TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG KINH

BỘ A HÀM

SỐ 125 - KINH TĂNG NHẤT A-HÀM

Hán dịch: Đời Đông Tấn, Tam tạng Cù-đàm Tăng-già-đề-bà, người nước Kế Tân.

Phẩm 48: BẤT THIỆN (1)

KINH SỐ 1

Nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại nước Xá - vệ, trong vườn Kỳ thọ Cấp cô độc.

Bấy giờ Thế Tôn nói với các Tỳ - kheo:

–Chúng sinh nào tu hành sát sinh, quảng bá sát sinh, gieo trồng hành vi dẫn đến địa ngục, ngạ quỷ súc sinh, nếu sinh trong loài người, thọ mạng cực vắn. Sở dĩ như vậy, do hại sinh mạng kẻ khác.

Chúng sinh nào trộm cướp vật của người khác, gieo trồng tội của ba nẻo dữ, nếu sinh trong loài người, thường gặp phải nghèo khốn, ăn không đủ no miệng, áo không đủ che thân; thảy đều do trộm cướp, cướp đoạt vật của người, tức đoạn mạng căn của người.

Nếu có chúng sinh tham đắm dâm dật, gieo ba nẻo dữ, khi sinh trong loài người, gia đình không trinh khiết, do lén lút dâm dật.

Hoặc có chúng sinh nói dối, gieo tội địa ngục, khi sinh trong loài người, bị người kinh khi, lời nói không được tin, bị người coi rẻ; sở dĩ như vậy đều do đời trước nói dối.

Hoặc có chúng sinh hai lưỡi[1], gieo tội ba ác đạo, giả sử sinh trong loài người, tâm thường không định, thường mang ưu sầu. Sở dĩ như vậy, do người ấy truyền lời dối trá cả hai đầu.

Hoặc có chúng sinh nói lời thô ác, gieo tội ba ác đạo, nếu sinh trong loài người làm người xấu xí, thường bị mắng nhiếc. Sở dĩ như vậy, do người kia có lời nói không chuyên chánh.

Hoặc có chúng sinh gây đấu loạn đây kia, gieo tội ba ác đạo, giả sử sinh trong loài người, phần nhiều bị thù ghét, người thân ly tán. Sở dĩ như vậy đều do đời trước xúi dục đấu loạn.

Hoặc có chúng sinh tật đố, gieo tội ba ác đạo, nếu sinh trong loài người, thiếu thốn y phục. Sở dĩ như vậy, do bởi người ấy khởi tâm tham lam tật đố.

Hoặc có chúng sinh khởi tâm ác hại gieo tội ba ác đạo, giả sử sinh trong loài người thường có nhiều điều hư dối, không hiểu chí lý, tâm loạn không định. Sở dĩ như vậy, đều do bởi đời trước sân hận thịnh nộ, không có nhân từ.

Hoặc có chúng sinh hành tà kiến, gieo ba ác đạo; nếu sinh trong loài người, chỉ ở chỗ biên địa, không sinh vào chốn trung ương, không gặp Tam tôn, nghĩa lý của đạo pháp; hoặc phải điếc, mù, câm ngọng, thân hình không ngay, không hiểu pháp thiện, thường theo pháp ác. Sở dĩ như vậy, thảy đều do đời trước không có tín căn; cũng không tin Sa - môn, Bà - la - môn, cha mẹ, anh em.

Tỳ - kheo nên biết, do báo ứng của mười điều ác này đưa đến những tai ương như vậy. Cho nên, Tỳ - kheo, hãy xa lìa mười điều ác, tu hành chánh kiến. Tỳ - kheo, hãy học điều này như vậy.

Bấy giờ các Tỳ - kheo nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH SỐ 2

Nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại nước Xá - vệ, trong vườn Kỳ thọ Cấp cô độc.

Bấy giờ, vào ngày thứ mười lăm, khi thuyết giới, Thế Tôn với các Tỳ - kheo vây quanh trước sau đi đến giảng đường Phổ hội[2]. Khi ấy Thế Tôn lặng lẽ quán sát Thánh chúng, rồi im lặng không nói. Lúc bấy giờ A - nan bạch Phật:

–Hôm nay Thánh chúng đều tụ tập hết vào giảng đường. Cúi mong Thế Tôn thuyết cấm giới cho các Tỳ - kheo.

Nhưng Thế Tôn vẫn im lặng không nói. Giây lát sau, A - nan lại bạch Phật:

–Nay chính là lúc thích hợp, nên thuyết cấm giới, vì đầu hôm sắp hết.

Thế Tôn vẫn im lặng không nói. Giây lát sau nữa, A - nan lại bạch Phật:

–Sắp hết giữa đêm, chúng Tăng mệt mỏi. Cúi mong Thế Tôn đúng thời thuyết giới.

Thế Tôn vẫn im lặng không nói. Giây lát, A - nan lại bạch Phật:

–Phần cuối đêm sắp hết, cúi mong Thế Tôn kịp thời thuyết giới.

Phật bảo A - nan:

–Trong chúng có người không thanh tịnh, nên Ta không thuyết giới. Nay Ta cho phép Thượng tọa thuyết giới. Nếu Thượng tọa của Tăng không đủ khả năng thuyết giới, cho phép vị trì luật thuyết giới. Nếu không có người trì luật, ai có thể tụng giới thông suốt, hãy xướng lên, khiến thuyết giới. Từ nay trở đi, Như Lai không thuyết giới. Nếu trong chúng có người không thanh tịnh mà Như Lai thuyết giới, đầu người ấy bị vỡ làm bảy mảnh, như trái thù - la[3] kia không khác.

Nghe thế A - nan buồn khóc, bèn nói như vầy:

–Thánh chúng từ nay côi cút. Chánh pháp của Như Lai sao mà chóng vánh. Kẻ bất tịnh sao xuất hiện vội thế?

Khi ấy Đại Mục - kiền - liên suy nghĩ như vầy: “Ai là người trong chúng này hủy phạm chánh pháp, để Như Lai không thuyết giới?” Rồi Đại Mục - kiền - liên liền nhập định, quán sát khắp trong Thánh chúng xem ai có tâm tỳ vết. Mục - liên khi ấy thấy hai Tỳ - kheo Mã Sư và Mãn Túc đang ở trong chúng. Tôn giả tức thì rời chỗ ngồi, đi đến hai Tỳ - kheo ấy, nói:

–Các ông hãy rời khởi chỗ ngồi này. Như Lai đang khiển trách. Do bởi các ông mà Như Lai không thuyết giới.

Hai Tỳ - kheo này bấy giờ im lặng không nói. Tôn giả Mục - liên nói ba lần:

–Các ông hãy rời khỏi đây. Chớ có ở đây.

Nhưng hai Tỳ - kheo này im lặng không trả lời. Tức thì Mục - liên bước tới trước nắm tay hai người lôi ra khỏi cửa, rồi đóng cửa lại và bước lên bạch Phật:

–Tỳ - kheo bất tịnh đã ra ngoài. Cúi mong Thế Tôn phải thời thuyết giới.

Phật bảo Mục - liên:

–Thôi, thôi, Mục - liên! Như Lai không thuyết giới cho Tỳ - kheo nữa. Như Lai không nói hai lời. Ông hãy trở về chỗ ngồi.

Mục - liên bấy giờ bạch Phật:

–Nay trong chúng này đã sinh vết bẩn, con không có khả năng hành pháp Duy - na. Cúi mong Thế Tôn sai cử vị khác.

Thế Tôn im lặng hứa khả. Mục - liên cúi đầu lạy dưới chân Thế Tôn, rồi trở về chỗ ngồi.

Khi ấy A - nan bạch Phật:

–Tỳ - bà - thi Như Lai xuất hiện ở đời, Thánh chúng nhiều hay ít? Trải thời gian bao lâu mới sinh vết bẩn. Cho đến, đệ tử của Phật Ca - diếp nhiều hay ít? Thuyết giới như thế nào?[4]

Phật bảo A - nan:

–Chín mươi mốt kiếp có Phật xuất thế hiệu Tỳ - bà - thi Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác. Bấy giờ có ba hội Thánh chúng. Hội thứ nhất, Thánh chúng gồm một trăm mười sáu vạn tám ngàn Tỳ - kheo. Hội thứ hai, Thánh chúng gồm mười sáu vạn. Hội thứ ba, Thánh chúng mười vạn. Thảy đều A - la - hán. Phật thọ tám vạn bốn ngàn tuổi. Trong vòng một trăm năm, Thánh chúng thanh tịnh. Đức Phật ấy lấy một bài kệ làm cấm giới.

Nhẫn nhục là bậc nhất.
Phật nói vô vi tối.
Không vì cạo râu tóc
Sa - môn mà hại người.
[5]

Bấy giờ Đức Phật ấy chỉ nói một bài kệ này làm cấm giới trong vòng một trăm năm. Khi cấu uế đã phát sinh mới lập cấm giới.

Lại nữa, trong ba mươi mốt kiếp, có Phật hiệu Thứccật Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác xuất hiện thế gian. Bấy giờ cũng có ba hội Thánh chúng. Hội thứ nhất Thánh chúng có mười sáu vạn. Hội thứ hai, Thánh chúng mười bốn vạn. Hội thứ ba Thánh chúng mười vạn. Trong vòng tám mươi năm, trong chúng thanh tịnh, không có cấu uế, Đức Phật ấy cũng nói một bài kệ:

Nếu mắt thấy phi tà
Bậc trí giữ không đắm
Xả bỏ các điều ác
Là hiệt tuệ trong đời.

Trong vòng tám mươi năm Đức Phật ấy nói một bài kệ này. Về sau khi cáu bẩn phát sinh mới lập cấm giới.

Phật Thức - cật thọ bảy vạn tuổi. Trong kiếp ấy có Phật xuất hiện thế gian hiệu Tỳ - xá - la - bà; cũng có ba hội Thánh chúng. Hội thứ nhất Thánh chúng gồm mười vạn. Hội thứ hai Thánh chúng tám vạn. Hội thứ ba, Thánh chúng gồm bảy vạn La - hán đã diệt tận các lậu. Trong vòng bảy mươi năm không có cáu bẩn, Tỳ - xá - la - bà Như Lai nói một kệ rưỡi làm cấm giới:

Không hại, không chê bai
Mà phụng hành đại giới
Ăn uống biết vừa đủ
Giường chõng cũng như vậy
Trì chí chuyên nhất cảnh
Đây là lời Phật dạy.

Trong bảy mươi năm, lấy một kệ rưỡi này làm cấm giới, về sau vết bẩn phát sinh mới lập cấm giới. Tỳ - xála - bà Như Lai thọ bảy vạn tuổi.

Trong Hiền kiếp này có Phật xuất thế hiệu Câu - lâutôn Như Lai. Bấy giờ có hai hội Thánh chúng. Hội thứ nhất, Thánh chúng gồm bảy vạn, thảy đều A - la - hán. Hội thứ hai, gồm sáu vạn A - la - hán. Trong sáu mươi năm không cáu bẩn, Đức Phật ấy lấy hai bài kệ làm cấm giới:

Ví như ong hái hoa
Sắc hương rất tinh khiết
Lấy vị mà cho người
Đạo sĩ sống trong thôn,
Không phỉ báng người khác
Không dò xét lỗi người
Chỉ quán thân hành mình
Xem chánh hay không chánh.

Trong sáu mươi năm lấy hai bài kệ này làm cấm giới. Từ đó về sau khi cáu bẩn phát sinh mới lập cấm giới.

Đức Phật ấy thọ sáu vạn tuổi.

Trong Hiền kiếp lại có Phật xuất thế hiệu Câu - nahàm - mâu - ni Như Lai, Chí Chân Đẳng Chánh Giác. Bấy giờ có hai hội Thánh chúng. Hội thứ nhất, Thánh chúng gồm sáu mươi vạn, thảy đều A - la - hán. Hội thứ hai, Thánh chúng gồm bốn mươi vạn, thảy đều A - la - hán. Trong bốn mươi năm, bấy giờ chưa có vết bẩn, Đức Phật ấy lấy một bài kệ làm cấm giới:

Giữ chí, chớ khinh miệt
Hãy học đạo tịch tĩnh
Bậc Hiền không ưu sầu
Chí thường niệm tịch diệt.

Trong bốn mười năm, lấy một bài kệ này làm cấm giới. Từ đó về sau khi có cáu bẩn mới lập cấm giới. Đức Phật ấy thọ bốn vạn tuổi.

Lại trong Hiền kiếp có Phật xuất thế hiệu Ca - diệp. Bấy giờ Phật có hai hội Thánh chúng. Hội thứ nhất, Thánh chúng gồm bốn mươi vạn. Hội thứ hai, Thánh chúng gồm ba mươi vạn, thảy đều A - la - hán. Trong hai mươi năm chưa có cáu bẩn, thường lấy một bài kệ làm cấm giới:

Hết thảy ác chớ làm
Hãy phụng hành điều thiện
Tự tịnh tâm ý mình
Đó là chư Phật dạy.

Trong hai mươi năm lấy một bài kệ này làm cấm giới. Sau khi có phạm cấm mới lập cấm giới. Bấy giờ Phật Ca - diếp thọ hai vạn tuổi.

Nay Ta, Như Lai xuất hiện ở đời, có một hội Thánh chúng gồm một ngàn hai trăm năm mươi người. Trong mười hai năm không có cáu bẩn, cũng lấy một bài kệ làm cấm giới:

Giữ miệng, ý thanh tịnh
Thân hành cũng thanh tịnh
Thanh tịnh ba hành tích
Tu hành đạo Tiên nhân.

Trong mười hai năm lấy một bài kệ này làm cấm giới. Khi có người phạm luật, dần dần có hai trăm năm mươi giới. Từ nay về sau, chúng Tăng tập họp, khải bạch như Luật, rằng: “Các Hiền giả thảy cùng nghe, hôm nay ngày thứ mười lăm, thuyết giới. Tăng nay chấp thuận hòa hợp thuyết cấm giới.” Khải bạch như vậy rồi, nếu có Tỳ - kheo nào có nói điều gì, không nên thuyết giới. Tất cả cùng im lặng, không ai nói gì, mới được thuyết giới. Cho đến sau khi nói xong Tựa của giới, cần phải hỏi: “Các Hiền giả, có ai không thanh tịnh không?” Hỏi như vậy ba lần: “Có ai không thanh tịnh không?” Ai thanh tịnh thì im lặng mà ghi nhận. Tuy nhiên, nay con người thọ mạng ngắn, hết một đời không quá trăm năm. Cho nên, này A - nan, hãy khéo ghi nhớ kỹ.

Khi ấy A - nan bạch Thế Tôn rằng:

–Quá khứ xa xưa chư Phật Thế Tôn thọ mạng cực dài, người phạm Luật ít, không có vết bẩn. Nhưng nay tuổi thọ con người ngắn, không quá mười lần mười. Sau khi chư Phật quá khứ diệt độ, pháp lưu lại tồn tại ở đời trải qua bao lâu?

Phật bảo A - nan:

–Chư Phật quá khứ sau khi diệt độ, có chánh pháp lưu lại ở đời không lâu.

A - nan bạch Phật:

–Nếu sau khi Như Lai diệt độ, chánh pháp sẽ tồn tại ở đời này bao lâu?

Phật bảo A - nan:

–Sau khi Ta diệt độ, pháp sẽ tồn tại lâu. Sau khi Phật Ca - diếp diệt độ, pháp chỉ tồn tại bảy ngày. Này A - nan, ông nay nghĩ rằng đệ tử của Như Lai rất ít. Chớ nghĩ như vậy ở phương Đông, đệ tử Ta nhiều vô số. Ở phương Nam, đệ tử nhiều vô số. Cho nên, này A - nan, hãy khởi lên ý nghĩ này: “Ta, Phật Thích - ca Văn, thọ mạng cực kỳ lâu dài.” Sở dĩ như vậy, vì nhục thân tuy vào diệt độ, nhưng Pháp thân vẫn tồn tại. Ông hãy ghi nhớ phụng hành ý nghĩa này.

Bấy giờ A - nan và các Tỳ - kheo nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH SỐ 3

Nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại nước Xá - vệ, trong vườn Kỳ thọ Cấp cô độc, cùng với chúng đại Tỳ - kheo năm trăm vị. Bấy giờ A - nan bày vai phải, quỳ gối phải xuống đất, bạch Thế Tôn rằng:

–Như Lai soi tỏ huyền vi, không sự gì mà không xét. Ngài hiểu rõ hết thảy chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai.

Ngài biết rõ tên họ, danh hiệu chư Phật quá khứ, đệ tử Bồ - tát theo hầu nhiều ít. Một kiếp, một trăm kiếp, cho đến vô số kiếp, Ngài tất quán sát biết rõ. Ngài cũng phân biệt biết rõ tên họ của quốc vương, đại thần, nhân dân; cũng như biết rõ bao nhiêu quốc giới khác nhau hiện tại. Chúng con muốn biết sự kiện trong tương lai lâu xa, Đức Di - lặc ra đời, là Bậc Chí Chân, Đẳng Chánh Giác; đệ tử theo hầu, cùng cảnh Phật phong tục an lạc như thế nào, trải qua bao lâu.

Phật bảo A - nan:

–Ông hãy trở về chỗ ngồi, lắng nghe Ta nói về sự xuất hiện của Di - lặc, cùng quốc độ phong tục an lạc và đệ tử nhiều ít. Hãy khéo suy nghĩ, khéo ghi nhớ trong lòng.

A - nan vâng lời Phật dạy, trở về chỗ ngồi. Phật nói:

–Trong tương lai lâu xa, ở tại quốc giới này, có thành quách gọi là Kê - đầu[6]; Đông sang Tây mười hai do - tuần; Nam đến Bắc bảy do - tuần. Đất đai màu mỡ, nhân dân đông đúc, đường xá thành hàng. Bấy giờ trong thành có Long vương tên Thủy Quang, ban đêm làm mưa thơm thấm nhuần, ban ngày trong lành mát mẻ.

Bấy giờ trong thành Kê - đầu có một con quỷ La - sát tên là Diệp Hoa[7]. Việc làm của nó đều tùy thuận pháp, không trái nghịch chánh giáo. Nó rình lúc mọi người đã ngủ, mới dọn dẹp các thứ bất tịnh dơ bẩn, rồi lại nước thơm rưới lên đất, khiến cho cực kỳ sạch thơm.

A - nan nên biết, lúc bấy giờ Diêm - phù - địa từ Đông sang Tây. Từ Nam lên Bắc, mười vạn do - tuần. Các núi, sông, vách đá đều tự tiêu diệt. Nước bốn biển dồn về một phương. Mặt đất Diêm - phù - địa trở nên bằng phẳng như mặt gương trong sáng.

Trong toàn cõi Diêm - phù - địa, thóc gạo dồi dào, nhân dân đông đúc, có nhiều thứ trân bảo. Thôn xóm liên tiếp nhau chỉ cách khoảng tiếng gà gáy nghe được. Khi ấy các thứ hoa trái xấu dở khô chết hết, những thứ dơ bẩn cũng biến mất. Chỉ còn các loại cây trái ngon ngọt, hương thơm ngào ngạt, sinh trưởng trên đất đó.

Khí hậu thời bấy giờ ôn hòa, bốn mùa thuận hợp, trong thân người không có trăm lẻ tám thứ bệnh hoạn. Tham dục, sân hận, ngu si không lớn, không mãnh liệt. Tâm người bình quân, thảy đều đồng một ý. Gặp nhau thảy đều hoan hỷ, nói lời đẹp lòng với nhau. Ngôn ngữ chỉ một thứ, không có khác biệt. Như người Uất - đan - việt kia không khác. Vì người Diêm - phù - địa khi ấy đều đồng một thứ tiếng, không có nhiều thứ khác nhau.

Các hạng nam nữ bấy giờ mỗi khi có ý muốn đại, tiểu tiện, đất tự nhiên mở ra, việc xong nó tự khép lại.

Diêm - phù - địa thời ấy có giống lúa mọc tự nhiên, không có vỏ trấu, mùi vị cực kỳ thơm ngon, ăn vào trừ các thứ bệnh khổ. Các loại vàng, bạc, trân bảo, xa cừ, mã não, trân châu, rơi vãi trên đất, không ai nghĩ đến thâu lượm. Khi người dân ở đó cầm lên một thứ, họ nói với nhau: “Người xưa do các loại châu báu này mà tàn hại lẫn nhau, giam cầm đày đọa nhau, gây thêm vô số khổ não. Ngày nay các thứ này cùng một loại với sỏi đá, không ai cất giữ.”

Trong thời đó có vị Pháp vương xuất hiện, tên là Tương - khư[8], cai trị bằng chánh pháp, thành tựu bảy báu. Bảy báu là bánh xe, voi, ngựa, minh châu, ngọc nữ, điển binh và điển tàng. Vua thống lãnh toàn cõi Diêm - phùđịa, không dùng đến dao gậy mà tự nhiên đều thần phục. A - nan, như hiện nay có bốn kho báu[9]. Ở nước Cànđà - việt[10] có kho báu Y - la - bát[11]. Thứ hai, tại nước Di - thêla[12] có kho báu Ban - trù.[13] Thứ ba, tại nước Tu - lại - tra[14] có kho báu, cũng chứa nhiều trân bảo.[15] Thứ tư, tại Bàla - nại, Tương - khư có kho báu lớn, chứa nhiều trân bảo không kể xiết[16]. Bốn kho báu lớn này đúng lúc tự nhiên xuất hiện. Những người canh giữ kho báu[17] đến tâu vua: “Tâu đại vương, xin hãy dùng bảo vật trong các kho báu này mà ban phát cho những người nghèo khốn.” Đại vương Tương - khư sau khi nhận được các kho báu này cũng không cất làm của riêng, không có ý tưởng chiếm hữu tài vật.

Thời bấy giờ trong nội cảnh Diêm - phù - địa có loại cây tự nhiên sinh ra y phục, thứ vải rất mịn và mềm mại; mọi người đến lấy mà dùng. Giống như hiện nay người Uất - đan - viết lấy y phục sinh ra tự nhiên ở trên cây không khác.

Vua bấy giờ có vị đại thần tên là Tu - phạm - ma[18], vốn là bạn thân của vua từ thời thơ ấu, mà vua rất yêu kính. Vả ông này có nhan sắc đẹp đẽ, không cao, không thấp, không gầy, không mập, không đen, không trắng, không già, không trẻ. Tu - phạm - ma có vợ tên là Tu - phạm - việt,19 đặc sắc bậc nhất trong các ngọc nữ, y như phi hậu của Thiên đế. Miệng bà thường có mùi thơm của hoa sen Ưu - bát; thân thể luôn luôn có mùi thơm Chiên - đàn; có toàn vẹn tám mươi bốn tư thái của phụ nữ; không có bệnh hoạn, không hề loạn tưởng.

Bấy giờ Bồ - tát Di - lặc từ trên trời Đâu - suất quan sát cha mẹ, ai không già cũng không trẻ, bèn giáng thần xuống đó, rồi sẽ sinh ra từ hông phải, như Ta ngày nay không khác. Bồ - tát Di - lặc cũng vậy. Tu - phạm - ma tức thì đặt tên cho con là Di - lặc mà thân hình được trang nghiêm bằng ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp; sắc da màu hoàng kim.

Con người thời ấy thọ mạng rất dài, không có các thứ tật bệnh. Thảy đều thọ tám vạn bốn ngàn tuổi. Phụ nữ đến năm trăm tuổi mới lấy chồng.

Bồ - tát Di - lặc sống tại gia không bao lâu, rồi xuất gia học đạo.

Bấy giờ, cách thánh Kê - đầu không xa có một gốc đại thọ tên là Long hoa[19], cao một do - tuần, rộng năm trăm bộ. Bồ - tát Di - lặc ngồi dưới gốc cây này mà thành đạo quả Vô thượng. Vào nửa đêm Di - lặc xuất gia, ngay đêm đó thành đạo Vô thượng. Khi ấy tam thiên đại thiên sát độ chấn động. Địa thần liên tiếp truyền nhau: “Nay Dilặc đã thành Phật.” Lần lượt truyền cho đến cung điện Tứ Thiên vương cũng nghe: “Di - lặc đã thành Phật đạo.” Rồi lần lượt truyền lên các cõi trời Tam thập tam, Diệm thiên, Đâu - suất, Hóa tự tại, Tha hóa tự tại. Âm thanh truyền lần lên cho đến Phạm thiên: “Di - lặc đã thành Phật đạo.”

Bấy giờ, có ma tên là Đại Tướng, cai trị đúng theo pháp. Khi nghe âm hưởng lan truyền danh giáo của Như Lai, hoan hỷ phấn chấn không dừng được, bảy ngày bảy đêm không ngủ. Khi ấy ma vương dẫn vô số người nhà trời của Dục giới đi đến Phật Di - lặc, cung kính lễ bái. Di - lặc Thánh tôn lần lượt giảng thuyết các đề tài vi diệu của chánh pháp cho chư Thiên; các đề tài về thí, giới, sinh Thiên, dục là bất tịnh tưởng, xuất yếu là vi diệu. Sau khi thấy mọi người đã phát tâm hoan hỷ, như pháp mà chư Phật Thế Tôn thường thuyết, là Khổ, Tập, Tận, Đạo, Ngài đều phân biệt rộng rãi ý nghĩa cho chư Thiên và loài người. Lúc đó, ngay trên chỗ ngồi có tám vạn bốn ngàn vị trời dứt sạch trần cấu, được Pháp nhãn thanh tịnh.

Bấy giờ, ma vương Đại Tướng bố cáo với nhân dân cõi ấy rằng: “Các người nên nhanh chóng xuất gia. Vì sao? Hôm này Đức Di - lặc đã vượt qua bờ bên kia và cũng sẽ đưa các người vượt qua.”

Bấy giờ trong thành Kê - đầu có một trưởng giả tên là Thiện Tài, nghe giáo lệnh của ma vương, lại nghe tiếng Phật, liền dẫn đại chúng gồm tám vạn bốn ngàn người đi đến Phật Di - lặc, cúi đầu lạy dưới chân, rồi ngồi xuống một bên. Đức Di - lặc lần lượt thuyết các đề tài vi diệu của pháp cho ông, luận về thí, giới, sinh Thiên. Khi Đức Di - lặc thấy tâm ý mọi người đã khai tỏ, như pháp mà chư Phật Thế Tôn thường thuyết, là Khổ, Tập, Tận, Đạo, Ngài đều phân biệt rộng rãi cho mọi người. Ngay khi ấy, từ trên chỗ ngồi, Thiện Tài cũng tám vạn bốn ngàn người dứt sạch trần cấu, được Pháp nhãn thanh tịnh. Thiện Tài cùng tám vạn bốn ngàn người bước lên trước bạch Phật, cầu xin xuất gia, khéo tu phạm hạnh, thành đạo A - lahán. Đấy là hội thứ nhất của Phật Di - lặc, có tám vạn bốn ngàn A - la - hán.

Bấy giờ vua Tương - khư, khi nghe Đức Di - lặc đã thành Phật đạo, liền đi đến chỗ Phật để nghe pháp. Đức Di - lặc thuyết pháp cho ông; pháp mà khoảng đầu thiện xảo, khoảng giữa thiện xảo, khoảng cuối cũng thiện xảo; nghĩa lý sâu xa.

Một thời gian sau, vua lập thái tử; rồi đem vật trân bảo cho thợ hớt tóc, lại đem các thứ bảo vật khác cho các Phạm chí. Sau đó vua dẫn tám vạn bốn ngàn người đi đến chỗ Phật, cầu xin làm Sa - môn. Tất cả đều thành đạo A - la - hán.

Khi trưởng giả Tu - phạm - ma nghe Đức Di - lặc đã thành Phật đạo, liền dẫn đại chúng gồm tám vạn bốn ngàn Phạm chí đi đến chỗ Phật cầu xin làm Sa - môn. Thảy đều đắc A - la - hán. Riêng Tu - phạm - ma đoạn trừ ba kết, rồi nhất định sẽ chấm dứt biên tế khổ.

Mẹ của Phật là Phạm - ma - việt cũng dẫn tám vạn bốn ngàn thể nữ đi đến Phật cầu xin làm Sa - môn. Các người nữ đều đắc A - la - hán; duy chỉ một người là Phạm - maviệt đoạn trừ ba kết thành Tu - đà - hoàn.

Nhưng người phụ nữ Sát - lợi nghe Đức Di - lặc Như Lai xuất hiện thế gian thành Đẳng chánh giác, có vài ngàn vạn người đi đến Phật, cúi đầu lạy dưới chân, rồi ngồi xuống một bên. Mỗi người đều sinh tâm cầu xin làm Sa - môn, xuất gia học đạo. Trong đó, hoặc có người vượt thứ lớp mà chứng ngộ; hoặc có người không chứng ngộ. Này A - nan, những người không vượt thứ lớp chứng ngộ thảy đều là những người phụng pháp, nhàm tởm tất cả thế gian không có gì đáng vui thích.

Di - lặc bấy giờ thuyết giáo pháp ba thừa. Như ngày nay trong các đệ tử của Ta, Đại Ca - diếp là người hành Đầu - đà. Trong quá khứ đã từng tu phạm hạnh nơi chư Phật. Người này sẽ thường trợ giúp Di - lặc giáo hóa nhân dân.

Khi ấy Ca - diếp đang ngồi kiết già cách Như Lai không xa, chánh thân chánh ý, buộc niệm trước mắt. Bấy giờ Thế Tôn bảo Ca - diếp:

–Nay tuổi Ta đã suy hao, gần hơn tám chục. Nhưng nay Như Lai có bốn đại Thanh văn có thể đảm trách du hóa, mà trí tuệ vô tận, đầy đủ các phẩm đức. Bốn vị này là những ai? Đó là Tỳ - kheo Ca - diếp, Tỳ - kheo Quân - đồbát - hán, Tỳ - kheo Tân - đầu - lô[20], Tỳ - kheo La - vân[21]. Các ông bốn đại Thanh văn không nên Bát - niết - bàn. Hãy đợi khi nào pháp Ta mất hẳn rồi hãy Bát - niết - bàn. Đại Cadiếp cũng không nên Bát - niết - bàn. Hãy đợi cho đến Dilặc xuất hiện thế gian. Vì sao? Các đệ tử được hóa độ bởi Di - lặc thảy đều là đệ tử của Thích - ca Văn, do sự giáo hóa của Ta được lưu lại mà dứt sạch các lậu. Trong thôn Tỳ - đề, quốc giới Ma - kiệt, Đại Ca - diếp sẽ trú trong núi ở đó.[22] Về sau, Di - lặc Như Lai sẽ dẫn vô số tùy tùng đi đến núi này. Do ân đức của Phật, các quỷ thần sẽ mở cửa núi và được thấy Ca - diếp trong hang thiền. Khi ấy Đức Dilặc duỗi cánh tay phải chỉ Ca - diếp mà bảo đại chúng: “Đây là đệ tử của Phật Thích - ca văn trong thời quá khứ xa xưa, tên là Ca - diếp, vẫn tồn tại cho đến nay, là vị Đầuđà khổ hành bậc nhất.” Mọi người khi ấy tán thán là chưa từng có. Ngay lúc ấy, vô số trăm ngàn người dứt sạch trần cấu, được Pháp nhãn thanh tịnh.

Đây gọi là hội thứ nhất,[23] có chín mươi sáu ức người thành A - la - hán. Những người ấy đều là đệ tử của Ta. Vì sao? Thảy đều do Ta giáo hóa mà được như vậy; và cũng do nhân duyên bốn sự[24] là huệ thí, nhân ái, lợi người và đẳng lợi.

Này A - nan, bấy giờ Di - lặc Như Lai sẽ lấy y Tăng - già - lê của Ca - diếp rồi khoác lên mình, tức thì thân thể của Ca - diếp tự nhiên rã như sao. Di - lặc mới dùng đủ các loại hương hoa cúng dường Ca - diếp. Vì sao? Vì chư Phật Thế Tôn có tâm cung kính đối với Chánh pháp. Di - lặc cũng do Ta giáo hóa mà được thành đạo Vô thượng chân chánh.

A - nan nên biết, hội thứ hai của Phật Di - lặc có chín mươi bốn ức người, đều là A - la - hán, cũng đều là đệ tử di giáo của Ta, hành cúng dường bốn sự mà được như vậy.

Lại nữa, hội thứ ba của Phật Di - lặc có chín mươi hai ức người, đều A - la - hán, cũng là đệ tử di giáo của Ta.

Thời bấy giờ, các Tỳ - kheo đều có họ là đệ tử Từ Thị, như ngày nay các Thanh văn đều được gọi là đệ tử Thích - ca.

Bấy giờ, Đức Di - lặc thuyết pháp cho các đệ tử: “Tỳ - kheo các ông, hãy tư duy về tưởng vô thường, tưởng lạc có khổ, tưởng chấp ngã và vô ngã, tưởng thật có Không, tưởng sắc biến, tưởng bầm xanh, tưởng sình chương, tương ăn chưa tiêu hết, tưởng máu huyết, tưởng hết thảy thế gian không có đang vui thích. Vì sao? Tỳ - kheo nên biết, mười tưởng này đều là những điều đã được Thíchca Văn Phật trong quá khứ nói cho các ông, để được dứt sạch hữu lậu, tâm được giải thoát.

Trong đại chúng này, hoặc có người vốn là đệ tử của Phật Thích - ca Văn, thời quá khứ đã tu phạm hạnh, nay đến chỗ Ta. Hoặc phụng trì pháp của Phật Thích - ca Văn, nay đến chỗ Ta. Hoặc ở nơi Phật Thích - ca Văn cúng dường Tam bảo, nay đến chỗ Ta. Hoặc ở nơi Phật Thíchca Văn mà tu hành gốc rễ thiện trong khoảng chừng búng ngón tay, nay đến chỗ Ta. Hoặc ở nơi Phật Thích - ca hành bốn đẳng tâm, nay đến chỗ Ta. Hoặc ở nơi Phật Thích - ca Văn mà thọ trì năm giới, ba tự quy y, nay đến chỗ Ta. Hoặc ở Phật Thích - ca Văn khởi dựng tháp miếu, nay đến chỗ Ta. Hoặc ở nơi Phật Thích - ca mà tu sửa chùa, nay đến chỗ Ta. Hoặc ở nơi Phật Thích - ca Văn mà thọ trì tám pháp quan trai, nay đến chỗ ta. Hoặc ở nơi Phật Thích - ca Văn mà cúng dường hương hoa, nay đến chỗ ta. Hoặc ở nơi Phật ấy nghe Phật pháp mà buồn khóc rơi lệ, nay đến chỗ Ta. Hoặc ở nơi Phật Thích - ca văn chuyên ý nghe pháp, nay đến chỗ Ta. Hoặc suốt đời khéo tu phạm hạnh, nay đến chỗ Ta. Hoặc chép, đọc tụng, thọ trì, nay đến chỗ Ta. Hoặc người thừa sự cúng dường mà nay đến chỗ Ta.

Rồi Đức Di - lặc nói bài kệ này:

Tăng trưởng đức giới, văn
Nghiệp thiền và tư duy
Khéo tu hành phạm hạnh
Người ấy đến chỗ Ta.
Khuyên thí, tâm hoan hỷ
Tu hành cội nguồn tâm
Ý không sai biệt tưởng
Người ấy đến chỗ Ta.
Hoặc tâm bình đẳng
Và thừa sự chư Phật
Thức ăn cúng Thánh chúng
Người ấy đều đến Ta.
Hoặc tụng giới, Khế kinh
Khéo tập, thuyết cho người
Nhiệt hành nơi gốc pháp
Ngày nay đến chỗ Ta.
Họ Thích khéo giáo hóa
Cúng dường các xá - lợi
Thừa sự pháp, cúng dường
Ngày nay đến chỗ Ta.
Nếu ai sao chép kinh
Ban[25] bố trên lụa trắng[26]
Những ai cúng dường kinh
Nay đều đến chỗ Ta.
Lụa là và các vật
Cúng dường nơi chùa tháp
Tự xưng Nam - mô Phật
Thảy đều đến chỗ Ta.
Ai cúng dường hiện tại
Và chư Phật quá khứ
Thiền định, chánh bình đẳng
Cũng không có tăng giảm,
Cho nên, đối Phật pháp
Thừa sự nơi Thánh chúng
Chuyên tâm thờ Tam bảo
Tất đến chỗ vô vi.

Này A - nan nên biết, Di - lặc Như Lai sẽ nói bài kệ này giữa đại chúng.

Bấy giờ trong đại chúng, chư Thiên và loài người tư duy mười tưởng, khi ấy có mười một triệu[27] người dứt sạch trần cấu, được Pháp nhãn thanh tịnh. Trong một ngàn năm, trong chúng không có cáu bẩn, Di - lặc Như Lai bấy giờ chỉ nói một bài kệ làm cấm giới:

Miệng, ý không hành ác
Thân cũng không sai phạm
Trừ sạch ba nghiệp này
Chóng vượt vực sinh tử.

Sau một ngàn năm, sẽ có người phạm cấm giới, bấy giờ mới chế giới.

Di - lặc Như Lai sẽ thọ tám vạn bốn ngàn năm. Sau khi Bát - niết - bàn, di pháp của Ngài sẽ tồn tại tám vạn bốn ngàn năm. Sở dĩ như vậy, vì chúng sinh thời bấy giờ thảy đều có căn tánh linh lợi. Nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn thấy Phật Di - lặc và các Thanh văn trong ba hội, thành Kê - đầu và bốn đại bảo tàng, muốn được ăn thứ lúa tự nhiên, mặc loại y phục tự nhiên, rồi khi thân hoại mạng chung sinh lên trời, những thiện nam, thiện nữ ấy hãy chuyên cần tinh tấn, không sinh lười biếng và hãy cúng dường thừa sự các Pháp sư bằng các thứ hương hoa thơm, cùng các phẩm vật cúng dường chớ để thiếu thốn. A - nan, hãy học điều này như vậy.

Bấy giờ, A - nan và các chúng hội nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.



[1] . Hán: Lưỡng thiệt, nhưng đây nên hiểu là ỷ ngữ, để không trùng lặp với tội ly gián đoạn dưới.

[2] . Xem Trung 9, kinh 37. Pāli, A. VIII. 20 Uposatha (R. iv. 204).

[3] . Thù - la quả 酬羅果, chưa rõ trái gì.

[4] . Cf. Tứ Phần 1 (tr. 569a22): Những vấn đề này do Xá - lợi - phất nêu lên hỏi Phật.

[5] . Kệ Giới kinh, xem Tứ phần giới bản.

[6] . Kê - đầu thành. Pāli: Ketumatī, cf. D. 26. Cakkavatti (R. iii. 75). Tham chiếu Hán, Trường 6 (tr. 41c22).

[7] . Diệp Hoa 葉華, có lẽ dịch nghĩa từ Skt. Elāpattra (Pāli: Erakapatta), cùng tên với một Long vương mà đến thời Phật Di - lặc được thoát thân rồng.

[8] Tương - khư 蠰佉. Trường. ibid. (tr. 42a09) Tương - già 儴伽. Pāli, ibid. (tr. 75), Sankha.

[9] Bốn bảo tàng 寶藏, hầm mỏ quý. Xem đoạn sau, kinh số 7, phẩm 51.

[10] . Càn - đà - việt 乾陀越, một phiên âm khác cho Kiện - đà - la (Skt.: Gandhavati = Gandhāra). Đoạn sau, kinh số 7 phẩm 51 âm là Càn - đà - vệ 乾陀衛. Tại đây, theo truyền thuyết Pāli (luật Thiện Kiến), Tôn giả Mạtđiền - địa (Majjhantika) đã chinh phục Long vương Aravāḷa, quy y dân xứ này. Về sau trở thành một trong hai trung tâm lớn của Hữu bộ.

[11] . Y - la - bát 伊羅鉢; Skt. Elāpatra, nguyên tên của một Long vương, quản lý kho báu cùng tên. Xem kinh số 7 phẩm 51 sau.

[12] . Di - thê - la 彌梯羅. Đoạn sau, kinh số 7 phẩm 51 âm là Mật - đế - la quốc 蜜締羅國. Pāli: Mithilā, kinh đô của vương quốc Videha, thời Phật.

[13] . Ban - trù 般綢, kinh số 7 phẩm 51 chép 斑稠. Nguyên tên một Long vương. Skt. Pāṇḍuka.

[14] . Tu - lại - tra 須賴吒. Skt. Suraṛỉa.

[15] . Kinh số 7 phẩm 51: Kho báu Tân - già - la 賓伽羅 ở nước Tu - lại - tra, do Long vương Tân - già - la quản lý. Skt.

Piṅgala.

[16] . Kinh số 7 phẩm 51: Đại bảo tàng Tương - khư 蠰

<lb n="0818c15"/>佉 (Skt. Saṅkha) tại nước Bà - la - nại 婆羅<gaiji cb='CB0178' des='[木?*奈]' nor='奈' mojikyo='M049171' mofont='Mojikyo M109' mochar='6ADE'>奈 (Vāraṇasī).

[17] . Kinh số 7 phẩm 51: Bốn Long vương hiện bốn đại bảo tàng.

[18] . Tu - phạm - ma 修梵摩. Pāli: Subrahmā. 19. Tu - phạm - việt 梵摩越. Pāli: Subrahmī.

[19] . Long hoa 龍華. Skt. Nāgapuṛpa. Pāli: Nāgapupphiya (?), nhưng không thấy đề cập trong văn học Pāli.

[20] . Tân - đầu - lô 賓頭盧, tức vị thứ nhất trong mười sáu A - la - hán kể trong Pháp Trụ Ký (T49n2030, tr. 13a9), phiên âm khác là Tân - độ - la Bạt - ra - xà 賓度羅跋囉惰闍 (Skt. Pindola - bhāradvāja).

[21] . La - vân 羅云, tức La - hổ - la 囉怙羅 (Skt., Pāli: Rāhula), thứ mười một trong mười sáu A - la - hán kể trong Pháp Trụ Ký (tr. 13a14).

[22] . Truyền thuyết phương Bắc, Đại Ca - diếp hiện vẫn nhập định trong núi Kê túc (Skt. Kukkuṭapāda - giri), nước Ma - kiệt - đà; cf. Phú pháp nhân duyên (T50n2058, tr. 301a16); Pháp Hiển Truyện (T51n2085, tr.

863c27); Tây Vực Ký 9 (T51n2087, tr. 919b25).

[23] . Có thể có sự nhầm lẫn trong bản Hán này.

[24] . Tứ sự 四事, đây chỉ bốn Nhiếp sự, mà nội dung Hán dịch ở đây có khác.

[25] . Văn bản in là tụng 頌, cước chú in là ban 頒, TNM: ban 班.

[26] . Tố thượng 素上. Do chữ ban 頒 đọc là tụng 頌 nên có người đoán đây là chữ án 案 (án thư), thay vì tố 素.

Nhưng Ấn Độ không có tục đọc sách trên án thư.

[27] . Hán: Thập nhất cai 十一姟; mỗi cai là mười triệu. Con số ở đây chỉ có tính tượng trưng.


[Đầu trang][Mục lục Tăng Nhất A-hàm][Mục lục bộ A-hàm][Mục lục tổng quát]