BuddhaSasana Home Page Tìm hiểu Ðạo
Phật Chương
1 Xã hội là một đoàn thể
nhiều người sống chung với nhau, có nhiều liên quan mật thiết và
có ý chí, sự hành động giá trị, tư tưởng, lợi lộc bình đẳng. Từ xưa, môn học về xã hội hầu như bị người
lãng quên, nên không có chương trình ở các học đường. Về sau,
người gặp phải tai biến như hai trận thế chiến, nên làm cho người
quan tâm đến đời sống của xã hội càng ngày càng mạnh lên. Nên mới lập
ra chương trình học về môn ấy gọi là Sociologie nghĩa là Xã Hội
Học. Người sanh lại trong thế giới này, hạng người nào
cũng phải cùng sống chung trong một nhóm gọi là Xã hội. Con người sống
chung trong một xã hội đều cần có bốn điều nhu cầu trọng đại
cần thiết, là Cơm nước, thuốc men, chỗ cư ngụ, và y phục. Theo Phật
giáo gọi là Tứ vật dụng. Mặc dầu, người trong xã hội có đầy đủ nhu cầu cần
thiết, nhưng cũng vẫn còn chưa đủ, nghĩa là còn chưa hoàn toàn làm cho
đời sống yên vui và hạnh phúc; vì còn thiếu món rất cần cho tinh thần
nó là Ðạo đức. Vì thiếu đạo đức nên con người không được hoàn
toàn an vui thật sự. Vì cái an vui thật sự đó là vui của Tinh Thần. Các bực Trí thức chia sự an vui nhu cầu của Xã hội có
ba phần: 1. Physical Need, Nhu cầu cho thể chất trong đó có
bốn điều nhu cầu kể trên. 2. Social Need, Nhu cầu cho Xã hội, là tạo cho xã hội có
trật tự, có ngoại giao để xứ này xứ kia hiểu biết nhau nhiều
thêm, giao dịch, giữ quyền lợi của cá nhân cũng như của một dân tộc,
nhứt là giảm mức chiến tranh hay không cho có chiến tranh. Hai điều trên thật quan trọng nhưng vẫn còn kém
điều thứ ba. 3. Spiritual Need, Nhu cầu cần thiết cho tinh thần. Nhu
cầu này thuộc về luân lý lễ giao. Nếu nói theo đường lối nhà
Phật là Giới Ðức, lòng Từ Ái, không làm hại và cố tránh xa sự làm hại
nhau và sự hiềm khích nhau, diệt tắt sự oan trái oán thù và yêu
thương nhau như người thân thuộc. Ðiều thứ ba này là sự sùng kính một Tôn giáo hay
là Phật đạo. Theo Phật ngôn dạy thì tất cả những vật có thức tánh, chỉ có
người là khôn ngoan hơn hết, biết tổ chức một xã hội khả dĩ tạm
gọi là hoàn toàn hơn các loài khác. Nhưng nếu xã hội ấy thiếu
Tôn giáo hay Phật đạo thì trở nên càng nguy hiểm hơn. Tại sao? Vì thiếu luân lý dạy về tinh thần
như đã nói trên. Tóm lại Xã hội tuy có Tổ chức thật là chu đáo nhưng
cũng chỉ chu đáo được một phần nào thôi, vì thiếu phương pháp tổ
chức về tinh thần. Chỉ có Tôn giáo hay Phật đạo mới dạy về tinh thần
chu đáo, và nhờ đó mà con người được an vui hơn, hạnh phúc hơn. Tôn Giáo Là Gì?
Nói về Tôn Giáo, theo người phương Tây dùng
tiếng Religion, Việt Nam dịch là Tôn giáo. Tiếng Tôn giáo đối với
Ðệ tử Phật thật là xa lạ. Vì Ðệ tử Phật đã nhận định rõ rệt
là Phật Giáo không phải là Tôn giáo. Còn có tiếng khác hơn tiếng Religion (Tôn giáo)
là tiếng Doctrine, có nghĩa là Lý thuyết hay Chủ nghĩa (theo Tự
Ðiển Anh Việt của Ông Nguyễn Văn Khôn). Lại còn tiếng Philosophy,
nghĩa là Triết Học (theo Tự điển Anh Việt của ông Nguyễn văn
Khôn); có tiếng khác nữa gọi là Ethic có nghĩa là Luân Lý Học
hay Ðạo Ðức Học (theo Tự Ðiển Anh Việt của ông Nguyễn văn Khôn). Trong bốn tiếng kể trên không có tiếng nào
định nghĩa được tiếng Phật Giáo cho rõ rệt. Vì lẽ nói trên đây,
nên nội dung quyển sách này, tôi không nói một Tôn giáo nào khác hơn
Phật Giáo. Trước hết tôi tạm giải tóm tắt bốn tiếng nói
trên hầu quí vị độc giả. Tiếng Religion (Tôn Giáo) phát sanh từ tiếng Latin
là Reigio. Tiếng này có hai vị đại Trí thức người Roman, một vị tên
Cicego dạy rằng: Tiếng Religion phát sinh từ tiếng Leg có nghĩa là Nhận
Lãnh, Thừa Hành hoặc là Cùng Hội Họp Lại. Có nghĩa rộng là Nhận lãnh
hiện tượng nào có liên quan với đấng chúa tể để thừa hành theo;
hay là thừa hành theo lời giáo huấn của đấng chúa tể. Còn vị thứ nhì tên là Servius có giảng tiếng
Religion phát sanh từ tiếng Lig mà ra. Lig có nghĩa là Liên Quan hay Cột
dính vào; nghĩa rộng là sự liên quan giữa con người và đấng thiêng liêng (a
communion betwen the human and supreme human). Ý nghĩa rõ hơn là: Sự liên quan
(về tinh thần) giữa người và đấng thiêng liêng. Vì lý do trên nên
tiếng Religion được dịch sang tiếng Việt là Tôn Giáo. Tiếng Religion người phương Tây dùng có ý
nghĩa là sự giao phó Ðức tin của mình để cúng dường cho đấng thiêng
liêng là Chúa. Theo tin tưởng của người phương tây, tiếng Religion
có bốn trạng thái là: 1. Tin chắc rằng: Chúa là người tạo ra thế gian này
và tất cả vạn vật trong thế gian. 2. Tất cả kinh đều do nơi Chúa ban bố ra dạy đời. 3. Có nhiều điều chỉ được phép tin tưởng mà
không được quyền hỏi hay nghi ngờ và cật vấn. Chỉ tin theo lời giảng
giải của đấng cứu thế thôi, vì đấng cứu thế có uy quyền trên
vạn vật nên con người không được phép nghi ngờ. 4. Có qui luật là người vào tôn giáo ấy bắt buộc
phải tự mình phát nguyện giao sanh mạng và sự hành động của mình cùng
mọi việc có liên quan đến bản thân mình cho chúa và phải hết
lòng yêu thương chúa. Tiếng Religion của phương Tây còn có thích hợp với
nhiều Tôn giáo như Bà la môn giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo. Các tôn giáo kể trên, khi bắt đầu xin làm tín đồ
phải tin tưởng một đấng thiêng liêng tối cao tạo ra quả địa cầu và vạn
vật phải tin chắc lời giáo huấn của ông chúa tể ấy là khuôn vàng thước
ngọc, bất khả tư nghị. Tóm lại tiếng Religion của người phương Tây là:
Phải tỏ ra lòng kính thành, sự tin tưởng, kinh sợ bực tối cao là Ðấng
thiêng liêng hay là vị Chúa tể có oai đức trên hết tất cả vạn vật.
Vị ấy không thể thấy và biết được, chỉ biết và thấy bằng trí
tuệ mà thôi. Riêng Phật giáo có một đường lối khác hẳn hơn
Religion (Tôn giáo) của người phương Tây. Ðạo Phật hay Phật giáo có nghĩa
là lời giáo huấn của đấng hoàn toàn Giác Ngộ là Phật. Còn có nghĩa rộng
hơn nữa là: Ðường lối tự tin lấy bản thân mình, tự hành để đi
đến nơi hoàn toàn giải thoát, có ý nói là Tự giác Giác tha. Phải
tự mình bỏ dữ về lành, sửa tâm lương thiện, chớ không có nhờ một
tha lực nào hết. Phật giáo có ý nghĩa tương phản với tiếng
Religion là: 1. Không có tin tưởng riêng một đấng thiêng liêng
nào, nhưng tin ở Nghiệp là nguyên nhân đưa con người đi sanh tùy theo
người đã tạo ra nghiệp ấy. 2. Không tin nơi lời nào gọi là do đấng thiêng
liêng hay tạo hóa mà không đủ bằng cớ. Mặc dầu người bảo rằng: đây là
Phật ngôn nhưng không đủ lý do là lời Phật thì cũng được quyền
không tin và cật vấn cho ra lẽ. 3. Trong bài kinh Kãlãma sutra có dạy: Người đệ tử
Phật chân chánh không thể tin một chuyện gì không đủ lý do, luôn
luôn nên dùng Trí tuệ để tham cứu cho rõ rệt. Lắm kẻ lợi dụng
lời nói để bịa ra nói là Phật ngôn. (Xin xem đoạn sau, nói rõ những
lý do nào thật là Phật ngôn và không phải Phật ngôn) 4. Người muốn làm đệ tử Phật không bị bắt buộc
là p hải thệ nguyện không bỏ đạo, không được nghe lời giảng dạy
người nào khác. Người tu Phật có quyền bỏ Phật giáo theo Tôn giáo hay
một triết lý nào cũng được, khi mà nghe thấy Phật giáo, không phải
là con đường giải thoát. Và khi ăn năn biết rõ mình lầm đường vẫn
trở lại được, không có chi trở ngại. Các bực Trí thức dạy phải có đầy đủ bốn nguyên
nhân mới có thể gọi là Religion được. 1. Có thể tin tưởng được là có nơi ta đến
lễ bái cúng dường mà người thời xưa đã tạo nên làm di tích rồi
truyền đến hôm nay. 2. Lời giáo huấn ấy phải phù hợp với Luân Lý, Lễ
giáo và có Kỷ Luật để người hành theo, nhờ sự hành đạo ấy đem
lợi ích đến cho người. 3. Phải có một đấng khai hóa Religion (Tôn Giáo) ấy rõ
rệt và phải có sách sử ghi rõ rệt. 4. Phải còn có người thực hành đúng theo khuôn khổ
của các bực khai hóa ấy. Ðây mới thật là một Religion (Tôn giáo). Việt Nam Tự Ðiển của ông Thanh Nghị cắt nghĩa
tiếng Religion là Tôn Giáo có nghĩa là: "Giáo lý của một giáo
phái lấy sự thờ của Thần Linh làm chủ đích". Doctrine Doctrine có nghĩa là Học thuyết, Lý
thuyết. Có khi ta thấy có nơi viết Lý thuyết của Bà La môn hay
của một vị Trí thức nào. Riêng Ðệ tử Phật thì không bao giờ nói Lý
thuyết hay Triết lý của Phật, mà chỉ nói là Phật ngôn, hay chân
lý Phật giáo. Theo tự điển Anh ngữ của Ông Chamber và Webster cắt
nghĩa: "Lời giảng dạy nhau từ xưa còn rồi truyền đến nay. Sự tin
tưởng, lời giảng dạy của một tôn giáo phái nào". Từ điển Oxford cũng giải giống như trên. Theo lời giảng trên thì Doctrine là một Lý
thuyết chớ không gọi là một Tôn giáo. Tiếng Doctrine theo Tự
điển Việt Nam của Ông Thanh Nghị giải: Cái cốt ý chủ trương
riêng của một phái, một đẳng nào về phương diện Triết học. Philosophy
Philosophy là Triết học, đây cũng là một danh
từ mới. Theo tiếng Âu Mỹ Philos có nghĩa là sự Thương Yêu.
Tiếng Sophy có nghĩa là Trí Tuệ. Khi hai tiếng ấy nối vào nhau thì
có nghĩa là sự thương yêu nhau bằng Trí Tuệ. Còn Tự điển Thái của
ông Rãjapamdita có cắt nghĩa là: Phương pháp nói về nguyên tố của sự
hiểu biết sự thật. Theo Việt Nam Tự điển của ông Thanh Nghị giải
tiếng Philosophy là Triết Học, môn học nghiên cứu để tìm
hiểu nguyên lý của vạn vật. Ý nghĩ của các bực Trí thức dạy tiếng Doctrine
Triết lý là môn học của các chư vị Trí thức nghiên cứu kỹ càng
không hề chịu ảnh hưởng các giáo phái hay tôn giáo nào, nghĩa là không
chịu ảnh hưởng của Thiên đàng, của một vị giáo chủ nào hết. Ðiều
quan trọng của Doctrine là dạy đời sống, về sự thật của đời sống. Ethic Ethic nghĩa là Luân Lý Học (Theo Tự điển Anh
Việt của ông Nguyễn văn Khôn). Lý Do Có Tôn Giáo
Sở dĩ mà có Tôn giáo là do nơi lòng tin tưởng vì
lý do kinh sợ mà thờ phượng, và vì có nhiều người đồng ý với
nhau nên sự thờ phượng và tôn kính ấy rõi truyền từ đời này đến
đời khác, rồi sự thờ phượng ấy cũng đi theo đà tiến triển của con
người mà thay đổi. Sau này có nhiều vị Trí thức sưu tầm và khảo cứu
thấy lý do sanh ra Tôn giáo, chia ra làm ba giai đoạn. Giai đoạn Thứ Nhứt. Nguyên nhân phát sanh ra Tôn giáo chia ra làm Năm thời
kỳ tùy theo sự tiến hóa cuả nhân loại. 1. Animalism: sự tin tưởng ở thiên nhiên. Trên thế
giới này có hai phần là nhân vật có thức tính, và vật không có thức tánh.
Theo lịch sử mà nói, thì khi người sinh ra đã có vạn vật như sáng, tối,
lạnh, nóng, núi, rừng v.v... Người bị hoàn cảnh thiên nhiên bên ngoài chi
phối nào là lạnh quá, nóng quá, hay mưa to gió lớn làm cho kinh khủng, hay bị
tật bịnh vì thời tiết thay đổi bất thường. Nên tin tưởng rằng: Thiên
nhiên ấy có oai lực vô lượng, và rất là huyền dịu. Nên đồng cùng nhau
lập ra nơi thờ phượng, tỏ lòng cung kính và cầu xin cho được an vui, nên
gọi là Animatism - Sự tin tưởng thiên nhiên. 2. Animism: Tin tưởng tôn sùng Thần linh. Con người nhờ
sự tiến hóa lần lần nên đi đến nơi sáng suốt hơn, người thời ấy
mới nghĩ: Tối, Sáng, Nóng, Lạnh, rừng thẩm, núi cao, sông sâu biển rộng
có oai lực làm cho vạn vật biến chuyển được, và cũng có thể
trừng phạt và ban thưởng. Những oai lực ấy có thể làm cho người vui hay
khổ được. Ðó là các đấng Linh thần gọi là Spirit có nghĩa là Linh
Thần. Sự tin tưởng Thần Linh này chúng ta có thể chia ra
làm ba phần khác nhau: A. Tin rằng Vạn vật đều có Thần Linh, Spirit, ứng
bên trong. B. Tin rằng Spirit - Thần Linh ấy có quyền thưởng
phạt con người. Những Thần linh ấy, người không thể nhận thấy bằng mắt
được mà thật ra có hình dạng, nếu khi nào muốn cho thấy thì ứng
hiện ra rõ rệt. C. Mặc dầu không thấy được nhưng đã có ứng hiện
ra cho người thấy để vẽ hay nắn hình thờ phượng. Ðây là những lý do làm cho người trong xã hội
thời ấy tin tưởng thờ phượng. Nên các bực trí thức cho tên là Animism, Thần
Giáo. Tiếng Animism do nơi gốc của tiếng Latin là Animus có đồng nghĩa
như tiếng Soul hay Spirit của Anh. 3. Polytheism: Tin tưởng nhiều vị thần linh. Người
thời ấy tin tưởng những hình ảnh nào thì tự mình chế ra như nắn hình
hay vẻ ra để tôn thờ tùy theo lý trí của mình. Vì nhiều người
trong một xã hội nhờ có ý kiến và sự tôn sùng khác nhau như vậy nên
họ đồng ý nhau tạo ra tượng hay vẻ hình mỗi ý kiến cần
thiết của mình ra cùng thờ chung một chỗ như chỗ thờ thần tập
thể. Người thời ấy cùng tin tất cả các vị thần linh. Vì vậy nên gọi
là Polytheism. 4. Henotheism: Chỉ tin tưởng một vị duy nhất trong một
nhóm (hay trong một xã hội nhỏ). Mặc dầu thời ấy sùng bái nhiều vị thần
linh. Nhưng mỗi vị đều có quyền hạn và phép màu khác nhau. Vì
vậy nên mỗi một bộ lạc do nơi vị Tù Trưởng cầm đầu sùng bái thế
nào thì người trong bộ lạc ấy phải thật hành theo lễ nghi hay sự tôn sùng
theo ý cuả vị Tù trưởng. Khi xưa xứ Do Thái trước Moset ra mười điều cấm,
Ten Commandments. Người Israel mỗi một bộ lạc sùng bái riêng một vị Thần
Linh. Trong xứ Hy Lạp thời kỳ Thánh John đem Thiên Chúa giáo đến
truyền bá vẫn còn sùng bái một vị thần linh khác nhau. Thời xưa xứ Ấn Ðộ mỗi một bộ lạc cũng sùng
bái một vị Thần Linh khác nhau tùy theo giai cấp và sự tin tưởng của mình.
Sự Tôn sùng như vậy gọi là Henotheism, phái này truyền bá rất mạnh. 5. Monotheism: Nhứt Thần Giáo. Monotheism nghĩa là sự
sùng bái riêng chỉ độc nhứt một vị thần linh mà thôi. Nên gọi là
Monotheism, Nhứt thần giáo. Người tạo ra Thần giáo này không thấy nói rõ tên
họ, Người ấy chỉ nói rằng: Chỉ có một đấng tối cao có uy quyền
tuyệt đối. Ngài là đấng tạo ra vạn vật. Ngài buộc cả vạn vật phải tùy
theo Ngài chỉ định, Ngài là đấng cao quí nhất, Ngài có đầy lòng Từ ái,
nên cai quản nhân loại. Sự truyền bá 10 điều cấm của Yahova do Moset, hay
của Mohamet càng ngày càng truyền bá sâu rộng; đây là nguyên nhân làm
cho người càng ngày càng có ý tưởng sùng bái các Tôn Giáo. Giai Ðoạn Thứ Nhì: Sự Cúng Tế.
Nguyên nhân của sự cúng tế thời ấy chỉ cho ta thấy
rằng: Vì người thời ấy kém sáng suốt chưa thông hiểu rõ về thời
tiết và thiên nhiên của vũ trụ chẳng hạn như bão tố, động đất, lụt
ngập v.v... Người thời ấy bị những tai nạn như vậy tưởng lầm là sự trừng
phạt của thần linh. Vì vậy nên lập ra sự cúng tế tuỳ theo ý tưởng
tượng của mình. Vật cúng tế tùy theo ý thích của người thời
ấy cho vật gì quí nhứt đem vật ấy ra cúng tế. Như ta thường thấy người
quí trọng gái đẹp thích gái đẹp tưởng Thần linh cũng thích như vậy
nên thường tế Thần linh là Ðồng nhi nam và đồng nhi nữ v.v... có nơi
cúng tế: quần áo thuốc men chỗ oở và vật thực. Giai Ðoạn Thứ Ba: Sự Cúng Dường Tổ Tiên Sự cúng dường đến tổ tiên cũng là một nguyên
nhân quan trọng của con người. Người biết được sự cúng dường của
người thời xưa là nhờ đào được nhiều vật cúng dường, có cả những
bộ xương ướp thuốc từ xưa, thật là một giá trị quí bao nhứt của người
xưa để lại, và rất cần thiết cho sự nghiên cứu. Các nhà khảo cổ có nghiên cứu và cho biết là sự
cúng dường tổ tiên cũng là một nguyên nhân có thêm một tôn giáo nữa. Nên nêu ra câu hỏi: Tại sao người thời xưa lại cúng
dường các đấng tiên nhân? Ðáp: - Vì người thời xưa tin tưởng rằng: Người tuy
đã chết nhưng linh hồn không bao giờ tiêu hoại. Linh hồn ấy cứ vẩn vơ
trên đời nầy để trông nom phù hộ con cháu. Có đôi khi người thời ấy tin rằng: Một thời kỳ nào
đó Linh hồn ấy phải trở về với thi hài cũ. Nên người thời ấy phải
ướp xác để dành cho người chết trở về . Sự cúng dường ấy có thể chia ra làm hai lý do: 1. Vì cung kính, thương yêu mà cũng kinh sợ linh hồn
ấy làm hại, và một lẽ nữa là sự biết ơn. 2. Vì sự kính trọng như vậy nên người lại tạo ra
một đám táng linh đình, có cách tẩn liệm, có nhà dàn đi đưa, và cách
chôn thể thức làm mả, và tang chế. Giai Ðoạn Thứ Tư: Chuyện Thần Thoại.
Như chúng ta biết thời nào cũng có rất nhiều
Tôn giáo. Chúng ta nên quan tâm coi vì lý do nào? Vì người đời thường
đặt ra chuyện thần thoại ca tụng một vị Thần Linh nào đó làm cho người
ta tin tưởng theo, vị thần linh ấy gọi là Mythology. Câu chuyện thần
thoại có nhiều nhứt trong thế gian này là xứ Ấn Ðộ và Ả Rập.
Sự thật, chuyện thần thoại là chuyện ít có sự thật nếu không
muốn nói là không có. Trong chuyện Thần thoại ấy, phần lớn nói về sự
hiện về của những linh hồn đã chết lâu hay mau tuỳ theo người
đặt ra chuyện ấy. Chung qui, sự đặt ra chuyện thần thoại ấy cốt ý
làm cho người tin tưởng chuyện của mình đã nói, chuyện càng
huyền bí, càng có nhiều người tin tưởng theo. Như ta biết, có rất nhiều Tôn giáo như đã
giải trên, nếu nói tóm lại là: Do nơi sự tin tưởng thiếu sáng suốt,
nên sanh ra sự kinh sợ mà lập nên đền thờ, thờ phượng và cúng tế. Có thể chia ra làm hai phần để thấy rõ vì
lý do gì mà tin tưởng như vậy: A) Vì sự thiếu sáng suốt. Nên không nhận định
thấy rõ thiên nhiên của vũ trụ. Như người Ấn Ðộ khi xưa không hiểu
rõ giòng sông Ganga (Hằng) phát nguyên từ đâu, tin là giòng sông ấy là
giòng sông Thánh phát nguyên từ cõi Trời, do nơi một vị thần có oai
quyền tối thượng tên Isavara ban bố cho chúng sanh có nước mà dùng. Cũng như người Ai Cập khi xưa, không nhận định được
rõ rệt giòng sông Nile phát nguyên từ đâu đến. Tin rằng giòng sông
ấy là giòng lệ của bà Eilis than khóc chồng bà là ông Osiris. B) Sự kinh sợ. Nghĩa là người kinh sợ những sư đe
dọa của thiên nhiên bên ngoài như sấm sét, bão tố v.v... nên lập ra
đền thờ các vị thần ấy. Giai Ðoạn Thứ Năm: Giai đoạn này, người đã tiến lên độ sáng khả
quan hơn, nên đã tìm hiểu về thiên nhiên bên ngoài do sự luân
chuyển của vạn vật tạo thành, bỏ lần sự lầm lẫn của người thời xưa. Ðây cũng là một lý do làm cho các tôn giáo đi
đến nơi chính đáng và xác thật hơn. Lý Do Có Phật Giáo.
Như đã giải trước Phật giáo không phải là Religion
(Tôn giáo), Doctrine (học thuyết), Philosophy, (Triết học), hay
Ethic (Luân lý học). Phật giáo là lời giảng giải của một vị vĩ nhân đã
tìm ra lối thoát khỏi Sanh, Lão, Bịnh, Tử. Ngài là đấng toàn trí toàn giác.
Ngài chỉ con đường cho chúng sanh ra khỏi giòng Luân hồi. Nội dung quyển sách này tôi không nói đến các
Tôn giáo khác mà chỉ nói riêng về Chân Lý hay con đường đi đến
nơi hoàn toàn giải thoát của Ðức Phật đã khẩu truyền. Trước khi muốn nói đến Chân Lý của Ðức Phật,
tưởng cũng nên nhắc sơ qua Lịch sử của Ngài, lần lượt đến Chân Lý
của Ngài đã tìm thấy dưới cội Bồ Ðề. Ðức Phật Tổ Cồ Ðàm Người Việt chúng ta thường gọi là
Ðức-Phật-Tổ Thích Ca Mâu-Ni. Ðức Phật không phải là một đấng thiêng liêng, hoặc
một thần linh để người khấn vái, van xin cứu độ hay hộ trì. Hoặc là do
nơi sự tưởng tượng của một số người tạo ra, để người đời cúng
tế cầu phước, cầu tài lộc, mà Ngài cũng chẳng phải con của một vị
Ngọc Hoàng Thượng đế nào, lãnh lịnh sanh xuống để cứu độ nhân
sanh, mà cũng chẳng có một vị Thánh Thần nào nhập vào Ngài để nhờ cái
thể xác của Ngài đi truyền đạo. Ðức Phật chính là một người bằng xương bằng thịt
có cha sanh mẹ đẻ như chúng ta. Ngài có khác hơn chúng ta là Ngài là một
vị Hoàng tử, và sau nay là một vị Ðế vương. Ngài nhìn thấy cái khổ
của sự Sanh, Tử luân hồi mà từ bỏ ngai vàng và tất cả những gì mà người
đời đang muốn và chưa được. Ngài đắc được quả Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác. Ngài nhận thấy nhơn sinh khổ não, vì miếng mồi danh
lợi, nên Ngài mới mở đạo dạy đời. Sau này Ngài là một đấng giáo chủ. -oOo-
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Maha Thongkham Medivongs
Tôn Giáo