TẠNG KINH
Hán dịch: Đời Đông Tấn, Tam tạng Cù-đàm Tăng-già-đề-bà, người nước Kế Tân.
Nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Kỳ - đà Cấp cô độc, nước Xá - vệ. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ - kheo:
–Có sáu loại sức mạnh phàm thường. Sao gọi là sáu?
1. Trẻ con dùng tiếng khóc làm sức mạnh, muốn nói điều gì cốt trước phải khóc.
2. Người nữ dùng sân hận làm sức mạnh, nổi sân hận rồi sau đó mới nói.
3. Sa - môn, Bà - la - môn dùng nhẫn nhục làm sức mạnh, thường nghĩ tự hạ mình và hạ mình đối với người sau đó mới trình bày.
4. Quốc vương dùng kiêu ngạo làm sức mạnh, dùng thế lực cường hào để nói chuyện.
5. Song A - la - hán dùng sự tinh chuyên làm sức mạnh để nói chuyện.
6. Chư Phật Thế Tôn thành tựu đại Từ bi, dùng đại Bi làm sức mạnh để làm lợi khắp chúng sinh.
Này các Tỳ - kheo, đó gọi là có sáu sức mạnh đời thường này. Cho nên, các Tỳ - kheo hãy học điều này như vậy.
Bấy giờ các Tỳ - kheo nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Kỳ - đà Cấp cô độc, nước Xá - vệ. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ - kheo:
–Các ông hãy tư duy về tưởng vô thường, phát triển tưởng vô thường, đoạn hết ái Dục giới, ái Sắc giới, ái Vô sắc giới, cũng đoạn vô minh, kiêu mạn. Giống như lấy lửa đốt cây cỏ, cháy sạch hết không còn lưu dấu vết nào. Ở đây cũng như vậy, nếu tu tưởng vô thường, dứt sạch Dục ái, Sắc ái và Vô sắc ái, vô minh, kiêu ngạo, viễn không còn tàn dư. Vì sao? Vì khi Tỳ - kheo tu tưởng vô thường thì không có tâm dục. Do không có tâm dục nên có thể phân biệt Pháp, tư duy nghĩa của nó, không có sầu lo khổ não. Do tư duy nghĩa pháp thì tu hành không còn ngu si, sai lầm. Nếu thấy có ai tranh cãi, vị ấy liền tự nghĩ: “Các Hiền sĩ này không tu tưởng vô thường, không phát triển tưởng vô thường cho nên đưa đến tranh cãi này. Vị ấy do tranh cãi, không quán nghĩa của nó. Do không quán nghĩa của nó nên tâm mê lầm. Vị ấy đã chấp vào sai lầm này nên khi chết rơi vào trong ba đường dữ là ngạ quỷ, súc sinh, địa ngục. Cho nên, các Tỳ - kheo, hãy tu tưởng vô thường và phát triển tưởng vô thường, liền không còn tưởng sân hận, ngu si, cũng có thể quán pháp và quán nghĩa của nó. Nếu sau khi chết sẽ sinh về ba đường lành trời, người và dẫn đến Niết - bàn.
Các Tỳ - kheo, hãy học điều này như vậy.
Bấy giờ các Tỳ - kheo nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Nghe như vầy:
Một thời Phật ở tại bên bờ sông Ưu - ca - chi[3]. Bấy giờ, Thế Tôn đến dưới một gốc cây, tự trải tọa cụ mà ngồi, chánh thân, chánh ý, buộc niệm trước mặt.
Lúc ấy, có một Phạm chí[4] đến chỗ kia. Thấy dấu chân của Thế Tôn rất kỳ diệu, Phạm chí liền tự nghĩ: “Đây là dấu chân của người nào, là Trời, Rồng, Quỷ thần, Càn - đạp - hòa, A - tu - luân, người hay phi nhân hay là Phạm thiên tổ tiên của ta?” Lúc ấy, Phạm chí liền theo dấu chân mà đi tới, từ xa trông thấy Thế Tôn ngồi dưới một gốc cây chánh thân, chánh ý, buộc niệm trước mặt. Thấy vậy, bèn hỏi:
–Ông là vị trời chăng? Thế Tôn bảo:
–Ta chẳng phải là trời.
–Là Càn - đạp - hòa chăng?
Thế Tôn đáp:
–Ta cũng chẳng phải là Càn - đạp - hòa.
–Là rồng chăng?
Đáp:
–Ta chẳng phải là rồng.
–Là Dược - xoa chăng?
Phật bảo Phạm chí:
–Ta chẳng phải là Dược - xoa.
–Là Tổ phụ chăng?
–Ta chẳng phải là Tổ phụ.
Lúc ấy, Bà - la - môn hỏi Thế Tôn:
–Nay Ngài là ai?
Thế Tôn nói:
–Người có ái thì có thủ[5], có thủ thì có tham ái, nhân duyên hội hợp sau đó từng cái sinh ra nhau như vậy, như vậy, năm khổ thạnh ấm không bao giờ chấm dứt. Vì đã biết ái rồi, thì biết năm dục, cũng biết sáu trần ngoài và sáu nhập trong, tức biết gốc ngọn thạnh ấm này.
Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ này:
Thế gian có ngũ dục
Ý là vua[6]
thứ sáu
Biết sáu pháp trong ngoài
Nên niệm diệt gốc khổ.
Cho nên phải tìm phương tiện diệt trừ sáu sự trong ngoài. Phạm chí, hãy học điều như vậy.
Phạm chí nghe Phật dạy như vậy, tư duy nghiền ngẫm, ôm ấp trong tâm không rời, liền từ trên chỗ ngồi dứt sạch trần cấu, được mắt pháp trong sạch.
Bấy giờ Phạm chí nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Kỳ - đà Cấp cô độc, nước Xá - vệ.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ - kheo:
–Xưa, trong lúc Ta còn là Bồ - tát, chưa thành Phật đạo, có nghĩ như vầy: “Thế gian này rất là cần khổ, có sinh, có già, có bệnh, có chết, mà năm thạnh ấm này không hết được nguồn gốc.” Lúc ấy, Ta lại tự nghĩ: “Vì nhân duyên gì mà có sinh, già, bệnh, chết, lại vì nhân duyên gì đưa đến tai hoạn này?” Trong khi đang tư duy, lại sinh nghĩ như vầy: “Có sinh thì có già, bệnh, chết.”
Trong lúc đang tư duy, bấy giờ lại tự nghĩ: “Vì nhân duyên gì có sinh?” Ở đây, do hữu mà có sinh. Lại tự nghĩ như vầy: “Hữu do đâu mà có?” Trong khi đang tư duy, lại tự nghĩ như vầy: “Hữu này do thủ* mà có hữu.” Lại tự nghĩ: “Thủ này do đâu mà có?” Bấy giờ, Ta dùng trí quán sát: “Do ái mà có thủ.” Lại tư duy nữa: “Ái này do đâu mà sinh?” Lại quán sát nữa: “Do thọ mà có ái.” Lại tư duy nữa: “Thọ này do đâu mà sinh?” Trong khi đang quán sát: “Do xúc mà có thọ này.” lại tự nghĩ tiếp: “Xúc này do đâu mà có?” Lúc Ta khởi niệm này: “Duyên sáu nhập mà có sự xúc này.” thời Ta lại tư duy: “Sáu nhập này do đâu mà có?” Lúc quán sát: “Do danh sắc mà có sáu nhập.” thì Ta lại tự nghĩ: “Danh sắc do đâu mà có?” Khi quán sát: “Do thức mà có danh sắc.” thì Ta lại tự nghĩ: “Thức do đâu mà có?” Khi quán sát: “Do hành sinh thức.” Thì Ta lại tự nghĩ: “Hành do đâu mà sinh?” Khi quán sát, lại thấy: “Hành do si mà sinh.”
Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên sáu nhập, sáu nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên chết, chết duyên buồn rầu khổ não không thể nói hết. Đó gọi là sự tập khởi của khổ thạnh ấm như vậy.
Bấy giờ, Ta lại tự nghĩ: “Do nhân duyên gì già, bệnh, chết diệt?” Khi Ta quan sát, thấy rằng: “Sinh diệt thì già, bệnh, chết diệt.” Ta lại tự nghĩ như vầy: “Do đâu mà không sinh?” Quán sát gốc của sinh thì thấy: “Hữu diệt thì sinh diệt.” Ta lại nghĩ: “Do đâu không có hữu?” Lại tự nghĩ như vầy: “Không thủ thì không hữu.” Ta lại nghĩ: “Do đâu mà thủ diệt?” Khi Ta quan sát, thấy rằng: “Ái diệt thì thủ diệt.” Lại tự nghĩ như vầy: “Do gì mà diệt ái?” Ta lại quan sát thấy: “Thọ diệt thì ái diệt.” Lại tư duy: “Do gì mà thọ diệt?” Khi quan sát thấy: “Xúc diệt thì thọ diệt.” Lại tư duy: “Do gì mà xúc diệt?” Lúc quan sát thấy: “Sáu nhập diệt thì xúc diệt.” Lại quan sát: “Sáu nhập này do gì mà diệt?” Lúc đang quan sát thấy: “Danh sắc diệt thì sáu nhập diệt.” Lại quan sát: “Do gì danh sắc diệt? Thức diệt thì danh sắc diệt.” Lại quán: “Thức này do gì mà diệt?” Hành diệt thì thức diệt.” Lại quán: “Hành này do gì mà diệt?” Si diệt thì hành diệt. Hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì sáu nhập diệt, sáu nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì già, bệnh, diệt; già bệnh diệt thì tử diệt. Đó gọi là năm thạnh ấm diệt.
Bấy giờ, Ta lại tự nghĩ như vầy: “Thức này là đầu mối tối sơ đưa con người đến sinh, già, bệnh, chết này, nhưng lại không thể biết nguồn gốc của sinh, già, bệnh, chết này.” Giống như có người ở trong rừng đi theo con đường nhỏ, đi tới trước một chút thì gặp một con đường lớn cũ, là nơi ngày xưa mọi người đi trên đó. Lúc này, người ấy liền đi theo con đường đó, đi tới trước một chút nữa lại thấy thành quách xưa, vườn cảnh ao tắm thảy đều rất tốt tươi. Nhưng trong thành kia không có người ở. Người này thấy rồi, quay trở về bổn quốc, đến trước tâu vua: “Hôm qua dạo chơi núi rừng, tôi gặp thành quách tốt, cây cối sum suê tươi tốt, nhưng trong thành ấy không có người dân. Đại vương hãy cho nhân dân đến cư trú ở thành kia.”
Nghe người ấy nói xong, bấy giờ quốc vương liền cho nhân dân ở. Nhờ vậy thành quách này trở lại như xưa, nhân dân đông đúc, vui vẻ vô cùng.
Các Tỳ - kheo, nên biết, khi xưa lúc Ta chưa thành Bồ - tát, học đạo ở trong núi, thấy nơi chốn du hành của chư Phật xa xưa, liền theo con đường này, liền biết được nguồn gốc sinh khởi của sinh, già, bệnh, chết. Có sinh thì có diệt, thảy đều phân biệt, biết sinh khổ, sinh tập, sinh diệt và sinh đạo, thảy đều biết rõ ràng. Hữu, thủ, ái, thọ, xúc, lục nhập, danh sắc, thức, hành, si cũng lại như vậy. Vô minh khởi thì hành khởi, những gì được hành tạo lại do thức. Nay Ta đã biết rõ thức, nên nay vì bốn bộ chúng mà nói về gốc này; tất cả đều phải biết chỗ phát sinh nguồn gốc này: Biết Khổ, biết Tập, biết Diệt, biết Đạo, hãy suy niệm cho rõ ràng. Đã biết lục nhập thì biết sinh, già, bệnh, chết; lục nhập diệt thì sinh, già, bệnh, chết diệt. Cho nên, các Tỳ - kheo, hãy tìm cầu phương tiện diệt trừ lục nhập.
Các Tỳ - kheo, hãy học điều này như vậy.
Bấy giờ các Tỳ - kheo nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Kỳ - đà Cấp cô độc, nước Xá - vệ. Bấy giờ, Thế Tôn đang thuyết pháp cho vô số, trăm ngàn vạn chúng. Khi ấy, A - na - luật ở trên chỗ ngồi kia. A - na - luật ở giữa đại chúng mà ngủ gục. Khi Phật thấy A - na - luật ngồi ngủ, liền nói kệ này:
Nghe pháp ưa ngủ nghỉ
Ý không có thác loạn
Những pháp Hiền thánh nói
Là điều kẻ trí ưa.
Giống như hồ nước sâu
Lắng trong không bợn dơ
Người nghe pháp như vậy
Hưởng vui, tâm thanh tịnh.[7]
Cũng như tảng đá lớn
Gió lay không thể động
Như vậy, được khen chê
Tâm không có dao động.[8]
Lúc ấy, Thế Tôn bảo A - na - luật:
–Ông sợ pháp vua và sợ giặc cướp mà hành đạo sao?
A - na - luật đáp:
–Thưa không, Thế Tôn!
Phật hỏi A - na - luật:
–Vì sao ông xuất gia học đạo?
A - na - luật bạch Phật:
–Vì ghê tởm già, bệnh, chết, buồn rầu, khổ não này. Vì bị khổ bức bách, muốn dứt bỏ, cho nên xuất gia học đạo.
Thế Tôn bảo:
–Nay ông là thiện gia nam tử với lòng tin kiên cố xuất gia học đạo. Hôm nay chính Thế Tôn đang thuyết pháp, vì sao ở trong đây ngủ gục?
Lúc ấy, Tôn giả A - na - luật liền rời chỗ ngồi đứng dậy, vén áo bày vai phải, quỳ gối, chắp tay bạch Phật:
–Từ nay về sau, thân thể tan nát, con quyết cũng không ngồi trước Thế Tôn mà ngủ gục.
Lúc ấy, Tôn giả A - na - luật suốt đêm đến sáng không ngủ, nhưng không thể trừ được mê ngủ, nhãn căn dần dần tổn thương.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo A - na - luật:
–Sự nỗ lực tinh tấn của ông tương ưng với trạo cử. Nếu lại biếng nhác, thì nó tương ưng với kết. Hành trì của ngươi hiện nay là nên ở giữa.
A - na - luật bạch Phật:
–Ở trước Như Lai con đã thề, nay không thể làm ngược lại bản nguyện.
Sau đó, Thế Tôn bảo Kỳ - vực:
–Hãy chữa trị mắt cho A - na - luật.
Kỳ - vực đáp:
–Nếu A - na - luật chịu ngủ nghỉ chút ít thì con mới chữa mắt được.
Thế Tôn bảo A - na - luật:
–Ông nên ngủ. Vì sao? Tất cả pháp do ăn mà tồn tại, không ăn thì không tồn tại. Mắt lấy ngủ nghỉ làm thức ăn. Tai lấy âm thanh làm thức ăn. Mũi lấy mùi thơm làm thức ăn. Lưỡi lấy vị làm thức ăn. Thân lấy sự trơn láng làm thức ăn. Ý lấy pháp làm thức ăn. Nay Ta cũng nói, Niết - bàn cũng có thức ăn.
A - na - luật bạch Phật:
–Niết - bàn lấy gì làm thức ăn?
Phật bảo A - na - luật:
–Niết - bàn lấy sự không phóng dật làm thức ăn.
Nương vào không phóng dật đến được vô vi.
A - na - luật bạch Phật:
–Tuy nói mắt lấy ngủ nghỉ làm thức ăn, nhưng con không kham ngủ nghỉ.
Bấy giờ, A - na - luật đang vá y phục cũ thì mắt từ từ bị hư hoại, nhưng được Thiên nhãn không có tỳ vết. Lúc ấy, A - na - luật dùng pháp thường để vá y phục, nhưng không thể xỏ chỉ qua lỗ kim. A - na - luật liền tự nghĩ: “Các vị đắc đạo A - la - hán trên thế gian hãy xỏ kim cho tôi.
Lúc ấy, Thế Tôn, bằng Thiên nhãn thanh tịnh, nghe âm thanh này: “Các vị đắc đạo A - la - hán trên thế gian hãy xỏ kim cho tôi.” Thế Tôn liền đến chỗ A - na - luật bảo rằng:
–Ông đưa kim lại đây Ta xỏ cho.
A - na - luật bạch Phật:
–Vừa rồi con có kêu gọi những ai ở thế gian muốn cầu phước kia, thì hãy xỏ kim cho con.
Thế Tôn đáp:
–Người cầu phước thế gian không có ai hơn Ta. Như Lai đối với sáu pháp không bao giờ nhàm chán. Sao gọi là sáu? Một là bố thí, hai là giáo giới, ba là nhẫn nhục, bốn là thuyết pháp thuyết nghĩa, năm là giúp đỡ chúng sinh, sáu là cầu đạo Vô thượng Chánh chân. Này A - naluật, đó gọi là Như Lai đối với sáu pháp này không bao giờ nhàm chán.
A - na - luật bạch:
–Thân Như Lai là Pháp thân chân thật, còn muốn cầu pháp gì nữa? Như Lai đã vượt qua biển sinh tử, lại thoát ái trước, mà nay vẫn đứng đầu trong những người cầu phước!
Thế Tôn bảo:
–Đúng vậy, A - na - luật! Như lời ông nói: “Như Lai cũng biết sáu pháp này mà không bao giờ nhàm chán.” Nếu chúng sinh nào biết những việc làm nơi thân, miệng, ý là nguồn gốc của tội ác, sẽ không bao giờ rơi vào ba đường dữ. Do chúng sinh kia không biết nguồn gốc tội ác nên đọa vào trong ba đường dữ.
Lúc ấy, Thế Tôn liền nói kệ này:
Lực mà thế gian có
Tồn tại trong trời người
Lực phước là hơn hết
Do phước được thành Phật.
Cho nên, A - na - luật, hãy tìm cầu phương tiện được sáu pháp này.
Các Tỳ - kheo, hãy học điều này như vậy.
Bấy giờ các Tỳ - kheo nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Kỳ - đà Cấp cô độc, nước Xá - vệ. Lúc ấy, một số các Tỳ - kheo vào thành Xávệ khất thực, nghe thấy bên ngoài cửa cung vua Ba - tưnặc có đám đông người dân giơ tay kêu gào, tỏ vẻ oán trách: “Trong nước có giặc cướp tên Ương - quật - ma[10] hết sức hung bạo, giết hại người vô số, không từ bi đối với hết thảy chúng sinh. Nhân dân trong nước không ai là không kinh tởm lo sợ. Mỗi ngày, nó giết một người, lấy một ngón tay xâu thành chuỗi, cho nên gọi là nó là “Chuỗi Ngón Tay.”[11] Cúi xin Đại vương hãy đi đánh bắt.”
Các Tỳ - kheo sau khi khất thực xong, trở về tinh xá Kỳ hoàn, thâu cất y bát, lấy tọa cụ vắt lên vai, đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ sát chân, ngồi qua một bên.
Bấy giờ các Tỳ - kheo bạch Thế Tôn:
Chúng con một số đông vào thành Xá - vệ khất thực nghe thấy bên ngoài cung vua có nhiều người dân kêu than oán trách: “Nay trong nước có giặc cướp tên Ương - quật - ma là người hung bạo, không có tâm Từ, giết hại hết thảy chúng sinh. Người chết, đất nước trống không, đều do kẻ ấy. Nó lại lấy ngón tay người xâu làm tràng hoa.”
Thế Tôn nghe các Tỳ - kheo kia nói xong, liền rời chỗ ngồi đứng dậy, im lặng ra đi.
Thế Tôn ngay sau đó đi đến chỗ tên giặc kia. Những người kiếm củi, nhặt cỏ, người đi cày, người chăn bò, dê, thấy Thế Tôn đi vào con đường ấy, đều bạch với Phật:
–Sa - môn, chớ có đi theo con đường này. Vì sao? Vì cạnh đường này có giặc cướp tên Ương - quật - ma đang ở đó. Người dân muốn đi vào đường này thì phải tập họp mười người, hoặc hai mươi người, hoặc ba mươi, bốn mươi, năm mươi người, mà vẫn không qua được, bị Ương - quật - ma bắt giết hết. Nhưng Sa - môn Cù - đàm đi một mình không có bạn sẽ bị Ương - quật - ma quấy nhiễu, chuyện này phải cảnh giác.
Thế Tôn tuy nghe những lời này, nhưng vẫn đi tới, không dừng lại.
Trong lúc đó, mẹ Ương - quật - ma đem thức ăn đến chỗ Ương - quật - ma. Lúc này, Ương - quật - ma tự nghĩ: “Chuỗi ngón tay của ta đã đủ số chưa?” Nó bèn đếm, số ngón tay vẫn chưa đủ. Lại đếm trở lại, chỉ thiếu một ngón tay người. Ương - quật - ma nhìn quanh quất hai bên, tìm một người lạ để bắt giết, nhưng nhìn khắp bốn phía đều không thấy người. Nó liền tự nghĩ: “Thầy ta có dạy, nếu giết hại mẹ thì tất sẽ sinh Thiên. Nay mẹ ta đã tự đến đây, ta hãy bắt giết, được đủ số ngón tay là được sinh lên trời.”
Rồi Ương - quật - ma dùng tay trái nắm đầu mẹ, tay phải rút kiếm nói với mẹ:
–Mẹ ơi, hãy đứng lại một lát.
Lúc ấy, Thế Tôn liền nghĩ: “Ương - quật - ma này đang tạo ngũ nghịch.” Ngài lập tức phóng ánh sáng từ giữa chặng mày chiếu khắp núi rừng ấy. Lúc ấy, Ương - quậtma thấy ánh sáng này, liền nói với mẹ:
–Đây là ánh sáng gì mà chiếu khắp núi rừng này? Chẳng phải nhà vua tập hợp binh chúng đem công phạt ta ư?
Lúc ấy, người mẹ bảo:
–Này con, nên biết, đây chẳng phải ánh sáng của mặt trời, mặt trăng hay lửa, cũng chẳng phải ánh sáng của Đế Thích, Phạm Thiên vương.
Bấy giờ, người mẹ liền nói kệ này:
Chẳng phải ánh sáng lửa
Trời, trăng, hay Thích, Phạm
Chim thú không kinh sợ
Vẫn ca hót như thường.
Ánh sáng rất thanh tịnh
Khiến người vui vô lượng
Ắt là Đấng Tối Thắng
Thập Lực, đến chốn này.
Trong cõi trời và người
Thiên nhãn nhìn thế giới
Vì muốn độ cho con
Thế Tôn đến nơi này.
Bấy giờ, Ương - quật - ma nghe đến tiếng Phật, vui mừng hớn hở, không tự dừng được, liền nói:
–Thầy con cũng giáo giới, bảo con: “Nếu con có thể giết mẹ, hay Sa - môn Cù - đàm, thì có thể sinh lên trời Phạm thiên.”
Lúc ấy, Ương - quật - ma bảo mẹ:
–Nay mẹ đứng đây! Trước hết con bắt giết Sa - môn Cù - đàm giết, sau đó hãy ăn.
Ương - quật - ma liền bỏ mẹ ra mà chạy đuổi theo Thế Tôn. Từ xa trông thấy Thế Tôn đến, giống như khối vàng, chiếu khắp mọi nơi. Nó cười mà nói rằng:
–Nay Sa - môn này nhất định ở trong tay ta, tất sẽ giết không nghi ngại. Nhân dân muốn đi vào đường này, họ đều tập hợp đông người, mà đi đường này. Vậy mà Samôn này đơn độc không bạn bè. Nay ta sẽ bắt giết ông ta.
Rồi Ương - quật - ma liền rút kiếm ra, đi ngược về phía Thế Tôn. Trong lúc đó, Thế Tôn liền quay ngược đường lại, từ từ mà đi. Nhưng Ương - quật - ma chạy rượt theo cũng không thể nào kịp. Khi ấy, Ương - quật - ma bạch Thế Tôn:
–Sa - môn, dừng lại, dừng lại!
Thế Tôn bảo:
–Ta đã tự dừng rồi. Tự ngươi không dừng!
Ương - quật - ma vừa chạy, vừa từ xa nói kệ này:
Đi, mà lại nói dừng
Lại bảo ta không dừng
Nói nghĩa này cho tôi
Ông dừng, tôi không dừng?
Lúc ấy, Thế Tôn liền dùng kệ đáp:
Thế Tôn nói đã dừng
Vì không hại hết thảy
Nay ngươi có tâm giết
Không lìa xa nguồn ác.
Ta dừng nơi tâm Từ
Thương giúp cả mọi người
Ngươi gieo nhân địa ngục
Không lìa xa nguồn ác.
Ương - quật - ma nghe bài kệ này, liền tự nghĩ: “Ta đã làm việc ác thật sao? Còn thầy bảo ta: “Đó là đại tế đàn, được quả báo lớn, nếu có thể bắt giết một ngàn người, lấy ngón tay xâu thành chuỗi, thì được quả như sở nguyện mình. Người như vậy, sau khi chết vào chỗ lành, sinh lên trời. Nếu bắt giết mẹ ruột và Sa - môn Cù - đàm thì sẽ sinh lên Phạm thiên.” Lúc ấy, Phật liền dùng oai thần, khiến thần thức của nó chợt sáng: “Các sách vở của Phạm chí cũng có nói rằng Như Lai ra đời rất là khó gặp, thật lâu, ức kiếp mới xuất hiện một lần. Khi vị ấy ra đời, độ người chưa độ, giải thoát người chưa giải thoát. Vị ấy nói pháp diệt trừ sáu kiến chấp. Sao gọi là sáu? Người nói có ngã kiến, liền nói pháp diệt trừ ngã kiến; người nói không có ngã kiến thì cũng vì họ nói pháp diệt trừ không có ngã kiến; người nói vừa có ngã kiến, vừa không có ngã kiến thì cũng vì họ nói pháp diệt trừ vừa có ngã vừa không có ngã. Lại tự quán sát, nói pháp đã được quán sát, tự nói pháp vô ngã, cũng chẳng phải pháp ta nói, cũng chẳng phải pháp ta chẳng nói. Nếu Như Lai xuất thế sẽ nói pháp diệt trừ sáu kiến chấp này.” Lại nữa, khi ta chạy đi thì có thể đuổi kịp voi, ngựa, xe cộ và nhân dân, nhưng Sa - môn này đi không nhanh vội, song hôm nay ta không thể theo kịp người này. Đây chắc phải là Như Lai.
Lúc ấy, Ương - quật - ma liền nói kệ này:
Tôn giả đã vì tôi
Mà nói kệ vi diệu
Người ác nay biết chân
Đều nhờ oai thần Ngài.
Lập tức bỏ kiếm bén
Ném vào trong hang sâu
Nay lễ chân Sa - môn
Liền cầu làm Sa - môn.
Lúc này, Ương - quật - ma liền đến trước bạch Phật:
–Cúi xin, Thế Tôn! Cho phép con làm Sa - môn.
Thế Tôn bảo:
–Hãy đến đây, Tỳ - kheo!
Lập tức Ương - quật - ma liền thành Sa - môn, mặc ba pháp y.
Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ này:
Nay ông đã cạo đầu
Trừ kết sử cũng vậy
Diệt kết, đắc quả lớn
Không còn sầu, khổ não.
Ương - quật - ma sau khi nghe những lời này, dứt sạch bụi trần, được mắt pháp trong sạch.
Bấy giờ, Thế Tôn dẫn Tỳ - kheo Ương - quật - ma trở về tinh xá Kỳ hoàn, thành Xá - vệ. Trong lúc đó, vua Ba - tưnặc tập hợp bốn bộ binh, định đánh dẹp Ương - quật - ma. Khi ấy, vua liền tự nghĩ: “Nay ta hãy đến chỗ Thế Tôn, đem nhân duyên này thưa đầy đủ lên Thế Tôn. Nếu Thế Tôn có dạy điều gì thì sẽ phụng hành.”
Bấy giờ, vua Ba - tư - nặc liền tập hợp binh bốn bộ, đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ sát chân, ngồi qua một bên. Thế Tôn hỏi vua:
–Đại vương, hôm nay sắp đến đâu, mà thân thể đầy bụi bặm đến như vậy?
Vua Ba - tư - nặc bạch Phật:
–Nay trong nước con có giặc cướp tên Ương - quậtma hết sức hung bạo, không có lòng Từ đối với hết thảy chúng sinh. Đất nước hoang vắng, nhân dân lưu tán, đều do tên tặc này. Nay nó bắt người giết đi, lấy ngón tay xâu thành chuỗi. Đó là quỷ dữ, chẳng phải là người. Nay con muốn bắt người này mà giết đi.
Thế Tôn bảo:
–Nếu đại vương thấy Ương - quật - ma với lòng tin kiên cố đã xuất gia học đạo, thì sẽ làm sao?
Vua bạch Phật rằng:
–Còn biết làm gì hơn, là cung kính, cúng dường, tùy thời lễ bái! Nhưng, bạch Thế Tôn, nó lại là người ác, không có một mảy may thiện, thường giết hại, thì có thể có tâm xuất gia học đạo này chăng? Hoàn toàn không thể có việc ấy!
Lúc ấy, Ương - quật - ma đang ngồi kiết già cách Thế Tôn không xa, chánh thân, chánh ý, buộc niệm trước mặt. Bấy giờ, Thế Tôn đưa tay phải chỉ và nói với vua:
–Đó là tên cướp Ương - quật - ma.
Vua nghe những lời này, trong lòng kinh sợ, lông tóc đều dựng đứng.
Thế Tôn bảo vua:
–Chớ sinh lòng sợ hãi, hãy bước đến trước, thì tự vua sẽ tỏ ý mình.
Lúc ấy, vua nghe lời Phật dạy, liền đến trước Ươngquật - ma, nói với Ương - quật - ma:
–Nay ông họ gì?
Ương - quật - ma đáp:
–Tôi họ Già - già,[12] mẹ tên Mãn Túc[13].
Lúc ấy, vua đảnh lễ sát chân, ngồi qua một bên. Bấy giờ, vua hỏi:
–Khéo vui trong chánh pháp này, chớ có lười biếng, tu Phạm hạnh thanh tịnh để dứt gốc khổ. Tôi sẽ trọn đời cúng dường y phục, đồ ăn thức uống, giường nằm, tọa cụ, thuốc men trị bệnh.
Ương - quật - ma im lặng không đáp. Vua liền rời chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ sát chân. Quay trở lại chỗ Thế Tôn, đảnh lễ sát chân, ngồi qua một bên.
Lúc ấy, vua lại bạch với Phật:
–Người chưa hàng khiến hàng, người chưa phục khiến phục. Thật là kỳ lạ, chưa từng có! Cho đến có thể hàng phục người cực ác. Cầu mong Thế Tôn thọ mạng vô cùng, để nuôi dưỡng nhân dân. Nhờ ơn Thế Tôn mà thoát được nạn này. Việc nước bề bộn, con xin trở về thành.
Thế Tôn bảo:
–Vua nên biết đúng lúc!
Bấy giờ, quốc vương liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ sát chân, rồi lui đi.
Lúc bấy, Ương - quật - ma hành A - lan - nhã, đắp y năm mảnh. Đến giờ, vị ấy ôm bát, đi đến từng nhà khất thực, một vòng rồi trở lại từ đầu; đắp y rách vá, thô xấu, tồi tàn, lại ngồi ở giữa trời trống, không che thân thể. Ương - quật - ma ở nơi vắng vẻ, tự tu hạnh này, vì mục đích mà thiện gia nam tử xuất gia học đạo, tu vô thượng phạm hạnh, biết như thật rằng: “Sinh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sinh đời sau nữa.” Bấy giờ, Ương - quật - ma liền thành A - la - hán, lục thông trong suốt không còn bụi dơ.
Sau khi đã thành A - la - hán, đến giờ đắp y, mang bát, vào thành Xá - vệ khất thực. Lúc ấy, có một thiếu phụ đang sinh khó. Thấy vậy, vị ấy liền tự nghĩ: “Đau khổ thay, chúng sinh chịu bức não[14] vô hạn.” Sau khi thọ thực xong, Ương - quật - ma cất y bát, lấy tọa cụ đặt lên vai, đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ sát chân, ngồi qua một bên. Bấy giờ Ương - quật - ma bạch Thế Tôn:
–Vừa rồi, con đắp y, mang bát vào thành Xá - vệ khất thực, gặp một người nữ thân thể mang thai nặng nề.[15] Lúc ấy, con liền tự nghĩ: “Chúng sinh chịu khổ đến như vậy sao?”
Thế Tôn đáp:
–Ông hãy đến chỗ người phụ nữ ấy, nói như vầy: “Từ khi tôi sinh trong nhà Hiền thánh đến nay, chưa từng sát sinh. Bằng lời chí thành này cầu cho người mẹ và thai nhi không gì tai biến[16]!
Ương - quật - ma đáp:
–Thưa vâng, Thế Tôn!
Ngay trong ngày ấy, Ương - quật - ma liền đắp y, mang bát, vào thành Xá - vệ, đến chỗ người mẹ kia, nói với cô:
–Từ khi tôi sinh trong nhà Hiền thánh đến nay, chưa từng sát sinh. Bằng lời chí thành này cầu cho người mẹ và thai nhi không gì tai biến.
Lúc ấy, người mẹ mang thai liền sinh được.
Một hôm, Ương - quật - ma vào thành khất thực, các nam, nữ lớn nhỏ, mọi người đều nói với nhau:
–Đó gọi là Ương - quật - ma, đã giết hại chúng sinh không thể kể, nay lại đi trong thành khất thực.
Rồi thì nhân dân trong thành, mọi người lấy gạch đá đả thương, hoặc dùng dao chém, đầu mặt bị thương, y phục bị rách hết, máu chảy nhớp thân thể. Liền ra khỏi thành Xá - vệ, đến chỗ Thế Tôn. Bấy giờ, từ xa Thế Tôn thấy Ương - quật - ma bị thương tích đầy đầu mặt, máu chảy ướt y, đang đi đến. Thấy rồi, liền nói:
–Ông hãy nhẫn nhịn! Vì sao? Tội này, đáng ra phải chịu báo mãi trong một kiếp lâu dài.
Lúc ấy, Ương - quật - ma liền đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ sát chân, ngồi qua một bên. Bấy giờ Ương - quật - ma ở trước Như Lai, liền nói kệ này:
Kiên cố nghe pháp cú
Kiên cố hành Phật pháp
Kiên cố gần bạn lành
Liền đến nơi diệt tận.
Con vốn là đại tặc
Tên là Ương - quật - ma
Bị cuốn trôi theo dòng
Nhờ Thế Tôn cứu vớt.
Nay quán, tự trả nghiệp
Cũng nên quán gốc pháp
Nay đã đắc ba minh
Thành tựu hạnh nghiệp Phật.
Con vốn tên Vô Hại[17]
Nhưng giết hại vô kể
Nay tên Chân Đế Thật[18]
Không còn hại gì nữa.
Giả sử thân, miệng, ý
Đều không tâm thức hại
Đó là không sát hại
Huống gì khởi tư tưởng.
Thợ cung hay nắn sừng (?)[19]
Nhà thủy hay dẫn nước
Người thợ chạm, đẽo gỗ
Bậc trí tự điều thân.[20]
Hoặc dùng roi gậy phục
Hoặc dùng lời lẽ khuất
Trọn không dùng đao gậy
Nay con tự hàng phục.
Trước, người gây tội ác
Sau dừng không tái phạm
Chiếu sáng khắp thế gian
Như mây tan, trăng hiện.
Trước, người gây tội ác
Sau dừng không tái phạm
Chiếu sáng khắp thế gian
Mây tan, mặt trời hiện.
Tỳ - kheo già, trẻ khỏe
Tu hành, hành Phật pháp
Chiếu sáng khắp thế gian
Như trăng kia, mây tan.[21]
Tỳ - kheo già, trẻ khỏe
Tu hành theo Phật pháp
Chiếu sáng khắp thế gian
Mặt trời kia, mây tan.
Nay con chịu chút khổ
Ăn uống tự biết đủ
Thoát hết tất cả khổ
Duyên cũ nay đã hết.
Không theo dấu tử thần
Cũng không còn tái sinh
Nay chỉ đợi thời tiết
Hoan hỷ, không rối loạn.
Bấy giờ, Như Lai hứa khả những gì Ương - quật - ma nói. Ương - quật - ma thấy Như Lai đã im lặng hứa khả, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ sát chân liền lui đi.
Lúc ấy, các Tỳ - kheo bạch Thế Tôn:
–Ương - quật - ma vốn tạo công đức gì mà ngày nay thông minh, trí tuệ, mặt mày xinh đẹp hiếm có trên đời? Lại tạo hành vi bất thiện gì mà trên thân hiện nay sát hại chúng sinh vô số kể? Lại tạo công đức gì mà nay gặp Như Lai, đắc quả A - la - hán?
Thế Tôn bảo các Tỳ - kheo:
–Vào thời quá khứ lâu xa trong Hiền kiếp này,[22] có Phật hiệu Ca - diếp Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời. Sau khi Như Lai Ca - diếp nhập diệt, có vua tên Đại Quả thống lãnh trong nước, cai trị Diêmphù - đề. Vua ấy có tám vạn bốn ngàn cung nhân thể nữ, nhưng không có con cái. Bấy giờ, vua Đại Quả liền hướng về thần cây, thần núi, mặt trời, mặt trăng, tinh tú không nơi nào là không cầu xin con cái. Sau đó đệ nhất phu nhân của vua mang thai, trải qua tám, chín tháng, sinh được một con trai, tướng mạo xinh đẹp hiếm có trên đời. Lúc ấy, vị vua kia liền tự nghĩ: “Ta trước kia không có con cái, suốt một thời gian như vậy nay mới sinh hài nhi, cần phải đặt tên, để cho nó ở trong ngũ dục mà thụ hưởng.”
Vua bèn triệu tập quần thần, những người có thể xem tướng, bảo rằng:
–Nay ta đã sinh hài nhi này, các khanh hãy đặt tên cho.
Những người này nghe vua dạy rồi, liền tâu vua:
–Nay thái tử này rất kỳ diệu, xinh đẹp không ai bằng, mặt như màu hoa đào, ắt sẽ có thế lực lớn, nay nên đặt tên là Đại Lực.
Sau khi thầy tướng đặt tên cho thái tử rồi, từ chỗ ngồi đứng dậy ra về. Bấy giờ, quốc vương yêu thương thái tử này, chưa từng rời mắt.
Khi thái tử vừa lên tám tuổi, dẫn theo các người hầu cận đến chỗ phụ vương, hầu hạ thăm hỏi. Vua cha tự nghĩ: “Nay thái tử này, tự thật là kỳ lạ!” Vua liền bảo thái tử:
–Thế nào, nay ta cưới vợ cho con?
Thái tử tâu vua:
–Nay con nhỏ tuổi, cần gì cưới vợ?
Lúc ấy, vua cha tạm đình chỉ không cưới vợ cho.
Đến khi thái tử hai mươi tuổi, vua lại nói:
–Ta muốn cưới vợ cho con.
Thái tử tâu vua:
–Con không cần cưới vợ.
Lúc ấy, vua bảo quần thần, nhân dân:
–Ta trước kia không có con cái, qua thời gian rất lâu mới sinh được một đứa con. Nay nó không chịu lấy vợ, thanh tịnh không một tỳ vết.
Bấy giờ, vua đổi tên cho thái tử là Thanh Tịnh.
Khi thái tử Thanh Tịnh đã gần ba mươi tuổi, vua lại bảo quần thần:
–Hiện nay tuổi ta đã suy yếu, không con nào khác; hiện chỉ có thái tử Thanh Tịnh. Nay vương vị cao phải truyền cho thái tử. Nhưng thái tử không thích sống trong năm dục, làm sao xử lý việc nước?
Quần thần đáp:
–Phải tìm cách làm cho thái tử ưa thích năm dục.
Lúc ấy, vua liền cho đánh chuông, kích trống, thông báo với nhân dân trong nước:
–Ai có thể làm cho thái tử Thanh Tịnh ưa thích năm dục, ta sẽ thưởng cho ngàn vàng và các vật báu.
Bấy giờ, có người nữ tên Dâm Chủng, hiểu rõ sáu mươi bốn biến. Người nữ kia nghe vua có sắc lệnh: “Ai có thể làm cho thái tử Thanh Tịnh ưa thích năm dục thì ta sẽ thưởng cho ngàn vàng và các vật báu.” Liền đến chỗ vua cha và tâu:
–Hãy cho tôi ngàn vàng và các vật báu, tôi có thể khiến cho thái tử của vua quen với năm dục.
Vua cha bảo:
–Nếu làm được việc ấy, ta sẽ ban cho gấp đôi; không phụ lời hứa.
Dâm nữ tâu vua:
–Thái tử ngủ ở đâu vậy?
Vua bảo:
–Ở tòa nhà phía Đông, không có nữ nhân. Chỉ có một người nam làm thị vệ ở đó.
Người nữ tâu:
–Cúi xin đại vương ra lệnh trong cung cho tôi tùy ý ra vào, không được ngăn cản.
Ngay đêm đó, vào canh hai, dâm nữ ở cạnh cửa phòng thái tử giả bộ cất tiếng khóc. Thái tử nghe tiếng khóc người nữ, liền hỏi người hầu:
–Đây là người nào đến đây mà khóc?
Người hầu đáp:
–Đó là người nữ, đang khóc ở cạnh cửa.
Thái tử nói:
–Khanh mau đến chỗ hỏi vì sao khóc?
Người hầu kia liền đến chỗ hỏi vì sao khóc. Dâm nữ đáp:
–Bị chồng bỏ, cho nên khóc!
Người hầu trở vào tâu thái tử:
–Người nữ này bị chồng bỏ, lại sợ trộm cướp, cho nên khóc!
Thái tử bảo:
–Dẫn người nữ này để trong chuồng voi.
Đến đó, lại vẫn khóc. Bảo dẫn vào chuồng ngựa, lại khóc.
Thái tử lại bảo quan hầu:
–Dẫn đến đây!
Liền dẫn vào nhà. Ở đây lại khóc.
Thái tử đích thân tự hỏi:
–Vì sao lại khóc?
Dâm nữ đáp:
–Thưa thái tử! Người nữ một mình yếu đuối, rất là sợ hãi, cho nên khóc.
Thái tử bảo:
–Lên trên giường ta thì không còn sợ nữa.
Lúc ấy, người nữ im lặng không đáp, cũng không còn khóc. Rồi thì người nữ liền cởi y phục, tới trước nắm tay thái tử đặt lên ngực mình. Cảm giác kinh sợ chỉ trong chốc lát, từ từ khởi dục tưởng. Dục tâm đã khởi thì liền thân đến nhau.
Sáng sớm hôm sau, thái tử Thanh Tịnh đến chỗ vua cha. Lúc ấy, vua cha từ xa trông thấy nhan sắc thái tử khác với ngày thường, liền nói:
–Những điều mà con muốn, đã kết quả rồi sao?
Thái tử đáp:
–Đúng như đại vương nói.
Lúc này, vua cha vui mừng hớn hở, không tự kiềm chế được, bèn nói:
–Muốn cầu mong gì, ta sẽ ban cho?
Thái tử nói:
–Những gì đã muốn ban, đừng có hối tiếc lại, thì con sẽ xin theo ước nguyện của mình!
Thời vua bảo:
–Như những gì con đã nói, quyết không hối tiếc.
Muốn cầu ước nguyện gì?
Thái tử tâu vua:
–Ngày nay, phụ vương thống lãnh toàn cõi Diêmphù - đề, tự do với mọi thứ. Vậy xin hãy đem hết tất cả những cô gái chưa chồng trong cõi Diêm - phù - đề, trước về nhà ta, sau đó cho lấy chồng.
Lúc ấy, vua bảo:
–Sẽ làm theo lời con.
Vua liền ra lệnh cho nhân dân trong nước:
–Ai có con gái chưa gã chồng, trước cho đến thái tử Thanh Tịnh, rồi sau đó mới gã chồng.
Bấy giờ, trong thành kia có một người nữ tên Tuman, đến lượt phải đến chỗ vua. Lúc ấy, con gái trưởng giả Tu - man, để thân thể trần truồng, đi chân không giữa đám đông người, cũng không hề hổ thẹn. Mọi người thấy vậy, nói với nhau:
–Đây là con gái trưởng giả, tiếng đồn khắp nơi, vì sao lại trần truồng đi giữa chốn đông người như con lừa không khác?
Người nữ nói với mọi người:
–Tôi chẳng phải là con lừa. Những người các ngươi mới là con lừa. Các người có thấy người nữ nào gặp người nữ mà lại mắc cỡ? Mọi người trong thành đều là người nữ, chỉ có thái tử Thanh Tịnh là người nam thôi. Nếu tôi đến cửa thái tử Thanh Tịnh thì mới mặc quần áo. Lúc này, nhân dân trong thành cùng bàn nhau:
–Những điều cô này nói thật đúng ý chúng ta. Chúng ta đúng là nữ, chẳng phải nam. Chỉ có thái tử Thanh Tịnh là nam. Hôm nay chúng ta phải thực hiện pháp người nam.
Rồi nhân dân trong thành sắm sửa vũ khí, mặc giáp, mang gậy, đến chỗ vua cha, tâu với vua cha:
–Chúng tôi có hai lời nguyện, xin vua chấp nhận.
Vua hỏi:
–Hai lời nguyện gì?
Nhân dân tâu vua:
–Vua muốn sống thì hãy giết thái tử Thanh Tịnh. Muốn thái tử sống thì chúng tôi sẽ giết vua. Chúng tôi không chịu phụng sự thái tử Thanh Tịnh, vì nhục cho phép thường của nước.
Lúc ấy, vua cha liền nói kệ này:
Vì nhà, mất một người
Vì thôn, mất một nhà
Vì nước, mất một thôn
Vì thân, mất thế gian.
Vua nói bài kệ này rồi, bảo nhân dân:
–Nay chính đã đúng lúc! Tùy ý các khanh.
Bấy giờ, mọi người liền bắt trói hai tay thái tử Thanh Tịnh, dẫn ra bên ngoài thành, họ nói với nhau rằng: –Chúng ta tất cả đều cùng dùng gạch đá đập chết. Cần gì một người giết!
Khi thái tử Thanh Tịnh sắp chết, tự nói lên lời thề nguyền: “Những người dân này bắt ta giết uổng. Nhưng vua cha đã tự cho ta nguyện này. Nay ta chịu chết cũng không dám từ. Mong đời tương lai, ta sẽ báo oán này và lại mong gặp A - la - hán chân nhân để sớm được giải thoát.”
Nhân dân bắt giết thái tử rồi, tự giải tán.
Này các Tỳ - kheo, các người chớ nghĩ vua Đại Quả lúc ấy, há người nào khác, mà nay chính là thầy của Ương - quật - ma. Dâm nữ lúc ấy nay chính là vợ của người thầy. Nhân dân lúc ấy nay là tám vạn người bị giết chết. Thái tử Thanh Tịnh lúc ấy nay chính là Tỳ - kheo Ươngquật - ma. Khi sắp chết, đã phát thệ nguyện này, nên nay báo oán hoàn trả không thoát được. Vì nhân duyên này, nên giết hại vô số. Sau đó, nguyện gặp Phật, nên nay được giải thoát, thành A - la - hán. Đó là ý nghĩa của việc này, hãy nhớ mà phụng hành.
Lúc ấy, Thế Tôn bảo các Tỳ - kheo:
–Trong các đệ tử ta, người có trí tuệ, thông minh bậc nhất chính là Tỳ - kheo Ương - quật - ma.
Bấy giờ các Tỳ - kheo nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
❑
[1] . Pāli, A.VII. 27 Bala (R. iv. 223).
[2] . Pāli, A.VI 36 Doṇa (R. ii.38). Hán, Tạp 4, kinh 101.
[3] . Ưu - ca - chi 憂迦支江水. Pāli: Ukaṭṭhā, một thị trấn ở Kosala.
[4] . Bà - la - môn Doṇa.
[5] . Nguyên Hán: Thọ.
[6] . Để bản: Sinh 生. TNM: Vương 王. Cf. Tứ Phần 32 (tr. 791c14): Đệ lục vương vi thượng 第六王為上.
[7] . Dhp. 82.
[8] . Pháp cú Pāli, Dhp. 81.
[9] . Pāli, M 86 Aṅgulimāla (R. ii. 97). Hán, Tạp 38, kinh 1077.
[10] . Ương - quật - ma 鴦掘魔. Pāli: Aṅgulimāla.
[11] . Hán: Chỉ man 指鬘; cũng là dịch nghĩa của từ Aṅguli - māla. Định nghĩa của Pāli: So manusse vadhitvā vadhitvā aṅgulīnaṃ mālaṃ dhāreti, nó giết nhiều người, rồi lấy ngón tay làm tràng hoa mà đeo.
[12] . Già - già 伽伽. Pāli: Gagga, là tên cha. Họ là Bhaggava.
[13] . Mãn Túc 滿足. Pāli: Mantāṇī.
[14] . Để bản chép: thọ thai 受 胎. TNM: thọ não. Sửa lại cho phù hợp với Pāli: Kilissanti vata bho sattā.
[15] . Nguyên Hán: Trọng nhâm 重 妊. Tường thuật không phù hợp với trả lời của Phật. Có lẽ tương đương Pāli: Mūḷhagabbhaṃ, sinh khó, nhưng Hán dịch hiểu mūḷha theo nghĩa đen là “nặng nề, chậm chạp.”
[16] . Pāli, định cú: Tena saccena sotthi te hotu, “bằng sự thật này, mong cho cô được an lành.” Đây là một paritta, hộ chú, cầu thần chú cứu hộ, phổ biến trong Pāli.
[17] . Vô Hại 無害. Pāli: Ahiṃsaka, tên cha mẹ đặt. Aṅguimāla là tên do người đời đặt.
[18] . Chân Đế Thật. Pāli: Sacca. Nhưng Pāli, (…) ajjāhaṃ saccanāmomhi, (…), [Tôi vốn tên Vô Hại, nhưng đã hại người rất nhiều người], nay chân thật [là Vô Hại, vì không còn hại ai nữa].
[19] . Hán: giác 角. Cf. Dhp. 80: Usukārā namayanti tejanaṃ, thợ làm tên nắn thẳng mũi tên.
[20] . Dhp. 80.
[21] . Cf. Dhp. 382.
[22] . Truyện tiền thân của Aṅgulimāla, Pāli, Jataka 537: Mahā - Sutasoma.
[Đầu trang][Mục lục Tăng Nhất A-hàm][Mục lục bộ A-hàm][Mục lục tổng quát]