BuddhaSasana Home Page Tìm hiểu Ðạo
Phật Chương7 Như đã giải đoạn trước, Ðức
Thế Tôn phủ nhận sự cứu khổ của đấng thiêng liêng, mà chính Ngài cũng
đã dạy rằng: Không phải Ngài là đấng có uy quyền đem chúng sanh thoát
khỏi khổ phải thực hành đúng theo lời chỉ dạy của Ngài. Ngài chỉ là một
vị tối thượng y vương, chữa được tất cả các chứng bịnh nan y, mà tất cả
các lương y cố gắng tìm phương cứu chữa, mà vẫn còn chưa tìm thấy phương
thức nào chữa được, bịnh nầy là bịnh thần kinh, bịnh do phiền não bên
trong phát ra. Mặc dầu Ngài có thuốc, có phương pháp trị bịnh,
nhưng chỉ trị được cho những người nào thực hành đúng theo lời Ngài, là
phải biết cử ăn những món ăn kị với bịnh, và phải uống thuốc của Ngài
cho đúng độ lượng. Ngài trị bịnh cho chúng sanh như vậy, chớ không phải
Ngài lại móc lấy bịnh trong mình người ra, như người móc lấy đồ trong túi;
hay thay đồ y phục cho người. Ý nói rằng: Người bịnh cần uống thuốc mới
mạnh, người muốn giải thoát cần phải hành đạo mới thoát khỏi phiền não
được. Hơn nữa Ngài dạy rằng: Như Lai chỉ là một vị hướng
đạo chỉ đường cho người đi ra khỏi nơi khổ sở đầy tai nạn thôi, chớ Như
Lai không đem người ra khỏi khổ được. Ðây là câu Phật ngôn trong Tạng Kinh bộ Khuddaka Nikaya
Mahaniddesa, Ngài dạy người thanh niên tên Dhotaka: Người thanh niên tên Dhotaka và hầu Ngài xin Ngài độ
cho được giải thoát vì ông ta còn đầy sự nghi ngờ và phiền não. Ðức
Thế Tôn mới dạy câu kệ: Naham Samissami Pamocanaya Nghĩa: Nầy thanh niên Dhotaka, Như Lai không thể nào
làm cho người còn sự nghi ngờ trong thế gian nầy giải thoát được. Nhưng
chỉ có các bậc Trí thức, thông hiểu rõ được pháp cao thượng mới giải
thoát được vòng trầm luân. Người nên giải thoát khỏi vòng luân hồi như
vậy. Ý câu nầy, Ðức Thế Tôn dạy Ngài không làm
thế nào làm cho người còn nghi ngờ phiền não giải thoát được.
Nếu ông Dhotaka muốn giải thoát thì phải diệt sự nghi ngờ và phiền
não trong lòng mình. Nơi đây ta thấy rõ Ngài không thể bồng ẳm hay nắm
tay ai đem ra khỏi luân hồi được, mặc dầu đó là quyến thuộc của Ngài.
Chứng cớ hiển nhiên, là Ðức vua Thiện giác là cha bà Gia-du-đà-la mà
cũng là cậu ruột của Ngài, mà Ngài cũng chẳng cứu độ khi nghiệp đã
đến, hơn đó nữa là dòng Thích-ca bị tru diệt. Như vậy cho thấy rằng
Ngài chỉ là vị hướng đạo, dạy người đi ra khỏi khổ của bản thân mình mà
thôi. Còn riêng Ngài thì không kéo níu ai bảo phải đi theo Ngài, mà cũng
không có xe cộ nào để đưa người ra khỏi vòng khốn khổ. Nói rõ hơn là Phật dạy hãy tự lực tự tạo cho mình
hạnh phúc, chớ nên nhờ một cá nhân nào đưa mình giải thoát. Khi một người
đệ tử Phật chân chánh không bao giờ nghĩ nhờ Phật độ đưa về Thiên
đàng hay Niết-bàn mà tin rằng: Tự nơi mình hành theo lời Ngài thì tự
mình được đến nơi an lạc, tùy theo khả năng mình đã tạo cho mình. Trong Tạng kinh bộ Majjhimanikaya bài kinh Anathapindikasutta
có dạy: Sau khi ông Trưởng giả Cấp cô độc chết, sanh về cõi
Ðâu-xuất. Khi ông sanh về cõi ấy, liền nhớ đến Ðức Từ phụ
Thích-ca mâu ni, nên ông trở xuống chùa kỳ viên vào hầu Phật lúc nửa đêm
và bạch: - Kỳ viên Tịnh xá nầy thật là nơi hữu ích cho chư
tăng, và các bậc Phước lành đang cư ngụ. Ðức Ðại giác là vị Pháp vương
đang cư ngụ nơi đây, thật là nơi làm cho đệ tử rất thỏa thích và
trong sạch. Chúng sanh được trong sạch do nơi năm pháp là Nghiệp, Minh,
Pháp, Giới và Ðời sống trong sạch, chớ không phải trong sạch vì dòng giống,
của cải. Vì vậy các bậc Trí thức khi biết như thế, nên tự tìm lợi
ích cho mình, người mà được trong sạch là do nơi Thiện pháp. Theo câu nầy ý muốn nói: Người trong sạch là do
nơi sự hành theo thiện pháp, khi chết đi nhờ Thiện pháp sanh vào
nơi an vui chớ của cải, dòng họ cao sang quý tộc không giúp gì được
cho người. Ông mà được trở nên bực Thánh-nhơn và về cõi Ðâu-xuất là
do nhờ sự hành đạo theo 5 pháp mà ông đã kể. Cũng trong bộ Khuttakanikaya thuộc về Pháp-cú kinh,
đoạn Attavagga (nói về Thân), Ðức Thế Tôn có dạy: Attahi Attano Natho Nghĩa: Người tự nên nương nhờ lấy mình. Làm sao
nương nhờ nơi người khác được? Khi người đã tự dạy mình được thuần
thục rồi, người ấy là người được có sự nương nhờ mà ít người có
được. Ðại ý câu kệ nầy Ðức Thế Tôn dạy rằng:
Người đã tự cai quản được Tâm mình là đã diệt được ác pháp, tạo
thêm việc phước thiện, hoặc đã đắc được Thánh-quả, thì người ấy
tự mình được sanh về nơi an vui hay đến Niết-bàn. Ðó là người
biết tự tạo sự nương nhờ cho bản thân mình. Nếu người làm tội thì
đừng hầu mong ai cứu vãn được. Lại cũng có câu kệ cùng một chuyện tích nầy
Ðức Thế Tôn dạy: Người mà nương nhờ nơi kẻ khác để được Thiên
đàng hay Niết-bàn thì không bao giờ có được. Vì vậy nên tự mình
nương nhờ lấy mình mới được. Ý cũng nói phải tự mình tu hành lấy mới tự
giải thoát cho mình. Vì phiền não làm cho mình Luân hồi, không phải ở
ngoài lòng ta, mà nhờ kẻ khác lấy bỏ dùm được, nó là vật vô hình chỉ có
tự mình diệt nó mới được. Khi người đã tạo ra thiện, hay ác thì tội, hay
phước ở ngay trong Tâm người ấy. Và phước hay tội cũng trả quả ngay trong
Tâm của người ấy, chớ không ngoài tâm của người ấy bao giờ. Vậy nên
người phải tạo sự nương nhờ cho mình bằng phước thiện. Nên biết
hơn ấy nữa là mình cứu độ lấy mình chớ không ai có một phép huyền bí
nào cứu mình được. Muốn rõ hơn, tôi xin nhắc lại tích của người
thiện nam tên Kala trong Pháp Cú kinh, đoạn dạy về Attavagga (Thân). Có ông thiện nam tên là Mahakala là người tu hành
tinh tấn. Nếu ngày bát quan trai giới, thì ông thọ và ở luôn trong
chùa trọn đêm để nghe Pháp và tham thiền. Sự tinh tấn của ông,
chư Tăng biết rõ. Không ngày Bát quan trai nào ông bỏ qua. Ðêm nọ, có bọn trộm vào nhà người trộm lấy
đồ. Không may người hay được rượt bắt, bọn chúng kinh sợ chạy vào
chùa bỏ tang vật ở bên bờ ao chỗ chư Tỳ-khưu Sa-di thường đến múc
nước và tắm rửa. Vừa rạng đông, ông Thiện nam Mahakala nghe Pháp xong
xuống ao ấy rửa mặt để về, cũng vừa trong khi ấy những người tìm kẻ
trộm lại đến nơi bờ ao, thấy gói tang vật và ông Thiện nam đang rửa
mặt. Những người ấy bắt ông và nói: Ngươi ăn trộm đồ bị rượt nộ quá,
chạy vào chùa bỏ đồ nơi đây rửa mặt, làm ra vẻ người đạo đức. Những
người ấy đánh ông ta chết, bỏ nơi ấy, lấy đồ tang vật về. Ðến
sáng rõ, chư vị Tỳ-khưu trẻ tuổi và các vị Sa-di ra ao múc nước, thấy ông
Thiện nam bị đánh chết một cách thê thảm bỏ nằm đó, mới bảo nhau
rằng: Ông thiện nam nầy thật là người tu hành tinh tấn, trong sạch, nghe
pháp cả đêm mà chết như vầy thật là chuyện không nên. Ðức Thế Tôn nghe vậy liền phán hỏi. Các vị
bạch lại những gì đã thấy và đã nói. Ðức Thế Tôn dạy: Sự thật ông
Thiện nam Mahakala không đáng chết như thế trong kiếp nầy. Nhưng
rất đáng chết vì ông ta tạo ra nghiệp không lành trong kiếp quá
khứ. Chư Tỳ-khưu trẻ tuổi và Sa-di thỉnh cầu Ðức Thế
Tôn thuyết chuyện của ông Thiện nam. Ðức Thế Tôn dạy: Lúc quá khứ, có bọn cướp hằng tu tập nơi biên
thùy, cướp của giết người qua lại nơi đó. Ðức vua Baranasi biết
chuyện ấy, mới cho một đạo quân với một vị tướng lảnh có tài trấn giữ
nơi đó, khi nào có người phải qua con đường ấy, vị võ quan trấn thủ sẽ
đưa qua. Ngày nọ, có một người đi trên một chiếc xe nhỏ cùng với
người vợ thật đẹp, đến ven rừng ấy, vào xin vị võ quan đưa qua truông
cướp. Vị võ quan thấy vợ người ấy đẹp, đem lòng yêu mến. Trong Tâm
đã sắp bài độc kế, nên nói: Giờ thì đã quá muộn rồi, không qua kịp
vậy hãy nghỉ lại đây mai tôi sẽ đưa. Quí vị hãy an lòng, nhà tôi có nơi
ăn, chỗ ở đủ tiện nghi, đến nghỉ nơi ấy sáng hãy đi, tội gì
phải lặn lội cho cực thân trong buổi chiều tối nầy. Hai vợ chồng người ấy không muốn ở đêm nơi ấy. Vị
võ quan ấy dạy quân hầu dẫn xe đưa về trại quân nghỉ, nơi ấy được
đải đằng cơm nước rất chu đáo. Ðêm ấy ông ta lấy một viên ngọc
quý nhét vào xe của người ấy, sáng ngày ông cho dân chúng hay rằng, đêm
hôm ông bị kẻ trộm cắp đồ quý. Người đều bị kiểm soát kỷ
càng mới được đi, khi kiểm soát đến xe người ấy, có viên ngọc
trong xe. Vị võ quan buộc tội trộm, cho nên người có vợ đẹp ấy bị đánh
chết. Ông ta cướp lấy vợ người. Sau khi chết, vị võ quan ấy sanh vào Ðịa ngục A tỳ
đếm năm không xiết, sau khi sanh lại làm người, vì quả dư sót ấy
phải bị chết oan như thế đã hàng trăm kiếp rồi. Ðức Thế Tôn thuyết xong tích ấy, Ngài mới dạy
rằng: - Nầy các thầy Tỳ-khưu, tội mà người đã tạo hằng hành hạ người ấy
trong bốn đường ác. Ngài dạy câu kệ: Attanava Katam Papam Nghĩa: Tội mà ta tự làm lấy, nó lại sanh trong tâm ta.
Ta (thân nầy) là nơi nó phát sanh, nó trở lại hành hạ người ngu xuẩn ấy.
Cũng như ngọc sanh trong đá. Chú giải tiếng: "Ngọc sanh trong đá" có
nghĩa là ngọc do đá sanh ra, cũng như tội mà chính ta tạo ra thì nó lại
xuất phát ở trong cái ta nầy, nó lại làm khổ ta. Người đã gieo giống chẳng
lành trong kiếp nầy trên đám đất là thân vị lai nó sẽ làm cho thân ấy
khổ đau. Vì vậy khi người trí thức hiểu rõ Nghiệp
Thiện hay Ác theo bên người đã làm tội rồi, thì không ai có oai lực nào
cứu khổ mình được. Người đệ tử Phật chân chính, đều hiểu rõ
và không bao giờ có ý nghĩ ỷ lại một nơi nào, hoặc là sự cứu độ
của Phật: mà trái lại tin tưởng rằng: Phải vâng giữ hành đúng theo lời
giảng dạy của Ngài hầu mau tới nơi giải thoát. Khi người biết rõ rằng: Không có nhân vật nào cứu
độ mình khỏi khổ được, nếu muốn không khổ thì chỉ có điều duy
nhất là đừng làm khổ kẻ khác, mặc dầu là con thú nhỏ, và phải cố làm cho
người khác được an vui do nơi mình tạo ra. Người biết tội ác mà mình
đã tạo rồi không sao trốn tránh nơi nào cho khỏi, vậy chớ nên làm tội thì
sẽ không bị tai nạn và khổ sở nào đến làm cho khổ. Theo giáo pháp của nhà Phật dạy, người phải tự thắng
mình, thì người ấy mới đến nơi an vui tuyệt đối được. Tất cả vui
buồn đến với mình đều do nơi mình tạo ra và gọi nó đến. Như có tích trong Pháp-cú kinh, đoạn Sahassavagga có
dạy. Có thầy Bà-la-môn nghĩ rằng: Không biết có phải
Ðức Thế Tôn chỉ hiểu về một phương diện là sự hữu ích
không mà thôi, hay Ngài cũng hiểu về sự vô ích nữa. Vậy ta nên
đến vấn nạn Ngài coi. Nghĩ xong liền vào Kỳ viên tịnh xá bạch hỏi
Phật rằng: - Bạch hóa Ðức Thế Tôn; có phải Ngài chỉ hiểu về một
phương diện là điều lợi ích mà thôi, Ngài không hiểu một
phương diện khác là sự vô ích không? Ðức Thế Tôn dạy: - Nầy thầy Bà-la-môn, Như Lai
thông hiểu cả hai phương diện là Hữu ích và Vô ích. - Bạch Ðức Thế Tôn, nếu vậy xin Ngài dạy sự
vô ích ấy cho tôi. - Sự ngủ dậy trưa, sự lười biếng, sự hung dữ, sự
ham ngủ nhiều, sự đi đường một mình (không có người đi theo làm bạn),
sự tư thông với vợ người. Thầy Bà-la-môn, người hành như vậy là người
hành theo sáu đường vô ích, tai hại sẽ đến cho người. - Lành thay, thiện thay, Ngài thật là vị Tổ sư của
một Ðạo; Ngài mới là người hiểu rõ sự Hữu ích và Vô ích. - Nầy thầy Bà-la-môn, trong Tam thế nầy không có ai
hiểu sự lợi ích và vô ích như Như Lai. Ðức Phật liền hỏi ông Bà-la-môn: - Vậy thầy sống
bằng nghề gì? - Bạch Ðức Thế Tôn tôi sống bằng nghề cờ bạc. - Vậy người được hay thua? - Bạch Ðức Thế Tôn cũng có khi được cũng có khi
thua. - Nầy thầy Bà-la-môn! Như Lai gọi rằng sự thắng
của người, thắng kẻ khác không cao thượng. Chỉ có sự tự thắng mình. Sự
thắng nầy mới gọi là sự thắng cao thượng. Vì khi mà mình đã thắng
được mình rồi thì không còn bị thua lại. Ðức Thế Tôn liền dạy câu kệ: Atta Have Jitam Seyyo Nghĩa: Người tự thắng mình cao quý hơn, người
thắng kẻ khác thật không cao quý. Khi người đã dạy được mình rồi thì
luôn luôn thu thúc. Chư-Thiên, Càn-Thất-bà, Ma-vương; Phạm thiên, không
thế nào thắng được người như thế này. Câu kệ ngôn này ý nói: Người thắng kẻ khác
chỉ chuốc thêm thù oán, chớ không có chi là cao quý. Chỉ có người thắng
được phiền não trong tâm mình, người ấy mới gọi là cao quý, vì
không có oan trái oán thù, đường luân hồi lại thâu ngắn lại. Người thu
thúc, ý nói: không để tâm phóng túng theo hoàn cảnh bên ngoài là
nhân sanh phiền não. Người đã thắng được phiền não bên trong rồi
thì tất cả nhân vật nào trong Tam giới nầy cũng không thể làm hại người
ấy được. Tóm lược Người tự thắng mình rồi là vạn vật bên ngoài, vì vạn
vật bên ngoài đều do nơi lòng còn phiền não tạo ra, nếu không
tạo ra nữa thì đâu còn gì để thắng hay bại nữa. Vì vậy Ðức Thế
Tôn dạy người nương nhờ nơi mình là phải tự thắng mình đừng nhờ nơi tha
lực nào cả. Cũng trong Pháp-cú kinh đoạn Sahassavagga, có tích như
vầy. Lúc Ðức Thế Tôn còn tại thế có một cô Ðạo-sĩ tên Jampu (Diêm
phù). Vị nữ Ðạo-sĩ nầy rất thông minh, vì cô có học ngàn câu vấn nạn,
người trong cỏi Diêm phù thuở ấy đếu kính nể cô, vì không ai đáp
được trôi chảy hết những câu hỏi ấy. Trước khi vấn nạn cô có hứa ai
đáp được hết những câu hỏi của cô, cô sẽ làm đệ tử người ấy. Ngày nọ cô đến cửa thành Thất-la-phiệt, bẻ
một nhánh trăm cậm trên đóng cát, thường nếu ai nhổ nhánh trăm ấy là
người muốn đối đáp những câu hỏi của cô, và cô có tánh là luôn luôn bẻ
nhánh trăm cặm nơi nào tùy thích nên cô có tên là Jampu (Diêm phù). Ngày
ấy Ðại đức Xá-lợi-phất đi ngang qua đó, và bảo trẻ con nhổ nhánh trăm ấy
bỏ đi. Khi cô trở lại chỗ cũ thấy mất nhánh trăm, hỏi trẻ con thuật
lại. Cô liền đi tìm Ngài Xá-Lợi-Phất để vấn nạn. Ngài Xá-Lợi-Phất
bằng lòng đáp ngàn câu hỏi nhưng có điều kiện là: Ngài hỏi lại
một câu thôi. Sau khi cô hỏi hết ngàn câu của cô, ngài Ðại đức chỉ
hỏi một câu là: - Cái gì gọi là có một? Cô Nữ Ðạo-sĩ ấy, không biết ý nghĩa là gì,
cô liền hỏi lại Ngài, xin Ngài chỉ dạy. Ngài Ðại đức bảo: Ðó là Pháp rất huyền dịu của
đấng Chánh Ðẳng Chánh Giác. - Xin Ngài hoan hỉ chỉ cho tôi câu ấy. - Nếu cô bằng lòng xuất gia như ta thì cô mới
học được. - Vậy xin Ngài cho tôi xuất gia như Ngài. Ðại Ðức liền cho chư Tỳ-khưu ni cho cô ta xuất
gia. Khi xuất gia xong cô được pháp danh là Kundalakesi. Bà hành đạo không bao
lâu đắc A-la-hán quả với Tuệ-Phân-Tích. Khi chư Tỳ-khưu luân đạo với nhau tỏ lời ca tụng bà
rằng: Người Phụ nữ thắng tướng cướp hung tàn; giải thoát nạn tai cho mình;
mà cũng là người chiến thắng được Ngũ-ma, giải thoát khỏi trầm luân
chỉ trong một câu kệ mà thôi. Xin nhắc lại, bà là con ông Trưởng giả
yêu tên tử tội, cha mẹ cô phải đi chuộc tên tử tội ấy về cho bà làm
chồng. Sau tên tử tội ấy sanh tâm muốn giết bà, bị bà xô rớt xuống hố.
Câu chuyện này có nói ở đoạn Phật giáo đối với phụ nữ. Nơi đây chư
Tỳ-khưu tỏ ý khen người Phụ nữ có trí tuệ cũng giải thoát cho mình
trong đời này và giải thoát phiền não nữa. Ðức Thế Tôn biết chư Tỳ-khưu đang nói gì.
Ngài liền ngự đến và dạy: - Nầy các thầy Tỳ-khưu; các thầy chẳng
nên bàn về sự thuyết pháp ít hay nhiều của Như Lai; nhiều hay
ít ấy không phải là vấn đề quan trọng. Vì lời vô ích dầu có nói
trăm câu cũng chẳng quý, mà chỉ trong một câu thôi, nhưng hữu ích thì
rất quý. Hơn nữa, khi mà người thắng được tướng cướp hung tàn bên
ngoài thì cũng chưa gọi là hoàn toàn thắng được. Chỉ người có người
thắng được tướng cướp bên trong là phiền não, mới gọi là thắng cao
thượng. Ðức Thế Tôn liền thuyết câu kệ: Yo Ca Gatha Satam Bhase Nghĩa: Người thuyết hàng trăm câu kệ mà không
có sự bổ ích cũng bằng thừa, không bằng chỉ một câu kệ duy nhất mà đem
lại sự lợi ích mới thật là cao quý hơn. Yo Sahassam Sahassene Nghĩa: Người thắng hằng triệu người trong một trận
giặc, người ấy không gọi là người cao quý của người chiến
thắng. Người nào chỉ thắng được bản thân mình, người ấy mới gọi là
người cao thượng nhất. Ðức Thế Tôn có dạy: Natthi Attasamam Pemam. Nghĩa:
Không có thương vật gì bằng thương ta thì nên tìm sự hạnh phúc vĩnh viễn,
sự hạnh phúc ngoài vòng kiềm tỏa của Ma-vương, của Luân hồi. Người như
thế mới gọi là thương Ta. Trong bài kinh Anathapindikasutta có dạy: - Nầy ông
Trưởng giả Cấp cô Ðộc, Như Lai không có dạy rằng: Sự kết quả của sự
sống lâu, sắc đẹp, quyền chức an vui và Thiên đàng vì sự khấn vái,
khẩn cầu. Nầy ông Trưởng giả, người mà muốn được những điều ấy thì
nên thực hành đúng theo Chánh pháp thì những điều ấy sẽ đến với
người thực hành. Câu này dạy cho thấy rằng: Không vì muốn an vui mà
cúng sao hạn và cầu vái thánh thần, không có vị Thánh thần nào ăn hối lộ,
hay làm người chạy việc cho mình. Nếu có thể che chở nghiệp
báo được, thì Ðức Thế Tôn không để cho giòng Thích-ca bị tru
diệt, nếu mình muốn khỏi khổ thì chính mình đừng làm tội. Những sự
việc cúng vái khẩn cầu không giúp ích gì cho ta hết, mà tự ta phải
làm sự lợi ích cho ta mà thôi. Theo câu Phật ngôn tôi kể lại trên là: Không có
thương gì bằng thương ta, nhưng người đời thương ta bằng cách khác là
thương ta, lo bồi dưỡng cho ta bằng thức ăn ngon, mặc đẹp.v..v đó chỉ là
bồi bổ thêm lòng dục vọng, làm cho thân nầy thêm tội khổ ở kiếp
nầy, và kiếp sau mà thôi. Người vì thương mình nên làm tội thì làm sao
an vui được. Người Phật tử thương mình thì hằng lo trau giồi thân, khẩu,
ý, trong sạch. Thật ra, thân nầy tuy phải là bị ốm đau bịnh hoạn, nghĩa
là làm cho người rất khổ, nhưng khi người đã bị mất thân nầy rồi thật
khó kiếm lại được. Nếu có được thân khác quý hơn, là sanh
về cõi trời thì cũng bằng vô ích, vì người được sanh về cõi trời
chỉ hưởng an vui mà thôi, chớ không thể nhờ thân nầy để làm lành
như Bố thí, Trì giới, hay Tham thiền được. Còn nếu sanh vào cảnh
khác ngoài người như địa ngục.v.v.. thì càng khổ. Ðức Thế Tôn thường dạy: Chúng sanh phải nhờ thân
ngũ uẩn nầy để tự giải thoát, vì vậy không có lợi ích nào bằng có
được thân nầy, vì chỉ có cõi nầy, thân nầy mới có thể tự giải thoát
được. Ðối với thân nầy, thật là cần thiết, là nơi nương nhờ, làm
nơi tụ tập để giải thoát, chúng ta hãy tìm xem lại coi có vị Phật nào
đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác ngoài cõi này không? Và phần lớn
các bậc Thánh nhơn đắc Thánh quả đều ở cõi này. Ý câu Phật dạy: Ta
phải nương nhờ nơi ta. Có nghĩa là phải cần tu hành khi có cái Ta. Chẳng
nên ỷ lại tha lực nào khác. Ðây là một pháp chân chánh nhứt mà người
tu Phật cần có trước hết là Chánh tín, Chánh kiến. Tóm lại, người đời cần phải nương nhờ nơi ta, vạn
vật thành bại đều do nơi ta trước nhất. Nếu ta muốn người giúp ta,
ít nhất, ta cũng phải là người có hạnh kiểm thanh cao, tánh tình hiền
hậu, đáng cho người giúp đỡ. Thì mọi việc đều do nơi ta tạo cho
ta hết. -oOo- [Chương
trước][Mục Lục][Chương Kế]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Maha Thongkham Medivongs
Phật Giáo với sự Nương
Nhờ
Katham Kathim Dhotaka Kinci Loke
Dhamanca Settham Abhijanamano
Evam Tvam Ogharamimamtare.
Kohinatho Parosiya
Attanava Sudandena
Natham Labhati Dullabham
Attajam Attasambhavam
Abhimanthati Dummetham
Vajiram Vasmayam Manim.
Ya Cayam Itara Paja
Attadantassa Posassa
Niccam Sannatacarino.
Anatthapade Sanhtta
Ekam Dhammapadam Seyyo
Yam Sutva Anusammati.
Sangame Manuse Jine
Ekanca Jeyya Attanam
Save Sangamasuttamo.