TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG KINH

BỘ A HÀM

SỐ 125 - KINH TĂNG NHẤT A-HÀM

Hán dịch: Đời Đông Tấn, Tam tạng Cù-đàm Tăng-già-đề-bà, người nước Kế Tân.

Phẩm 30: TU-ĐÀ

Kinh số 1

Nghe như vầy:

Một thời Đức Phật ở trong núi Ba-sa[1] nước Ma-kiệt cùng chúng năm trăm đại Tỳ-kheo. Bấy giờ, vào lúc sáng sớm, Thế Tôn ra ngoài tịnh thất kinh hành. Lúc đó, Sa-di Tu-đà kinh hành theo sau Thế Tôn. Bấy giờ Thế Tôn quay lại hỏi Sa-di:

–Nay Ta muốn hỏi nghĩa ông. Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ!

Sa-di Tu-đà đáp:

–Kính vâng, Thế Tôn!

Thế Tôn bảo:

–Có sắc thường và sắc vô thường, chúng là một nghĩa hay là nhiều nghĩa?

Sa-di Tu-đà bạch Phật:

–Có sắc thường và sắc vô thường, nghĩa này nhiều, chẳng phải một nghĩa. Sở dĩ như vậy là vì sắc thường ở trong và sắc vô thường ở ngoài, vì vậy cho nên nghĩa chúng có nhiều, chẳng phải là một.

Thế Tôn bảo:

–Lành thay, lành thay! Tu-đà, như những lời ông đã khéo nói nghĩa này. Sắc thường, sắc vô thường, nghĩa này nhiều, không phải một nghĩa. Thế nào, Tu-đà, nghĩa hữu lậu, nghĩa vô lậu, là một nghĩa hay nhiều nghĩa?

Sa-di Tu-đà thưa:

–Nghĩa hữu lậu, nghĩa vô lậu, là nhiều, không phải một nghĩa. Sở dĩ như vậy là vì nghĩa hữu lậu là kết sử sinh tử, nghĩa vô lậu là pháp Niết-bàn. Vì vậy cho nên nghĩa có nhiều, không phải một nghĩa.

Thế Tôn bảo:

–Lành thay, lành thay! Tu-đà, như những gì ông đã nói. Hữu lậu là sinh tử, vô lậu là Niết-bàn. Thế Tôn lại hỏi:

–Pháp tụ, pháp tán, là một nghĩa hay là nhiều nghĩa?

Sa-di Tu-đà bạch Phật rằng:

–Sắc của pháp tụ, sắc của pháp tán, nghĩa này là nhiều, không phải một nghĩa. Sở dĩ như vậy là vì sắc của pháp tụ là thân tứ đại; sắc của pháp tán là khổ tận đế. Vì vậy nên nói nghĩa có nhiều, không phải một nghĩa.

Thế Tôn bảo:

–Lành thay, lành thay! Tu-đà, như những gì ông đã nói. Sắc của pháp tụ, sắc của pháp tán có nhiều nghĩa, không phải một nghĩa.

Thế nào, Tu-đà, nghĩa thọ[2], nghĩa ấm là một nghĩa hay có nhiều nghĩa?

Sa-di Tu-đà bạch Phật rằng:

–Nghĩa của thọ cùng ấm có nhiều, không phải một nghĩa. Sở dĩ như vậy là vì thọ thì vô hình không thể thấy; ấm thì có sắc có thể thấy. Vì vậy cho nên có nhiều nghĩa, không phải một nghĩa.

Thế Tôn bảo rằng:

–Lành thay, lành thay! Tu-đà, như những gì ông đã nói. Nghĩa của thọ, của ấm; có nhiều nghĩa, chẳng phải một.

Thế Tôn lại hỏi:

–Có tự, không có tự[3], có nhiều nghĩa không phải một nghĩa.

Sa-di bạch Phật:

–Hữu tự, vô tự có nhiều nghĩa, chẳng phải một nghĩa. Sở dĩ như vậy là vì có tự là kết sinh tử, không có tự là Niết-bàn. Cho nên nói có nhiều nghĩa, chẳng phải một nghĩa. Thế Tôn bảo rằng:

–Lành thay, lành thay! Tu-đà, như những gì ông đã nói. Có tự là sinh tử, không có tự là Niếtbàn. Thế Tôn lại hỏi:

–Thế nào, Tu-đà, vì sao nói có tự là sinh tử, không có tự là Niết-bàn?

Sa-di bạch Phật:

–Có tự thì có sinh có tử, có chung có thỉ. Không có tự thì không sinh không tử, không chung, không thỉ.

Thế Tôn bảo rằng:

–Lành thay, lành thay! Tu-đà, như những gì ông đã nói. Có tự là pháp sinh tử; không có tự là pháp Niết-bàn. Bấy giờ Thế Tôn bảo Sa-di tiếp:

–Ông khéo nói những lời này. Nay Ta cho phép ông làm đại Tỳ-kheo[4].

Bấy giờ, Thế Tôn trở về giảng đường Phổ tập* bảo các Tỳ-kheo:

–Đất nước Ma-kiệt rất được thiện lợi, nên khiến Sa-di Tu-đà đến đất nước này. Ai đem y phục, đồ ăn thức uống, giường nằm, thuốc men trị bệnh cúng dường cũng sẽ được thiện lợi. Cha mẹ sinh ra ông cũng được thiện lợi, vì đã sinh ra Tỳ-kheo Tu-đà này. Nếu Tỳ-kheo Tu-đà sinh vào gia đình nào, gia đình đó được đại hạnh này. Nay Ta bảo các Tỳ-kheo, hãy học như Tỳ-kheo Tu-đà. Vì sao như vậy? Vì Tỳ-kheo Tu-đà này rất là thông minh, thuyết pháp thông suốt, cũng không khiếp nhược. Cho nên, này các Tỳ-kheo, hãy học như Tỳ-kheo Tu-đà. Các Tỳ-kheo, hãy học điều này như vậy.

Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

Kinh số 2

Nghe như vầy:

Một thời Đức Phật trú tại vườn trúc Ca-la-đà, tại thành La-duyệt cùng chúng năm trăm đại Tỳ-kheo.

Bấy giờ Thế Tôn nói pháp cho vô số chúng vây quanh trước sau. Khi ấy có một trưởng lão Tỳ-kheo ở trong chúng này duỗi chân về phía Thế Tôn mà ngủ. Sa-di Tu-ma-na bấy giờ mới lên tám, ngồi kết già, chú niệm trước mắt, cách Thế Tôn không xa. Bấy giờ Thế Tôn đưa mắt nhìn trưởng lão Tỳ-kheo đang duỗi chân mà ngủ; lại nhìn Sa-di ngồi thẳng tư duy. Thế Tôn sau khi thấy vậy, liền nói kệ này:

Được gọi là trưởng lão
Chưa hẳn do râu tóc
Tuổi tác dù đã lớn
Không khỏi làm việc ngu.
Ai có pháp kiến đế
Không gây hại sinh linh
Xả các hành ô uế
Đó gọi là trưởng lão.
Nay Ta gọi trưởng lão
Không vì xuất gia trước
Ai có nghiệp gốc thiện
Phân biệt nơi chánh hành;
Dù tuổi trẻ ấu niên
Các căn không thủng, sứt
Đó mới gọi trưởng lão
Phân biệt hành chánh pháp.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

–Các ông có thấy trưởng lão duỗi chân mà ngủ không? Các Tỳ-kheo thưa:

–Thật vậy, bạch Thế Tôn, chúng con đều thấy. Thế Tôn bảo:

–Trưởng lão Tỳ-kheo này trong vòng năm trăm năm thường làm thân rồng. Nay mà mạng chung cũng sẽ sinh vào trong loài rồng. Sở dĩ như vậy là vì không có lòng cung kính đối với Phật, Pháp và Thánh chúng, sau khi thân hoại mạng chung sẽ sinh vào loài rồng. Các ngươi có thấy Sa-di Tu-ma-na tuổi vừa lên tám, ngồi thẳng tư duy, cách Ta không xa không? Các Tỳ-kheo thưa:

–Thật vậy, bạch Thế Tôn.

Lúc này, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

–Sa-di này, ngay sau đây bảy ngày sẽ đạt được bốn Thần túc, cùng đắc pháp bốn Đế, được tự tại trong bốn Thiền, khéo tu bốn ý đoạn. Sở dĩ như vậy là vì Sa-di Tu-ma-na này có lòng cung kính đối với Phật, Pháp và Thánh chúng.

Vì vậy cho nên, các Tỳ-kheo hãy luôn luôn siêng năng cung kính Phật, Pháp và Thánh chúng. Các Tỳ-kheo, hãy học điều này như vậy.

Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

Kinh số 3

Nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở trong vườn Kỳ-đà Cấp cô độc, nước Xá-vệ.

Bấy giờ Thế Tôn cùng với một ngàn chúng hai trăm năm mươi đại Tỳ-kheo cu hội. Bấy giờ, có trưởng giả tên A-na-bân-để* lắm tiền nhiều của, vàng bạc, trân bảo, xa cừ, mã não, trân châu, hổ phách, thủy tinh, lưu ly, voi ngựa, trâu dê, nô tỳ, tôi tớ không thể kể hết. Lúc ấy trong thành Mãn phú[5] [6]

có trưởng giả tên Mãn Tài cũng lắm tiền nhiều của, xa cừ, mã não, trân châu, hổ phách, thủy tinh, lưu ly, voi ngựa, trâu dê, nô tỳ, tôi tớ không thể điếm hết. Thuở nhỏ ông là bạn cũ tốt của A-na-bân-để, cùng thương kính, chưa từng quên nhau. Trưởng giả A-na-bân-để thường xuyên có mấy ngàn vạn hàng hóa trân quý để mua bán trong thành Mãn phú kia, nhờ Trưởng giả Mãn Tài quản lý, kinh doanh. Trưởng giả Mãn Tài cũng có mấy ngàn vạn hàng hóa trân quý để mua bán tại trong thành Xá-vệ, nhờ Trưởng giả A-na-bân-để quản lý, kinh doanh.

Bấy giờ, A-na-bân-để có người con gái tên là Tu-ma-đề[7], nhan sắc xinh đẹp như màu hoa đào, hiếm có trên đời. Trưởng giả Mãn Tài có một ít việc đến thành Xá-vệ, đến nhà Trưởng giả A-nabân-để. Đến nơi, ông ngồi trên chỗ ngồi dọn sẵn. Khi ấy cô gái Tu-ma-đề từ trong phòng riêng ra. Trước tiên, cô quỳ lạy cha mẹ, sau quỳ lạy Trưởng giả Mãn Tài, rồi về phòng riêng lại.

Trưởng giả Mãn Tài sau khi thấy con gái Tuma-đề nhan sắc xinh đẹp, như màu hoa đào hiếm có trên đời, bèn hỏi Trưởng giả A-na-bân-để:

–Đây là con gái nhà ai? A-na-bân-để đáp:

–Cô gái vừa rồi là con đẻ của tôi.

Trưởng giả Mãn Tài nói:

–Tôi có đứa con trai nhỏ chưa có hôn ước. Có thể làm dâu nhà tôi được không?

Trưởng giả A-na-bân-để liền đáp:

–Việc này không nên.

Trưởng giả Mãn Tài nói:

–Vì những gì, mà việc này không nên? Vì dòng họ hay vì của cải?

Trưởng giả A-na-bân-để đáp:

–Dòng họ, của cải đều tương xứng. Nhưng việc ông thờ phụng thần linh không giống với tôi. Con gái tôi thờ Phật, đệ tử Thích-ca. Còn các ông thờ dị học ngoại đạo. Vì vậy cho nên không theo ý ông được.

Trưởng giả Mãn Tài nói:

–Việc thờ phụng của chúng tôi, chúng tôi sẽ tế tự riêng. Việc thờ ai của con gái ngài, cô ấy sẽ tự cúng dường riêng.

Trưởng giả A-na-bân-để đáp:

–Con gái tôi nếu phải gả cho nhà ông, tài bảo bỏ ra không thể kể xiết. Trưởng giả phải bỏ ra tài bảo không thể kể hết.

Trưởng giả Mãn Tài nói:

–Nay ông đòi bao nhiêu tài bảo?

Trưởng giả A-na-bân-để đáp: –Nay tôi cần sáu vạn lượng vàng.

Trưởng giả Mãn Tài liền trao ngay cho sáu vạn lượng vàng. Trưởng giả A-na-bân-để lại tự nghĩ: “Ta đã tìm cách từ khước trước, nhưng vẫn không thể ngăn cản được.” Ông nói với trưởng giả kia rằng:

–Nếu tôi gả con gái, tôi phải đi hỏi Phật. Nếu Thế Tôn có dạy bảo điều gì, tôi sẽ làm theo.

Bấy giờ, Trưởng giả A-na-bân-để lấy cớ có công việc cần đi một lát. Ông ra khỏi cửa, đi đến chỗ Thế Tôn. Đến nơi, đảnh lễ sát chân Phật, rồi đứng qua một bên. Bấy giờ Trưởng giả A-na-bânđể bạch Thế Tôn:[8]

–Con gái Tu-ma-đề của con được Trưởng giả Mãn Tài trong thành Mãn phú cầu hôn. Con có nên gả hay không nên gả?

Thế Tôn bảo:

–Nếu con gái Tu-ma-đề về nước kia, sẽ mang lại nhiều lợi ích, độ thoát nhân dân không thể kể hết.

Bấy giờ, Trưởng giả A-na-bân-để tự nghĩ: “Thế Tôn đã dùng trí phương tiện bảo nên gả sang nước kia.” Rồi ông đảnh lễ sát chân Phật, nhiễu quanh Phật ba vòng và cáo lui. Về đến nhà, ông sai bày biện các loại đồ ăn thức uống ngon ngọt thiết đãi Trưởng giả Mãn Tài.

Trưởng giả Mãn Tài nói:

–Tôi đâu cần sự ăn uống này. Nhưng ông có gả con gái cho con tôi?

Trưởng giả A-na-bân-để nói: –Đã muốn vậy, tôi thuận theo ý ông. Mười lăm ngày sau bảo con trai ông đến đây.

Nói những lời như vậy xong, cáo lui từ giã.

Bấy giờ, Trưởng giả Mãn Tài sửa soạn đầy đủ những vật cần thiết, đi xe bảo vũ đến trong khoảng tám mươi do-diên. Trưởng giả A-na-bân-để lại trang điểm cho con gái mình, tắm gội xông hương, đi xe bảo vũ đưa con gái đi đón con trai Trưởng giả Mãn Tài. Giữa đường gặp nhau. Khi Trưởng giả Mãn Tài nhận được cô gái, liền đưa về trong thành Mãn phú.

Bấy giờ, nhân dân trong thành Mãn phú có ra hạn chế: “Trong thành này, nếu có người nữ nào đem gả cho người nước khác thì sẽ chịu hình phạt nặng. Nếu lại đến nước khác hỏi vợ đem vào nước thì cũng chịu hình phạt nặng.” Trong nước ấy có sáu ngàn Phạm chí. Người trong nước đều tuân theo hạn chế này. Có điều lệ: “Nếu ai phạm luật thì phải đãi cơm cho sáu ngàn Phạm chí.

Bấy giờ, Trưởng giả Mãn Tài tự biết mình đã phạm luật, nên đãi cơm cho sáu ngàn Phạm chí.

Song món ăn của các Phạm chí đều dùng thịt heo, canh thịt heo và rượu được chưng lại. Y phục của các Phạm chí thì hoặc bằng dạ trắng, hoặc bằng lông thú. Nhưng theo pháp của các Phạm chí, khi vào nước thì phải lấy y vắt lên vai phải, để lộ nửa thân. Bấy giờ, trưởng giả bạch:

–Đã đến giờ, cơm nước đã đủ.

Khi ấy, sáu ngàn Phạm chí đều vắt xiêm y một bên, để lộ nửa thân, vào nhà trưởng giả. Trưởng giả thấy các Phạm chí đến, ông bò trên đầu gối đến trước đón và làm lễ cung kính. Phạm chí lớn nhất đưa tay khen tốt, ôm cổ trưởng giả, rồi đến chỗ ngồi. Các Phạm chí khác tùy theo thứ lớp mà ngồi. Sau khi sáu ngàn Phạm chí đã định chỗ ngồi xong, Trưởng giả bảo cô Tu-ma-đề rằng: –Con hãy sửa soạn ra làm lễ thầy chúng ta. Cô Tu-ma-đề thưa:

–Thôi, thôi, đại gia! Con không thể làm lễ những vị khỏa thân được.

Trưởng giả nói:

–Đây không phải là những vị khỏa thân, không biết xấu hổ. Nhưng những y phục mặc này là pháp phục của họ.

Cô Tu-ma-đề thưa:

–Đây là những người không biết hổ thẹn, tất cả đều để lộ thân hình ra bên ngoài. Có dùng pháp phục gì đâu. Xin trưởng giả nghe con. Thế Tôn cũng nói có hai nhân duyên của sự mà người đời quý là có tàm, có quý. Nếu không có hai sự này, năm thân: Cha, mẹ, anh, em, dòng họ, thảy đều không phân biệt người trên, kẻ dưới. Nếu như vậy cũng đồng như các loài gà, chó, heo, dê, lừa, la, đều không có tôn ti. Do có hai pháp này ở thế gian nên biết có tôn ti trật tự. Nhưng những người này bỏ hai pháp này, giống như cùng loại với gà, chó, heo, dê, lừa, ngựa. Thật tình không thể làm lễ họ được.

Chồng Tu-ma-đề bảo vợ: –Nay cô hãy đứng lên làm lễ thầy chúng ta.

Những vị này đều là trời mà tôi phụng sự.

Cô Tu-ma-đề đáp:

–Hãy thôi đi công tử. Tôi không thể làm lễ những người lõa hình không biết hổ thẹn này. Nay tôi là người làm lễ lừa, chó sao!

Người lại chồng nói:

–Thôi, thôi, quý nữ, chớ nói vậy. Hãy giữ miệng cô, chớ có xúc phạm. Họ cũng chẳng phải lừa, lại chẳng phải dối gạt, nhưng những thứ họ đang mặc chính là pháp y.

Bấy giờ, cô Tu-ma-đề rơi lệ khóc lóc, nhan sắc biến đổi và nói như vầy:

–Cha mẹ năm thân của tôi thà chịu hủy hoại thân hình, phân thây năm đoạn[9] mà chết, nhất định không rơi vào tà kiến này.

Lúc đó, sáu ngàn Phạm chí, đồng lớn tiếng nói:

–Thôi, thôi, trưởng giả! Có gì khiến con tiện tỳ này mắng chửi như vậy? Nếu có thỉnh mời, đúng giờ hãy bày biện đồ ăn thức uống ra đi!

Trưởng giả cùng chồng Tu-ma-đề bấy giờ bày biện thịt heo, canh thịt heo, rượu chưng lại, khiến sáu ngàn Phạm chí đều ăn đầy đủ. Các Phạm chí ăn xong, bàn luận chút ít, rồi đứng lên ra về.

Khi ấy Trưởng giả Mãn Tài ở trên lầu cao, phiền oán sầu hận, ngồi tư duy một mình: “Nay ta đem cô gái này về liền bị phá nhà, không khác nào làm nhục nhà cửa ta.” Trong lúc đó, có Phạm chí tên Tu-bạt, đã đạt ngũ thông và đắc bốn Thiền. Trưởng giả Mãn Tài tỏ ra quý trọng. Phạm chí Tubạt tự nghĩ: “Ta cùng trưởng giả xa nhau đã lâu ngày, nay hãy ghé thăm.” Phạm chí vào thành Mãn phú đến nhà trưởng giả, hỏi người giữ cửa rằng:

–Trưởng giả nay đang làm gì?

Người giữ cửa đáp:

–Trưởng giả ở trên lầu, đang rất sầu ưu. Không thể nói chuyện. Phạm chí bèn đi tắt lên trên lầu, gặp trưởng giả.

Phạm chí hỏi trưởng giả:

–Cớ gì mà sầu ưu đến như vậy? Không phải bị huyện quan, trộm cướp, tai biến nước lửa gây ra chăng? Cũng không phải trong nhà không hòa thuận chăng?

Trưởng giả đáp:

–Không có tai biến huyện quan, trộm cướp. Nhưng trong gia đình có chút chuyện nhỏ không như ý.

Phạm chí hỏi:

–Mong được nghe câu chuyện ấy và do bởi duyên cớ gì.

Trưởng giả đáp:

–Hôm qua cưới vợ cho con trai, lại phạm luật nước, thân tộc bị nhục. Có mời các thầy đến nhà, bảo vợ con trai ra làm lễ mà nó không vâng lời.

Phạm chí Tu-bạt nói:

–Cưới hỏi gần xa, nhà cô này ở nước nào?

Trưởng giả đáp:

–Cô này là con gái của Trưởng giả A-na-bânđể trong thành Xá-vệ.

Khi Phạm chí Tu-bạt nghe những lời này rồi, ngạc nhiên kinh dị, hai tay bịt tai nói rằng:

–Ối chao! Trưởng giả! Quá kỳ lạ! Chuyện hiếm có! Cô này vẫn còn sống, không tự sát, không gieo mình xuống lầu, thì thật là may lớn. Vì sao? Vì thầy mà cô này phụng thờ đều là người phạm hạnh. Hôm nay mà còn sống thì thật là chuyện lạ!

Trưởng giả nói:

–Tôi nghe những lời của ngài lại muốn phì cười. Vì sao? Ngài là dị học ngoại đạo, tại sao khen ngợi hạnh của Sa-môn dòng họ Thích? thầy của cô này phụng thờ có oai đức gì? Có thần biến gì? Phạm chí đáp:

–Trưởng giả! Muốn nghe thần đức của thầy cô này chăng? Nay tôi sẽ kể sơ nguồn gốc này.

Trưởng giả nói:

–Mong được nghe nói về điều đó.

Phạm chí nói:

–Trước kia, khi sống tại bắc Tuyết sơn, tôi đi khất thực trong nhân gian, được thức ăn rồi, bay đến suối A-nậu-đạt. Lúc trời, rồng, quỷ thần ở đó từ xa thấy tôi đến, đều cầm đao kiếm đến chỗ tôi cùng bảo tôi rằng: “Tiên sĩ Tu-bạt, chớ đến bên suối này, chớ làm bẩn suối này. Nếu không nghe lời ta, ta lấy ngay mạng sống của ông.”

Tôi nghe những lời này, liền đi khỏi suối này không xa mà ăn. Trưởng giả nên biết, Thầy cô này phụng thờ có người đệ tử nhỏ nhất tên là Sa-di Quân-đầu[10]. Sa-di này cũng đến bắc Tuyết sơn này khất thực, bay đến suối A-nậu-đạt, tay cầm y người chết ở nghĩa trang dính đầy máu nhơ. Khi ấy đại thần A-nậu-đạt, trời, rồng, quỷ thần, đều đứng dậy tiến lên cung kính nghênh đón thăm hỏi: “Xin chào thầy của loài người. Ngài có thể ngồi đây. Sa-di Quân-đầu đến bên suối nước.” Lại nữa, Trưởng giả, chính giữa suối nước hiện có cái bàn vàng ròng. Sa-di Quân-đầu lấy y người chết này ngâm vào trong nước, sau đó ngồi ăn. Ăn xong, rửa bát, rồi ngồi kiết già ở trên bàn vàng, chánh thân chánh ý, cột niệm trước mặt, nhập vào Sơ thiền. Từ Sơ thiền xuất, nhập vào Nhị thiền. Từ Nhị thiền xuất, nhập vào Tam thiền. Từ Tam thiền xuất, nhập vào Tứ thiền. Từ Tứ thiền xuất, nhập vào không xứ. Từ không xứ xuất, nhập vào thức xứ. Từ thức xứ xuất, nhập vào bất dụng xứ. Từ bất dụng xứ xuất, nhập vào hữu tưởng vô tưởng xứ. Từ hữu tưởng vô tưởng xứ, nhập vào diệt tận định. Từ diệt tận định xuất, nhập vào diễm quang Tam-muội. Từ diễm quang Tammuội xuất, nhập vào thủy khí Tam-muội. Từ thủy khí Tam-muội xuất, nhập vào diễm quang Tammuội. Kế đó, lại nhập vào diệt tận định, lại nhập vào hữu tưởng vô tưởng xứ Tam-muội, lại nhập bất dụng xứ Tam-muội, lại nhập thức xứ Tammuội, lại nhập không xứ Tam-muội, lại nhập Tứ thiền, lại nhập Tam thiền, lại nhập Nhị thiền, lại nhập Sơ thiền. Từ Sơ thiền xuất mà giặt y người chết. Lúc ấy, trời, rồng, quỷ thần hoặc giúp vò đạp y, hoặc lấy nước, hay lấy nước uống. Giặt y xong, đem phơi nơi chỗ trống. Sau khi thu xếp y xong, Sa-di kia liền bay lên không trung, trở về chỗ ở.

Trưởng giả nên biết, lúc đó tôi chỉ từ xa nhìn thấy chứ không được gần. Thầy của cô này phụng sự, mà đệ tử nhỏ nhất còn có thần lực này, huống chi là những vị đại đệ tử, làm sao ai có thể sánh bằng? Huống chi vị thầy kia là Như Lai Chí Chân Chánh Đẳng Chánh Giác, ai có thể sánh kịp? Xét nghĩa này xong, nên tôi nói: “Thật là kỳ lạ, cô này có thể không tự sát, không dứt mạng căn!”

Lúc đó, trưởng giả nói với Phạm chí rằng:

–Chúng tôi có thể gặp được thầy của cô gái phụng thờ chăng? Phạm chí đáp:

–Có thể hỏi lại cô ấy.

Lúc đó trưởng giả hỏi cô Tu-ma-đề: –Nay tôi muốn được gặp thầy con phụng thờ. Con có thể thỉnh về đây được không?

Sau khi nghe xong, cô vui mừng hớn hở, không tự kiềm chế được, liền nói:

–Xin chuẩn bị đồ ăn thức uống đầy đủ. Ngày mai Như Lai sẽ đến đây cùng với Tăng Tỳ-kheo.

Trưởng giả bảo:

–Nay con tự mời, ta không biết cách.

Bấy giờ, con gái trưởng giả tắm gội thân thể, tay bưng lò hương lên trên lầu cao, chắp tay hướng về Như Lai mà bạch:

–Nguyện xin Thế Tôn, Đấng Vô Năng kiến đảnh[11], mong quán sát rõ nơi này. Nhưng Thế Tôn không việc gì không biết, không việc gì không xét. Nay con đang ở chỗ nguy khốn này, cúi xin Thế Tôn quán sát rõ cho.

Rồi cô tán thán bằng bài kệ này:

Con mắt Phật quán sát
Thấy khắp nơi thế gian
Hàng phục quỷ, thần vương
Hàng phục quỷ tử mẫu.
Như quỷ ăn người kia
Lấy ngón tay làm chuỗi
Sau lại muốn hại mẹ
Nhưng bị Phật hàng phục.
Lại nơi thành La-duyệt
Voi dữ muốn đến hại
Thấy Phật, tự quy phục
Chư Thiên khen lành thay!
Lại đến nước Mã đề
Gặp long vương hung ác
Thấy lực sĩ Mật tích
Long vương tự quy phục.
Biến hóa kể không hết
Đều đưa vào đạo chánh
Nay con lại gặp nguy
Cúi xin Phật đoái hoài.
Bấy giờ hương như mây
Lơ lửng giữa hư không
Xâm nhập khắp Kỳ hoàn
Hiện ở trước Như Lai.
Chư Thích giữa hư không
Vui mừng mà làm lễ
Lại thấy hương trước mặt
Tu-ma-đề thỉnh cầu.
Mưa xuống nhiều loại hoa
Không làm sao kể hết
Tràn khắp rừng Kỳ hoàn
Như Lai cười phóng quang.

Bấy giờ, A-nan thấy trong Kỳ hoàn có mùi hương vi diệu, bèn đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ sát chân, rồi ngồi qua một bên. A-nan bạch Thế Tôn:

–Cúi xin Thế Tôn, đây là loại hương gì mà lan khắp trong tinh xá Kỳ hoàn?

Thế Tôn bảo:

–Hương này là do sứ giả của Phật mang điều thỉnh cầu của cô Tu-ma-đề trong thành Mãn phú. Nay ông hãy gọi các Tỳ-kheo họp hết một chỗ mà bốc xá-la[12] và ra lệnh này: “Các Tỳ-kheo A-la-hán lậu tận, đắc thần túc hãy nhận thẻ. Sáng ngày mai hãy đến trong thành Mãn phú nhận lời thỉnh của Tu-ma-đề.”

A-nan bạch Phật:

–Kính vâng Thế Tôn!

A-nan nhận vâng lời Thế Tôn, họp các Tỳ-kheo tại giảng đường Phổ hội[13], nói:

–Các vị nào đắc đạo A-la-hán thì hãy lấy thẻ. Ngày mai đến nhận hỉnh cầu của Tu-ma-đề. Ngay lúc đó, một Thượng tọa trong chúng Tăng, tên là Quân-đầu Ba-hán[14] đắc Tu-đà-hoàn, kết sử chưa diệt tận, không được thần túc. Thượng tọa này tự nghĩ: “Nay trong đại chúng ta là hàng thượng tọa lớn, mà kết sử lại chưa dứt, chưa được thần túc. Ngày mai ta không được đến trong thành Mãn phú thọ thực. Song trong chúng của Như Lai, vị Sa-di hạ tọa nhỏ nhất tên là Quân-đầu, người có thần túc, có đại oai lực, được đến đó thọ thỉnh. Nay ta cũng nên đến kia thọ thỉnh.

Bấy giờ thượng tọa dùng tâm thanh tịnh, nơi địa vị hữu học mà nhận thẻ. Lúc đó Thế Tôn, bằng Thiên nhãn thanh tịnh, thấy Quân-đầu Ba-hán đang tại địa vị hữu học mà nhận thẻ, liền được vô học, Thế Tôn liền bảo các Tỳ-kheo:

–Trong đệ tử của ta, người nhận thẻ đệ nhất chính là Tỳ-kheo Quân-đầu Ba-hán vậy. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo thần túc: Đại Mục-kiền-liên, Đại Ca-diếp, A-na-luật, Ly-việt, Tu-bồ-đề, Ưu-tỳ Ca-diếp, Ma-ha Ca-thuậtna, Tôn giả La-vân, Châu-lợi Bàn-đặc, cùng Sa-di Quân-đầu, các vị dùng thần túc đến trong thành kia trước.

Các Tỳ-kheo đáp:

–Kính vâng, Thế Tôn!

Lúc ấy người giúp việc của tăng tên là Càn-trà, sáng sớm hôm sau thân vác chõ lớn bay trên không trung đến thành kia. Lúc đó trưởng giả này cùng dân chúng lên trên lầu cao muốn xem Thế Tôn, từ xa nhìn thấy người giúp việc của tăng thân vác chõ đến. Trưởng giả bèn nói với cô gái bằng bài kệ này:

Người áo trắng, tóc

Thân hiện như gió cuốn
Mình trần, nhanh như gió
Thầy con đó, phải chăng?

Cô đáp lại bằng bài kệ:

Chẳng phải đệ tử Phật
Người giúp việc của Phật
Đủ ngũ thông, ba đường
Người này tên Càn-trà.

Bấy giờ người giúp việc là Càn-trà nhiễu quanh thành ba vòng, rồi đến nhà trưởng giả.

Cũng lúc đó Sa-di Quân-đầu hóa làm năm trăm cây hoa có đủ màu sắc, thảy đều nở rộ, màu sắc rất đẹp, như hoa sen Ưu-bát. Những loại hoa như vậy không thể kể hết, tất cả đều được mang đến thành kia. Khi trưởng giả từ xa nhìn thấy Sa-di đến, lại dùng kệ này để hỏi:

Ngần ấy loại bông hoa
Đều ở trong hư không
Lại có người thần túc
Có phải thầy con không?

Bấy giờ cô lại dùng kệ đáp:

Trước, Tu-bạt có nói
Vị Sa-di trên suối
Đó chính là người này
Thầy là Xá-lợi-phất.

Sa-di Quân-đầu khi ấy nhiễu quanh thành ba vòng rồi đến nhà trưởng giả. Cũng lúc đó Tôn giả Bàn-đặc hóa làm năm trăm con bò; lông phủ toàn xanh, ngồi kiết già trên lưng bò, đến thành kia. Khi trưởng giả từ xa nhìn thấy Sa-di đến, lại dùng kệ này để hỏi cô:

Các đàn bò lớn này
Lông phủ toàn màu xanh
Ngồi một mình trên lưng
Đây là thầy con chăng?

Cô lại dùng kệ đáp:

Hay hóa ngàn Tỳ-kheo
Tại trong vườn Kỳ-vực
Tâm thần rất là sáng
Đây gọi là Bàn-đặc.

Tôn giả Châu-lợi Bàn-đặc khi ấy nhiễu quanh thành kia ba vòng, rồi đến nhà trưởng giả.

Cũng lúc đó, La-vân lại hóa làm năm trăm khổng tước đủ các loại màu sắc, ngồi kiết già ở trên, đến thành kia. Trưởng giả trông thấy rồi, lại dùng kệ này để hỏi cô:

Năm trăm khổng tước này
Màu sắc nó thật đẹp
Như đại tướng quân kia
Đây là thầy con chăng?

Thời cô dùng kệ này đáp:

Cấm giới Như Lai lập
Tất cả đều không phạm
Vị ấy nghiêm trì giới
Là La-vân, con Phật.

La-vân khi ấy nhiễu quanh thành ba vòng, rồi đến nhà trưởng giả.

Cũng lúc đó, Tôn giả Ca-thất-na hóa làm năm trăm chim cánh vàng cực kỳ dũng mãnh, ngồi kiết già ở trên, đến thành kia. Sau khi trưởng giả từ xa trông thấy rồi, lại dùng kệ này để hỏi cô:

Năm trăm chim cánh vàng
Cực kỳ là dũng mãnh
Ngồi trên, không sợ hãi
Đây là thầy con chăng?

Thời cô dùng kệ đáp:

Hay hành thở ra vào
Tâm luân chuyển hành thiện
Sức tuệ thật dũng mãnh
Đó là Ca-thất-na.

Tôn giả Ca-thất-na khi ấy nhiễu quanh thành ba vòng, rồi đến nhà trưởng giả.

Cũng lúc đó, Ưu-tỳ Ca-diếp hóa làm năm trăm con rồng, thảy đều có bảy đầu, ngồi kiết già ở trên, đến thành kia. Trưởng giả từ xa trông thấy rồi, lại dùng kệ này hỏi cô:

Nay rồng bảy đầu này
Tướng mạo thật đáng sợ
Người đến nhiều vô kể
Đây là thầy con chăng?

Thời cô đáp:

Thường có ngàn đệ tử
Thần túc hóa Tỳ-sa
Ngài Ưu-tỳ Ca-diếp
Chính thật là người này.

Ưu-tỳ Ca-diếp khi ấy nhiễu quanh thành ba vòng, rồi đến nhà trưởng giả.

Cũng lúc đó, Tôn giả Tu-bồ-đề hóa làm núi lưu ly, rồi vào trong ngồi kiết già, đến thành kia. Sau khi trưởng giả từ xa trông thấy rồi, dùng kệ này hỏi cô:

Núi này thật là đẹp
Làm toàn màu lưu ly
Hiện ngồi ở trong hang
Đây là thầy con chăng?

Thời cô lại dùng kệ này đáp:

Vốn do báo bố thí
Nay được công đức này
Đã thành ruộng phước tốt
Tu-bồ-đề, tỏ Không.

Tu-bồ-đề khi ấy nhiễu quanh thành ba vòng, rồi đến nhà trưởng giả.

Cũng lúc đó, Tôn giả Đại Ca-chiên-diên lại hóa làm năm trăm con thiên nga, màu trắng tinh, đến thành kia. Sau khi trưởng giả từ xa trông thấy rồi, dùng kệ này hỏi cô:

Nay năm trăm thiên nga
Màu sắc đều trắng tinh
Đầy khắp trong hư không
Đây là thầy con chăng?

Thời cô lại dùng kệ này đáp:

Phân biệt nghĩa văn cú
Những điều được Kinh thuyết
Lại giảng tụ kết sử
Đó là Ca-chiên-diên.

Tôn giả đại Ca-chiên-diên khi ấy nhiễu quanh thành ba vòng, rồi đến nhà trưởng giả.

Cũng lúc đó, Ly-việt hóa làm năm trăm con hổ, ngồi ở trên mà đến thành kia. Trưởng giả thấy rồi, dùng kệ này hỏi cô:

Nay, năm trăm hổ này
Toàn lông thật mượt đẹp
Có người ngồi ở trên
Đây là thầy con chăng?

Thời cô lại dùng kệ này đáp:

Trước ở tại Kỳ hoàn
Sáu năm không di động
Tối đệ nhất tọa thiền
Đó gọi là Ly-việt.

Tôn giả Ly-việt khi ấy nhiễu quanh thành ba vòng, rồi đến nhà trưởng giả.

Cũng lúc đó, Tôn giả A-na-luật hóa làm năm trăm sư tử rất là dũng mãnh, ngồi ở trên, đến thành kia. Sau khi trưởng giả thấy rồi, dùng kệ này hỏi cô:

Năm trăm sư tử này
Dũng mãnh thật đáng sợ
Người ngồi ở trên đó
Đây là thầy con chăng?

Thời cô lại dùng kệ đáp:

Lúc sinh, động trời đất
Từ đất hiện trân bảo
Mắt trong sạch không nhơ
A-na-luật, em Phật.

A-na-luật khi ấy nhiễu quanh thành ba vòng, rồi đến nhà trưởng giả.

Cũng lúc đó, Tôn giả Đại Ca-diếp hóa làm năm trăm tuấn mã, lông đuôi đều đỏ, được trang sức vàng bạc, ngồi ở trên và làm cơn mưa hoa trời, đi đến thành kia. Trưởng giả từ xa trông thấy rồi, dùng kệ này hỏi cô:

Ngựa vàng, lông đuôi đỏ
Số chúng có năm trăm
Đó là vua Chuyển luân
Đây là thầy con chăng?

Cô lại dùng kệ đáp:

Hành Đầu-đà đệ nhất
Hay thương kẻ bần cùng
Như Lai nhường nửa tòa
Đó là Đại Ca-diếp.

Đại Ca-diếp khi ấy nhiễu quanh thành ba vòng, rồi đến nhà trưởng giả.

Cũng lúc đó, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên hóa làm năm trăm voi trắng, đều có sáu ngà, trang điểm vàng bạc, bảy chỗ bằng phẳng, ngồi ở trên mà đến, rồi phóng ánh sáng lớn đầy khắp thế giới, đến giữa hư không, tại thành kia, xướng kỹ nhạc vô số kể, mưa rơi các thứ tạp hoa, lại treo phướn lọng giữa hư không, thật là kỳ diệu. Sau khi trưởng giả từ xa thấy rồi, dùng kệ hỏi cô:

Voi trắng có sáu ngà
Ngồi trên như Thiên vương
Nay nghe tiếng kỹ nhạc
Chính Thích-ca Văn chăng.

Thời cô dùng kệ đáp:

Ở trên núi lớn kia
Hàng phục rồng Nan-đà
Vị Thần túc đệ nhất
Gọi là Đại Mục-liên.
Thầy con vẫn chưa lại
Đây là chúng đệ tử
Nay Thánh sư sẽ đến
Ánh sáng chiếu mọi nơi.

Tôn giả Đại Mục-kiền-liên khi ấy nhiễu quanh thành ba vòng, đến nhà trưởng giả.

Cũng lúc ấy, Thế Tôn biết đã đến giờ, đắp Tăng-già-lê, bay trên hư không cách đất bảy nhẫn. Bên phải Như Lai là Tôn giả A-nhã-câu-lân, bên trái Như Lai là Tôn giả Xá-lợi-phất. Khi ấy Tôn giả A-nan nương vào oai thần Phật, tay cầm phất tử ở phía sau Như Lai. Một ngàn hai trăm đệ tử vây quanh trước sau, Như Lai ở giữa các đệ tử có thần túc như: A-nhã-câu-lân hóa làm Nguyệt Thiên tử. Xá-lợi-phất hóa làm Nhật Thiên tử. Các Tỳ-kheo có thần túc khác, hoặc hóa làm Thích Đề-hoàn Nhân, hoặc hóa làm Phạm thiên, hoặc có vị hóa làm Đề-đầu-lợi-tra, Tỳ-lưu-lặc, Tỳ-lưubác-xoa, hoặc hóa làm hình Tỳ-sa-môn lãnh đạo các quỷ thần, hoặc hóa làm hình Chuyển luân thánh vương, hoặc có vị nhập hỏa quang Tammuội, hoặc có vị nhập thủy tinh Tam-muội, hoặc có vị phóng quang, hoặc có vị phun khói, tạo ra các thứ thần túc. Lúc này, bên phải Như Lai Phạm Thiên vương, bên trái Như Lai Thích Đề-hoàn Nhân tay cầm phất tử, phía sau Như Lai lực sĩ Kim cang Mật Tích tay cầm chày Kim cang, phía trên Như Lai ở giữa hư không Tỳ-sa-môn Thiên vương tay cầm lọng bảy báu, vì sợ có bụi bặm bám thân Như Lai. Cùng lúc này, Bà-giá-tuần tay cầm đàn lưu ly tán thán công đức Như Lai. Các thiên thần tất cả đều ở giữa hư không xướng lên ngàn vạn thứ kỹ nhạc, mưa tuôn các thứ hoa trời rải lên Như Lai.

Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc, Trưởng giả A-na-bânđể và nhân dân trong thành Xá-vệ đều thấy Như Lai ở giữa hư không cách mặt đất bảy nhẫn. Thấy vậy tất cả vui mừng hớn hở, không tự kiềm chế được. Lúc ấy, Trưởng giả A-na-bân-để liền nói kệ này:

Như Lai thật thần diệu
Thương dân như con đỏ
Vui thay! Tu-ma-đề
Sẽ nhận pháp Như Lai.

Lúc này vua Ba-tư-nặc cùng Trưởng giả A-nabân-để rải các thứ danh hương và các thư hoa.

Bấy giờ, Thế Tôn dẫn theo các chúng Tỳ-kheo vây quanh trước sau, cùng các Thiên, Thần không thể kể, tựa như phượng hoàng, ở giữa hư không, đi đến thành kia.

Bấy giờ, Bàn-giá-tuần dùng kệ tán thán Phật:

Kết sinh đã diệt tận
Ý niệm không tán loạn
Không bụi nhơ ngăn ngại
Mà vào đất nước kia.
Tâm tánh thật trong sạch
Đoạn ác niệm tà ma
Công đức như biển lớn
Nay vào đất nước kia.
Tướng mạo thật đặc thù
Các sử không tái khởi
Vì kia không tự xứ
Nay vào đất nước kia.
Đã vượt bốn dòng sâu
Thoát khỏi sinh, già, chết
Để đoạn gốc các hữu
Nay vào đất nước kia.

Lúc ấy, Trưởng giả Mãn Tài nhìn thấy Thế Tôn từ xa đi lại, các căn Thế Tôn tịch tĩnh ít có, sạch như vàng ròng của trời; có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp biểu hiện ngoài thân; giống như núi Tu-di vượt trên các núi, cũng như khối vàng tỏa ánh sáng lớn.

Khi ấy trưởng giả dùng kệ hỏi Tu-ma-đề:

Đây là ánh mặt trời
Vẻ này chưa từng thấy
Ngàn vạn ức tia sáng
Chưa dám nhìn thẳng lâu.

Bấy giờ, cô Tu-ma-đề quỳ gối chắp tay hướng về Như Lai, dùng kệ này đáp trưởng giả:

Mặt trời, phi mặt trời
Mà phóng ngàn thứ sáng
Vì tất cả chúng sinh
Đó chính là thầy con.
Đều cùng khen Như Lai
Như trước đã có nói
Nay sẽ được quả lớn
Lại siêng cúng dường hơn.

Trưởng giả Mãn Tài khi ấy quỳ gối phải sát đất, lại dùng kệ khen Như Lai:

Tự quy Đấng Mười Lực
Thể sắc vàng viên quang
Được trời người kính khen
Nay con tự quy y.
Ngài, nay là Nhật vương
Như trăng sáng giữa sao
Để độ người chưa độ
Nay con tự quy y.
Ngài như tượng Thiên đế
Như tâm Từ phạm hạnh
Tự thoát, thoát chúng sinh
Nay con tự quy y.
Tối tôn giữa trời người
Trên vua các quỷ thần
Hàng phục các ngoại đạo
Nay con tự quy y.

Bấy giờ, cô Tu-ma-đề quỳ gối chắp tay, tán thán Thế Tôn:

Tự hàng, hàng phục người
Tự chánh, lại chánh người
Tự độ, độ người dân
Đã giải, lại giải người.
Tự tịnh, khiến người tịnh
Tự soi, soi quần sinh
Không ai không được độ
Dẹp đấu loạn, không tranh.
An trụ cực tịnh khiết
Tâm ý không lay động
Mười Lực thương xót đời
Con kính lễ lần nữa.

Ngài có tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả,* đầy đủ Không, Vô tướng, Vô nguyện[15]. Ở trong cõi dục là tối tôn đệ nhất. Trên tất cả trời. Bảy Thánh tài đầy đủ. Các hàng trời, người, đấng Tự nhiên[16], hàng Phạm sinh[17], cũng không ai bằng, cũng không thể giống tướng mạo. Nay con tự quy y.

Khi ấy, sáu ngàn Phạm chí thấy Thế Tôn tạo ra mọi thần biến như thế, mọi người tự bảo nhau: “Chúng ta nên rời nước này dời đến nước khác. Sa-môn Cù-đàm này đã hàng phục nhân dân trong nước này.” Sáu ngàn Phạm chí lúc đó liền đi ra khỏi nước, không trở lại nước này nữa. Giống như sư tử vua loài thú ra khỏi sơn cốc, nhìn quanh bốn hướng, rồi rống lên ba tiếng mới đi tìm mồi. Các loài thú đều tìm đường bỏ chạy mà không biết chạy đi đâu, bay tìm chỗ núp kín. Hoặc ngay đến voi có thần lực nghe tiếng sư tử chúng cũng tìm đường bỏ chạy không thể tự yên. Vì sao? Vì Sư tử vua loài thú thật có oai thần. Ở đây cũng vậy, sáu ngàn Phạm chí kia nghe tiếng Thế Tôn, thảy đều bỏ chạy, không tự yên được. Vì sao? Vì Sa-môn Cù-đàm có oai lực lớn.

Bấy giờ, Thế Tôn xả thần túc, đi bình thường, vào trong thành Mãn phú. Khi chân Thế Tôn vừa đạp lên ngưỡng cửa, ngay đó trời đất chấn động mạnh. Các chư Thiên tôn thần rải hoa cúng dường. Nhân dân khi thấy dung nhan Thế Tôn các căn tịch tĩnh, có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp hiển hiện, họ liền nói kệ này:

Lưỡng Túc Tôn vi diệu
Phạm chí không dám đương
Vô cớ thờ Phạm chí
Mất Đấng Nhân Trung Tôn.

Thế Tôn khi đến nhà trưởng giả, tới chỗ ngồi mà ngồi. Bấy giờ nhân dân nước kia thật là đông đảo. Nhà trưởng giả lúc này có tám vạn bốn ngàn người dân, tất cả đều vân tập, để nhìn Thế Tôn cùng chúng Tăng, khiến nhà cửa của nhà trưởng giả muốn sụp đổ. Bấy giờ, Thế Tôn nghĩ: “Nhân dân ở đây ắt có gây thiệt hại. Ta nên dùng thần túc khiến cho nhân dân cả nước thấy thân Ta cùng Tăng Tỳ-kheo.

Bấy giờ, Thế Tôn liền hóa nhà cửa trưởng giả, thành sắc lưu ly, trong ngoài thấy nhau, giống như xem châu trong bàn tay. Lúc này cô Tu-ma-đề đến trước Thế Tôn, đảnh lễ sát chân, buồn vui lẫn lộn, liền nói kệ này:

Đấng Nhất Thiết Trí trọn đủ

Độ tận tất cả pháp
Đã đoạn kết dục ái
Nay con tự quy y.
Thà cho cha mẹ con
Hủy hoại đôi mắt con
Chớ để con đến đây
Trong ngũ nghịch, tà kiến.
Xưa tạo duyên ác nào
Nên bị đến nơi này
Như chim vào lưới bẫy
Nguyện dứt kết nghi này.

Bấy giờ, Thế Tôn lại dùng kệ đáp cô rằng:

Nay con chớ lo sầu
Định tĩnh tự mở ý
Cũng đừng khởi tưởng chấp
Nay Như Lai sẽ giảng.
Con vốn không do tội
Mà khiến phải đến đây
Vì quả báo thệ nguyện
Muốn độ chúng sinh này.
Nay hãy nhổ gốc rễ
Không đọa ba đường ác
Hàng ngàn loài chúng sinh
Con sẽ được độ trước.
Ngày nay hãy trừ sạch
Khiến mắt trí tỏ sáng
Khiến cho loài trời người
Thấy con như xem châu.

Cô Tu-ma-đề nghe những lời này xong, vui mừng hớn hở không kiềm được.

Bấy giờ trưởng giả đem người hầu của mình theo cung cấp đồ ăn thức uống, những món ngon ngọt. Thấy Thế Tôn ăn xong, đã dùng nước rửa, bèn lấy một ghế nhỏ ngồi trước Như Lai, cùng các người tùy tùng và tám vạn bốn ngàn chúng đều lần lượt ngồi, hoặc có người tự xưng tên họ mà ngồi. Thế Tôn lần lượt nói các đề tài vi diệu cho trưởng giả và tám vạn bốn ngàn nhân dân kia. Các đề tài luận về giới, luận về thí, luận về sinh Thiên, dục là tưởng bất tịnh, là hữu lậu ô uế, xuất gia là con đường xuất yếu.

Thế Tôn khi thấy trưởng giả và cô Tu-ma-đề cùng tán vạn bốn ngàn nhân dân tâm ý khai mở, nên các pháp Khổ, Tập, Diệt, Đạo mà chư Phật Thế Tôn thường thuyết; Ngài đều thuyết cả cho chúng sinh ở đây. Mọi người ngay trên chỗ ngồi mà sạch hết các trần cấu, được Pháp nhãn thanh tịnh. Giống như vải cực trắng sạch dễ nhuộm màu. Ở đây cũng như vậy, Trưởng giả Mãn Tài, cô Tu-ma-đề và tám vạn bốn ngàn nhân dân sạch hết các trần cấu, được Pháp nhãn thanh tịnh, không còn hồ nghi, được không sợ hãi, thảy đều tự quy y Tam bảo thọ trì ngũ giới. Bấy giờ, cô Tuma-đề ở trước Phật nói kệ này:

Như Lai tai trong suốt
Nghe con gặp khổ này
Giáng thần đến đây rồi
Mọi người được Pháp nhãn.

Thế Tôn nói pháp xong, từ chỗ ngồi đứng dậy, trở về trú xứ. Khi ấy các Tỳ-kheo bạch Phật:

–Cô Tu-ma-đề vốn đã tạo nhân duyên gì mà sinh trong nhà phú quý? Lại tạo nhân duyên gì mà rơi vào nhà tà kiến này? Lại tạo công đức lành nào, nay được pháp nhãn thanh tịnh? Lại tạo công đức nào khiến tám vạn bốn ngàn người đều được pháp nhãn thanh tịnh?

Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

–Quá khứ lâu xa trong Hiền kiếp này, có Phật Ca-diếp, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Chúng Hựu. Ngài ở tại nước Ba-la-nại, đi du hóa nơi này, cùng chúng hai vạn đại Tỳ-kheo.

Bấy giờ, có vua tên Ai Mẫn, có con gái tên Tuma-na. Cô này rất có tâm cung kính hướng về Như Lai Ca-diếp, vâng giữ giới cấm, thường thích bố thí và cúng dường bốn việc. Thế nào là bốn? Một là bố thí, hai là ái kính, ba là lợi người, bốn là đồng lợi[18].

Cô ở chỗ Như Lai Ca-diếp mà tụng pháp cú. Ở trên lầu cao, lớn tiếng tụng tập, phát nguyện rộng lớn này: “Con hằng có pháp bốn thọ[19] này; lại ở trước Như Lai mà tụng pháp cú. Trong đó nếu có chút phước nào, cầu cho con sinh vào chỗ nào, không rơi vào ba đường dữ, cũng không rơi vào nhà nghèo; đời vị lai cũng sẽ lại gặp bậc tối tôn như vầy. Khiến cho con chẳng chuyển đổi thân nữ mà được Pháp nhãn thanh tịnh.” Nhân dân trong thành sau khi nghe vương nữ thệ nguyện như vậy đều cùng tụ tập đến chỗ vương nữ, nói:

–Hôm nay Vương nữ rất là chí tín, tạo các công đức, bốn sự[20] không thiếu: Bố thí, Kiêm ái, Lợi người, Đồng lợi. Lại phát thệ nguyện, mong đời sau gặp bậc như vậy, thuyết pháp cho nghe để được pháp nhãn thanh tịnh. Hôm nay Vương nữ đã phát thệ nguyện, cùng với nhân dân cả nước chúng tôi đồng thời được độ.

Bấy giờ, Vương nữ đáp:

–Tôi đem công đức này cùng thí đến các người. Nếu gặp Như Lai thuyết pháp, sẽ cùng lúc được độ.

Tỳ-kheo, các ông há có nghi sao? Chớ quán sát vậy. Vua Ai Mẫn lúc ấy, nay chính là trưởng giả Tu-đạt. Vương nữ lúc ấy, nay chính là Tu-ma-đề. Nhân dân trong nước lúc ấy, nay chính là tám vạn bốn ngàn chúng. Do thệ nguyện kia, nay gặp thân Ta, nghe pháp đắc đạo; cùng nhân dân kia đều được Pháp nhãn thanh tịnh. Hãy ghi nhớ nhớ phụng hành ý nghĩa này. Vì sao? Vì bốn sự này là ruộng phước tốt nhất. Nếu có Tỳ-kheo nào thân cận bốn sự, liền được bốn Đế đế. Nên cầu phương tiện thành tựu pháp bốn sự. Các Tỳ-kheo, hãy học điều này như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.



[1] . Ba-sa sơn 波 沙 山.

[2] . Thọ, tức thủ hay chấp thủ. Pāli: Upādāna.

[3] . Hữu tự, vô tự 有 字 無 字 ; chưa rõ.

[4] . Cf. Câu-xá 14 (T29n1558, tr. 74c1): Tô-đà-di 蘇 陀 夷 , đắc giới Cụ túc do khéo trả lời. Câu-xá luận ký 14 (T41n1821, tr. 222b25), và Câu-xá luận sớ 14 (T41n1822, tr. 643c23) đều nói, Sa-di Tô-đà-di mới bảy tuổi đắc giới Cụ túc, do khéo trả lời. Phật hỏi Tô-đà-di: “Nhà ngươi ở đâu?” Tô-đà-di đáp: “Ba cõi không nhà.” Skt. Sodāyin (Koza-bhāwya). Không tìm thấy đồng nhất trong văn hệ Pāli.

[5] . Mãn phú 滿 富 , xem cht. dưới.

[6] . Mãn Tài 滿 財. No 130: Trưởng giả Mô-thi-la 謨 尸 羅 , thành Phước tăng 福增. No 129 nói ông này là quốc vương của Nan quốc 難 國 王 , tên là Phân-pha-đàn 分 陂 檀。Cf. Dvy. 402, tên thành phố này là Puṇḍavardhana, mà No 130 đọc là Puṇyavardhana.

[7] . Tu-ma-đề 修 摩 提。 No 130: Thiện Vô Độc 善 無 毒。No 129: Tam-ma-kiệt 三 摩 竭。Dvy. 402, cô này tên là Sumāgadhā. Pāli: Cūḷa-Subhaddhā.

[8] . Truyền thuyết Pāli. Sớ giải Dhp. iii. 465, nói ông là phú hộ Ugga ở thị trấn Ugganagara. Sớ giải A. IV 24 Kāḷakārāmasutta, sớ giải nói, ông này là Kāḷaka ở Sāketa.

[9] . Để bản: Ngũ khắc 五 刻。TNM: Ngũ ngoan. Hình phạt chặt hai tay, hai chân và chém đầu.

[10] . Quân-đầu Sa-di. Xem cht. kinh số 9 phẩm 26 trên.

[11] Vô năng kiến đảnh còn gọi là Vô kiến đảnh tướng, một trong tám mươi tùy hình hảo, vẻ đẹp của Phật.

[12] Phát thẻ nhận phần đi phó trai. Pāli: Salākā.

[13] . Phổ hội giảng đường 普 會 , tức trên kia nói là Phổ tập giảng đường.

[14] Quân-đầu Ba-hán 君 頭 波 漢 , trên kia phiên âm là Quân-đầu-bà-mạc. Xem cht. kinh số 3 phẩm 4 trên.

[15] . Để bản: Không, Vô tướng, Nguyện; có nhảy sót.

[16] . Tự nhiên 自 然。Skt. Svayaṃbhū, từ khác chỉ Phạm thiên (Brahman), tự sinh. Skt.

[17] . Phạm sinh 梵 生。Skt. Brahmaja, được sinh bởi Brahman, chỉ hàng chư Thiên thượng đẳng.

[18] . Bốn Nhiếp sự; xem cht. dưới.

[19] . Tứ thọ chi pháp 四 受 之 法 , được hiểu là bốn pháp nhiếp thọ, tức bốn Nhiếp pháp hay nhiếp sự. Pāli: Cattāri saṃgahavatthūni.

[20] . Tứ sự 四 事 , cũng tức bốn Nhiếp sự. Xem cht. trên.


[Đầu trang][Mục lục Tăng Nhất A-hàm][Mục lục bộ A-hàm][Mục lục tổng quát]