TẠNG KINH
Hán dịch: Đời Đông Tấn, Tam tạng Cù-đàm Tăng-già-đề-bà, người nước Kế Tân.
Nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Kỳ - đà Cấp cô độc, nước Xá - vệ. Bấy giờ, sau giờ ăn, các Tỳ - kheo tập trung ở giảng đường Phổ hội bàn luận như vầy:
–Núi Tu - di này rất là rộng lớn, các núi khác không thể sánh, hết sức kỳ lạ, cao rộng hùng vĩ. Như vậy mà không bao lâu nữa sẽ bị tan rã, không còn sót thứ gì. Các núi lớn khác y tựa vào núi Tu - di, cũng sẽ tan rã.
Bấy giờ, Thế Tôn bằng Thiên nhĩ nghe các Tỳ - kheo bàn luận như vậy, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến chỗ giảng đường kia và ngồi xuống. Thế Tôn hỏi các Tỳ - kheo:
–Các ông ở đây đang bàn luận những gì? Đang định làm gì?
Các Tỳ - kheo đáp:
–Chúng con tụ tập ở đây luận về pháp sự kia. Những điều vừa được thảo luận đều đúng như pháp.
Thế Tôn bảo:
–Lành thay, Tỳ - kheo! Các ông xuất gia cần phải phải thảo luận chánh pháp. Nhưng cũng không bỏ sự im lặng của Hiền thánh. Vì sao? Khi các Tỳ - kheo tụ tập một chỗ thì nên làm hai việc. Những gì là hai?
1. Luận bàn như pháp.
2. Im lặng như Thánh hiền.
Các ông làm hai việc này, luôn luôn được an ổn, không mất thời nghi. Vừa rồi, các ông đã luận nghĩa như pháp những gì vậy?
Các Tỳ - kheo đáp:
–Hôm nay, các Tỳ - kheo tụ tập tại giảng đường này để luận nghĩa như vầy: “Thật là kỳ lạ, núi Tu - di này hết sức cao rộng, nhưng núi Tu - di này như vậy không bao lâu sẽ bị tan rã. Các núi Thiết vi ở bốn phía cũng sẽ bị tan rã như vậy.” Vừa rồi chúng con tụ tập ở đây bàn luận như pháp vậy.
Thế Tôn bảo:
–Các ông có muốn nghe sự biến chuyển đưa đến bại hoại của cảnh giới thế gian này không?
Các Tỳ - kheo bạch Phật:
–Nay là lúc thích hợp, cúi xin Thế Tôn hợp thời giảng nói, để cho chúng sinh được tâm giải thoát.
Thế Tôn bảo các Tỳ - kheo:
–Các ngươi hãy khéo suy nghĩ và ghi nhớ luôn trong lòng.
Các Tỳ - kheo đáp:
–Thưa vâng, Thế Tôn.
Bấy giờ, các Tỳ - kheo vâng theo lời Phật dạy.
Thế Tôn bảo:
–Núi Tu - di thật rộng lớn, không núi nào có thể sánh bằng. Tỳ - kheo, nên biết, núi Tu - di nhô khỏi mặt nước cao tám vạn bốn ngàn do - tuần và chìm dưới nước sâu cũng tám vạn bốn ngàn do - tuần. Núi Tu - di được tạo nên do bốn loại báu là vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly. Lại có bốn góc cũng được tạo thành do bốn loại báu là vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly. Thành vàng, quách bạc; thành bạc, quách vàng; thành thủy tinh, quách lưu ly; thành lưu ly, quách thủy tinh. Trên núi Tu - di có năm loại trời cư trú ở đó, đều do túc duyên mà sống nơi này. Những gì là năm? Trong thành bạc kia có trời Tế cước[2] cư trú; trong thành vàng kia có trời Thi - lợi - sa[3] cư trú; trong thành thủy tinh kia có trời Hoan duyệt[4] cư trú; trong thành lưu ly kia có trời Lực thạnh[5] cư trú. Giữa thành vàng và bạc có TỳSa - môn Thiên vương cư trú cùng với số lượng Dạ - xoa không thể đếm xuể. Giữa thành vàng và thủy tinh có Tỳlưu - bác - xoa Thiên vương cư trú cùng với các Long thần. Giữa thành thủy tinh và lưu ly có Tỳ - lưu - lặc - xoa Thiên vương cư trú. Giữa thành lưu ly và vàng có Đề - đầu - lạitra Thiên vương cư trú.
Tỳ - kheo nên biết, dưới núi Tu - di có A - tu - luân cư trú. Khi A - tu - luân muốn đánh nhau với trời Tam thập tam thì trước cùng đánh nhau với trời Tế cước. Nếu thắng, tiến đến thành vàng cùng đánh nhau với trời Thilợi - sa. Khi đã thắng trời Thi - lợi - sa, lại đến thành thủy tinh cùng đánh nhau với trời Hoan duyệt. Thắng rồi, chúng tiến đến thành lưu ly. Thắng đây rồi, chúng đánh nhau với trời Tam thập tam.[6]
Tỳ - kheo nên biết, trời Tam thập tam cư trú trên đỉnh núi Tu - di, ngày đêm phát ra ánh sáng; tự chiếu sáng cho nên như vậy. Nương vào núi Tu - di mà mặt trời, mặt trăng trôi đi. Nhật Thiên tử có thành quách dài rộng năm mươi mốt do - tuần. Nguyệt Thiên tử có thành quách dài rộng ba mươi chín do - tuần. Ngôi sao lớn nhất dài rộng một do - tuần, sao nhỏ nhất dài rộng hai trăm bộ. Đỉnh núi Tu - di từ Đông sang Tây, từ Nam đến Bắc, dài rộng tám vạn bốn ngàn do - tuần. Gần núi Tu - di, phía Nam có núi Đại thiết vi[7] dài rộng dài tám vạn bốn ngàn dặm, cao tám vạn dặm. Thêm nữa, ngoài núi này có núi Ni - di - đà[8] bọc quanh núi ấy, cách núi Ni - di - đà lại có núi tên là Khư - la[9], cách núi này lại còn có núi tên Tỷ - sa[10], cách núi này lại còn có núi tên Mã đầu[11], lại có núi tên Tỳ - na - da, kế núi Tỳ - na - da[12] lại có núi tên Thiết vi, Đại thiết vi.
Chính giữa núi Thiết vi có tám địa ngục lớn, mỗi[13] địa ngục có mười sáu ngục phụ[14]. Núi Thiết vi này giúp ích rất nhiều cho Diêm - phù - đề - lý - địa. Nếu không có núi Thiết vi này, Diêm - phù - đề - lý - địa thường là nơi hôi thối. Bên ngoài núi Thiết vi có núi Hương tích[15]; cạnh đó có tám vạn bốn ngàn voi chúa trắng sinh sống nơi này. Mỗi con có sáu ngà được trang sức bằng vàng, bạc. Trong núi ấy có tám vạn bốn ngàn hang, các voi ấy cư trú ở đó. Con voi tối thượng được tạo bởi vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly. Thích Đề - hoàn Nhân thường tự thân cỡi nó. Chuyển luân thánh vương cỡi voi nhỏ nhất. Cạnh núi Hương tích có ao nước Ma - đà, sinh toàn hoa sen Ưu - bát, hoa Câumâu - đầu; những con voi kia nhổ rễ ăn. Cạnh ao nước Ma - đà có núi tên Ưu - xà - già - la. Núi này sinh ra đủ loại cây cỏ, chim, thú, sâu bọ, hổ báo đều nương vào núi này mà ở, có nhiều người đắc thần thông cũng đều sống ở đây. Kế đó lại có núi tên Bàn - trà - bà, tiếp lại có núi tên Kỳ - xà - quật. Đây là chỗ y cứ của mà Diêm - phù - lý - địa.
Các Tỳ - kheo nên biết, cho đến một lúc, khi thế gian này sắp băng hoại, trời không mưa, những lúa mạ đã gieo không tăng trưởng, các con sông suối nhỏ đều bị khô cạn, tất cả các hành đều quy về vô thường, không tồn tại lâu. Tỳ - kheo nên biết, hoặc có lúc bốn sông lớn như Hằng hà, Tư - đầu, Tử - đà, Bà - xoa cũng lại khô cạn không còn gì sót lại. Cũng vậy Tỳ - kheo, vô thường trăm lần biến đổi chính là vậy.
Tỳ - kheo, cho đến một lúc, khi thế gian này có hai mặt trời xuất hiện, lúc ấy các loại cây cối thảo mộc đều điêu tàn. Cũng vậy Tỳ - kheo, vô thường biến dịch, không được tồn tại lâu dài. Lúc ấy, nước các nguồn suối nhỏ đều khô cạn. Tỳ - kheo nên biết, khi hai mặt trời xuất hiện, nước trong bốn biển lớn tất cả đều khô cạn đến cả trăm do - tuần, dần dần đến bảy trăm do - tuần, nước tự nhiên khô.
Tỳ - kheo nên biết, khi ba mặt trời xuất hiện ở thế gian, nước bốn biển lớn trong vòng ngàn do - tuần, tự nhiên khô cạn, dần dần cho đến bảy ngàn do - tuần, nước tự nhiên khô cạn.
Tỳ - kheo nên biết, khi bốn mặt trời xuất hiện, nước bốn biển lớn chỉ còn sâu khoảng một ngàn do - tuần. Như vậy, Tỳ - kheo, tất cả các hành đều vô thường không tồn tại lâu dài được.
Tỳ - kheo, cho đến một lúc, khi thế gian có năm mặt trời xuất hiện, lúc ấy nước trong bốn biển lớn chỉ còn bảy trăm do - tuần nước, dần dần còn lại một trăm dotuần. Tỳ - kheo nên biết, khi năm mặt trời xuất hiện, nước biển chỉ còn một do - tuần; dần dần nước khô không còn gì hết. Khi năm mặt trời xuất hiện, nước chỉ còn bảy thước. Khi năm mặt trời xuất hiện, nước biển khô hết không còn gì. Tỳ - kheo nên biết, tất cả các hành đều vô thường, không tồn tại lâu dài được.
Tỳ - kheo, cho đến một lúc, khi sáu mặt trời xuất hiện, mặt đất dày sáu vạn tám ngàn do - tuần này đều bốc khói hết. Núi Tu - di cũng dần dần bị sụp lở. Khi sáu mặt trời xuất hiện, tam thiên đại thiên quốc độ này đều băng hoại. Giống như người thợ gốm nung đồ gốm. Lúc ấy, tam thiên đại thiên quốc độ cũng lại như vậy, lửa cháy bừng bừng, lan khắp nơi.
Tỳ - kheo nên biết, khi sáu mặt trời xuất hiện, tám địa ngục lớn cũng bị tiêu diệt, nhân dân qua đời. Năm loại trời nương vào núi Tu - di cũng mạng chung. Trời Tam thập tam, trời Diệm thiên, cho đến trời Tha hóa tự tại cũng mạng chung; cung điện đều trống. Khi sáu mặt trời xuất hiện, núi Tu - di và tam thiên đại thiên quốc độ đều trống không, không còn gì. Như vậy, Tỳ - kheo, các hành đều vô thường, không tồn tại lâu dài được.
Tỳ - kheo nên biết, cho đến một lúc, khi bảy mặt trời xuất hiện, bấy giờ đất tuy dày sáu vạn tám ngàn dotuần và tam thiên đại thiên quốc độ đều bốc lửa. Khi bảy mặt trời xuất hiện, núi Tu - di này dần dần tan hoại, trăm ngàn do - tuần tự nhiên sụp lở hoàn toàn không còn gì, cũng không còn thấy mảy may khói bụi, huống gì là thấy tro!
Khi ấy, cung điện trời Tam thập tam cho đến trời Tha hóa tự tại đều bốc lửa. Lửa bốc cháy nơi này cho đến trên Phạm thiên. Các Thiên tử mới sinh ở Thiên cung kia, vì xưa nay không thấy kiếp thiêu, nên khi thấy ánh lửa bốc cháy này trong lòng kinh hãi, lo bị lửa đốt. Song những vị Thiên tử sống lâu, đã từng thấy kiếp thiêu liền đến an ủi những Thiên tử mới sinh: “Các ông chớ có lo sợ. Lửa này hoàn toàn không thể lan đến nơi này.”
Tỳ - kheo nên biết, khi bảy mặt trời xuất hiện, từ nơi này đến sáu trời Dục giới, cho đến tam thiên đại thiên quốc độ, đều thành tro bụi, cũng không còn dấu vết hình chất. Như vậy, Tỳ - kheo, tất cả các hành đều vô thường, không thể bảo tồn lâu, đều đưa đến hoại diệt. Bấy giờ, nhân dân qua đời, sinh về quốc độ khác, hoặc sinh lên trời. Chúng sinh nào trong địa ngục, nếu tội trước đã hết thì sinh lên trời, hoặc quốc độ khác. Nếu chúng sinh địa ngục kia chưa hết tội thì lại dời đến quốc độ khác.
Tỳ - kheo nên biết, khi bảy mặt trời xuất hiện, không còn dấu vết ánh sáng mặt trời, mặt trăng và tinh tú. Khi ấy mặt trời, mặt trăng đã diệt, không còn ngày và đêm. Này Tỳ - kheo, đó gọi là vì quả báo nên đưa đến tan rã này.
Tỳ - kheo nên biết, khi thành tựu kiếp trở lại, cho đến một lúc lửa tự nó tắt mất, trong hư không nổi lên mây lớn, dần dần mưa xuống. Khi ấy, tam thiên đại thiên quốc độ này đều ngập nước. Nước dâng lên cõi Phạm thiên.
Tỳ - kheo nên biết, bấy giờ nước này dần dần ngưng lại và tự tiêu hết. Lại có cơn gió khởi lên tên là Tùy lam, thổi nước này tụ lại một chỗ. Lúc bấy giờ, gió này lại thổi dậy một ngàn núi Tu - di, một ngàn núi Chỉ - diđà[16], một ngàn núi Ni - di - đà, một ngàn núi Khư - la, một ngàn núi Y - sa, một ngàn núi Tỳ - na, một ngàn núi Thiết vi, một ngàn núi Đại thiết vi. Lại sinh tám ngàn địa ngục, lại sinh một ngàn núi Mã đầu, một ngàn núi Hương tích, một ngàn núi Bàn - trà - bà, một ngàn núi Ưu - xà - già, một ngàn cõi Diêm - phù - đề, một ngàn cõi Cù - da - ni, một ngàn cõi Phất - vu - đãi, một ngàn cõi Uấtđơn - việt. Lại sinh nước một ngàn biển, lại sinh một ngàn cung Tứ Thiên vương, một ngàn trời Tam thập tam, một ngàn Diệm thiên, một ngàn trời Đâu - suất, một ngàn trời Hóa tự tại, một ngàn trời Tha hóa tự tại.
Tỳ - kheo nên biết, cho đến một lúc, nước rút, đất bày trở lại. Khi ấy trên đất tự nhiên có lớp chất béo đất[17], rất thơm ngon hơn cả cam lồ. Nên biết chất béo đất kia có mùi vị giống như rượu ngọt bồ đào.
Tỳ - kheo nên biết, cho đến một lúc, các vị trời Quang âm nói với nhau: “Chúng ta xuống Diêm - phùđề để xem mặt đất kia khi phục hồi trở lại.” Thiên tử Quang âm xuống đến thế gian, thấy trên mặt đất có béo đất này liền dùng ngón tay quết đưa vào miệng mà ăn thử. Khi ấy, Thiên tử ăn nhiều béo đất nên không còn oai thần và ánh sáng nữa, thân thể trở nên nặng mà sinh ra xương thịt, mất thần túc không còn bay được. Thiên tử nào ăn ít béo đất thì thân thể không nặng, cũng không mất thần túc, có thể bay lại trên hư không.
Lúc ấy, những Thiên tử mất thần túc đều cùng nhau than khóc, nói với nhau: “Nay chúng ta thật là cùng khốn, lại mất thần túc, phải ở lại thế gian, không thể trở lên trời lại được.” Rồi họ ăn chất béo đất này và để ý nhan sắc nhau. Khi ấy, Thiên tử nào có nhiều dục ý thì trở thành thành người nữ, rồi làm tình dục cùng nhau vui thích.
Này Tỳ - kheo, đó gọi là lúc thế gian mới hình thành có pháp dâm này lưu truyền thế gian, là thường pháp tối sơ, khi người nữ xuất hiện ở đời; cũng lại là pháp xưa chẳng phải mới ngày nay.
Lúc ấy, các vị trời Quang âm khác thấy các Thiên tử đọa lạc liền đến quở trách rằng: “Vì sao các ông lại làm hạnh bất tịnh này.” Lúc này, các chúng sinh lại tự nghĩ: “Chúng ta phải tìm cách nào để có thể nghỉ đêm với nhau mà mọi người không thấy.” Dần dần chúng làm nhà cửa để tự che thân thể. Này Tỳ - kheo, đó gọi là do nhân duyên này mà ngày nay có nhà cửa.
Tỳ - kheo nên biết, cho đến một lúc chất béo đất tự nhiên lẩn xuống đất, sau đó sinh ra lúa gạo rất tươi sạch, cũng không có vỏ ngoài, hết sức thơm ngon khiến người ăn được mập trắng. Sáng thu hoạch, chiều lại sinh; chiều thu hoạch, sáng lại sinh. Này Tỳ - kheo, bấy giờ mới có tên lúa gạo này xuất hiện.
Tỳ - kheo, cho đến một lúc nhân dân biếng nhác, không chuyên cần sinh hoạt. Có một người suy nghĩ: “Vì sao ngày nào ta cũng phải gặt hái lúa thóc này. Nên thu một lần cho cả hai ngày.” Người đó liền đi thu hoạch lúa một lần cho hai ngày.
Bấy giờ, nhân dân lần lượt mang thai và do đó sự sinh đẻ.
Một lúc nọ, có một chúng sinh bảo chúng sinh kia: “Chúng ta cùng đi gặt lúa.” Người kia đáp: “Tôi đã lấy lương thực đủ cho hai ngày.” Người này nghe xong bèn nghĩ nghĩ: “Ta phải chứa lương thực bốn ngày.” Người ấy liền lo lương thực đủ bốn ngày. Lại có chúng sinh nói với chúng sinh ấy rằng: “Chúng ta cùng ra ngoài thâu lúa.” Người này đáp: “Tôi đã lấy lương thực bốn ngày.” Người kia nghe rồi liền nghĩ như vầy: “Ta phải lo lương thực tám ngày.” Liền lo chứa thức ăn tám ngày. Do vậy, lúa kia không sinh trở lại. Bấy giờ, mọi người suy nghĩ như vầy: “Thế gian có tai họa lớn. Giờ lúa thóc này không như xưa nữa. Nay phải phân chia lúa thóc này.” Tức thì chúng phân chia lúa thóc. Lúc ấy, có chúng sinh suy nghĩ như vầy: “Giờ ta hãy giấu lúa thóc mình. Nên ăn trộm lúa thóc người khác.” Rồi chúng sinh ấy giấu lúa thóc mình, ăn trộm lúa thóc người khác. Chủ kia bắt gặp nó ăn trộm lúa thóc, liền nói với nó: “Sao ông lấy lúa thóc của tôi? Giờ tha tội ông, sau này chớ tái phạm.” Bấy giờ, thế gian bắt đầu có tâm trộm cắp này. Lúc này, lại có chúng sinh nghe lời này rồi liền nghĩ như vầy: “Giờ ta hãy giấu lúa thóc mình. Nên trộm lúa thóc người khác.” Rồi, chúng sinh ấy liền cất vật của mình mà lấy vật người khác. Người chủ kia thấy vậy, nói với nó: “Sao ông lại lấy lúa thóc tôi?” Nhưng người kia im lặng không đáp. Lúc ấy, chủ vật liền giơ nắm tay đánh: “Từ nay về sau chớ có xâm lấn nữa!” Bấy giờ, mọi người dân nghe chúng sinh trộm lẫn nhau, bèn tụ tập và cùng bàn bạc: “Thế gian có phi pháp này, chúng trộm lẫn nhau. Nay phải lập người giữ ruộng để giữ gìn ruộng. Có chúng sinh kia thông minh tài giỏi nên lập làm chủ ruộng.” Rồi họ bầu chọn chủ ruộng mà nói rằng: “Các vị nên biết, thế gian có sự trộm cắp phi pháp này. Nay ông hãy giữ ruộng, chúng tôi sẽ trả công cho. Những người dân nào đến lấy trộm lúa thóc người khác, hãy trị tội họ.” Bấy giờ chủ ruộng được lập.
Tỳ - kheo nên biết, người giữ ruộng kia bấy giờ được gọi là dòng Sát - lợi đều là pháp xưa chẳng phải pháp bây giờ.
Rồi Thế Tôn liền nói kệ này:
Dòng Sát - lợi bắt đầu
Đứng đầu trong các họ
Người thông minh tài giỏi
Được trời người kính đãi.
Bấy giờ, có người kia xâm phạm vật người khác, nó liền bị Sát - lợi bắt trị phạt. Nhưng người ấy lại không sửa đổi lỗi mà vẫn tái phạm. Chúa Sát - lợi ra lệnh làm đao trượng, bắt người kia mà bêu đầu. Bấy giờ thế gian bắt đầu có sự sát sinh này. Khi ấy, mọi người dân nghe giáo lệnh này: “Nếu có ai trộm cướp lúa thóc người khác, chúa Sát - lợi sẽ bắt giết.” Tất cả sợ hãi, lông tóc đều dựng đứng.
Có người dựng am cỏ, ở trong ấy tọa thiền, tu phạm hạnh, nhất quyết xả bỏ gia nghiệp, vợ con thê thiếp. Độc cư nhàn tịnh quyết chí tu phạm hạnh. Nhân từ đó về sau có dòng họ Bà - la - môn. Bấy giờ liền có hai dòng họ xuất hiện ở đời.
Tỳ - kheo nên biết, thời bấy giờ do trộm cắp nên có sát sinh; do sát nên có đao trượng.
Bấy giờ, chúa Sát - lợi bố cáo nhân dân: “Người nào đẹp đẽ, tài cao, sẽ được giáo thống lãnh nhân dân này.” Lại bố cáo: “Nếu người dân nào trộm cắp sẽ bị trừng trị.” Sau đó liền có dòng họ Tỳ - xá này xuất hiện ở đời.
Bấy giờ, có nhiều chúng sinh nghĩ như vầy: “Nay mọi người sát hại nhau, đều là do nghề nghiệp mà ra. Nay ta phải lui tới khắp nơi để mưu tự nuôi sống.” Khi ấy liền có dòng họ Thủ - đà - la xuất hiện ở đời.
Rồi Thế Tôn liền nói kệ này:
Đầu tiên dòng Sát - lợi
Kế đến Bà - la - môn
Thứ ba là Tỳ - xá
Tiếp nữa dòng Thủ - đà.
Có bốn dòng dõi này
Dần dần sinh lẫn nhau
Đều từ thân trời đến
Và cùng một sắc da.
Tỳ - kheo nên biết, khi có tâm sát sinh, trộm cắp này, nên không còn có lúa thóc tự nhiên này nữa. Bấy giờ, có năm loại hạt giống, một là hạt từ rễ, hai là hạt từ thân, ba là hạt từ cành, bốn là hạt từ hoa, năm là hạt từ quả và sinh những loại hạt giống khác. Đó gọi là năm loại giống, đều do gió thổi từ các quốc độ nơi khác đến, được dùng để trồng, lấy đó để tự nuôi sống.
Như vậy, Tỳ - kheo, thế gian có điềm báo này liền có sinh, già, bệnh, chết, cho đến khiến cho ngày nay có thân năm thạnh ấm này, không dứt được biên tế khổ.
Đó gọi là sự biến đổi lúc kiếp thành bại của thế giới mà Ta nói cho các ông. Những điều mà chư Phật Thế Tôn cần làm, nay Ta đã nói hết cho các ông. Hãy vui sống nơi chỗ nhàn tĩnh, nên nhớ nghĩ ngồi thiền, chớ sinh giải đãi. Nay không tinh thành, sau hối hận vô ích. Đây là những lời dạy dỗ của Ta.
Các Tỳ - kheo sau khi nghe những gì Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở tại Ca - lan - đà trong vườn Trúc, tại thành La - duyệt, cùng chúng đại Tỳ - kheo năm trăm vị.
Bấy giờ, vua nước Ma - kiệt - đà là A - xà - thế ở giữa quần thần nói rằng:
–Nước Bạt - kỳ rất thịnh vượng, dân chúng đông đúc. Ta sẽ chinh phạt để thu phục nước ấy.
Rồi vua A - xà - thế bảo Bà - la - môn Bà - lợi - ca[19] rằng:
–Ông hãy đến chỗ Thế Tôn, xưng tên họ ta mà hỏi thăm Thế Tôn, đảnh lễ, thừa sự rồi thưa: “Vua A - xà - thế bạch Thế Tôn, vua có ý muốn chinh phạt nước Bạt - kỳ, không biết có được không?” Nếu Như Lai có dạy gì, ông hãy nhớ kỹ rồi về nói lại cho ta. Vì sao? Như Lai không có nói hai lời.
Bà - la - môn vâng lệnh vua, đến chỗ Thế Tôn, thăm hỏi rồi ngồi qua một bên. Bà - la - môn bạch Phật rằng:
–Vua A - xà - thế kính lạy Thế Tôn, thừa sự, hỏi thăm. Rồi lại bạch:
–Ý muốn vua muốn công phạt nước Bạt - kỳ, trước hết đến hỏi Phật, không biết có được không?
Bấy giờ, Bà - la - môn kia lấy y che kín đầu, chân mang giày ngà voi, hông đeo kiếm bén, không nên vì ông nói pháp.
Khi ấy, Thế Tôn bảo A - nan:
–Nếu nhân dân nước Bạt - kỳ tu bảy pháp, quyết không bị giặc cướp bên ngoài tiêu diệt. Những gì là bảy? Nếu nhân dân nước Bạt - kỳ tập họp lại một chỗ không phân tán, sẽ không bị nước khác phá hoại. Đó gọi là pháp thứ nhất không bị giặc cướp bên ngoài phá hoại.
Lại nữa, A - nan, nếu người nước Bạt - kỳ trên dưới hòa thuận, nhân dân nước Bạt - kỳ sẽ không bị người ngoài cầm giữ. Này A - nan, đó gọi là pháp thứ hai không bị giặc cướp bên ngoài phá hoại.
Lại nữa, A - nan, nếu người nước Bạt - kỳ không tà dâm, đắm sắc người nữ khác, đó gọi là pháp thứ ba không bị giặc ngoại xâm phá hoại.
Lại nữa, A - nan, nếu người nước Bạt - kỳ không đem việc nơi này truyền đến nơi kia, cũng lại không đem việc nơi kia truyền đến nơi này, đó gọi là pháp thứ tư không bị giặc cướp bên ngoài phá hoại.
Lại nữa, A - nan, nếu người nước Bạt - kỳ cúng dường Sa - môn, Bà - la - môn, thừa sự, kính lễ người phạm hạnh, đó gọi là pháp thứ năm không bị giặc cướp bên ngoài phá hoại.
Lại nữa, A - nan, nếu người nước Bạt - kỳ không tham đắm của báu người khác, đó gọi là pháp thứ sáu không bị giặc cướp bên ngoài phá hoại.
Lại nữa, A - nan, nếu người nước Bạt - kỳ đều cùng một lòng, hướng[20] đến miếu thần, mà chuyên tinh ý mình, sẽ không bị giặc cướp bên ngoài phá hoại. Đó gọi là pháp thứ bảy không bị giặc ngoại xâm phá hoại.
A - nan, đó gọi là người Bạt - kỳ tu bảy pháp này, quyết không bị giặc cướp bên ngoài phá hoại.
Khi ấy, Phạm chí bạch Phật:
–Giả sử người nước Bạt - kỳ thành tựu chỉ một pháp thôi, còn không thể hoại, huống chi đến bảy pháp thì làm sao hoại nổi? Thôi, thôi!
Bạch Thế Tôn, việc nước đa đoan, con muốn trở về. Phạm chí liền từ chỗ ngồi đứng dậy mà đi.
Sau khi Phạm chí đi được một lát, Thế Tôn bảo các Tỳ - kheo:
–Nay Ta sẽ nói bảy pháp không thoái chuyển, các ông hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ!
Các Tỳ - kheo bạch Phật:
–Thưa vâng, Thế Tôn!
Bấy giờ, các Tỳ - kheo vâng lời Phật dạy. Thế Tôn bảo:
–Sao gọi là bảy pháp không thoái chuyển?
Tỳ - kheo nên biết, nếu Tỳ - kheo cùng tập hợp lại một chỗ, đều cùng hòa thuận, trên dưới chăm sóc nhau, tiến dần lên trên, tu các pháp lành không thoái chuyển, không để cho ma được tùy tiện. Đó gọi là pháp không thoái chuyển thứ nhất.
Lại nữa, chúng Tăng hòa hợp, thuận theo giáo pháp, tiến dần lên trên không thoái chuyển, không để ma được tùy tiện. Đó gọi là pháp không thoái chuyển thứ hai.
Lại nữa, Tỳ - kheo không bận rộn công việc, không huân tập nghiệp đời, tiến dần lên trên, không để cho ma được tùy tiện. Đó gọi là pháp không thoái chuyển thứ ba.
Lại nữa, Tỳ - kheo không tụng đọc sách tạp, trọn ngày sách tấn tình ý tiến dần lên trên, không để cho ma được tùy tiện. Đó gọi là pháp không thoái chuyển thứ tư.
Lại nữa, Tỳ - kheo siêng tu pháp, trừ khử ngủ nghỉ, thường tự cảnh tỉnh, tiến dần lên trên, không để cho ma được tùy tiện. Đó gọi là pháp không thoái chuyển thứ năm.
Lại nữa, Tỳ - kheo không học toán thuật, cũng không khuyến khích người khác học, thích chỗ yên tĩnh, tu tập pháp, tiến dần lên trên, không để cho ma được tùy tiện. Đó gọi là pháp không thoái chuyển thứ sáu.
Lại nữa, Tỳ - kheo khởi tưởng tất cả thế gian không đáng ưa thích, tập hạnh thiền, kham nhẫn pháp giáo, tiến dần lên trên, không để cho ma được tùy tiện. Đó gọi là pháp không thoái chuyển thứ bảy.
Tỳ - kheo thành tựu bảy pháp này, hòa thuận với nhau, ma không thể tùy tiện.
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ này:
Trừ bỏ mọi nghiệp đời
Không tư duy loạn tưởng
Nếu không hành như vậy
Không thể được Tam - muội.
Người hay ưa thích pháp
Phân biệt nghĩa pháp ấy
Tỳ - kheo ưa hạnh này
Sẽ dẫn đến Tam - muội.
Cho nên, Tỳ - kheo, hãy tìm cầu phương tiện thành tựu bảy pháp này.
Các Tỳ - kheo, hãy học điều này như vậy.
Các Tỳ - kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Kỳ - đà Cấp cô độc, nước Xá - vệ.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ - kheo:
–Nay, ta sẽ nói về bảy sử[21], các ông hãy ghi nhớ kỹ.
Các Tỳ - kheo đáp:
–Thưa vâng, Thế Tôn!
Các Tỳ - kheo vâng lời Phật dạy.
Thế Tôn nói:
–Những gì là bảy?
1. Sử tham dục.
2. Sử sân hận.
3. Sử kiêu mạn.
4. Sử ngu si.
5. Sử nghi.
6. Sử tà kiến.
7. Sử tham đắm thế gian[22].
Tỳ - kheo, đó gọi là có bảy sử này khiến chúng sinh, mãi mãi ở nơi tối tăm, thân bị trói buộc, trôi lăn mãi ở thế gian không có lúc dừng, cũng không thể biết cội nguồn của sinh tử. Giống như hai con trâu một đen, một trắng cùng chung một cái ách, cùng lôi kéo nhau không thể xa rời nhau. Chúng sinh này cũng như vậy, bị tham dục sử, vô minh sử này trói buộc không thể lìa nhau, năm sử còn lại cũng đuổi theo. Năm sử đuổi theo thì bảy sử cũng vậy. Nếu kẻ phàm phu bị bảy sử này trói buộc trôi lăn mãi trong sinh tử không được giải thoát, không thể biết nguồn gốc khổ.
Tỳ - kheo nên biết, do bảy sử này mà có ba đường dữ địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Do bảy sử này nên không thể vượt qua được cảnh giới tệ ma. Nhưng pháp bảy sử này lại có bảy phương thuốc. Những gì là bảy? Sử tham dục, dùng niệm giác ý để trị. Sử sân hận, dùng pháp giác ý để trị. Sử tà kiến, dùng tinh tấn giác ý để trị. Sử tham đắm thế gian, dùng hỷ giác ý để trị. Sử kiêu mạn dùng khinh an* giác ý để trị. Sử nghi, dùng định giác ý để trị. Sử vô minh, dùng xả* giác ý để trị. Tỳ - kheo, đó gọi là dùng bảy Giác ý để trị bảy sử ấy.
Tỳ - kheo nên biết, xưa khi Ta chưa thành Phật, còn đang thực hành Bồ - tát hạnh, ngồi dưới bóng cây, suy nghĩ như vầy: “Chúng sinh Dục giới bị những gì trói buộc?” Lại nghĩ: “Chúng sinh này bị bảy sử cuốn trôi trong sinh tử, mãi không được giải thoát. Nay Ta cũng bị bảy sử này trói, không giải thoát được.” Rồi Ta lại nghĩ: “Lấy gì để trị bảy sử này?” Ta lại suy nghĩ: “Bảy sử này nên dùng bảy giác ý để trị. Ta hãy tư duy về bảy Giác ý.” Khi tư duy bảy Giác ý, tâm dứt sạch hữu lậu, liền được giải thoát. Sau khi thành đạo Vô thượng Chánh chân, trong bảy ngày ngồi kiết già, Ta tư duy thêm nữa bảy Giác ý này. Cho nên, các Tỳ - kheo, muốn dứt trừ bảy sử thì phải tu tập pháp bảy Giác ý.
Các Tỳ - kheo, hãy học điều này như vậy.
Các Tỳ - kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Kỳ - đà Cấp cô độc, nước Xá - vệ. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ - kheo:
–Có bảy hạng người đáng thờ, đáng kính, là phước điền vô thượng thế gian. Những ai là bảy hạng người?
1. Hành Từ.
2. Hành Bi.
3. Hành Hỷ.
4. Hành Xả*.
5. Hành Không.
6. Hành Vô tướng.
7. Hành Vô nguyện.
Đó gọi là bảy hạng người đáng thờ, đáng kính, là phước điền vô thượng thế gian. Vì sao? Vì có chúng sinh nào hành bảy pháp này thì ở trong hiện pháp được quả báo.
Khi ấy, A - nan bạch Thế Tôn:
–Vì sao không nói Tu - đà - hoàn, Tư - đà - hàm, A - nahàm, A - la - hán, Bích - chi - phật, Phật mà lại nói bảy pháp này?
Thế Tôn nói:
–Bảy hạng người, hành Từ,… hành của họ cùng với Tu - đà - hoàn cho đến Phật không giống nhau. Tuy cúng dường Tu - đà - hoàn cho đến Phật cũng không được báo hiện tiền; nhưng cúng dường bảy hạng người này, ở hiện đời được báo. Cho nên, A - nan, cần phải nỗ lực dũng mãnh để thành tựu bảy pháp này. A - nan, hãy học điều này như vậy.
A - nan sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở tại ao Di hầu, Tỳ - xá - ly cùng chúng đại Tỳ - kheo gồm năm trăm vị.
Bấy giờ, đến giờ khất thực, Thế Tôn đắp y mang bát cùng A - nan vào Tỳ - xá - ly khất thực. Lúc ấy, trong thành Tỳ - xá - ly có trưởng giả tên Tỳ - la - tiên nhiều của lắm báu không thể đếm xuể, nhưng lại tham lam keo kiệt, không có tâm huệ thí, chỉ hưởng phước cũ, không tạo thêm phước mới. Lúc ấy, trưởng giả kia dẫn các thể nữ ở hậu cung ca múa vui đùa với nhau.
Bấy giờ, Thế Tôn đi đến con đường ấy, biết mà vẫn hỏi A - nan:
–Tiếng đờn ca đang nghe phát ra từ nhà nào vậy?
A - nan bạch Phật:
–Đó là từ nhà của trưởng giả Tỳ - la - tiên.
Phật bảo A - nan:
–Sau bảy ngày nữa, trưởng giả này sẽ qua đời, sinh vào địa ngục Thế khốc.[23] Vì sao? Đó là pháp thường. Nếu người nào đoạn hết căn lành, khi mạng chung đều sinh vào địa ngục Thế khốc. Nay trưởng giả này đã hết phước cũ lại không tạo phước mới.
A - nan bạch Phật:
–Có nhân duyên gì khiến trưởng giả này sau bảy ngày không qua đời không?
Phật bảo A - nan:
–Không có nhân duyên nào để không qua đời. Những hành vi đã tạo kiếp trước hôm nay đã hết. Điều này không thể tránh khỏi.
A - nan bạch Phật:
–Có phương cách nào giúp trưởng giả này không sinh vào địa ngục Thế khốc không?
Phật bảo A - nan:
–Có cách này có thể giúp trưởng giả không vào địa ngục.
A - nan bạch Phật:
–Nhân duyên nào để trưởng giả không vào địa ngục? Phật bảo A - nan:
–Nếu trưởng giả này, cạo bỏ râu tóc, mặt ba pháp y, xuất gia học đạo, thì tránh khỏi tội này được.
A - nan bạch Phật:
–Nay con có thể khiến cho trưởng giả này xuất gia học đạo!
Rồi thì A - nan từ giã Thế Tôn, đi đến nhà trưởng giả này, đứng ở ngoài cửa. Khi ấy, trưởng giả từ xa trông thấy A - nan đến, liền ra nghênh đón và mời ngồi. A - nan bảo trưởng giả:
–Hiện tôi ở gần Bậc Nhất Thiết Trí, nghe Như Lai báo trước về thân ông, sau bảy ngày nữa thân hoại mạng chung sẽ sinh vào địa ngục Thế khốc.
Trưởng giả nghe rồi, trong lòng sợ hãi, lông tóc dựng đứng, thưa với A - nan:
–Có cách nào giúp trong bảy ngày không qua đời không?
A - nan đáp:
–Không có cách nào giúp trong bảy ngày thoát khỏi mạng chung.
Trưởng giả lại bạch:
–Có cách nào giúp con mạng chung không sinh vào địa ngục Thế khốc không?
A - nan đáp:
–Thế Tôn có dạy như vầy: “Nếu trưởng giả cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia học đạo, thì không vào trong địa ngục.” Nay trưởng giả có thể xuất gia học đạo để đến bờ kia.
Trưởng giả bạch:
–Ngài A - nan, hãy đi trước, tôi sẽ đến ngay.
Sau đó, A - nan liền ra đi. Trưởng giả tự nghĩ: “Bảy ngày hãy còn xa. Nay ta có thể tự vui thích ngũ dục, sau đó sẽ xuất gia học đạo.”
Hôm sau, A - nan lại đến nhà trưởng giả, nói với trưởng giả:
–Một ngày đã qua, chỉ còn lại sáu ngày, đúng lúc xuất gia!
Trưởng giả bạch:
–Ngài A - nan, hãy đi trước đi, tôi sẽ theo ngay.
Nhưng trưởng giả kia vẫn cố không đi. Qua hai ngày, ba ngày cho đến sáu ngày, lúc này A - nan đến nhà trưởng giả bảo trưởng giả:
–Đúng lúc hãy xuất gia, kẻo sau hối hận không kịp. Nếu không xuất gia, hôm nay mạng chung sẽ sinh vào trong địa ngục Thế khốc.
Trưởng giả bạch A - nan:
–Tôn giả hãy đi trước, tôi sẽ theo sau ngay.
A - nan bảo:
–Trưởng giả, hôm nay dùng thần túc gì để đến nơi ấy, mà bảo tôi đi trước? Nay cả hai phải đi cùng lúc.
Lúc ấy, A - nan dẫn trưởng giả này đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ sát chân, rồi bạch Phật:
–Trưởng giả này, nay muốn xuất gia học đạo, cúi xin Như Lai cho phép cạo bỏ râu tóc, khiến được học đạo.
Phật bảo A - nan:
–Nay ông hãy đích thân độ cho trưởng giả này.
Lúc ấy, A - nan vâng lời Phật dạy, liền cạo bỏ râu tóc cho trưởng giả, dạy cho đắp ba pháp y, cho học chánh pháp. Bấy giờ, A - nan dạy Tỳ - kheo kia rằng:
–Ông hãy nhớ nghĩ tu hành, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng Tỳ - kheo, niệm giới, niệm thí, niệm thiên, niệm tịch tĩnh, niệm an - ban, niệm thân, niệm tử. Hãy tu hành pháp như vậy. Đó gọi là Tỳ - kheo. Hành mười niệm này thì lập tức được quả báo lớn, được pháp vị cam lồ.
Sau khi tu tập pháp như vậy rồi, ngay trong ngày hôm đó, mạng chung sinh lên Tứ Thiên vương.
Bấy giờ, A - nan liền hỏa thiêu thân kia, rồi trở về chỗ Thế Tôn, đảnh lễ sát chân, đứng qua một bên. Bấy giờ, A - nan bạch Thế Tôn:
–Vừa rồi Tỳ - kheo Tỳ - la - tiên đã qua đời. Ông sinh về nơi nào?
Thế Tôn bảo:
–Tỳ - kheo này chết sinh lên Tứ Thiên vương.
A - nan bạch Phật:
–Ở đó mạng chung sẽ sinh nơi nào?
Thế Tôn bảo:
–Ở đó mạng chung sẽ sinh lên trời Tam thập tam, rồi lần lượt sinh lên trời Diệm thiên, trời Đâu - suất, trời Hóa tự tại, trời Tha hóa tự tại. Từ đó mạng chung, sinh trở lại cho đến trời Tứ Thiên vương. Này A - nan, đó gọi là Tỳ - kheo Tỳ - la - tiên bảy phen chuyển vòng trong trời người, cuối cùng được làm thân người, xuất gia học đạo, sẽ dứt sạch gốc khổ. Vì sao? Vì vị ấy có lòng tin ở Như Lai.
A - nan nên biết, Cõi Diêm - phù - đề này, Nam Bắc hai vạn một ngàn do - tuần, Đông Tây bảy ngàn do - tuần. Nếu có người cúng dường người cõi Diêm - phù - đề, phước đó có nhiều không?
A - nan bạch Phật:
–Thật nhiều, thật nhiều, bạch Thế Tôn.
Phật bảo A - nan:
–Nếu chúng sinh nào chỉ trong khoảnh khắc, lòng tín tâm không đứt đoạn, tu tập mười niệm, phước kia không thể lường, không có thể đo lường được. Như vậy, A - nan hãy tìm cầu phương tiện tu tập mười niệm.
A - nan, hãy học điều này như vậy.
A - nan sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trong vườn Kỳ - đà Cấp cô độc, nước Xá - vệ.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ - kheo:
–Ta sẽ nói pháp cực diệu, khoảng đầu, giữa, cuối đều thiện xảo, nghĩa lý sâu xa, đầy đủ tu phạm hạnh. Kinh này gọi là: “Pháp thanh tịnh các lậu”, các ông hãy nhớ nghĩ kỹ.
Các Tỳ - kheo đáp:
–Thưa vâng, Thế Tôn!
Các Tỳ - kheo vâng theo Phật dạy.
Thế Tôn bảo:
–Sao gọi là pháp sạch các lậu? Hoặc có hữu lậu được đoạn trừ bởi thấy, hoặc có hữu lậu được đoạn trừ bởi thân cận, hoặc có hữu lậu được đoạn trừ bởi viễn ly, hoặc có hữu lậu được đoạn trừ bởi ngộ lạc, hoặc có hữu lậu được đoạn trừ bởi oai nghi, hoặc có hữu lậu được đoạn trừ bởi tư duy.[25]
Sao gọi là hữu lậu được đoạn trừ bởi thấy? Ở đây, kẻ phàm phu không gặp Thánh nhân, không thuận theo pháp Như Lai, không thể thủ hộ pháp Hiền thánh, không thân cận Thiện tri thức, không tùng sự với Thiện tri thức; pháp đã được nghe cần tư duy mà không phân biệt; pháp không nên tư duy mà tư duy, khiến cho dục lậu chưa sinh liền sinh, dục lậu đã sinh liền tăng nhiều; hữu lậu chưa sinh liền sinh, hữu lậu đã sinh liền tăng nhiều; vô minh lậu chưa sinh liền sinh, vô minh lậu đã sinh liền tăng nhiều. Đó là pháp không nên tư duy mà tư duy.
Sao gọi là pháp nên tư duy, nhưng không tư duy[26]? Pháp nên tư duy là do pháp đó mà dục lậu chưa sinh khiến không sinh, dục lậu đã sinh thì liền diệt; hữu lậu chưa sinh khiến không sinh, hữu lậu đã sinh thì liền diệt; vô minh lậu chưa sinh khiến không sinh, vô minh lậu đã sinh thì liền diệt. Đây gọi là pháp nên tư duy mà không tư duy. Điều không nên tư duy mà tư duy, điều nên tư duy lại không tư duy, khiến dục lậu chưa sinh liền sinh, dục lậu đã sinh liền tăng nhiều, hữu lậu chưa sinh liền sinh, hữu lậu đã sinh liền tăng nhiều, vô minh lậu chưa sinh liền sinh, vô minh lậu đã sinh liền tăng nhiều. Người kia khởi lên tư duy như vầy: “Có quá khứ lâu xa hay không? Ta có thể có trong quá khứ lâu xa ấy.” Hoặc lại tư duy: “Không có quá khứ lâu xa. Ta có trong quá khứ lâu xa hay không? Ai có trong quá khứ lâu xa? Có tương lai lâu xa hay không? Ta sẽ có trong tương lai lâu xa.” Hoặc lại nói: “Không tương lai lâu xa. Ta sẽ có trong tương lai lâu xa hay không? Ai có tương lai lâu xa? Vì sao có chúng sinh lâu xa này? Chúng sinh lâu xa này từ đâu mà đến? Từ đây mạng chung sẽ sinh về đâu?” Người kia khởi lên những ý nghĩ chẳng lành này liền khởi lên sáu kiến, lần lượt sinh tưởng tà: Thấy rằng có ngã, có kiến này hay không? Thấy rằng không có ngã, có phát sinh kiến này hay không? Thấy rằng vừa có ngã, vừa không ngã, ở trong đó có phát sinh kiến này hay không? Lại do quán sát tự thân khởi lại kiến này: Ở nơi chính ta mà không thấy có ta. Lại khởi lên kiến này: Ở nơi không có ta mà không thấy không có ta, ở trong đó khởi kiến này. Bấy giờ, người kia lại sinh tà kiến này: Ngã đời này cũng là ngã đời sau, tồn tại mãi ở đời không bị tan rã, cũng không biến dịch, lại không dời đổi.[27] Đó gọi là tụ tà kiến. Tà kiến, tai họa, sầu bi, khổ não đều từ đây sinh, không thể chữa trị, cũng lại không thể loại bỏ, làm tăng gốc khổ. Do đó không phải là hành của Sa - môn, đạo Niết - bàn.
Lại nữa, Tỳ - kheo, đệ tử Hiền thánh tu hành pháp kia không mất thứ lớp, khéo biết thủ hộ, tùng sự theo Thiện tri thức. Vị ấy có thể phân biệt, biết rõ pháp nên tư duy và cũng biết rõ pháp nào nên tư duy. Vị ấy không tư duy pháp không nên tư duy; tư duy pháp nên tư duy.
Pháp gì không nên tư duy mà vị ấy không tư duy? Ở đây, các pháp khiến dục lậu chưa sinh bèn sinh, dục lậu đã sinh bèn tăng nhiều; hữu lậu chưa sinh bèn sinh, hữu lậu đã sinh bèn tăng nhiều; vô minh lậu chưa sinh bèn sinh, vô minh lậu đã sinh bèn tăng nhiều. Đây gọi là pháp không nên tư duy.
Pháp gì nên tư duy mà vị ấy tư duy? Ở đây, các pháp khiến dục lậu chưa sinh khiến không sinh, dục lậu đã sinh liền diệt, hữu lậu chưa sinh khiến không sinh, hữu lậu đã sinh liền diệt, vô minh lậu chưa sinh khiến không sinh, vô minh lậu đã sinh liền diệt. Đây gọi là pháp nên tư duy. Vị ấy cũng không tư duy điều không nên tư duy vị và tư duy điều nên tư duy. Vị ấy tư duy như vậy, liền diệt ba pháp. Những gì là ba? Thân tà, giới đạo và nghi[28]. Nếu không thấy không biết thì tăng thạnh hữu lậu, nếu thấy nghe nghĩ biết thì không tăng hạnh hữu lậu; đã biết, đã thấy thì hữu lậu liền không sinh. Đây gọi là lậu do thấy đoạn được.[29]
Sao gọi là lậu được đoạn bằng kham nhẫn[30]? Ở đây, Tỳ - kheo chịu đựng đói lạnh, cần khổ, gió mưa, ruồi muỗi, lời ác, mạ nhục, thân sinh thống khổ, rất là đau buồn, mạng sắp muốn dứt, mà có thể nhẫn chịu. Nếu không như vậy, liền sinh khổ não. Nếu có thể kham chịu, thì không sinh như vậy. Đây gọi là lậu được đoạn bởi kham nhẫn*.
Sao gọi là lậu được đoạn bằng thân cận[31]? Ở đây, Tỳ - kheo nắm giữ tâm khi nhận y, không vì trang sức mà chỉ muốn giữ gìn thân thể, muốn trừ lạnh nóng, muốn cho gió mưa không chạm vào thân mình; lại che thân thể không để lộ ra ngoài. Lại nữa, nắm giữ tâm theo thời khất thực, không khởi tâm nhiễm đắm, chỉ cốt giữ gìn thân thể khiến cho bệnh cũ được lành, mới không sinh; gìn giữ các hành không cho xúc phạm, an ổn lâu dài mà tu tập phạm hạnh lâu bền ở đời. Lại nắm giữ tâm ý, khi thọ dụng giường ghế, cũng không ham trang trí tốt đẹp, chỉ mong trừ đói lạnh, gió mưa, ruồi muỗi, giữ gìn thân mình để thực hành đạo pháp. Lại nữa, giữ tâm khi thọ dụng thuốc trị bệnh, không sinh tâm nhiễm đắm nơi thuốc trị bệnh kia, chỉ mong cho bệnh tật được trừ khỏi, thân thể được an ổn. Nếu không thọ dụng như vậy thì tai hại của hữu lậu sẽ phát sinh. Nếu thọ dụng như vậy thì tai hại của hữu lậu không sinh. Đây gọi là hữu lậu được đoạn bởi thân cận.
Sao gọi là lậu hoặc được đoạn bởi viễn ly? Ở đây,
Tỳ - kheo trừ bỏ tưởng loạn[32] giống như voi dữ, lạc đà, bò ngựa, hổ sói, chó, rắn, hầm sâu, bờ hiểm, gai góc, sườn cao, bùn lầy; thảy đều nên tránh xa chúng; chớ tùng sự với ác tri thức, cũng lại không gần gũi với người ác, hay tư duy thuần thục không lìa khỏi đầu mối của tâm. Nếu không giữ gìn[33] thì sinh hữu lậu, nếu ủng hộ* thì không sinh hữu lậu. Đây gọi là hữu lậu được đoạn bởi viễn ly.
Sao gọi là hữu lậu được đoạn bởi ngộ lạc[34]? Ở đây, Tỳ - kheo sinh tưởng dục mà không lìa bỏ; khởi tưởng sân nhuế cũng không lìa bỏ; lại khởi tưởng tật đố cũng không lìa bỏ. Nếu không lìa bỏ thì sinh hữu lậu, nếu có thể lìa bỏ liền có thể không khởi hữu lậu. Đây gọi là hữu lậu được đoạn bởi ngộ lạc.
Sao gọi là lậu được đoạn nhờ oai nghi[35]? Ở đây, Tỳ - kheo khi mắt thấy sắc không khởi tưởng sắc, cũng không khởi tâm nhiễm ô, giữ nhìn nhãn căn đầy đủ, không để khuyết lậu. Khi tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân biết mịn trơn, ý biết pháp đều không khởi tâm nhiễm ô, cũng không khởi đắm mà giữ gìn ý căn. Nếu không giữ gìn oai nghi mình thì sinh hữu lậu, nếu giữ gìn oai nghi mình thì không có tai hoạn hữu lậu. Đây gọi là lậu được đoạn bởi oai nghi.
Sao gọi là lậu được đoạn bởi tư duy? Ở đây, Tỳ - kheo tu niệm giác ý, y vô dục, y không nhiễm ô, y diệt tận mà cầu xuất yếu; tu pháp giác ý, tinh tấn giác ý, hỷ giác ý, khinh an* giác ý, định giác ý, xả* giác ý, y vô dục, y không nhiễm ô, y diệt tận mà cầu xuất yếu. Nếu không tu pháp này thì sinh tai hoạn hữu lậu. Nếu có thể tu pháp này thì không sinh tai hoạn hữu lậu. Đây gọi là lậu được đoạn bởi tư duy.
Lại nữa Tỳ - kheo, ở nơi Tỳ - kheo mà những gì là hữu lậu được đoạn trừ bởi kiến, liền được đoạn trừ bởi kiến; được đoạn trừ bởi kham nhẫn* liền được đoạn trừ bởi kham nhẫn*, được đoạn trừ bởi thân cận liền thân cận, viễn ly liền được đoạn trừ bởi viễn ly, được đoạn trừ bởi oai nghi liền được đoạn trừ bởi oai nghi, được đoạn trừ bởi tư duy liền tư duy. Đó gọi là Tỳ - kheo đầy đủ tất cả oai nghi có thể đoạn ái kết, bỏ ái dục, vượt qua bốn bộc lưu, dần dần thoát khổ. Này Tỳ - kheo, đó gọi là pháp trừ hữu lậu.
Những gì mà chư Phật Thế Tôn cần làm, vì từ niệm đối với tất cả chúng sinh, nay Ta cũng đã làm xong. Các ông nên luôn luôn vui thích chỗ vắng, ở dưới bóng cây, chuyên cần tinh tấn, chớ có giải đãi. Hiện tại không nỗ lực, sau hối hận cũng vô ích. Đây là những lời dạy dỗ của Ta.
Các Tỳ - kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
❑
[1] . Pāli, A. VII. 62 Suriya (R. iv.99), D. 27 Aggañña.
[2] . Tế cước 細 脚. Có lẽ Câu - xá 11 (tr. 59c2) gọi là Kiên thủ 堅手 (Skt. Karoṭapāṇi).
[3] . Thi - lợi - sa 尸利沙.
[4] . Hoan duyệt 歡悅. Có lẽ Câu - xá 11 nói là Hằng kiêu 恒憍 (Skt. Sadāmatta, nhưng đây đọc là Sadāmanas).
[5] . Lực thạnh 力盛. Có lẽ Câu - xá 11 là Trì man (Skt. Māladhara, nhưng đây đọc là Baladhara).
[6] . Pāli, Jā. i. 204: Đế Thích đặt năm vòng đai bảo vệ cung thành Tam thập tam, từ dưới chân Tu - di đi lên:
Nāga (Rồng), Garuḍa (Kim sí điểu), Kumbhaṇḍa (Cưu - bàn - trà), Yakkha (Dạ - xoa), và Tứ Thiên vương.
[7] . Thiết vi 大鐵圍. Skt. (Mahā)Xakrravāḍa. Pāli: Cakkavāḷa. Các núi bao quanh Tu - di, xem Trường, kinh 29 Thế Ký, phẩm Diêm - phù - đề. Câu - xá 11, phẩm 3 Thế Gian. Thứ tự được kể trong bản Hán dịch này không phù hợp với các tài liệu dẫn trên.
[8] . Ni - di - đà 尼彌陀, Skt. Nimimdhara. Pāli: Nemindhara.
[9] . Khư - la 佉羅. Skt. Khadiraka. Pāli: Karavīka.
[10] . Tỳ - sa 俾沙. Skt. Īṛādhara. Pāli: Īsadhara.
[11] . Mã đầu 馬頭. Skt. Aśvakarṇa; Pāli: Assakaṇṇa.
[12] . Tỳ - na - da 毘那耶. Skt., Pāli: Vinataka.
[13] . Để bản: Nhị; có lẽ nhất nhất bị chép nhầm.
[14] . Hán: Cách tử 隔子.
[15] . Hương tích 香積. Câu - xá 11 (tr. 58a20): Hương túy 香醉. Skt. Gandhamadāna.
[16] . Chỉ - di - đà 祇彌陀; có thể chép dư.
[17] . Địa phì 地肥. Xem Trường 6 (5. Tiểu Duyên, tr. 37b27); Trung 39 (tr. 674b24). Pāli, D 27 Agañña
(R.iii. 85).
[18] . Pāli, A.VII. 20 Vassakāra (R. iv. 16), Trường 3 kinh 2; Trung 35 kinh 142.
[19] . Bà - lợi - ca 婆利迦. Pāli: Vassakāra.
[20] . Bản Hán: Bất hướng 不向. Nghi chép dư chữ bất. Tham chiếu, Trung 35, ibid.
[21] . Thất sử 七使; tức bảy tùy miên. Cf. Pāli, A. iv. 9: sattannaṃ, anusayānaṃ, có bảy tùy miên.
[22] . Pāli: Kāmarāga, dục tham; paṭigha, sân; diṭṭha, kiến; vicikiccha, nghi; māna, mạn; bhavarāga, hữu tham; avijja, vô minh.
[23] . Thế khốc 涕哭; TNM: Đề khốc. Có lẽ tên khác của địa ngục Khiếu hoán 叫喚. Cf. Trường 19.
[24] . Pāli, M.2. Sabbāsava (R. i. 6). Hán, Trung 2, kinh 10.
[25] . Bảy loại trong Trung 2 và Pāli. Bản Hán này chỉ có sáu: Kiến đoạn 見斷; Trung 2, kiến đoạn; Pāli:
Dassanā pahātabbā. Thân cận đoạn 親近斷; Trung 2: Dụng đoạn; Pāli: Paṭisevanā pahātabbā. Tư duy đoạn 思惟斷. Viễn ly đoạn 遠離斷. Pāli: Parivajjanā pahātabbā. Ngộ lạc đoạn 娛樂斷. Tư duy đoạn 思惟斷, Pāli: Bhāvanā pahātabbā. Còn lại, không đồng nhất được: Pāli: Saṃvarā pahātabbā (phòng hộ đoạn), adhivāsanā pahātabbā (kham nhẫn đoạn), vinodanā pahātabbā (trừ diệt đoạn).
[26] . Pāli: Dhammā manasikaraṇīyā ye dhamme na manasi karoti, pháp cần được tác ý mà không tác ý.
[27] . Đoạn Hán dịch này khó thông. Tham chiếu Pāli, sáu kiến chấp về ngã:
1. Atthi me attā, có tự ngã của tôi.
2. Natthi me attā, không có tự ngã của tôi.
3. Attanāva attānaṃ sañjānāmī, do chính tôi, tôi nhận biết có tự ngã.
4. Attanāva anattānaṃ sañjānāmī, do chính tôi, tôi nhận biết không có tự ngã.
5. . Anattanāva attānaṃ sañjānāmī, không do chính tôi, tôi nhận biết có tự ngã.
6. Yo me ayaṃ attā vādo vedeyyo tatra tatra kalyāṇapāpakānaṃ kammānaṃ vipākaṃ paṭisaṃvedeti so kho pana me ayaṃ attā nicco dhuvo sassato avipariṇāma - dhammo sassatisamaṃ tatheva ṭhassatī, tự ngã này của tôi nói, nơi này nơi kia nó cảm thọ báo dị thục của nghiệp thiện ác, cho nên tự ngã này thường tồn, vĩnh cửu, không biến đổi, mãi mãi tồn tại như vậy.
[28] . Ba kết (Pāli: Tīṇi saṃyojanāni): Thân tà 身耶, tức (hữu) thân kiến (Pāli: Sakkāyadiṭṭhi); giới đạo 戒盜, tức giới cấm thủ (Pāli: Sīlabbataparāmāso); nghi 疑 (Pāli: Vicikicchā).
[29] . Các lậu này, chính yếu là ba kết, được đoạn trừ ở kiến đạo, tức khi thấy bốn Thánh đế. Hán dịch này thiếu mất đoạn nói về thấy bốn Thánh đế, mà trong Trung 2 và bản Pāli có nói rõ.
[30] . Hán: Cung kính; nên hiểu là kham nhẫn (Pāli: Adhivāsanā). Trong liệt kê, không đề cập mục này. Xem cht. trên.
[31] . Xem cht. trên.
[32] . Nên hiểu là tránh né những ác thú khi Tỳ - kheo sống trong rừng.
[33] . Nên hiểu, nếu không tránh xa.
[34] . Nội dung tương đương với Pāli: Đoạn trừ do trừ diệt (vinodanā). Từ Hán dịch ngộ lạc không phù hợp với nội dung. Có lẽ Hán dịch đọc nhầm với từ nào đó.
[35] . Nội dung tương đương Pāli: Đoạn từ do phòng hộ (saṃvāra), tức thủ hộ các căn. Hán hiểu là oai nghi tức các cử chỉ.
[Đầu trang][Mục lục Tăng Nhất A-hàm][Mục lục bộ A-hàm][Mục lục tổng quát]