TẠNG KINH
SỐ 130 - PHẬT NÓI KINH NHÂN DUYÊN CON GÁI TRƯỞNG GIẢ CẤP CÔ ĐỘC ĐƯỢC ĐỘ
Hán dịch: Đời Tống, Đại sư Thi Hộ.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở tại vườn Kỳ - đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá - vệ, cùng với chúng đại Thanh văn hội đủ. Trưởng giả Cấp Cô Độc là người có đủ phước đức lớn, vợ con, nô tỳ, quyến thuộc đông đảo, giàu có quyền quý, tích lũy tài sản châu báu nhiều vô lượng, so với vua trời Tỳ - sa - môn không khác. Trưởng giả cùng quyến thuộc sum họp bên nhau vui vẻ an lạc. Vào lúc nọ, vợ ông ta mang thai, sau chín tháng sinh được một đồng nữ, dung mạo đoan nghiêm, vô cùng xinh đẹp không ai sánh bằng. Thân hình cân đối uyển chuyển, nhìn thấy ai cũng ưa thích. Sau khi sinh cô gái này, liên tiếp có nhiều điềm lành tướng tốt xuất hiện, vì nhân duyên ấy, người cha đặt tên cho con là Thiện Vô Độc.
Cách xa nước Xá - vệ khoảng một trăm sáu mươi dotuần, có một thành lớn tên là Phước tăng, nơi đó có vị trưởng giả tên Mô - thi - la, cũng đầy đủ phước đức, đông đảo vợ con, nô tỳ, quyến thuộc, giàu có, quyền uy, tài sản quý giá nhiều vô lượng, so với vua trời Tỳ - sa - môn cũng không khác. Trưởng giả Mô - thi - la có một con trai tên Ngưu Thọ, tướng mạo nghiêm chỉnh, đặc biệt tươi đẹp không ai sánh kịp, người nào trông thấy cũng đem lòng yêu mến. Nhưng gia đình trưởng giả này kể cả người con trai đều phụng thờ ngoại đạo, hết lòng tin tưởng họ nên không thể biết được có Đức Phật Thế Tôn là Bậc Tối Thượng Tối Thắng. Gia đình trưởng giả ấy cũng không được nghe những pháp tối thượng của Thế Tôn, xưa nay họ chưa được thấy thần thông biến hóa cùng sự nghiệp thù thắng của Phật.
Các vị ngoại đạo này ở rải rác khắp nơi trong nước, hoặc ở thôn xóm Ngao - lý - ca, hoặc ở thành lớn Phước tăng, hoặc ở đại thành Tác hiền. Bấy giờ, có một vị ngoại đạo, trước đây ở trong thành Phước tăng, đến gặp đồng tử Ngưu Thọ, nói với đồng tử:
–Tại sao đã lớn rồi mà chưa lập gia đình?
Ngưu Thọ đáp:
–Trong thế gian, nếu có người nữ nào hình sắc đoan nghiêm xinh đẹp bằng tôi, thì tôi sẽ xin cưới cô ta.
Ngoại đạo nói:
–Đồng tử nên biết, trưởng giả Cấp Cô Độc ở nơi thành Xá - vệ có một đồng nữ, xinh đẹp đặc biệt, dung mạo diễm lệ không ai bằng, kẻ nào trông thấy đều yêu mến. Cậu nên hỏi cô ấy làm vợ.
Ngưu Thọ nghe xong, tâm sinh vui mừng. Theo lời chỉ dẫn ấy, cậu ta thay đổi thường phục, mặc áo ngoại đạo, bưng bát đi đến thành Xá - vệ; tới nơi, theo thứ lớp khất thực đi dần tới nhà trưởng giả Cấp Cô Độc, đứng ở ngoài cổng. Bấy giờ, đồng nữ Thiện Vô Độc nghe tiếng người đến khất thực, liền mang thức ăn uống ra để bố thí, đồng tử Ngưu Thọ nhìn thấy nàng nên sinh lòng yêu mến. Đồng nữ Thiện Vô Độc vì nghiệp lực của nhân duyên đời trước nên cũng ngắm nhìn người thanh niên kia, thấy đồng tử Ngưu Thọ dưới hình tướng một ngoại đạo, nên mỉm cười và nói:
–Ngươi là kẻ không có sự hiểu biết đúng đắn, là hàng ngoại đạo dị học, tại sao lại đứng đây ôm bát khất thực? Đồng tử Ngưu Thọ nghe nói xong, cũng mỉm cười, không nhận thức ăn, bèn đi khỏi nhà ấy. Đồng tử trở về thành Phước tăng thưa với cha mẹ:
–Cha mẹ biết cho, trưởng giả Cấp Cô Độc ở thành Xá - vệ có một đồng nữ tên là Thiện Vô Độc. Nay con xin cha mẹ cho phép con cưới nàng làm vợ.
Trưởng giả Mô - thi - la nghe nói thế, liền đến gặp trưởng giả Cấp Cô Độc trong thành Xá - vệ, đem hết duyên sự ấy trình bày. Trưởng giả Cấp Cô Độc nói:
–Tuy tôi hứa với trưởng giả, nhưng hãy chờ tôi hỏi ý kiến của Đức Phật Thế Tôn, nếu Phật cho phép thì việc này rất tốt.
Trưởng giả Cấp Cô Độc liền đến gặp Đức Thế Tôn, lạy sát chân Phật và trình bày đầy đủ sự việc trên. Phật dạy:
–Này trưởng giả, con gái ông không xuất gia, hãy gả cho họ, là điều rất tốt. Cô ấy nếu đến thành Phước tăng, thì có thể làm được những Phật sự lớn lao, vô cùng tốt đẹp, an lành.
Bấy giờ trưởng giả Cấp Cô Độc vâng theo lời Phật dạy, trở về nhà, dùng nhiều loại vàng ngọc quý giá, chuẩn bị đầy đủ vật dụng theo nghi lễ của đời, đưa đồng nữ Thiện Vô Độc gả cho đồng tử Ngưu Thọ.
Sau đó trưởng giả Mô - thi - la, tổ chức tại nhà mình tiệc tùng để đãi cho các ngoại đạo, nên gọi Thiện Vô Độc đến bảo:
–Đồng nữ, con có thể đến chỗ đang ăn uống để tùy hỷ bố thí các vị ấy.
Đồng nữ Thiện Vô Độc trước đó không biết là gia đình chồng bày tiệc dọn ăn cho các ngoại đạo, nghe trưởng giả nói xong, cho đó là các vị đệ tử Phật như Xálợi - phất, Đại Mục - kiền - liên, A - nan... đã tới đó thọ trai, nên tức thì vui mừng hớn hở đi ngay. Đến nơi, thấy các ngoại đạo dị học, tướng mạo xấu xí đen đúa như màu chim Ca - ca, mặc y nhớp nhúa, thân thể bẩn thỉu, lại lõa hình không biết xấu hổ, ăn uống khác nào đám quỷ đói, đồng nữ thấy sự việc như thế rồi, trong lòng tức giận liền quay mặt qua chỗ khác, rồi đứng yên. Trưởng giả bảo đồng nữ:
–Tại sao con sinh ý nghĩ muốn bỏ đi?
Đồng nữ trả lời:
–Con không lùi bước, nhưng hiện nay hội cúng dường do trưởng giả tổ chức, nếu cúng dường cho Thánh chúng thì sẽ thu hoạch được phước đức thù thắng. Tại sao lại cúng dường cho các hàng ngoại đạo chỉ chuyên tạo tác tội lỗi này, thế thì có lợi ích gì?
Trưởng giả nghe nói, kinh ngạc hỏi:
–Này đồng nữ, trên thế gian lại còn có vị Đạo sư tối thắng hơn những vị này hay sao?
Đồng nữ đáp:
–Trưởng giả hãy lắng nghe, trong thành Xá - vệ có một khu lâm viên rộng lớn do cha con xây dựng, hiện nay có Đức Phật Thế Tôn ở đấy. Đức Phật Thế Tôn Tối Thượng Tối Thắng là thầy của con. Cha mẹ Ngài là hàng cao thượng, gia tộc xuất chúng, họ Sát - đế - lợi thuộc bậc Kim luân vương. Ngài từ bỏ ngôi vị Chuyển luân vương, xuất gia tu hành, nhàm chán những thứ phú quý trong thế gian, tu qua các hạnh, ngay dưới cây Bồ - đề đã hàng phục các loài ma, thành Phật, các căn với tướng tốt đoan nghiêm, đầy đủ, hiện tướng tươi đẹp thù thắng không ai bằng, thần thông diệu dụng tự tại vô ngại, luôn thể hiện sự hoan hỷ, trên nét mặt tròn đầy rất trang nghiêm, tất cả nơi chốn hành động đều tương ứng. Lại có ba mươi hai tướng của Bậc Đại Nhân, tám mươi vẻ đẹp tùy hình, hào quang luôn tỏa chiếu khắp cả toàn thân, trên đỉnh đầu có hào quang sáng như ngàn mặt trời, rộng lớn rực rỡ, trang nghiêm tột bậc, sự hiền thiện tỏa ra khắp nơi, sừng sững không lay động như núi báu hiện rõ, tất cả chúng sinh được trông thấy Ngài đều mến chuộng, chiêm ngưỡng tướng hảo của Phật, lòng không nhàm chán. Ngài vì các vị Thanh văn tùy cơ thuyết pháp phân biệt từng việc: Đây là nhân duyên, đây là phi nhân duyên; đây là đạo xuất ly, đây là phi đạo xuất ly; đây là điều nên làm, đây là điều chẳng nên làm; đây là thần thông sự, đây là phi thần thông sự; đây là trí tuệ của thế gian, đây là trí tuệ của chư Phật. Lại nữa, Đức Phật Thế Tôn luôn có các phương tiện thiện xảo, tùy chỗ nêu giảng, đều dùng pháp ngữ tối thượng để nhiếp phục các thứ ngôn ngữ khác. Tất cả những lời Ngài thuyết giảng đều vì lợi ích cho mọi người. Đây là nghiệp thiện ác, Thế Tôn thuyết giảng như thật. Đây là điều nên làm, Thế Tôn thuyết giảng như thật. Đây là điều nói trước, đây là điều nói sau, Thế Tôn phân biệt như thật từng vấn đề một. Khi Đức Phật thuyết pháp, mắt và mặt Ngài luôn tươi sáng vui vẻ, không hề nhăn nhó bực bội, thường nói những lời êm dịu, lời thuận việc thiện, lời ngọt ngào, lời khả ái, lời khéo léo, lời an ủi, đưa ra các phương tiện tùy cơ thuyết pháp, thương xót vì lợi lạc của tất cả chúng sinh, khiến cho mọi chúng sinh đều được điều phục. Lại nữa, Đức Thế Tôn vì các Thanh văn phân biệt từng vấn đề: Đây là pháp Thánh nhân; đây là pháp dị đạo, đây là pháp lìa mọi cấu nhiễm; đây là pháp cao thượng khiến cho các vị Thanh văn, tùy sự hiểu biết theo khả năng của mình, như lý tu tập, chứng đắc đầy đủ về giới, về định, về tuệ, về giải thoát và giải thoát tri kiến. Lại nữa, Đức Thế Tôn đi đến khắp tất cả các làng xóm địa phương xứ sở, dù đi hay nghỉ Ngài cũng không bị tất cả các hàng phi nhân làm hại, quấy nhiễu. Trong tất cả mọi lúc, Ngài thường dùng Thiên nhãn để nhận thấy các sắc tướng, thường dùng Thiên nhĩ nghe các loại âm thanh, ánh sáng của trí tuệ rộng lớn chiếu khắp nơi, trong thời hay phi thời thường an trụ nơi chánh niệm. Phải biết rằng Đức Phật Thế Tôn có nhiều công đức như vậy. Đây gọi là Bậc Đạo Sư tối thắng trong thế gian.
Khi ấy, nơi nhà trưởng giả Mô - thi - la, các ngoại đạo được tập hợp đông đảo. Trong số ấy, có người nhờ thiện căn thành thục, nên khi nghe nói về công đức của Đức Phật thì cả người lông tóc đều dựng ngược, buồn rầu than thở, đối với Đức Phật Thế Tôn, liền phát khởi tâm thanh tịnh, sinh tâm kính tín sâu sắc, bèn bày tỏ:
–Chúng tôi nguyện sẽ theo Phật xuất gia.
Bấy giờ trưởng giả Mô - thi - la, sau khi nghe đồng nữ Thiện Vô Độc nói về công đức của Đức Phật liền phát sinh tịnh tín đối với Phật Thế Tôn, nên nói với đồng nữ:
–Nay con có thể cho ta được gặp Đức Phật Thế Tôn không?
Đồng nữ đáp:
–Trưởng giả muốn gặp Đức Phật Thế Tôn cùng Thánh chúng thì nên chuẩn bị các thức ăn thật quý giá để cúng dường.
Bấy giờ trưởng giả y lời, bảo vợ lo sửa soạn thức ăn. Người vợ đáp:
–Lành thay! Này trưởng giả, các thức ăn uống đều đã sẵn sàng.
Trưởng giả nói với đồng nữ:
–Ta không biết nghi thức để mời, vậy con nên thỉnh Phật.
Đồng nữ Thiện Vô Độc dùng diệu hoa làm đàn tràng, hướng về nơi Đức Phật Thế Tôn đang ở, từ xa đem toàn thân lễ kính, đốt các loại danh hương, rải các loại hoa đẹp, nhất tâm chắp tay thỉnh Đức Phật Thế Tôn, thưa:
–Đức Phật là Bậc Nhất Thiết Trí, đầy đủ đại Bi, tùy theo tâm niệm của chúng sinh hoan hỷ khi được gặp Ngài, đều làm cho họ được như ý. Hiện trưởng giả Môthi - la cùng các quyến thuộc đã dốc phát tâm thanh tịnh, muốn gặp Thế Tôn, nay tại nhà họ đã xếp đặt các thức ăn thượng vị, muốn tự tay cúng dường Đạo sư Thế Tôn và các Thánh chúng. Vậy con xin phụng thỉnh, ngưỡng mong Thế Tôn, rộng lòng Từ bi thương xót vì lợi lạc cho chúng sinh, nhận lời thỉnh cầu đến nhà trưởng giả.
Lúc ấy những hoa đẹp do đồng nữ rải lên, nhờ uy thần của Phật, đã tụ lại trên hư không như vua thiên nga, từ từ hạ xuống vườn Kỳ - đà Cấp cô độc, nước Xá - vệ, trước Đức Phật Thế Tôn. Hương thơm kia như mây tối thượng vi diệu kết thành lâu đài xoay chuyển trên không trung.
Bấy giờ Tôn giả A - nan nhìn thấy hiện tượng này, nên bước ra trước, bạch Đức Phật:
–Thưa Thế Tôn, hiện tượng lành này từ nơi nào đến mà có hình tướng như cầu thỉnh Đức Phật?
Phật dạy:
–Này A - nan, ông nên biết, cách xa nước Xá - vệ này đến một trăm sáu mươi thành Phước tăng, có một thành lớn tên là Phước tăng, nơi đó có vị trưởng giả tên Môthi - la. Thành ấy hiện đang có các ngoại đạo tụ hội, trưởng giả Mô - thi - la dốc lòng thỉnh Phật và chúng Thanh văn. Chúng ta sẽ đi đến nơi đó, mỗi người sẽ hiện thần biến để chúng ngoại đạo kia trông thấy mà phát sinh sự tin tưởng thanh tịnh. Khi đã có được lòng tín như thế thì sẽ làm cho họ không còn thối chuyển. Chính nơi ấy, Ta sẽ tạo được lợi lạc lớn. Đấy là hiện tượng họ đến đây thỉnh Phật, vậy ông nên đánh kiền chùy tập hợp chúng Bí - sô, bảo họ tự nhớ rõ về giờ giấc, mỗi người đều hiện thần thông để đến thành lớn ấy nhận sự cúng dường.
Tôn giả A - nan vâng lời Phật dạy, đánh kiền chùy, tập hợp chúng Bí - sô, phổ biến: “Các vị Tôn giả A - la - hán đã đắc thần thông hãy lắng nghe lệnh của Đức Phật. Nay các Bí - sô tự biết rõ về giờ giấc, mỗi vị sẽ hiện thần thông đi vào thành Phước tăng, thọ sự cúng dường của trưởng giả Mô - thi - la. Trong thành ấy hiện có các ngoại đạo đang tụ hội, phải dốc làm cho họ phát sinh lòng tin thanh tịnh, khi đã sinh lòng tin ấy rồi thì sẽ khiến họ không thối chuyển, sẽ làm cho họ có được lợi lạc lớn”. Tôn giả A - nan bố cáo như thế, rồi phát thẻ. Các vị A - la - hán đều thọ thẻ. Khi ấy, có một vị Bí - sô tên Côn - nỗ - bát - đà - na, là Thượng tọa trong chúng, đã chứng quả Tu - đà - hoàn, nhưng chưa có được đầy đủ thần thông, cũng nhận thẻ. Tôn giả A - nan nói:
–Thưa Bí - sô thượng tọa, nước Xá - vệ cách thành Phước tăng kia đến một trăm sáu mươi do - tuần. Đức Phật ra lệnh các vị phải hiện thần biến mới có thể đến chốn ấy.
Vị Bí - sô Thượng tọa nghe lời nói như vậy, liền tự trả lại thẻ đã nhận. Vị Bí - sô này bèn dùng tâm thanh tịnh an trú như thật, ngay trong khoảnh khắc một sátna, liền đắc quả A - la - hán, nhận lại thẻ cũ, phát khởi sáu thần thông. Thí như trong khoảng thời gian người lực sĩ co duỗi cánh tay, vị ấy liền vọt thân lên không trung, nói kệ:
Không lấy sắc tướng làm tối thượng
Không dùng sức lực để tôn trọng
Ly trần thanh tịnh mới trang nghiêm
Chứng đắc lục thông đều đầy đủ.
Sáng sớm hôm sau, các vị A - la - hán tùy sở thích đã ứng hiện các thần biến, lần lượt đi đến nhà trưởng giả Mô - thi - la trong thành Phước tăng.
Bấy giờ trưởng giả Mô - thi - la cùng vợ con quyến thuộc dùng nước thơm rưới khắp mặt đất, bố trí chỗ ngồi hết sức trang nghiêm, dọn bày ra các loại thức ăn thượng vị. Sau khi sắp đặt xong, trưởng giả và vợ con ra khỏi nhà, đứng bên cửa, cùng đồng nữ Thiện Vô Độc, đồng tử Ngưu Thọ chờ Đức Phật giáng hạ.
Trưởng giả suy nghĩ: “Đức Phật đến đây thọ sự cúng dường của ta hay là Ngài lại đến nơi khác để thọ sự cúng dường nào!”. Ông ta nghĩ như thế rồi, hướng về nơi Đức Phật Thế Tôn, đứng yên, dốc tâm chiêm ngưỡng.
Lúc ấy Tôn giả A - nhã Kiều - trần - như dùng thần lực của mình hóa xe Đại xà, người thì ngồi yên trên xe, lại hóa mưa trời li ti từ từ rơi xuống, sấm chớp sáng rực liên tục phát ra. Tôn giả hiện thần thông như thế, đến nơi nhiễu ba vòng quanh trên thành ấy, sau đó từ hư không hạ xuống, vào nhà trưởng giả.
Trưởng giả Mô - thi - la trông thấy hình tướng ấy, bèn hỏi đồng nữ Thiện Vô Độc:
–Vị đến đây bằng xe Đại xà lại có trời mưa li ti từ từ rơi xuống, sấm chớp sáng rực liên tục phát ra, hiện tướng như vậy đi rồi vào nhà ta, là Thầy con phải không?
Đồng nữ đáp:
–Đó chẳng phải là Thầy con mà là vị được Đức Phật Thế Tôn độ đầu tiên, là vị đệ tử thượng thủ tên A - nhã Kiều - trần - như. Khi Phật chuyển pháp luân lần đầu tiên tại vườn Lộc dã, thuộc nước Ba - la - nại, vị này được nghe pháp yếu trước hết liền đắc quả. Đức Phật nêu rõ vị ấy là tối thượng đệ nhất trong các vị chứng đắc Niết - bàn. Đấy là vị Tôn giả đến trước tiên.
Đến lượt Tôn giả Xá - lợi Tử hóa ra xe sư tử, người thì ngồi yên trên xe, tới nơi hiện thần thông bay quanh thành kia ba vòng, rồi từ hư không hạ xuống, vào nhà trưởng giả.
Trưởng giả thấy hình tướng ấy, hỏi đồng nữ Thiện Vô Độc:
–Vị đến bằng xe sư tử hiện tướng trạng như vậy rồi đi vào nhà, là Thầy con chăng?
Đồng nữ đáp:
–Đó chẳng phải là Thầy con mà là vị đệ tử của Đức Phật, tên là Xá - lợi Tử. Vị ấy khi ở trong thai mẹ, người mẹ tự nhiên có trí tuệ thông minh xuất chúng, có khả năng nghị luận, giỏi nhiếp phục tất cả các vị luận sư trong cõi Diêm - phù. Người con ấy khi sinh ra sắc tướng đắc biệt, khác lạ, các căn cân đối tương xứng với trí tuệ siêu tuyệt. Cha mẹ yêu mến, mời các tướng sư nhờ họ xem tướng về cuộc đời của vị đồng tử ấy. Bấy giờ các tướng sư mải mê xem xét các sắc tướng thù thắng của đồng tử này, nên quên cả việc đáp lại những câu hỏi về tướng pháp của cha mẹ đồng tử. Cha mẹ đồng tử liền đưa đồng tử đến vị đại Bà - la - môn để vị ấy xem tướng. Vị Bà - la - môn đã nói: “Đồng tử này sắc tướng đặc biệt khác lạ, sẽ xuất gia tu đạo trong pháp của Đức Phật Thích - ca Mâu - ni, đoạn sạch phiền não, chứng quả A - lahán. Giữa các vị đệ tử trong chúng Thanh văn, vị này có khả năng tùy theo Đức Như Lai để góp sức chuyển bánh xe chánh pháp. Nay vị đồng tử ấy, người nào chỉ gặp mặt qua một lần, sẽ luôn ghi nhớ rõ không quên, huống chi còn được nghe những lời vị ấy thuyết giảng”. Vị Bà - lamôn kia xem tướng như vậy, sau này đều đúng như lời nói, Tôn giả Xá - lợi Tử đã xuất gia chứng quả. Lại nữa, Đức Phật đã nói: “Giả sử dùng hết nước trong biển lớn làm mực; dùng số lượng giấy lớn như núi Tu - di; lấy tất cả cỏ cây của vườn rừng trên quả đất làm bút, sai tất cả dân chúng trong bốn đại châu, trải qua vô số thời gian để ghi chép trí tuệ rộng lớn của Tôn giả Xá - lợi - phất, thì cũng không thể hết. Lại tập hợp tất cả những người có trí tuệ lại một chỗ, thì trí tuệ của Tôn giả ấy cũng vượt hơn họ. Nói tóm lại, nên biết rằng: chỉ trừ Đức Phật Thế Tôn, còn những người đầy đủ tất cả trí tuệ trong thế gian, so với trí tuệ quảng đại của Xá - lợi Tử thì cũng không bằng một phần mười sáu”. Thế nên, Đức Phật nói rõ vị này là bậc trí tuệ đệ nhất trong chúng Thanh văn. Vị Tôn giả ấy đã theo thứ tự đi đến đây.
❑
Đến lượt Tôn giả Đại Ca - diếp hóa ra ngọn núi lớn bằng vàng, màu sắc sáng chói, có các rừng cây, chim bay lượn vòng quanh trên núi. Tôn giả ngồi yên trên đỉnh núi, hiện thần thông, từ hư không bay đến, vòng quanh thành ba lượt, sau đó hạ xuống rồi vào nhà trưởng giả Mô - thi - la.
Trưởng giả thấy sự việc ấy liền hỏi đồng nữ Thiện Vô Độc:
–Vị ở trên đỉnh núi bằng vàng bay đến đây, hiện tướng trạng như vậy rồi đi vào nhà, là Thầy con phải không?
Đồng nữ đáp:
–Đó không phải Thầy con mà là vị đệ tử của Đức Phật, tên Đại Ca - diếp. Vị ấy khi chưa xuất gia, gia đình rất giàu, vàng bạc châu báu nhiều vô lượng. Vị ấy có trăm ngàn loại y phục thượng diệu, quyến thuộc đông đảo, mọi người đều kính trọng, nhưng do nhàm chán cuộc sống thế tục nên đã từ bỏ tất cả sự giàu sang như vậy, xuất gia tu hành, chứng đắc đạo quả. Lại nữa, vị Tôn giả ấy thường ở một nơi, thường trì một y, luôn thiểu dục tri túc, thường hay thu nhiếp giáo hóa các chúng sinh nặng về tham ái. Vào một lúc nọ, Tôn giả ấy đã được Đức Phật chia nửa tòa cho ngồi chung. Đức Phật nêu rõ vị ấy là bậc tu hạnh Đầu - đà đệ nhất. Tôn giả ấy đã đến theo thứ tự.
Lúc ấy Tôn giả Đại Mục - kiền - liên tướng tốt tự nhiên trang nghiêm đặc biệt, hóa ra xe Đại long, mình thì ngồi yên trên xe, hiện thần thông, từ hư không đến, bay quanh thành ba vòng, sau đó hạ xuống, vào nhà trưởng giả.
Trưởng giả thấy sự việc ấy, bèn hỏi đồng nữ Thiện Vô Độc:
–Vị ngồi xe Đại long bay đến, hiện tướng như vậy rồi vào nhà, là Thầy con phải không?
Đồng nữ đáp:
–Đấy không phải Thầy con mà là vị đệ tử của Đức Phật, tên Đại Mục - kiền - liên. Vị ấy có đại thần thông, tại đỉnh núi Diệu cao, trong một lúc đã hàng phục hai vị Long vương là Nan - đà và Ô - ba - nan - đà. Cung điện trời Đế Thích với chu vi ngàn do - tuần, cao hai do - tuần rưỡi, có tám vạn bốn ngàn cột quý, nhiều loại trang sức, tại nơi đó, vị này chỉ cử động một ngón chân, là có thể làm cho cả cung điện của Đế Thích bị chấn động. Còn nữa, vào lúc nọ, Đức Phật ở thôn Phệ - lan - đế, bảo các Bí - sô: “Hiện nay, vùng thôn ấp ở đây có hiện tượng đói kém, nên các Bí - sô khất thực khó khăn”.
Tôn giả Đại Mục - kiền - liên nghe Đức Phật nói xong, không rời Phật hội, ngay tức thì đã di chuyển mặt đất này đặt ở thế giới phương dưới, lấy tất cả vật có thể ăn được của thế giới ấy đem đặt ở mặt đất này, khiến cho các vật đều tăng trưởng. Tôn giả dùng sức thần thông như vậy thay phương trên xuống phương dưới xong, mặt đất này vẫn yên như cũ, khiến cho các chúng sinh ở đây thoát khỏi nạn đói. Đức Phật nói: “Này Đại Mục - kiền - liên, khi mặt đất này di chuyển, những chúng sinh trên mặt đất, làm sao có thể yên ổn được?”
Đại Mục - kiền - liên bạch Phật: “Tay trái con giữ lấy chúng sinh, còn tay phải thì di chuyển mặt đất. Mặt đất tuy di chuyển, nhưng các chúng sinh ở đây đều yên ổn tự nhiên, không hề biết có sự di chuyển”.
Đức Phật hỏi: “Đại Mục - kiền - liên, khi di chuyển như vậy, ông có ý tưởng gì?”
Đại Mục - kiền - liên bạch Phật: “Theo ý của con, như người lực sĩ di chuyển tấm lá chuối không chút khó khăn, con di chuyển mặt đất cũng như vậy”.
Đức Phật dạy: “Lành thay! Lành thay! Ông có thể sử dụng các thần thông với phương tiện như vậy”.
Thưa trưởng giả, Đức Phật đã nêu rõ vị này là bậc đạt thần thông đệ nhất. Tôn giả ấy đã theo thứ tự đến đây.
Tiếp theo là Tôn giả Ma - ha Ca - chiên - diên hóa ra lâu đài bằng thủy tinh, có nhiều loại cột quý giá với các lưới báu, ngọc quý, chuỗi ngọc trang trí rộng khắp bằng cách treo giăng lẫn nhau. Tôn giả ngồi kiết già trong lâu đài ấy, hiện thần thông, từ hư không bay đến, nhiễu quanh thành ba vòng, sau đó hạ xuống, vào nhà trưởng giả.
Trưởng giả thấy sự việc này, hỏi đồng nữ Thiện Vô Độc:
–Vị đến đây với lâu đài bằng thủy tinh trang nghiêm các loại báu, ngồi kiết già trong đó, hiện tướng như vậy rồi đi vào nhà, là Thầy con phải không?
Đồng nữ đáp:
–Đấy không phải Thầy con mà là vị đệ tử của Đức Phật, tên Ma - ha Ca - chiên - diên. Vị ấy có khả năng khéo phân biệt câu và nghĩa trong kinh điển. Đức Phật nói rõ vị ấy là bậc luận nghị đệ nhất về kinh điển. Tôn giả ấy đã theo thứ tự đến.
Đến lượt Tôn giả Ma - ha Câu - hy - la, hóa ra xe Đại ngưu, Tôn giả thì ngồi yên trên xe, hiện thần thông, từ hư không đến bay quanh thành kia ba vòng, sau đó hạ xuống, vào nhà trưởng giả.
Trưởng giả thấy sự việc ấy, bèn hỏi đồng nữ Thiện Vô Độc:
–Vị đến đây bằng xe Đại ngưu, hiện tướng như vậy rồi đi vào nhà, là Thầy con phải không?
Đồng nữ đáp:
–Đấy không phải Thầy con mà là vị đệ tử của Đức Phật, tên Ma - ha Câu - hy - la. Vị ấy uy nghi đĩnh đạc, các căn từ tốn thanh tịnh, khi mới xuất gia đã thuần thục tự nhiên như vị tu hành trải qua tám mươi hạ, thông tỏ các phạm hạnh như tu tập đã lâu. Đức Phật đã nêu rõ vị ấy là bậc thiểu dục tri túc đệ nhất. Tôn giả ấy đã theo thứ tự đến đây.
Tiếp đến là Tôn giả Ưu - ba - ly, hóa ra rừng cây Kimđa - la, hoa trái đầy đủ, màu sắc tươi đẹp. Có những loài chim lạ như chim Ca - chỉ - la, Xá - lợi - ra... quần tụ vui đùa trên rừng cây ấy, hót lên những âm thanh vi diệu khả ái.
Tôn giả ấy hiện thân mình ở trong rừng cây, dùng thần thông từ hư không đến, bay quanh thành này ba vòng, sau đó hạ xuống, rồi đi vào nhà trưởng giả.
Trưởng giả nhìn thấy việc này, hỏi đồng nữ Thiện Vô Độc:
–Rừng cây Kim - đa - la bay đến đây, vị hiện thân ngồi trong đó, hiện ra hình tướng như vậy, rồi vào nhà, là Thầy con phải không?
Đồng nữ đáp:
–Đấy không phải Thầy con mà là vị đệ tử của Đức Phật, tên Ưu - ba - ly. Vị này khéo thọ trì giới, gia tộc rất giàu. Xưa kia, khi chưa xuất gia, gặp lúc có năm trăm đồng tử họ Thích đều muốn xuất gia, thường dùng các loại quý giá để trang sức nơi thân thể, đến trước Ưu - baly, họ bèn tự cởi hết những vật trang sức quý giá ấy gom lại một nơi, nói: “Chúng tôi từ bỏ những thứ này để cầu xuất gia”. Ưu - ba - ly trông thấy sự việc này, tự suy nghĩ: “Những đồng tử ấy tướng mạo đều đoan nghiêm, gia tộc giàu sang, đều có thể vứt bỏ hết những thứ để cầu xuất gia. Nay ta vì sao còn yêu thích những vật trang sức mà không tự giác ngộ?”
Sau khi suy nghĩ như vậy, vị ấy nhờ nhân duyên đó, cũng vứt bỏ những vật trang sức, theo Phật xuất gia, chứng đắc quả A - la - hán đầu tiên trong nhóm. Đức Phật nêu rõ vị ấy là bậc trì luật đệ nhất. Tôn giả ấy đã theo thứ tự đi đến đây.
Đến lượt Tôn giả Mã Thắng, oai nghi đĩnh đạc, các căn tịch tịnh, ôm bình bát từ hư không đến, bay quanh thành ba vòng, rồi hạ xuống, vào nhà trưởng giả.
Trưởng giả trông thấy sự việc ấy, hỏi đồng nữ Thiện Vô Độc:
–Vị đến đây, oai nghi đĩnh đạc, các căn tịch tĩnh, ôm bình bát, hiện tướng như vậy rồi vào nhà, là Thầy con chăng?
Đồng nữ đáp:
–Đấy không phải Thầy con mà là vị đệ tử của Đức Phật, tên Mã Thắng. Sau khi xuất gia, vị ấy oai nghi luôn đĩnh đạc, các căn tịch tịnh, có khả năng hàng phục voi say mà chứng quả Thánh. Một thời nọ vị này vì Tôn giả Xá - lợi Tử nói bài kệ:
Do nghiệp và phiền não
Làm nhân sinh hành động
Vì vậy nên thế gian
Luân hồi không cùng tận
Người không bị xoay chuyển Vì hai nhân hoặc, nghiệp Liền thoát ly thế gian. Đức Thế Tôn đã dạy
Nếu hai pháp sinh, già
Chúng không còn hiện hành
Chắc chắn trong thế gian
Quyết định không có khổ
Vị ấy sẽ giải thoát
Chánh ngữ này tối thượng Đại Sa - môn, Ngưu vương Thông tỏ nên nêu giảng.
Khi Xá - lợi Tử nghe xong bài kệ này, liền hiểu rõ ý nghĩa của nó, ngay sau lời nói ấy liền chứng quả Tu - đàhoàn. Đức Phật cho biết Tôn giả Mã Thắng là bậc uy nghi đệ nhất. Tôn giả ấy đã đi đến đây theo thứ tự của mình.
Tiếp theo là Tôn giả Mãn Từ Tử hóa ra hoa sen bằng vàng có ngàn cánh, cánh hoa lớn như bánh xe, cọng hoa bằng lưu ly, râu bằng kim cương, trang trí như vậy với màu sắc chiếu sáng rực rỡ. Tôn giả này hiện thần thông, ngồi trên hoa sen, từ hư không đến bay quanh thành ba vòng, sau đó hạ xuống, rồi vào nhà trưởng giả.
Trưởng giả nhìn thấy sự việc đó, bèn hỏi đồng nữ Thiện Vô Độc:
–Vị đến đây ngồi trên hoa sen bằng vàng ngàn cánh màu sắc rực rỡ sáng chói, hiện tướng như vậy rồi vào nhà, là Thầy con phải không?
Đồng nữ đáp:
–Đấy không phải là Thầy con mà là vị đệ tử của Đức Phật, tên Mãn Từ Tử. Vị ấy có khả năng khéo tuyên dương chánh pháp. Đức Phật nêu rõ vị ấy là bậc nhất trong những người thuyết pháp. Tôn giả ấy theo thứ tự đã đi đến đây.
Đến lượt Tôn giả Đa Tài Tử, hóa ra một ngọn núi lớn trang nghiêm bằng bốn thứ báu, có cờ phướn đặc biệt tốt đẹp, đầy đủ các loại linh báu, gió thổi hòa theo tiếng kêu, người nghe đều ưa thích. Tôn giả, hiện thần thông, ngồi trên đỉnh núi, từ hư không đến, bay quanh thành kia ba vòng, sau đó hạ xuống và vào nhà trưởng giả. Trưởng giả nhìn thấy sự việc đó, hỏi đồng nữ Thiện Vô Độc:
–Vị đến đây ngồi trên đỉnh núi, hiện tướng như vậy rồi vào nhà, là Thầy con phải không?
Đồng nữ đáp:
–Đấy không phải Thầy con mà là vị đệ tử của Đức Phật, tên Đa Tài Tử. Vị ấy gia tộc vốn giàu có phồn thịnh, tất cả các nhu cầu hưởng thụ đều được đầy đủ, thường bố trí chỗ ngồi, chỗ nằm, giường lớn, giường nhỏ, thanh tịnh trang nghiêm để sẵn sàng phục vụ Tăng chúng bốn phương vãng lai, cung cấp tùy theo sự cần dùng của từng người. Đức Phật nói rõ vị ấy là hàng tự tại bậc nhất trong những người thọ hưởng phước đức. Tôn giả ấy đã đến đây theo thứ tự.
Tiếp theo là Tôn giả A - nê - lỗ - đà hóa ra một cung điện bằng vàng, bên trong trang trí bằng lưu ly, treo lơ lửng các vật quý báu xen lẫn khắp nơi, hết sức trang nghiêm tốt đẹp. Trong điện có tòa sư tử, Tôn giả ngồi trên tòa, hiện thần thông, từ hư không đến bay quanh thành ấy ba vòng, sau đó hạ xuống rồi vào nhà trưởng giả.
Trưởng giả trông thấy sự việc, bèn hỏi đồng nữ Thiện Vô Độc:
–Vị đến đây với cung điện lớn bằng vàng, bên trong trang trí bằng lưu ly, trên điện có tòa Sư tử, hiện tướng như vậy rồi vào nhà, là Thầy con phải không?
Đồng nữ đáp:
–Đấy không phải Thầy con mà là vị đệ tử của Đức Phật, tên A - nê - lỗ - đà. Ở vô số kiếp về trước, vị ấy đã từng phát tâm thanh tịnh, đem một phần thức ăn cúng dường cho vị Phật Duyên giác, do nghiệp thiện đó nên bảy lần trở lại cõi người đều làm vua Chuyển luân, lại bảy lần sinh lên cõi trời Tam thập tam, đều làm chủ cõi ấy. Nhờ dư báo của nghiệp lành đó, vị ấy được sinh vào dòng họ rất giàu, tuy có đến trăm ngàn vạn vàng bạc châu báu, nhưng đều xả bỏ tất cả để xuất gia tu đạo. Sau khi xuất gia, vị ấy luôn có đầy đủ thức ăn, y phục, ngọa cụ, thuốc thang, tất cả đều như ý, tinh tấn tu tập phạm hạnh chứng đắc đạo quả, lại gặp nhân duyên chứng được Thiên nhãn thanh tịnh. Đức Phật đã nêu rõ vị ấy là bậc đạt Thiên nhãn đệ nhất. Tôn giả ấy đã theo thứ tự đi đến đây.
Đến lượt Tôn giả Văn - câu - chi, hóa ra một tòa bằng các loại hoa. Tôn giả ngồi trên tòa ấy, hiện thần thông, từ hư không đến bay quanh thành ba vòng, sau đó hạ xuống rồi vào nhà trưởng giả.
Trưởng giả trông thấy sự việc đó, bèn hỏi đồng nữ Thiện Vô Độc:
–Vị đến đây ngồi trên tòa bằng các loại hoa, hiện tướng như vậy rồi đi vào nhà, là Thầy con phải không?
Đồng nữ đáp:
–Đấy không phải là Thầy con mà là vị đệ tử của Đức Phật, tên Văn - câu - chi, con một trưởng giả rất giàu có. Vị ấy khi sinh ra, cha mẹ rất vui mừng, nói với nhau: “Nhà ta đã giàu có lại sinh con phúc đức, vậy cần phải đưa ra nhiều vàng bạc châu báu để mọi người được biết sự giàu sang ấy”.
Bàn luận xong, họ liền xuất kho lấy những vật quý giá kỳ lạ, mời những người hiểu biết về vật quý báu đến xem. Trưởng giả nói: “Này quý vị, hãy xác định cho tôi những loại quý báu này giá trị bao nhiêu?”
Những người kia trả lời: “Châu báu này vô cùng đặc biệt kỳ lạ, không thể biết hết giá trị của nó”.
Trưởng giả liền nói: “Giá trị một ức (câu - chi)”.
Những người kia hỏi: “Này trưởng giả, có phải mỗi một vật báu giá trị một ức không?”
Trưởng giả đáp: “Đúng vậy! Đúng vậy!”
Những người kia khen ngợi: “Trưởng giả thật giàu có không ai bằng”.
Khi ấy trưởng giả hỏi: “Con tôi mới sinh, nên đặt tên gì?”
Có người nói: “Khi sinh đồng tử, nghe nói vàng ngọc quý báu giá trị đến số ức (câu - chi)”.
Trưởng giả theo như lời nói ấy, nên đặt tên cho con là Văn - câu - chi. Đức Phật nói rõ, vị ấy là bậc nhất trong việc xa lìa các phiền não. Tôn giả ấy đã theo thứ tự đến đây.
Lúc ấy Tôn giả Thọ - đề - ca hóa ra cỗ xe Khổng tước, tự thân ngồi trên xe ấy, hiện thần thông từ hư không đến, bay quanh thành kia ba vòng, sau đó hạ xuống rồi vào nhà trưởng giả.
Trưởng giả Mô - thi - la thấy sự việc đó, bèn hỏi đồng nữ Thiện Vô Độc:
–Vị đến đây bằng xe chim công, hiện tướng như vậy rồi vào nhà, là Thầy con phải không?
Đồng nữ đáp:
–Đấy không phải Thầy con mà là vị đệ tử của Đức Phật, tên Thọ - đề - ca. Khi chưa xuất gia vị ấy là trưởng giả rất giàu có của thành Vương xá, tuy ở cõi người nhưng hưởng thọ thắng phước nơi cõi trời. Trong nhà vị ấy thường dùng vải mịn thượng hảo hạng làm khăn sạch để sử dụng. Một lúc nọ, họ đem khăn sạch phơi nắng, bị gió lớn thổi bay đến trước cung điện vua Tần - bà - sa - la. Vua Tần - bà - sa - la thấy khăn sạch này tự nhiên có trước mặt mình, bèn hỏi vị quan hầu: “Ồ! Tấm vải mịn màng đẹp đẽ thượng hạng này, trên đời không có loại nào bằng, ta ở ngôi vua mà chưa từng thấy, thế nó từ đâu đến, các người biết không?”
Vị quan hầu tâu: “Đại vương biết cho, trong thành này của Đại vương có vị đại phú trưởng giả tên Thọ - đềca, Đức Phật nói người này hiện nay ở nhân gian nhưng thọ hưởng thắng phước từ cõi trời. Theo ý chúng thần thì đây là vật từ trong nhà của vị trưởng giả kia. Đại vương nên triệu ông ta đến hỏi tất biết sự thật”.
Bấy giờ nhà vua liền triệu trưởng giả đến trước mặt, lần lượt hỏi về sự việc ấy. Thọ - đề - ca tâu: “Tấm lụa mềm này là khăn sạch trong nhà thần sử dụng. Hôm trước đem phơi bị gió thổi đến đây, sự thật là như vậy, xin Đại vương tha tội”.
Nhà vua nói: “Ta thấy ngươi chẳng có tội gì cả, chỉ vì nghe ngươi hưởng thọ thắng phước từ cõi trời, việc này có thật không?”
Thọ - đề - ca tâu: “Đúng vậy! Đúng vậy!”
Nhà vua nói: “Này Thọ - đề - ca, ta muốn đến nhà của ngươi, để xem qua một lần được chăng?”
Thọ - đề - ca tâu: “Tâu Đại vương, thần là dân của nhà vua, do vua thống lãnh, nếu Đại vương quá bộ tới thì thật may mắn cho nhà dân thường, hạ thần rất vui mừng”.
Nhà vua nói: “Ngươi hãy về trước, chuẩn bị thức ăn, ta sẽ đến sau”.
Thọ - đề - ca nói: “Nếu người được hưởng thụ thắng phước của cõi trời, không cần ra sức làm gì cả, thức ăn tự có sẵn, xin mời nhà vua cùng đi luôn”.
Khi ấy vua Tần - bà - sa - la cùng quần thần hộ giá, đi đến nhà trưởng giả Thọ - đề - ca. Trưởng giả đi trước dẫn đường cho vua. Khi đến cổng nhà trưởng giả, nhà vua thấy nô tỳ giữ cửa dung mạo đoan nghiêm, trang sức bằng vật báu tốt đẹp, ý nhà vua nghĩ rằng đây là vợ của trưởng giả nên tạm đứng lại, không tiến tới nữa. Thọ - đềca tâu: “Đại vương! Vì sao bệ hạ đứng lại không tiến tới?”
Nhà vua nói: “Này Thọ - đề - ca vợ ngươi ở đây, nên ta tạm đứng lại”.
Thọ - đề - ca tâu: “Đây không phải là vợ thần mà là tỳ nữ giữ cổng”.
Nhà vua từ từ đi vào, đến bên trong cổng ngoài, lại thấy như trước và cũng tạm đứng lại. Thọ - đề - ca lại tâu: “Đại vương, vì sao lại dừng lại không đi nữa?”
Nhà vua trả lời như trước. Thọ - đề - ca tâu: “Đây không phải là vợ thần mà vẫn chỉ là tỳ nữ giữ cổng”.
Nhà vua đi vào cổng trong, thấy mặt đất bằng mani quý báu, ánh sáng như ngọc trong suốt rực rỡ, có hình tướng các loài thủy tộc, ý nhà vua cho đó là hồ nước nên tạm đứng lại, không dám tiến tới.
Thọ - đề - ca tâu: “Đại vương vì sao đứng lại không đi nữa?”
Nhà vua nói: “Chỗ này có nước nên ta không tiến tới”.
Thọ - đề - ca tâu: “Đây không phải là nước, mà chỉ là mặt đất do ma - ni báu tạo thành”.
Nhà vua hỏi: “Nếu là đất báu tại sao có các loài thủy tộc ở trong?”
Thọ - đề - ca tâu: “Đó không phải là các loài thủy tộc thật, chỉ là ánh sáng của ma - ni báu phản chiếu nhau nên có như vậy”.
Bấy giờ nhà vua tuy nghe nói, nhưng vẫn chưa tin, tự tay cởi nhẫn ném xuống đất. Chiếc nhẫn chạm vào đất phát tiếng kêu, vua mới tin đúng là mặt đất bằng ma - ni báu. Sau đó, vua Tần - bà - sa - la vào nhà, ngồi trên tòa sư tử. Trưởng giả Thọ - đề - ca đứng hầu một bên. Lúc ấy, vợ trưởng giả đi ra trước vua, đang cung kính làm lễ thì bỗng nhiên nước mắt chảy ra, nên đứng qua một bên.
Nhà vua hỏi: “Này trưởng giả, vợ ngươi tại sao gặp vua lại rơi lệ?”
Thọ - đề - ca tâu: “Vợ của tiểu thần được lễ bái trước bệ hạ, lòng rất vui mừng, nào dám khóc lóc; chỉ vì áo vua đang mặt có mùi khói, khói xông vào mắt nên tự nhiên rơi lệ. Tâu Đại vương, vì thế, người thọ hưởng thắng phước của trời, muốn có thức ăn uống, không cần khói lửa để nấu, có châu báu như ý tự nhiên đưa ra thức ăn”.
Nhà vua nói: “Lành thay! Việc này thật hy hữu”.
Vua Tần - bà - sa - la ở chỗ trưởng giả Thọ - đề - ca sau khi ăn uống, mãi mê quan sát cảnh vật trong nhà trưởng giả, quên cả việc trở về cung. Bấy giờ, các cận thần nghĩ: “Nhà vua ở đây đã lâu, nếu chưa hồi cung, sợ rằng việc triều chính trong nước bị ngưng trệ”.
Nghĩ như thế rồi, họ cùng nhau tâu vua: “Đại vương, lưu lại ở đây đã lâu, xin mau hồi cung, e rằng chính sự trong nước bị ngưng trệ”.
Nhà vua bảo quần thần: “Ta ở đây mới chỉ một ngày, với chính sự trong nước vẫn chưa phải là bỏ phế lâu dài”. Trưởng giả Thọ - đề - ca tâu: “Đại vương ở trong nhà kẻ hèn này đã qua bảy ngày”.
Nhà vua nói với trưởng giả: “Ta ở trong nhà ngươi mới sáng nay mà đã qua bảy ngày, việc này đúng không?”
Thọ - đề - ca tâu: “Tâu Đại vương, đúng vậy! Tâu Đại vương, đúng vậy! Đối với Đại vương hạ thần nào dám nói dối”.
Nhà vua lại hỏi: “Trong nhà khanh xem việc gì để biết ngày đêm?”
Thọ - đề - ca tâu: “Có hoa nở ra và khép lại để phân biệt ngày đêm. Có châu báu ma - ni tỏa ra ánh sáng khi rực rỡ và khi không rực rỡ để phân biệt ngày đêm. Có những chim lạ tự nhiên khi cùng hót, khi không cùng hót để phân biệt ngày đêm. Đại vương biết cho, khi hoa nở biết đó là ngày, khi hoa khép lại biết đó là đêm. Khi ánh sáng châu báu ma - ni rực rỡ, biết đó là ngày, khi ánh sáng châu báu ma - ni không rực rỡ biết đó là đêm. Khi chim lạ cùng hót, biết là ngày; khi chúng yên lặng không hót biết đó là đêm. Tâu Đại vương, nhà của thần dựa vào những hình tượng như vậy để phân biệt ngày và đêm”.
Vua Tần - bà - sa - la nói với trưởng giả Thọ - đề - ca: “Thật là hy hữu! Hy hữu! Đức Phật nói lời chân thật không hư vọng. Đức Phật nói ngươi ở trong nhân gian, nhưng hưởng thọ thắng phúc của trời, ngày nay ta thấy được sự việc đúng như vậy”.
Vua Tần - bà - sa - la nói xong, rời khỏi nhà trưởng giả, trở về vương cung.
Này trưởng giả Mô - thi - la, nên biết rằng vị ấy có những thắng phước của trời người như thế, lại có thể xả bỏ tất cả để xuất gia tu đạo, chứng quả A - la - hán. Đức Phật nói rõ vị ấy là bậc nhất về thọ hưởng thắng phước của trời. Tôn giả ấy đã theo thứ tự mà đến đây.
❑
Đến lượt Tôn giả Văn - thị - bách - ức hóa ra rừng cây với hoa trái nhiều màu sắc, giăng kín cả hư không. Tôn giả hiện thân trong rừng đó, vận dụng thần thông từ hư không đến, bay quanh thành ba vòng, sau đó hạ xuống rồi vào nhà trưởng giả.
Trưởng giả thấy việc ấy xong, bèn hỏi đồng nữ Thiện Vô Độc:
–Vị đến đây có rừng cây, hoa trái nhiều màu sắc, hiện thân trong rừng, với các hình tướng như vậy rồi vào nhà, là Thầy con phải không?
Đồng nữ đáp:
–Đấy không phải Thầy con mà là vị đệ tử của Đức Phật, tên Văn - thị - bách - ức. Vị ấy khi sinh ra chân không đụng đất, cách mặt đất bốn ngón tay. Dưới chân có lông màu vàng ròng, biểu thị dị tướng. Khi chân đạp đất, mặt đất liền chấn động theo sáu cách.
Đức Phật đã từng nói với các vị Bí - sô: “Này các Thầy, nên biết đồng tử Văn - thị - bách - ức này trong chín mươi mốt kiếp đều mang một tên, sinh ra chỗ nào chân đều không đạp đất. Vị ấy do phát khởi tâm tinh tấn tu tập đạo pháp nên phước báo vô tận”. Đức Phật nêu rõ vị ấy là bậc tinh tấn đệ nhất. Tôn giả ấy đã theo thứ tự đến đây.
Tiếp theo là Tôn giả Tất - lăng - già - bà - tha hóa ra xe Đại nga, hiện thần thông từ hư không đến, bay quanh thành ba vòng, sau đó hạ xuống rồi đi vào nhà trưởng giả. Trưởng giả thấy việc ấy, bèn hỏi đồng nữ Thiện Vô Độc:
–Vị đến đây bằng xe Đại nga, hiện tướng như vậy rồi vào nhà, là Thầy con phải không?
Đồng nữ đáp:
–Đấy không phải Thầy con mà là vị đệ tử của Đức Phật, tên Tất - lăng - già - bà - tha, thường tu hạnh Từ. Đức Phật nêu rõ vị ấy là bậc có hạnh Từ đệ nhất. Tôn giả ấy theo thứ tự đã đến.
Rồi đến Tôn giả Ô - đà - di hóa ra xe Đại mã, trang nghiêm bằng bốn loại quý báu, hiện thần thông như thế, từ hư không đến bay quanh thành ba vòng, sau đó hạ xuống và vào nhà trưởng giả.
Trưởng giả thấy sự việc ấy, liền hỏi đồng nữ Thiện Vô Độc:
–Vị đến đây bằng xe Đại mã, trang nghiêm bằng bốn loại quý báu, hiện tướng như vậy rồi đi vào nhà, là Thầy con phải không?
Đồng nữ đáp:
–Đấy không phải Thầy con mà là vị đệ tử của Đức Phật, tên Ô - đà - di. Vị ấy thuộc dòng họ Thích. Trong dòng họ Thích, có Tịnh Phạn vương, Bạch Phạn vương, Hộc Phạn vương, Cam Lộ Phạn vương, cùng với Da - thâu - đà - la, Ngu - bế - ca - một - lý - da - nặc... sáu vạn cung tần thể nữ quyến thuộc. Những quyến thuộc đó rất đông đảo, phồn thịnh, giàu có, an vui tự tại. Vị ấy đã từ bỏ cuộc sống thế gian xuất gia tu đạo, chứng đắc quả. Đức Phật nói rõ vị ấy là bậc đoan nghiêm nhất trong dòng họ Thích. Tôn giả ấy theo thứ tự đã đến đây.
Tới lượt Tôn giả Ma - ha Kiếp - tân - na hóa ra xe Thấtvĩ - ca trang nghiêm bằng bốn loại châu báu. Tôn giả đi bằng xe Thất - vĩ - ca, hiện thần thông như vậy từ hư không đến, bay quanh thành ba vòng, sau đó hạ xuống rồi đi vào nhà trưởng giả.
Trưởng giả trông thấy sự việc ấy, bèn hỏi đồng nữ Thiện Vô Độc:
–Vị đến đây bằng xe Thất - vĩ - ca trang nghiêm bằng bốn loại báu, hiện tướng như vậy rồi vào nhà, là Thầy con phải không?
Đồng nữ đáp:
–Đấy không phải Thầy con mà là vị đệ tử của Đức Phật, tên Ma - ha Kiếp - tân - na. Vị ấy từ bỏ gia tộc xuất gia tu đạo, chứng đắc quả, thường nói lời ôn hoà được mọi người yêu mến. Đức Phật nêu rõ vị đó là bậc có ngôn từ ôn hòa đệ nhất. Tôn giả ấy đã đến đây theo thứ tự.
Tiếp đến Tôn giả Nan - đà hóa ra một vườn rừng lớn với hoa trái sum suê, lại có các loài chim lạ như ngỗng, nhạn, oanh vũ, khổng tước, Xá - lợi - ra, Câu - chi - la, Mạng mạng... tụ tập vui chơi trong ấy. Tôn giả an tọa trong vườn ấy hiện tướng như vậy, từ hư không đến bay quanh thành ba vòng, sau đó hạ xuống rồi vào nhà trưởng giả. Trưởng giả trông thấy sự việc đó, bèn hỏi đồng nữ Thiện Vô Độc:
–Vị đến đây ngồi trong vườn rừng lớn, hoa quả sum suê, chim lạ tụ tập vui chơi, hiện tướng như vậy rồi vào nhà, là Thầy con phải không?
Đồng nữ đáp:
–Đấy không phải Thầy con mà là vị đệ tử của Đức Phật, tên Nan - đà, con vua Tịnh Phạn, là em ruột của Phật. So với thân Phật vị ấy thấp hơn bốn ngón tay, đủ ba mươi hai tướng trang nghiêm. Trong quá khứ, vị ấy với tâm thanh tịnh, từng ở nơi tháp của Đức Ca - diếp Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, cúng dường một cái lọng trang nghiêm bằng các loại quý báu tối thượng, đẹp đẽ đặc biệt. Do nhân duyên ấy nên được phước báu thù thắng, trải qua một ngàn năm, trăm đời làm vua Chuyển luân, hưởng thọ thắng phước nhưng không xuất gia, cho đến đời này, vị ấy mới xuất gia tu đạo, chứng đắc thánh quả, trong các oai nghi, luôn gìn giữ kín đáo các căn. Đức Phật nói rõ vị ấy là bậc nhất về hộ trì kín đáo các căn. Tôn giả ấy đã theo thứ tự đến đây. Đến lượt Tôn giả La - hầu - la hóa làm vua Chuyển luân, phước đức uy nghi, dung mạo thắng diệu đặc biệt, quyến thuộc hầu hạ, bảy báu đầy đủ, có tám mươi bốn câu - chi bộ binh hùng dũng mạnh mẽ Ô - bố - sa - đà..., tám vạn bốn ngàn tượng binh Phược - la - hạ - ca..., tám vạn bốn ngàn mã binh thiện chiến Nan - di - cù - sa..., tám vạn bốn ngàn xa binh đẹp mắt quý báu. Lại có vô số trăm ngàn người hầu cận phục vụ chung quanh, tấu lên trăm ngàn loại âm nhạc vi diệu. Cờ phướn quý báu trang nghiêm dẫn đường hộ vệ trước sau, lọng trắng lớn che trên đảnh Luân vương. Tôn giả hiện thần thông như vậy, từ hư không đến, bay quanh thành ba vòng, chưa vào nhà, trụ giữa hư không. Khi thấy sự việc ấy, trưởng giả bèn hỏi đồng nữ Thiện Vô Độc:
–Vị Chuyển luân thánh vương có phước đức uy nghi, dung mạo thắng diệu đặc biệt, đầy đủ bốn loại binh tượng, mã, xa, bộ, hiện thắng tướng như thế, đến đây trụ giữ hư không, là Thầy con phải không?
Đồng nữ đáp:
–Đấy không phải Thầy con mà là vị đệ tử của Đức Phật, tên La - hầu - la. Vị ấy là con Đức Phật, xuất gia học giới chứng đắc quả thánh. Đức Phật nói rõ vị ấy là bậc học giới đệ nhất. Tôn giả ấy hiện thân Luân Vương theo thứ tự đến đây.
Bấy giờ La - hầu - la hiện thân Chuyển luân vương, trụ trên không trung nói kệ:
Ta đang hiện thân Chuyển luân vương.
Dùng sức thần thông nên như vậy Như rồng có sức ta cũng thế Bảy báu bốn binh đều đầy đủ.
Thân đang hiện này chẳng phải thật
Tùy nghi dùng phương tiện thần thông
Trưởng giả cần phải biết rõ rằng
Ta là Phật tử La - hầu - la
Đã chứng đắc đủ các thần thông
Trời người đều quy kính cúng dường Ta vâng lệnh Phật nên tới đây Đại sư Mâu - ni sắp đến sau.
Tôn giả La - hầu - la nói kệ xong, hạ xuống rồi vào nhà trưởng giả. Các vị Bí - sô có thần thông như vậy, đều vâng lệnh Đức Phật thị hiện thần thông đủ loại tuần tự đi vào nhà trưởng giả, chờ đợi Đức Phật đến.
Bấy giờ Đức Thế Tôn biết đã đúng lúc, liền nhập Tam - ma - địa quán sát khắp nơi. Khi Ngài ra khỏi quán Tam - ma - địa, toàn thân xuất hiện nhiều loại hào quang, màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng tươi đẹp thanh tịnh. Ánh sáng như vậy rộng lớn rực rỡ, chiếu khắp nước Xá - vệ, cho đến tất cả dân chúng trong thành Phước tăng cũng được hào quang soi sáng. Nhờ thần lực của Đức Phật nên họ đều thấy thân tướng Phật, trong ngoài sáng rực không ngăn ngại. Khi Đức Phật phóng hào quang thì đại địa chấn động. Đức Thế Tôn mặc y Tăng - già - lê, cùng tất cả các vị tùy tùng, các Bí - sô Côn - nỗ - bát - đà - na và đại chúng vây quanh trước sau, ra khỏi thành Xá - vệ đi đến thành Phước tăng.
Bấy giờ Đại Phạm thiên vương, chủ thế giới Ta - bà, biết được sự việc ấy liền cùng với các chúng thiên tử ở Sắc giới đến hộ vệ phía bên phải Đức Phật, Thiên chủ Đế Thích biết việc ấy, cũng với các chúng thiên tử ở Dục giới đến hộ vệ phía bên trái Đức Phật để cùng đi.
Lại có năm trăm Càn - thát - bà Vương như Thiện Ái Âm... tấu lên trăm ngàn loại âm nhạc đi trước Đức Phật để dẫn đường.
Còn có vô số trăm ngàn Trời, Rồng, Quỷ, Thần, nhân, phi nhân... tùy tùng theo sau Đức Phật.
Lại có vô số thiên nữ trên hư không, đều cầm các thứ hoa như hoa Ưu - bát - la, hoa Bát - nạp - ma, hoa Câu - mẫuna, hoa Bôn - nô - lợi - ca, hoa trời Mạn - đà - la, hoa Ma - ha Mạn - đà - la... Rồi mưa xuống nào là hương chiên - đàn, hương bột, hương Nhị - nga - lỗ, hương Đa - nga - lỗ, hương Đa - ma - la...; các loại diệu hương như thế để cúng dường Đức Phật. Họ lại tấu âm nhạc vi diệu cõi Trời. Đại thể có chúng trời, người đông đảo như vậy vây quanh Đức Phật đi tới.
Bấy giờ, nơi đồng trống rộng lớn bên đường đi, có bảy ngàn Tiên nhân trước đây đã ở đó. trông thấy Đức Thế Tôn có đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, hào quang tròn tỏa chiếu sáng rực như ngàn mặt trời, rộng lớn uy nghi như núi báu hiện, tướng mạo thù thắng tốt đẹp không ai sánh bằng; toàn thân Ngài lại có ánh sáng màu vàng ròng vi diệu, rực rỡ, thấy như vậy rồi, họ cùng nhau đến gần trước Đức Phật, đầu mặt lạy nơi chân Phật, chắp tay cung kính đứng qua một bên. Những Tiên nhân này nhờ thiện căn kiếp trước, nên được gặp Đức Phật Thế Tôn đầu tiên.
Bấy giờ Đức Thế Tôn quán sát bảy ngàn vị Tiên nhân ấy, nhận thấy họ thiện căn đã thành thục, nên ngay giữa đồng trống, Ngài tùy cơ lược giảng về pháp môn Tứ đế. Khi các Tiên nhân nghe được pháp này, trí tuệ thêm kiên cố, tâm ý mở thông, mọi người đều hoan hỷ, tức thì vọt thân lên hư không cao hai mươi ngọn núi, cùng chứng quả Tu - đà - hoàn, rồi từ hư không hạ xuống vây quanh Thế Tôn, tùy tùng đi theo Ngài.
Sau khi độ cho bảy ngàn vị Tiên nhân, Đức Thế Tôn từ từ đi đến cửa thành Phước tăng. Ngài tự nghĩ: “Thành Phước tăng này có mười tám cửa, nếu Ta theo cửa Tây vào thì tất cả dân chúng ở các cửa khác không thấy được Ta, vậy Ta nên hiện thân Phật ở khắp các cửa kia, theo các cửa ấy đi vào khiến cho tất cả dân chúng đều được thấy thân Phật, còn chính Ta thì đi vào bằng cửa Tây”.
Đức Thế Tôn nghĩ thế rồi, liền hiện ra nhiều thân tùy theo các cửa đi vào. Mỗi thân đều có đủ trời người, đại chúng vây quanh tùy tùng. Khi Đức Phật đi vào cửa thành, nhờ sức thần thông, trong thành tự nhiên trừ sạch mọi thứ gai gốc, đá sỏi, ngói gạch; tất cả vật bất tịnh đều trở nên thanh tịnh, trong ngoài thơm sạch, mặt đất bằng như bàn tay không còn hình tướng cao thấp. Tại các cửa thành nơi Đức Phật đi qua, chỗ thấp nhỏ tự nhiên cao lớn, chỗ chật hẹp tự nhiên rộng rãi. Tất cả các loại voi ngựa trong thành có tánh nết hung dữ không thuần thục thì tự nhiên trở nên thuần thục.
Lại nữa, tất cả dân chúng trong thành đều hoan hỷ chiêm ngưỡng Thế Tôn. Nhờ vào sức thần thông của Đức Phật, người mù được thấy, người điếc được nghe, người câm được nói, cho đến những người thân thể bị khuyết tật đều trở nên toàn vẹn. Những người tâm hồn bị hôn mê, say loạn, điên cuồng đều được tỉnh ngộ, Chánh định không loạn tưởng. Người bị trúng độc đều được giải hết độc. Những người thù hận nhau cũng thay đổi thái độ, đối với nhau bằng tâm Từ bi. Những người có thai, thân thể an ổn, sinh con phước đức. Những người nghèo khổ tự nhiên được tài sản quý báu sung túc. Khi Đức Phật đi vào thành đã có những việc hy hữu như vậy diễn ra, tất cả dân chúng đều được lợi ích, chân thân Đức Phật thì đi vào cửa phía Tây.
Đức Thế Tôn đi vào thành xong, liền thu nhiếp các hóa thân thành một thân duy nhất, rồi đến nhà trưởng giả Mô - thi - la.
Đồng nữ Thiện Vô Độc thưa với trưởng giả:
–Vị đang đến đây là Đại sư của con, hiệu Thích - ca Mâu - ni Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác.
Khi thấy Đức Phật với thần thông uy đức và các tướng hảo như vậy, trưởng giả và quyến thuộc đều sinh tâm kính ngưỡng, đầu mặt lạy sát hai chân Phật. Đồng nữ Thiện Vô Độc được gặp Đức Phật Thế Tôn thì vui mừng hớn hở, đầu mặt lạy sát chân Phật, chắp tay hướng về Ngài nói kệ:
Lời Đức Phật thuyết thật tối thượng
Điều phục được những lời người khác
Người nghe thường sinh tâm thanh tịnh
Con chưa gặp Phật rất khổ não
Đức Phật thương xót nên đến đây,
Hôm nay chúng con được lợi lớn
Con đem tâm thanh tịnh chí thành Đảnh lễ chân an lành của Phật.
Đồng nữ nói kệ xong liền dâng nước thơm bằng Ngưu đầu chiên - đàn để Đức Phật rửa chân. Rửa chân xong, Đức Phật an tọa trên bảo tòa trang nghiêm tối thượng. Các chúng Bí - sô cũng rửa chân và ngồi theo thứ tự.
Bấy giờ đồng nữ Thiện Vô Độc bưng thức ăn thanh tịnh thượng vị, tự tay dâng lên cúng dường Đức Phật và chúng Bí - sô. Trưởng giả Mô - thi - la cùng quyến thuộc, tự tay dâng thức ăn lên Đức Phật và chúng Bí - sô. Theo thứ tự như vậy, thức ăn được dâng lên tất cả, Đức Phật và các Bí - sô tùy ý thọ trai.
Khi ấy tất cả Bà - la - môn, Trưởng giả, Cư sĩ trong thành Phước tăng và các ngoại đạo Ni - kiền Tử, vô số trăm ngàn người cùng đến nhà trưởng giả ấy để được nhìn thấy Thế Tôn. Theo ý họ, nhà của trưởng giả đang ở quá chật hẹp, không thể dung chứa hết số người đông đảo như vậy, nên họ đều nghi ngại.
Đức Thế Tôn biết ý ấy, liền biến hóa nhà của trưởng giả trở thành thủy tinh, trong ngoài đều trong suốt, rộng rãi, nghiêm tịnh, khiến mọi người đều nhìn rõ Đức Phật không bị trở ngại. Những người ấy được thấy Đức Phật rồi, liền khác miệng cùng lời nói kệ: Hiện nay nhà trưởng giả
Đều trở thành thủy tinh
Ma - ni và chân kim
Các báu đều rực sáng
Thanh tịnh và rộng rãi
Như cung trời Đế Thích
Đều được thấy Thế Tôn
Đây rất là hy hữu
Hết tất cả chúng con
Trước Đức Phật chiêm ngưỡng
Đều sinh tâm thanh tịnh
Cung kính chắp tay lạy
Mâu - ni giữa chúng hội
Như trăng hiện giữa sao
Trang nghiêm bằng công đức Thế nên con quy mạng.
Lúc Đức Thế Tôn thọ trai xong, các Bí - sô cũng vậy, Ngài không rời khỏi tòa. Có vô số trăm ngàn chúng Trời, Rồng, Dạ xoa, Càn - thát - bà, A - tu - la, Ca - lâu - la, Khẩn - nA - la, Ma - hầu - la - già, Nhân, phi nhân... cùng các Bà - lamôn, Trưởng giả, Cư sĩ, ngoại đạo Ni - càn - đà, cho đến đồng nữ Thiện Vô Độc và quyến thuộc, vợ con trưởng giả Mô - thi - la, đông đảo như vậy cùng tập trung chung quanh Đức Phật để nghe thuyết pháp.
Bấy giờ Đức Thế Tôn vì đại chúng, tùy theo căn cơ diễn nói về pháp môn Tứ đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Khi Đức Phật giảng pháp môn này, trong đám ngoại đạo có người nhờ thiện căn thành thục, nên nghe pháp hoan hỷ, sinh tâm tin tưởng thanh tịnh quy y Thế Tôn, tùy theo nhận thức của mình, đều được lợi ích. Lại có chúng sinh được trụ ở Noãn vị, có người được trụ ở Đảnh vị, có người được trụ ở Nhẫn vị, có người đắc quả Tư - đà - hàm, có người đắc quả A - na - hàm, có người đắc quả A - la - hán. Trưởng giả Mô - thi - la nghe Phật thuyết pháp, phát tâm thanh tịnh, theo sự nhận thức của mình cũng được lợi ích. Đồng nữ Thiện Vô Độc nhờ thiện căn kiếp trước và được nghe thuyết pháp nên đắc quả Tu - đà - hoàn.
Khi đó các Bí - sô đều bạch Phật:
–Thưa Thế Tôn, lành thay! Hy hữu thay! Đồng nữ Thiện Vô Độc này đúng là Thiện tri thức. Do người nữ ấy mà nhiều người đạt được lợi ích. Cô ấy đã có thể thi hành được các Phật sự lớn.
Đức Phật dạy:
–Này các Bí - sô, các ông nên biết, đồng nữ Thiện Vô Độc này chẳng phải chỉ hiện nay trong giáo pháp của Ta là Thiện tri thức thực hiện Phật sự, mà vị ấy đã ở trong Phật pháp đời quá khứ là Thiện tri thức từng hướng dẫn người khác thi hành Phật sự. Các ông hãy lắng nghe, Ta sẽ nói lược qua về việc đó.
Các Bí - sô vâng lời Phật, lắng nghe.
Đức Phật dạy:
–Này các Bí - sô, trong đời quá khứ, khi loài người sống thọ tới hai vạn tuổi, có Đức Phật ra đời hiệu là Cadiếp Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Một lúc nọ, Đức Phật du hóa ở vườn Lộc dã, chốn tiên nhân đọa xứ, nước Ba - la - nại, cùng với chúng Bí - sô. Nước ấy có vua tên Ai Mẫn, nhà vua đầy đủ phước đức lớn, dùng chánh pháp trị dân. Vua có một người con gái khi sinh ra tự nhiên trên đỉnh đầu có mái tóc vàng kim dài mượt, vì vậy đặt tên cô ta là Kim Man (tóc vàng dài mượt). Nhà vua rất yêu mến vị công chúa này, ra lệnh cho hậu phi, cung tần, quyến thuộc phải hết sức nuôi dưỡng, hầu hạ cho đến khi trưởng thành. Công chúa nhờ sức thiện căn từ kiếp trước, nên rất mến chuộng Phật pháp. Cô ta nghe Đức Phật hiện ở trong vườn Lộc dã, liền cùng với năm trăm phi tần, quyến thuộc hộ vệ đi đến vườn ấy để chiêm ngưỡng làm lễ Đức Thế Tôn. Đến nơi, công chúa chí thành đầu mặt lạy sát chân Thế Tôn. Đức Phật tùy theo căn cơ mà giảng giải pháp yếu. Công chúa nghe pháp rồi, sinh tâm tin tưởng thanh tịnh, hướng về Đức Phật bạch:
–Con từ hôm nay cho đến trọn đời, xin luôn dâng cúng các thứ ẩm thực, y phục, ngọa cụ, y dược lên Thế Tôn.
Công chúa thưa bày như thế xong, luôn làm đúng như lời, thường đem tứ sự cúng dường Thế Tôn. Bấy giờ vua Ai Mẫn, vào một đêm nọ thấy mười điềm mộng:
Mộng thấy con voi lớn từ song cửa sổ đi ra, lọt được thân nhưng đuôi còn kẹt nơi song cửa.
Mộng thấy một người khát nước nhưng quay lưng lại giếng nước, người này thà chịu khát chứ không lấy nước uống.
Mộng thấy một người đem ngọc quý của mình đổi lấy lương khô.
Mộng thấy có người dùng gỗ thơm chiên - đàn đổi lấy gỗ thường.
Mộng thấy có một vườn cây hoa trái sum suê, bỗng bị bão lớn thổi tới làm rụng hư nát.
Mộng thấy có các con voi nhỏ rượt đuổi voi lớn chạy đi nơi khác.
Mộng thấy có một con khỉ lớn thân thể dính phẩn dơ, chạy lung tung bốn phía làm bẩn các con khỉ khác, khiến chúng đều xa lánh.
Mộng thấy có một con khỉ ngồi trên tòa, các khỉ khác đều làm lễ quán đỉnh.
Mộng thấy một tấm vải trắng, có mười tám người đều giành một phần nhỏ về mình mà tấm vải không rách. Mộng thấy có nhiều người tụ tập lại một chỗ cùng nhau tranh cãi lý luận về thị phi.
Đấy là mười giấc mộng nhà vua đã thấy. Sau khi thức dậy, nhà vua suy nghĩ: “Ta thấy mười giấc mộng này nếu không là điềm lành thì chẳng phải là có hại đến mạng sống của ta hay sao?”. Nghĩ như vậy, đến sáng sớm, nhà vua triệu tập quần thần để bàn về giấc mộng kia. Quần thần không thể xác định sự lành hay dữ của nó. Nhà vua cho triệu một vị Bà - la - môn đến và kể lại đủ mười giấc mộng, bảo vị này xét đoán sự việc lành dữ. Vị Bà - la - môn tâu:
–Đại vương nên biết, điềm mộng này không lành, xin nhà vua cho làm phép để phá tan sự chẳng lành ấy.
Nhà vua hỏi:
–Phép của khanh thế nào?
Bà - la - môn tâu:
–Nhà vua rất yêu mến công chúa Kim Man, tất cả dân chúng cũng quý trọng yêu mến công chúa, ngay lúc này xin nhà vua đem con gái yêu dấu ra phá hủy thân thể cho chảy máu để làm sông suối, mổ bụng lấy ruột nối lại làm ấp xóm làng. Nếu làm phép này thì phá tan được sự chẳng lành kia. Nếu không làm như vậy thì mạng sống nhà vua bị tổn giảm.
Nhà vua nói:
–Ta thà chịu chết, không thể nào làm hại tính mạng của công chúa Kim Man.
Nói rõ như vậy xong, nhà vua hồi cung, im lặng chống tay lên gò má, không vui. Công chúa Kim Man thấy vua ngồi im lặng, có dáng ưu sầu, bèn đến trước nhà vua tâu:
–Phụ vương, vì sao có dáng điệu ưu sầu, suy nghĩ về việc gì, xin phụ vương cho con biết.
Nhà vua kể lại cho Kim Man nghe về mười điềm mộng và lời đoán của vị Bà - la - môn. Công chúa nghe xong, tâu vua:
–Trong vườn Lộc dã cách đây không xa, có Đức Cadiếp Như Lai Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, cùng chúng Bí - sô đang tập họp. Phụ vương cùng con nên đến đó, đem giấc mộng hỏi Phật. Đức Phật là Bậc Nhất Thiết Trí, chắc chắn có thể nói cho phụ vương rõ về sự việc thiện ác.
Vua Ai Mẫn theo lời con, cùng công chúa Kim Man và quần thần tùy tùng, đến vườn Lộc dã, chỗ Đức Phật Thế Tôn. Đến nơi, vua đầu mặt lạy sát chân Đức Thế Tôn rồi ngồi qua một bên. Công chúa Kim Man cùng quần thần tùy tùng cũng đều làm lễ và ngồi qua một bên. Lúc ấy có các Bà - la - môn, Trưởng giả, Cư sĩ tại pháp hội. Đức Phật vì vua Ai Mẫn và chúng hội, tùy nghi thuyết pháp giảng dạy, làm cho họ đều hoan hỷ. Sau đó, Đức Phật im lặng. Vua Ai Mẫn liền rời chỗ ngồi, đến đứng trước Phật, đem mười giấc mộng lần lượt kể ra. Sau khi kể, vua thưa:
–Con vì sự việc này, sợ mạng sống bị tổn thất, ngưỡng mong Đức Phật từ bi vì con dạy bảo.
Đức Phật dạy:
–Này Đại vương, đừng sợ! Đừng sợ! Giấc mộng đó không phải là việc của vua, cũng không phải là sự việc thiện ác trong hiện nay, thọ mạng của vua cũng không hề bị mất mát. Đại vương nên biết, trong đời tương lai này, khi loài người sống còn một trăm tuổi, sẽ có Đức Phật ra đời hiệu Thích - ca Mâu - ni đầy đủ mười tôn hiệu. Đức Phật ấy trụ thế diễn thuyết giáo pháp hóa độ chúng sinh, theo sự ứng hóa của Ngài. Sau khi làm Phật sự, Ngài nhập Niết - bàn. Giáo pháp để lại có các Bí - sô đệ tử thi hành các sự việc. Giấc mộng hiện nay của vua là hình tướng báo trước về sự việc ấy. Nay Ta vì vua lần lượt giảng giải:
Như giấc mộng vua thấy một con voi lớn theo song cửa sổ đi ra, thân hình tuy lọt nhưng đuôi còn dính lại nơi song, đó là sau khi Đức Phật kia nhập Niết - bàn, trong giáo pháp để lại có nam nữ Bà - la - môn, Trưởng giả, Cư sĩ từ bỏ quyến thuộc, xuất gia học đạo. Tuy đã xuất gia, tâm vẫn còn tham đắm danh lợi thế tục, không thể giải thoát.
Như vua mộng thấy có người khát nước nhưng quay lưng lại giếng, người này thà chịu khát chứ không múc nước uống, đó là giáo pháp của Đức Phật kia để lại có các Bí - sô đã vì các Bà - la - môn, Trưởng giả, Cư sĩ thuyết giảng kinh điển của Phật, nhưng những Bà - la - môn... ấy tâm biếng nhác nên đã bỏ qua, không ưa nghe và ghi nhận.
Như nhà vua mộng thấy đem ngọc thật đổi lấy lương khô, đó là trong giáo pháp của Đức Phật kia để lại, có các đệ tử Bí - sô không chịu y theo kinh điển chính thống để tu tập như năm Căn, năm Lực, bảy Giác chi, tám Chánh đạo, thiền định, các pháp xuất thế gian, lại ưa thích tu tập theo kinh sách, chú thuật, ca vịnh, kệ tụng của thế gian.
Như nhà vua mộng thấy có người dùng gỗ thơm chiên - đàn đổi lấy gỗ thường, đó là trong giáo pháp của Đức Phật kia để lại, có các Bí - sô đem kinh điển của Phật, đổi lấy kinh sách thế gian, điển tịch của ngoại đạo.
Như nhà vua mộng thấy có các con voi nhỏ đuổi voi chúa chạy nhanh đi nơi khác, đó là trong giáo pháp của Đức Phật kia để lại, có các Bí - sô phá giới, vô đức thấy những Bí - sô trì giới có đức, cùng nhau ganh ghét, bày ra phương tiện tìm cách đuổi vị kia đi xa.
Như nhà vua mộng thấy có vườn cây hoa trái sum suê, bỗng bị bão lớn thổi tới, làm rơi rụng tan nát, đó là trong giáo pháp để lại của Đức Phật kia, có các Bí - sô thanh tịnh, trì giới, đủ uy đức, đa văn ở yên trong Tăng - già - lam - ma, lại bị chúng Bí - sô thô ác không tu thân, không tu tâm, không tu tuệ, cùng nhau hủy hoại tàn pháp Tăng - già - lam - ma kia, pháp hoại như thế rồi, lại làm cho sự nghiệp tối thắng của các Bí - sô thanh tịnh cũng bị hủy hoại.
Như nhà vua mộng thấy có con khỉ lớn thân dính phẩn uế, xông xáo bốn hướng làm bẩn các khỉ khác khiến chúng đều lẫn tránh, đó là trong giáo pháp của Đức Phật kia để lại, có các Bí - sô phá giới, tự phá tịnh giới không biết hổ thẹn, lại lai vãng đến trước vua quan có tín tâm thanh tịnh để hủy báng các Bí - sô trì giới có đức. Như nhà vua mộng thấy có con khỉ ngồi một chỗ, các con khỉ khác thì làm lễ Quán đảnh, đó là trong giáo pháp của Đức Phật kia để lại, có Bí - sô không tu thắng hạnh, không đức độ, chúng cùng nhau tự dựng lên làm thượng thủ trong Tăng, thống nhiếp các vị có đức độ, tu tập thắng hạnh.
Như nhà vua mộng thấy một tấm vải trắng có mười tám người cùng nhau giành giật từng phần nhỏ mà tấm vải không bị rách, đó là trong giáo pháp của Đức Phật kia để lại, có các đệ tử dị kiến hưng khởi tranh chấp, đem giáo pháp Đức Phật phân làm mười tám bộ, tuy nhiên, giáo pháp của Đức Phật cũng không bị phá hoại.
Như nhà vua mộng thấy có nhiều nhóm người tụ tập một chỗ cùng nhau nghị luận tranh cãi về việc đúng sai, đó là trong giáo pháp của Đức Phật kia để lại, có các Bí-sô tụ tập lại để nghị luận về những việc danh tiếng lợi dưỡng trong thế gian, do nhân duyên ấy cùng nhau tranh giành, không còn tịch tĩnh, dần dần làm cho giáo pháp thanh tịnh của Đức Thế Tôn bị tiêu diệt.
Này Đại vương, mười điềm mộng ấy không phải là việc của nhà vua, thế nên đừng lo sợ về các hiện tượng đó, hãy an tâm vì mạng sống không sao cả.
Khi vua Ai Mẫn nghe Đức Phật giải về điềm mộng rồi, tâm rất hoan hỷ, đảnh lễ nơi chân Phật, trở về vương cung.
Này các Bí - sô, Đức Như Lai Ca - diếp đã vì vua Ai Mẫn giảng về điềm mộng xong, lại vì chúng hội thuyết pháp Tứ đế. Khi ấy, trong hội có tám vạn bốn ngàn người đều được tiếp cận chân lý, thu hoạch lợi ích. Này các Bí-sô, ý các ông nghĩ sao? Công chúa Kim Man trong giáo pháp của Đức Phật kia, vì vua Ai Mẫn làm Thiện tri thức, tạo lập Phật sự, nào phải người xa lạ, nay chính là đồng nữ Thiện Vô Độc.
Này các Bí - sô, vì vậy nên biết rằng, đồng nữ Thiện Vô Độc đã là Thiện tri thức trong giáo pháp của Đức Phật quá khứ. Nay trong giáo pháp của Ta cũng làm Thiện tri thức cho nhiều người, khiến họ đều được lợi ích.
Các Bí - sô lại bạch Đức Phật:
–Thưa Thế Tôn, công chúa Kim Man trong thời Đức Phật Ca - diếp, vì nhân duyên gì khi sinh ra, trên đầu tự nhiên có mái tóc vàng kim, lại do nhân duyên gì sinh vào vương cung, thọ hưởng giàu sang an lạc.
Đức Phật dạy:
–Này các Bí - sô, công chúa Kim Man vào thời quá khứ là cô gái nghèo ở nước Ba - la - nại. Cô ta đi khắp mọi nơi xin vật trang trí và bột thơm, đem về trang trí và thoa bột thơm lên tháp một vị Phật Duyên giác, sinh tâm thanh tịnh phát lời thệ nguyện: “Nguyện tôi nhờ vào thiện căn này đời đời sinh ở đâu, trên đỉnh đầu có tóc vàng kim, sinh trong nhà đại phú giàu sang tự tại tận lực thi hành các Phật sự”. Này các Bí - sô, cô gái nghèo thời ấy là công chúa Kim Man trong giáo pháp của Đức Phật Ca - diếp. Nhờ vào thiện căn và diệu lực của đại thệ nguyện kia, trong năm trăm đời, cô ta sinh vào bất kỳ chỗ nào, tự nhiên nơi đỉnh đầu đều có tóc vàng kim. Này các Bí - sô, do vậy hiện nay đồng nữ Thiện Vô Độc nhờ vào thiện căn và sức đại nguyện của quá khứ, được sinh vào gia đình giàu có của trưởng giả Cấp Cô Độc, khéo hướng dẫn thi hành Phật sự. Vậy phải biết rằng, quyết định thiện nghiệp thì chắc chắn có thiện báo, trong tất cả mọi thời và tất cả mọi nơi, không hề bị tan mất. Vô số nghiệp nhân và vô số quả báo kia, như cảnh giới của đại địa, tính chất nó cứng chắc, không phải như tính chất lưu động ẩm ướt nơi thủy, hỏa, phong giới. Như vậy, uẩn, xứ, giới... chúng đều khác nhau. Tất cả chúng sinh tạo nghiệp thiện ác, cũng như vậy. Những loại nghiệp nhân sai biệt khác nhau, nên các loại quả báo không phải chỉ có một. Giả sử trải qua đến trăm kiếp, thì pháp nhân quả cũng nhất định không mất.
Đức Phật dạy:
–Này các Bí - sô, thế nên các thiện nam, thiện nữ, cần phải đối với Phật, Pháp, Tăng sinh lòng tin sâu xa thanh tịnh, tôn trọng cung kính; đối với kinh điển ấy luôn tin chắc chắn và thọ trì, truyền bá khắp nơi, như lý tu hành. Này các Bí - sô, phải tu học như vậy.
Khi Đức Thế Tôn đã vì các Bí - sô nói về nhân duyên quá khứ của đồng nữ Thiện Vô Độc như trên. Ngài lại vì đồng nữ Thiện Vô Độc, quyến thuộc của trưởng giả Môthi - la, cho đến các Bà - la - môn, Trưởng giả, Cư sĩ trong thành Phước tăng cùng tất cả Trời, người, đại chúng khác, tùy căn cơ của họ mà thuyết giảng chánh pháp, khiến họ đều được lợi ích. Bấy giờ Đức Thế Tôn và chúng Bí - sô ngay giữa hội ấy bèn ẩn thân biến mất, đến vườn Kỳ - đà Cấp cô độc, nước Xá - vệ thì hiện thân lại như cũ.
Đức Phật nói kinh này xong, đồng nữ Thiện Vô Độc, trưởng giả, các quyến thuộc, các Bí - sô..., tất cả đại chúng nghe Đức Phật giảng dạy, đều rất hoan hỷ, tín thọ phụng hành.
❑