TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG KINH

BỘ A HÀM

SỐ 125 - KINH TĂNG NHẤT A-HÀM

Hán dịch: Đời Đông Tấn, Tam tạng Cù-đàm Tăng-già-đề-bà, người nước Kế Tân.

Phẩm 49: PHÓNG NGƯU (2)

Bấy giờ Thế Tôn liền thè lưỡi ra, hai bên liếm đến tai. Rồi Ngài rút lưỡi trở lại và nhập Tam - muội, khiến cho Phạm chí trông thấy mã âm tàng. Phạm chí sau khi thấy ba mươi hai tướng và tám mươi vẻ đẹp của Phật, hoan hỷ phấn chấn không thể dừng được. Phạm chí Thila liền bạch Phật:

–Ở đây tôi là Bà - la - môn. Sa - môn là dòng Sát - lợi. Nhưng Sa - môn, Bà - la - môn đều chung một con đường, tìm cầu một giải thoát như nhau. Sa - môn có thừa nhận chúng ta cùng một con đường chăng?

Phật bảo Phạm chí:

–Ông có thấy vậy chăng?

Phạm chí đáp:

–Tôi thấy như vậy.

Phật bảo:

–Ông hãy khởi tâm ý hướng về một giải thoát duy nhất, đó là chánh kiến.

Phạm chí bạch Phật:

–Chánh kiến tức là một giải thoát duy nhất, hay còn có giải thoát nào nữa?

Thế Tôn nói:

–Còn có giải thoát khác nữa, để đắc Niết - bàn. Sự ấy có tám. Đó là chánh kiến, chánh trị, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định. Phạm chí, đó là đạo có tám chi dẫn đến Niếtbàn.

Phạm chí hỏi:

–Có chúng sinh nào biết được đạo tám chi này không?

Phật nói:

–Số ấy không chỉ một trăm ngàn. Phạm chí nên biết, có vô số trăm ngàn chúng sinh biết đạo tám chi ấy.

Phạm chí hỏi:

–Có hạng chúng sinh nào không hiểu được đạo tám chi này chăng?

Phật nói:

–Hạng chúng sinh không hiểu, không phải chỉ một người.

Phạm chí hỏi:

–Có hạng chúng sinh nào không thể đắc pháp này chăng?

Phật nói:

–Cũng có hạng chúng sinh không đắc đạo. Hạng người ấy có mười một. Những gì là mười một? Đó là, gian ngụy, ác ngữ, khó can gián, không biết đền trả, hay ganh tỵ, giết cha mẹ, giết A - la - hán, đoạn thiện căn, việc thiện trở lại làm ác, chấp có ngã, khởi ác niệm nhắm đến Như Lai. Phạm chí, đó là mười một hạng người không thể đạt đến đạo tám chi này.

Khi Phật nói đạo tám chi này, ông Phạm chí liền dứt sạch trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh. Rồi Phạm chí Thi - la nói với năm trăm đệ tử:

–Các ngươi ai có sở thích gì thì hãy tự mình tụng tập.

Ta nay muốn theo Như Lai khéo tu phạm hạnh.

Các đệ tử bạch rằng:

–Chúng con cũng muốn xuất gia học đạo.

Bấy giờ, Phạm chí cùng năm trăm đệ tử thảy đều quỳ xuống, chắp tay bạch Thế Tôn:

–Cúi mong Thế Tôn nhận cho chúng con xuất gia học đạo.

Phật nói:

–Hãy khéo đến đây, Tỳ - kheo! Hãy đến với Như Lai mà tu hành phạm hạnh vô thượng, để dần dần dứt sạch nguồn khổ.

Như Lai nói xong lời này, năm trăm Phạm chí tức thì thành Sa - môn. Sau đó Thế Tôn lần lượt thuyết pháp, nói các đề tài vi diệu cho năm trăm người này nghe; đề tài về thí, về giới, sinh Thiên, dục là bất tịnh tưởng, xuất yếu là an lạc. Như pháp mà chư Phật Thế Tôn thường thuyết, là Khổ, Tập, Tận, Đạo; Thế Tôn bấy giờ rộng nói chi tiết cho những người này nghe, tức thì năm trăm người hoàn toàn dứt sạch các lậu, đắc pháp thượng nhân.

Bấy giờ Phạm chí Sí - ninh đến báo:

–Đã đến thời, cúi mong thần đức hạ cố.

Thế Tôn nói với Thi - la và năm trăm Tỳ - kheo:

–Các ông thảy đều khoác y, cầm bát.

Rồi Phật cùng với một ngàn Tỳ - kheo vây quanh trước sau đi vào thành, đến nhà Phạm chí, ngồi trên chỗ dọn sẵn.

Khi Phạm chí Sí - ninh thấy năm trăm Bà - la - môn đều đã trở thành Sa - môn, bèn nói rằng:

–Lành thay! Các ông đã đi theo con đường chân chánh, không có gì hơn nữa.

Phạm chí Thi - la nói với Phạm chí Sí - ninh bằng bài kệ này:

Ngoài đây, không pháp nào
Vượt hơn pháp yếu này
So loại tợ như vậy
Chí thiện không đâu hơn.

Bấy giờ Phạm chí Sí - ninh bạch Thế Tôn:

–Cúi mong Thế Tôn hoan hỷ đợi thêm chút nữa.

Chúng con đang bày biện thêm thức ăn.

Phật nói:

–Thức ăn đã làm, đúng thời thì dọn lên, chớ sợ không đủ.

Phạm chí Sí - ninh vô cùng hoan hỷ, tự thân bưng sớt thức ăn cúng dường Phật và Tăng Tỳ - kheo. Sau khi Thế Tôn và Tăng Tỳ - kheo ăn xong, cất dọn chén bát xong, Phạm chí rải đủ các loại hoa lên Phật Tăng Tỳ - kheo, rồi bước lên trước bạch Phật rằng:

–Kính bạch Thế Tôn, hết thảy trai gái lớn nhỏ trong nhà con đều cầu xin Thế Tôn nhận là Ưu - bà - tắc, Ưu - bàdi[1].

Vợ của Phạm chí lúc đang mang thai. Bà hỏi Phật:

–Con đang mang thai, không biết là trai hay gái, cũng xin tự quy y Như Lai. Cúi xin nhận con là Ưu - bàdi.

Bấy giờ Như Lai nói pháp vi diệu cho đại chúng nghe. Ngay trên chỗ ngồi, Ngài nói kệ rằng:

Đẹp thay, phước báo này
Sở nguyện đều thành tựu
Dần đến chỗ an ổn
Không còn lo tai hoạn;
Khi chết, sinh lên trời
Giả sử các Thiên ma
Cũng không thể khiến cho
Người làm phước đọa tội.
Những ai cầu phương tiện
Trí tuệ của Thánh hiền
Sẽ dứt sạch gốc khổ
Vĩnh viễn xa tám nạn.

Thế Tôn sau khi nói bài kệ này, rời chỗ ngồi đứng dậy ra đi.

Bấy giờ Phạm chí Sí - ninh nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH SỐ 7[2]

Nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại nước Xá - vệ, trong vườn Kỳ thọ Cấp cô độc. Bấy giờ Thế Tôn nói với các Tỳ - kheo:

–Ta thường ăn một lần ngồi[3], thân thể nhẹ nhàng, khí lực khỏe mạnh. Tỳ - kheo các ông cũng nên ăn một bữa, thân thể nhẹ nhàng, khí lực mạnh khỏe, để có thể tu phạm hạnh.

Lúc bấy giờ Bạt - đà - bà - la bạch Phật:

–Con không thể ăn một bữa. Vì sao? Khí lực con sẽ yếu ớt.

Phật nói:

–Nếu ông đến nhà đàn - việt, ăn một phần, còn một phần mang về nhà.[4]

Bạt - đề - bà - la bạch Phật:

–Con cũng không thể thực hành pháp này.

Phật nói:

–Cho phép ông phá bỏ trai[5], mà ăn thông qua ngày.

Bạt - đề - bà - la bạch Phật:

–Con cũng không thể thi hành pháp này.

Khi ấy, Thế Tôn im lặng không trả lời.

Bấy giờ Ca - lưu - đà - di vào lúc sắp tối, mặt trời lặn, khoác y cầm bát vào thành khất thực. Khi ấy trời rất tối. Ưu - đà - di[6] lần hồi đi đến nhà một trưởng giả kia. Vợ của ông trưởng giả đang mang thai, nghe có tiếng Sa - môn khất thực ngoài cửa, liền bưng cơm ra để cho. Nhưng vì Ưu - đà - di có sắc da cực kỳ đen, lại gặp lúc trời đang mưa, chớp giật khắp nơi, cho nên khi vợ ông trưởng giả ra cổng vừa thấy một ông Sa - môn sắc da cực kỳ đen, tức thì kinh hãi la lớn:

–Quỷ! Trời ơi, tôi gặp quỷ!

Ngay lúc ấy thai nhi bị chấn thương nên mạng chung.[7]

Sau đó, Ca - lưu - đà - di trở về tinh xá, ưu sầu không vui, ngồi mà suy nghĩ hối hận không còn kịp. Lúc bấy giờ trong thành Xá - vệ có tiếng đồn xấu như vầy: “Samôn họ Thích dùng chú thuật làm trụy thai con của người ta.” Trong đó, trai gái bảo nhau: “Thời giờ này các Sa - môn đi đứng vô độ, ăn không biết phải thời, giống như người bạch y tại gia, có gì khác?”

Bấy giờ, số đông các Tỳ - kheo nghe mọi người bàn luận lý lẽ như vậy: “Sa - môn họ Thích không biết chừng mực, lui tới bất kể.” Trong số đó, có Tỳ - kheo trì giới hoàn hảo cũng tự oán trách: “Thật là không thích hợp đối với chúng ta.” Rồi họ đi đến Phật cúi đầu lạy dưới chân và đem hết nhân duyên ấy thuật lên Đức Thế Tôn.

Thế Tôn bảo một Tỳ - kheo:

–Ông đi gọi Ca - lưu - đà - di đến đây.

Tỳ - kheo ấy vâng lời Phật, tức thì đi gọi Ưu - đà - di. Ưu - đà - di nghe Phật gọi, vội vàng đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lạy dưới chân, rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn hỏi:

–Có thật hôm qua vào lúc tối mặt trời lặn ông vào thành khất thực, đến nhà trưởng giả, khiến cho vợ ông ấy trụy thai chăng?

Ưu - đà - di bạch Phật:

–Vâng, bạch Thế Tôn.

Phật bảo Ưu - đà - di:

–Ông vì sao không phân biệt thời tiết, nhằm lúc trời sắp mưa mà vào thành khất thực? Việc làm của ông không thích hợp. Thiện giả nam tử xuất gia học đạo mà lại tham đắm chuyện ăn?

Ưu - đà - di liền rời chỗ ngồi đứng dậy bạch Thế Tôn:

–Từ nay về sau con không dám tái phạm nữa. Cúi mong Thế Tôn nghe cho con sám hối.

Bấy giờ Phật bảo A - nan:

–Ông hãy mau đánh kiền chùy, tập họp các Tỳ - kheo tại giảng đường Phổ hội.

A - nan vâng lời Phật dạy, liền tập họp các Tỳ - kheo vào giảng đường Phổ hội, rồi đến trước Phật, bạch rằng:

–Các Tỳ - kheo đã tập họp. Bạch Thế Tôn, giờ là lúc thích hợp.

Khi ấy Thế Tôn liền đi đến giảng đường, ngồi xuống giữa, nói với các Tỳ - kheo:

–Chư Phật trong thời quá khứ xa xưa đều chỉ ăn một lần ngồi. Các Thanh văn cũng ăn một lần ngồi. Chư Phật và các đệ tử trong tương lai cũng chỉ ăn một lần ngồi. Vì sao? Đó là pháp yếu để hành đạo. Hãy ăn một lần ngồi. Nếu ai có thể ăn một lần ngồi, thân thể nhẹ nhàng, tâm được mở tỏ. Do tâm đã mở tỏ mà được các thiện căn. Do được các thiện căn mà đắc Tam - muội. Do đắc Tam - muội mà như thật biết. Như thật biết những gì? Như thật biết Khổ đế. Như thật biết Khổ tập đế. Như thật biết Khổ tận đế. Như thật biết Khổ xuất yếu đế.

Các ông, những thiện gia nam tử, đã xuất gia học đạo, xả bỏ tám nghiệp ở đời mà không biết thời tiết, vậy có khác gì với những con người tham dục kia? Phạm chí có pháp riêng của Phạm chí. Ngoại đạo có pháp riêng của ngoại đạo.

Lúc bấy giờ Ưu - ba - ly bạch Thế Tôn:

–Chư Phật trong quá khứ và chư Phật trong tương lai đều ăn một lần ngồi. Cúi mong Thế Tôn hạn định thời gian ăn cho các Tỳ - kheo.

Thế Tôn nói:

–Như Lai cũng đã có nhận thức đó. Nhưng vì chưa có người sai phạm. Phải đợi khi ngay trước mắt có người phạm tội, Ta mới chế luật.

Rồi Thế Tôn nói với các Tỳ - kheo:

–Ta chuyên ăn một lần ngồi. Các ông cũng nên ăn một lần. Nay, các ông chỉ ăn giữa ngày mà không được quá thời.

Các ông cũng nên học pháp khất thực. Tỳ - kheo học pháp khất thực như thế nào? Ở đây, Tỳ - kheo chỉ vì mục đích duy trì mạng sống. Được cũng không vui, mà không được cũng không buồn. Khi được thức ăn, hãy tư duy mà ăn. Ăn không với tâm tham đắm, mà chỉ cốt giữ cho thân này được tồn tại, trừ khử bệnh[8] cũ, không gây thêm bệnh mới, khiến cho khí lực sung túc. Tỳ - kheo, như vậy gọi là khất thực.

Tỳ - kheo các ông, hãy ăn một lần ngồi. Tỳ - kheo, thế nào là ăn một lần ngồi? Đã đứng dậy rồi, ăn xong, không ăn trở lại nữa; nếu ăn, là phạm.[9] Tỳ - kheo, như vậy gọi là ăn một lần ngồi.

Tỳ - kheo các ông, cũng nên nhận được thức ăn rồi mới ăn.[10]Thế nào là Tỳ - kheo nhận được rồi mới ăn? Ở đây, Tỳ - kheo đã được thức ăn rồi, lại được thêm nữa thì có thể nhận. Nhưng đã ăn xong, không được ăn trở lại. Như vậy, Tỳ - kheo nhận được thức ăn thì ăn.

Tỳ - kheo các ông, nên khoác ba y[11]; nên ngồi dưới gốc cây; nên ngồi chỗ nhàn tĩnh; nên ngồi ngoài trời trống, khổ hành; nên khoác y chắp mảnh; nên sống trong bãi tha ma; nên khoác y tồi tàn. Vì sao? Người sống thiểu dục thì được khen ngợi.

Nay Ta dạy các ông, hãy như Tỳ - kheo Ca - diếp. Vì sao? Tỳ - kheo Ca - diếp tự mình hành mười hai pháp Đầuđà và cũng khuyến khích người khác hành theo pháp yếu này.

Nay Ta dạy các ông, hãy như Tỳ - kheo Diện Vương[12]. Vì sao? Tỳ - kheo Diện Vương khoác loại y thô xấu tồi tàn, không bận các thứ tốt đẹp.

Tỳ - kheo, đó là giáo huấn của Ta. Hãy chuyên tâm tu tập. Tỳ - kheo, hãy học như vậy.

Bấy giờ, Bạt - đề - bà - la trải qua ba tháng[13] không đến gặp Thế Tôn. Khi vừa hết ba tháng, A - nan đi đến Bạtđề - bà - la, nói rằng:

–Nay chư Tăng đang khâu vá y. Như vậy, Như Lai sẽ du hành trong nhân gian. Nay Thầy không đến gặp, sau này hối hận vô ích.

Rồi A - nan dẫn Bạt - đà - bà - la đến chỗ Thế Tôn. Bạtđà - bà - la cúi đầu lạy dưới chân Phật và bạch rằng:

–Cúi mong Thế Tôn nghe cho con sám hối. Từ nay về sau sẽ không tái phạm nữa. Như Lai chế cấm giới, mà con không vâng lãnh. Cúi mong Thế Tôn rủ lòng tha thứ. Ông nói như vậy ba lần. Bấy giờ Phật bảo Bạt - đàbà - la:

–Ta nhận cho ông sám hối lỗi lầm, về sau chớ có phạm nữa. Vì sao? Ta tự nghĩ, sống chết vô số, có khi làm thân lừa, loa, lạc đà, voi, ngựa, heo, dê, nuôi dưỡng thân bốn đại này bằng cỏ. Hoặc ở trong địa ngục, ăn nuốt sắt nóng. Hoặc ở trong loài ngạ quỷ hằng ăn máu mủ. Hoặc có khi làm người, ăn năm thứ cốc này. Hoặc sinh làm thân trời, ăn cam lộ tự nhiên. Trong vô số kiếp, hình mạng cùng cạnh tranh mà chưa hề biết nhàm đủ, Ưu - ba - ly, nên biết, như lửa gặp củi, mới đầu không biết đủ. Như biển nuốt các sông, không bao giờ biết đủ. Nay, kẻ phàm phu cũng vậy, tham ăn không biết nhàm đủ.

Rồi Thế Tôn nói kệ:

Sinh tử không đoạn tuyệt
Thảy đều do tham dục
Oán ghét thêm lớn ác
Điều người ngu quen làm.

Cho nên, Bạt - đà - bà - la, hãy chuyên niệm thiểu dục tri túc. Như vậy, Ưu - ba - ly, hãy học điều này.

Rồi bấy giờ Bạt - đà - bà - la, sau khi nghe những điều Như Lai dạy, sống tại chỗ nhàn tĩnh mà tự mình khắc kỷ, vì mục đích mà thiện gia nam tử xuất gia học đạo, tu phạm hạnh vô thượng, là như thật biết rằng: “Sinh tử đã dứt, phạm hạnh đã lập, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sinh đời sau nữa.” Bấy giờ, Bạt - đà - bà - la thành A - la - hán.

Bấy giờ Thế Tôn nói với các Tỳ - kheo:

–Trong đệ tử của Ta, đệ nhất trong các Thanh văn ăn nhiều là Tỳ - kheo Cát Hộ[14] vậy.

Bấy giờ các Tỳ - kheo nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH SỐ 8

Nghe như vầy:

Một thời Phật ở trong thôn Ương - nghệ, cùng với chúng đại Tỳ - kheo năm trăm vị.

Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ - kheo:

–Mọi người đều gọi các ông là Sa - môn. Giả sử có người hỏi: “Các ông có phải là Sa - môn không?” Các ông cũng trả lời: “Tôi là Sa - môn.”

Nay Ta nói với các ông về hành của Sa - môn và hành của Bà - la - môn. Các ông hãy suy niệm tu tập, về sau nhất định đạt thành kết quả, như thật, không thể sai khác. Vì sao? Có hai hạng Sa - môn. Có Sa - môn tập hành. Có Samôn thệ nguyện.

Thế nào gọi là Sa - môn tập hành? Ở đây, Tỳ - kheo đi đứng, tới lui, nhìn ngó, dung mạo khoác y, bưng bát, thảy đều đúng như pháp. Không đắm tham dục, sân hận, ngu si. Duy chỉ trì giới, tinh tấn không phạm các điều phi pháp, học các giới. Đó gọi là Sa - môn tập hành.

Thế nào gọi là Sa - môn thệ nguyện? Ở đây, hoặc có Tỳ - kheo mà oai nghi, giới luật, ra vào, tới lui, bước đi, dung mạo, nhìn ngó, cử động, thảy đều như pháp, dứt sạch hữu lậu, thành vô lậu, ở ngay trong hiện pháp, tự thân chứng ngộ mà an trú, như thật biết rằng, sinh tử đã dứt, phạm hạnh đã lập, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sinh đời sau nữa. Đó gọi là Sa - môn thệ nguyện.

Tỳ - kheo, đó là hai hạng Sa - môn.

Khi ấy A - nan bạch Thế Tôn rằng:

–Thế nào là pháp hành của Sa - môn. Pháp hành của Bà - la - môn?

Phật bảo A - nan:

–Tỳ - kheo ăn uống biết đủ, ngày đêm kinh hành, không mất thời tiết, hành các đạo phẩm.

Thế nào là Tỳ - kheo có các căn tịch tĩnh? Ở đây, Tỳ - kheo, khi mắt thấy sắc, không khởi tưởng đắm trước, gợi các loạn niệm, ở trong đó mà nhãn căn được thanh tịnh, trừ các niệm xấu, không niệm pháp bất thiện. Khi tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân biết trơn mịn, ý biết pháp, ở nơi ý căn mà được thanh tịnh. Như vậy, Tỳ - kheo được các căn thanh tịnh.

Thế nào là Tỳ - kheo ăn uống biết đủ? Ở đây, Tỳ - kheo lường bụng mà ăn; không vì mục đích mập trắng, mà chỉ cốt duy trì thân này cho được tồn tại, trừ khử bệnh cũ, bệnh mới không sinh, để có thể tu phạm hạnh. Cũng như trai hay gái, trên thân sinh ghẻ. Tùy thời lấy thuốc cao mà bôi lên vết thương, thường mong vết thương được lành. Nay Tỳ - kheo ở đây cũng vậy, lường bụng mà ăn. Sở dĩ lấy mỡ bôi bánh xe, là muốn đi được xa. Tỳ - kheo lường bụng mà ăn, vì để duy trì mạng tồn tại. Như vậy, Tỳ - kheo ăn uống biết đủ.

Thế nào là Tỳ - kheo hằng biết tỉnh giác? Ở đây, Tỳ - kheo vào lúc đầu đêm, cuối đêm, hằng biết tỉnh giác, tư duy pháp ba mươi bảy phẩm đạo. Lại nữa, đầu đêm, cuối đêm, đi kinh hành, trừ khử ý tưởng ác kết bất thiện. Rồi lại, nửa đêm nằm nghiêng bên hông phải, hai bàn chân chồng lên nhau, hướng đến tưởng ánh sáng. Cuối đêm, trở dậy kinh hành, trừ khử niệm bất thiện. Như vậy, Tỳ - kheo biết tỉnh giác.

Như vậy, A - nan, đó là yếu hành của Sa - môn.

Thế nào là yếu hành của Bà - la - môn? Ở đây, Tỳ - kheo như thật biết Khổ đế, như thật biết Khổ tập, Khổ tận, Khổ xuất yếu. Rồi sau đó, tâm được giải thoát khỏi dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Đã được giải thoát, liền được trí giải thoát, như thật biết rằng: “Sinh tử đã hết, phạm hạnh đã lập, điều cần làm đã làm xong, không còn thọ thai nữa.” Đó gọi là yếu hành của Bà - la - môn.

A - nan nên biết, đây là nghĩa của yếu hành.

Rồi Thế Tôn nói kệ này:

Sa - môn: Tâm tĩnh lặng[15]
Các ác đã diệt tận
Phạm chí, là thanh tịnh
Trừ khử các loạn tưởng.

Đó là, A - nan, pháp hành của Sa - môn và pháp hành của Bà - la - môn. Hãy suy niệm tu hành. Chúng sinh nào hành pháp này, nhiên hậu mới được gọi là Sa - môn.

Lại nữa, vì sao gọi là Sa - môn? Các kết sử hoàn toàn lắng dừng, cho nên gọi là Sa - môn.

Lại nữa, vì sao gọi là Bà - la - môn? Tận trừ pháp ngu hoặc, cho nên gọi là Bà - la - môn[16].

Lại nữa, vì sao gọi là Sát - lợi? Do đã đoạn trừ dâm, nộ, si, nên gọi là Sát - lợi.

Cũng gọi là người đã tắm[17]. Thế nào gọi là đã tắm? Người ấy đã rửa sạch hai mươi mốt kết sử, vì vậy gọi là đã tắm.

Cũng gọi là giác. Thế nào gọi là giác? Vì đã giác ngộ pháp ngu và pháp trí, nên gọi là giác.

Cũng gọi là bờ kia. Thế nào gọi là bờ kia? Người ấy đã từ bờ này sang đến bờ bên kia, cho nên gọi là bờ kia.

Này A - nan, những ai hành được pháp này, mới được gọi là Sa - môn, Bà - la - môn. Ý nghĩa như vậy, các ông hãy suy niệm phụng hành.

Bấy giờ A - nan nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH SỐ 9

Nghe như vầy:

Một thời, Phật ở giữa những người họ Thích,[18] ngụ trong vườn Ni - câu - lưu, Ca - tỳ - la - việt, cùng với chúng đại Tỳ - kheo năm trăm vị.

Bấy giờ, Vương tử Đề - bà - đạt - đa đi đến Thế Tôn, cúi đầu lạy dưới chân, rồi ngồi xuống một bên. Khi ấy, Đềbà - đạt - đa bạch Phật rằng:

–Cúi mong Thế Tôn chấp thuận cho con được vào đạo làm Sa - môn.[19]

Phật bảo Đề - bà - đạt - đa:

–Ông nên sống tại gia mà huệ thí phân - đàn[20]. Vì làm Sa - môn thật không dễ.

Đề - bà - đạt - đa lặp lại ba lần, bạch Phật:

–Cúi xin Thế Tôn cho phép con tại hàng thấp nhất.

Phật lại bảo:

–Ông nên sống tại gia, không nên xuất gia tu hạnh Sa - môn.

Lúc bấy giờ Đề - bà - đạt - đa liền có ý nghĩ rằng: “Samôn này có lòng tật đố. Nay ta cứ tự mình cạo đầu, khéo tu phạm hạnh. Cần gì Sa - môn ấy.”[21]

Rồi Đề - bà - đạt - đa lui về, tự mình cạo tóc, khoác casa, tự xưng “Ta là Thích tử.”

Bấy giờ có một Tỳ - kheo tên là Tu - la - đà[22], hành Đầuđà khất thực, khoác y vá mảnh, thông suốt năm thần thông. Đề - bà - đạt - đa đến chỗ Tỳ - kheo này, cúi đầu lạy dưới chân, bạch rằng:

–Cúi xin Tôn giả thuyết giáo cho tôi, để tôi được an ổn lâu dài. Bấy giờ Tỳ - kheo Tu - la - đà liền dạy các oai nghi lễ tiết, tư duy pháp này, theo học pháp này,… Đềbà - đạt - đa y theo lời dạy của Tỳ - kheo ấy, không có điều gì sai sót. Sau đó, Đề - bà - đạt - đa bạch Tỳ - kheo rằng:

–Cúi xin Tôn giả chỉ dạy tôi đạo thần túc. Tôi có thể tu hành được đạo này.

Khi ấy, Tỳ - kheo này dạy cho ông đạo thần túc:

–Ông bây giờ phải học về sự khinh trọng của tâm ý. Sau khi đã biết tâm ý khinh trọng, lại phải phân biệt sự khinh trọng của bốn đại là đất, nước, lửa, gió. Sau khi đã biết sự khinh trọng của bốn đại, phải tu hành Tam - muội tự tại. Sau khi hành Tam - muội tự tại, lại phải tu Tammuội dũng mãnh. Sau khi hành Tam - muội dũng mãnh, lại phải tu hành Tam - muội tâm ý. Sau khi hành Tammuội tâm ý, lại phải hành Tam - muội tự giới.[23] Sau khi hành Tam - muội tự giới, như vậy chẳng bao lâu sẽ thành tựu đạo thần túc.

Đề - bà - đạt - đa sau khi nhận sự chỉ giáo của thầy, tự biết sự khinh trọng của tâm ý. Sau đó lại biết sự khinh trọng của bốn đại. Rồi tu suốt hết thảy các Tam - muội, không có điều gì sai sót. Không bao lâu, ông đắc đạo thần túc, bằng vô số phương tiện như vậy, ông biến hóa thành vô lượng. Lúc bấy giờ danh tiếng Đề - bà - đạt - đa được lưu truyền khắp bốn phương.

Bấy giờ, bằng thần túc, Đề - bà - đạt - đa lên cho đến cõi trời Tam thập tam lấy đủ các loại hoa Ưu - bát, Câu - mâuđầu, đem dâng cho thái tử A - xà - thế, lại bảo:

–Hoa này xuất xứ từ trên trời Tam thập tam. Thích Đề - hoàn Nhân sai mang đến dâng thái tử.

Thái tử A - xà - thế thấy Đề - bà - đạt - đa thần túc như vậy nên tùy thời cúng dường, cung cấp những gì cần thiết. Thái tử lại suy nghĩ: “Thần túc của Đề - bà - đạt - đa thật khó ai sánh kịp.”

Đề - bà - đạt - đa lại ẩn hình biến thành đứa nhỏ, ngồi lên đùi của thái tử. Lúc ấy, các thể nữ nghĩ thầm: “Đây là người gì? Quỷ chăng? Trời chăng?” Nói năng chưa dứt, Đề - bà - đạt - đa hiện hình lại như cũ. Thái tử và các cung nhân đều ca ngợi: “Đây là Đề - bà - đạt - đa.” Tức thì cung cấp cho những thứ cần dùng. Lại cho loan truyền lời này: “Danh đức của Đề - bà - đạt - đa thật không thể ghi hết.”

Bấy giờ số đông các Tỳ - kheo nghe lời đồn này, đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lạy dưới chân, rồi bạch Phật rằng:

–Đề - bà - đạt - đa có thần túc rất lớn, nên được các thứ y phục, ẩm thực, giường chõng và ngọa cụ, thuốc men trị bệnh.

Phật bảo các Tỳ - kheo:

–Các ông chớ có khởi ý nghĩ ấy, mà đắm trước lợi dưỡng của Đề - bà - đạt - đa. Lại cũng chớ khen tốt sức thần thông của ông ấy. Người đó sẽ vì thần túc mà đọa vào ba đường dữ. Lợi dưỡng mà Đề - bà - đạt - đa thu hoạch được, cùng với thần thông ấy rồi sẽ mất hết. Vì sao? Đề - bà - đạt - đa tự mình gây các hành vi thân, miệng ý, lại khởi lên ý tưởng rằng: [24]”Sa - môn Cù - đàm có thần túc, ta cũng có thần túc. Sa - môn Cù - đàm có sở tri, ta cũng có sở tri. Sa - môn Cù - đàm thuộc chủng tộc cao quý, ta cũng thuộc chủng tộc cao quý. Nếu Sa - môn Cùđàm hiện một thần túc, ta sẽ hiện hai thần túc. Sa - môn Cù - đàm hiện hai thần túc, ta sẽ hiện bốn. Ông ấy hiện tám, ta sẽ hiện mười sáu. Ông ấy hiện mười sáu, ta sẽ hiện ba mươi hai. Tùy theo Sa - môn Cù - đàm nên hóa thế nào, ta sẽ biến hóa gấp bội.”

Bấy giờ, có rất đông Tỳ - kheo nghe Đề - bà - đạt - đa tự tuyên bố như vậy. Do đó, có năm trăm Tỳ - kheo đi đến với Đề - bà - đạt - đa và năm trăm năm mươi Tỳ - kheo nhận sự cúng dường của thái tử.[25]

Bấy giờ, Xá - lợi - phất và Mục - kiền - liên bảo nhau:

–Chúng ta hãy đi đến chỗ Đề - bà - đạt - đa, nghe xem ông ấy thuyết pháp đề tài gì?

Rồi hai vị cùng đi đến chỗ Đề - bà - đạt - đa. Từ xa, Đềbà - đạt - đa thấy Xá - lợi - phất và Mục - kiền - liên, liền bảo các Tỳ - kheo:

–Hai người ấy là đệ tử của Tất - đạt.

Trong lòng ông rất vui sướng. Sau khi chào hỏi xong, họ ngồi xuống một bên. Các Tỳ - kheo đều khởi lên ý nghĩ rằng: “Đệ tử của Phật Thích - ca nay đều theo Đềbà - đạt - đa hết.”

Bấy giờ Đề - bà - đạt - đa nói với Xá - lợi - phất:

–Nay thầy có thể thuyết pháp cho các Tỳ - kheo không? Tôi muốn nghỉ một chút. Vì hơi đau lưng.

Rồi Đề - bà - đạt - đa nằm nghiêng hông bên phải, hai bàn chân chồng lên nhau, vì trong lòng rất vui sướng, nên ngủ liền.

Xá - lợi - phất và Mục - kiền - liên thấy Đề - bà - đạt - đa ngủ rồi, liền dùng thần túc tiếp các Tỳ - kheo bay lên hư không mà đi. Khi Đề - bà - đạt - đa thức dậy, không thấy các Tỳ - kheo, vô cùng tức giận, phun ra lời này: “Ta không trả được oán này, sẽ không gọi là Đề - bà - đạt - đa nữa.” Đây là lần thứ nhất Đề - bà - đạt - đa phạm tội ác ngũ nghịch.[26] Khi Đề - bà - đạt - đa vừa khởi lên ý nghĩ ấy, tức thì mất thần túc.

Bấy giờ số đông các Tỳ - kheo bạch Thế Tôn rằng:

–Tỳ - kheo Đề - bà - đạt - đa có thần túc rất lớn, có thể phá hoại Thánh chúng.[27]

Phật nói với các Tỳ - kheo:

–Không chỉ ngày nay Đề - bà - đạt - đa mới phá hoại Thánh chúng, mà trong đời quá khứ cũng đã thường xuyên phá hoại Thánh chúng. Vì sao? Trong quá khứ, đã hoại Thánh chúng, ông lại khởi ác niệm rằng:[28] “Ta sẽ bắt Sa - môn Cù - đàm mà giết đi. Để trong ba cõi này ta là Phật độc tôn, không có ai ngang lứa.”

Khi ấy, Đề - bà - đạt - đa nói với thái tử A - xà - thế[29]:

–Thuở xưa, thọ mạng con người rất dài. Ngày nay rất vắn. Giả sử thái tử một mai chết đi, thật là uổng phí sinh ra trên đời. Sao ngài không bắt vua cha giết đi để nối ngôi Thánh vương? Còn tôi, sẽ giết Như Lai để được làm Phật. Vua mới, Phật mới, không khoái lắm sao?[30]

A - xà - thế liền sai người giữ cửa bắt vua cha nhốt vào ngục, tự lập làm vua cai trị nhân dân. Bấy giờ dân chúng bàn bạc với nhau: “Người con này khi chưa sinh đã là đứa con oan gia.” Nhân đó, họ gọi là vua A - xàthế. Đề - bà - đạt - đa thấy A - xà - thế đã nhốt vua cha rồi, bèn khởi ý tưởng bày: “Ta phải bắt Sa - môn Cù - đàm mà giết đi.”

Lúc bấy giờ Thế Tôn đang ở bên sườn một hòn núi nhỏ trong núi Kỳ - xà - quật. Đề - bà - đạt - đa leo lên núi Kỳxà - quật, tay bưng một tảng đá lớn, dài ba mươi khuỷu tay, rộng mười lăm khuỷu tay, ném vào Thế Tôn. Ngay lúc đó, thần núi là quỷ Kim - tỳ - la, thường trực sống trên núi này, thấy Đề - bà - đạt - đa ôm đá ném Phật, liền đưa tay ra đón lấy rồi để xuống chỗ khác. Trong lúc đó, một mảng đá vụn văng trúng chân Như Lai, tức thì chảy máu. Thế Tôn trông thấy Đề - bà - đạt - đa, liền nói:

–Ngươi nay khởi ý muốn hại Như Lai. Đây là tội ngũ nghịch thứ hai.

Khi ấy, Đề - bà - đạt - đa nghĩ thầm: “Giờ ta không giết được Sa - môn Cù - đàm này, sẽ tìm phương tiện khác.” Rồi bỏ đi, đến chỗ A - xà - thế, tâu vua rằng:

–Vua hãy cho con Hắc tượng uống rượu say, để nó giết Sa - môn. Vì sao? Con voi này rất hung bạo. Nhất định nó sẽ giết Sa - môn Cù - đàm. Nếu Sa - môn Cù - đàm có Nhất thiết trí, ngày mai sẽ không vào thành khất thực. Nếu ông không có Nhất thiết trí, ngày mai chắc sẽ vào thành khất thực và sẽ bị con voi dữ này giết.[31]

Vua A - xà - thế liền sai cho voi uống rượu thuần[32] cho thật say và bố cáo dân chúng trong nước biết:

–Những ai muốn yên ổn, tiếc mạng sống, ngày mai, không ai được đi lại trong thành.

Bấy giờ, đến giờ, Thế Tôn khoác y cầm bát vào thành La - duyệt khất thực. Trong nước, trai gái lớn nhỏ, bốn bộ chúng, nghe vua A - xà - thế cho voi uống rượu để hại Như Lai, ai nấy đều đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lạy dưới chân rồi bạch Phật:

–Cúi mong Thế Tôn chớ vào thành La - duyệt khất thực. Vì sao? Vua A - xà - thế cho voi uống rượu say để hại Như Lai.

Phật bảo các Ưu - bà - tắc:

–Phàm là Đẳng Chánh Giác, không ai có thể hại được.

Thế Tôn tuy có nghe lời ấy, nhưng vẫn vào thành. Con voi dữ khi trông thấy Phật từ xa, nó bùng cơn thịnh nộ, nhằm chạy đến Như Lai, để giết. Phật thấy con voi chạy đến, liền nói bài kệ:

Voi chớ có hại Rồng
Khó gặp Voi rồng[33] hiện
Do bởi không giết Rồng
Mà được sinh cõi lành.[34]

Con voi ấy sau khi nghe Như Lai nói bài kệ này, liền quỳ xuống liếm chân Như Lai. Trong lòng con voi khi ấy hối hận không yên, nên nó mạng chung, liền được sinh lên trời Tam thập tam.

A - xà - thế và Đề - bà - đạt - đa thấy con voi đã chết, buồn bã vô cùng. Đề - bà - đạt - đâu nói với vua:

–Sa - môn Cù - đàm đã giết chết con voi rồi.

A - xà - thế nói:

–Sa - môn Cù - đàm này có thần lực rất lớn, có nhiều kỹ thuật, lại có chú thuật mới giết được con voi rồng đó.

Rồi A - xà - thế lại nói:

–Sa - môn này tất có oai đức đầy đủ, nên rốt cuộc không bị voi dữ giết.

Đề - bà - đạt - đa nói:

–Sa - môn Cù - đàm có chú làm huyễn hoặc, khiến cho các dị học ngoại đạo bị khuất phục hết, huống gì loài súc sinh.

Khi ấy Đề - bà - đạt - đa lại nghĩ thầm: “Ta nay quán sát thấy tâm ý vua A - xà - thế muốn cải đổi.” Thế rồi Đề - bàđạt - đa rầu rĩ không vui, đi ra khỏi thành La - duyệt.

Lúc bấy giờ Tỳ - kheo - ni Pháp Thí[35] trông thấy Đềbà - đạt - đa từ xa đi đến, cô nói với ông:

–Ông đã gây tội lỗi cực kỳ. Nay sám hối còn dễ; để sau này thì rất khó.

Đề - bà - đạt - đa nghe lời này, lại càng tức giận, trả lời rằng:

–Con tiện tỳ trọc này, tội lỗi gì mà nay dễ, sau khó?

Tỳ - kheo - ni Pháp Thí đáp:

–Ông đã đi theo kẻ ác, lại tạo gốc rễ bất thiện.

Cơn lửa giận trong người Đề - bà đạt - đâu liền cháy bừng bừng; tức thì ông lấy tay đánh chết Tỳ - kheo - ni. Như vậy, Đề - đạt - đâu đã giết bậc Chân nhân.[36]

Sau đó, ông trở về phòng của mình, nói với các đệ tử:

–Các ngươi nên biết, ta đã có ý hướng đến Sa - môn Cù - đàm, nhưng theo nghĩa lý thì không phù hợp. Vì La - hán lại khởi ác ý nhắm đến A - la - hán. Ta nay nên hướng đến ông ấy mà sám hối.

Đề - bà - đạt - đa vì vậy mà buồn bã không vui, chẳng bao lâu lâm trọng bệnh. Ông bảo đệ tử:

–Ta không còn sức lực nào để đi gặp Sa - môn Cùđàm. Các người hãy dìu ta đi đến chỗ Sa - môn.

Bấy giờ Đề - bà - đạt - đa lấy thuốc độc bôi lên đầu móng tay; sau đó bảo đệ tử:

–Các ngươi hãy cáng ta đến chỗ Sa - môn kia.

Các đệ tử liền cáng Đề - bà - đạt - đa đi đến chỗ Thế Tôn. A - nan trông thấy Đề - bà - đạt - đa từ xa đang đến, liền bạch Thế Tôn:

–Đề - bà - đạt - đa nay đến đây, chắc đã có tâm hối hận, muốn đến Như Lai cầu sám hối sửa đổi lỗi lầm.

Phật bảo A - nan:

–Đề - bà - đạt - đa không bao giờ có thể đi đến chỗ Thế Tôn.

A - nan ba lần lặp lại, bạch Phật:

–Nay Đề - bà - đạt - đa muốn đến Như Lai cầu xin sám hối lỗi lầm.

Phật nói với A - nan:

–Con người ác này không bao giờ có thể đi đến chỗ Như Lai. Con người này, hôm nay mạng căn đã chín.

Khi đến chỗ Thế Tôn, Đề - bà - đạt - đa nói với các đệ tử:

–Nay ta không nên nằm mà gặp Như Lai. Hãy để ta xuống giường rồi gặp Như Lai.

Khi Đề - bà - đạt - đa vừa đặt chân xuống đất, ngay lúc ấy từ trong đất một ngọn lửa theo gió nổi lên bao phủ thân Đề - bà - đạt - đa. Đề - bà - đạt - đa trong khi bị ngọn lửa thiêu đốt, liền phát sinh tâm hối hận đối với Như Lai, vừa muốn xưng “Nam - mô Phật” nhưng rốt cuộc không phát ra được tiếng “Nam - mô Phật” mà rơi ngay xuống địa ngục.

A - nan sau khi thấy Đề - bà - đạt - đa rơi xuống địa ngục, liền bạch Thế Tôn rằng:

–Đề - bà - đạt - đa hôm nay mạng chung mà vào trong địa ngục chăng?

Phật nói:

–Đề - bà - đạt - đa không phải vì diệt tận mà đạt đến Niết - bàn. Nay Đề - bà - đạt - đa khởi ác tâm nhắm đến Như Lai; khi thân hoại mạng chung, rơi xuống địa ngục.

Khi ấy A - nan buồn rầu rơi lệ không thể dừng được.

Phật bảo A - nan:

–Vì sao mà ông khóc?

A nan bạch Phật:

–Con nay tâm dục ái chưa hết, chưa đoạn dục, nên mới buồn khóc vậy.

Bấy giờ Thế Tôn bèn nói bài kệ này:

Như người tự gây hành
Tự xét trở lại gốc
Điều thiện nhận báo thiện
Điều ác nhận báo ác.
Người đời tạo hành ác
Chết, chịu khổ địa ngục
Nếu có tạo hành thiện
Chuyển thọ lộc trời.
Đây không phải lỗi Phật
Ông cớ gì mà buồn?

A nan bạch Phật:

–Đề - bà - đạt - đa thân hoại mạng chung sinh vào chỗ nào?

Phật bảo A - nan:

–Nay Đề - bà - đạt - đa này thân hoại mạng chung, sinh vào địa ngục. Vì sao? Do ông ấy đã tạo tội ác ngũ nghịch, nên chịu quả báo ấy.

A nan lại bạch Phật:

–Đúng vậy, Thế Tôn, như lời dạy của Thánh tôn. Thân quá khứ đã làm ác; thân hiện tại vào địa ngục. Vậy thì vì sao nay con lại buồn khóc rơi lệ? Bởi vì Đề - bàđạt - đa không tiếc danh hiệu dòng họ, chủng tánh, cũng không vì cha mẹ, tôn trưởng. Ông đã làm nhục dòng học Thích, hủy hoại môn hộ của chúng ta. Nhưng Đề - bà - đạtđa hiện thân vào địa ngục, thật sự không thích hợp. Vì sao? Môn hộ chủng tộc của chúng ta xuất từ ngôi vị Chuyển luân thánh vương. Đề - bà - đạt - đa xuất thân từ chủng tộc của vua, không nên hiện thân vào địa ngục. Đáng lẽ Đề - bà - đạt - đa hiện thân dứt sạch các lậu, thành vô lậu, tâm được giải thoát, ở trong hiện thân mà thọ chứng quả, biết như thật rằng: “Sinh tử đã hết, phạm hạnh đã lập, việc cần làm đã làm xong, không còn thọ thai nữa.” Tập theo dấu tích bậc Chân nhân, đắc A - lahán, ở nơi Niết - bàn giới vô dư mà Bát - niết - bàn. Không dè hiện thân này lại vào địa ngục. Đề - bà - đạt - đa khi xưa có oai thần rất lớn, rất có thần đức, nên mới lên đến trời Tam thập tam, biến hóa tự do, há có thể tưởng người đó lại vào địa ngục! Thế Tôn, không rõ Đề - bà - đạt - đa ở trong địa ngục trải qua bao nhiêu năm?

Phật bảo A - nan:

–Con người này ở trong địa ngục trải qua một kiếp.

A - nan lại bạch Phật:

–Nhưng kiếp có hai loại. Có đại kiếp, có tiểu kiếp.

Không rõ người này chịu theo kiếp nào?

Phật nói:

–Người này trải qua đại kiếp. Nói đại kiếp, là khi con số kiếp của Hiền kiếp này tận cùng. Khi ấy, hành tận, mạng chung, trở lại làm người.

A - nan bạch Phật:

–Đề - bà - đạt - đa đã vùi lấp hết gốc rễ làm người, rồi sau khôi phục trở lại. Vì sao? Con số của kiếp rất lâu dài. Phàm đại kiếp không dài quá Hiền kiếp.

Rồi A - nan lại buồn khóc, nghẹn ngào, không vui, lại bạch Phật:

–Đề - bà - đạt - đa ra khỏi địa ngục sẽ sinh về đâu?

Phật nói:

–Đề - bà - đạt - đa mạng chung ở đó, rồi sẽ sinh lên trời Tứ Thiên vương.

A - nan lại hỏi:

–Sau khi mạng chung ở trời này, lại sinh về đâu?

Phật nói với A - nan:

–Sau khi mạng chung ở đó, lần lượt sinh lên trời Tam thập tam, trời Diệm thiên, trời Đâu - suất, trời Hóa tự tại, trời Tha hóa tự tại.

A nan lại hỏi:

–Từ đó mạng chung, lại sinh vào chỗ nào?

Phật bảo A - nan:

–Ở đây, Đề - bà - đạt - đa từ địa ngục chết đi, sinh vào cõi lành, sinh lên trời, trải qua sáu mươi kiếp không rơi vào ba đường dữ; qua lại cõi trời, cõi người, đến thân cuối cùng, sẽ cạo bỏ râu tóc, khoác ba pháp y, với chí tín kiên cố xuất gia học đạo, thành Bích - chi - phật hiệu là Nam - mô.

Bấy giờ A - nan bước tới trước bạch Phật:

–Như vậy Thế Tôn, Đề - bà - đạt - đau do ác báo của mình mà bị dẫn xuống địa ngục chịu tội. Nhưng ông đã làm công đức gì mà trải qua sáu mươi kiếp sinh tử không phải thọ khổ não và cuối cùng lại thành Bích - chi - phật hiệu là Nam - mô?

Phật bảo A - nan:

–Tâm ý thiện trong khoảnh khắc búng ngón tay mà phước ấy khó có thể ví dụ. Huống hồ Đề - bà - đạt - đa thông kim bác cổ, tụng tập rất nhiều, ghi nhớ tổng trì các pháp, điều gì đã nghe rồi thì không quên. Đề - bà - đạt - đa này xưa vì thù oán mà khởi tâm muốn sát hại Như Lai. Nhưng cũng do duyên báo từ quá khứ xa xưa, vì đã khởi tâm hoan hỷ hướng đến Như Lai. Do nhân duyên báo ứng này, trong sáu mươi kiếp không đọa ba đường dữ. Lại do Đề - bà - đạt - đa vào giây phút cuối cùng trước khi mạng chung đã khởi tâm vui vẻ xưng “Nam - mô Phật’, cho nên sau này thành Bích - chi - phật hiệu là Nam - mô.

Khi ấy A - nan bước lên trước Phật, lặp lại trình bày của mình:

–Vâng, bạch Thế Tôn, như lời Phật[37] dạy.

Lúc bấy giờ, Đại Mục - kiền - liên bước lên trước Phật bạch rằng:

–Con nay muốn vào trong địa ngục, thuyết yếu hành[38] cho Đề - bà - đạt - đa, để ủy lạo và chúc mừng ông ấy.

Phật bảo Mục - kiền - liên:

–Ông nên biết rõ, chớ có đường đột khinh suất, mà hãy chuyên tâm chánh ý, không để loạn tưởng. Vì sao? Chúng sinh có hành vi cực ác khó mà khắc chạm[39] cho thành, vì vậy mới đọa vào địa ngục. Lại nữa, tội nhân ấy không hiểu tiếng nói trao đổi của nhân gian.

Mục - kiền - liên bạch Phật:

–Con ở đây hiểu biết sáu mươi bốn thứ ngôn ngữ. Con sẽ bằng tiếng nói thích hợp mà trao đổi với người ấy.

Phật bảo Mục - liên:

–Ông nên biết lúc thích hợp.

A - nan nghe những lời này, hoan hỷ phấn khởi không dừng được. Khi ấy Đại Mục - kiền - liên bước lên trước lạy dưới chân Phật, nhiễu quanh Phật ba vòng, rồi ngay trước Phật, trong khoảnh khắc chừng lực sĩ co duỗi cánh tay, biến mất và đi đến địa ngục A - tỳ. Khi ấy Đại Mụckiền - liên ở trên hư không trong địa ngục A - tỳ búng ngón tay gọi:

–Đề - bà - đạt - đa.

Nhưng Đề - bà - đạt - đa im lặng không trả lời. Các ngục tốt hỏi Mục - liên:

–Ông gọi Đề - bà - đạt - đa nào?

Rồi ngục lại bạch:

–Ở đây cũng có Đề - bà - đạt - đau thời Phật Câu - lâutôn; Đề - bà - đạt - đa thời Phật Câu - na - hàm - mâu - ni; Đề - bàđạt - đa thời Phật Ca - diếp; cũng có Đề - bà - đạt - đa tại gia; cũng có Đề - bà - đạt - đa xuất gia. Ông Tỳ - kheo! Nay đích thực ông muốn gọi Đề - bà - đạt - đa nào?

Mục - liên đáp:

–Đề - bà - đạt - đa mà tôi muốn gọi là con của chú của Phật Thích - ca Văn. Tôi muốn gặp ông ấy.

Khi ấy, ngục tốt cầm cây chĩa sắt, hoặc cầm ngọn lửa đỏ, châm đốt vào thân ông ấy để cho tỉnh giác. Thân thể Đề - bà - đạt - đa lúc bấy giờ bị ngọn lửa đốt cao ba mươi khuỷu tay. Ngục tốt bảo:

–Nhà ngươi, gã ngu si, sao còn ngủ?

Đề - bà - đạt - đa đang bị đủ các thứ khổ bức bách, trả lời:

–Hôm nay ông dạy bảo điều gì?

Ngục tốt lại nói:

–Ngươi hãy ngước mắt nhìn lên trời xem.

Theo lời ấy Đề - bà - đạt - đa ngước mắt nhìn lên hư không, thấy Đại Mục - kiền - liên ngồi kiết già trên một đóa hoa sen báu, như mặt trời đang vén đám mây. Thấy vậy Đề - bà - đạt - đa nói bài kệ:

Ai đó hiện thiên quang
Như mặt trời vén mây
Cũng như tụ núi vàng
Không một chút bụi dơ?

Mục - liên trả lời bằng bài kệ:

Ta là con Thích tôn
Đấng dòng họ Cù - đàm
Là Thanh văn của Ngài
Tên gọi Đại Mục - liên.

Đề - bà - đạt - đa nói với Mục - liên:

–Tôn giả Mục liên, vì sao hạ cố đến đây? Chúng sinh trong đây đã gây vô lượng tội ác, khó mà khai hóa được. Vì đã không tạo thiện căn nên sau khi mạng chung sinh vào đây.

Mục - liên đáp:

–Tôi được Phật sai đến đây. Vì thương tưởng, muốn giúp nhổ sạch cội khổ.

Nghe đến tiếng Phật, Đề - bà - đạt - đa hoan hỷ phấn khởi không dừng được, liền nói lên lời này:

–Cúi mong Tôn giả kịp thời nói rõ, Như Lai Thế Tôn có dạy điều gì. Ngài lại không tiên báo cội nguồn[40] của nẻo dữ nữa chăng?

Mục - liên nói:

–Đề - bà - đạt - đa, chớ có kinh sợ. Cực khổ của địa ngục không đâu hơn nơi này. Đức Phật Thích - ca Văn Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, thương xót đến hết thảy loài bò bay máy cựa, như mẹ yêu con, tâm không phân biệt, đúng hợp thời cơ thì diễn giáo nghĩa, không để mất đầu mối, cũng không nghịch với từng loại mà diễn nói quá lượng. Nay, từ chính kim khẩu của Ngài ký thuyết, ông trước kia khởi ác ý muốn hại Thế Tôn, lại lôi kéo người khác chạy theo đường ác[41]. Do nhân duyên báo ứng này mà sinh vào địa ngục A - tỳ, trải qua một kiếp không có ngày ra. Hết số kiếp này, hành đã hết, mạng chung, sẽ sinh lên trời Tứ Thiên vương, lần lượt sinh lên Tam thập tam, Diệm thiên, Đâu - suất, Hóa tự tại, Tha hóa tự tại. Trong sáu mươi kiếp, không rơi vào nẻo dữ. Châu lưu giữa cõi trời và cõi người, sau cùng thọ thân trở lại làm người, cạo bỏ râu tóc, khoác ba pháp y, với chí tín kiên cố xuất gia học đạo, sẽ thành Bích - chiphật hiệu là Nam - mô. Sở dĩ như vậy, do khi ông sắp chết, đã xưng “Nam - mô” nên mới có danh hiệu này. Nay Đức Như Lai quán sát thấy Thiên ngôn Nam - mô này, nên nói trong sáu mươi kiếp ông sẽ thành Bích - chi - phật với danh hiệu ấy.

Đề - bà - đạt - đa nghe xong những lời này, hoan hỷ phấn khởi, tâm thiện phát sinh, lại bạch Mục - liên:

–Những điều Như Lai nói tất nhiên không thể nghi ngờ, vì thương xót chúng sinh mà cứu vớt vô lượng, đại Từ, đại Bi, giáo hóa bao trùm đến kẻ ngu hoặc. Dù nay tôi nằm nghiêng hông phải trong địa ngục A - tỳ, trải qua một kiếp, tâm ý chuyên chánh, không hề mệt mỏi.

Bấy giờ Mục - liên nói với Đề - bà - đạt - đa:

–Thế nào, bây giờ nổi thống khổ của ông có thêm bớt gì không?

Đề - bà - đạt - đa đáp:

–Thân tôi thống khổ chỉ tăng chứ không giảm. Nay nghe được Như Lai đã thọ ký cho danh hiệu, thống khổ có hơi giảm chút ít nhưng không đáng kể.

Mục - liên hỏi:

–Căn nguyên thống khổ mà ông đang chịu giống như thứ gì?

Đề - bà - đạt - đa nói:

–Bằng bánh xe sắt nóng cán cho thân tan rã; rồi lại bằng chày sắt giã nát thân hình tôi; con voi đen hung bạo dày xéo thân tôi. Lại có ngọn núi lửa đến trán vào mặt tôi. Ca - sa ngày xưa nay biến thành tấm đồng đỏ rực đến quàng lên thân tôi. Tình trạng thống khổ nguyên lai như vậy.

Mục liên nói:

–Ông có biết nguồn gốc tội lỗi xưa mà nay phải phải chịu khổ não này chăng? Tôi phân biệt từng thứ, ông có muốn nghe không?

Đề - bà - đạt - đa nói:

–Thưa vâng, xin hợp thời thì nói. Khi ấy Mục - liên nói bài kệ này:

Xưa nơi Đấng Tối Thắng
Ông phá hoại chúng Tăng
Nay bị chày sắt nóng
Giã nát thân hình ông.
Bởi vì đại chúng kia
Là Thanh văn đệ nhất
Gây đấu loạn chúng Tăng
Nay bị bánh sắt cán.
Xưa ông đã xúi vua
Cho Hắc tượng uống say
Nay bị đám voi đen
Dày xéo thân hình ông.
Xưa ông ôm đá lớn
Ném vào chân Như Lai
Nay chịu báo núi lửa
Đốt ông cháy không sót.
Xưa ông vung tay đấm
Giết chết Tỳ - kheo - ni
Nay bị lá đồng nóng
Quấn siết không chút lỏng.
Nghiệp báo không hề mất
Không thể ẩn trong không
Mà tránh thoát được
Xa các nguồn ác này.

Ông trước kia là Đề - bà - đạt - đa, căn nguyên mà ông đã gây ra chính là như vậy. Hãy tự chuyên tâm chánh ý hướng đến Phật Như Lai, trong lâu dài sẽ được phước vô lượng.

Đề - bà - đạt - đa lại bạch Mục - liên:

–Nay tôi gởi nhờ Mục liên cúi đầu lạy dưới chân Thế Tôn, cầu mong Ngài đi đứng nhẹ nhàng, bước đi khỏe mạnh. Cũng xin kính lễ Tôn giả A - nan.

Bấy giờ Tôn giả Đại Mục - kiền - liên phóng đại thần túc khiến cho thống khổ trong địa ngục A - tỳ ngưng lại. Rồi nói bài kệ này:

Thảy xưng Nam mô Phật
Thích Sư, Đấng Tối Thắng
Ngài đem lại an ổn
Dứt trừ các khổ não.

Chúng sinh trong địa ngục sau khi nghe Mục - liên nói bài kệ này, có hơn sáu vạn người hành nghiệp hết, tội sạch, tức thì mạng chung nơi đó mà sinh lên trời Tứ Thiên vương.

Bấy giờ Mục - liên thâu thần túc lại, trở về chốn cũ, đi đến Thế Tôn, cúi đầu lạy dưới chân, rồi đứng sang một bên. Mục - liên khi ấy bạch Phật:

–Đề - bà - đà - đạt - đâu dâng lời thăm hỏi vô lượng, đi đứng nhẹ nhàng, dạo bước khỏe mạnh. Lại cũng thăm hỏi A - nan và nói lời này: “Được Như Lai thọ ký trong sáu mươi kiếp nữa thành Bích - chi - phật hiệu Nam - mô, thì dù tôi nằm nghiêng hông phải trong địa ngục A - tỳ không bao giờ thấy mệt mỏi.

Thế Tôn nói:

–Lành thay, lành thay, Mục - liên! Ông đã làm được nhiều điều lợi ích, nhiều thấm nhuần, vì thương xót các loài chúng sinh, mong cầu an lạc cho trời và người, khiến cho Thanh văn của chư Như Lai dần dần đạt đến Niếtbàn diệt tận. Cho nên, này Mục - liên, hãy tinh cần để thành tựu ba pháp. Vì sao? Nếu Đề - bà - đạt - đa mà tu hành thiện pháp, thân ba, miệng bốn, ý ba; người ấy chung thân không tham đắm lợi dưỡng, cũng không tạo tội ngũ nghịch để đọa vào địa ngục A - tỳ. Vì sao? Phàm người tham đắm lợi dưỡng cũng (không)[42] có tâm cung kính đối với Tam bảo, cũng không phụng trì cấm giới, không đầy đủ các hành thân, miệng, ý. (Vậy, các ông) hãy chuyên niệm các hành của thân, miệng, ý. Như vậy, Mục - liên, hãy học điều này.

Bấy giờ Mục - liên nghe những lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH SỐ 10

Nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại nước Xá - vệ, trong vườn Kỳ thọ Cấp cô độc.

Bấy giờ Thế Tôn nói với các Tỳ - kheo:

–Nếu chúng sinh nào tu hành Từ tâm giải thoát, quảng bố ý nghĩa ấy, diễn nói cho người khác nghe, sẽ thu hoạch được mười một quả báo. Những gì là mười một? Nằm ngủ yên, tỉnh giấc yên, không thấy ác mộng, chư Thiên hộ vệ, mọi người yêu mến, không bị độc, không bị binh đao, không bị nước, lửa, giặc cướp; thảy đều không bị xâm hại; sau khi thân hoại mạng chung sinh lên trời Phạm thiên. Đó gọi là Tỳ - kheo tu hành Từ tâm sẽ có được mười một phước này. Rồi Thế Tôn nói bài kệ:

Nếu ai hành Từ tâm
Cũng không hành phóng dật
Các kết dần dần đoạn
Rồi thấy được dấu đạo.
Do hành Từ tâm này
Sẽ sinh lên Phạm thiên
Nhanh chóng được diệt độ
Cuối cùng đến Vô vi.
Tâm không sát, không hại
Cũng không ý hơn thua
Hành từ đến tất cả
Không hề tâm oán hận.

Cho nên, Tỳ - kheo, hãy tìm cầu phương tiện hành nơi Từ tâm, quảng bố nghĩa ấy. Như vậy, Tỳ - kheo, hãy học điều này.

Bấy giờ các Tỳ - kheo nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.



[1] . Trong bản Hán không có Ưu - bà - di.

[2] . Tham chiếu Pāli, M 65 Baddāli, 66 Laṭukikopama. Hán, Trung 51, kinh 194, 50, kinh192.

[3] . Nhất tọa thực 一坐食. Pāli: Ekāsana, có hai giải thích. Hoặc eka - asana: Một bữa ăn; hoặc eka - āsana: Một chỗ ngồi. Tất cả các bản Hán đều hiểu theo nghĩa sau. Ý nghĩa này liên hệ hai điều luật. Thứ nhất, liên hệ điều luật phi thời thực: Tứ Phần, Ba - dật - đề 37; Ngũ Phần, Ba - dật - đề 38, Tăng - kỳ, Ba - dật - đề 36, Thập Tụng, Căn Bản, Ba - dật - đề 37, Pāli, Pāc. 37. - Thứ hai, liên hệ điều luật dư thực pháp; Tứ Phần, Ba - dật - đề 35; Ngũ Phần, 35, Tăng - kỳ, 35; Thập Tụng, Căn Bản, 34; Pāli, Pāc. 25.

[4] . Quan điểm của đại chúng bộ về nhất tọa thực. Quan điểm này không được Thượng tọa bộ và Hữu bộ đồng tình. Xem Pāli, ibid. và Hán, ibid.

[5] . Hán: Hoại trai 壞齋, có thể ăn quá ngọ. Điểm tranh luận giữa Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ, Cf. Tứ Phần 54 (tr. 969c18): Nhị chỉ sao thực 二指抄食. Pāli, Pāli: Dvaṅgulakappa, nhị chỉ tịnh, được giải thích:

Dvaṅgulāya chāyāya vītivattāya, (được phép ăn quá trưa) khi bóng chưa quá hai ngón tay. Liên hệ điều luật phi thời thực. Vin.ii. 230.

[6] . Trong bản: Ưu - đà - di 優陀夷, tức Ca - lưu - đà - di nói trên. Vì Ưu - đà - di (Pāli: Udāyi) có nước da rất đen, nên được gọi là Ca - la (Pāli: Kāla, đen).

[7] . Trường 51, ibid, và Pāli. ibid., bà chỉ hoảng sợ, nhưng không chết.

[8] . Để bản: Thống 痛. TNM: Bệnh.

[9] . Các bộ luật như nhau: Tỳ - kheo ăn xong (đã đứng dậy), rồi ăn lại, hay ăn thêm, mà không tác pháp dư thực, phạm Ba - dật - đề; xem cht. trên.

[10] . Điều luật: Tỳ - kheo ăn xong, nếu nhận được thêm nữa, có thể ăn nhưng phải tác pháp dư thực. Xem cht.

trên.

[11] . Luật quy định: Mỗi Tỳ - kheo chỉ được sở hữu ba y, không được quá.

[12] . Diện Vương, xem kinh 6 phẩm 4. Tham chiếu, A.i.25: Thọ trì y phục thô xấu (lūkhacīvaradhārānaṃ) là Mogharājāti.

[13] . Trung 51, ibid., suốt ba tháng hạ an cư.

[14] . Cát Hộ 吉護, dịch nghĩa của Bạt - đà - bà - la, Skt. Bhadrapāl (?). Pāli, ibid.: Baddāli.

[15] . Tức tâm 息心, định nghĩa từ Sa - môn.

[16] . Trong bản, chép là “Phạm chí”.

[17] . Mộc dục 沐浴, một từ chỉ A - la - hán, người đã tắm sạch.

[18] . Nguyên Hán: Thích sí 釋翅, phiên âm từ tương đương Pāli: Sakkesu, sở y cách của từ Sakka.

[19] . Nhân duyên Đề - bà - đạt - đa xuất gia, cùng các Vương tử họ Thích, xem Tứ phần 4 (tr. 590b13tt). Pāli, Cullavagga vii. Vin. ii. 180ff.

[20] . Phân - đàn huệ thí 分檀惠施. Pāli: Piṇḍadāyaka, bố thí vật thực. Xem cht. kinh số 2 phẩm 29.

[21] . Có lẽ đây là truyền thuyết riêng của các nhà truyền Tăng nhất. Tất cả các bộ đều không thừa nhận giới Cụ túc được phép tự thọ.

[22] . Tu - la - đà, có thể đồng nhất với Pāli: Surādha, Theragāthā 135 - 6; nhưng không có liên hệ gì đến Devadatta.

[23] . Một cách trình bày khác về bốn Thần túc (Như ý túc): Dục tam - ma địa, cần (tinh tấn) Tam - ma - địa, tâm Tam - ma - địa, quán Tam - ma - địa. Cf. Tập Dị 5 (tr.391c26).

[24] . Trong đoạn này, văn dịch Hán hình như nhảy sót, nên thiếu mạch lạc so với đoạn tiếp theo. Từ đây trở xuống, nên xem là lời tự rao truyền của Đề - bà - đạt - đa, chứ không phải lời tiên đoán của Phật.

[25] . Các Luật bộ đều nói, Đề - bà - đạt - đa đề nghị Phật chấp thuận năm điều luật mới khắt khe hơn. Phật bác bỏ.

Đề - bà - đạt - đa tự công bố luật mới. Năm trăm Tỳ - kheo tách khỏi Tăng đi theo. Tăng bị vỡ.

[26] . Đây muốn nói Đề - bà - đạt - đa phạm tội phá hòa hợp Tăng. Nhưng diễn tiến câu chuyện được kể trên đây, nếu theo phân tích của các bộ luật, không hội đủ yếu tố để thành phá Tăng. Nên nghi ngờ chuyện kể ở đây không phải chính thống, mà chỉ là một loại truyền thuyết nhân gian, thiếu căn bản Luật và Pháp.

[27] . Hán: Hoại Thánh chúng 壞聖眾, tức phá Tăng, hay phá hòa hợp Tăng.

[28] . Đoạn văn thiếu mạch lạc xét theo ngữ cảnh. Hán dịch có thể nhảy sót.

[29] . Trong để bản: A - xà - thế vương.

[30] . Xem kinh số 10 phẩm 17.

[31] . Xem kinh số 5, phẩm 18.

[32] . Hán: Thuần tửu 醇 酒, một loại rượu cực mạnh.

[33] . Nguyên Hán: Long tượng 龍象, chỉ loại voi chúa.

[34] . Bài kệ, như kinh số 5, phẩm 18.

[35] . Pháp Thí 法施. Trên kia, kinh số 2 phẩm 5, phiên âm là Đàm - ma - đề - na. Đồng nhất với Pāli, Dhammadinnā, đệ nhất thuyết pháp trong các Tỳ - kheo - ni. Cf. A.i. 25.

[36] . Tội ngũ nghịch thứ ba: Giết A - la - hán. Vì Tỳ - kheo - ni này là một A - la - hán. Nhưng không thấy truyền thuyết nơi khác Tỳ - kheo - ni này bị Đề - bà - đạt - đa giết.

[37] . Để bản: Thần. Bản khác: Phật thần.

[38] . Hán: Yếu hành; đây chỉ hành trạng tương lai mà Phật dự báo.

[39] . Để bàn: Điêu, khắc chạm. Bản khác: Điều: Điều phục.

[40] . Để bản chép: Vô. Nghi là chữ nguyên chép nhầm.

[41] . Để bản: Vô do. Bản khác: Ác nguyên.

[42] . Nghi trong để bản chép thiếu.


[Đầu trang][Mục lục Tăng Nhất A-hàm][Mục lục bộ A-hàm][Mục lục tổng quát]