BuddhaSasana Home Page Tìm hiểu Ðạo
Phật Chương
13 Thời kỳ Ðức Thế Tôn còn tại
thế, Bà-la-môn giáo hầu như là một quốc giáo. Phần đông hàng vua chúa
xu hướng theo vì tin nơi sự cúng tế và xem thiên văn, coi ngày giờ xấu
tốt, vì Bà-la-môn giáo có Tam-Phệ-Ðà, kinh dạy về binh thơ v.v... nên
người tin tưởng theo hầu hết là giòng cao sang, đến người bần cùng
nghèo khổ. Theo Bà-la-môn giáo dạy rằng: Người có cái bản ngã,
Bắc Phạn gọi là Attamam. Theo Phật gọi là Attã, nghĩa là Ta hay Ngã. Theo Phật giáo có tiếng Attã, "Ta", nhưng
Ðức Thế Tôn phủ nhận cái ta ấy là ta thật sự. Vì Ngài dạy thuyết
Vô Ngã (không phải Ta). Cái mà ta cho là Ta đây, nó chỉ là một vật phối
hợp lại do nhiều lý do mà ai cũng biết. Khi có nó, ta chỉ cưỡng
danh để gọi mà thôi, chớ kỳ thật không có chi gọi là Ta, là
người cả. Vật mà ta gọi là Ta nó không có căn bản nào vững chắc là Ta,
hay thay đổi từ trạng thái này đến trạng thái khác. Cái mà ta gọi
là Ta đây chính là xác thân này, hay là Tâm, nhưng dầu nó là Thân hay Tâm
cũng chẳng phải là Ta. Vì không phải là Ta, nên chúng ta phải khổ vì nó.
Muốn biết rõ Vô Ngã thì đây tôi xin dịch lại bài kinh gọi là Vô
Ngã Tướng Kinh, Phạn ngữ gọi là Anattakakkhanasutta. Ngài Hộ Tông có dịch
trong quyển kinh Tụng. Nhưng tôi xin viết lại nơi đây để quí vị
khỏi phải tìm nơi quyển khác. - Ta là Ananda có nghe như vầy: Một thuở nọ Ðức Thế Tôn ngự tại rừng Lộc
giả, gần thành Bãrãnasĩ (Ba-la-nại) Ðức Thế Tôn gọi 5 vị Kiều Trần Như
đến nơi ấy và dạy rằng: - Này các thầy Tỳ-khưu, sắc thân này Vô ngã,
chẳng phải của ta. Nầy các thầy Tỳ-Khưu, nếu sắc thân này thật là của
Ta, thì nó không phải chịu sự đau ốm. Lại nữa, người đời có thể nói: Xin cho sắc thân
của ta như thế này, xin đừng cho sắc thân ta như thế kia. Này các Tỳ khưu, sắc thân này thật Vô ngã nên nó
phải hằng chịu sự đau ốm. Hơn nữa, người đời không thể nói: Xin cho sắc
thân ta như thế này, xin đừng cho sắc thân ta như thế kia. Thọ thật chẳng phải là của Ta. Này các thầy
Tỳ-khưu; Nếu thọ thật là của ta, thì thọ ấy không phải chịu sự
đau khổ. Hơn nữa người đời có thể nói: Xin cho Thọ của
ta như thế này, xin đừng cho thọ của ta như thế kia. Này các thầy Tỳ-khưu, Thọ thật là Vô ngã, nên nó
hằng chịu sự đau khổ. Hơn nữa, người đời không thể bảo: Xin cho thọ
của ta như thế này, xin đừng cho thọ của ta như thế kia. Tưởng chẳng phải là của ta. Này các thầy Tỳ-khưu,
nếu tưởng thật là của ta, tưởng ấy không phải chịu đau khổ. Lại nữa người đời có thể bảo: Xin cho tưởng của
ta như thế này, xin đừng cho tưởng ta như thế kia. Này các thầy Tỳ-khưu, Tưởng thật chẳng phải là của
ta, nên nó hằng bị sự đau khổ. Lại nữa người đời không thể nói: Xin cho tưởng
của ta như thế này, xin đừng cho tưởng ta như thế kia. Hành chẳng phải là của ta. Này các thầy Tỳ-khưu,
nếu hành thật là của ta thì hành ấy không phải chịu sự đau khổ. Lại nữa, người đời có thể nói: Xin cho hành của
ta như thế này, xin đừng cho hành của ta như thế kia. Này các thầy Tỳ-khưu, hành thật chẳng phải là của ta,
nên nó hằng chịu sự đau khổ. Lại nữa, người đời không có thể bảo rằng: Xin cho
hành của ta như thế này, xin đừng cho hành của ta như thế kia. Thức chẳng phải là của ta. Này các thầy Tỳ-khưu,
nếu thức là của ta, Thức ấy cũng chẳng phải chịu đau khổ. Lại nữa người đời có thể bảo rằng: Xin cho thức
của ta như thế này, xin đừng cho thức của ta như thế kia. Này các thầy Tỳ-khưu, các người nhận thức rằng: Thân
này thường hay vô thường? Các thầy đáp: Bạch Ngài, sắc thân này là vô thường. - Vật chi vô thường, vật ấy khổ hay vui? - Bạch Ngài, vật chi vô thường, vật ấy khổ. - Vật chi vô thường là khổ, là hay biến đổi thì
nên cho vật đó là của ta, đó là của ta, đó là thân ta chăng? - Bạch Ngài, chẳng nên. - Này các thầy Tỳ-khưu, các thầy cho Thọ là
thường hay là vô thường? - Bạch Ngài, thọ là vô thường. - Vật chi vô thường, vật ấy khổ hay vui? - Bạch Ngài, vật ấy khổ. - Vật nào vô thường là khổ, có sự biến đổi là
lẽ thường thì nên cho vật ấy là của ta, đó là ta, đó là thân ta chăng? - Bạch Ngài chẳng nên. - Này các thầy Tỳ-khưu, các thầy cho Tưởng là thường
hay vô thường? - Bạch ngài, tưởng là vô thường. - Vật chi vô thường vật ấy khổ hay vui? - Bạch Ngài vật chi vô thường vật ấy khổ. - Vật chi vô thường là khổ có sự biến đổi là
thường, thì có nên cho vật ấy là của ta, đó là ta, đó là thân ta chăng? - Bạch Ngài, chẳng nên. - Này các thầy Tỳ-khưu, các thầy cho Hành là thường
hay vô thuờng? - Bạch Ngài, hành là vô thường. - Vật nào vô thường vật ấy khổ hay vui? - Bạch Ngài, vật ấy khổ. - Vật chi vô thường là khổ, có sự biến đổi là
thường thì nên cho vật đó là của ta, đó là ta, đó là thân ta chăng? - Bạch Ngài, chẳng nên. - Này các Tỳ-kheo, các thầy cho Thức thường hay là vô
thường? - Bạch Ngài, thức là vô thường. - Vật nào vô thường, vật ấy khổ hay vui? - Bạch Ngài, vật ấy khổ. - Vật chi vô thường là khổ, có sự thay đổi là
thường thì có nên cho vật đó là của ta, đó là ta, đó là thân ta chăng? - Bạch Ngài, chẳng nên. - Này các thày Tỳ-khưu, vì vậy nên, Sắc nào dầu trong
quá khứ, vị lai, hiện tại, bên trong bên ngoài, thô hay vi tế, hèn hạ
hay cao quí, sắc nào dầu xa hay gần, các sắc ấy đều chỉ là Sắc mà thôi. Các thầy nên nhận thức Sắc ấy bằng trí tuệ trong
sạch theo chơn lý như vầy: Ðó chẳng phải của ta, đó chẳng phải là ta,
đó chẳng phải thân ta. Thọ nào trong đời quá khứ, vị lai, hiện tại,
bên trong, bên ngoài, thô hay vi tế, hèn hạ hay cao quí, gần hoặc xa,
thọ ấy đều chỉ là Thọ thôi. Các thầy nên nhận thức bằng trí tuệ đúng theo
chân lý như vầy: Ðó chẳng phải của ta, đó chẳng phải là ta, đó cũng
chẳng phải là thân ta. Tưởng nên trong đời quá khứ, vị lai, hiện tại,
bên trong, bên ngoài, thô hay vi tế, hèn hạ hoặc cao quí, ở gần hoặc ở
xa, các tưởng ấy chỉ là Tưởng mà thôi. Các thầy nên nhận thức sự ấy bằng trí tuệ theo
chân lý như vầy: Ðó chẳng phải là của ta, chẳng phải là ta, đó chẳng
phải là thân ta. Hành nào trong đời quá khứ, hiện tại, vị lai, bên
trong, bên ngoài, thô hay vi tế, hèn hạ hay cao quí, gần hay xa, các hành
ấy chỉ là Hành mà thôi. Các thầy nên nhận thức sự ấy bằng trí tuệ, theo
chân lý như vầy: Ðó chẳng phải của ta, đó chẳng phải là ta, đó chẳng
phải là thân ta. Thức nào trong đời quá khứ, hiện tại, vị lai, bên
trong bên ngoài, thô hay vi tế, hèn hạ hay cao quí, xa hoặc gần, các thức
ấy chỉ là Thức thôi. Các thầy nên nhận thức bằng trí tuệ, theo chân
lý như vầy: Ðó chẳng phải là của ta, cũng chẳng phải là thân ta. Này các thầy Tỳ-khưu, các bực Thinh-văn được nghe và
thấy như thế rồi, các Ngài chán nản trong sắc, chán nản trong thọ,
chán nản trong tưởng, chán nản trong hành và chán nản trong thức. Khi đã chán nản (như vậy) thì được tránh xa dục ái,
tâm được giải thoát. Khi Tâm được giải thoát, trí tuệ (của bực Thinh
văn) phát sanh rõ rệt mà biết rằng: Tâm của ta đã giải thoát rồi. Các bực Thinh văn cũng biết rõ rằng: sự sanh (của
ta) đã dứt, đạo pháp cao thượng ta đã đắc rồi, phận sự nên hành ta cũng
đã hành rồi. Ðức Phật đã giảng giải dứt bài kinh, năm vị
Kiều-Trần như nghe được khẩu truyền của Ðức Thế Tôn lấy làm
hoan hỉ. Khi Ðức Thế Tôn giảng kinh này thì Tâm thức của năm thầy được
giải thoát các vi tế phiền não, vì chẳng còn mê chấp (rằng Ta, rằng
của Ta, Thân ta nữa). Bài pháp này để thấy rằng: Phật giáo giữ vững
lập trường Vô ngã. Nghĩa là không có gì là của ta, phải chăng những gì mà
ta có đây đều là vật tạm bợ vậy thôi. Nhưng chúng sanh vì vô minh che
đậy nên chấp chắc Thân, Tâm, và vạn vật của Ta, nên không bao giờ giải
thoát được, trái lại còn mang nặng thêm Nghiệp chướng oan trái để
luân hồi lâu càng là cho lâu thêm mà thôi. Muốn hiểu rõ thuyết Vô ngã hơn, nơi đây tôi
xin nhắc lại một người thanh niên tên là Mogharãga vấn nạn Ðức Thế Tôn
về cái Ta. Bài kinh này trong tạng kinh bộ Khuddakanikãya, Culaniddesa, bài
kinh ấy tên là Mogharãjamãnavaniddesa. Người thanh niên hỏi Phật: Bạch hóa Ðức Thế Tôn,
tôi là người mong mỏi hỏi Ngài, nên mới đến hầu Ngài là đấng thông
thấu các pháp siêu việt. Vậy người phải quán tưởng thấy thế giới
này như thế nào tử thần mới không dám đến gần người ấy? Ðức Thế Tôn đáp: - Này Mogharãja, ngươi nên luôn
luôn có trí nhớ quan sát thấy thế giới này là vật rỗg không, nhổ
tận gốc sự chấp Ta rồi, ngươi sẽ thoát khỏi tử thần bằng cách ấy. Một khi
ngươi quán tưởng thấy thế giới này rỗng không như thế, thì tử
thần không tìm thấy người ấy. Giải: Tiếng Loka, Thế giới, trong câu Phật dạy
là: Sunnato Lokam Avekkhasu. Quan sát thấy Thế gian này là vật rỗng
không. Thế giới này ý chỉ là địa ngục, ngạ quỉ súc sinh, trời,
người, uẩn, chất, căn, thế giới này và thế giới khác - như thế
giới Phạm Thiên. Có một vị Tỳ-khưu hỏi Ðức Thế Tôn: Bạch hóa
Ðức Thế Tôn, Ngài thường thuyết "Loka, Thế Giới". Như
thế Bạch Ngài, tiếng Thế Giới mà Ngài đã dạy ấy vì lý do
nào? Ðức Thế Tôn dạy: Này thầy Tỳ-khưu, Như Lai dạy
Loka, Thế giới, có nghĩa là Tàn Hoại. Vật gì tàn hoại? Nhãn, sắc, nhãn
thức, sự cảm xúc của nhãn, thọ vui, thọ khổ, thọ không, vui không
khổ, sanh lên bởi nhản đều bị phá hoại. (Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý
cũng tương tự như thế). Câu Phật ngôn dạy quán tưởng thấy Thế giới này
là vật tàn hoại. Câu này có ý dạy người nên quán tưởng thấy rõ hai
nguyên nhân là: 1. Nên hiểu biết rằng "Không ở dưới một
thế lực nào", ý nói rằng: Không có một nhân vật nào trong tam
giới có đủ uy quyền cai quản Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức được. Như có lời Phật dạy: Này các thầy Tỳ-khưu, Sắc là
Vô ngã. Này các thầy Tỳ-khưu, nếu sắc là vô ngã thật, thì sắc này
hằng sanh lên để bị bịnh hoạn, và nếu có yêu cầu rằng: Xin cho sắc
này hãy như thế này thế nọ, Sắc ấy cũng chẳng y theo lời yêu
cầu. Này các thầy Tỳ-khưu, vì sắc là vô ngã nên nó thường hay bịnh hoạn. Này các thầy Tỳ-khưu, Thọ là vô ngã, nếu
thọ là Ngã (ta) thì thọ ấy sẽ không theo khổ, và nếu có yêu cầu
Thọ rằng: Xin cho thọ của ta như thế này, thế nọ, Thọ
cũng không chịu theo ta đâu (Xin hiểu, Tưởng, Hành, Thức cũng giống như
câu trên). 2. Nên hiểu rằng: các pháp hành đều
"rỗng không" (vô ngã). Ðức Thế Tôn dạy: Này các thầy Tỳ-khưu, Thân này
không phải là các thầy, mà cũng chẳng phải của kẻ khác; Nghiệp cũ (đã
tạo ra từ trước rồi) do nơi Tác ý là nguyên nhân (của thân này). Các
thầy nên quán tưởng rằng: Thân này là nơi sanh Thọ. Này các thầy
Tỳ-khưu, chư Thánh Nhơn đã được học rõ (về thân này), được nghe
rồi hằng quán tưởng theo lý Nhân duyên rằng: Vì lý do này không còn
có thì vật kia sẽ không có, nếu vật này không sanh thì vật kia cũng
không sanh. Khi mà vật nầy diệt thì vật kia cũng diệt. Vì vô minh là
nguyên nhân sanh hành. Hành là nguyên nhân sanh Thức v.v... Khi mà Vô minh
diệt thì hành ắt diệt, Hành diệt thì được thì thức ắt diệt
v.v... Vậy các thầy nên quán tưởng rằng: thế giới này
là vật rỗng không (Vô ngã) Người nên quán tưởng rằng: Thế giới này là vật
rỗng không có nghĩa là không có vật gì cứng rắn. Những vật có ấy là
sắc, thọ, tưởng, hành thức, đều là vật không cứng rắn, mau hư mau
hoại hơn hết. Nếu bên ngoài vật mà ta thấy là núi sông v.v... cũng
có ngày tiêu diệt vì thời gian và không gian, không vật gì tồn tại mãi
mãi nó chỉ còn đợi thời gian mà thôi. Sắc này không rắn chắc, không có sự rắn chắc, không
bền vững, không lâu dài, không trường tồn. Vì những vật ấy có tánh
cách là phải thay đổi, không đứng yên một chỗ. Hơn nữa, các Thầy nên quán tưởng thế giới này là
vật rỗng không (Vô ngã) có 6 lý do là: - Người nên hiểu rằng: Ta không làm chủ được
thân này. Người trí tuệ nên quan sát hiểu thế giới
này là vật rỗng không như 6 điều kể trên. Người nên quán tưởng thế giới này là vật
rỗng không theo 10 điều sau đây: - Người nên quan sát hiểu rằng: Thế giới này
là vật rỗng. Các người nên quán tưởng thấy theo 8 điều này: - Sắc này không phải chúng sanh. Phật dạy: Này các thầy Tỳ-khưu, các thầy nên vứt bỏ
vật không phải Ta, các thầy diệt vật ấy được, thì các thầy sẽ được
sự lợi ích an vui lâu dài. Này các thầy Tỳ-khưu, vật gì không phải của Ta,
các Thầy nên diệt bỏ. Này các thầy Tỳ-khưu, nếu không phải là cái
tự ngã, các thầy nên diệt bỏ sắc ấy. Sắc mà các thầy diệt bỏ
được rồi, thì sẽ đưa sự lợi ích an vui lâu dài. (Xin hiểu Thọ,
tưởng, hành, thức cũng có thể thức như sắc). Này các thầy Tỳ-khưu, các thầy hiểu điều này
như thế nào? Vậy, cỏ, lá, nhánh cây và cây ở trong Kỳ viên Tịnh xá
này, ngưòi đem đi đốt hết hay tùy theo trường hợp mà thi hành. Vậy nên
các thầy nên nghĩ rằng: Người ta đem đi đốt hay làm thế nào tùy theo
trường hợp. Các thầy Tỳ-khưu bạch: Bạch hóa Ðức Thế Tôn, vì
những vật ấy không phải là Ta, không phải là vật liên quan đến Ta, nên
dứt bỏ tùy theo sở thích. - Này các thầy Tỳ-khưu, điều ấy cũng như vật
không phải của ta, của các người, các người nên dứt bỏ những vật ấy. Vật
mà các thầy dứt bỏ, sẽ đem lợi ích an vui lâu dài đến, sắc không phải
của các thầy, các thầy diệt được sẽ được an vui lâu dài. Này các
thầy Tỳ-khưu, thọ, tưởng, hành, thức cũng đồng một thể. Ðại đức Ananda có bạch hỏi Phật: Bạch hóa Ðức
Thế-Tôn; Ngài dạy rằng: Thế giới rỗng không có nghĩa là gì? - Này Ananda, Thế giới có nghĩa là rỗng không,
không có Ta, không phải Ta, nên gọi là rỗng không (vô-ngã). Này
Ananda, vật gì rỗng không, không có người thì không có nhãn, không có
sắc, không có thọ, không có sự cảm xúc ở mắt, không có thọ vui,
thọ khổ (xin hiểu, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cùng một thể). Vì
sự rỗng không như vậy nên Như Lai gọi là Vô ngã. Người nên quán
tưởng thấy rõ như vậy. Ðức Thế Tôn có dạy ông Thiện nam Gãminĩ rằng:
này ông Gãminĩ, khi người thấy rõ sự sanh của các pháp; sự nối tiếp
của các pháp hành theo sự thật (là vô ngã) thì sẽ không có sự kinh khủng.
Khi người nào quán tưởng thấy bằng trí tuệ rằng thân này ví như cây
cỏ. Khi ấy, người đó không hề muốn sanh vào cảnh giới nào khác, ngoài
ra Niết Bàn. Người nên quán tưởng thấy thế giới như thế ấy. Này các thày Tỳ-khưu, thầy Tỳ-khưu hằng theo dõi, và
tìm hiểu Sắc coi sắc ấy có bao nhiêu đường lối (sanh lên), theo dõi tìm
hiểu thọ, tưởng, hành, thức. Mặc dầu người ấy thiên về Tà
kiến cho rằng Ta, hay vì ái dục mà chấp rằng: là của Ta. Hoặc và lòng
Ngã mạn cho rằng là Ta. Nếu có vị Tỳ khưu nào chấp như vậy, thầy
Tỳ-khưu ấy sẽ không chấp như vậy nữa. Vì vị ấy đã quán tưởng rằng:
Thế giới này không phải là như vậy. Chú giải dạy: Phải quan sát thấy Thế giới này
rỗng không có nghĩa là xem xét, so sánh, quan sát, quán tưởng, suy gẫm,
cho thấy rõ rệt rằng Thế gian này là vật rỗng không. Vì vậy nên
gọi là Thế giới là vật rỗng không. Có câu Phật ngôn dạy: "Sadã" có nghĩa là
luôn luôn, hằng ngày, hằng giờ. Và tiếng nói "Sati" nghĩa là Trí
nhớ. Tóm lại là phải luôn luôn không có dễ duôi, để Trí nhớ quan sát
Tứ niệm xứ. Câu dạy Attãnuditthi Ũhacca có nghĩa là nhổ lên, kéo
lên, đào lên, làm cho ngừng hẳn lại, diệt bỏ, làm cho hết không còn
dư sót. Attãnuditthi là chấp Ta. Nên có được nghĩa là: Nên nhổ tận gốc rễ
sự chấp Ta. Ðức Thế Tôn có dạy chư Tỳ-khưu: Này các thầy
Tỳ-khưu, loài thú rừng ở trong rừng sâu đi đứng nằm ngủ cũng cẩn thận
trọng. Tại sao vậy? Vì các loài thú rừng ấy không đi không ở trong
đường của thợ săn, cũng như chư Tỳ-khưu là người vắng lặng lòng dục
vọng, xa Ác Pháp, nhập vào sơ thiền được an lặng. Này các thầy
Tỳ-khưu, vị Tỳ-khưu ấy Như Lai gọi là người làm cho Ma vương mờ tối,
đánh đuổi được Ma vương không còn lối thoát, vị Tỳ-khưu ấy đi đến
nơi mà không có thể dùng mắt thấy được. Này các thầy Tỳ-khưu, thầy
Tỳ-khưu nhập nhị thiền... (xin hiểu như thể thức nói trên) v.v... Này các thầy Tỳ-khưu, thầy Tỳ-khưu nhập Diệt
thọ Vô tưởng định, phiền não của vị ấy đã dứt tuyệt, vì các
vị ấy nhìn thấy rõ bằng Tuệ Giác. Này cá thầy Tỳ-khưu, thầy Tỳ-khưu
ấy, Như Lai gọi là người làm cho Ma vương mờ tối, đánh đuổi Ma vương
không còn lối thoát, vị Tỳ-khưu ấy đi đến nơi mà Ma vương không
thể dùng mắt mà trông thấy được, giải thoát khỏi Ái dục. Vị Tỳ-khưu
ấy đi đứng nằm ngồi nơi nào cũng chẳng cần phải cẩn thận. Tại sao? Vì vị
Tỳ-khưu ấy không đi trên đường lối của Ma vương. Vì vậy nên Tử thần
không trông thấy được vị Tỳ khưu ấy. Nơi đây xin nhắc lại câu kệ Ðức Thế Tôn
thuyết cho Ông Mogharãja nghe như vầy: Này Mogharãja, ngươi hãy có Trí
tuệ nhớ, tìm hiểu quan sát thấy thế giới là vật rỗng không,
nhổ tận gốc sự chấp Ta. Nên giải thoát khỏi Tử thần, bằng phương pháp như
thế ấy, khi mà ngươi quán tưởng thế giới bằng phương pháp ấy, thì
Tử thần sẽ không thế nào trông thấy Người. Ý câu kệ này Ðức Thế Tôn dạy về
thuyết Vô Ngã. vì ta còn chấp cái Có, nên Ma vương mới nhìn thấy
được. Ma vương là sự Có, mà người tu diệt cái Có hết, thì còn gì
mà Ma vương có thể nhìn thấy được? Vì vậy nên chỉ có cái không có
vạn vật là giải thoát mà thôi. -oOo- [Chương
trước][Mục Lục][Chương Kế]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Maha Thongkham Medivongs
Phật Giáo với thuyết Vô
Ngã
- Người nên hiểu rằng: Nó không theo ý muốn của ta.
- Người nên hiểu rằng: Nó không đem lại sự an vui cho ta.
- Người nên hiểu rằng: Nó không chịu kiểm soát dưới uy quyền của
ta.
- Người nên hiểu rằng: Nó theo ý sở hữu của nó.
- Người nên hiểu rằng: Nó là vật rỗng không.
- Người nên quan sát hiểu rằng: Thế giới này là vật trống.
- Người nên quan sát hiểu rằng: Thế giới này là vật không.
- Người nên quan sát hiểu rằng: Thế giới này là vật không phải là
Ta.
- Người nên quan sát hiểu rằng: Thế giới này là vật không có
lỗi.
- Người nên quan sát hiểu rằng: Thế giới này là đao thủ phủ đi
đánh theo bên nguời như cây giáo đâm trong mình người.
- Người nên quan sát hiểu rằng: thế giới này chỉ là một nguyên nhân
mà thôi.
- Người nên quan sát hiểu rằng: thế giới này là vật bị trầm nịch.
- Người nên quan sát hiểu rằng: Thế giới này là vật làm cho nhức
nhối.
- Người nên quan sát hiểu rằng: Thế giới này là vật bị những nguyên
tố cấu tạo.
- Sắc này không phải đời sống.
- Sắc này không phải là người nam.
- Sắc này không phải là người nữ.
- Sắc này không phải là thanh niên.
- Sắc này không phải là thiếu nữ.
- Sắc này không phải là Ta.
- Sắc này không phải là người.