặc theo dõi
tâm thức hành giả sẽ thấy chỉ có sự thay đổi thôi, hoại diệt hay là
biến mất của mỗi tâm thức. Nếu quan sát lúc ban đầu hành giả
thấy rằng tâm thức chưa đoạn diệt hay chưa biến mất, hành giả không
thể nào vượt qua được khái niệm của sự thường hằng. Sau đó hành
giả phải tinh tấn bằng chánh định và chánh niệm hơn nữa, để cảm
nhận bản chất sanh diệt của năm uẩn.
Khi biết sự sanh, hành giả sẽ biết thêm sự hoại diệt của tâm
thức nữa. Sự quan sát và cảm nhận này hành giả phải hành động không có
khái niệm của "bản ngã", hay nói một cách khác, hành giả phải
nhận thức rằng, pháp sanh diệt của tâm thức này chỉ là thức thôi và
không có gì không thay đổi cả, không có gì là "tôi", "bản
ngã" hay "của tôi".
Người ta chủ trương là hành giả quán cho đến khi nào hành giả càng
nhận thức ít về bản ngã và càng nhận thức nhiều về tâm thức. Từ
giai đoạn càng nhận thức nhiều về tâm, hành giả tiến xa hơn và
cố gắng cảm nhận càng nhiều sự sanh và diệt.
Trong suốt sự quán niệm của hành giả, tất cả những loại tư tưởng hay
sự xao lãng sẽ xen vào, những thứ này hành giả cũng phải quán và cảm nhận
như là "sanh và diệt" bởi vì trong thực tế bất kỳ tâm thức
gì sanh cũng phải đoạn diệt. Cho nên hành giả phải cảm nhận và ý
thức rằng không có cái gì trong thân và tâm này mà không thay đổi, tồn tại
và thường hằng cả.
Không có gì nói một cách chính xác, vô thường không bao giờ được nhận
thức bằng sự hiểu biết đơn thuần về sự thay đổi mà không có
chánh niệm thay đổi, thay đổi. Ðối với hành giả, điều quan trọng
là để quan sát và cảm nhận sâu sắc vô thường thì ngũ uẩn sẽ hiện
rõ ở mọi lúc, và không có bị ý niệm về sự thay đổi lừa
đảo hành giả, tạo nên bởi câu niệm vô thường (aniccà). Trạng thái phù
du sinh diệt của sát-na tư tưởng thì quá nhanh đến nỗi hầu như
không thể nào tả được. Ðối với hành giả không cần thiết là
để biết chính xác nó nhanh như thế nào. Ở giai đoạn này, cái
gì là cần thiết để tập trung trên sự cảm nhận sanh diệt của
những uẩn, đặc biệt là mỗi tâm thức mới phát sinh. Sự xuất hiện
của hơi thở hay là chủ thức, ví dụ, hành giả phải quan sát và biết tâm
thức thở vào và tâm thức thở ra. Hành giả phải quan sát và biết tiến
trình sanh và diệt của hai loại tâm thức này, cũng như tất cả mười một
loại tâm thức khác được giải thích ở trên.
Người ta có thể hỏi: "Thiền dựa trên tâm thức này nên thực
hành ở đâu và khi nào? Ở trung tâm thiền quán hay ở thiền
viện?" Người ta có thể thực hành ở nơi nào mà thức sanh khởi.
Ðối với thức sanh trong khi đi, thiền phải được tu trong khi đi. Ðối với
thức sanh trong khi ăn hoặc uống, thiền phải được tu tập ngay chính lúc
đó. Ðối với thức sanh trong khi ngồi ở văn phòng, thiền cũng phải tu tập
ở nơi đó. Trong khi hành thiền, hành giả muốn cái gì thì theo dõi tâm
muốn của mình bằng sự nhận thức và hiểu biết. Người chuyên tâm theo
dõi và quan sát sự sanh và hoại diệt, nó sẽ lợi ích hơn cho hành giả
để thực chứng được tuệ giác mau chóng. Nếu có sự lo lắng, bồn
chồn và náo động, thì những phiền não này sẽ tìm thấy ở nơi nào mà
hành giả sống thoải mái. Ðiều quan trọng là hành giả ngăn chặn những
phiền não bằng sự quan sát sanh và diệt rõ của bất cứ cái gì đưa
đến.
Ðểạ sự việc này rõ hơn, chúng ta phải ghi nhận một lần nữa là
khi hành giả quan sát tâm thức, lúc đầu hành giả thấy diệt và thấy
được sự vô thường một cách rõ ràng. Lập tức theo sau là một tâm thức mà
tâm thức đó quan sát tâm thức trước. Ðây là thiền quán hay là tâm
đạo tuệ. Do đó khi hành giả quan sát tâm thức sẽ có một chuỗi
tiếp nối sự kiện: vô thường, tuệ giác, vô thường, tuệ
giác...
Ðiều quan trọng cho việc tu tập là hành giả đạt được tuệ
đầu tiên trong sự thực hành thiền quán để lý vô thường xảy ra
trước và tuệ giác theo sau liên tục nảy sanh lần lượt cái nọ sang
cái kia mà không cho phiền não xen vào. Nói cách khác, tâm thức đã hoại
diệt và biến mất thì không có lầm đâu. Phải ghi nhận, quan sát và
hiểu biết đúng là nó đã hoại diệt và tâm thức theo sau được
gọi là tuệ giác bởi vì nó cảm nhận bằng tuệ giác trực tiếp
mà tâm thức trước đó đã hoại diệt và biến mất rồi.
Trong thời gian tu tập, hành giả sẽ nhận biết tất cả những trạng thái
tâm xuất hiện như vui hay buồn, hạnh phúc hay đau khổ. Những thứ này hành
giả cũng phải niệm như là đề mục thiền. Trong bất cứ trường hợp
nào, hành giả không nên chán nản hay thất vọng do những sự khó khăn này
bởi vì đây là những đề mục thiền.
Về ân đức thứ sáu của pháp bảo là "ehipassiko", nghĩa là
đến để lãnh hội. Do đó chánh pháp dành cho mọi người đến
để mà lãnh hội và thử nghiệm chân lý, và lãnh hội nó như
thế nào để vượt qua pháp sanh diệt.
Lúc nào chỉ còn một ít lỗi trong sự quan sát và tỉnh giác của hành
giả, điều đó có thể nói rằng hành giả đã phát huy tuệ giác
của mình ở phạm vi khá tiến bộ. Khi hành giả theo dõi được tiến
trình sanh diệt mà không có bất cứ phiền não nào xen vào, lúc đó
hành giả đạt được đến giai đoạn có thể đoạn trừ tà kiến
về bản ngã. Ở điểm này, đạo quả Tu-đà-huờn không xa lắm [9].
Ðức Phật dạy: "Thiền giả chân chánh an trú, niệm tâm liên
tục mà không cho thất niệm, có chánh tri kiến, hiểu biết bằng
tuệ giác mà tuệ giác đó thì tạm thời, vô thường, ngắn ngủi và nó
không thể tồn tại hai sát-na liên tục giống nhau. Như vậy thiền giả
hiểu được tuệ vô thường và giải thoát phiền não chứng ngộ
Níp-bàn ngay trong kiếp sống này".
Ðối với hành giả, điều quan trọng là chuyên chú nỗ lực
để nhận biết bằng trí tuệ và hiểu được bất cứ loại tâm
thức gì sanh khởi trong mỗi khoảnh khắc. Việc thành tựu tuệ giác
ban đầu về sanh và diệt có nghĩa là sự thành tựu khi hành giả liễu
tri được năm uẩn một cách thực tế. Chính xác hơn, chúng không là gì
cả nhưng chỉ có sanh và diệt và như vậy rất đau khổ và vô ngã.
Một câu hỏi có thể đặt ra là: Hành giả có được lợi ích gì khi
đạt được mức độ chú tâm là thấy được sự sanh diệt của năm uẩn.
Câu hỏi đó có thể được trả lời: Tâm tham sanh khởi, nếu hành giả
tu tập thiền quán, hành giả hiểu rằng ngay khi tâm tham sanh khởi thì
nó cũng đã diệt rồi và không tìm thấy ở đâu cả. Chỉ biết sự sanh
diệt này không giống với tâm tham. Do đó tiến trình nhân duyên bị
người ta tách ở giữa hoặc nói cách khác tham được đoạn trừ. Nếu không
có niệm tâm tham chắc chắn nó sẽ sinh ra sự dính mắc và lần lượt sinh ra
nghiệp quả. Khi nghiệp quả sanh, tái sinh bám víu vào. Khi có sự tái
sinh có nghĩa là có đau khổ và vướng vào vòng sanh tử luân hồi vô tận.
Cho nên điều này phải tu tập thật kỹ. Việc thực hành về sự
quán niệm sanh diệt chẳng khác gì là chấm dứt vòng tái sanh. Ðây là
công việc phá vỡ bánh xe luân hồi. Một việc làm cắt đứt những sự
liên hệ và những chuỗi nhân duyên. Nó cũng là một cử chỉ đoạn trừ
vô minh qua việc thành tựu tuệ giác. Sự quán niệm sanh diệt của
năm uẩn và làm sao thấy chúng không có gì quan trọng lắm, nhưng chỉ có
đau khổ mới có thể được tu tập và hiểu biết bằng sự thực hành
thiền quán. Khi tuệ giác này đạt được, thì vô minh biến mất và
chân lý được hiển lộ.
Theo định lý nhân duyên, lúc vô minh biến thành trí tuệ,
nghiệp quả không có sức mạnh để liên kết với tâm thức. Khi sự
liên kết không có, hành động sẽ không sản sinh ra bất kỳ kết quả
nào có thể mang lại sự tái sinh, hay nói cách khác, hữu không còn nữa và
hành giả đạt đến sự giác ngộ.
Như vậy, chúng ta có thể nói rằng tu tập thiền quán thật sự là
phương pháp hữu hiệu để quán chiếu sự thay đổi nhanh chóng của
tiến trình thân tâm. Bởi vì thường xuyên ghi nhận làm tuệ giác sâu
sắc thêm.
Thiền trên Cảm thọ
Thêm nữa điều giảng dạy thiền định trên tâm thức, thiền sư
Mogok Sayadaw cũng đã dạy làm sao tu tập thiền quán bằng sự quán tưởng
về cảm thọ. Thiền trên cảm thọ hành giả sẽ đạt đến cùng
tuệ giác uyên thâm trong bản chất tiến trình thân tâm cũng giống như
thiền trên tâm thức. Nó sẽ đưa đến sự phá vỡ chuỗi nhân duyên,
vòng luân hồi và đau khổ.
Chúng ta niệm cảm thọ ở đâu? Cảm thọ phát sinh lên lúc nào
cũng có ba hiện tượng liên kết: căn, trần và thức. Sự va chạm của ba
thứ này là xúc. Nguyên nhân gần nhứt của cảm thọ cũng là xúc. Cho nên
cảm thọ không phải là mục đích để tìm kiếm. Nó sanh bất cứ lúc
nào và khi nào có xúc.
Cảm thọ phát sinh trên nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt căn thì luôn luôn trung
lập. Cảm thọ phát sinh trong thân vừa khổ vừa lạc. Cảm thọ phát sinh
trong tâm có thể là vừa lạc vừa khổ và vừa trung tính.
Ðiều quan trọng để biết là cảm thọ được đề cập
ở đây không giống như cảm giác, mà ám chỉ đặc tính lạc, trung tính, hay
bất lạc của một đối tượng.
Ðôi khi hành giả thưởng thức cảm giác an lạc, đặc biệt trong lúc
hoàn cảnh thuận lợi và thoải mái. Ở những trường hợp khác, hành giả có
thể cảm nhận đau nhức và không thoải mái với hoàn cảnh không thuận lợi,
hoặc trạng thái thân tâm. Ðôi khi hành giả cảm nhận cảm thọ trung tính
có liên quan với sự cảm nhận hiện tiền của hành giả.
Thiền sư Mogok Sayadaw đã tạo công thức và thiết lập một phương
pháp dễ dàng về việc phân loại cảm thọ để quan sát trong khi
hành thiền, như sau:
Sáu ngoại xứ:
Cảm thọ trung tính phát sinh trong nhãn căn.
Cảm thọ trung tính phát sinh trong nhĩ căn.
Cảm thọ trung tính phát sinh trong tỷ căn.
Cảm thọ trung tính phát sinh trong thiệt căn.
Cảm thọ lạc phát sinh trong thân căn.
Cảm thọ khổ phát sinh trong thân căn.
Ba ngoại xứ:
Cảm thọ lạc trong ý căn.
Cảm thọ khổ trong ý căn.
Cảm thọ trung tính trong ý căn.
Ba căn chủ yếu:
Thở vào và thở ra bằng cảm thọ lạc, hỷ và khoái cảm.
Thở vào và thở ra bằng cảm thọ bất lạc, không an vui, đau khổ hay thất
vọng.
Thở vào và thở ra bằng cảm thọ trung tính, vừa thọ lạc vừa thọ
bất lạc.
Trước tiên đối với hành giả, để phân biệt những cảm thọ là
một điều rất quan trọng. Nếu phát sinh cảm thọ lạc và cảm
thọ bất lạc thì hành giả phải cố gắng nhận biết chúng, nếu phát
sinh cảm thọ lạc và cảm thọ trung tính thì hành giả cũng ghi nhận như
vậy. Cảm thọ cũng phải được tách ra khỏi ý niệm về "bản
ngã". Với ý tưởng "tôi cảm thấy đau, tôi cảm thấy hạnh
phúc", có một sự liên tưởng không đúng hoặc sự chứng thực về cảm
thọ với "bản ngã". Cảm thọ và tôi thì tách rời khi cảm
thọ được hành giả nhận ra rõ ràng bởi vì chỉ là cảm thọ và không
có gì khác hơn. Ðừng để cảm thọ nhân cách hóa "cái tôi",
"cảm thọ của tôi". Nó là sự cảm thọ mà hành giả cảm thấy.
Nó đơn thuần là một tiến trình. Không có cái tôi mà hành giả cảm
thấy. Hành giả phải nhận thức được chân lý này. Cho đến khi hành
giả hoàn toàn quen thuộc với kiến thức cơ bản được dạy trong bài pháp
này, điều này sẽ trở nên khó khăn với hành giả để có thể tách
rời cảm thọ với cái ngã. Bởi vì như vậy sự suy niệm hoặc thiền
sẽ ám chỉ là: chính tôi cảm thấy đau khổ và phiền não, chính cái tôi
cảm thấy hạnh phúc hoặc khoái lạc. Trong trường hợp đó, hành giả sẽ không
đạt được Níp-bàn -đạo quả tu tập- mặc dù hành giả tinh tấn rất
nhiều.
Ðiểm quan trọng kế tiếp của hành giả là phải suy niệm
về sự cảm thọ ở đâu và khi nó phát sinh. Hành giả phải tu tập bất
cứ khi nào để chú tâm trên ngực hoặc trên đầu, nhưng sự cảm thọ
xuất hiện ở mọi nơi trong thân bất cứ khi nào có sự xúc chạm, như
vậy người ta không thể nói rằng loại tu tập này thì đúng. Nó giống như
mũi tên nhắm vào mục tiêu sai. Không ai có thể tập trung sự cảm thọ
vào bất cứ một nơi đặc biệt nào. Nó sẽ phát sinh bất cứ ở đâu khi có
cảnh trần xuất hiện trước. Nếu hành giả tin rằng sự cảm thọ mà
hành giả thiền trên đề mục đó theo từng sát-na thì cũng giống như
ở một sát-na khác, hành giả có một con đường dài để đi đến. Hành
giả phải nhận thức và thấy bằng tuệ giác rằng mỗi cảm thọ
đều thay đổi, vô thường, và không bao giờ duy trì giống như thế
trong hai sát-na liên tục. Nếu hành giả mất đi sự nhận thức và cảm nhận
bằng tuệ giác là cảm thọ thì vô thường, hành giả vẫn còn đi sai con
đường. Thông thường người ta tin tưởng sai lầm rằng sự cảm thọ là một
sự cảm nhận liên tục và lâu dài, nhưng với chánh niệm và tập trung,
hành giả sẽ nhận thấy tất cả cảm thọ sanh diệt liên tục.
Hành giả phải an trú thiền về sự sanh diệt của cảm thọ.
Ðiều quan trọng đối với hành giả đừng tìm kiếm cảm thọ sau
mục đích của mình. Thông thường người ta tin rằng khi người ấy đau nhức,
bệnh tật, nó được gọi là cảm thọ, nhưng cảm thọ còn hơn
như thế nữa. Nó xuất hiện ở mọi lúc. Một trong sáu cảm thọ
thì phát sinh trên mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý ở mỗi sát-na tâm
thức.
Không có một sát-na nào mà thoát khỏi cảm thọ, như vậy hành giả phải
cố gắng nhận thức và hiểu biết tiến trình sanh diệt. Bản chất
của năm uẩn trở nên rõ ràng khi người ta hiểu biết đầy đủ thọ
uẩn.
Sự sanh diệt thì vô thường, sự hiểu biết sâu sắc về sự
việc này là tuệ giác đúng đắn. Khi hành giả có thể tu tập tới
điểm mà không còn phiền não len lỏi hoặc sự xao lãng giữa sự quan
sát về vô thường và tuệ giác, sự cảm nhận của Níp-bàn nằm ở trong
đó.
Ðể đạt được trí tuệ này cao hơn, trước tiên hành giả phải an
trú ngay vào chính cảm thọ, sau đó đi xa hơn và tập trung tâm của mình
vào sự sanh diệt, cuối cùng cho đến khi hành giả nhận thức rõ ràng
sự cảm thọ bị tiêu diệt và sự cảm nhận chỉ là một tiến trình
của một hiện tượng sanh diệt. Sự việc này rất quan trọng, cho
đến bây giờ bất cứ khi nào hành giả suy niệm về sự cảm thọ
thay vào đó chỉ đơn thuần ghi nhận sự cảm thọ, nó bị đoạn diệt và
hành giả hiểu biết sâu sắc tiến trình sanh diệt. Lúc này hành
giả đang đi trên con đường tuệ giác.
Sự suy niệm về sanh diệt không phải là một kĩ thuật mới. Nó là
một con đường cổ xưa mà chư Phật, chư Bồ-Tát, những người đã giác ngộ
xa xưa đã đi qua. Nó là một kĩ thuật của chấm dứt việc tạo nhân
để ngăn chặn quả. Ðiều này hành giả có thể hiểu theo
tiến trình nhân duyên.
Giáo lý nhân duyên cho thấy rằng do cảm thọ phát sinh ái dục. Như
vậy sự đoạn trừ cảm thọ mang lại sự đoạn trừ ái dục, và sự đoạn trừ
ái dục là con đường đi đến Níp-bàn-giải thoát. Toàn bộ tiến trình
này xảy đến do kết quả của lòng tin, nỗ lực và trí tuệ của
hành giả. Hành giả có thể nhìn vào ngay tâm của mình là sự đoạn trừ
cảm thọ mang đến sự không phát sinh ái dục. Như vậy, nó chấm dứt
phiền não, bởi vì ham muốn không phát sinh khi có sự đoạn trừ cảm
thọ. Sự chấm dứt phiền não giúp cho hành giả đạt được Níp-bàn ngay
trong kiếp sống này.
Sự tu tập xa hơn
Cho đến bây giờ quý vị đã hiểu biết đuợc sự giải thích,
đầu tiên hành giả phải đạt được sự hiểu biết khái niệm về
tứ đại, các căn, ngũ uẩn, và tiến trình nhân duyên. Hành giả phải phát
huy sự hiểu biết này bằng cách thiền về hơi thở cho sự tập
trung và rồi trên tâm thức hoặc những cảm thọ. Bằng sự phát huy chánh
niệm về tâm thức hoặc cảm thọ hành giả sẽ bắt đầu nhận thấy
những sự kiện này ở trong một trạng thái thay đổi liên tục sanh và
diệt.
Cho đến bây giờ việc hành thiền đã trực tiếp vào sự cảm
nhận sanh diệt của tâm thức và cảm thọ. Bây giờ hành giả phải nhận
thức sự kiện rằng tất cả ngũ uẩn đồng sinh, đồng hiện hữu và đồng
diệt.
Ngay khi sự phát sinh tâm thức xảy ra, sắc uẩn đã đóng vai trò trong nhãn
căn; đồng thời cảm thọ cũng đóng vai trò của nó bằng cách ghi nhận sự
khoái lạc, không khoái lạc hoặc trung tính; thích thú hoặc không thích thú.
Tưởng cũng không đứng yên bởi vì nó ghi nhận hoặc cảm nhận hình dáng, màu
sắc, chiều dài, âm điệu, sự tung lên, tốc độ... Hành cũng làm chức
năng của nó bằng cách trực tiếp vào nhãn căn hướng đến cảnh trần,
nhĩ căn hướng đến âm thanh, tỷ căn hướng đến hương vị,
thiệt căn hướng đến sự nếm, thân hướng đến sự xúc chạm,
tâm hướng đến những ý tưởng, suy nghĩ và những cảm nhận đã qua.
Người ta có thể thấy rõ ràng rằng ở trong mỗi hiện tượng của
năm uẩn đều phát sinh xuất hiện đồng một lúc và đóng vai trò riêng
lẻ của chúng. Hành giả cần đặt nặng về sự kiện tất cả chúng
đều đi đến hoại diệt một lúc. Toàn thể thân tâm đơn thuần
là năm uẩn đồng sanh diệt với nhau. Do đó người ta có thể thấy rằng
ngoài năm uẩn sanh diệt không có sự thường hằng "tôi, anh, đàn ông,
đàn bà, hoặc con người trong tiến trình này".
Khi hành thiền chuyên chú, cuối cùng hành giả sẽ đạt được một giai
đoạn mà giai đoạn đó, hành giả chỉ cảm nhận hiện tượng sanh diệt
và không cảm nhận điều gì khác nữa. Mọi thứ đều quanh quẩn ở
hành giả, trong mọi phương hướng, và trong mọi vùng, bất cứ điều
gì hành giả nhận thức chỉ nằm trong pháp này thôi. Hành giả thấy không có
điều gì thoả mãn cho cảm thọ hoặc tâm thức. Nhĩ thức phát sinh hành
giả chỉ cảm nhận sanh và diệt. Một cách tương tự, khi tỷ thức phát
sinh, hành giả không nên cảm nhận sự thỏa mãn của tỷ thức mà chỉ cảm
nhận sự sanh và diệt thôi. Lúc thiệt thức, thân thức và tâm thức
phát sinh, những thứ này hành giả cũng chỉ cảm nhận như vậy thôi.
Trong tất cả danh pháp và sắc pháp, điều gì hành giả cảm nhận thì
tạm bợ, vô thường và luôn thay đổi? --Tưởng và ý thức của hành giả,
cả hai sắc, thọ hoặc thức như là vô thường và không hiện hữu trở
nên quá rõ ràng mà ở hành giả lúc đó phát sinh sự nhận thức rõ về tam
tướng, hành giả thấy được chân lý vô thường, khổ não, vô ngã. Như
vậy hành giả thấm nhuần được sự nhận thức này, thấy năm uẩn thật rõ: ghê
sợ, đáng ghét, kinh tởm và bấp bênh bởi vì sanh diệt liên tục làm chúng
đau khổ. Hành giả thấy và nhận thức rằng, tất cả vạn pháp đều vô
thường. Khi cảm nhận vô thường, nhiều hành giả trở nên nhàm chán năm
uẩn nhiều hơn nữa. Trong hiện tại, tham được giảm thiểu bởi vì
về phương diện tinh thần, hành giả bị đau khổ đối với vô thường,
khổ não, vô ngã.
Ở điểm này, hành giả phải quyết tâm đoạn trừ đau khổ, cắt
đứt vòng sanh tử luân hồi. Bây giờ hành giả đã thuần thục trong việc
cảm nhận về sự đoạn trừ của tiến trình này, hành giả đạt được
hạnh phúc cao nhất - Níp-bàn.
Cảm nhận về Níp-bàn và trí tuệ phát sinh từ việc nhận biết
bản chất thật của năm uẩn sẽ đoạn trừ được tà kiến, đặc biệt là
sự cố chấp về bản ngã. Khi tà kiến được đoạn diệt, ái dục và
ngã mạn cũng được đoạn trừ và vòng nhân duyên đã bị cắt đứt.
Theo lời dạy của đức Phật, sự sanh diệt của thân và tâm là khổ
đế, việc nhận thức đó là Níp-bàn. Dứt bỏ sự cố chấp sẽ không còn
đau khổ nữa và sanh tử luân hồi cũng bị đoạn diệt. Do đó hành
thiền hay quán niệm sanh diệt của năm uẩn bao gồm toàn bộ tứ
diệu đế. Tuệ giác này là mục đích chính của thiền quán.
Thiền quán phải được quý vị tu tập càng sớm càng tốt. Chúng ta nên
nhớ rằng già, bệnh, chết không có chờ chúng ta đâu và như vậy hãy
hành thiền chuyên cần. Tu tập thiền quán là con đường độc nhất
để có an lạc và hạnh phúc trong kiếp lai sinh và chấm dứt đau khổ
ngay trong kiếp sống này.
Chú thích:
[1] Tâm và sở hữu tâm tất cả bao gồm với nhau nên chúng ta gọi là
tâm..
[2] Tứ đại cơ bản này bao gồm toàn bộ vũ trụ vật lý.
[3] Xem Chương về Thiền sư Mohnyin Sayadaw.
[4] Thức được đề cập ở đây là khía cạnh của tâm mà nó
"biết một đề mục" và "biết năng lực của chúng
ta".
[5] Căn môn ở đây ám chỉ sáu thức của chúng ta: nhãn, nhĩ, tỷ,
thiệt, thân và ý.
[6] Mặc dù nhân duyên được miêu tả như là một chuỗi đầu tiên, nó
theo dõi mỗi sát-na của năm uẩn, mà năm uẩn tạo nên chuỗi sanh
diệt liên tục này.
[7] Tâm luôn luôn sanh diệt từng giây phút. Khi được quan sát kỹ,
mỗi tâm thức sanh lên người ta có thể nhìn thấy nó bắt một cảnh,
một sự nhận biết và những yếu tố tâm khác như là thọ, hành. .
.(xác định tâm thức có liên quan với đối tượng như thế). Ðối tượng,
tâm thức, sở hữu là sự miêu tả khác nhau về sự sanh và diệt của năm
uẩn.
[8] Trong thực tế, làm sao hành giả thấy sự quan sát của mình là sát-na
kế của tâm thức quá khứ và sự nhận biết sát-na đầu tiên của tâm
thức ra sao và đối tượng đã hoàn toàn đoạn diệt.
[9] Như vậy, chúng ta có thể nói rằng tu tập thiền quán thật sự là
phương pháp hữu hiệu để quán chiếu sự thay đổi nhanh chóng của
tiến trình thân tâm. Bởi vì thường xuyên ghi nhận làm tuệ giác sâu
sắc thêm.