TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 40
APADĀNAPĀḶI & THÁNH NHÂN KÝ SỰ
Tập Hai
Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda
4936. Tôi đã nhìn thấy bậc Toàn Giác có màu da vàng chói, vị thọ nhận các vật hiến cúng, đấng Lãnh Đạo Thế Gian, đang di chuyển ở phía trên chóp đỉnh của khu rừng bao la.
4937. Sau khi cầm lấy tràng hoa sậy và ngay trong khi đang đi ra, tôi đã nhìn thấy đấng Toàn Giác, bậc đã vượt qua dòng lũ, vị không còn lậu hoặc ở tại nơi ấy.
4938. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã cúng dường tràng hoa sậy đến đấng Đại Hùng, bậc xứng đáng cúng dường, vị có lòng thương tưởng đến tất cả thế gian.
4939. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
4940. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
4941. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
4942. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Naḷamāliya[1] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Naḷamāliya là phần thứ nhất.
--ooOoo--
4943. Đấng Chiến Thắng tên Padumuttara là bậc thông suốt về tất cả các pháp. Có ước muốn độc cư, bậc Toàn Giác di chuyển ở trên không trung.
4944. Ở không xa núi Hi-mã-lạp, có cái hồ thiên nhiên rộng lớn. Ở tại nơi ấy đã là chỗ cư ngụ của tôi, được liên quan đến nghiệp phước thiện.
4945. Sau khi rời khỏi nơi cư ngụ, tôi đã nhìn thấy đấng Lãnh Đạo Thế Gian được chói sáng như là bông hoa súng, được cháy rực như là ngọn lửa tế thần.
4946. Trong lúc xem xét, tôi đã không nhìn thấy bông hoa tôi sẽ cúng dường đến đấng Lãnh Đạo. Sau khi làm cho tâm của mình được tịnh tín, tôi đã đảnh lễ bậc Đạo Sư.
4947. Tôi đã cầm lấy viên ngọc ma-ni ở trên đầu của tôi và đã cúng dường đến đấng Lãnh Đạo Thế Gian (ước nguyện rằng): “Do sự cúng dường viên ngọc ma-ni này, cầu mong quả thành tựu được tốt đẹp.”
4948. Đứng ở trên không trung, đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, bậc Đạo Sư đã nói lên lời kệ này:
4949. “Mong rằng ý định ấy được thành tựu cho ngươi. Ngươi sẽ đạt được sự an lạc lớn lao. Ngươi hãy thọ hưởng danh vọng lớn lao do sự cúng dường ngọc ma-ni này.”
4950. Nói xong điều ấy, đức Thế Tôn tên Padumuttara, vị Phật tối thượng, đã đi đến nơi mà tâm đã dự tính.
4951. Tôi đã là vị Chúa của chư Thiên cai quản Thiên quốc sáu mươi kiếp. Và tôi đã trở thành đấng Chuyển Luân Vương hàng trăm lần.
4952. Trong khi tôi là vị Thiên nhân đang nhớ lại việc làm trước đây thì ngọc ma-ni, là vật tạo ra ánh sáng của tôi, hiện ra cho tôi.
4953. Tám mươi sáu ngàn nữ nhân có đồ trang sức và vải vóc đủ màu sắc, có các bông tai bằng ngọc trai và ngọc ma-ni là những người vợ của tôi.
4954. (Các nàng) có làn mi cong, có nụ cười, có bộ ngực xinh, có eo thon, thường xuyên vây quanh tôi; điều này là quả báu của việc cúng dường ngọc ma-ni.
4955. Các vật dụng và các đồ trang sức của tôi được thực hiện khéo léo làm bằng vàng, làm bằng ngọc ma-ni, và làm bằng hồng ngọc đúng theo ước muốn.
4956. Các ngôi nhà mái nhọn, các hang động đáng yêu, và chỗ nằm ngồi vô cùng xứng đáng, sau khi biết được ước muốn của tôi, chúng hiện ra theo như ước muốn.
4957. Và những người nào đạt được sự lắng nghe đã khéo được thành tựu (vì sự lắng nghe) là Phước Điền của nhân loại, là phương thuốc cho tất cả các sanh linh, các vị ấy có được những sự lợi ích.
4958. Việc làm của tôi cũng đã được thực hiện tốt đẹp là việc tôi đã nhìn thấy đấng Lãnh Đạo, tôi được thoát khỏi đọa xứ, tôi đạt được vị thế Bất Động.
4959. Nơi nào tôi đi tái sanh dầu là bản thể Thiên nhân hay nhân loại, tôi luôn luôn có ánh sáng từ bảy loại châu báu ở xung quanh.
4960. Do chính sự cúng dường ngọc ma-ni ấy, tôi đã thọ hưởng sự thành tựu, ánh sáng trí tuệ đã được tôi nhìn thấy, tôi đạt đến vị thế Bất Động.
4961. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường ngọc ma-ni trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường ngọc ma-ni.
4962. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
4963. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
4964. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật. Đại đức trưởng lão Maṇipūjaka[2] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Maṇipūjaka là phần thứ nhì.
--ooOoo--
4965. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn tên là Kosika đã cư ngụ tại núi Cittakūṭa. Đức Phật, bậc Hiền Trí là vị chứng thiền, thỏa thích với thiền, vui thích với sự độc cư.
4966. Tôi đã dẫn đầu nhóm phụ nữ đi sâu vào núi Hi-mã-lạp và tôi đã nhìn thấy đức Phật Kosika tợ như mặt trăng ngày rằm.
4967. Khi ấy, tôi đã cầm lấy một trăm ngọn đuốc và đặt vòng quanh (đức Phật). Tôi đã đứng bảy ngày đêm và đã ra đi vào ngày thứ tám.
4968. Khi đức Phật Kosika, đấng Tự Chủ, bậc không bị đánh bại đã xuất khỏi (thiền), với tâm tịnh tín tôi đã đảnh lễ Ngài và đã dâng cúng một phần vật thực.
4969. “Bạch vị Chúa Tể của loài người, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, do việc làm ấy con đã sanh lên cõi trời Đẩu Suất; điều này là quả báu của một phần vật thực.”
4970. Luôn luôn có ánh sáng cho tôi vào ban ngày và cả ban đêm nữa. Tôi tỏa ra ánh sáng ở xung quanh một trăm do-tuần.
4971. Tôi đã là đấng Chuyển Luân Vương, người chinh phục bốn phương, đấng chúa tể của vùng đất Jambu năm mươi lăm kiếp.
4972. Khi ấy, thành phố của tôi đã được sung túc, thịnh vượng, khéo được xây dựng có chiều dài ba mươi do-tuần, và chiều rộng hai mươi do-tuần.
4973. Thành phố tên là Sobhana đã được hóa hiện ra bởi vị Trời Vissakamma, không thiếu vắng mười loại âm thanh được kết hợp với (âm thanh của) chũm chọe.
4974. Ở trong thành phố ấy không có dây thừng, gỗ, và gạch ngói. Toàn bộ chỉ làm bằng vàng và chiếu sáng trong thời gian liên tục.
4975. Có bốn tường thành bao bọc, ba mặt đã được làm bằng ngọc ma-ni, và ở chính giữa có hàng cây cọ đã được hóa hiện ra bởi vị Trời Vissakamma.
4976. Có mười ngàn ngàn hồ nước được che đậy bởi sen hồng và sen xanh, được phủ lên bởi những sen trắng, được tỏa ra với nhiều hương thơm khác loại.
4977. (Kể từ khi) tôi đã cầm giữ ngọn đuốc trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cầm giữ cây đuốc.
4978. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
4979. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
4980. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ukkāsatika[3] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ukkāsatika là phần thứ ba.
--ooOoo--
4981. Tôi đã cầm lấy cây quạt hoa nhài ở cội cây Bồ Đề tối thượng của đức Thế Tôn Vipassī và đã quạt mát cội cây Bồ Đề tối thượng.
4982. (Kể từ khi) tôi đã quạt mát cội cây Bồ Đề tối thượng trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc hầu quạt.
4983. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
4984. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
4985. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sumanavījaniya[4] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sumanavījaniya là phần thứ tư.
--ooOoo--
4986. Trong khi bậc Đại Ần Sĩ Vipassī đang đi tìm kiếm (vật thực), tôi đã nhìn thấy bình bát (của Ngài) trống không và tôi đã đặt đầy sữa đông (ở bình bát).
4987. Kể từ khi tôi đã dâng cúng vật thực trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của sữa đông.
4988. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
4989. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
4990. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Kummāsadāyaka[5] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Kummāsadāyaka là phần thứ năm.
--ooOoo—
4991. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã dâng cúng tám thẻ vật thực đến đức Thế Tôn Kassapa, vị Bà-la-môn toàn hảo.
4992. Ngay trong chính kiếp này (kể từ khi) tôi đã dâng cúng tám thẻ vật thực, tôi không biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của tám thẻ vật thực.
4993. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
4994. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
4995. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Kusaṭṭhadāyaka[6] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Kusaṭṭhadāyaka là phần thứ sáu.
--ooOoo—
4996. Lúc bấy giờ, bậc Toàn Giác tên Sobhita đã cư ngụ tại núi Cittakūṭa. Tôi đã hái bông hoa nguyệt quế mọc ở núi và đã cúng dường đến đấng Tự Chủ.
4997. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường đức Phật trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
4998. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
4999. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
5000. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Giripunnāgiya[7] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Giripunnāgiya là phần thứ bảy.
--ooOoo--
5001. Lúc bấy giờ, bậc Toàn Giác tên Sumana đã cư ngụ tại thành phố Takkarā. Tôi đã cầm lấy trái cây vallikāra và đã dâng cúng đến đấng Tự Chủ.
5002. Kể từ khi tôi đã dâng cúng trái cây trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng trái cây.
5003. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
5004. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
5005. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Vallikāraphaladāyaka[8] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Vallikāraphaladāyaka là phần thứ tám.
--ooOoo--
5006. Sau khi đã rời khỏi việc nghỉ ngơi giữa ngày, đức Thế Tôn Anomadassī, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, bậc Hữu Nhãn đã bước lên đường lộ.
5007. Sau khi cầm lấy đôi dép đã được làm khéo léo, tôi đã tiến bước đường xa. Tại nơi ấy, tôi đã nhìn thấy bậc Toàn Giác, vị có ánh nhìn thu hút, đang đi bộ.
5008. Sau khi làm cho tâm của mình được tịnh tín, tôi đã đem đôi dép lại và đặt xuống ở cạnh bàn chân (đức Phật) rồi đã nói lời nói này:
5009. “Bạch bậc Đại Hùng, vị Chúa của nhàn cảnh, đấng Hướng Đạo, xin Ngài hãy bước lên, mong sao mục đích của con được thành tựu là con sẽ đạt được quả báu do việc này.”
5010. Đức Thế Tôn Anomadassī, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu đã bước lên đôi dép, rồi đã nói lời nói này:
5011. “Người nào được tịnh tín tự tay mình đã dâng cúng đến Ta đôi đép, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hãy lắng nghe Ta nói.”
5012. Nhận biết giọng nói của đức Phật, tất cả chư Thiên đã tụ hội lại, với tâm phấn chấn, với ý vui mừng, tràn đầy niềm phấn khởi, có hai tay chắp lên.
5013. “Do việc dâng cúng đôi dép, người này sẽ được sung sướng và sẽ cai quản Thiên quốc năm mươi lăm lần.
5014. Và sẽ là đấng Chuyển Luân Vương một ngàn lần. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm.
5015. Vào vô lượng kiếp về sau này, có bậc Đạo Sư tên Gotama, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.
5016. Là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, (người này) sẽ biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc và sẽ Niết Bàn không còn lậu hoặc.”
5017. Người có phước báu (này) sẽ được sanh lên ở thế giới chư Thiên hoặc là loài người, sẽ nhận lãnh chiếc xe tương tợ chiếc xe của chư Thiên.”
5018. Các tòa lâu đài, các kiệu khiêng, các con voi của tôi là được trang điểm. Các chiếc xe được thắng ngựa giống tốt luôn hiện hữu cho tôi.
5019. Ngay cả trong khi lìa khỏi gia đình, tôi đã rời khỏi bằng xe ngựa. Trong khi các sợi tóc đang được cạo, tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.
5020. Điều lợi ích cho tôi đã được tôi đạt thành một cách tốt đẹp, việc đổi trao đã được gắn liền tốt đẹp. Sau khi dâng cúng một đôi dép, tôi được đạt đến vị thế Bất Động.
5021. (Kể từ khi) tôi đã dâng cúng đôi dép trước đây vô lượng kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của đôi dép.
5022. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
5023. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
5024. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Pānadhidāyaka[9] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Pānadhidāyaka là phần thứ chín.
--ooOoo—
5025. Trong thời quá khứ, tôi đã là thợ săn thú rừng ở trong khu rừng hoang rậm. Trong lúc tìm kiếm loài linh dương, tôi đã nhìn thấy con đường kinh hành.
5026. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã ôm cát ở bên hông (bằng vạt y) và đã rải lên đường kinh hành của đấng Thiện Thệ quang vinh.
5027. (Kể từ khi) tôi đã rải cát trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của cát.
5028. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
5029. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
5030. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Pulinacaṅkamiya[10] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Pulinacaṅkamiya là phần thứ mười.
--ooOoo--
Vị có tràng hoa sậy, vị dâng ngọc ma-ni, vị có trăm ngọn đuốc, vị có cây quạt, món sữa đông, thẻ vật thực, luôn cả bông hoa nguyệt quế ở núi, trái cây vallikāra, vị dâng đôi dép, và đường kinh hành rải cát. Có chín mươi lăm câu kệ đã được tính đếm bởi các bậc trí.
Phẩm Naḷamālī là phẩm thứ bốn mươi tám.
--ooOoo--
5031. Đức Thế Tôn, bậc Tự Chủ tên Tissa là nhân vật cao cả. Sau khi cởi ra tấm y may từ vải bị quăng bỏ, đấng Chiến Thắng đã đi vào trú xá.
5032. Sau khi cầm lấy cây cung đã được uốn cong, tôi đã bước đi vì nhu cầu thức ăn. Tôi đã nắm lấy con dao cong và đã đi vào khu rừng rậm.
5033. Khi ấy, tôi đã nhìn thấy tấm y may từ vải bị quăng bỏ được treo ở ngọn cây tại nơi ấy. Tôi đã để cây cung xuống ngay tại nơi ấy và đã chắp tay lên ở đầu.
5034. Với tâm hoan hỷ, với ý vui mừng, tôi đã tưởng nhớ đến đức Phật tối thượng và đã đảnh lễ tấm y may từ vải bị quăng bỏ với niềm phỉ lạc dạt dào.
5035. (Kể từ khi) tôi đã đảnh lễ tấm y may từ vải bị quăng bỏ trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc đảnh lễ.
5036. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
5037. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
5038. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Paṃsukūlasaññaka[11] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Paṃsukūlasaññaka là phần thứ nhất.
--ooOoo--
5039. (Tôi) là vị giảng huấn, thông thạo về chú thuật, thông suốt về ba tập Vệ-đà, về tướng mạo, về truyền thống gồm cả văn tự và nghi thức.
5040. Lúc bấy giờ, những người học trò đi đến với tôi tợ là làn nước chảy ở dòng sông. Tôi dạy bọn họ về các chú thuật đêm ngày không biếng nhác.
5041. Trong khi ấy, đấng Toàn Giác Siddhattha đã hiện khởi ở thế gian. Sau khi xua đi điều tăm tối ấy, Ngài đã vận hành ánh sáng của trí tuệ.
5042. Tôi có người đệ tử nọ, vị ấy đã thuật lại cho các đệ tử của tôi. Khi ấy, sau khi nghe được sự việc này bọn họ đã nói với tôi rằng:
5043. “Đức Phật, đấng Toàn Tri, bậc Lãnh Đạo Thế Gian đã hiện khởi ở trên đời. Dân chúng đi theo vị ấy, lợi lộc cho chúng ta sẽ không còn.”
5044. (Tôi đã nói rằng): “Chư Phật, các bậc Hữu Nhãn có danh vọng lớn lao là những vị hiếm khi hiện khởi. Hay là ta nên nhìn thấy đức Phật tối thượng, đấng Lãnh Đạo Thế Gian?”
5045. Tôi đã cầm lấy tấm da dê, bộ y phục vỏ cây, và túi đựng nước của tôi rồi đã rời khỏi khu ẩn cư. Tôi đã thông báo với các đệ tử rằng:
5046. “Tương tợ như bông hoa của cây odumbara và chú thỏ ở mặt trăng, tương tợ như sữa của các con quạ, chư vị Lãnh Đạo Thế Gian là điều hy hữu.
5047. Đức Phật đã hiện khởi ở thế gian cũng như (được sanh vào) bản thể nhân loại là điều hy hữu. Và trong khi có được cả hai, việc nghe (Giáo Pháp) là điều vô cùng hy hữu.
5048. Đức Phật đã hiện khởi ở thế gian. Này chư vị, chúng ta sẽ nhận được (Pháp) nhãn của chúng ta. Chư vị hãy đến, tất cả chúng ta sẽ đi gặp đấng Chánh Đẳng Giác.”
5049. Khi ấy, tất cả các vị ấy đều mang túi đựng nước, mặc y phục da dê thô xấu, quấn búi tóc rối đã rời khỏi khu rừng.
5050. Những vị tầm cầu mục đích tối thượng (ấy) trong khi nhìn với khoảng cách của cán cày, không còn các vướng bận và sân hận, tợ như những con sư tử không bị hãi sợ.
5051. Ít bị bận rộn, không tham lam, cẩn trọng, có hành vi thanh tịnh, các vị ấy trong khi vừa lo việc kiếm sống vừa đi đến gần đức Phật tối thượng.
5052. Khi chỉ còn một do-tuần rưỡi, có cơn bệnh đã sanh khởi đến tôi. Sau khi đã tưởng nhớ đến đức Phật tối thượng, tôi đã qua đời ở tại nơi ấy.
5053. Kể từ khi tôi đã đạt được sự suy tưởng trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc suy tưởng về đức Phật.
5054. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
5055. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
5056. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Buddhasaññaka[12] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Buddhasaññaka là phần thứ nhì.
--ooOoo—
5057. Lúc bấy giờ, tôi đã lội xuống hồ nước đã bị nhiều con voi sử dụng, và vì lý do đói (bụng) tôi (đã) nhổ lên củ sen ở tại nơi ấy.
5058. Vào thời điểm ấy, đức Thế Tôn danh hiệu Padumuttara là vị Phật mặc y màu đỏ (đang) di chuyển ở trên không trung.
5059. Khi ấy, trong khi Ngài đang phất phơ các lá y may từ vải bị quăng bỏ, tôi đã nghe được tiếng động. Trong khi chú ý ở phía bên trên, tôi đã nhìn thấy đấng Lãnh Đạo Thế Gian.
5060. 5061. Trong khi đứng ngay tại nơi ấy, tôi đã thỉnh cầu đấng Lãnh Đạo Thế Gian rằng: “Xin đức Phật, bậc Hữu Nhãn, vì lòng thương tưởng hãy thọ lãnh mật ong cùng với các củ sen, sữa, bơ lỏng, và rễ sen của con.” Do đó, đấng Bi Mẫn, bậc Đạo Sư có danh vọng lớn lao, đã ngự xuống.
5062. Bậc Hữu Nhãn vì lòng thương tưởng đã thọ nhận vật thực của tôi. Sau khi thọ nhận, bậc Toàn Giác đã thực hiện lời tùy hỷ đến tôi rằng:
5063. “Này người có đại phước, mong rằng ngươi được an lạc. Mong rằng cảnh giới tái sanh được thành tựu cho ngươi. Do việc dâng cúng củ sen này, ngươi sẽ đạt được sự an lạc lớn lao.”
5064. Sau khi nói lên điều ấy, đấng Toàn Giác tên Padumuttara, bậc Toàn Giác, đấng Chiến Thắng đã cầm lấy thức ăn rồi đã ra đi bằng đường không trung.
5065. Sau đó, tôi đã cầm lấy củ sen và đã đi về lại khu ẩn cư của mình. Sau khi đã treo củ sen ở trên cây, tôi đã tưởng nhớ lại việc dâng cúng của mình.
5066. Khi ấy, có cơn gió lớn đã nổi lên và đã làm lay chuyển khu rừng. Bầu trời đã gào thét trong lúc sấm sét đang nổ ra.
5067. Sau đó, tia sét đánh xuống đã giáng vào đầu của tôi. Khi ấy, trong khi bị khuỵu xuống tôi đây đã lìa đời ở tại nơi ấy.
5068. Được gắn liền với nghiệp phước thiện, tôi đã đi đến cõi trời Đẩu Suất. (Khi) thân thể của tôi bị ngã xuống, tôi đã sướng vui ở thế giới chư Thiên.
5069. Có tám mươi sáu ngàn nữ nhân đã được trang điểm hầu cận sáng tối; điều này là quả báu của việc dâng cúng củ sen.
5070. Sau khi đi đến sự sanh ra ở loài người, tôi luôn luôn được sung sướng, tôi không có sự thiếu hụt về của cải; điều này là quả báu của việc dâng cúng củ sen.
5071. Là người được thương tưởng bởi vị Trời của chư Thiên như thế ấy, tôi đã được đoạn tận tất cả các lậu hoặc, giờ đây không còn tái sanh nữa.
5072. Kể từ khi tôi đã dâng cúng vật thực trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng củ sen.
5073. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
5074. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
5075. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Bhisadāyaka[13] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Bhisadāyaka là phần thứ ba.
--ooOoo--
5076. Khu ẩn cư của tôi được xây dựng khéo léo ở phía nam của núi Hi-mã-lạp. Vào lúc bấy giờ, trong khi tầm cầu mục đích tối thượng tôi cư ngụ ở trong rừng.
5077. Trong lúc tìm kiếm vị thầy, tôi sống mỗi một mình với rễ và trái cây, hài lòng với việc có hay không có.
5078. Trong khi ấy, đấng Toàn Giác tên Sumedha đã hiện khởi ở thế gian. Trong lúc tiếp độ đám đông dân chúng, Ngài công bố về bốn Sự Thật.
5079. Tôi không được nghe về đấng Toàn Giác, cũng không có ai nói với tôi. Khi tám năm đang trôi qua, tôi đã nghe về đấng Lãnh Đạo Thế Gian.
5080. Sau khi dập tắt củi lửa và quét dọn khu ẩn cư, tôi đã cầm lấy gói vật dụng và đã rời khỏi khu rừng.
5081. Trong khi cư ngụ chỉ một đêm ở các ngôi làng và các khu phố chợ, khi ấy theo tuần tự tôi đã đi đến gần con sông Candavatī.
5082. Vào thời điểm ấy, trong lúc tiếp độ nhiều chúng sanh, đức Thế Tôn đấng Lãnh Đạo Thế Gian Sumedha thuyết giảng về vị thế Bất Tử.
5083. Tôi đã vượt qua đám đông người và đã đảnh lễ đấng Chiến Thắng sánh tợ đại dương. Tôi đã khoác tấm da dê một bên vai rồi đã ngợi ca đấng Lãnh Đạo Thế Gian rằng:
5084. “Ngài là đấng Tối Thượng của loài người, là bậc thầy, là biểu hiệu, là ngọn cờ, là mục đích tối cao, là nơi nương tựa, là sự nâng đỡ, là ngọn đèn của chúng sanh.
(Tụng phẩm thứ hai mươi mốt).
5085. Bạch bậc Hiền Trí, Ngài là bậc khôn khéo về kiến thức, là đấng Anh Hùng đã giúp cho chúng sanh vượt qua, ở thế gian không có người nào khác là đấng Tiếp Độ, không ai là trội hơn Ngài.
5086. Biển cả vĩ đại hiển nhiên là có thể đo lường bằng đầu ngọn cỏ kusa, tuy nhiên bạch đấng Toàn Tri, trí tuệ của Ngài là không thể đo lường được.
5087. Bạch đấng Hữu Nhãn, sau khi đặt trái đất lên đĩa cân là có thể xác định, tuy nhiên sự đo lường trí tuệ của Ngài là không thể có.
5088. Không gian có thể ước lượng bằng sợi dây thừng hoặc bằng ngón tay, tuy nhiên bạch đấng Toàn Tri, giới hạnh của Ngài là không thể đo lường.
5089. Bạch đấng Hữu Nhãn, nước ở đại dương, bầu trời, và trái đất, những vật này là có thể đo lường, còn Ngài là không thể đo lường.”
5090. Sau khi đã tán dương đấng Toàn Tri có danh vọng lớn lao bằng sáu câu kệ, khi ấy tôi đã chắp tay lên rồi đứng im lặng.
5091. Người ta nói về người có tuệ bao la, sáng suốt là “Sumedha.” Ngài đã ngồi xuống ở hội chúng tỳ khưu và đã nói lên những lời kệ này:
5092. “Người nào, được tịnh tín, đã tán dương trí tuệ của Ta bằng tâm ý của mình, ta sẽ tán dương người ấy. Các người hãy lắng nghe Ta nói.
5093. Người này sẽ sướng vui ở thế giới chư Thiên trong bảy mươi bảy kiếp, và sẽ là vị Chúa của chư Thiên cai quản Thiên quốc một ngàn lần.
5094. Và (người này) sẽ là đấng Chuyển Luân Vương hàng trăm lần. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm.
5095. Dầu trở thành vị Thiên nhân hay là nhân loại, (người này) được tụ hội với nghiệp phước thiện, sẽ có tuệ sắc bén, tâm tư không bị kém sút.
5096. Vào ba mươi ngàn kiếp (về sau này), bậc Đạo Sư tên Gotama, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.
5097. Sau khi lìa khỏi gia đình, (người này) sẽ xuất gia, không còn sở hữu gì, và sẽ chạm đến phẩm vị A-la-hán vào lúc bảy tuổi tính từ khi sanh.”
5098. Từ khi tôi nhớ lại bản thân, từ khi tôi đạt được Giáo Pháp, trong khoảng thời gian này tôi không biết đến tâm tư không được thích ý.
5099. Tôi đã luân hồi ở tất cả các cõi và đã thọ hưởng đầy đủ, tôi không có sự thiếu hụt về của cải; điều này là quả báu của việc ngợi ca trí tuệ.
5100. Ba ngọn lửa (tham sân si) của tôi đã được dập tắt, tất cả các hữu đã được xóa sạch, tất cả các lậu hoặc đã được đoạn tận, giờ đây không còn tái sanh nữa.
5101. Kể từ khi tôi đã ngợi ca trí tuệ trước đây ba mươi ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc ngợi ca trí tuệ.
5102. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
5103. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
5104. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ñāṇatthavika[14] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ñāṇatthavika là phần thứ tư.
--ooOoo--
5105. Sau khi từ bỏ năm phần dục lạc, các sắc yêu quý, các vật thích ý, tôi đã từ bỏ tám mươi koṭi và đã xuất gia vào đời sống không gia đình.
5106. Sau khi xuất gia, tôi đã tránh xa nghiệp ác do thân. Sau khi từ bỏ ác hạnh do khẩu, tôi cư ngụ ở bờ sông.
5107. Trong khi tôi đang sống mỗi một mình, đức Phật tối thượng đã đi đến gặp tôi. Tôi không biết về “Đức Phật.” Tôi đã thực hiện việc chào hỏi.
5108. Sau khi thực hiện việc chào hỏi, tôi đã hỏi tên và dòng họ: “Phải chăng ngài là Thiên thần, là vị Càn-thát-bà, hay là Chúa của chư Thiên Sakka?
5109. Ngài là ai? Là con trai của ai? Phải chăng vị Đại Phạm Thiên đã đi đến nơi đây? Ngài tỏa sáng tất cả các phương giống như là mặt trời đang mọc.
5110. Thưa ngài, một ngàn cây căm bánh xe được thấy ở bàn chân. Ngài là ai? Là con trai của ai? Làm thế nào chúng tôi nhận biết ngài? Xin ngài cho biết tên và dòng họ, xin ngài hãy xua đi nỗi nghi hoặc của tôi.”
5111. “Ta không phải là Thiên thần, không phải là Càn-thát-bà, cũng không phải là Chúa của chư Thiên Sakka. Và Ta cũng không có bản thể của Phạm Thiên, đối với các vị này Ta là bậc Tối Thượng.”
5112. Ta đã vượt lên phạm vi của các vị ấy, ta đã cắt lìa sự trói buộc của các dục. Sau khi thiêu đốt tất cả các phiền não, ta đạt đến phẩm vị Toàn Giác tối thượng.”
5113. Sau khi lắng nghe lời nói của vị ấy, tôi đã nói lời nói này: “Bạch đấng Đại Hiền Trí, nếu Ngài là đức Phật, đấng Toàn Tri, bậc Đoạn Tận khổ đau, xin thỉnh Ngài ngồi xuống, tôi sẽ cúng dường Ngài.”
5114. Tôi đã trải ra tấm da dê và tôi đã dâng cúng đến đấng Đạo Sư. Đức Thế Tôn đã ngồi xuống ở tại nơi ấy tợ như con sư tử (ngồi xuống) ở hang núi.
5115. Tôi đã cấp tốc leo lên ngọn núi và đã hái trái xoài, bông hoa sālā xinh xắn, và gỗ trầm hương vô cùng giá trị.
5116. Tôi đã mau mắn nâng lên tất cả các thứ ấy và đã đi đến gần đấng Lãnh Đạo Thế Gian. Tôi đã dâng cúng trái cây và đã cúng dường bông hoa sālā đến đức Phật.
5117. Với tâm hoan hỷ, với ý vui mừng, tôi đã thoa trầm hương và đã đảnh lễ bậc Đạo Sư với niềm phỉ lạc dạt dào.
5118. Khi ấy, đấng Lãnh Đạo Thế Gian Sumedha đã ngồi xuống ở tấm da dê. Trong khi làm cho tôi được hoan hỷ, Ngài đã tán dương việc làm của tôi rằng:
5119. “Do cả hai việc dâng cúng trái cây cùng với hương thơm tràng hoa này, (người này) sẽ sướng vui ở thế giới chư Thiên trong hai trăm năm mươi kiếp, và sẽ trở thành người vận dụng quyền lực với tâm tư không bị sút kém.
5120. (Người này) sẽ đi đến bản thể nhân loại trong hai ngàn sáu trăm kiếp và sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương có đại thần lực (chinh phục) bốn phương.
5121. Có thành phố tên là Vebhāra toàn bằng vàng được tô điểm với châu báu các loại sẽ được hóa hiện ra bởi vị thần Vissakamma.
5122. Theo phương cách này đây, người ấy sẽ luân hồi các cõi. Dầu ở bản thể Thiên nhân hay nhân loại, (người này) sẽ được tôn vinh ở khắp mọi nơi. Khi đạt đến lần hiện hữu cuối cùng, (người này) sẽ là thân quyến của đấng Phạm Thiên.[15]
5123. Sau khi lìa khỏi gia đình, (người này) sẽ trở thành người không có gia đình, sẽ thông suốt về các thắng trí, và sẽ Niết Bàn không còn lậu hoặc.”
5124. Nói xong điều này, trong lúc tôi đang trầm tư, bậc Toàn Giác đấng Lãnh Đạo Thế Gian Sumedha đã ra đi bằng đường không trung.
5125. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
5126. Sau khi mệnh chung từ cõi trời Đẩu Suất, tôi đã tái sanh vào bụng mẹ. Khi tôi sống ở trong bào thai, tôi không có thiếu hụt về sự thọ hưởng.
5127. Khi tôi đã ở trong bụng mẹ, do ước muốn của tôi, thức ăn nước uống và vật thực cho người mẹ được sanh lên theo như ước muốn.
5128. Vào lúc bảy tuổi tính từ khi sanh, tôi đã xuất gia vào đời sống không gia đình. Khi tóc (cạo) được rơi xuống, tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.
5129. Trong lúc suy tầm về nghiệp quá khứ, tôi đã nhìn thấy không phải là kém cỏi, tôi đã nhớ lại việc làm của tôi trong ba mươi ngàn kiếp.
5130. “Bạch đấng Siêu Nhân, con kính lễ Ngài! Bạch đấng Tối Thượng Nhân, con kính lễ Ngài! Sau khi đi đến với Giáo Pháp của Ngài, con đã đạt được vị thế Bất Động.”
5131. Kể từ khi tôi đã cúng dường đức Phật trước đây ba mươi ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
5132. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
5133. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
5134. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Candanamāliya[16] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Candanamāliya là phần thứ năm.
--ooOoo—
5135. Khi đấng Bảo Hộ Thế Gian, bậc Lãnh Đạo Thế Gian Siddhattha Niết Bàn, tôi đã đưa các thân quyến của tôi đến và tôi đã thực hiện việc cúng dường xá-lợi.
5136. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường xá-lợi kể trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường xá-lợi.
5137. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
5138. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
5139. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Dhātupūjaka[17] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Dhātupūjaka là phần thứ sáu.
--ooOoo--
5140. Ở ngọn núi Hi-mã-lạp, (tôi là) vị đạo sĩ khổ hạnh tên Devaḷa. Con đường kinh hành của tôi ở tại nơi ấy đã được tạo nên bởi các vị phi nhân.
5141. Lúc bấy giờ, (tôi) là vị quấn búi tóc rối mang túi đựng nước, trong khi tầm cầu mục đích tối thượng, tôi đã rời khỏi khu rừng bao la.
5142. Khi ấy, tám mươi bốn ngàn người đệ tử đã phục vụ tôi. Được sanh ra theo nghiệp của mình, các vị sống ở trong khu rừng bao la.
5143. Sau khi rời khỏi khu ẩn cư, tôi đã tạo nên ngôi bảo tháp bằng cát. Tôi đã gom góp các bông hoa các loại và đã cúng dường ngôi bảo tháp ấy.
5144. Ở tại nơi ấy, sau khi làm cho tâm được tịnh tính, tôi đi vào khu ẩn cư. Tất cả các người đệ tử đã tụ hội lại và đã hỏi tôi về sự việc này:
5145. “Chúng tôi cũng muốn biết ngài sẽ lễ bái vị Thiên thần nào ở ngôi bảo tháp đã được xây dựng bằng cát. Được hỏi, xin ngài hãy giải thích cho chúng tôi.”
5146. “Các đấng Hữu Nhãn có danh vọng lớn lao đã được xác định rõ ở trong câu chú thuật của chúng ta. Đương nhiên, ta lễ bái các vị Phật tối thượng có danh vọng lớn lao ấy.”
5147. “Các bậc Đại Hùng, các đấng Toàn Tri, các vị Lãnh Đạo Thế Gian ấy là như thế nào? Màu da thế nào? Giới hạnh thế nào? Các vị có danh vọng lớn lao ấy là như thế nào?”
5148. “Chư Phật có ba mươi hai tướng mạo, và còn có bốn mươi cái răng. Với lông mi dài như của bò cái tơ, các con mắt của các vị ấy trông giống như trái cam thảo rừng.
5149. Và trong khi bước đi, chư Phật ấy chỉ nhìn với khoảng cách của cán cày. Đầu gối của các vị ấy không phát tiếng, âm thanh của các khớp không nghe được.
5150. Và trong khi bước đi, các đấng Thiện Thệ bước đi đều nhấc lên bàn chân phải trước tiên; điều này là trạng thái tự nhiên của chư Phật.
5151. Và chư Phật ấy không bị hãi sợ tương tợ như con sư tử vua của loài thú. Các vị chẳng bao giờ ca tụng bản thân và không khinh miệt các hạng chúng sanh.
5152. Được thoát khỏi sự kiêu ngạo và chê bai, là bình đẳng đối với tất cả sanh linh, chư Phật là những vị không ca tụng chính mình; điều này là trạng thái tự nhiên của chư Phật.
5153. Và trong khi được sanh ra, chư Phật Toàn Giác ấy thị hiện ánh sáng và làm toàn thể trái đất này rung chuyển theo sáu cách.
5154. Và chư vị này nhìn thấy địa ngục, khi ấy địa ngục được tiêu diệt, có đám mây lớn đổ mưa; điều này là trạng thái tự nhiên của chư Phật.
5155. Các bậc Long Tượng ấy là như thế, và có danh vọng lớn lao không thể sánh bằng, không bị vượt trội về thể hình, các đấng Như Lai là vô lượng.”
5156. Tất cả các người đệ tử đã tùy hỷ những lời nói của tôi với sự kính trọng. Và họ đã thực hành theo đúng như thế, tùy theo sức mạnh, tùy theo năng lực.
5157. Trong khi tin tưởng lời nói của tôi, những đệ tử có sự mong mỏi về nghiệp của mình tôn vinh (ngôi bảo tháp) cát với tâm ý hướng về bản thể đức Phật.
5158. Vào lúc bấy giờ, vị Thiên tử có danh vọng lớn lao sau khi mệnh chung ở cõi trời Đẩu Suất đã sanh vào bụng mẹ, mười ngàn thế giới đã rung động.
5159. Tôi đã đứng ở đường kinh hành không xa khu ẩn cư. Tất cả các đệ tử đã tụ tập lại và đã đi đến ở bên tôi (hỏi rằng):
5160. “Trái đất gầm thét như loài bò mộng, rống lên như loài sư tử, khuấy động như loài cá sấu, sẽ có hậu quả gì đây?”
5161. “Đấng Toàn Giác mà ta tán dương lúc ở gần ngôi bảo tháp bằng cát, giờ đây đức Thế Tôn bậc Đạo Sư ấy đã nhập vào bụng mẹ.”
5162. Sau khi thực hiện việc giảng pháp cho họ và tán dương bậc Đại Hiền Trí, tôi đã giải tán các đệ tử của mình rồi đã xếp vào thế kiết già.
5163. Và sức lực của tôi quả nhiên đã cạn kiệt, tôi đã bị bệnh một cách trầm trọng. Tôi đã tưởng nhớ đến đức Phật tối thượng và đã mệnh chung ở tại nơi ấy.
5164. Khi ấy, tất cả các người đệ tử đã tụ hội lại và đã thực hiện giàn hỏa thiêu. Và sau khi cầm lấy thi thể của tôi họ đã đặt lên giàn hỏa thiêu.
5165. Các vị ấy đã tụ hội lại, vây quanh giàn hỏa thiêu, và đã chắp tay lên ở đầu. Bị ưu phiền bởi mũi tên sầu muộn, các vị ấy đã khóc rống lên.
5166. Trong khi các vị ấy đang than vãn, tôi đã đi đến gần giàn hỏa thiêu (nói rằng): “Này các bậc trí tuệ, ta là thầy của các ngươi, các ngươi chớ có sầu muộn.
5167. Các ngươi hãy nên nỗ lực cho lợi ích của mình đêm ngày không biếng nhác. Các ngươi chớ trở nên xao lãng, thời khắc của các ngươi đã được xếp đặt.”
5168. Sau khi chỉ dạy các đệ tử của mình, tôi đã trở lại thế giới chư Thiên. Và tôi đã sướng vui ở thế giới chư Thiên mười tám kiếp.
5169. Và tôi đã trở thành đấng Chuyển Luân Vương năm trăm lần, và đã cai quản Thiên quốc hàng trăm lần.
5170. Trong những kiếp còn lại, tôi đã luân hồi xen lẫn (ở cõi trời và cõi người), tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường cát.
5171. Giống như vào tháng Komudī, có nhiều giống cây trổ hoa. Tương tợ y như thế, nhờ bậc Đại Ẩn Sĩ tôi cũng được trổ hoa vào thời điểm.
5172. Chính sự tinh tấn là có khả năng tiến hành các phận sự, là điều kiện đưa đến sự an ổn khỏi các điều ràng buộc. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
5173. (Kể từ khi) tôi đã tán dương đức Phật trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc tán dương.
5174. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
5175. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
5176. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Pulinuppādaka[18] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Pulinuppādaka là phần thứ bảy.
--ooOoo--
5177. Đức Thế Tôn Atthadassī, bậcTự Chủ, đấng Lãnh Đạo Thế Gian, đức Như Lai đã đi đến gần bờ của con sông Vinakā.
5178. Là loài rùa di chuyển ở trong nước, có ý định đưa đức Phật vượt qua, tôi đã đi ra khỏi nước và đã đi đến gần đấng Lãnh Đạo Thế Gian.
5179. “Xin đức Phật Atthadassī bậc Đại Hiền Trí hãy bước lên ngưòi con, con sẽ đưa Ngài vượt qua. Ngài là bậc Đoạn Tận khổ đau.”
5180. Sau khi biết được ý định của tôi, đấng Lãnh Đạo Thế Gian Atthadassī có danh vọng lớn lao đã bước lên và đứng ở trên lưng của tôi.
5181. Từ khi tôi nhớ lại bản thân, từ khi tôi đạt được hiểu biết, tôi chưa từng có sự sung sướng dường thế ấy giống như khi được lòng bàn chân (Ngài) chạm đến.
5182. Sau khi vượt qua, đấng Toàn Giác Atthadassī có danh vọng lớn lao đã đứng ở bờ sông và đã nói lên những lời kệ này:
5183. “Ngay khi tâm vừa nghĩ rằng: ‘Ta (sẽ) vượt qua dòng nước chảy của con sông,’ và con rùa chúa có trí tuệ này đã đưa Ta vượt qua.
5184. Do sự vượt qua này của đức Phật và do sự hành trì tâm từ ái, (đối tượng này) sẽ sướng vui ở thế giới chư Thiên trong một ngàn tám trăm kiếp.
5185. Sau khi từ thế giới chư Thiên đi đến nơi đây, được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch, (đối tượng này) ngồi ở ngay chỗ ngồi ấy, sẽ vượt qua dòng chảy nghi hoặc.”
5186. Cũng giống như chỉ một ít hạt giống được gieo xuống cánh đồng tốt đẹp, khi có mưa rào thích hợp đổ xuống, kết quả làm hài lòng người nông phu.
5187. Tương tợ y như thế, thửa ruộng đức Phật này đã được thuyết giảng bởi đấng Chánh Đẳng Giác, khi có mưa rào thích hợp đổ xuống kết quả sẽ làm tôi hài lòng.
5188. Có tính khẳng quyết về sự nỗ lực, tôi được an tịnh, không còn mầm mống tái sanh. Sau khi biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc, tôi sống không còn lậu hoặc.
5189. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây một ngàn tám trăm kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc vượt qua.
5190. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
5191. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
5192. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Taraṇiya[19] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Taraṇiya là phần thứ tám.
--ooOoo--
5193. Vào lúc đức Phật, đấng Chiến Thắng Dīpaṅkara đã chú nguyện cho (vị ẩn sĩ) Sumedha rằng: “Vô lượng kiếp về sau, vị này sẽ trở thành đức Phật.
5194. Người mẹ sanh ra vị này sẽ có tên là Māyā. Người cha tên là Suddhodana. Vị này sẽ là Gotama.
5195. Sau khi đã ra sức nỗ lực và thực hiện hành động khó thực hành được, vị này sẽ được giác ngộ ở gốc cội cây Assattha, trở thành bậc Toàn Giác có danh vọng lớn lao.
5196. Upatissa và Kolita sẽ là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả tên là Ānanda sẽ phục vụ đấng Chiến Thắng này.
5197. Khemā và Uppalavaṇṇā sẽ là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Citta và luôn cả Āḷavaka sẽ là hai nam cư sĩ hàng đầu.
5198. Khujjuttarā và Nandamātā sẽ là hai nữ cư sĩ hàng đầu. Cội Bồ Đề của đấng Chiến Thắng này được gọi tên là ‘Assattha’.”[20]
5199. Sau khi nghe được lời nói này của bậc Đại Ẩn Sĩ không ai sánh bằng, chư Thiên và nhân loại, được hoan hỷ, chắp tay lên lễ bái.
5200. Khi ấy, tôi đã là người trai trẻ khéo được học tập tên Megha. Tôi đã nghe được lời chú nguyện thù thắng của bậc Đại Hiền Trí đến vị Sumedha.
5201. Có được niềm tin với vị Sumedha đầy lòng bi mẫn, trong khi vị anh hùng ấy đang hành hạnh xuất gia, tôi đã cùng xuất gia (với vị ấy).
5202. Tôi đã thu thúc trong giới bổn Pātimokkha và ở năm giác quan, có sự nuôi mạng trong sạch, có niệm, là vị anh hùng, là người thực hành lời dạy của đấng Chiến Thắng.
5203. Trong khi đang an trú như thế, do một người bạn xấu xa nào đó tôi bị xúi giục vào hành vi sai trái và đã đánh mất đạo lộ tốt đẹp.
5204. Là người bị tác động bởi sự suy tầm, tôi đã xa lìa lời giáo huấn. Sau đó vì người bạn tồi ấy, tôi đã phạm vào việc giết chết người mẹ.
5205. Tôi đã thực hiện nghiệp vô gián, với tâm ý xấu xa tôi đã giết chết (người mẹ). Từ nơi ấy chết đi, tôi đã đi đến đại địa ngục Avīci vô cùng khiếp đảm.
5206. Trong khi đang ở chốn đọa đày, bị khổ sở, tôi đã chịu đựng dài lâu. Tôi đã không nhìn thấy vị anh hùng Sumedha bậc cao quý của loài người nữa.
5207. Trong kiếp này, tôi đã là loài cá khổng lồ ở biển cả. Sau khi nhìn thấy con thuyền ở biển khơi, tôi đã đến gần mục tiêu của việc kiếm mồi.
5208. Sau khi nhìn thấy tôi, các người thương buôn kinh sợ đã tưởng nhớ đến đức Phật tối thượng. Tôi đã nghe tiếng kêu lớn “Gotama” đã được thốt lên bởi những người ấy.
5209. Sau khi nhớ lại sự hiểu biết trước đây, từ nơi ấy tôi đã mệnh chung. Tôi đã được sanh ra trong gia đình sung túc dòng dõi Bà-la-môn ở thành Sāvatthī.
5210. Có tên là Dhammaruci, tôi đã là người ghê tởm tất cả các điều ác. Vào lúc bảy tuổi tính từ khi sanh, tôi đã nhìn thấy bậc Quang Đăng của thế gian.
5211. Tôi đã đi đến tu viện Jetavana to lớn và đã xuất gia vào đời sống không gia đình. Tôi đã đi đến (nương nhờ) đức Phật ba lần vào ban đêm và ban ngày.
5212. Khi ấy, bậc Hiền Trí đã nhìn thấy và đã nói với tôi rằng: “Này Dhammaruci, lâu thật.” Do đó, tôi đã nói với đức Phật về sự việc quá khứ đã xảy ra:
5213. “Thật là lâu lắm, hôm nay con quả nhiên được nhìn thấy hình dáng xinh đẹp của Ngài, thân thể không gì sánh bằng, có một trăm phước tướng, là vật làm duyên đưa đến Niết Bàn trước đây.
5214. Bạch đấng Đại Hiền Trí, bóng tối đã được Ngài tiêu diệt lâu lắm rồi. Dòng sông (ái dục) đã được làm cho khô cạn nhờ vào sự hộ trì tốt đẹp. Sự ô nhiễm đã được làm trong sạch lâu lắm rồi. Con mắt đã có được cấu tạo bằng trí tuệ.
5215. Bạch đức Gotama, con được gần gũi với Ngài trong thời gian dài, con đã không bị tiêu hoại lần nữa trong khoảng thời gian dài. Hôm nay con được hội tụ với Ngài lần nữa bởi vì những việc đã làm không bị hoại diệt.”
5216. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
5217. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
5218. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Dhammaruci đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Dhammaruci là phần thứ chín.
--ooOo--
5219. Vào lúc ấy, tôi đã đi sâu vào rừng cây sālā. Khu ẩn cư của tôi được xây dựng khéo léo, được phủ lên bởi những bông hoa sālā, tôi cư ngụ ở khu rừng.
5220. Và đức Thế Tôn Piyadassī, đấng Tự Chủ, là nhân vật cao cả. Có ước muốn độc cư, bậc Toàn Giác đã đi đến khu rừng cây sālā.
5221. Khi ấy, tôi đã rời khỏi khu ẩn cư và đã đi đến khu rừng. Trong khi tìm kiếm rễ và trái cây tôi đi lang thang ở trong rừng bao la.
5222. Tại nơi ấy, tôi đã nhìn thấy đấng Toàn Giác Piyadassī, bậc có danh vọng lớn lao, ngồi vững chải, thể nhập (định), đang chói sáng ở trong khu rừng lớn.
5223. Tôi đã dựng bốn cây gậy và đã tạo nên mái che được làm khéo léo ở phía bên trên của đức Phật, rồi đã phủ lên bằng các bông hoa sālā.
5224. Tôi đã cầm giữ mái che được phủ lên bằng bông hoa sālā trong bảy ngày. Tại đó, sau khi làm cho tâm được tịnh tín tôi đã đảnh lễ đức Phật tối thượng.
5225. Vào thời điểm ấy, đức Thế Tôn đã xuất khỏi định. Trong khi nhìn với khoảng cách của cán cày, bậc Tối Thượng Nhân đã ngồi xuống.
5226. Vị Thinh Văn của bậc Đạo Sư Piyadassī tên là Varuṇa cùng với một trăm ngàn vị có năng lực đã đi đến gặp đấng Hướng Đạo.
5227. Và đức Thế Tôn Piyadassī, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, bậc Chiến Thắng sau khi ngồi xuống ở hội chúng tỳ khưu đã để lộ nụ cười.
5228. Anuruddha, vị thị giả của bậc Đạo Sư Piyadassī, đã khoác y một bên vai rồi đã hỏi bậc Đại Hiền Trí rằng:
5229. “Bạch đức Thế Tôn, bậc Đạo Sư để lộ nụ cười trong khi biết được lý do, vậy nguyên nhân của việc thể hiện nụ cười của bậc Đạo Sư là gì?”
5230. Ta đã nhớ lại việc làm của người trai trẻ đã cầm giữ mái che bằng bông hoa cho ta trong bảy ngày, nên ta đã để lộ nụ cười.
5231. Ta không nhìn thấy khoảng không gian nào dung chứa được phước báu, và không khoảng không gian nào được như ý dầu ở thế giới chư Thiên hay nhân loại.
5232. Đối với người có được nghiệp phước thiện đang sinh sống ở thế giới chư Thiên, cho đến hội chúng của người ấy sẽ được phủ lên bởi bông hoa sālā.
5233. Tại đó, trong khi nghiệp phước thiện đã được hội tụ, người ấy sẽ luôn luôn vui sướng với các điệu vũ, các lời ca, và các khúc tấu nhạc của Thiên đình.
5234. Cho đến hội chúng của người ấy sẽ có được hương thơm hạng nhất. Và sẽ có cơn mưa bông hoa sālā rơi xuống liền khi ấy.
5235. Mệnh chung từ nơi ấy, người nam này sẽ đi đến cõi nhân loại. Thậm chí ở nơi đây cũng có mái che bằng bông hoa sālā được duy trì trong mọi thời điểm.
5236. Ở nơi đây, điệu vũ và lời ca, được kết hợp với (âm thanh của) chũm chọe, sẽ thường xuyên vây quanh người này; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
5237. Và khi mọc trời đang mọc lên, sẽ có cơn mưa bông hoa sālā rơi xuống. Được gắn liền với nghiệp phước thiện, (bông hoa sālā) đổ mưa vào mọi thời điểm.
5238. Vào một ngàn tám trăm kiếp (về sau này), bậc Đạo Sư tên Gotama, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.
5239. Là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, (người này) sẽ biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc và sẽ Niết Bàn không còn lậu hoặc.”
5240. Sẽ có mái che bông hoa sālā cho người này khi đang chứng ngộ Giáo Pháp. Trong khi người này đang được thiêu đốt ở giàn hỏa thiêu, sẽ có mái che ở tại nơi ấy.”
5241. Sau khi tán dương quả thành tựu, trong khi làm hài lòng hội chúng với cơn mưa Giáo Pháp, bậc Đại Hiền Trí Piyadassī đã thuyết giảng Giáo Pháp.
5242. Tôi đã cai quản Thiên quốc của chư Thiên trong ba mươi kiếp. Và tôi đã trở thành đấng Chuyển Luân Vương sáu mươi bảy lần.
5243. Sau khi từ thế giới chư Thiên đi đến nơi đây, tôi nhận được sự an lạc lớn lao. Thậm chí ở nơi đây cũng sẽ có mái che bông hoa sālā trong mọi thời điểm.
5244. Sau khi đã làm hài lòng bậc Đại Hiền Trí Gotama đấng cao quý dòng Sakya, sau khi từ bỏ sự hơn thua, tôi đã đạt được vị thế Bất Động.
5245. Kể từ khi tôi đã cúng dường đức Phật trước đây một ngàn tám trăm kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
5246. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
5247. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
5248. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sālamaṇḍapiya đã nói lên những lời kệ này như thế.
Ký sự về trưởng lão Sālamaṇḍapiya là phần thứ mười.
--ooOoo--
Tấm y may từ vải bị quăng bỏ, vị tưởng nhớ đến đức Phật, vị dâng cúng củ sen, vị tán dương trí tuệ, vị có trầm hương, vị cúng dường xá-lợi, vị tái sanh do cát, vị vượt qua, vị Dhammaruci, vị có mái che bông hoa sālā là tương tợ. Có hai trăm câu kệ và thêm vào mười chín câu nữa.
Phẩm Saṃsukūla là phẩm thứ năm mươi mốt.
--ooOoo--
5249. Tôi đã nhìn thấy đức Phật Vipassī, vị không còn ô nhiễm, đấng Lãnh Đạo Thế Gian ngồi ở trong vùng đồi núi, chói sáng tợ như là cây kaṇikāra.
5250. Tôi đã lấy ra ba bông hoa kiṅkaṇi và đã dâng lên (Ngài). Sau khi đã cúng dường đấng Toàn Giác, tôi đi (nhiễu quanh Ngài) mặt hướng phía phải.
5251. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
5252. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường đức Phật trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
5253. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
5254. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
5255. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Tikiṅkaṇipupphiya[21] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Tikiṅkaṇipupphiya là phần thứ nhất.
--ooOoo--
5256. Ở không xa núi Hi-mã-lạp, có ngọn núi tên là Udaṅgaṇa. Tại nơi ấy, tôi đã nhìn thấy tấm y may từ vải bị quăng bỏ được treo ở ngọn cây.
5257. Khi ấy, sau khi hái xuống ba bông hoa kiṅkaṇi, tôi đã trở nên mừng rỡ. Với tâm mừng rỡ, tôi đã cúng dường (ba bông hoa) đến tấm y may từ vải bị quăng bỏ.
5258. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
5259. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh sau khi đã cúng dường đến biểu tượng của bậc A-la-hán (tấm y).
5260. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
5261. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
5262. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Paṃsukūlapūjaka[22] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Paṃsukūlapūjaka là phần thứ nhì.
--ooOoo--
5263. Trước đây, tôi đã là người thợ rừng cùng với cha và ông. Tôi sinh sống nhờ vào việc giết thú rừng. Điều tốt lành của tôi là không có.
5264. Do lòng thương tưởng, đấng Lãnh Đạo Thế Gian Tissa, bậc Hữu Nhãn, đã lưu lại ba (dấu) bàn chân ở xung quanh chỗ cư ngụ của tôi.
5265. Và sau khi nhìn thấy ba (dấu) bàn chân đã đi qua của bậc Đạo Sư tên Tissa, tôi đã trở nên mừng rỡ. Với tâm mừng rỡ, tôi đã làm cho tâm được tịnh tín ở (dấu) bàn chân.
5266. Sau khi nhìn thấy cây koraṇḍa mọc ở trên đất đã được trổ hoa, tôi đã hái một nhúm (bông hoa) và đã cúng dường ở (dấu) bàn chân tối thượng.
5267. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
5268. Nơi chốn nào tôi sanh lên, là bản thể Thiên nhân hay nhân loại, tôi có làn da (màu bông hoa) koraṇḍa, tôi có được vẻ ngời sáng.
5269. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường (dấu) bàn chân (đức Phật).
5270. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
5271. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
5272. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Koraṇḍapupphiya[23] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Koraṇḍapupphiya là phần thứ ba.
--ooOoo--
5273. Sau khi nhìn thấy cây kiṃsuka được trổ hoa, tôi đã chắp tay lên. Sau khi tưởng nhớ đến đức Phật tối thượng, tôi đã cúng dường ở không trung.
5274. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
5275. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
5276. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
5277. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
5278. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Kiṃsukapupphiya[24] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Kiṃsukapupphiya là phần thứ tư.
--ooOoo--
5279. Lúc bấy giờ, vị Thinh Văn tên Sujāta của đức Thế Tôn Padumuttara, trong lúc tìm kiếm vải bị quăng bỏ, đã đi quanh quẩn ở đống rác.
5280. Là người làm thuê cho những người khác ở trong thành phố Haṃsavatī, tôi đã dâng cúng một nửa số vải và đã đê đầu đảnh lễ (vị ấy).
5281. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
5282. Tôi đã là vị Chúa của chư Thiên cai quản Thiên quốc ba mươi ba lần. Và tôi đã trở thành đấng Chuyển Luân Vương bảy mươi bảy lần.
5283. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm. Do việc dâng cúng một nửa số vải, tôi được vui vẻ, sự sợ hãi không có.
5284. Và hôm nay, trong khi mong muốn tôi có thể che phủ (hết thảy) núi non và rừng rậm bằng các tấm vải sợi lanh; điều này là quả báu của một nửa số vải.
5285. Kể từ khi tôi đã dâng vật thí trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của một nửa số vải.
5286. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
5287. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
5288. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Upaḍḍhadussadāyaka[25] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Upaḍḍhadussadāyaka là phần thứ năm.
--ooOoo--
5289. Đã suy nghĩ tận tường, đức Thế Tôn, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu đã đi vào khu rừng lớn và đã bị hành hạ bởi bệnh gió. Sau khi nhìn thấy, tôi đã làm cho tâm được tịnh tín và đã đem lại bơ lỏng nguyên chất.
5290. Do bản thân đã được thực hành, do bản thân đã được tích lũy (thiện nghiệp), dòng sông Bhāgīrathī này và bốn đại dương tự cung cấp bơ lỏng cho tôi.
5291. Và quả đất kinh khủng, không thể đo lường, không thể ước lượng này, hiểu biết được ước muốn của tôi, trở thành tinh thể mật ngọt (cho tôi).
5292. Từ bốn châu lục, các giống cây này là loài thảo mộc mọc ở trên đất, hiểu biết được ước muốn của tôi, chúng trở thành những cây như ý (cho tôi).
5293. Tôi đã là vị Chúa của chư Thiên cai quản Thiên quốc năm mươi lần. Và tôi đã trở thành đấng Chuyển Luân Vương năm mươi mốt lần. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm.
5294. Kể từ khi tôi đã dâng cúng vật thí trước đây chín mươi sáu kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của phần bơ lỏng nguyên chất.
5295. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
5296. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
5297. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ghatamaṇḍadāyaka[26] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ghatamaṇḍadāyaka là phần thứ sáu.
--ooOoo--
5298. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã cúng dường bình nước uống đến hội chúng tỳ khưu vô thượng của đức Phật Padumuttara.
5299. Dầu ở trên đỉnh núi hoặc ở ngọn cây, ở trên không trung hoặc ở trên đất liền, khi nào tôi muốn nước uống, (nước uống) hiện ra cho tôi ngay tức khắc.
5300. Kể từ khi tôi đã dâng cúng vật thí trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng nước.
5301. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
5302. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
5303. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Udakadāyaka[27] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Udakadāyaka là phần thứ bảy.
--ooOoo--
5304. Ở không xa núi Hi-mã-lạp, có ngọn núi tên là Yamaka, có khu ẩn cư của tôi đã khéo được xây dựng, có gian nhà rộng bằng lá đã khéo được tạo lập.
5305. (Tôi) là vị đạo sĩ tóc bện tên Nārada có sự khổ hạnh cao tột. Mười bốn ngàn người đệ tử sống quanh tôi.
5206. Lúc bấy giờ, trong khi đang thiền tịnh tôi đã suy nghĩ như vầy: “Tất cả mọi người tôn vinh ta. Ta không tôn vinh bất cứ ai.
5307. Ta không có vị giáo giới, không biết đến bất cứ vị diễn giả nào. Ta đi đến cư ngụ ở trong rừng, không có thầy giáo thọ và thầy tế độ.
5308. Đối với ta, không có thầy giáo thọ để ta phục vụ với tâm cung kính trong lúc kề cận thì sự cư ngụ ở rừng là không có ý nghĩa.
5309. Như thế, ta sẽ tự tìm kiếm vị thầy đáng kính, đáng thọ nhận sự cúng dường của ta. Ta sẽ sống có sự hỗ trợ, không người nào sẽ trách móc.”
5310. Không xa khu ẩn cư của tôi có con sông nhỏ với bờ nước lúp xúp, có bãi nước cạn khéo được thiết lập, được trải lớp cát vô cùng trong sạch, làm thích ý.
5311. Khi ấy, tôi đã đi đến con sông tên là Amarikā. Tôi đã gom cát lại và đã thực hiện ngôi bảo tháp bằng cát.
5312. “Những vị nào đã là các bậc Toàn Giác, là những vị Hiền Trí có sự đoạn tận việc tái sanh, ngôi bảo tháp như thế này là dành cho các vị ấy;” tôi đã làm điều ấy trở thành ấn chứng.
5313. Sau khi thực hiện ngôi bảo tháp cát, tôi đã biến hóa thành vàng. Tôi đã cúng dường ba ngàn bông hoa kiṅka bằng vàng.
5314. Tràn đầy niềm phấn khởi, tôi chắp tay lên lễ bái sáng chiều. Tôi đã đảnh lễ ngôi bảo tháp cát như là đảnh lễ bậc Toàn Giác ở trước mặt.
5315. Mỗi khi các điều ô nhiễm là các suy tầm về đời sống tại gia sanh khởi, tôi tưởng nhớ đến đấng Thiện Thệ đến ngôi bảo tháp, lập tức tôi quán xét lại rằng:
5316. “Thưa ông, trong khi sống nương tựa vào đấng Hướng Đạo, bậc Xa Phu, sao ông có thể sống chung với các điều ô nhiễm, thật không thích hợp cho ông!”
5317. Lúc bấy giờ, mỗi khi suy tưởng đến ngôi bảo tháp, sự cung kính đã có đến tôi. Tôi đã xua đuổi các suy tầm xấu xa như là con voi bị khổ sở vì cây lao nhọn.
5318. Trong khi đang an trú như thế, vị vua Thần Chết đã chế ngự tôi. Mệnh chung ở tại nơi ấy, tôi đã đi đến thế giới Phạm Thiên.
5319. Sau khi sống đến hết tuổi thọ, tôi đã sanh ra ở cõi Tam Thập (Đạo Lợi). Tôi đã là vị Chúa của chư Thiên cai quản Thiên quốc tám mươi lần.
5320. Và tôi đã trở thành đấng Chuyển Luân Vương ba trăm lần. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm.
5321. Tôi thọ hưởng quả thành tựu của những bông hoa kiṅkaṇi ấy. Trong đời sống, có một trăm ngàn người bảo mẫu ở quanh tôi.
5322. Do bản chất của sự việc đã được thực hành ở ngôi bảo tháp, bụi bặm và cáu đất không làm nhơ nhuốc, các mồ hôi không tiết ra ở cơ thể, tôi có được vẻ ngời sáng.
5323. Ôi ngôi bảo tháp đã khéo được xây dựng bởi tôi, con sông Amarikā đã khéo được nhìn thấy bởi tôi! Sau khi thực hiện ngôi bảo tháp bằng cát, tôi đạt được vị thế Bất Động.
5324. Với người có ước muốn làm việc lành có sự nắm được điều cốt yếu, dầu có thửa ruộng hoặc không có thửa ruộng, việc thực hành đều có kết quả tốt đẹp.
5325. Cũng giống như người nam có sức mạnh nỗ lực để vượt qua biển cả, sau khi cầm lấy khúc gỗ nhỏ nhoi, có thể lao mình vào đại dương (nghĩ rằng):.
5326. “Nương tựa vào khúc gỗ này, ta sẽ vượt qua biển lớn.” Với sự nỗ lực và tinh tấn, người nam (ấy) có thể vượt qua biển cả.
5327. Tương tợ y như thế, việc làm đã được thực hiện bởi tôi dầu nhỏ nhoi và bé bỏng, sau khi nương tựa vào việc làm ấy tôi đã tự mình vượt khỏi luân hồi.
5328. Khi đạt đến lần hiện hữu cuối cùng, được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch tôi đã được sanh ra trong nhà đại bá hộ vô cùng sang trọng ở thành phố Sāvatthī.
5329. Có niềm tin, mẹ và cha của tôi đã đi đến nương nhờ vào đức Phật. Có sự đạt được (Pháp) nhãn, cả hai người này hành xử thuận theo Giáo Pháp.
5330. Sau khi nhặt lấy vỏ khô của cội cây Bồ Đề, họ đã cho xây dựng ngôi bảo tháp bằng vàng. Sáng chiều họ trực tiếp lễ bái người con trai của dòng họ Sakya.
5331. Vào ngày lễ Uposatha, họ đã dời đi ngôi bảo tháp bằng vàng. Trong khi tán dương công hạnh của đức Phật, họ đã trải qua ba canh (của đêm).
5332. Sau khi nhìn thấy ngôi bảo tháp (vàng), tôi đã nhớ lại ngôi bảo tháp bằng cát. Tôi đã ngồi ở ngay chỗ ngồi ấy và đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.
(Tụng phẩm thứ hai mươi hai).
5333. Trong khi tìm kiếm đấng Chiến Thắng ấy, tôi đã nhìn thấy vị Tướng Quân Chánh Pháp. Sau khi lìa khỏi gia đình, tôi đã xuất gia trong sự chứng minh của vị ấy.
5334. Vào lúc bảy tuổi tính từ khi sanh, tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán. Sau khi nhận biết đức hạnh (của tôi), đức Phật bậc Hữu Nhãn đã cho tu lên bậc trên.
5336. Trong khi chỉ là đứa bé trai, tôi đã hoàn thành được công việc. Giờ đây, việc cần phải làm trong Giáo Pháp của người con trai dòng họ Sakya đã được tôi thực hiện.
5337. (Tôi trở thành) vị ẩn sĩ đã vượt qua mọi sự hận thù và hãi sợ, đã vượt lên mọi điều trói buộc. “Bạch đấng Đại Hùng, con là Thinh Văn của Ngài; điều này là quả báu của bông hoa bằng vàng.”
5338. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
5339. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
5340. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Pulinathūpiya[28] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Pulinathūpiya là phần thứ tám.
--ooOoo--
5341. Ở không xa núi Hi-mã-lạp, có ngọn núi tên là Hārita. Vào lúc bấy giờ, có bậc Tự Chủ tên Nārada đã cư ngụ ở tại gốc cây.
5342. Tôi đã làm gian nhà bằng cây sậy và đã lợp mái bằng cỏ. Tôi đã làm sạch sẽ đường kinh hành và đã dâng cúng đến bậc Tự Chủ.
5343. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
5344. Tại nơi ấy, có cung điện được kiến tạo khéo léo dành cho tôi, có chiều dài sáu mươi do-tuần, chiều rộng ba mươi do-tuần, đã được hóa hiện ra từ căn chòi bằng cây sậy.
5345. Tôi đã sướng vui ở thế giới chư Thiên mười bốn kiếp. Và tôi đã cai quản Thiên quốc bảy mươi mốt lần.
5346. Và tôi đã trở thành đấng Chuyển Luân Vương ba mươi bốn lần. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm.
5347. Sau khi bước lên tòa lâu đài Giáo Pháp tương đương với mọi biểu hiện cao quý, tôi an trú trong Giáo Pháp của người con trai dòng họ Sakya theo như ý thích.
5348. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của căn chòi bằng cây sậy.
5349. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
5350. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
5351. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Naḷakuṭidāyaka[29] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Naḷakuṭidāyaka là phần thứ chín.
--ooOoo--
5352. Trong thời quá khứ, tôi đã là thợ săn thú rừng. Khi ấy, trong khi đi lang thang ở khu rừng, tôi đã nhìn thấy đức Phật, đấng Vô Nhiễm, bậc thông suốt về tất cả các pháp.
5353. Được tịnh tín, tôi đã cầm lấy trái cây piyāla và đã tự tay mình dâng cúng đến đức Phật tối thượng, là Phước Điền, là đấng Anh Hùng.
5354. Kể từ khi tôi đã dâng cúng trái cây trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng trái cây.
5355. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
5356. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
5357. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Piyālaphaladāyaka[30] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Piyālaphaladāyaka là phần thứ mười.
Phẩm Tikiṅkaṇipupphiya là phẩm thứ năm mươi.
--ooOoo—
Vị có bông hoa kiṅkaṇi, y may từ vải bị quăng bỏ, bông hoa koraṇḍa, rồi bông hoa kiṃsuka, vị có một nửa số vải, vị dâng cúng bơ lỏng, vị (dâng cúng) nước, vị thực hiện ngôi bảo tháp, vị có gian nhà bằng cây sậy là thứ chín, và vị dâng cúng trái cây piyāla. Có một trăm câu kệ ngôn và chín câu thêm vào đó.
--ooOoo--
Phẩm Metteyya, phẩm Bhaddāli, và luôn cả phẩm Sakiṃsammajjaka, phẩm Ekavihārī, phẩm Vibhīṭakī, phẩm Jagatī, phẩm Sālapupphiya, phẩm Naḷāgāra, phẩm Paṃsukūla, và phẩm Kiṅkaṇipupphiya là tương tợ. Có một ngàn bốn trăm tám mươi hai câu kệ.
Nhóm “Mười” từ phẩm Metteyya.
Nhóm “Một Trăm” thứ năm được đầy đủ.
--ooOoo--
5358. Đấng Toàn Giác tên Sumedha có ba mươi hai hảo tướng. Có ước muốn độc cư, đức Thế Tôn đã đi đến núi Hi-mã-lạp.
5359. Sau khi đã đi sâu vào núi Hi-mã-lạp, đấng Bi Mẫn cao cả, bậc Hiền Trí, đấng Tối Thượng Nhân đã xếp chân thế kiết già rồi ngồi xuống.
5360. Khi ấy, tôi đã là người nắm giữ pháp thuật, là vị du hành ở không trung. Sau khi cầm lấy cây chỉa ba được thực hiện khéo léo, tôi đi ở trên không trung.
5361. Đức Phật chói sáng ở trong khu rừng giống như ngọn lửa ở trên đỉnh núi, tợ như mặt trăng ngày rằm, tợ như cây sālā chúa đã được trổ hoa.
5362. Hào quang của đức Phật vượt ra khỏi chóp đỉnh của khu rừng và tỏa rộng giống như là màu sắc ngọn lửa của cây sậy, sau khi nhìn thấy tôi đã làm cho tâm được tịnh tín.
5363. Trong khi chọn lựa, tôi đã nhìn thấy bông hoa kaṇikāra có hương thơm của cõi trời. Sau khi cầm lấy ba bông hoa, tôi đã cúng dường đến đức Phật tối thượng.
5364. Khi ấy, do nhờ năng lực của đức Phật, ba bông hoa của tôi (xoay ngược lại) có các cuống hoa ở bên trên và các cánh hoa ở bên dưới, tạo thành bóng râm che cho đức Phật.
6365. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
5366. Tại nơi ấy, có cung điện được kiến tạo khéo léo dành cho tôi được biết (với tên) là “kaṇikārī” có chiều dài sáu mươi do-tuần, chiều rộng ba mươi do-tuần.
5367. (Cung điện) có một ngàn cột trụ chống có màu lục, một trăm mái tròn được trang hoàng với những ngọn cờ. Có một trăm ngàn tháp nhọn đã hiện diện ở cung điện của tôi.
5368. Có những chiếc ghế bành làm bằng vàng, làm bằng ngọc ma-ni, và cũng làm bằng hồng ngọc nữa, luôn cả ngọc pha-lê (hiện ra) ở bất cứ nơi nào và bất cứ khi nào theo ước muốn.
5369. Và có chiếc giường vô cùng giá trị được trải loại nệm bông gòn có một phần lông rái cá, và được gắn liền với chiếc gối.
5370. Khi nào tôi ước muốn việc ra đi, thì sau khi rời khỏi nơi cư ngụ và trong lúc thực hiện cuộc du hành cùng với chư Thiên, tôi dẫn đầu hội chúng chư Thiên.
5371. Tôi đứng, ở phía bên dưới là bông hoa, ở phía bên trên của tôi ở xung quanh một trăm do-tuần có mái che được phủ bằng các bông hoa kaṇika.
5372. Có sáu mươi ngàn nhạc công đã phục vụ sáng chiều. Họ thường xuyên vây quanh tôi đêm ngày không biếng nhác.
5373. Ở tại nơi ấy, tôi sướng vui với các điệu vũ, các lời ca, các tiếng chũm chọe, và các khúc tấu nhạc, với niềm sướng vui của việc giải trí. Tôi vui thích theo sự mong muốn này mong muốn khác.
5374. Lúc bấy giờ, ở tại nơi ấy tôi đã ăn, tôi đã uống, tôi vui thích ở cõi trời Tam Thập. Được gần gũi với các đám nữ nhân, tôi vui thích ở lâu đài tuyệt hảo.
5375. Và tôi đã cai quản Thiên quốc năm trăm lần. Và tôi đã trở thành đấng Chuyển Luân Vương ba trăm lần. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm.
5376. Trong khi luân hồi ở cõi này cõi khác, tôi nhận lãnh của cải lớn lao, tôi không có sự thiếu hụt về của cải; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
5377. Tôi (đã) luân hồi ở hai cảnh giới trong bản thể Thiên nhân và loài người, tôi không biết đến cõi tái sanh khác; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
5378. Tôi (đã) được sanh ra ở hai gia tộc, Sát-đế-lỵ và luôn cả Bà-la-môn, tôi không biết đến gia tộc hạ tiện; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
5379. Về phương tiện di chuyển bằng voi, phương tiện di chuyển bằng ngựa, kiệu khiêng, và cỗ xe kéo, tôi đạt được tất cả mọi thứ này; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
5380. Về đám tôi trai, bầy tớ gái, và các nữ nhân đã được trang điểm, tôi đạt được tất cả mọi thứ này; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
5381. Về y phục làm bằng tơ lụa, bằng sợi len, bằng chỉ lanh, và bằng bông vải, tôi đạt được tất cả mọi thứ này; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
5382. Về vải vóc mới, trái cây tươi, thức ăn mới lạ có phẩm vị cao sang, tôi đạt được tất cả mọi thứ này; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
5383. “Ngài hãy nhai món này, ngài hãy ăn món này, ngài hãy nằm ở chiếc giường này,” tôi đạt được tất cả mọi thứ này; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
5384. Tôi được tôn vinh ở tất cả các nơi, danh vọng của tôi được thăng tiến, tôi luôn luôn có phe cánh đông đảo, luôn luôn có hội chúng không bị chia rẽ, tôi là hạng nhất trong số các quyến thuộc; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
5385. Tôi không biết đến sự lạnh (và) sự nóng, sự bực bội không được biết đến. Sự khổ sở thuộc về tâm ở trái tim của tôi không được biết đến.
5386. Sau khi có được làn da màu vàng ròng, tôi luân hồi ở cõi này cõi khác, tôi không biết đến việc tàn tạ sắc thân; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
5387. Sau khi mệnh chung ở thế giới chư Thiên, được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch tôi đã được sanh ra trong nhà đại bá hộ vô cùng sang trọng ở thành phố Sāvatthī.
5388. Sau khi từ bỏ năm phần dục lạc, tôi đã xuất gia vào đời sống không gia đình. Vào lúc bảy tuổi tính từ khi sanh, tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.
5389. Sau khi nhận biết đức hạnh (của tôi), đức Phật bậc Hữu Nhãn đã cho tu lên bậc trên, tôi là vị trẻ tuổi xứng đáng được cúng dường; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
5390. Thiên nhãn của tôi được thanh tịnh, tôi là thiện xảo về định, đã đạt đến sự toàn hảo về các thắng trí; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
5391. Tôi đã thành tựu các pháp phân tích, là vị rành rẽ về các nền tảng của thần thông, đã đạt đến sự toàn hảo về các pháp; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
5392. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường đức Phật trước đây ba mươi ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
5393. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
5394. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
5395. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Tikaṇikārapupphiya[31] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Tikaṇikārapupphiya là phần thứ nhất.
--ooOoo--
5396. Tôi đã là người thợ làm đồ gốm ở thành phố Haṃsavatī. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, bậc Vô Nhiễm, đấng đã vượt qua dòng nước lũ, không còn lậu hoặc.
5397. Tôi đã dâng cúng đến đức Phật tối thượng bình bát bằng đất sét đã được làm khéo léo. Tôi đã dâng cúng bình bát đến đức Thế Tôn là vị có bản thể chính trực như thế ấy.
5398. Trong khi tôi được sanh ra ở cuộc đời, tôi đạt được các chiếc đĩa vàng và các chiếc chiếu nhỏ bằng bạc, bằng vàng, và bằng ngọc ma-ni.
5399. Tôi thọ dụng những cái đĩa, điều này là quả báu của nghiệp phước thiện. Và tôi có bản chất của bình bát (chứa đựng) các loại danh vọng và các loại tài sản.
5400. Cũng giống như chỉ một ít hạt giống được gieo xuống cánh đồng màu mỡ, khi có mưa rào thích hợp đổ xuống, kết quả làm hài lòng người nông phu.
5401. Tương tợ y như thế, việc dâng cúng bình bát này được gieo xuống thửa ruộng đức Phật, khi trận mưa rào phỉ lạc đổ mưa, kết quả sẽ làm tôi hài lòng.
5402. So sánh với các thửa ruộng được biết đến, ngay cả các Hội Chúng (tỳ khưu) và luôn cả các tập thể, không có gì sánh bằng thửa ruộng đức Phật là nguồn cung cấp an lạc cho chúng sanh.
5403. “Bạch đấng Siêu Nhân, con kính lễ Ngài! Bạch đấng Tối Thượng Nhân, con kính lễ Ngài! Sau khi dâng cúng một cái bình bát, con đạt được vị thế Bất Động.”
5404. Kể từ khi tôi đã dâng cúng bình bát trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng bình bát.
5405. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
5406. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
5407. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ekapattadāyaka[32] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ekapattadāyaka là phần thứ nhì.
--ooOoo--
5408. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, đấng Vô Nhiễm, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu ngồi ở trong vùng đồi núi, chói sáng như là cây kaṇikāra.
5409. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã chắp tay lên ở đầu. Sau khi cầm lấy trái cây kāsumārika, tôi đã dâng cúng đến đức Phật tối thượng.
5410. Kể từ khi tôi đã dâng cúng trái cây trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng trái cây.
5411. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
5412. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
5413. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Kāsumāriphaladāyaka[33] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Kāsumāriphaladāyaka là phần thứ ba.
--ooOoo--
5414. Đức Thế Tôn có ngàn ánh hào quang, đấng Tự Chủ, vị không bị đánh bại đã xuất ra khỏi sự độc cư và đã ra đi về việc khất thực.
5415. Có được một nắm trái cây, tôi đã nhìn thấy và đã đi đến gặp đấng Nhân Ngưu. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã dâng cúng trái cây avaṭa.
5416. Kể từ khi tôi đã dâng cúng trái cây trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng trái cây.
5417. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
5418. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
5419. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Avaṭaphaliya[34] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Avaṭaphaliya là phần thứ tư.
--ooOoo--
5420. Trong lúc đấng Toàn Giác, bậc có màu da vàng chói, vị thọ nhận các vật hiến cúng, đang tiến bước ở trên đường, tôi đã dâng cúng trái cây vāra.
5421. Kể từ khi tôi đã dâng cúng trái cây trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng trái cây.
5422. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
5423. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
5424. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật. Đại đức trưởng lão Vāraphaliya[35] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Vāraphaliya là phần thứ năm.
--ooOoo—
5425. Tôi đã nhìn thấy đấng Lãnh Đạo Thế Gian tợ như cây kaṇikāra được đốt cháy, tợ như mặt trăng ngày rằm, tợ như cây đèn đang cháy sáng.
5426. Được tịnh tín, tôi đã cầm lấy trái cây chanh và đã tự tay mình dâng cúng đến bậc Đạo Sư, đấng trí tuệ xứng đáng cúng dường.
5427. Kể từ khi tôi đã dâng cúng trái cây trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng trái cây.
5428. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
5429. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
5430. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Mātuluṅgaphaladāyaka[36] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Mātuluṅgaphaladāyaka là phần thứ sáu.
--ooOoo--
5431. Vào lúc bấy giờ, bậc Toàn Giác, đấng Hiền Trí tên Ajjuna, vị hội đủ về hạnh kiểm và thiện xảo về định đã cư ngụ tại núi Hy-mã-lạp.
5432. Sau khi cầm lấy ước chừng một chậu trái cây ajeli, trái cây jīvajīvaka, và trái cây chattapaṇṇa, tôi đã dâng cúng đến bậc Đạo Sư.
5433. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
5434. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
5435. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
5436. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ajeliphaladāyaka[37] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ajeliphaladāyaka là phần thứ bảy.
--ooOoo--
5437. Trong lúc đấng Toàn Giác, bậc có màu sắc màu vàng chói, vị thọ nhận các vật hiến cúng, đang tiến bước ở trên đường, tôi đã dâng cúng trái cây amoda.
5438. Kể từ khi tôi đã dâng cúng trái cây trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng trái cây.
5439. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
5440. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
5441. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Amodaphaliya[38] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Amodaphaliya là phần thứ tám.
--ooOoo--
5442. Đức Thế Tôn tên Sataraṃsī, đấng Tự Chủ, vị không bị đánh bại, đã xuất ra khỏi sự độc cư và đã ra đi về việc khất thực.
5443. Có được một nắm trái cây, tôi đã nhìn thấy và đã đi đến gặp đấng Nhân Ngưu. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã dâng cúng trái cây thốt nốt.
5444. Kể từ khi tôi đã dâng cúng trái cây trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng trái cây.
5445. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
5446. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
5447. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Tālaphaladāyaka[39] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Tālaphaladāyaka là phần thứ chín.
--ooOoo--
5448. Vào lúc bấy giờ, là người phụ việc tu viện ở thành phố Bandhumatī, tôi đã nhìn thấy đức Phật, bậc Vô Nhiễm đang di chuyển ở trên không trung.
5449. Tôi đã cầm lấy trái dừa và đã dâng cúng đến đức Phật tối thượng. Bậc có danh vọng lớn lao đã thọ lãnh trong khi đứng ở trên hư không.
5450. Trái cây đã được tôi dâng cúng đến đức Phật với tâm ý trong sạch, đối với tôi là nguồn sanh lên niềm hạnh phúc đưa đến sự an lạc trong thời hiện tại.
5451. Khi ấy, tôi đã đạt đến niềm phỉ lạc lớn lao và sự an lạc cùng tột. Khi tôi được sanh ra ở nơi này nơi nọ, châu báu còn hiện lên cho tôi.
5452. Kể từ khi tôi đã dâng cúng trái cây trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng trái cây.
5453. Thiên nhãn của tôi được thanh tịnh, tôi là thiện xảo về định, đã đạt đến sự toàn hảo về các thắng trí; điều này là quả báu của việc dâng cúng trái cây.
5454. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
5455. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
5456. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Nāḷikeradāyaka[40] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Nāḷikeradāyaka là phần thứ mười.
--ooOoo--
Bông hoa kaṇikāra, một bình bát, vị có trái cây kāsumāri, trái cây avaṭa là tương tợ, và trái cây vāra, trái chanh, trái cây ajeli, luôn cả trái cây amoda, trái cây thốt nốt, và trái dừa là tương tợ. Các câu kệ đã được tính đếm ở đây là một trăm câu kệ, không có hơn kém.
Phẩm Kaṇikāra là phẩm thứ năm mươi mốt.
--ooOoo--
[1] Naḷamāliya nghĩa là “vị liên quan đến tràng hoa (mālā) sậy (naḷa).”
[2] Maṇipūjaka nghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) ngọc ma-ni (maṇi).”
[3] Ukkāsatika nghĩa là “vị liên quan đến một trăm (sata) cây đuốc (ukkā).
[4] Sumanavījaniya nghĩa là “vị liên quan đến cây quạt (vījana) hoa nhài (sumana).”
[5] Kummāsadāyaka nghĩa là “vị cúng dường (dāyaka) sữa đông (kummāsa).”
[6] Kusaṭṭhadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) tám (aṭṭha) thẻ vật thực (kusa).” Lá cỏ kusa được dùng làm thăm để chọn ra các vị tỳ khưu đi đến nhà thí chủ thọ thực (ND).
[7] Giripunnāgiya nghĩa là “vị liên quan đến hoa nguyệt quế (punnāga) mọc ở núi.”
[8] Vallikāraphaladāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) trái cây (phala) vallikāra.”
[9] Pānadhidāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) đôi dép (pānadhi).” Chú Giải giải thích từ pānadhiṃ là upāhanayugaṃ nên được dịch là đôi dép (ApA. i, 448).
[10] Pulinacaṅkamiya nghĩa là “vị liên quan đến được kinh hành (caṅkama) rải cát (pulina).”
[11] Paṃsukūlasaññaka nghĩa là “vị tưởng nhớ (saññaka) đến tấm y may từ vải bị quăng bỏ (paṃsukūla).”
[12] Buddhasaññaka nghĩa là “vị tưởng nhớ (saññaka) đến đức Phật (buddha).”
[13] Bhisadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) củ sen (bhisa).”
[14] Ñāṇatthavika nghĩa là “vị ngợi ca (thavika) về trí tuệ (ñāṇa).”
[15] Nghĩa là sẽ thuộc dòng dõi Bà-la-môn (ND).
[16] Candanamāliya nghĩa là “vị liên quan đến trầm hương (candana) và tràng hoa (mālā).”
[17] Dhātupūjaka nghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) xá-lợi (dhātu).”
[18] Pulinuppādaka nghĩa là “vị tạo nên (uppādaka) ngôi bảo tháp bằng cát (pulina).”
[19] Taraṇiya nghĩa là “vị liên quan đến việc vượt qua (taraṇa ).”
[20] Xem lời chú nguyện đầy đủ ở tập Kinh Buddhavaṃsa - Phật Sử, trang 30-33 (Tam Tạng Pāḷi - Việt tập 42).
[21] Tikiṅkaṇipupphiya nghĩa là “vị liên quan đến ba (ti) bông hoa (puppha) kiṅkaṇi.”
[22] Paṃsukūlapūjaka nghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) tấm y may từ vải bị quăng bỏ (paṃsukūla).”
[23] Koraṇḍapupphiya nghĩa là “vị có liên quan đến bông hoa (puppha) koraṇḍa.”
[24] Kiṃsukapupphiya nghĩa là “vị có liên quan đến bông hoa (puppha) kiṃsuka.”
[25] Upaḍḍhadussadāyaka nghĩa là vị dâng cúng (dāyaka) một nửa (upaḍḍha) số vải.”
[26] Ghatamaṇḍadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) bơ lỏng (ghata) nguyên chất (maṇḍa).”
[27] Udakadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) nước (udaka).”
[28] Pulinathūpiya nghĩa là “vị liên quan đến ngôi bảo tháp (thūpa) bằng cát (pulina).”
[29] Naḷakuṭidāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) căn chòi (kuṭi) bằng cây sậy (naḷa).
[30] Piyālaphaladāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) trái cây (phala) piyāla.”
[31] Tikaṇikārapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến ba (ti) bông hoa kaṇikāra.”
[32] Ekapattadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) một (eka) bình bát (patta).”
[33] Kāsumāriphaladāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) trái cây (phala) kāsumāri.”
[34] Avaṭaphaliya nghĩa là “vị liên quan đến trái cây (phaliya) avaṭa.”
[35] Vāraphaliya nghĩa là “vị liên quan đến trái cây (phaliya) vāra.”
[36] Mātuluṅgaphaladāyaka nghĩa là vị dâng cúng (dāyaka) trái cây (phala) chanh (mātuluṅga).”
[37] Ajeliphaladāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) trái cây (phala) ajeli.”
[38] Amodaphaliya nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) trái cây (phala) amoda.”
[39] Tālaphaladāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) trái cây (phala) thốt nốt (tāla).”
[40] Nāḷikeradāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) trái cây (phala) dừa (nāḷikera).”