TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG KINH

BỘ A HÀM

SỐ 125 - KINH TĂNG NHẤT A-HÀM

Hán dịch: Đời Đông Tấn, Tam tạng Cù-đàm Tăng-già-đề-bà, người nước Kế Tân.

Phẩm 4: ĐỆ TỬ[1]

Kinh số 1

Nghe như vầy:

Một thời Đức Phật ở trong vườn Kỳ-đà Cấp cô độc, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

–Tỳ-kheo đệ nhất trong hàng Thanh văn của Ta, người có lòng nhân rộng rãi, hiểu biết rộng, hay khéo khuyến hóa, nuôi dưỡng Thánh chúng không mất oai nghi, đó là Tỳ-kheo A-nhã-câulân[2].

Nhận pháp vị đầu tiên, tư duy về bốn Đế cũng là Tỳ-kheo A-nhã-câu-lân.

Hay khéo khuyến bảo hướng dẫn tạo phước và độ mọi người, chính là Tỳ-kheo Ưu-đà-di[3]. Trong hàng mau thành tựu thần thông, nửa chừng không hối tiếc, đó chính là Tỳ-kheo Ma-ha-nam[4].

Thường bay giữa hư không, chân không đạp đất, chính là Tỳ-kheo Thiện Trửu.

Gặp dịp thì giáo hóa, ý không cầu vinh, đó chính là Tỳ-kheo Bà-phá[5].

Sống vui trên trời, không ở trong loài người, chính là Tỳ-kheo Ngưu Tích[6].

Hằng quán tưởng bất tịnh ghê tởm, đó chính là Tỳ-kheo Thiện Thắng.

Nuôi dưỡng Thánh chúng, bốn sự cúng dường, chính là Tỳ-kheo Ưu-lưu-tỳ Ca-diếp[7].

Tâm ý lặng lẽ, hàng phục các kết, chính là Tỳ-kheo Giang Ca-diếp[8].

Quán rõ các pháp, không bị đắm trước, chính là Tỳ-kheo Tượng Ca-diếp[9].

Kệ tóm tắt:

Câu-lân, Đà-di, Nam
Thiện Trửu, Bà thứ năm
Ngưu Tích cùng Thiện Thắng
Ba anh em Ca-diếp.

Kinh số 2

Tỳ-kheo đệ nhất trong hàng Thanh văn của ta có oai nghi đoan chánh, bước đi khoan thai, chính là Tỳ-kheo Mã Sư[10].

Trí tuệ không cùng, giải tỏ các nghi, chính là Tỳ-kheo Xá-lợi-phất[11].

Thần túc nhẹ bay đến tận mười phương, chính là Tỳ-kheo Đại Mục-kiền-liên[12]. Dũng mãnh tinh tấn, cam chịu khổ hành, chính là Tỳ-kheo Nhị Thập Ức Nhĩ[13].

Thực hành mười hai hạnh Đầu-đà khó hành được, chính là Tỳ-kheo Đại Ca-diếp[14].

Đệ nhất Thiên nhãn, thấy tận cõi mười phương, chính là Tỳ-kheo A-na-luật[15].

Ngồi thiền nhập định, tâm không tán loạn, chính là Tỳ-kheo Ly-viết[16].

Thường khuyên mọi người làm gương bố thí, thiết lập trai giảng[17], chính là Tỳ-kheo Đà-la-bàma-la[18].

Tạo lập phòng ốc, nhà cửa cho Tăng mười phương, chính là Tỳ-kheo Tiểu Đà-la-bà-ma-la[19]. Dòng họ tôn quý xuất gia học đạo, chính là Tỳ-kheo La-tra-bà-la[20].

Khéo phân biệt nghĩa, phô diễn đạo giáo, chính là Tỳ-kheo Đại Ca-chiên-diên[21].

Kệ tóm tắt:

Ca-chiên-diên. Mã Sư,
Xá-lợi-phất, Câu-luật,
Nhĩ, Ca-diếp; A-na
luật, Ly-viết, Ma-la,
Tra, Chiên-diên.

Kinh số 3

Tỳ-kheo đệ nhất trong hàng Thanh văn của Ta xứng đáng nhận thẻ[22], không trái phép cấm, chính là Tỳ-kheo Quân-đầu-bà-mạc[23]. Hàng phục ngoại đạo, thực hành chánh pháp, chính là Tỳ-kheo Tân-đầu-lô[24].

Chăm sóc bệnh tật, cung cấp thuốc thang, chính là Tỳ-kheo Sấm[25]. Bốn sự cúng dường, y phục đồ ăn thức uống, cũng là Tỳ-kheo Sấm*. Hay làm kệ tụng, tán thán đức của Như Lai, chính là Tỳ-kheo Bằng-kỳ-xá[26]. Lời lẽ biện luận rõ ràng trôi chảy, cũng là Tỳ-kheo Bằng-kỳ-xá.

Được bốn biện tài, trả lời khi bị vấn nạn, chính là Tỳ-kheo Ma-ha Câu-hy-la[27].

Sống nơi vắng vẻ thanh tịnh, không thích gần gũi con người, chính là Tỳ-kheo Kiên Lao. Khất thực nhẫn nại, không tránh nóng lạnh, chính là Tỳ-kheo Nan-đề[28].

Tĩnh tọa một nơi, chuyên tâm nhớ đạo, chính là Tỳ-kheo Kim-tỳ-la[29].

Ngồi một lần ăn một bữa[30], không đứng lên di chuyển chỗ, chính là Tỳ-kheo Thi-la.

Giữ gìn ba y, không rời khi ăn nghỉ, chính là Tỳ-kheo Phù-di.

Kệ tóm tắt:

Quân-đầu, Tân-đầu-lô,
Thức, Bằng, Câu-hy-la;
Kiên Lao, cùng Nan-đề,
Kim-tỳ, Thi-la, Di.

Kinh số 4

Tỳ-kheo đệ nhất trong hàng Thanh văn của Ta về tọa thiền dưới bóng cây, ý không di chuyển, chính là Tỳ-kheo Hồ nghi Ly-viết[31].

Khổ thân ngồi giữa trời, không tránh nắng mưa, chính là Tỳ-kheo Bà-tha.

Vui một mình nơi vắng vẻ, chuyên tâm tư duy, chính là Tỳ-kheo Đà-tô. Khoác y năm mảnh[32], không mặc đồ tốt đẹp, chính là Tỳ-kheo Ni-bà.

Thường thích nơi gò mả, không ở nơi gần người, chính là Tỳ-kheo Ưu-đa-la. Thường ngồi nệm cỏ, ban ngày làm phước độ người, chính là Tỳ-kheo Lô-hê-ninh.

Không nói chuyện với người, nhìn xuống đất mà đi, chính là Tỳ-kheo Ưu-kiềm-ma-ni-giang. Ngồi dậy, bước đi thường ở trong Tam-muội, chính là Tỳ-kheo San-đề[33].

Thích du hành nước xa, dạy dỗ mọi người, chính là Tỳ-kheo Đàm-ma-lưu-chi.

Ưa họp Thánh chúng, bàn luận pháp vị, chính là Tỳ-kheo Ca-lệ.

Kệ tóm tắt:

Hồ nghi, Bà-tha, Ly,
Đà-tô, Bà, Ưu-đa;
Lô-hê, Ưu-ca-ma,
Tức, Đàm-ma-lưu, Lệ.

Kinh số 5

Tỳ-kheo đệ nhất trong hàng Thanh văn của Ta có thọ mạng lâu dài, quyết không chết yểu, chính là Tỳ-kheo Bà-câu-la[34].

Thường thích chỗ nhàn cư, không thích ở giữa đám đông, cũng chính là Tỳ-kheo Bà-câu-la. Hay nói pháp rộng rãi, phân biệt nghĩa lý, chính là Tỳ-kheo Mãn Nguyện Tử[35].

Vâng giữ giới luật, không điều xúc phạm, chính là Tỳ-kheo Ưu-ba-ly[36].

Được tín giải thoát, ý không do dự, chính là Tỳ-kheo Bà-ca-lợi[37].

Thân thể to lớn, đẹp đẽ khác hẳn thế gian, chính là Tỳ-kheo Nan-đà[38].

Các căn tịch tĩnh, tâm không biến dịch, cũng chính là Tỳ-kheo Nan-đà.

Biện tài nhạy bén, giải thông nghi trệ cho người, chính là Tỳ-kheo Bà-đà.

Hay nói rộng nghĩa lý, không có trái nghịch, chính là Tỳ-kheo Tư-ni.

Thích mặc áo tốt, hành vốn thanh tịnh, chính là Tỳ-kheo Thiên Tu-bồ-đề.

Thường thích dạy dỗ những kẻ hậu học, chính là Tỳ-kheo Nan-đà-ca[39].

Khéo dạy cấm giới cho Tỳ-kheo-ni, chính là Tỳ-kheo Tu-ma-na.

Kệ tóm tắt:

Bà-câu, Mãn, Ba-ly,
Bà-ca-lợi, Nan-đà,
Đà, Ni, Tu-bồ-đề,
Nan-đà, Tu-ma-na.

Kinh số 6

Tỳ-kheo đệ nhất trong hàng Thanh văn của Ta có công đức tràn đầy, nhu yếu không thiếu, chính là Tỳ-kheo Thi-bà-la[40].

Đầy đủ các hành pháp đạo phẩm, chính là Tỳ-kheo Ưu-ba-tiên Ca-lan-đà Tư.[41].

Mọi điều nói ra đều vui hòa, không làm thương tổn ý người, chính là Tỳ-kheo Bà-đà-tiên.

Tu tập An-ban, tư duy bất tịnh ghê tởm, chính là Tỳ-kheo Ma-ha Ca-diên-na. Chấp ngã vô thường, tâm không có tưởng, chính là Tỳ-kheo Ưu-đầu-bàn.

Hay luận bàn về mọi thứ, làm vui tâm thức, chính là Tỳ-kheo Câu-ma-la Ca-diếp[42].

Mặc áo xấu tệ, mà không gì hổ thẹn, chính là Tỳ-kheo Diện Vương[43].

Không hủy phạm cấm giới, đọc tụng không lười, chính là Tỳ-kheo La-vân[44].

Dùng sức thần túc, hay tự ẩn mình, chính là Tỳ-kheo Bàn-đặc[45].

Hay thay hình đổi dạng, tạo mọi thứ biến hóa, chính là Tỳ-kheo Châu-lợi Bàn-đặc[46].

Kệ tóm tắt:

Thi-bà, Ưu-ba-tiên,
Bà-đà, Ca-diên-na,
Ưu-đầu, Vương, Ca-diếp,
La-vân, hai Bàn-đặc.

Kinh số 7

Tỳ-kheo đệ nhất trong hàng Thanh văn của Ta thuộc hào tộc phú quý, thiên tánh nhu hòa, chính là Tỳ-kheo Thích Vương[47].

Khất thực không chán đủ, giáo hóa không cùng, chính là Tỳ-kheo Bà-đề-bà-la.

Khí lực cường thạnh, không gì sợ khó, cũng là Tỳ-kheo Bà-đề-bà-la.

Âm thanh trong suốt vang đến Phạm thiên, chính là Tỳ-kheo La-bà-na-bà-đề[48].

Thân thể thơm tinh khiết tỏa ra bốn phía, chính là Tỳ-kheo Ương-ca-xà.

Tỳ-kheo đệ nhất trong hàng Thanh văn của Ta, biết thời, rõ vật, chỗ đến không nghi, chỗ nhớ không quên, nghe nhiều xa rộng, khả năng phụng sự bậc trên, chính là Tỳ-kheo A-nan.

Phục sức trang nghiêm, nhìn bóng bước đi, chính là Tỳ-kheo Ca-trì-lợi. Các vua kính hầu, quần thần cung kính, chính là Tỳ-kheo Nguyệt Quang.

Trời, người phụng sự, sáng nào cũng hầu thăm, chính là Tỳ-kheo Thâu-đề.

Đã bỏ hình người, tướng mạo giống trời, cũng là Tỳ-kheo Thâu-đề.

Bậc Thầy hướng dẫn chư Thiên, chỉ trao chánh pháp, chính là Tỳ-kheo Thiên.

Tự nhớ mọi việc vô số kiếp đời trước, chính là Tỳ-kheo Quả Y[49].

Kệ tóm tắt:

Thích Vương, Bà-đề-ba
La-bà, Ương-ca-xà
A-nan, Ca, Nguyệt Quang
Thâu-đề, Thiên, Bà-ê.

Kinh số 8

Tỳ-kheo đệ nhất trong hàng Thanh văn của ta có thể tánh lợi căn, trí tuệ sâu xa, chính là Tỳ-kheo Ương-quật-ma[50].

Thường hàng tà nghiệp của phục ma, ngoại đạo, chính là Tỳ-kheo Tăng-ca-ma.

Nhập thủy Tam-muội không lấy làm khó, chính là Tỳ-kheo Chất-đa Xá-lợi-phất.

Những hiểu biết rộng rãi, là được mọi người kính nhớ, cũng là Tỳ-kheo Chất-đa Xá-lợi-phất.

Nhập hỏa Tam-muội chiếu khắp mười phương, chính là Tỳ-kheo Thiện Lai[51].

Hay hàng phục rồng khiến phụng sự Tam bao, chính là Tỳ-kheo Na-la-đà[52].

Hàng phục Quỷ thần cải ác tu thiện, chính là Tỳ-kheo Quỷ-đà[53].

Hàng phục Càn-đạp-hòa khiến cần thực hành hạnh lành, chính là Tỳ-kheo Tỳ-lô-giá.

Thường vui với định Không, phân biệt nghĩa không, chính là Tỳ-kheo Tu-bồ-đề.

Chí ở nơi không vắng, nghiệp đức vi diệu, cũng là Tỳ-kheo Tu-bồ-đề[54].

Thực hành định vô tưởng, trừ bỏ các niệm, chính là Tỳ-kheo Kỳ-lợi-ma-nan [55].

Nhập định vô nguyện, ý không tán loạn, chính là Tỳ-kheo Diệm Thạnh.

Kệ tóm tắt:

Ương-quật, Tăng-ca-ma
Chất-đa, Bà[56], Na-la
Duyệt-xoa[57], Phù-lô-giá
Thiện nghiệp cùng Ma-nan.

Kinh số 9

Tỳ-kheo đệ nhất trong hàng Thanh văn của Ta nhập Từ Tam-muội, tâm không phẫn nộ, chính là Tỳ-kheo Phạm-ma-đạt[58].

Nhập Bi Tam-muội, thành tựu bản nghiệp, chính là Tỳ-kheo Tu-thâm[59].

Được đức của thiện hành[60], không có các thứ tưởng, chính là Tỳ-kheo Sa-di-đà.

Thường giữ gìn tâm, ý không lìa bỏ, chính là Tỳ-kheo Dược-ba-ca.

Hành Diệm thạnh Tam-muội, trọn không giải đãi, chính là Tỳ-kheo Đàm-di. Ngôn ngữ thô lỗ, không kể bậc tôn quý, chính là Tỳ-kheo Tỷ-lợi-đà-bà-giá.

Nhập Kim quang Tam-muội, cũng là Tỳ-kheo Tỷ-lợi-đà-bà-giá.

Nhập Kim cang Tam-muội, không thể bị phá hoại, chính là Tỳ-kheo Vô Úy.

Những gì nói ra dứt khoát rõ ràng, trong lòng không khiếp nhược, chính là Tỳ-kheo Tu-nê-đa. Thường thích nơi tịch tĩnh, ý không thường loạn, chính là Tỳ-kheo Đà-ma. Nghĩa thì không ai thắng, không hề bị khuất phục, chính là Tỳ-kheo Tu-la-đà.

Kệ tóm tắt:

Phạm-đạt, Tu-thâm-ma
Sa-di, Dược, Đàm-di
Tỳ-lợi-đà, Vô Úy
Tu-nê-đà, Tu-la.

Kinh số 10

Tỳ-kheo đệ nhất trong hàng Thanh văn của ta, hiểu rõ tinh tú, biết trước cát hung, chính là Tỳ-kheo Na-già-ba-la.

Thường vui Tam-muội, thiền duyệt làm thức ăn, chính là Tỳ-kheo Bà-tư-tra.

Thường lấy Hỷ làm thức ăn, chính là Tỳ-kheo Tu-dạ-xà.

Thường hành nhẫn nhục, vật đối đến tâm không khởi, chính là Tỳ-kheo Mãn Nguyện Thạnh Minh.

Tu tập Nhật quang Tam-muội, chính là Tỳ-kheo Di-hề.

Rõ phép toán thuật, không có sai lầm, chính là Tỳ-kheo Ni-câu-lưu.

Trí tuệ phân biệt các loại, thường không quên mất, chính là Tỳ-kheo Lộc-đầu.

Đắc Điện lôi Tam-muội, lòng không sợ hãi, chính là Tỳ-kheo Địa.

Quán rõ gốc rễ của thân, chính là Tỳ-kheo Đầu-na.

Thủ chứng được Lậu tận thông tối hậu, chính là Tỳ-kheo Tu-bạt[61].

Kệ tóm tắt:

Na-ca, Tra, Xá-na
Di-hề, Ni-câu-lưu
Lộc-đầu, Địa, Đầu-na
Tu-bạt ở sau cùng.

Một trăm vị Hiền thánh này cần được giảng rộng.



[1] . Tham chiếu Pāli, A. 1. 14. Etadaggavaggo.

[2] . Pāli: Aññà Koṇḍañña.

[3] Pāli: Udāyī.

[4] . Pāli: Mahānāma.

[5] . Pāli: Vappa.

[6] . Pāli: Gavampati.

[7] . Pāli: Uruvela-Kassapa.

[8] . Pāli: Nadì-Kassapa.

[9] Pāli: Gayā-Kassapa.

[10] . Pāli: Assajit.

[11] . Pāli: Sāriputta.

[12] . Pāli: Mahā-Moggallāna.

[13] . Pāli: Soṇakolivīsa.

[14] . Pāli: Mahā-Kassapa.

[15] Pāli: Anuruddha.

[16] Pāli: Revata.

[17] So sánh Pāli: Senāsanapaññapakānaṃ, người phân phối chỗ nằm cho Tăng. Xem Tứ Phần 1 (T22n1428, tr. 587a25tt).

[18] Pāli: Dabba-Mallaputta.

[19] . Xem cht. 18 trên.

[20] . Pāli: Raṭṭhapāla. Nhưng A.1. 24 nói, quý tộc xuất gia (uccākulikānaṃ) là Bhaddhiya Kāligodhāyaputta. Còn Raṭṭhapāla là đệ nhất trong những Tỳ-kheo xuất gia bởi tín tâm kiên định (saddhāpabbajitānaṃ yadidam raṭṭhapālo).

[21] Pāli: Mahā-Kaccāna.

[22] Hán: Thọ trù 籌 (Pāli: Salāka), đây chỉ thẻ chia phần ăn cho các Tỳ-kheo.

[23] Pāli: Kuṇḍadhāna. AA. i. 146 giải thích: Kuṇḍadhāna là người nhận thẻ số một trong buổi cúng dường của

Mahā-Subhaddā, con gái trưởng của ông Cấp cô độc, trong ngày cưới chồng.

[24] Pali: Piṇḍola-Bhāradvāja. A.i. 24: Đệ nhất sư tử hống (sìhanādiknaṃ).

[25] .  Sấm 讖 ; để bản: Thức 識 . Có là Pāli, Khema, được nói đến trong S.iii. 126.

[26] Pāli: Vaṅgīsa.

[27] Mahā-Koṭṭhita.

[28] Pāli: Nandiya.

[29] . Pāli: Kimbila.

[30] Chỉ hành Đầu-đà nhất tọa thực. Pāli: Ekāsanika.

[31] Pāli: Kaṅkhā-Revata.

[32] Ngũ nạp y 五 納 衣; xem Tứ Phần 41, T22n1428, tr. 864a6. Đây chỉ hạnh Đầu-đà trì y phấn tảo. Pāli: Pāṃsukūlika.

[33] . San-đề 刪 提 ; bản Tống: Na-đề 那 提 . Trong kệ tóm tắt, gọi là Tức 息 , cho thấy Pāli: Sānti. Nhưng chưa tìm thấy đâu trong tư liệu Pāli nào.

[34] . Pāli: Bakkula.

[35] . Pāli: Puṇṇa Mantāniputta.

[36] . Pāli: Upāli.

[37] . Pāli: Vakkalī.

[38] . Pāli: Nanda.

[39] Pāli: Nandaka. A.i. 25: Đệ nhất giáo thọ Tỳ-kheo-ni (bhikkunovādakānaṃ) là Nandaka.

[40] . Pāli, A.1. 24: Sīvala, lợi đắc đệ nhất (lābhīnaṃ).

[41] Có lẽ Pāli, Upasena Vaṅgantaputta, em trai ngài Xá-lợi-phất, hành giả Đầu-đà. A.i. 24 nói, Upasena này là đệ nhất trong các Tỳ-kheo oai nghiêm (samantapāsādikānaṃ).

[42] . A.i. 24: Đệ nhất có lời nói làm đẹp lòng người (cittakathikānaṃ) là Kumārakassapa.

[43] . Tham chiếu, A.i.25: Thọ trì y phục thô xấu (lūkhacīvaradhārānaṃ) là Mogharājāti.

[44] . A.i. 24: Rāhula, đệ nhất siêng học (sikkhākāmānaṃ).

[45] . Để bản: Ban-thố 般 兔. TNM: Bàn-đặc 槃 特 . Tham chiếu, A.i. 24: Mahā-Panthaka, thiện xả hồi chuyển các tưởng (saññvivaṭṭakusalānaṃ).

[46] . Pāli: Cūḷa-Panthaka, A.i.24: Đệ nhất biến hóa ý thành thân (manomayaṃ kāyaṃ abhinimmiantānaṃ).

[47] Có lẽ chỉ Pāli Baddhiya Kāligodhāputta, nguyên là ông hoàng họ Thích. Xem cht. kinh số 2, phẩm 4 trên.

[48] Tham chiếu, A.i.23: Đệ nhất có âm thanh dịu dàng (mañjussaràư) là Lakuṇḍka Bhaddiya.

[49] . Có lẽ Pāli: Bāhiya-Dāricìriya āhiya, người lấy vỏ cây làm áo). Nhưng, A.i. 24 nói ngài là đệ nhất thần thông nhanh chóng (khipPābhiññānaṃ), trong khi đó, đệ nhất nhớ nhiều đời trước (pubbenivāsaṃ anussarantānaṃ) là Sobhita.

[50] Pāli: Aṅgulimāla.

[51] . Pāli, A.i. 25: Đệ nhất thiện xảo với hỏa giới Tam-muội là Sāgata (tejodhātukusalānaṃ yadidaṃ sāgato). Bản Hán đọc là Sugāta.

[52] . Có thể đồng nhất với Trưởng lão Nārada của Pāli, được kể trong các sớ giải của Petavatthu (Ngạ quỷ sự) và Vimāvatthu (Thiên cung sự).

[53] . Có thể đồng nhất với Trưởng lão Bhūta của Pāli, người mà tất cả các anh chị đều bị một con quỷ Dạ-xoa ăn thịt.

[54] A.i. 24: Đệ nhất lâm trụ (a-lan-nhã hạnh hay vô tránh hạnh), và đệ nhất ứng cúng, là Tu-bồ-đề (araíavihārinām, dakkhiịeyyaṃ, Subhūti).

[55] Đồng nhất với Girimānanda của Pāli.

[56] . Để bản: Bà 婆 . TNM: Thiện 善 (lai).

[57] . Âm khác của Dạ-xoa (Pāli: Yakkha, Skt. Yakwa), liên hệ đến Quỷ-đà, xem cht. 53 trên.

[58] . Có thể đồng nhất với Trưởng lão Brahmadatta của Pāli.

[59] . Pāli: Susīma, nguyên là xuất gia ngoại đạo, được đề cập nhiều chỗ trong Tương ưng bộ.

[60] Để bản: Hỷ hành 喜 行. TNM: Thiện hành 善 行 .

[61] Subhadda, được hóa độ cuối cùng trước khi Phật nhập Niết-bàn.


[Đầu trang][Mục lục Tăng Nhất A-hàm][Mục lục bộ A-hàm][Mục lục tổng quát]