TẠNG KINH
Hán dịch: Đời Đông Tấn, Tam tạng Cù-đàm Tăng-già-đề-bà, người nước Kế Tân.
Ưu-bà-tư đệ nhất trong hàng đệ tử của Ta, người đầu tiên thọ trì đạo mà chứng quả, chính là Ưu-bà-tư Nan-đà Nan-đà-bà-la[1].
Trí tuệ đệ nhất, chính là Ưu-bà-tư Cửu-thọ-Đa-la[2].
Thường thích tọa thiền, chính là Ưu-bà-tư Tutỳ-da Nữ[3].
Tuệ căn tỏ rõ, chính là Ưu-bà-tư Tỳ-phù.
Kham năng nói pháp, chính là Ưu-bà-tư Ươngkiệt-xà.
Khéo diễn nghĩa kinh, chính là Ưu-bà-tư Bạtđà-sa-la Tu-diệm-ma.
Hàng phục ngoại đạo, chính là Ưu-bà-tư Bàtu-đà.
Âm vang trong suốt, chính là Ưu-bà-tư Vô Ưu.
Hay luận giải nhiều đề tài, chính là Ưu-bà-tư Bà-la-đà.
Dũng mãnh tinh tấn, chính là Ưu-bà-tư Tuđầu.
Kệ tóm tắt:
Nan-đà-đà, Cửu-thọ
Tu-tỳ, Ương-kiệt-xà
Tu-diệm cùng Vô Ưu
Bà-la-đà, Tu-đầu.
Ưu-bà-tư đệ nhất trong hàng đệ tử của Ta, cúng dường Như Lai, chính là phu nhân Ma-lợi[4]. Thừa sự chánh pháp, chính là phu nhân Tu-lạibà.
Cúng dường Thánh chúng, chính là phu nhân Xả-di.
Chiêm ngưỡng Hiền sĩ quá khứ tương lai, chính là phu nhân Nguyệt Quang.
Đàn-việt đệ nhất, chính là phu nhân Lôi Điện[5].
Luôn hành Từ Tam-muội, chính là Ưu-bà-tư Ma-ha Quang[6].
Hành tâm Bi, hằng thương xót, chính là Ưubà-tư Tỳ-đề.
Tâm Hỷ không dứt, chính là Ưu-bà-tư Bạt-đề.
Hành nghiệp thủ hộ, chính là Ưu-bà-tư Nan-đà Mẫu[7].
Được tín giải thoát, chính là Ưu-bà-tư Chiếu Diệu.
Kệ tóm tắt:
Ma-lợi, Tu-lại-bà
Xả-di, Quang Nguyệt, Lôi
Đại Quang, Tỳ-đề, Đà
Nan-đà cùng Chiếu Diệu.
Ưu-bà-tư đệ nhất trong hàng đệ tử của Ta, thường hành nhẫn nhục, chính là Ưu-bà-tư Vô Ưu.
Hành Không Tam-muội[8], chính là Ưu-bà-tư Tỳ-thù-tiên.
Hành Vô tưởng Tam-muội[9], chính là Ưu-bàtư Ưu-na-đà. Hành Vô nguyện Tam-muội[10], chính là Ưubà-tư Vô Cấu.
Thích dạy dỗ người, chính là Ưu-bà-tư phu nhân Thi-lợi.
Khéo hay trì giới, chính là Ưu-bà-tư Ươngkiệt-ma.
Dung mạo đoan chánh, chính là Ưu-bà-tư Lôi Diệm.
Các căn tịch tĩnh, chính là Ưu-bà-tư Tối Thắng.
Nghe nhiều, biết rộng, chính là Ưu-bà-tư Nêla.
Thường sáng tác kệ tụng, chính là Ưu-bà-tư Tu-ma-ca-đề Tu-đạt Nữ. Không chỗ khiếp nhược, cũng là Ưu-bà-tư Tu-đạt Nữ.
Ưu-bà-tư thủ chứng cuối cùng trong hàng Thanh văn của ta, chính là Ưu-bà-tư Lam.
Kệ tóm tắt:
Vô Ưu, Tỳ-thù-tiên
Ưu-na, Vô Cấu, Thi
Ương-kiệt, Lôi Diệm, Thắng
Nê, Tu, Lam-ma Nữ.
Ba mươi Ưu-bà-tư này nói rộng như trên.
[1] . Không rõ tiểu sử. Pāli, A.i. 25: Nữ quy y đầu tiên là Sujātā Seniyadhīta.
[2] . Pāli: Khujjuttarā, đa văn đệ nhất (bahussutānaṃ).
[3] . A.i.26: Đệ nhất tọa thiền, Uttarā Nandamātā. Hán có thể đồng nhất với Suppiyā của Pāli, cf. Vin. 1. 216, Xem Tứ phần 42, T22n1428, tr. 868c7.
[4] . Pāli: Mallikā.
[5] . A.i. 26: Đệ nhất bố thí, Visākhā.
[6] . Để bản: Ma-ha quang 摩 訶 光 . TNM: Ma-ha tiên. Pāli, A.i. 26: Đệ nhất hành Từ vô lượng, Sāmāvatī (mettāvihārinaṃ).
[7] . Pāli: (Uttarā) Nandamātā, xem cht. kinh số 1, phẩm 7 trên.
[8] . Xem cht. kinh số 4, phẩm 5 trên.
[9] . Xem cht. kinh số 4, phẩm 5 trên.
[10] . Xem cht. kinh số 4, phẩm 5 trên.
[Đầu trang][Mục lục Tăng Nhất A-hàm][Mục lục bộ A-hàm][Mục lục tổng quát]