TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG KINH

BỘ A HÀM

SỐ 100 - BIỆT DỊCH KINH TẠP A-HÀM

Hán dịch: Mất tên người dịch.-Phụ vào dịch phẩm đời Tần.

MỤC LỤC

QUYỂN 1

TỤNG 1: Phần 1

1. Tôi nghe như vầy:

2. Tôi nghe như vầy:

3. Tôi nghe như vầy:

4. Tôi nghe như vầy:

5. Tôi nghe như vầy:

6. Tôi nghe như vầy:

7. Tôi nghe như vầy:

8. Tôi nghe như vầy:

9. Tôi nghe như vầy:

10. Tôi nghe như vầy:

11. Tôi nghe như vầy:

12. Tôi nghe như vầy:

13. Tôi nghe như vầy:

14. Tôi nghe như vầy:

15. Tôi nghe như vầy:

16. Tôi nghe như vầy:

17. Tôi nghe như vầy:

18. Tôi nghe như vầy:

19. Tôi nghe như vầy:

20. Tôi nghe như vầy:

21. Tôi nghe như vầy:

22. Tôi nghe như vầy:

QUYỂN 2

TỤNG 1: PHẦN 2

23. Tôi nghe như vầy:

24. Tôi nghe như vầy:

25. Tôi nghe như vầy:

26. Tôi nghe như vầy:

27. Tôi nghe như vầy:

28. Tôi nghe như vầy:

29. Tôi nghe như vầy:

30. Tôi nghe như vầy:

31. Tôi nghe như vầy:

32. Tôi nghe như vầy:

33. Tôi nghe như vầy:

34. Tôi nghe như vầy:

35. Tôi nghe như vầy:

36. Tôi nghe như vầy:

37. Tôi nghe như vầy:

38. Tôi nghe như vầy:

39. Tôi nghe như vầy:

40. Tôi nghe như vầy:

41. Tôi nghe như vầy:

42. Tôi nghe như vầy:

QUYỂN 3

TỤNG 1: PHẦN 3

43. Tôi nghe như vầy:

44. Tôi nghe như vầy:

45. Tôi nghe như vầy:

46. Tôi nghe như vầy:

47. Tôi nghe như vầy:

48. Tôi nghe như vầy:

49. Tôi nghe như vầy:

50. Tôi nghe như vầy:

51. Tôi nghe như vầy:

52. Tôi nghe như vầy:

53. Tôi nghe như vầy:

54. Tôi nghe như vầy:

55. Tôi nghe như vầy:

56. Tôi nghe như vầy:

57. Tôi nghe như vầy:

58. Tôi nghe như vầy:

59. Tôi nghe như vầy:

60. Tôi nghe như vầy:

61. Tôi nghe như vầy:

62. Tôi nghe như vầy:

QUYỂN 4

TỤNG 1: PHẦN 4

63. Tôi nghe như vầy:

64. Tôi nghe như vầy:

65. Tôi nghe như vầy:

66. Tôi nghe như vầy:

67. Tôi nghe như vầy:

68. Tôi nghe như vầy:

69. Tôi nghe như vầy:

70. Tôi nghe như vầy:

71. Tôi nghe như vầy:

72. Tôi nghe như vầy:

73. Tôi nghe như vầy:

74. Tôi nghe như vầy:

75. Tôi nghe như vầy:

76. Tôi nghe như vầy:

77. Tôi nghe như vầy:

78. Tôi nghe như vầy:

79. Tôi nghe như vầy:

80. Tôi nghe như vầy:

81. Tôi nghe như vầy:

82. Tôi nghe như vầy:

83. Tôi nghe như vầy:

QUYỂN 5

TỤNG 1: PHẦN 5

84. Tôi nghe như vầy:

85. Tôi nghe như vầy:

86. Tôi nghe như vầy:

87. Tôi nghe như vầy:

88. Tôi nghe như vầy:

89. Tôi nghe như vầy:

90. Tôi nghe như vầy:

91. Tôi nghe như vầy:

92. Tôi nghe như vầy:

93. Tôi nghe như vầy:

94. Tôi nghe như vầy:

95. Tôi nghe như vầy:

96. Tôi nghe như vầy:

97. Tôi nghe như vầy:

98. Tôi nghe như vầy:

99. Tôi nghe như vầy:

100. Tôi nghe như vầy:

101. Tôi nghe như vầy:

102. Tôi nghe như vầy:

103. Tôi nghe như vầy:

104. Tôi nghe như vầy:

105. Tôi nghe như vầy:

106. Tôi nghe như vầy:

QUYỂN 6

TỤNG 1: PHẦN 6

107. Tôi nghe như vầy:

108. Tôi nghe như vầy:

109. Tôi nghe như vầy:

110. Tôi nghe như vầy:

TỤNG 2: PHẦN 1

111. Tôi nghe như vầy:

112. Tôi nghe như vầy:

113. Tôi nghe như vầy:

114. Tôi nghe như vầy:

115. Tôi nghe như vầy:

116. Tôi nghe như vầy:

117. Tôi nghe như vầy:

118. Tôi nghe như vầy:

120. Tôi nghe như vầy:

121. Tôi nghe như vầy:

QUYỂN 7

TỤNG 2: PHẦN 2

122.

123. Tôi nghe như vầy:

124. Tôi nghe như vầy:

125. Tôi nghe như vầy:

126.

127. Tôi nghe như vầy:

128.

129.

130. Tôi nghe như vầy:

131. Tôi nghe như vầy:

QUYỂN 8

132. Tôi nghe như vầy:

133. Tôi nghe như vầy:

134. Tôi nghe như vầy:

135. Tôi nghe như vầy:

136. Tôi nghe như vầy:

137. Tôi nghe như vầy:

138. Tôi nghe như vầy:

139. Tôi nghe như vầy:

140. Tôi nghe như vầy:

141. Tôi nghe như vầy:

142. Tôi nghe như vầy:

143. Tôi nghe như vầy:

144. Tôi nghe như vầy:

145. Tôi nghe như vầy:

146. Tôi nghe như vầy:

147. Tôi nghe như vầy:

148. Tôi nghe như vầy:

149. Tôi nghe như vầy:

150. Tôi nghe như vầy:

151. Tôi nghe như vầy:

152. Tôi nghe như vầy:

153. Tôi nghe như vầy:

154. Tôi nghe như vầy:

155. Tôi nghe như vầy:

156. Tôi nghe như vầy:

158. Tôi nghe như vầy:

159. Tôi nghe như vầy:

160.

QUYỂN 9

161. Tôi nghe như vầy:

162. Tôi nghe như vầy:

163. Tôi nghe như vầy:

164. Tôi nghe như vầy:

165. Tôi nghe như vầy:

166. Tôi nghe như vầy:

167. Tôi nghe như vầy:

168. Tôi nghe như vầy:

169. Tôi nghe như vầy:

170. Tôi nghe như vầy:

171. Tôi nghe như vầy:

172. Tôi nghe như vầy:

173. Tôi nghe như vầy:

174. Tôi nghe như vầy:

175. Tôi nghe như vầy:

176. Tôi nghe như vầy:

177. Tôi nghe như vầy:

178. Tôi nghe như vầy:

179. Tôi nghe như vầy:

180. Tôi nghe như vầy:

181. Tôi nghe như vầy:

182. Tôi nghe như vầy:

183. Tôi nghe như vầy:

184. Tôi nghe như vầy:

185. Tôi nghe như vầy:

186. Tôi nghe như vầy:

187. Tôi nghe như vầy:

188. Tôi nghe như vầy:

189. Tôi nghe như vầy:

QUYỂN 10

190. Tôi nghe như vầy:

191. Tôi nghe như vầy:

192. Tôi nghe như vầy:

193.

194. Tôi nghe như vầy:

195. Tôi nghe như vầy:

196. Tôi nghe như vầy:

197. Tôi nghe như vầy:

198. Tôi nghe như vầy:

QUYỂN 11

199. Tôi nghe như vầy:

200. Tôi nghe như vầy:

201. Tôi nghe như vầy:

202. Tôi nghe như vầy:

203. Tôi nghe như vầy:

204. Tôi nghe như vầy:

205. Tôi nghe như vầy:

206. Tôi nghe như vầy:

207.

208. Tôi nghe như vầy:

209. Tôi nghe như vầy:

210. Tôi nghe như vầy:

211. Tôi nghe như vầy:

212. Tôi nghe như vầy:

213.

QUYỂN 12

214. Tôi nghe như vầy:

215. Tôi nghe như vầy:

216. Tôi nghe như vầy:

217. Tôi nghe như vầy:

218. Tôi nghe như vầy:

219. Tôi nghe như vầy:

220. Tôi nghe như vầy:

221. Tôi nghe như vầy:

222. Tôi nghe như vầy:

223. Tôi nghe như vầy:

224. Tôi nghe như vầy:

225. Tôi nghe như vầy:

226. Tôi nghe như vầy:

227. Tôi nghe như vầy:

228. Tôi nghe như vầy:

229. Tôi nghe như vầy:

230. Tôi nghe như vầy:

231. Tôi nghe như vầy:

232. Tôi nghe như vầy:

233. Tôi nghe như vầy:

234. Tôi nghe như vầy:

235. Tôi nghe như vầy:

236. Tôi nghe như vầy:

237. Tôi nghe như vầy:

238. Tôi nghe như vầy:

239. Tôi nghe như vầy:

240. Tôi nghe như vầy:

241. Tôi nghe như vầy:

242. Tôi nghe như vầy:

243. Tôi nghe như vầy:

244. Tôi nghe như vầy:

245. Tôi nghe như vầy:

246. Tôi nghe như vầy:

247. Tôi nghe như vầy:

248. Tôi nghe như vầy:

249. Tôi nghe như vầy:

QUYỂN 13

250. Tôi nghe như vầy:

251. Tôi nghe như vầy:

252. Tôi nghe như vầy:

253. Tôi nghe như vầy:

254. Tôi nghe như vầy:

255. Tôi nghe như vầy:

256. Tôi nghe như vầy:

257. Tôi nghe như vầy:

258. Tôi nghe như vầy:

259. Tôi nghe như vầy:

260. Tôi nghe như vầy:

261. Tôi nghe như vầy:

262. Tôi nghe như vầy:

263. Tôi nghe như vầy:

264. Tôi nghe như vầy:

265. Tôi nghe như vầy:

266. Tôi nghe như vầy:

267. Tôi nghe như vầy:

268. Tôi nghe như vầy:

QUYỂN 14

269. Tôi nghe như vầy:

270. Tôi nghe như vầy:

271. Tôi nghe như vầy:

272. Tôi nghe như vầy:

273. Tôi nghe như vầy:

274. Tôi nghe như vầy:

275. Tôi nghe như vầy:

276. Tôi nghe như vầy:

277. Tôi nghe như vầy:

278. Tôi nghe như vầy:

279. Tôi nghe như vầy:

280. Tôi nghe như vầy:

281. Tôi nghe như vầy:

282. Tôi nghe như vầy:

283. Tôi nghe như vầy:

284. Tôi nghe như vầy:

285. Tôi nghe như vầy:

286. Tôi nghe như vầy:

287. Tôi nghe như vầy:

288. Tôi nghe như vầy:

289. Tôi nghe như vầy:

290. Tôi nghe như vầy:

291. Tôi nghe như vầy:

292. Tôi nghe như vầy:

293. Tôi nghe như vầy:

294. Tôi nghe như vầy:

295. Tôi nghe như vầy:

296. Tôi nghe như vầy:

297. Tôi nghe như vầy:

QUYỂN 15

298. Tôi nghe như vầy:

299. Tôi nghe như vầy:

300. Tôi nghe như vầy:

301. Tôi nghe như vầy:

302. Tôi nghe như vầy:

303. Tôi nghe như vầy:

304. Tôi nghe như vầy:

305. Tôi nghe như vầy:

306. Tôi nghe như vầy:

307. Tôi nghe như vầy:

308. Tôi nghe như vầy:

309. Tôi nghe như vầy:

310. Tôi nghe như vầy:

311. Tôi nghe như vầy:

312. Tôi nghe như vầy:

313. Tôi nghe như vầy:

314. Tôi nghe như vầy:

315. Tôi nghe như vầy:

316. Tôi nghe như vầy:

317. Tôi nghe như vầy:

318. Tôi nghe như vầy:

319. Tôi nghe như vầy:

320.

321. Tôi nghe như vầy:

322. Tôi nghe như vầy:

323. Tôi nghe như vầy:

324. Tôi nghe như vầy:

325. Tôi nghe như vầy:

326. Tôi nghe như vầy:

327. Tôi nghe như vầy:

328. Tôi nghe như vầy:

329. Tôi nghe như vầy:

QUYỂN 16

330.

331. Tôi nghe như vầy:

332. Tôi nghe như vầy:

333. Tôi nghe như vầy:

334. Tôi nghe như vầy:

335. Tôi nghe như vầy:

336. Tôi nghe như vầy:

337. Tôi nghe như vầy:

338. Tôi nghe như vầy:

339. Tôi nghe như vầy:

340. Tôi nghe như vầy:

341. Tôi nghe như vầy:

342. Tôi nghe như vầy:

343. Tôi nghe như vầy:

344. Tôi nghe như vầy:

345. Tôi nghe như vầy:

346.

347. Tôi nghe như vầy:

348. Tôi nghe như vầy:

349. Tôi nghe như vầy:

350. Tôi nghe như vầy:

351.

352.

353.

354.

355.

356.

357.

358.

359.

360.

361.

362.

363.

364.

 


QUYỂN 1

TỤNG 1: Phần 1

1. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở nơi vườn Am-bà-la, thuộc nước Di-si-la. Bấy giờ Tôn giả Thiện Sanh vừa mới cạo bỏ râu tóc, xuất gia, đến gặp Phật, làm lễ sát chân Ngài, rồi ngồi qua một bên. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Tộc tánh tử Thiện Sanh này có hai mặt đoan nghiêm: Một, dung mạo kỳ vĩ, xinh đẹp đặc biệt. Hai, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp y vì tin chắc chắn các pháp thế gian đều quy về vô thường, nên đã xuất gia học đạo, diệt tận các phiền não, đầy đủ vô lậu, tâm giải thoát, tuệ giải thoát, thân chứng Niếtbàn, xa lìa sanh tử, phạm hạnh đã lập, không còn luân hồi.

Đức Phật dạy xong, nói kệ:

Tỳ-kheo thường định tịch
Trừ dục, lìa sanh tử
Ngay thân cuối cùng này
Phá tan các ma quân
Tu tâm đoạn phiền não
Đoan chính không ai bằng.

Đức Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe dạy đều hoan hỷ phụng hành.

2. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Bấy giờ có vô số đại chúng vây quanh Đức Thế Tôn để nghe thuyết pháp. Có một Tỳ-kheo dung sắc gầy yếu, không có uy nghi, đến chỗ Đức Phật, làm lễ dưới chân Ngài, chắp tay, theo các Tỳ-kheo ngồi qua một bên. Các Tỳ-kheo suy nghĩ: “Tỳ-kheo này vì sao dáng dấp gầy yếu như vậy, không có uy đức?”.

Thế Tôn biết ý nghĩ của các Tỳ-kheo, nên bảo: –Này các Tỳ-kheo, các thầy có thấy vị Tỳ-kheo vừa làm lễ Ta không?

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, chúng con có thấy.

Đức Phật bảo:

–Nay các ông chớ sanh tâm xem thường vị ấy. Tại sao? Vì Tỳ-kheo đó việc làm đã xong, chứng đắc A-la-hán, đã bỏ gánh nặng, diệt sạch phiền não, đạt chánh giải thoát. Thế nên các ông không được sanh ý tưởng khinh khi đối với vị ấy. Nếu các ông được thấy biết như Ta, sau đấy mới có thể xét đoán vị ấy. Nếu các ông xét đoán sai lầm là tự hại mình.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Khổng tước màu lông tuy rực rỡ
Đâu bằng Hồng hộc vượt tầng không
Ngoại hình tuy xinh đẹp tươi hồng
Chẳng như Tôn đức sạch phiền não.
Vị Tỳ kheo ấy như ngựa thuần
Giỏi tự điều phục cả thân tâm
Đoạn dục, diệt kết, thoát sanh tử
Mang thân cuối cùng phá ma quân.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo đều hoan hỷ phụng hành.

3. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở vườn trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá. Bấy giờ Đề-bà-đạt-đa vừa đắc Tứ thiền, tự nghĩ: “Nước Ma-kiệt-đề này, ai là tối thắng?”. Ông ta lại suy nghĩ: “Hiện nay Thái tử A-xà-thế sẽ kế vị ngôi vua, nếu ta điều phục được ông ta thì có thể khống chế được dân chúng cả nước”.

Suy nghĩ như thế xong, Đề-bà-đạt-đa bèn đi ngay đến chỗ A-xà-thế, hóa làm con voi quý đi vào cửa, rồi bay ra ngoài; lại hóa làm con ngựa quý cũng như vậy; lại hóa làm Sa-môn đi vào cửa rồi bay lên hư không. Ông ta lại hóa làm đứa bé, trên thân trang sức bằng các chuỗi ngọc quý, ngồi trên đùi A-xà-thế. A-xà-thế ôm lấy đùa giỡn, nhổ nước bọt vào miệng đứa bé. Đề-bà-đạt-đa vì tham lợi dưỡng liền nuốt nước miếng ấy. Đề-bà-đạt-đa bèn bỏ thân đứa bé biến trở lại thân cũ.

A-xà-thế thấy sự việc ấy liền sanh tà kiến, cho rằng thần thông biến hóa của Đề-bà-đạt-đa hơn cả Đức Thế Tôn. Do đó, A-xà-thế sanh tâm vô cùng tín ngưỡng đối với Đề-bà-đạt-đa, hằng ngày chở đến năm trăm xe lương thực để cúng dường Đềbà. Đề-bà-đạt-đa và năm trăm đồ chúng cùng nhau thọ hưởng các vật cúng dường ấy.

Bấy giờ có nhiều Tỳ-kheo mặc y, mang bát vào thành khất thực. Sau khi thọ trai, họ đến gặp Thế Tôn, thưa:

–Bạch Thế Tôn, trước đây chúng con vào thành khất thực, thấy Đề-bà-đạt-đa chiêu tập những kẻ gần xa, thu đạt lợi dưỡng lớn. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Các ông không nên đối với địa vị của Đề-bàđạt-đa mà sanh tâm tham muốn. Tại sao vậy? Đềbà-đạt-đa chắc chắn bị lợi dưỡng làm hại. Như cây chuối ra buồng rồi phải chết, cây trúc, cây lau ra bông rồi chết, con la mang thai rồi phải chết, Đềbà-đạt-đa được nhiều lợi dưỡng rồi sẽ như các loại trên không khác. Đề-bà-đạt-đa ngu si vô trí, không biết nghĩa lý, phải chịu khổ lâu dài. Vì vậy, này các Tỳ-kheo, ai thấy Đề-bà-đạt-đa bị lợi dưỡng làm hại, cần phải xả bỏ những việc tham cầu, quan sát rõ ràng, hiểu cho thật đúng, đừng tham lợi dưỡng.

Đức Phật nói kệ:

Trổ buồng, cây chuối chết
Trúc, lau nào khác gì
Người tham lợi cũng vậy
Gây tổn thương cho mình.
Người được nhiều lợi dưỡng
Sẽ tổn giảm, suy tàn
Trẻ ngu vì lợi dưỡng
Làm hại đến pháp thiện
Cũng như cây Đa-la
Đứt đầu không mọc lại.

Đức Phật dạy kinh này, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

4. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Bấy giờ có nhiều Tỳ-kheo, đến giờ thọ trai, đắp y mang bát vào thành khất thực. Các Tỳ-kheo nghe Tỳ-kheo Thích Tử Tượng Thủ bị bệnh qua đời ở trong thành, nên sau khi thọ trai, họ đến gặp Phật, lạy sát chân Ngài, rồi ngồi qua một bên, bạch:

–Bạch Thế Tôn, sáng sớm, Tỳ-kheo chúng con đắp y mang bát vào thành khất thực, nghe Tỳ-kheo Tượng Thủ đã qua đời. Cầu mong Thế Tôn vì chúng con mà nói rõ Tỳ-kheo Tượng Thủ sanh vào chỗ nào và thọ quả báo gì?

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Người nào thường gia tăng ba loại phi pháp, sau khi qua đời phải đọa vào địa ngục. Ba loại phi pháp là gì? Đó là: tham lam, ngu si, giận dữ. Nay Tỳ-kheo ấy đã phạm ba thứ phi pháp, các Tỳ-kheo nên biết, ông ấy bị đọa vào địa ngục.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Ai sanh tâm bất thiện
Kết nên tham, sân, si
Chính thân này làm ác
Trở lại hại thân này.
Như cây chuối trổ buồng
Tự hại cho thân nó
Ai không tham sân si
Chính là bậc trí tuệ.
Không làm hại bản thân
Là trượng phu tối thắng
Thế nên phải trừ diệt
Bệnh lớn tham, sân, si.

Các Tỳ-kheo nghe Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

5. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Bấy giờ Trưởng lão Nan-đà đắp y sang trọng, bưng bát tốt đẹp, ý khí kiêu mạn, xem thường mọi người, nói lời tự cao, ta là em Phật, con của Di mẫu. Có nhiều Tỳ-kheo đến gặp Đức Phật, lạy sát chân Phật, ngồi qua một bên, thưa:

–Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo Nan-đà đắp y sang trọng, tay cầm bát đẹp, tự xưng là em Phật, con của Di mẫu, trong lòng kiêu mạn, khinh miệt người khác.

Đức Phật nghe lời ấy, bèn sai một vị Tỳ-kheo đi gọi Nan-đà đến. Một Tỳ-kheo vâng lệnh Đức Phật, đến nơi bảo với Nan-đà: –Thế Tôn gọi Hiền giả.

Nghe xong, Nan-đà đến gặp Đức Phật, lạy sát chân Ngài, đứng qua một bên. Đức Phật hỏi Nanđà:

–Ông mặc y sang trọng, tay cầm bát đẹp, tự xưng là em Phật, con của Di mẫu, kiêu mạn với người khác, việc này có thật không?

Nan-đà đáp:

–Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Thế Tôn bảo Nan-đà:

–Nay ông không được làm những việc như thế. Ông nên ưa thích ở nơi vắng lặng, giữa gò mả, bên gốc cây, mặc y vá, sống bằng khất thực. Nếu ông là em Ta, do Di mẫu sanh ra, cần phải tu hành những việc như vậy.

Đức Phật nói kệ:

Ta muốn thấy Nan-đà
Tinh tấn vui tu hành
Ở nơi a-luyện-nhã
Bên gò mả, khất thực
Chỗ núi rừng yên tịnh
Bỏ dục,nhập thiền định.

Đức Phật nói kệ này, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

6. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Tôn giả Nan-đà đến chỗ Phật, lạy sát chân Ngài, ngồi qua một bên. Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

–Trong những người giỏi thuyết pháp, Tỳ-kheo Nan-đà vào hàng thứ nhất. Về hình dáng tuấn tú, con nhà quý tộc, Tỳ-kheo Nan-đà cũng là hàng thứ nhất. Về xả bỏ ái dục đang dấy mạnh, Tỳ-kheo Nan-đà là bậc đứng đầu. Về việc giữ gìn các căn, biết tiết độ trong ăn uống, vào đầu đêm, cuối đêm tinh tấn tu hành, luôn luôn an trú trong chánh niệm tỉnh giác, Tỳ-kheo Nan-đà cũng là bậc đứng đầu.

Vì sao nói Tỳ-kheo Nan-đà thường giữ gìn các căn? Vì vị ấy không tham đắm sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Thế nên gọi Tỳ-kheo Nan-đà thường giữ gìn các căn.

Vì sao nói Tỳ-kheo Nan-đà thường tiết độ trong ăn uống? Vị ấy ăn để khỏi đói, không phải vì sắc đẹp và sự cường tráng, chỉ vì để tu phạm hạnh, chỉ thọ dụng vừa đủ, như mỡ bôi vào xe, như trị mụt ghẻ, không vì sắc đẹp, cường tráng, mập mạp, xinh đẹp. Nên nói rằng là Nan-đà biết tiết độ trong ăn uống.

Vì sao nói Tỳ-kheo Nan-đà đầu đêm, cuối đêm luôn tinh tấn tu hành, ngày thì kinh hành, đêm thì tọa thiền, trừ bỏ tâm bị trói buộc che phủ; vào đầu đêm sau khi rửa chân, vững thân ngồi ngay ngắn, đặt chánh niệm trước mặt, nhập thiền định; qua khỏi đầu đêm, đến giữa đêm, nằm nghiêng hông bên phải xuống đất, hai chân xếp vào nhau, tâm nghĩ đến ánh sáng, tu niệm giác ý; vào cuối đêm giữ thân ngồi ngay thẳng, đặt chánh niệm trước mặt? Tỳ-kheo Nan-đà vào đầu đêm, cuối đêm chuyên tâm hành đạo, như nói ở trên. Tộc tánh tử Nan-đà được chánh niệm tỉnh giác tối thượng. Tỳ-kheo Nan-đà nhất tâm không tán loạn, chánh quán phương Đông, các phương Nam, Tây, Bắc cũng như vậy, nhất tâm quán sát, không cho tán loạn, đối với Khổ thọ, Lạc thọ, Xả thọ đều biết duyên khởi, biết rõ sự sanh diệt nhanh chậm của các thọ ấy, cũng biết nhân duyên sanh diệt của các tưởng, cũng biết nhân duyên sanh diệt mà các giác sẽ trụ. Này các Tỳ-kheo, nên học như vậy, giữ gìn các căn, biết tiết độ trong ăn uống, đầu, giữa, cuối đêm luôn tinh tấn hành đạo, tu chánh niệm tỉnh giác tối thượng, như là Nan-đà.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Nay Ta dạy các ông học tập theo sự tu hành của Nan-đà. Nếu các Tỳ-kheo nào tu hành cũng như Nan-đà thì Ta cũng dạy các ông nên học theo vị ấy.

Thế Tôn nói kệ:

Người nào thường giữ gìn các căn
Tiết độ ăn uống, thường chánh niệm
Đây mới thật là người có trí
Biết rõ tánh tướng tâm sanh diệt
Ta khen Nan-đà đã đạt được
Các ông cần phải học như thế.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy đều hoan hỷ phụng hành.

7. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Có Tỳ-kheo tên Trất Sư, là con người cô của Phật, ỷ lại Đức Phật nên tâm ý kiêu mạn, không kính trọng các Tỳ-kheo Trưởng lão có đức độ, không biết hổ thẹn, thường luôn nói nhiều. Nếu các Tỳ-kheo nói về ông một ít điều gì, ông thường sanh tâm sân hận.

Bấy giờ các Tỳ-kheo thấy ông ta như vậy, nên đến gặp Phật, làm lễ rồi ngồi qua một bên, bạch:

–Thưa Thế Tôn, Tỳ-kheo Trất Sư thường sanh tâm kiêu mạn, tự tuyên bố mình là em, con người cô của Phật, khinh mạn các Tỳ-kheo Trưởng lão khác, thường nói nhiều lời. Nếu bị các Tỳ-kheo nói một ít điều gì, vị ấy liền phát sanh sân hận. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Nay các ông đến gọi Tỳ-kheo Trất Sư lại đây.

Các Tỳ-kheo theo lời Phật dạy, đến gọi Trất Sư. Trất Sư vâng lời, đến ngay chỗ Phật, lạy sát chân Ngài, đứng qua một bên. Bấy giờ Đức Phật bảo Trất Sư:

–Ông gặp các vị Tỳ-kheo Trưởng lão, không có tâm cung kính, không biết hổ thẹn, phóng túng về lời nói, nếu bị các Tỳ-kheo nói ít lời gì liền sanh tức giận, có đúng vậy không?

Trất Sư thưa:

–Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Phật bảo Trất Sư:

–Nếu ông cho rằng mình là con người cô của Ta, phải đối với các vị Tỳ-kheo Trưởng lão túc đức luôn có tâm ý cung kính, biết hổ thẹn, giữ gìn lời nói mình, lắng nghe lời nói của họ, cần phải gắng sức thọ trì.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Thường phải tu thiện không khởi sân
Nếu sanh sân hận là bất thiện
Trất Sư, ông phải nghe Ta dạy
Cần phải trừ sân, bỏ kiêu mạn
Hành trì các thiện, tu phạm hạnh
Ông làm như thế Ta hoan hỷ.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

8. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Bấy giờ Tỳ-kheo Tỳ-xá-khư con dòng Ban-xà-la, ở trên giảng đường, tập hợp các Tỳ-kheo, thuyết pháp cho họ, ngôn từ viên mãn, lời lẽ thông suốt, khiến cho đại chúng nghe rất hoan hỷ, không chán, được hiểu rõ ràng.

Các Tỳ-kheo nghe lời Tôn giả giảng dạy, hoan hỷ, vui mừng, chí tâm nghe và ghi nhận, cúng dường cung kính, chuyên tâm chú ý nghe Tôn giả thuyết pháp, không vì lợi dưỡng, không vì tiếng khen. Tôn giả có biện tài ứng hợp với nghĩa lý, lưu loát bất tuyệt, làm cho người nghe ghi nhớ không quên.

Trong đại chúng, có những Tỳ-kheo nghe như vậy, bèn đi đến chỗ Phật, làm lễ dưới chân Ngài, đứng qua một bên, thưa:

–Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo Tỳ-xá-khư, con dòng họ Ban-xà-la, ở trên giảng đường thuyết pháp cho mọi người, không vì để được lợi dưỡng, không vì tiếng khen, biện luận hợp nghĩa lý, lưu loát vô cùng, làm cho người nghe ghi nhận không quên. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Ông hãy đến gọi Tỳ-kheo Tỳ-xá-khư, con nhà Ban-xà-la đến đây.

Các Tỳ-kheo vâng lệnh Đức Phật, đến gọi Tỳxá-khư. Sau khi được gọi, Tỳ-xá-khư đến chỗ Phật, lạy sát dưới chân Ngài, đứng qua một bên. Đức Phật hỏi Tỳ-xá-khư:

–Có thật ông đã tập hợp các Tỳ-kheo lại để thuyết pháp cho họ, cho đến... làm cho các Tỳ-kheo chí tâm ghi nhận. Có việc này không?

Đáp:

–Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật khen ngợi:

–Lành thay! Lành thay! Này Tỳ-xá-khư, ông tập hợp các Tỳ-kheo trên giảng đường, thuyết pháp cho họ không vì danh lợi, ngôn từ viên mãn, người nghe hoan hỷ, chí tâm tín thọ. Từ đây về sau, ông thường nên thuyết pháp tạo lợi ích như vậy. Này các Tỳ-kheo, dù ít hay nhiều người, phải làm hai việc: Một, phải giảng thuyết giáo pháp. Hai, nếu không có gì đáng nói thì nên trả lời bằng cách im lặng. Không được bàn luận các việc thế sự. Nay các ông đừng khinh thường sự im lặng.

Sự im lặng có lợi ích lớn.

Thế Tôn nói kệ:

Giữa đại chúng hội họp
Có cả ngu và trí
Nếu không trình bày rõ
Thì người không hiểu được.
Nếu giảng giải rõ ràng
Nhờ vậy người mới hiểu
Vì thế nay các ông
Phải thường giảng pháp yếu.
Đốt sáng ngọn đuốc pháp
Dựng cao cờ chư Phật
Các vị A-la-hán
Lấy diệu pháp làm cờ
Chư Phật và Thánh hiền
Lấy thiện ngữ làm cờ.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

9. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Trong thời gian ấy, có nhiều Tỳ-kheo tập hợp ở giảng đường cùng nhau may y. Khi ấy, có một Tỳ-kheo trẻ, xuất gia chưa lâu, mới thọ giới cụ túc, chỉ ngồi yên giữa Tăng chúng, không giúp đỡ chúng Tăng may y.

Bấy giờ các Tỳ-kheo may y xong, đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài, ngồi qua một bên, thưa:

–Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo chúng con ở trong giảng đường may y phục. Vị Tỳ-kheo trẻ ấy chỉ ngồi yên giữa chúng Tăng, không phụ giúp công việc may y phục.

Đức Phật hỏi vị Tỳ-kheo trẻ:

–Ông thật đã không giúp đỡ chúng Tăng may y phải chăng?

Vị ấy thưa với Phật:

–Bạch Thế Tôn, con tùy theo sức lực, khả năng của mình để làm việc cho Tăng chúng.

Thế Tôn biết ý nghĩ trong tâm của vị Tỳ-kheo kia, nên bảo các Tỳ-kheo:

–Các ông đừng phiền lòng vì vị Tỳ-kheo trẻ kia không làm. Tỳ-kheo đó việc làm đã xong, đắc quả A-la-hán, các lậu đã hết, bỏ gánh nặng xuống, chứng đạt chánh trí, tâm được giải thoát.

Thế Tôn nói kệ:

Pháp giác ngộ giải thoát
Trọn không phải vì kẻ
Biếng nhác và vô trí
Có thể chứng đắc được.
Cũng như con ngựa giỏi,
Bậc Trượng phu cao thượng
Cắt đứt dây tham ái
Diệt sạch các não phiền
Phá tung cả bốn thủ
Chứng được quả tịch diệt
Diệt trừ chúng ma quân
Sống với thân sau chót.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

10. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Có một Tỳ-kheo tên là Trưởng Lão, ở riêng trong một phòng, hết lời ca ngợi việc ở riêng.

Các Tỳ-kheo đến chỗ Phật, lạy sát chân Phật, ngồi qua một bên, bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, Tỳ-kheo Trưởng Lão này đã hết lời ca ngợi việc ở một mình, đi một mình, ngồi một mình.

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

–Ông hãy đến gọi Tỳ-kheo Trưởng Lão.

Một Tỳ-kheo đến chỗ vị ấy, bảo Trưởng Lão:

–Thế Tôn gọi thầy.

Tỳ-kheo Trưởng Lão vâng lời dạy, đến chỗ Phật, làm lễ dưới chân Ngài, đứng qua một bên. Đức Phật hỏi Trưởng Lão:

–Có thật ông ở một mình, tán thán pháp ngồi, đi một mình không?

Trưởng Lão bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, đúng như vậy.

Thế Tôn dạy:

–Nay ông ưa thích việc sống một mình và tán thán việc sống một mình như thế nào?

Trưởng Lão bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, con thật có vào làng một mình, đi về một mình, ngồi một mình.

Đức Phật dạy:

–Có cách sống một mình khác hơn cách sống một mình của ông. Đó là gì? Là làm khô kiệt nguồn gốc tham dục, chận đứng tham dục trong tương lai không cho phát sanh, diệt trừ tham dục hiện tại không cho phát triển. Đây gọi là Bà-lamôn không có ngã và mọi sở hữu của ngã, đoạn trừ nghi kết, xa lìa các nhập, diệt trừ phiền não. Đức Thế Tôn nói kệ:

Tất cả thế gian
Ta đều biết rõ
Xả bỏ tất cả
Diệt các ái kết
Thắng pháp như thế
Gọi là độc trụ.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

11. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Thượng tọa Tăng Kiềm từ nước Kiều-tát-la du hành đến nước Xávệ, vào khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc. Bấy giờ người vợ cũ biết Tăng Kiềm đến nước Xá-vệ, liền mặc y phục, đeo chuỗi ngọc, trang sức xinh đẹp, bồng con nhỏ đến phòng của Tăng Kiềm. Khi Tôn giả Tăng Kiềm đang đi kinh hành trên chỗ đất trống, bà ta tới chỗ Tôn giả, nói:

–Con tôi còn nhỏ, không thể tự sanh sống, vì thế đến đây gặp Tôn giả.

Tuy gặp gỡ nhau nhưng Thượng tọa Tăng Kiềm không trả lời bà ta. Lần thứ hai, lần thứ ba, bà ta cũng nói như vậy. Tôn giả Tăng Kiềm tuy nghe thấy nhưng không nhìn ngó, cũng không nói chuyện. Người vợ cũ liền nói:

–Thiếp đến đây gặp chàng, chàng không thèm nói chuyện với thiếp. Đây là con chàng, hãy nuôi nấng nó.

Nói xong, bà đặt đứa nhỏ ở đầu đường kinh hành rồi bỏ đi, đứng ở chỗ xa xa nhìn lại. Bấy giờ Tôn giả cũng không nói chuyện với đứa con. Người vợ cũ lại suy nghĩ: “Nay vị Sa-môn này đã giải thoát hoàn toàn, đoạn hẳn tham ái như các vị Tiên thánh đã đoạn. Vị này đã chứng đắc đầy đủ”. Không được mãn nguyện, người vợ cũ quay lại bồng con trở về nhà. Bấy giờ Đức Thế Tôn với thiên nhĩ thanh tịnh hơn hẳn mọi người, nên đã nghe đầy đủ lời nói nơi người vợ cũ của Thượng tọa Tăng Kiềm. Thế Tôn nói kệ:

Thấy đến không vui mừng
Thấy đi cũng không buồn
Người xả trừ ái dục
Bà-la-môn tối thượng
Khi đến đã không mừng
Khi đi cũng không buồn
Lìa cấu hạnh thanh tịnh
Gọi trí Bà-la-môn.

Đức Phật thuyết kệ xong, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy đều hoan hỷ phụng hành.

Nhiếp tụng:

Thiện Sanh và Sắc xấu
Đề-bà và Tượng Thủ
Nhị Nan-đà, Trất Sư
Thiếu niên Ban-xà-la
Trưởng lão và Tăng Kiềm.

12. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật trú ở trong núi Tiên nhân, thuộc thành Vương xá. Bấy giờ Tôn giả A-nan ở nơi yên tịnh, suy nghĩ: “Trước đây Thế Tôn có giảng về ba loại hương, đó là hương của rễ, hương của cành và hương của hoa. Tất cả các mùi hương đều không ngoài ba loại này. Nhưng ba loại hương này thuận chiều gió thì nghe, ngược chiều gió thì không nghe”.

Tôn giả A-nan suy nghĩ như vậy, liền rời chỗ ngồi, đến chỗ Đức Phật, lạy sát dưới chân Ngài rồi đứng qua một bên, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, vừa rồi con ở một mình nơi yên tĩnh, vắng lặng suy nghĩ: “Thế Tôn có dạy về mùi hương của ba loại rễ, cành và hoa là thơm nhất trong các loại hương. Nhưng mùi hương của chúng, thuận chiều gió thì nghe, ngược gió thì không nghe. Bạch Thế Tôn, có loại hương nào dù nghịch hay thuận gió đều nghe không?

Thế Tôn bảo A-nan:

–Đúng vậy! Đúng vậy! Trong thế gian có loại hương thơm dù nghịch hay thuận gió đều nghe. Đó là loại hương gì? Trong xóm làng, thành phố có người đàn ông hay đàn bà sống nếp sống không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh, không nói dối, không uống rượu thì chư Thiên và các vị chứng đắc thiên nhãn đều khen ngợi người nam hay nữ thọ trì năm giới ở thành phố, xóm làng kia. Mùi hương của giới đức như vậy thì thuận hay ngược chiều gió đều nghe.

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ:

Hương hoa hồng, trầm hương
Ở rễ, nhánh, lá, hoa
Hương này thuận chiều gió
Ngược gió, không nghe mùi.
Hương thơm bậc Trì giới
Bay thơm khắp thế gian
Mười phương đều khen ngợi
Thuận, nghịch gió đều nghe.
Hoa hồng và trầm hương
Thiết mộc lan, nguyệt quế
Mùi hương này thoang thoảng
Không bằng hương trì giới.
Các loại hương như vậy
Mùi thơm không bay xa
Hương giới bay mười phương
Thù thắng hơn hương trời.
Giới thanh tịnh như vậy
Không phóng dật làm gốc
An trú pháp vô lậu
Chánh trí đắc giải thoát.
Chúng ma tuy muốn tìm
Chẳng biết họ ở đâu
Đây là đạo an ổn
Đạo này rất thanh tịnh
Xa lìa sự loạn động
Từ bỏ nẻo luân hồi.

Đức Phật nói kệ xong, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

13. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật du hóa ở nước Ma-kiệt-đề, cùng với một ngàn vị Tỳ-kheo trước đây là hàng Bà-la-môn kỳ cựu, đức độ, chứng A-la-hán, các lậu đã tận, hết các kết nghiệp, chỗ làm đã xong, bỏ gánh nặng xuống, chứng đắc tự lợi. Đức Như Lai đến chùa Thiện trụ thiên, trong rừng Từ tự. Vua Tần-bà-sa-la nghe Đức Phật đến ngự trong rừng Từ tự, liền dẫn đầu một đoàn gồm một vạn tám ngàn kỵ binh, một vạn hai ngàn chiếc xe, ngàn ức vạn Bà-la-môn, cư sĩ, trước sau nối nhau đi đến chỗ Phật. Đến nơi, nhà vua xuống xe voi ngựa, bỏ những trang sức, đến gặp Đức Phật, quỳ chắp tay, bạch ba lần:

–Bạch Thế Tôn, con là Tần-bà-sa-la, vua nước Ma-kiệt-đề.

Đức Phật nói:

–Lành thay! Lành thay! Tần-bà-sa-la vua nước Ma-kiệt-đề.

Vua Tần-bà-sa-la lạy sát chân Phật rồi ngồi qua một bên. Các Bà-la-môn và Trưởng giả nước Ma-kiệt-đề cùng lạy sát chân Phật rồi đều ngồi ở trước. Bấy giờ, trong hội có người chắp tay, có người im lặng ngồi.

Khi ấy Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp ngồi ở bên Đức Phật, người nước Ma-kiệt-đề đều sanh nghi ngờ, suy nghĩ: “Phật và Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, ai là đạo sư?”. Đức Thế Tôn biết tâm niệm của người nước Ma-kiệt-đề nên dùng kệ hỏi Ca-diếp:

Ông ở vùng Ưu-lâu
Tu theo pháp thờ lửa
Nay vì nhân duyên gì
Bỏ hẳn được nghiệp ấy?

Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp nói kệ đáp:

Trước kia con thờ lửa
Tham đắm nơi mùi vị
Cùng năm dục sắc trần
Đấy đều là cấu uế
Vì vậy nên vứt bỏ
Pháp thờ lửa, tế lửa.
Thế Tôn nói kệ: Ta
biết ông không ưa Năm
dục và sắc vị Nay
ông tín ngưỡng gì? Hãy
vì Trời, Người nói!

Tôn giả Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp nói kệ:

Trước con rất ngu si
Không biết pháp chí chân
Khổ hạnh thờ tế lửa
Cho là nhân giác ngộ.
Như người mù bẩm sanh
Không thấy đường giải thoát
Nay gặp Đấng Đại Long
Dạy con pháp chánh kiến.
Ngày nay con mới thấy
Nẻo vô vi chân chánh
Lợi ích cho tất cả
Điều ngự khiến giải thoát.
Phật xuất hiện trong đời
Khai thị pháp chân đế
Làm cho các chúng sanh
Đều được thấy tuệ sáng.

Thế Tôn lại nói kệ:

Nay ông đã khéo đến
Đạt được điều mong cầu
Ông có sức tư duy
Phân biệt pháp tối thắng
Nay ông phải quán sát
Thâm tâm của đại chúng
Vì họ hiện thần thông
Khiến họ sanh kính tín.

Bấy giờ Tôn giả Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp tức thời nhập định, hiện các thần thông, bay lên hư không, nằm, ngồi, kinh hành; ngay ở phương Đông đi, đứng, ngồi, nằm hiện bốn uy nghi, trên thân phun nước, dưới thân phát lửa, dưới thân phun nước, trên thân phát lửa, nhập Hỏa quang tam-muội, phát ra các loại hào quang, hiện thần biến này ở phương Đông, rồi phương Nam, Tây, Bắc cũng như vậy. Tôn giả hiện thần biến xong, đứng ở trước Phật, lạy sát chân Ngài, chắp tay thưa:

–Đại Thánh Thế Tôn là thầy của con, hiện nay con là đệ tử của Phật.

Đức Phật nói:

–Đúng vậy! Đúng vậy! Ông học nơi Ta, là đệ tử của Ta.

Đức Phật bảo:

–Ông hãy về chỗ ngồi của mình.

Lúc ấy vua Tần-bà-sa-la nước Ma-kiệt-đề nghe lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

14. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá. Bấy giờ có Tỳ-kheo Đàphiêu, là con của người lực sĩ. Đức Thế Tôn sai Tỳ-kheo này xử lý công việc của chúng Tăng. Tỳ-kheo Đà-phiêu phụng mệnh làm Tri sự cho Tăng.

Sau đó có một Tỳ-kheo tên là Di-đa-cầu, là người đến lượt được mời thọ thỉnh trong Tăng. Bấy giờ Đà-phiêu y theo thứ lớp trong Tăng bố trí Tỳ-kheo Di-đa-cầu đi thọ thỉnh. Tỳ-kheo này gặp phải thí chủ thiết cúng thực phẩm không ngon. Như vậy đến ba lần, nên vị ấy rất buồn bực, rất là khổ não, đến gặp em gái mình là Tỳ-kheo-ni Diđa-la, nói:

–Ta bị khổ não bởi vì Đà-phiêu cắt ta đến thọ trai ở chỗ thức ăn rất dở. Này em, Tỳ-kheo Đàphiêu đã ba lần cho ta thức ăn quá dở, ta rất bực tức. Vậy em lẽ nào chẳng vì ta tạo các phương tiện để trả thù cho ta hay sao?!

Tỳ-kheo-ni Di-đa-la nói: –Em làm sao tương trợ được? Tỳ-kheo Di-đa-cầu nói:

–Để ta tính toán cho. Em hãy đến gặp Phật, bạch: “Trước đây Tỳ-kheo Đà-phiêu làm việc phi tịnh hạnh với con”. Ta sẽ làm chứng, nói: “Đúng vậy, đúng vậy”.

Tỳ-kheo-ni Di-đa-la nói:

–Em làm sao lại hủy báng người trì giới thanh tịnh?

Di-đa-cầu nói:

–Này em, nếu em không chịu làm việc ấy cho anh, từ nay về sao anh không thèm nói chuyện với em nữa.

Vị Tỳ-kheo-ni nói: –Ý anh đã quyết, em sẽ nghe theo. Tỳ-kheo Di-đa-cầu nói:

–Này em, nay anh đi trước, em đến sau.

Tỳ-kheo Di-đa-cầu đến chỗ Phật, lạy sát chân Phật, ngồi qua một bên.

Tỳ-kheo-ni Di-đa-la lại đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, ngồi qua một bên, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, không biết vì sao Đà-phiêu, con của người lực sĩ, vừa rồi hành động phi phạm hạnh với con?!

Tỳ-kheo Di-đa-cầu thưa:

–Bạch Thế Tôn, đúng như vậy!

Bấy giờ Tỳ-kheo Đà-phiêu đang ở trong đại chúng. Đức Phật bảo Tỳ-kheo Đà-phiêu:

–Ông nghe lời nói này không?

Tỳ-kheo Đà-phiêu bạch Phật: –Bạch Thế Tôn, Phật biết rõ con.

Phật bảo Đà-phiêu:

–Nay ông không nên phát biểu như vậy. Nếu có làm việc ấy, ông phải nói là nhớ có. Nếu không làm các việc ấy, ông phải nói là nhớ không có.

Đà-phiêu liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, con nhớ rõ là không có việc như vậy.

Bấy giờ La-hầu-la bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo Đà-phiêu này cùng với Tỳ-kheo-ni Di-đa-la hành động phi phạm hạnh. Tỳ-kheo Di-đa-cầu phát biểu làm chứng. Con thấy Tỳ-kheo Đà-phiêu đối với Tỳ-kheo-ni Di-đa-la hành động phi phạm hạnh. Tỳ-kheo Đàphiêu vì sao lại nói như vậy?!

Đức Phật bảo La-hầu-la:

–Nếu Tỳ-kheo-ni Di-đa-la vu báng ông bằng lời thế này: “La-hầu-la làm việc phi phạm hạnh đối với con”, Tỳ-kheo Di-đa-cầu lại phát biểu làm chứng: “Con thật thấy La-hầu-la đối với Tỳ-kheo-ni Di-đa-la đã hành động phi phạm hạnh”, thế thì ông sẽ nói gì?

La-hầu-la thưa:

–Bạch Thế Tôn, nếu con bị vu báng, con chỉ nói Đức Bạc-già-phạm tự chứng biết cho con.

Phật bảo La-hầu-la:

–Ông còn biết như vậy, huống chi vị kia thanh tịnh không vi phạm, lại không biết phát biểu như vậy hay sao?

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Các ông nên vì Tỳ-kheo Đà-phiêu tiến hành pháp Ức niệm Yết-ma. Tỳ-kheo-ni Di-đa-la vì tự phát ngôn, phải bị xử lý riêng.

Các Tỳ-kheo vâng lệnh Phật, kiểm tra Tỳ-kheo Di-đa-cầu, hỏi ông ta:

–Tỳ-kheo Đà-phiêu cùng Tỳ-kheo-ni Di-đa-la hành động phi phạm hạnh, ông thấy ở chỗ nào?

Thấy một mình hay cùng nhiều người thấy?

Các Tỳ-kheo xét hỏi như vậy. Tỳ-kheo Di-đacầu không trả lời được, mới thú thật là vu báng:

–Trước đây Tỳ-kheo Đà-phiêu theo thứ lớp trong Tăng bố trí tôi thọ thỉnh, ba lần bị ăn không ngon. Thực ra tôi vì tham, sân, si nên gây ra sự vu báng này.

Bấy giờ Thế Tôn ra khỏi tịnh thất, trải tọa cụ ngồi trước chúng Tăng. Các Tỳ-kheo bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, chúng con đã vì Tỳ-kheo Đàphiêu tiến hành Yết-ma Ức niệm, đã hỏi Di-đa-cầu nên biết rõ việc kia là vu báng, lại đã tiến hành diệt tẫn Tỳ-kheo-ni Di-đa-la.

Thế Tôn nói kệ:

Để thành tựu tất cả
Bằng lời nói dối trá
Là vứt bỏ đời sau
Không ác gì không làm
Thà dùng thân miệng này
Nuốt viên sắt cháy nóng
Không được sống phá giới
Nhận tịnh tín cúng dường.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

15. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá. Bấy giờ Tỳ-kheo Đà-phiêu đến chỗ Phật, ở giữa đại chúng, đảnh lễ chân Phật, bạch ba lần:

–Bạch Thế Tôn, nay con muốn vào Niết-bàn.

Ngưỡng mong Thế Tôn cho phép con diệt độ. Đức Phật bảo Đà-phiêu:

–Ông muốn vào Niết-bàn, Ta không ngăn ông. Tỳ-kheo Đà-phiêu ở trước Đức Như Lai hiện mười tám phép biến hóa, vọt lên hư không, ngay ở phương Đông hiện bốn oai nghi với sắc thân đủ màu xanh, vàng, đỏ, trắng, hoặc hiện ra nước, hoặc hiện lửa cháy; trên thân phun nước, dưới thân phun lửa, trên thân phun lửa, dưới thân phun nước, hoặc hiện thân to lớn đầy cả hư không, rồi lại hiện nhỏ, bước trên nước như trên đất bằng, đi vào đất như trong nước, phương Nam, Tây, Bắc cũng hiện như vậy. Tôn giả biến hóa như thế xong, ngay giữa không trung nhập tam-muội Hỏa quang, lửa cháy rực rỡ, như đống lửa lớn, nhập vào Niết-bàn, không có tro tàn để lại, cũng như dầu bơ cháy hết một lần.

Thế Tôn nói kệ:

Ví như sắt nóng
Đập xẹt lửa ra
Tan rồi diệt ngay
Không biết nơi nào
Đắc chánh giải thoát
Cũng giống như vậy
Đã thoát phiền não
Chốn dục bùn lầy
Không thể biết được
Nơi vị ấy đến.

Đức Phật dạy như vậy. Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

16. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật du hóa ở rừng cây bên sông Đào thuộc nước Ma-kiệt-đà. Một mục đồng gặp Ngài, thưa:

–Trong rừng này có tên cướp Ương-quật-mA-la có thể làm hại người.

Đức Phật bảo mục đồng:

–Tên giặc ấy không thể làm hại Ta được.

Ngài liền tiến bước lại gặp một mục đồng khác cũng nói như vậy, Phật đáp như trước. Cho đến lần thứ ba, Đức Phật vẫn đáp: “Kẻ ác ấy không thể hại Ta”.

Đức Phật vào trong rừng, Ương-quật-ma-la từ xa thấy Đức Phật đến, tay trái cầm bao dao, tay phải cầm dao, vọt chạy tới. Ương-quật chạy nhanh, Đức Như Lai đi chậm rải, nhưng hắn không thể đuổi kịp. Ương-quật-ma-la cố chạy nên hết sức mệt mỏi, bèn nói với Phật:

–Đứng lại! Đứng lại! Này Sa-môn.

Đức Phật bảo:

–Ta luôn luôn đứng lại, chỉ tại ngươi không chịu dừng lại đấy thôi!

Ương-quật-ma-la nói kệ:

Sa-môn đi không ngừng
Lại nói mình luôn đứng
Còn ta đã đứng lại
Ông bảo ta chưa dừng
Tại sao ông nói đứng
Nói ta đi không ngừng?

Thế Tôn nói kệ:

Ta đối với chúng sanh
Không sát hại lâu rồi
Ông não loạn chúng sanh
Không bỏ nghiệp ác ấy
Vì vậy nói Ta đứng
Còn ông chưa dừng lại.
Ta với loài hữu tình
Không có tâm độc hại
Ngươi không ngừng nghiệp ác
Thường tạo nghiệp bất thiện
Vì vậy nói Ta đứng
Còn ngươi không dừng lại.
Ta đối với chúng sanh
Trừ bỏ những não hại
Ngươi hại mạng mọi người
Chưa trừ nghiệp hắc ám
Vì vậy nói Ta dừng
Còn ngươi chưa đứng được.
Ta vui nơi pháp mình
Nhiếp tâm không phóng dật
Ngươi không thấy Tứ đế
Không biết đứng chỗ nào
Nên Ta nói đứng hẳn
Còn ngươi vẫn còn đi.

Ương-quật-ma-la nói kệ:

Ta ở nơi hoang dã
Chưa gặp người thế này
Bà-già-bà đến đây
Dạy pháp thiện cho ta
Từ lâu ta làm ác
Hôm nay quyết từ bỏ
Nay con nghe Ngài dạy
Thuận pháp, đoạn các ác
Để dao vào trong vỏ
Ném hết xuống hố sâu
Tức thời con đảnh lễ
Quy y với Thế Tôn
Lòng tin rất dũng mãnh
Phát tâm cầu xuất gia.
Phật rải tâm đại bi
Lợi ích khắp thế gian
Gọi thiện lai Tỳ-kheo!
Ương-quật thành Sa-môn.

Bấy giờ Tộc tánh tử Ương-quật-ma-la râu tóc tự rụng, thân mặc pháp y, đã được xuất gia, ở nơi vắng lặng tâm không phóng dật, chuyên tinh hành đạo, tu tập tinh tấn, luôn luôn siêng năng nhiếp tâm chánh niệm, tu pháp phạm hạnh vô thượng, diệt tận các khổ, trong hiện pháp này tự thân chứng tri, tự biết pháp chứng, sự sanh khởi về ngã đã hết, phạm hạnh đã lập, chỗ làm đã xong, không thọ thân sau. Khi ấy, Tôn giả Vô Hại đã thành vị A-la-hán, đắc an lạc giải thoát, nói kệ:

Nay ta tên Vô Hại
Sau khi tàn hại nhiều
Nên tên đúng của ta
Chân thật là Vô Hại.
Nay thân ta thoát khổ
Miệng, ý cũng như vậy
Không còn hại người khác
Đúng với tên Vô Hại.
Trước thân ta đầy máu
Tên Ương-quật-ma-la
Được nước mạnh dội sạch
Thế nên quy y Phật.
Quy y thọ cụ túc
Chứng đắc được ba minh
Biết đủ giáo pháp Phật
Thọ trì tu hành theo.
Kẻ ngự trị trong đời
Hành xử bằng dao gậy
Móc sắt, roi, dây cương
Các hình phạt cấm, đánh.
Thế Tôn Đại Điều ngự
Xả ly các pháp ác
Từ bỏ đao, trượng, gậy
Là điều ngự chân chánh.
Qua sông cần cầu đò
Uốn tên cần dùng lửa
Thợ nhờ rìu đẽo thẳng
Trí dùng tuệ tự điều.
Ai trước đây làm ác
Sau bỏ không làm nữa
Người ấy sáng thế gian
Như trăng thoát mây che.
Ai trước sống phóng dật
Sau không còn phóng dật
Chánh niệm tránh gai độc
Chuyên tâm đến bờ kia.
Tạo đủ hành động ác
Phải đọa cảnh giới ác
Nhờ Phật, tội con diệt
Được thoát khỏi nghiệp ác.
Những người nghe con nói
Đều bỏ ý oán thù
Đắc nhãn tịnh, được nhẫn
Phật dạy: không tranh, thắng.

17. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá. Vào lúc trời mờ sáng, có một Tỳ-kheo đến bên bờ sông, cởi y phục để một nơi, xuống sông tắm rửa. Sau đó, vị ấy ra khỏi nước, lên bờ sông, ở trần phơi mình cho khô.

Có vị trời tỏa chiếu hào quang sáng rực nơi bờ sông ấy, nói với Tỳ-kheo:

–Thầy xuất gia chưa bao lâu, mái tóc tốt đẹp, sức khỏe cường tráng, tại sao không thọ hưởng năm dục lạc, xuất gia phi thời vậy?

Tỳ-kheo đáp:

–Nay tôi xuất gia chính vì đúng thời, chứng đắc nơi phi thời.

Vị trời nói với Sa-môn:

–Thế nào là xuất gia đúng thời, chứng đắc nơi phi thời?

Sa-môn đáp:

–Đức Phật Thế Tôn dạy năm dục lạc là thời, Phật pháp là phi thời. Lạc thú của năm dục ý vị rất ít, nguy hiểm lại nhiều, là chỗ tập hợp của khổ não. Tôi ở trong Phật pháp tự thân tác chứng, không có các phiền não, kết quả tu hành không đợi ngày giờ, trồng nhân duyên nhỏ ít, được quả báo lớn.

Vị trời lại hỏi:

–Vì sao Phật dạy năm dục là thời? Vì sao gọi Phật pháp là phi thời?

Tỳ-kheo đáp:

–Tôi còn nhỏ tuổi, xuất gia chưa lâu, học vấn cạn cợt, làm sao có thể trình bày ý nghĩa rộng lớn, sâu sa của Đức Như Lai Chí Chân. Đức Bà-già-bà đang ở nơi vườn trúc Ca-lan-đà gần đây, ông có thể đến đó hỏi về điều nghi ngờ này.

Vị trời đáp:

–Nay trời uy đức lớn đang hầu cận Đức Phật đầy cả hai bên. Tôi phận thấp hèn không thể gặp được. Thầy hãy vì tôi đến bạch Thế Tôn. Nếu Đức Như Lai từ bi cho phép, tôi sẽ đến gặp Ngài thưa hỏi chỗ nghi ngờ.

Tỳ-kheo đáp:

–Nếu ông có thể cùng đi, tôi sẽ vì ông bạch với Thế Tôn.

Vị trời đáp:

–Tôi sẽ đi theo thầy đến gặp Thế Tôn.

Khi ấy vị Tỳ-kheo đến chỗ Thế Tôn đảnh lễ dưới chân Phật, đứng qua một bên, đem đầy đủ lời hỏi của vị trời thưa với Đức Phật. Đức Thế Tôn nói kệ:

Từ Danh sắc sanh tưởng
Cho là chân thật có
Nên biết người như vậy
Là đi trên đường chết
Nên biết rõ Danh sắc
Vốn không, không có tánh
Đó là tôn kính Phật
Thoát ly hẳn luân hồi.

Đức Phật hỏi vị trời:

–Ông đã hiểu chưa?

Vị trời đáp:

–Bạch Thế Tôn, chưa hiểu.

Đức Phật lại nói kệ:

Thắng mạn và đẳng mạn
Cùng với mạn không bằng
Có ba loại mạn này
Thì phải có tranh luận.
Trừ diệt ba mạn ấy
Gọi là tưởng bất động.

Đức Phật hỏi vị trời:

–Ông đã hiểu chưa?

Vị trời đáp:

–Bạch Thế Tôn, con chưa hiểu.

Đức Phật lại nói kệ:

Đoạn ái và danh sắc
Diệt trừ ba loại mạn
Không tiếp xúc các dục
Diệt trừ những giận dữ
Nhổ sạch các gốc độc
Diệt tận tưởng nguyện dục
Người làm được như vậy
Vượt qua biển sanh tử.

Vị trời bạch Phật:

–Con đã hiểu.

Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

18. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá. Vào sáng sớm có một Tỳ-kheo đến bên bờ sông, cởi y phục, tắm rửa. Sau đó lên bờ, hong cho khô thân.

Có vị trời chiếu hào quang sáng xuống chỗ bờ sông ấy, hỏi Tỳ-kheo:

–Đây là hang ổ, ban đêm phun khói, ban ngày lửa cháy. Có vị Bà-la-môn thấy sự việc này nên muốn phá hang ổ kia và đào đất ấy lên. Có người trí bảo Bà-la-môn: “Hãy để tôi cầm dao đào đất lên”. Đào lên thấy có một con rùa, Bà-la-môn nói:

“Lấy con rùa này lên”. Lại bảo đào đất, thấy một rắn độc, bảo bắt đem đi. Lại bảo đào đất, thấy một miếng thịt, bảo hãy lấy lên. Lại bảo đào đất, thấy một con dao phay, Bà-la-môn nói: “Đây là con dao, hãy lấy lên”. Lại bảo đào đất, thấy độc trùng Lăng-kỳ-mang, bảo hãy lấy lên. Lại bảo đào đất, thấy có hai con đường, bảo đem lên. Lại bảo đào đất, hãy đào nữa, thấy có năm cục đá, bảo hãy đem đá lên. Lại bảo đào đất, thấy một con rồng. Bà-lamôn nói: “Đừng làm phiền rồng”, liền quỳ bái con rồng kia.

Vị trời bảo Tỳ-kheo:

–Đừng quên lời tôi. Hãy đến hỏi Đức Phật, hãy chí tâm thọ trì những gì Phật dạy. Vì sao? Tôi không thấy Trời, Ma, Phạm nào có thể phân biệt được, trừ Đức Phật và Tỳ-kheo Thanh văn đệ tử ra, không ai có thể giải đáp được câu hỏi này.

Bấy giờ Tỳ-kheo đến chỗ Đức Phật, lạy sát chân Ngài, đứng qua một bên, hướng về Ngài trình bày hết những lời được nghe từ vị trời:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là hang ổ, đêm phun khói, ngày lửa cháy. Ai là vị Bà-la-môn, ai là người có trí. Dao là gì, đào lên là gì, con rùa là gì, rắn độc là gì? Miếng thịt là gì, dao vừa là gì, độc trùng Lăng-kỳ-mang là gì, hai đường là gì, đống đá là gì, con rồng là gì?

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

–Hãy lắng nghe! Ta sẽ giảng cho ông. Hang ổ là thân này, do tinh khí của cha mẹ, bốn đại hợp thành, nuôi dưỡng bằng cơm áo mới trở thành thân. Nhưng thân này khi chết đi thì tan rã sình trướng, trùng ăn nát ra cho đến tan hoại.

Ban đêm phun khói là ban đêm suy nghĩ, quán sát. Ban ngày lửa cháy là từ thân khẩu nghiệp có các hành động rộng lớn.

Bà-la-môn chỉ cho Đức Như Lai. Người có trí chỉ cho các vị Thanh văn. Con dao dụ cho trí tuệ. Đào đất dụ cho tinh tấn. Con rùa dụ cho năm thứ che phủ trói buộc. Rắn độc dụ cho tai hại của sân hận, phiền não. Cục thịt dụ cho tham lam keo kiệt, ganh ghét. Dao phay dụ cho năm dục. Độc trùng Lăng-kỳ-mang dụ cho ngu si. Hai con đường dụ cho sự nghi ngờ. Các cục đá dụ cho ngã mạn. Con rồng dụ cho vị A-la-hán đoạn tận các hữu, kết.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Hang ổ gọi là thân
Giác quán như khói lửa
Hành động là lửa cháy
Bà-la-môn như Phật
Người trí là Thanh văn
Dao đào là trí tuệ
Đào đất là tinh tấn
Năm che phủ dụ rùa
Sân giận như rắn độc
Tham, ganh như cục thịt
Ngũ dục như dao phay
Ngu si như Lăng-kỳ
Nghi ngờ là hai đường
Ngã kiến như đống đá
Ông chớ làm phiền rồng
Rồng là chân La-hán
Khéo trả lời người hỏi
Chỉ có Phật, Thế Tôn.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

19. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Tiên nhân Lộc dã, thuộc nước Ba-la-nại.

Bấy giờ Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào thành Ba-la-nại, thấy một Tỳ-kheo thân ý không được định tĩnh, các căn tán loạn. Tỳ-kheo ấy từ xa thấy Thế Tôn, cúi đầu xấu hổ.

Sau khi thọ trai, Đức Phật rửa chân, đến chỗ chư Tăng, vào tịnh thất ngồi giữa chúng, bảo các Tỳ-kheo:

–Sáng nay Ta thấy một Tỳ-kheo không thu nhiếp các căn. Khi vị ấy từ xa thấy Ta thì có sắc thái thẹn thùng, cúi đầu khép nép. Đó là ai vậy?

Tỳ-kheo ấy rời khỏi chỗ ngồi, sửa y Uất-đa-la-tăng, chừa vai phải, chắp tay bạch Phật:

–Thế Tôn, người tâm ý không ổn định, các căn tán loạn chính là con. Đức Phật dạy:

–Lành thay! Này Tỳ-kheo, ông thấy Ta mà có thể hộ tâm nhiếp ý thì khi thấy các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di cũng phải hộ tâm nhiếp ý như thấy Ta vậy. Ông làm được như thế thì đạt được an lạc, lợi ích suốt cả đời mình.

Có một Tỳ-kheo ở trước Đức Phật nói kệ:

Tỳ-kheo khất thực vào xóm làng
Tâm ý loạn động không chánh niệm
Thấy Phật tinh tấn, thu nhiếp căn
Thế nên Đức Phật khen lành thay.

20. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở nơi vườn Lộc dã, chỗ ngự của Tiên nhân xưa, thuộc nước Ba-la-nại.

Bấy giờ Đức Thế Tôn đắp y cầm bát vào thành khất thực. Có một Tỳ-kheo ở bên miếu Thiên thần, tâm niệm hướng đến những tiếp xúc xấu ác, trong tâm cảm thọ dục lạc. Đức Thế Tôn bảo Tỳ-kheo:

–Này Tỳ-kheo, này Tỳ-kheo! Ông đang trồng hạt giống khổ, rất là ô uế, các căn tiết ra điều ác, nơi có nước ác rỉ ra thì có ruồi lằn tụ tập.

Khi Tỳ-kheo nghe lời Đức Phật nói, biết Đức Thế Tôn đã rõ tâm niệm của mình nên rất sợ hãi, toàn thân nổi gai ốc, vội vàng bỏ đi.

Sau khi khất thực, Đức Phật trở về, thọ trai xong, rửa chân, đến chỗ ở chư Tăng, vào phòng yên tịnh ngồi. Sau đó Ngài ra khỏi phòng, đến trước chúng Tăng, trải tọa cụ ngồi, bảo các Tỳ-kheo:

–Sáng nay, Ta vào thành khất thực, thấy một Tỳ-kheo ở bên cạnh miếu thờ trời, tâm niệm hướng đến các mối tiếp xúc xấu ác, trong tâm cảm thọ dục lạc. Ta liền bảo: “Tỳ-kheo, Tỳ-kheo! Ông đang trồng hạt giống khổ, rất là ô uế, các căn tiết ra điều ác, nơi có nước rỉ ra thì có ruồi lằn tụ tập”. Khi Tỳ-kheo ấy nghe Ta nói, rất sợ hãi, toàn thân nổi gai ốc, vội vàng bỏ đi.

Đức Phật nói như vậy, có một Tỳ-kheo rời chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, tại sao gọi là trồng hạt giống khổ, tại sao gọi là ô uế, tại sao gọi là lậu ác, tại sao gọi là ruồi lằn tụ tập?

Đức Phật dạy:

–Lắng nghe! Lắng nghe! Ta sẽ giảng cho ông. Sân giận, hiềm khích, mưu hại là trồng hạt giống khổ. Buông lung tâm theo năm dục là ô uế. Theo sáu xúc xứ, không giữ giới hạnh gọi là rỉ chảy điều ác. Sống trong phiền não, dấy khởi vô minh kiêu mạn, không hổ, không thẹn, phát sanh các kết sử, gọi là ruồi lằn tụ tập.

Thế Tôn nói kệ:

Người nào không thu nhiếp các căn
Tăng trưởng ái dục trồng hạt khổ
Làm các ô uế thường chảy ra
Thân cận dục cảm và não hại.
Ở tại làng xóm hay chỗ vắng
Tâm không khi nào nghĩ dục lạc
Tự thân tinh tấn hành chánh định
Tụ tập thông đạt đắc ba minh.
Vị ấy an lạc và yên định
Diệt ruồi ác giác không còn gì
Tu hành đạt đến không thoái chuyển
Đi trên đường Thánh đến chỗ thiện.
Đắc quả chánh trí, không trở lại
Thẳng vào Niết-bàn, vui tịch diệt.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe xong đều hoan hỷ phụng hành.

21. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Có một Tỳ-kheo đắp y cầm bát vào thành khất thực. Sau khi thọ trai, vị ấy trở về, rửa chân, cầm tọa cụ đi vào rừng Đắc nhãn, trải tọa cụ ngồi bên một gốc cây, phát sanh ý niệm về những tiếp xúc xấu ác, tham muốn năm dục.

Vị thần rừng Đắc nhãn biết tâm niệm của Tỳ-kheo ấy đang nghĩ đến điều bất tịnh, đã ở trong rừng này thì không nên tham muốn điều ác. Vị thần tự nghĩ: “Ta nên cảnh tỉnh vị ấy” liền lên tiếng: –Này Tỳ-kheo, này Tỳ-kheo! Làm sao trị vết thương?

Tỳ-kheo đáp:

–Ta sẽ băng lại.

Thần rừng lại nói:

–Vết thương như cái bình, thì lấy gì băng lại?

Tỳ-kheo đáp:

–Tôi dùng chánh niệm tỉnh giác để băng vết thương ấy.

Thần rừng tán thán:

–Lành thay! Lành thay! Thầy giỏi biết cách băng vết thương, băng vết thương đúng cách.

Đức Phật với thiên nhĩ thanh tịnh, nghe thần rừng cùng Tỳ-kheo nói chuyện. Thế Tôn nói kệ:

Thế gian khát dục
Làm theo ý tà
Vết thương đã sanh
Ruồi lằn bu đến
Tham dục là ghẻ
Tiếp xúc là ruồi
Ngã mạn theo tham
Tâm trượng phu nát
Tham danh và lợi
Trói trong hoặc, nghi
Không biết đường thoát
Nội tâm tu định
Học hành thông suốt
Không tạo ghẻ lở
An ổn giác ngộ
Chứng được Niết-bàn.

Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

22. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ có nhiều Tỳ-kheo đắp y cầm bát vào thành khất thực. Có một Tỳ-kheo trẻ tuổi mới tu học, đi vào làng xóm không đúng lúc. Các Tỳ-kheo ở các nơi thấy Tỳ-kheo mới tu học kia, bảo vị ấy:

–Ông mới tu học, chưa biết pháp môn đối trị, vì sao la cà đến nhiều nhà vậy?

Tỳ-kheo tân học bạch với các Tỳ-kheo: –Các Thượng tọa, Đại đức đều đến nhiều nhà, tại sao ngăn không cho con đến những nhà ấy?

Sau khi các Tỳ-kheo khất thực, thọ trai xong, xếp y bát, rửa chân, đến chỗ Phật, lạy sát chân Ngài, ngồi qua một bên. Họ bạch Thế Tôn: –Bạch Thế Tôn, chúng con vào thành khất thực, thấy một tân Tỳ-kheo trẻ tuổi, chẳng kể ngày giờ, lui tới nhiều nhà. Chúng con bảo vị ấy: “Ông là tân học, chưa biết pháp đối trị, vì nhân duyên gì lui tới nhà người khác lúc phi thời?”. Vị ấy trả lời: “Các Trưởng lão Tỳ-kheo cũng đến nhiều nhà, tại sao ngăn cản riêng con?”.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

–Trong đồng trống mênh mông có một hồ nước rộng. Có những voi lớn vào trong hồ, dùng vòi nhổ ngó, rễ sen, giũ cho sạch, dùng nước rửa, sau đó mới ăn, nhờ vậy thân thể mập mạnh, khí lực sung mãn. Những con voi nhỏ cũng ăn ngó sen, nhưng không biết giũ sạch và dùng nước rửa. Chúng ăn cả ngó lẫn bùn nên bị bệnh hoạn, không còn sức lực, bị chết hay gần chết.

Thế Tôn nói kệ:

Khi voi lớn vào hồ
Dùng vòi nhổ ngó sen
Giũ, rửa sạch hết bùn
Sau đó mới chịu ăn.
Nếu có các Tỳ-kheo
Tu nhiều pháp thanh tịnh
Nếu thọ dụng lợi dưỡng
Không lỗi bị nhiễm đắm.
Đây là bậc tu hành
Cũng như voi lớn kia
Nếu không hiểu phương tiện
Sau phải chịu nguy hiểm
Sau phải chịu khổ não
Như các chú voi con.

Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

Kệ tóm lược:

A-nan và Kết phát
Cùng với hai, Đà-phiêu
Tặc và tán đảo thác
Bạt-di, tàm quý căn
Hạt khổ và băng lở
Lớn nhỏ ăn ngó sen.

QUYỂN 2

TỤNG 1: PHẦN 2

23. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong khu Hàn lâm (rừng lạnh) thuộc thành Vương xá.

Bấy giờ Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Tuổi thọ loài người ngắn ngủi, hội họp phải chia ly, nên phải siêng năng hành đạo, tịnh tu phạm hạnh. Vậy các ông không được biếng nhác, phải tu hạnh thiện, tu đúng pháp nghĩa, hành động chân chính. Khi đó Ma vương nghe lời dạy này, tự nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm ở nơi rừng lạnh thuộc thành Vương xá, đang giảng dạy pháp quan trọng cho các Thanh văn. Ta phải đến đó để quấy nhiễu”. Ma vương nghĩ như thế rồi bèn hóa ra một thanh niên, đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài, đứng qua một bên, nói kệ:

Đời người quá dài
Không có khổ não
Thường được an ổn
Đường chết không có.

Đức Phật biết Ma vương Ba-tuần đến quấy nhiễu, nên nói kệ:

Đời người ngắn ngủi
Khổ hại quá nhiều
Hãy mau tu thiện
Như cứu đầu cháy
Nên biết Ba-tuần
Muốn đến quấy nhiễu.

Ma vương nghe Phật nói kệ, tự nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm đã biết tâm niệm của ta”. Ma vương sanh tâm hối hận ưu sầu khổ não, liền biến mất trở về Thiên cung.

24. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu Hàn lâm thuộc thành Vương xá.

Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

–Các hành vô thường, qua nhanh không ngừng, là pháp hư hoại, không thể nương nhờ, cần phải thoát ly mau, hướng đến đường giải thoát.

Ma vương Ba-tuần tự nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm đang ở nơi rừng lạnh thuộc thành Vương xá, thuyết pháp như vậy cho các Thanh văn. Ta nên đến đó để quấy nhiễu.” Ma vương nghĩ thế rồi, bèn hóa ra một thanh niên, đến chỗ Phật, đứng một bên, nói kệ:

Ngày đêm vẫn vậy
Mạng sống trở lại
Như bánh xe quay
Chuyển vận không ngừng.

Phật biết Ma vương quấy nhiễu, nên nói kệ:

Mạng theo ngày đêm chết
Đời sống nhiều nguy nan
Như dòng sông quá nhỏ
Mau cạn không còn gì
Thế nên này Ba-tuần,
Không được gây nhiễu loạn.

Ma tự nghĩ: “Đức Phật đã biết tâm ta”. Ma liền ưu sầu, khổ não, hối hận, biến mất, trở về Thiên cung.

25. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà thuộc thành Vương xá.

Bấy giờ là nửa đêm về sáng, Đức Thế Tôn đang kinh hành trong rừng. Khi trời gần sáng, Ngài rửa chân, vững thân ngồi ngay thẳng, đặt niệm trước mặt.

Ma vương tự nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm ở tại vườn trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá, nửa đêm về sáng, kinh hành trong rừng. Sáng sớm, vị Sa-môn ấy rửa chân, vào tịnh thất, ngồi ngay thẳng, đặt niệm trước mặt. Nay ta hãy đến đó quấy nhiễu”. Ma vương nghĩ xong liền hóa ra một thanh niên, đứng trước Phật, nói kệ:

Tâm ta biến hóa được
Lưới trùm khắp hư không
Sa-môn gặp phải ta
Không thể nào giải thoát.

Đức Phật biết Ma đến nhiễu loạn, nên nói kệ:

Thế gian có năm dục
Kẻ ngu bị chúng trói
Đoạn sạch các dục này
Vĩnh viễn không còn khổ
Ta đã đoạn hết dục
Ý không còn nhiễm đắm
Ba-tuần ngươi nên biết
Ta phá lưới dục rồi.

Ma vương nghe Phật nói kệ này, tâm rất ưu sầu khổ não vì không đạt ý nguyện, bèn biến hình trở về Thiên cung.

26. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá.

Vào nửa đêm về sáng, Đức Thế Tôn tọa thiền rồi kinh hành. Gần sáng Ngài rửa chân đi vào phòng, nằm nghiêng bên hông phải, hai chân xếp lên nhau, hướng tâm đến ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, tưởng đến lúc thức dậy.

Ma vương Ba-tuần tự nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm ở tại vườn trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá, kinh hành, ngồi nằm, lúc sáng sớm rửa chân vào phòng, nằm nghiêng bên phải, hai chân xếp lên nhau, hướng tâm đến ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, tưởng đến lúc thức dậy. Ta nên tới đó gây nhiễu loạn”. Ma vương nghĩ xong, bèn hóa ra một thanh niên, ở trước Phật, nói kệ:

Sao ngủ như vậy
Sao ngủ như vậy
Vì sao còn ngủ?
Như vào tịch diệt
Đã xong việc chưa?
Mà an lòng ngủ?
Đến khi trời sáng
Vẫn còn nằm ngủ!

Đức Phật biết Thiên ma đến gây nhiễu loạn, nên nói kệ:

Lưới ái nhốt chúng sanh
Che khắp hết mọi nơi
Nay ta phá lưới này
Đoạn trừ hẳn các ái
Diệt tận hết sanh hữu
An ổn vui Niết-bàn
Này Ma vương Ba-tuần
Ngươi làm được gì Ta?

Khi Ma vương nghe kệ xong, ưu sầu khổ não, liền biến mất, trở về Thiên cung.

27. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật, thuộc thành Vương xá, gặp lúc trời mưa lâm râm, sấm chớp chiếu sáng khắp nơi. Vào đêm ấy, Đức Phật đi kinh hành ngoài đất trống.

Ma vương Ba-tuần tự nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm ở trong núi Kỳ-xà-quật, thuộc thành Vương xá, vào ban đêm trời mưa lâm râm, sấm chớp lòe sáng khắp nơi, vị ấy đang kinh hành ngoài đất trống. Ta nên đến đó quấy nhiễu”. Ma vương nghĩ như thế rồi bèn ở trên núi, xô tảng đá lăn xuống đến gần chỗ Thế Tôn. Bấy giờ tảng đá lớn kia, tự nhiên tan nát.

Thế Tôn nói kệ:

Dầu ngươi phá Linh thứu
Tan nát như hạt bụi,
Làm biển lớn, đại địa,
Đều khô cạn, nát tan,
Muốn bậc chánh giải thoát
Sanh ý nghĩ sợ hãi,
Hay khiến cho giật mình
Không thể nào làm được.

Lúc ấy Ma vương tự nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm đã biết tâm niệm của ta”, nên ưu sầu khổ não, liền biến mất trở về Thiên cung.

28. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật, thuộc thành Vương xá. Vào khoảng nửa đêm, Đức Thế Tôn đang kinh hành nơi đất trống. Sau đó Ngài rửa chân, vào tịnh thất, chánh thân ngồi ngay, đặt niệm trước mặt.

Ma vương Ba-tuần tự nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm ở trong núi Kỳ-xà-quật thuộc thành Vương xá, đang kinh hành trên đất trống. Ta nên đến đó quấy nhiễu!”. Ma vương liền biến thành con mãng xà, thân hình dài lớn, như chiếc thuyền to, hai mắt sáng rực như cái bát nước Kiểu-tát-la, le lưỡi như lửa cháy, như chớp sáng, hơi thở vào ra như tiếng sấm lớn, ngay ở trước Phật, quấn lấy Ngài, cất đầu giơ cao cổ, phủ trên đầu Đức Phật.

Thế Tôn biết Ma quấy nhiễu nên nói kệ:

Ta sống nơi tịch tĩnh
Nhất tâm chánh giải thoát,
Thiền định, thân tu hành
Như pháp Phật quá khứ
Rắn độc rất hung dữ
Hình dạng thật đáng sợ
Muỗi, ruồi, bọ chét, rận
Những xúc não như vậy,
Không động sợi lông Ta,
Huống chi làm Ta sợ.
Giả sử hư không nứt
Trời đất đều chấn động
Tất cả các chúng sanh
Đều sanh tâm hãi hùng,
Nhưng muốn Ta kinh sợ,
Không thể nào làm được.
Giả sử có tên độc
Bắn trúng vào tim Ta,
Ngay khi bị tên độc
Cũng không cầu cứu giúp
Nhưng loại tên độc ấy
Không thể nào trúng Ta.

Ma vương nghe Phật nói kệ, tự nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm đã biết tâm ta!” nên Ma sanh tâm sợ hãi, ưu sầu, hối hận, biến mất, trở về Thiên cung.

29. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở nơi rừng Mạn trực, thuộc thành Vương xá. Vào đầu đêm, Đức Phật tọa thiền, kinh hành, giữa đêm rửa chân rồi vào phòng, nằm nghiêng bên phải, hai chân gác lên nhau, đặt tâm ở ánh sáng, nghĩ đến khi thức dậy.

Ma vương Ba-tuần biết tâm Phật, tự nghĩ: “Samôn Cù-đàm ở trong rừng Mạn trực, thuộc thành Vương xá, vào đầu đêm tọa thiền, kinh hành, đến trước giữa đêm thì rửa chân, vào phòng, nằm nghiêng bên phải, hai chân xếp lên nhau, đặt tâm ở ánh sáng, nghĩ đến khi thức dậy. Ta hãy đến đó quấy nhiễu!”

Bấy giờ Ma vương hóa ra một thanh niên, đến trước Như Lai, nói kệ:

Tại sao không làm việc
Lại nằm dài ngủ nghỉ
Ngủ mãi không thức dậy
Nào khác gì người say.
Người không tiền, thất nghiệp,
Mới rảnh rỗi ngủ vùi
Người sản nghiệp đầy đủ
Cũng thích thú ngủ nghỉ.

Bấy giờ Thế Tôn biết Ma đến quấy nhiễu, nói kệ:

Ta chẳng ở không, ngủ
Cũng chẳng phải ngủ say
Ta không có tài sản
Vì thế nên ngủ nghỉ
Ta có nhiều pháp tài
Thế nên ta ngủ yên
Ta ngay trong khi ngủ
Niệm hơi thở vào ra
Đều có nhiều lợi ích
Chưa từng bị tổn giảm
Nghỉ thì không lo lắng
Ngủ yên không sợ hãi
Ví như có tên độc
Người bị bắn vào tim
Thường chịu nhiều đau khổ
Vẫn tìm được giấc ngủ
Ta đã nhổ tên độc
Vì sao lại không ngủ?!

Ma nghe kệ ấy, tự nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm đã biết tâm ta”. Tâm ma buồn bã áo não, bèn trở về Thiên cung.

30. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở nơi hang Thất diệp, trong núi Tỳ-bà-ba-thế, thuộc thành Vương xá. Có một Tỳ-kheo tên Cầu Đức ở một mình trong hang đá đen, núi Tiên, sống nơi yên tịnh, siêng năng tinh tấn, dứt mọi phóng dật, đoạn trừ ngã kiến, một thời gian đạt giải thoát, tự thân chứng đắc, rồi lại bị thoái thất, lần thứ hai, thứ ba cho đến lần thứ sáu, cũng bị thoái thất.

Tỳ-kheo tự nghĩ: “Hiện nay ta sống một mình, tu hành tinh tấn, đã sáu lần bị thoái thất. Nếu ta bị thoái thất nữa thì sẽ tự sát bằng dao”.

Ma vương Ba-tuần biết Đức Phật ở trong hang Thất diệp, núi Tỳ-bà-ba-thế, thuộc thành Vương xá và đệ tử của Sa-môn Cù-đàm tên là Cầu Đức ở một mình trong hang đá đen, núi Tiên, thành Vương xá, tu hành tinh tấn, tâm không phóng dật, một thời được giải thoát, tụ thân tác chứng, đắc rồi lại thoái, như vậy đến sáu lần.

Ma vương tự nghĩ: “Nếu Tỳ-kheo Cầu Đức vào lần thứ bảy chứng đắc được, thì ta bị tổn hại”.

Ma vương nghĩ thế, ra khỏi cảnh giới Ma, ôm đàn lưu ly đến chỗ Phật, gảy đàn xướng kệ:

Đại trí, đại tinh tấn
Có thần thông lớn lao
Được tự tại trong pháp
Hào quang rất rực rỡ
Thanh văn đệ tử Ngài
Nay đang muốn tự sát
Bậc Tối Thượng Thế Gian
Xin hãy mau ngăn lại
Vì sao tu pháp Ngài
Không chứng, lại muốn chết?

Khi Ma vương nói kệ xong, Đức Phật bảo Ma vương:

–Này Ba-tuần, ngươi là bạn thân lớn của những kẻ phóng dật. Lời ngươi nói là theo ý riêng, chớ không vì vị Tỳ-kheo kia mà nói. Thế Tôn đọc kệ:

Người nào không khiếp nhược
Tinh tấn vững tu hành
Thường vui nơi thiền định
Ngày đêm tu pháp thiện
Làm khô kiệt ái dục
Phá ma quân của ngươi
Nay bỏ thân cuối này
Vĩnh viễn nhập Niết-bàn.

Bấy giờ Ma vương ưu sầu khổ não bỏ đàn lưu ly, buồn bã hối hận, trở về Thiên cung.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Ta cùng các ông đến núi Tiên nhân, chỗ Tỳ-kheo Cầu Đức.

Đức Phật đưa các Tỳ-kheo đến chỗ Cầu Đức, thấy bên thi thể của Cầu Đức có đám khói tụ ở phương Đông, Ngài bảo các Tỳ-kheo: –Các ông thấy đám khói này không? Các Tỳ-kheo thưa:

–Bạch Thế Tôn, thấy. Ở phía Nam, Tây, Bắc thi thể của Cầu Đức cũng có khói tụ như vậy.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Đấy là Ba-tuần biến hình bao quanh chỗ Cầu Đức, tìm tâm thức của vị ấy.

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

–Tỳ-kheo Cầu Đức đã nhập Niết-bàn, không có thần thức, không đến phương nào cả.

Ma vương biến hình là một thanh niên, nói kệ:

Trên dưới và bốn phương
Tìm cầu thức Cầu Đức
Không biết đi về đâu
Thần thức vào chốn nào.

Thế Tôn nói với Ba-tuần: –Bậc trượng phu này, phá tan các thứ ma quân của ngươi, đã vào Niết-bàn.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

31. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở xóm Ưu-lâu-tần-loa, bên bờ sông Ni-liên-thiền, cạnh cây Bồ-đề, sau khi Ngài thành đạo chưa bao lâu.

Ma vương tự nghĩ: “Đức Phật đang ở dưới bóng cây Bồ-đề, bên bờ sông Ni-liên, thuộc xóm Ưu-lâu-tần-loa, thành đạo chưa bao lâu. Ta nên đến đó tìm lỗi lầm của vị ấy”. Nghĩ thế rồi, Ma vương đến chỗ Phật, nói kệ:

Ngài một mình chỗ vắng
Im lặng thường tịch tĩnh
Thân tâm luôn rạng ngời
Các căn đều hỷ lạc.
Như người mất tài sản
Sau đó tìm lại được
Nay Ngài hưởng thiền định
Hoan hỷ cũng như vậy.
Đã từ bỏ ngôi vua
Lại không mong danh lợi
Sao không cùng mọi người
Cùng nhau kết bạn thân.

Thế Tôn nói kệ đáp:

Ta đã đắc thiền định
Tâm Ta thường tịch tĩnh
Phá ma dục của ngươi
Đạt pháp tài vô thượng
Các căn ta điềm đạm
Trong lòng được lặng không
Phá ma dục ngươi rồi
Tu hành ý hoan hỷ
Một mình lìa ồn ào
Kết bạn thân làm chi?

Ma vương nói kệ:

Ngài đã đạt chánh đạo
An ổn hướng Niết-bàn
Đã chứng đắc diệu pháp
Nên giữ kín trong lòng
Cần phải độc quyền biết
Sao lại dạy cho người?

Thế Tôn nói kệ:

Những người không theo Ma
Hỏi Ta pháp bờ kia
Ta vì họ phân biệt
Sự thật để diệt khổ
Giữ tâm, không phóng dật
Ma không tìm được lỗi.

Ma vương lại nói kệ:

Ví như núi đá trắng
Màu sắc như cục mỡ
Bọn quạ không biết rõ
Bay đến để mổ ăn
Đã không được vị gì
Dập mỏ trở về không
Ta nay cũng như vậy
Mệt nhọc chẳng được gì.

Bấy giờ Ma vương nói kệ ấy xong, ưu sầu khổ não, rất hối hận, bèn đến một chỗ trống, ngồi chồm hổm, cầm mũi tên vẽ trên đất, suy tìm mưu kế.

Khi ấy ba người con gái của Ma, một tên Cực Ái, hai tên Duyệt Bỉ, ba tên Thích Ý. Ba Ma nữ này đến bên cha, nói kệ:

Cha nay là Trượng phu
Vì sao lòng ưu sầu?
Con sẽ dùng bẫy dục
Bẩy như thể bắt chim
Đem đến giao cho cha
Tùy ý cha sử dụng.

Ma vương nói kệ đáp:

Vị ấy khéo đoạn dục
Dục không thể lôi kéo
Đã vượt cảnh giới ma
Thế nên ta sầu khổ.

Ba Ma nữ kia biến ra hình dáng rất xinh đẹp, đến chỗ Phật, lạy sát chân Ngài, đứng qua một bên. Ba cô gái đồng lên tiếng bạch Phật:

–Chúng con đến đây để cúng dường và xin hầu hạ Ngài.

Bấy giờ Đức Thế Tôn đã chứng đắc vô thượng, đoạn sạch ái dục, nên không để ý đến. Lần thứ hai, lần thứ ba, họ cũng thưa như vậy, Đức Phật vẫn không ngó ngàng tới.

Ba Ma nữ, lùi lại một chỗ, bàn luận với nhau:

–Phàm đàn ông, sở thích khác nhau, hoặc yêu người nhỏ, hoặc yêu người vừa, hoặc yêu người lớn.

Thế rồi, một ma nữ hóa ra sáu trăm người nữ, có cả gái còn nhỏ, đồng nữ, thiếu nữ, gái vừa lấy chồng, gái đã có con, gái chưa có con. Nhiều hạng nữ nhân được hóa ra như vậy, cùng đến chỗ Phật, bạch với Ngài:

–Thế Tôn, chúng con đến đây cúng dường Đức Thế Tôn và xin được gần gũi hầu hạ, tùy Ngài sai khiến.

Đức Phật không để ý tới. Lần thứ hai, thứ ba cũng nói như vậy, Ngài đều không chút bận tâm.

Lúc ấy các Ma nữ lại lui về một chỗ, bàn luận với nhau: “Vị này chắc đã đắc quả vô thượng, đoạn ái dục, chứng giải thoát. Nếu chẳng như vậy thì khi thấy chúng ta, ắt phải cuồng loạn tâm ý mê muội. Chúng ta nên đến chỗ vị ấy, nói kệ để vấn nạn:

Ma nữ Cực Ái nói kệ:

Ngồi đoan chính bên cây
Yên tĩnh tự tư duy
Là vì mất tài sản
Hay muốn tài sản lớn
Trong thành phố, xóm làng
Đều không tâm ái, vướng
Sao không cùng mọi người
Cùng nhau kết bạn thân?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Ta được nhiều tài sản
Trong tâm luôn tịch diệt
Ta phá quân ái dục
Không vướng sắc trần nào
Tọa thiền riêng một mình
Hưởng an lạc đệ nhất
Vì nhân duyên như vậy
Không cần đến bạn bè.

Ma nữ Thích Ý lại nói kệ:

Tỳ-kheo trú chốn nào
Vượt qua năm dòng thác
Dòng thứ sáu cũng qua
Nhập nẻo thiền định nào
Vượt dục đến bờ kia
Vĩnh viễn thoát trói buộc?

Thế Tôn nói kệ:

Thân được vui khinh an
Tâm luôn đạt giải thoát
Tâm xa lìa nẻo nghiệp
Ý không còn thoái chuyển
Đoạn giác quán chứng thiền
Xa lìa sân, dục, động
An trú vào chốn ấy
Vượt được năm dòng chảy
Và vượt dòng thứ sáu
Tu pháp tọa thiền này
Vượt qua lưới dục lớn
Và thoát hẳn bể khổ.

Ma nữ Duyệt Bỉ nói kệ:

Đã đoạn trừ ái kết
Xa lìa những buộc ràng
Có nhiều người mong muốn
Vượt dòng chảy, bờ chết,
Chỉ có bậc Trí tuệ
Vượt qua những nạn này.

Thế Tôn lại nói kệ:

Đại tinh tấn Như Lai
Dùng chánh pháp cứu độ
Như pháp đạt giải thoát
Người trí rất vui mừng.

Ba Ma nữ không đạt ước nguyện, trở về chỗ cha. Ma vương mắng ba Ma nữ bằng kệ:

Ba gái ma phá Phật
Hình dáng nhanh như điện
Gặp Bậc Đại Tinh Tấn
Như tơ bị gió thổi,
Dùng móng tay phá núi,
Lấy răng cắn sắt cục,
Trẻ ngu dùng tơ sen
Muốn treo hòn núi lớn.
Phật vượt các ràng buộc
Muốn tranh luận với Ngài
Như lấy bẫy bắt gió
Muốn hạ trăng xuống đất
Lấy tay tát biển lớn
Hy vọng biển cạn khô.
Phật đã lìa tham vướng
Muốn đến cùng tranh luận
Như nhảy qua Tu-di
Tìm đất trong biển lớn
Phật đã đắc giải thoát
Làm sao đến tranh luận.

Ma vương ưu sầu hối hận, liền biến mất, trở về Thiên cung.

32. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong núi Linh thứu, thuộc thành Vương xá. Đức Phật vì các Tỳ-kheo mà tán thán pháp Niết-bàn.

Ma vương tự nghĩ: “Đức Phật ở thành Vương xá vì các Tỳ-kheo mà tán thán pháp Niết-bàn. Ta hãy đến đó quấy nhiễu.” Nghĩ thế xong, Ma vương bèn biến hóa thành một trăm người, năm mươi người rất đẹp, năm mươi người rất xấu.

Các Tỳ-kheo trông thấy rất kinh ngạc, vì sao kẻ rất xinh đẹp, người lại quá xấu xí.

Đức Phật biết Ma đến muốn quấy nhiễu nên bảo Ba-tuần:

–Ngươi ở mãi trong đêm dài sanh tử, mang đủ những hình dáng đẹp xấu như vậy rồi. Ngươi phải làm thế nào để vượt qua bờ khổ, biến hóa như vậy thì có ích gì? Ai có tham ái với nam hay nữ, ngươi nên biến hóa những hình tướng ấy cho họ. Ta không còn tưởng về nam hay nữ, ngươi biến hóa những hình tướng như thế để làm gì? Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

Kệ tóm lược:

Trường thọ, hà đế và quyến cương
Thùy miên, kinh hành, đại độc xà
Vô sở vi, Cầu Đức, ma nữ
Hoại loạn biến hình và hảo ố.

33. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Kiên trì bảy hạnh thì đạt được địa vị Đế Thích. Tại sao? Ngày xưa khi Đế Thích còn làm người, khởi đầu tu tập, hiếu thuận với cha mẹ, cung kính bậc Tôn trưởng, nói lời nhu hòa, không nói hai lưỡi, ưa bố thí không tham lam keo kiệt, thường nói lời chân thật không dối trá, không sân hận, nếu sanh giận hờn thì liền suy nghĩ để từ bỏ.

Thế Tôn nói kệ:

Đối với cha mẹ
Hiếu thuận hết lòng
Đối với Tôn trưởng
Ý rất kính trọng
Nói lời nhu hòa
Hiền thiện tốt đẹp
Từ bỏ hai lưỡi
Xan tham sân giận
Trời Tam thập tam
Đều bày tỏ rằng
Người tu hạnh ấy
Chúng ta không bằng
Nên để riêng ngài
Tôn làm Thiên chủ.

Đức Phật giảng như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

34. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong đại giảng đường bên bờ hồ Di-hầu, thuộc nước Tỳ-xá-ly.

Có một Ly-xa tên Ma-ha-ly, đến chỗ Phật, lạy dưới chân Ngài, ngồi qua một bên, bạch:

–Thưa Thế Tôn, Ngài có bao giờ gặp Đế Thích chưa?

Đức Phật đáp:

–Ta có thấy.

Ly-xa lại thưa:

–Có quỷ Dạ-xoa hình dạng như Đế Thích. Vị mà Thế Tôn thấy phải chăng là quỷ Dạ-xoa kia?

Đức Phật bảo Ly-xa:

–Chính là Đế Thích, Ta biết rõ vị ấy. Dạ-xoa có hình dạng như Đế Thích, Ta cũng biết rõ. Hành động và việc đã làm của Đế Thích, Ta đều biết rõ. Khi Đế Thích còn là người, rất hiếu thuận với cha mẹ, cung kính các bậc Tôn trưởng, nói lời nhu hòa, không nói hai lưỡi, trừ bỏ tham lam keo kiệt, thường thích bố thí, nói lời chân thật, đoạn trừ sân si, không sanh hận thù.

Thế Tôn nói kệ:

Đối với Cha mẹ
Hết sức hiếu thuận
Thân tâm cung kính
Với các Tôn trưởng
Lời nói nhu hòa
Hiền thiện tốt đẹp
Không nói hai lưỡi
Xan tham sân hận
Trời Tam thập tam

Đều tán dương rằng:

Vị hành giả này
Chúng ta không bằng
Phải mời riêng ngài
Tôn làm vua trời.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

35. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Có một Tỳ-kheo đến chỗ Phật, lạy dưới chân Ngài, đứng qua một bên, thưa:

–Bạch Thế Tôn, vì sao gọi là Đế Thích? Làm gì để trở thành Đế Thích?

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

–Đế Thích trước đây cũng là người, có bố thí, sanh tâm thuần tín, bố thí thức ăn uống, các món ăn ngon, các loại vòng hoa, các loại hương thơm, hương đốt, hương xoa, tài sản, vải vóc, giường nằm ngồi, do nhân duyên này nên chư Thiên gọi vị ấy là Đế Thích.

Có Tỳ-kheo bạch Phật:

–Tại sao Đế Thích có tên là Phú-lan-đản-na? Phật bảo Tỳ-kheo:

–Ngày xưa khi Đế Thích còn là người đã thực hành bố thí không hạn chế, bố thí luôn luôn, nên chư Thiên gọi là Phú-lan-đản-na.

Hỏi:

–Tại sao Đế Thích có tên là Ma-khư-bà?

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

–Ngày xưa, Đế Thích là vị Bà-la-môn tên là Ma-khư-bà. Hỏi:

–Vì nhân duyên gì Đế Thích tên là Bà-sa-bà?

Phật dạy:

–Vị ấy luôn luôn đem y phục bố thí cho Samôn, Bà-la-môn, vì nhân duyên này nên có tên Bà-sa-bà. Hỏi:

–Vì nhân duyên gì Đế Thích tên Kiều-thi-ca?

Phật dạy:

–Khi Đế Thích còn làm người, thuộc họ Kiềuthi-ca nên tên là Kiều-thi-ca.

Hỏi: –Vì nhân duyên gì Đế Thích tên là chồng của Xá-chỉ?

Phật dạy:

–Đế Thích cưới Vương nữ của vua A-tu-la Tỳma-chất-đa-la, nên tên là chồng của Xá-chỉ.

Hỏi:

–Vì nhân duyên gì Đế Thích tên là Ngàn mắt? Phật dạy:

–Khi Đế Thích còn là người, hết sức sáng suốt, xét đoán sự việc chỉ trong thời gian rất ngắn, có khả năng xử đoán ngàn việc, vì nhân duyên này nên tên là Ngàn mắt.

Hỏi:

–Vì nhân duyên gì Đế Thích tên là Nhân-đàla? Phật dạy:

–Đế Thích ở ngôi vị vua trời, xử lý việc trời, nên gọi là Nhân-đà-la.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

–Vì đủ bảy nhân duyên trên nên chư Thiên gọi vị ấy là Đế Thích.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

36. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Ngày xưa có một Dạ-xoa, hình dáng bé nhỏ, nhan sắc xấu ác, thân hình đen thui, không ai ưa nhìn, ngồi trên ngai của Đế Thích. Chư Thiên cõi trời Tam thập tam thấy Dạ-xoa ấy ngồi trên ngai của Đế Thích, đều rất phẫn nộ nên mắng nhiếc đủ điều.

Bấy giờ Dạ-xoa, tướng xấu giảm bớt phát sanh tướng đẹp, dần dần to lớn hơn. Chư Thiên mắng chửi, phẫn nộ càng nhiều thì thân hình Dạ-xoa càng lớn, nhan sắc càng đẹp, càng dễ thương.

Chư Thiên cùng nhau đến chỗ Đế Thích, thưa:

–Có một Dạ-xoa quá xấu xí, thân hình rất nhỏ, ngồi trên ngai của Đế Thích. Chư Thiên chúng con cùng nhau hết sức mạ lỵ, thế mà tên Dạ-xoa ấy, nhan sắc trở nên xinh đẹp, thân hình dần dần to lớn.

Đế Thích bảo:

–Thật có loại Dạ-xoa, được mắng nhiếc càng nhiều, thân hình càng xinh đẹp, tên là “Được nuôi dưỡng bằng sự phẫn nộ của mọi người”.

Bấy giờ Đế Thích trở về, hướng đến chỗ ngồi của mình, mặc áo bày vai bên phải, tay bưng lò hương, nói với Dạ-xoa:

–Thưa Đại Tiên, tôi là Đế Thích. Tôi là Đế Thích.

Đế Thích ba lần xưng tên, Dạ-xoa nhỏ trở lại, hình sắc xấu dần, cho đến bị tiêu diệt mất.

Đế Thích ngồi lại trên ngai của mình, bảo chư Thiên:

–Từ đây về sau đừng sanh phẫn nộ. Nếu có tiếp xúc với điều xấu ác thì cẩn thận chớ nổi sân hận.

Đế Thích nói kệ:

Bị xâm phạm, khinh khi
Chớ có coi khinh lại
Với kẻ xâm hại mình
Đối họ bằng từ tâm.
Người không sân, không hại,
Thường nên thân gần gũi,
Họ là bậc Hiền thánh
Hay đệ tử Thánh hiền.
Những người hay nóng giận
Là bị núi giận ngăn
Khi dấy khởi lòng giận
Nên hạn chế tối thiểu
Đây gọi là pháp thiện
Như cương chế ngựa dữ.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Đế Thích ở địa vị vua trời, thọ hưởng các dục lạc, còn có thể chế ngự lòng giận, lại thường tán thán sự hạn chế được lòng sân hận, huống chi Tỳ-kheo các ông, tin nơi nhà thế tục chẳng phải là nhà thật nên lìa bỏ đi học đạo, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp y, mà không chế ngự lòng sân, tán thán việc bỏ lòng sân hay sao! Thế nên các Tỳ-kheo phải học như vậy.

Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

37. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào buổi sáng, Đức Phật mặc y, cầm bát vào thành khất thực. Sau khi thọ trai, Ngài rửa chân, cầm tọa cụ vào rừng Đắc Nhãn, xem xét khắp nơi, đến chỗ yên tịnh, ngồi kiết già bên gốc cây, trụ vào chánh định.

Bấy giờ, trong tinh xá Kỳ-đà có hai vị Tỳ-kheo, khi Tăng chúng xử đoán công việc, cùng nhau giận dữ tranh cãi. Một người im lặng nhẫn nhục. Một người phẫn nộ hung hăng. Người phẫn nộ tự thấy lỗi của mình, nên đến chỗ vị Tỳ-kheo im lặng nhẫn nhục, cầu xin sám hối.

Vị Tỳ-kheo im lặng nhẫn nhục kia không nhận sự sám hối ấy. Sự việc như vậy lan rộng, các Tỳ-kheo cùng nhau bàn luận, phát ra lời to tiếng lớn.

Đức Như Lai đang trụ trong thiền định, với thiên nhĩ thanh tịnh hơn hẳn mọi người, từ xa nghe âm thanh ấy, liền đứng dậy đi vào chỗ chúng Tăng.

Đến trước chư Tăng, Ngài trải tòa ngồi yên, bảo các Tỳ-kheo:

–Sáng nay, Ta mặc y, mang bát vào thành khất thực ... cho đến... ngồi yên trong rừng, nghe các Tỳ-kheo với lời to tiếng lớn, vì sự việc gì vậy?

Các Tỳ-kheo bạch Thế Tôn:

–Thưa Thế Tôn, trong tinh xá Kỳ-đà có hai Tỳ-kheo, khi Tăng xử đoán sự việc, cùng nhau sanh giận dữ tranh cãi. Một Tỳ-kheo tự im lặng nhẫn nhục, một Tỳ-kheo thì hung hăng nhiều lời. Tỳ-kheo giận dữ ấy tự biết lỗi mình nên trở lại chí thành sám hối. Vị Tỳ-kheo im lặng không chịu nhận cho sám hối. Các Tỳ-kheo cùng nhau bàn tán rộng ra, nên có lời to tiếng lớn.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Tại sao ngu si không nhận sự sám hối của người khác. Này các Tỳ-kheo, nên biết rằng ngày xưa, tại Thiện pháp đường, giữa chư Thiên, Thích Đề-hoàn Nhân đã nói kệ:

Ví như dùng vỏ bầu
Múc bơ để đốt đèn
Lửa bốc cháy bùng lên
Đốt luôn cả vỏ bầu.
Tâm sân cũng như vậy
Đốt trở lại thiện căn
Lòng ta không oán nộ
Sân đến liền tiêu tan.
Không như dòng nước chảy
Cuồn cuộn chảy vô cùng
Sân nhưng không ác khẩu
Không chạm sở đoản người.
Sở đoản như mạch máu
Ta không gây tổn thương,
Điều phục được tự thân
Là thành tựu tự lợi.
Người không sân, không hại
Bậc ấy là Thánh hiền
Hay đệ tử Hiền thánh
Phải thường thân cận họ.
Những kẻ có sân hận
Chướng ngại nặng như núi,
Khi phẫn nộ nổi lên
Ngăn chặn, còn rất ít
Đây gọi là nghiệp thiện
Như cương chế ngựa dữ.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Thích Đề-hoàn Nhân ở ngôi vị Thiên vương tự tại trong cõi trời, còn phải tu hành nhẫn nhục, tán thán sự nhẫn nhục, huống chi Tỳ-kheo các ông, xuất gia, bỏ hình thế tục mà lại không nhẫn và tán thán sự nhẫn nhục hay sao?

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

38. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Thế Tôn dạy các Tỳ-kheo:

–Ngày xưa, Thích Đề-hoàn Nhân thống lãnh chúng chư Thiên chuẩn bị giao chiến cùng A-tu-la.

Thích Đề-hoàn Nhân nói với vua A-tu-la là Tỳ-ma-chất-đa-la:

–Nay chúng ta chẳng cần đưa nhiều người làm hại lẫn nhau, chỉ cần biện luận để quyết định hơn thua.

Tỳ-ma-chất-đa-la bảo Thích Đề-hoàn Nhân:

–Này Kiều-thi-ca, chúng ta tranh luận, nếu có thắng thua, ai sẽ phân biệt được. Thích Đề-hoàn Nhân nói:

–Trong đám của chúng ta, như về A-tu-la cũng có người minh triết trí tuệ biện tài, có khả năng nhận thức thiện ác, quyết định hơn thua. Tỳ-ma-chất-đa nói:

–Này Đế Thích, ngươi hãy nói trước.

Đế Thích đáp:

–Ta có thể nói, nhưng ngươi là vị trời cũ, nên nói trước.

Tỳ-ma-chất-đa nói kệ:

Ta thấy lỗi của nhẫn
Ngu cho nhẫn là pháp
Họ sợ nên phải nhẫn
Lại cho mình là thắng.

Thích Đề-hoàn Nhân nói kệ:

Mặc ngươi nói là sợ
Tự lợi là thắng nhất
Của báu, các lợi khác
Không bằng người nhẫn nhục.

Tỳ-ma-chất-đa-la nói kệ:

Người ngu không trí tuệ
Nên cần phải ngăn chặn
Như bò đi ở sau
Chen lấn lên bò trước.
Thế nên cần dao gậy
Để khuất phục kẻ ngu.

Thích Đề-hoàn Nhân nói kệ:

Ta thấy chế phục ngu
Nhẫn nhục là tối thắng
Kẻ phẫn nộ hung tợn
Ta nhẫn họ hết giận.
Người không sân, không hại
Họ chính là Hiền thánh
Hay đệ tử Thánh hiền
Phải thường thân cận họ.
Người có nhiều sân hận
Sân nặng ngăn như núi
Khi phẫn nộ nổi lên
Ngăn chặn, còn chút ít
Đây gọi là nghiệp thiện
Như cương chế ngựa dữ.

Trong Thiên chúng và chúng A-tu-la, người có trí tuệ cùng nhau bàn luận rõ ràng, cân nhắc về việc thắng bại kia. Chủ thuyết của A-tu-la lấy việc tranh đấu làm cơ sở, còn chủ trương của Thích Đềhoàn Nhân là chấm dứt tranh cãi, tâm không phẫn nộ, đánh nhau. Thế nên A-tu-la thua, Thích Đềhoàn Nhân thắng.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Thích Đề-hoàn Nhân tự tại trong thiên giới, luôn luôn nhẫn nhục, tán thán pháp nhẫn nhục. Tỳ-kheo các ông nếu tự mình nhẫn nhục, tán thán người nhẫn nhục, mới xứng đáng với việc xuất gia.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

39. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

Ngày xưa Thích Đề-hoàn Nhân và A-tu-la sắp đánh nhau. Sau khi chuẩn bị xong, Thích Đề-hoàn Nhân bảo chư Thiên:

–Chư Thiên chúng ta, nếu đắc thắng phải dùng năm sợi dây trói A-tu-la đem về Thiên cung.

Bấy giờ vua A-tu-la cũng ra lệnh cho chúng của mình:

–Nếu chúng ta thắng, dùng năm sợi dây trói Thích Đề-hoàn Nhân đem về cung A-tu-la.

Lúc thấy Đế Thích, Tỳ-ma-chất-đa tức giận mắng nhiếc, phát ra lời nói rất xấu ác.

Đế Thích nghe lời mắng nhiếc ấy thì chỉ im lặng không hề mắng lại.

Người đánh xe là Ma-đắc-già nói kệ:

Này chồng Thích Chỉ Ma khư-bà
Thiên chủ vì sợ hay không sức
Tỳ ma-chất-đa mắng ngay mặt
Bằng lời rất ác, sao vẫn nhẫn?!

Thích Đề-hoàn Nhân đáp kệ:

Ta vì nhẫn nhục chứ không sợ
Cũng chẳng phải ta không tài sức
Mà sợ Tỳ-ma-chất-đa-la
Ta dùng thắng trí tự tu nhẫn
Kẻ ngu trí thức cạn không bằng
Nên thường tranh tụng tâm không yên
Nếu ta dùng sức cấm chế người
Khác nào đồng hạng với kẻ ngu.

Người đánh xe lại nói kệ:

Trẻ ngu hay phóng túng
Tăng trưởng mạnh không ngừng
Như bò đi ở sau
Lấn lên bò phía trước
Người mạnh phải dùng dao
Kềm chế kẻ ngu ấy.

Đế Thích lại nói kệ:

Ta thấy hàng phục ngu
Chẳng gì hơn nhẫn nhục
Khi phẫn nộ bùng nổ
Nhẫn mới chế ngự được
Người ngu cho là đao
Thật ra không phải đao
Ngu không biết thiện ác
Không pháp nào chế ngăn
Thân ta có sức mạnh
Mới nhẫn được kẻ ngu
Gọi nhẫn là đệ nhất
Là thiện ở trong nhẫn.
Người yếu mới cần dao
Vì họ không làm được
Nên gọi nhẫn vì sợ
Chứ không phải thật nhẫn.
Uy lực được tự tại
Bị người khác mắng nhiếc
Im lặng không đáp lại
Đây là nhẫn thù thắng.
Hèn yếu sợ uy lực
Im lặng không chống nổi
Đây gọi là sợ hãi
Không phải là hành nhẫn.
Trẻ ngu không trí tuệ
Ác hại đến người khác
Thấy họ im lặng nhẫn
Lại cho mình là hơn.
Hiền thánh có trí tuệ
Cho nhẫn là tối thắng
Thế nên bậc Hiền thánh
Thường khen công đức nhẫn.
Trừ hại ta và ngươi
Diệt hết các tai nạn
Thấy họ nổi sân hận
Phải im lặng nhẫn nhục,
Sân hận tự tiêu tan
Không phiền sức đao gậy
Ta, người đều lợi lớn
Tự lợi và lợi tha.
Ngu cho nhẫn là sợ
Hiền trí tán thán nhẫn
Nhẫn với kẻ thắng mình
Vì sợ tạo nguy hại
Nếu tranh kẻ bằng ta
Hại cả hai, nên nhẫn
Nhẫn với người thua mình
Nhẫn này là tối thượng.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Đế Thích ở cõi trời Tam thập tam rất là tự tại, thi hành vương pháp, mà còn tu nhẫn, tán thán nhẫn, huống chi các Tỳ-kheo đã bỏ hình tướng thế gian, vào đạo, cần phải tu nhẫn, tán thán nhẫn, chính là thực hành đúng pháp xuất gia.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

40. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Ngày trước, Thích Đề-hoàn Nhân muốn đến vườn vui chơi, ra lệnh cho người đánh xe tên Mađắc-lê-già, hãy bố trí ngàn chiếc xe ngựa.

Ma-đắc-lê-già vội vàng bố trí xe ngay và thưa với Đế Thích:

–Xa giá đã xong, Thiên chủ nên biết là đã đúng lúc.

Bấy giờ Đế Thích rời tòa nhà Tỳ-thiền-diên, chắp tay quay mặt về phương Đông, hướng về Đức Phật.

Ma-đắc-lê thấy Đế Thích hướng về phương Đông, chắp tay thì sanh tâm sợ hãi, làm rơi cả roi và cương ngựa đang cầm.

Đế Thích nói: –Ngươi thấy việc gì mà kinh sợ đến nỗi rơi cả roi và cương ngựa?

Ma-đắc-lê thưa:

–Thưa người chồng của Ma-khư-thích-chỉ, thần thấy Thiên chủ chắp tay hướng về phương Đông, nên tâm sợ hãi, rớt cả roi và cương. Tất cả chúng sanh đều kính trọng Thiên chủ. Tất cả chúa đất đều thuộc về Thiên chủ. Tứ Thiên vương và trời Tam thập tam đều lễ kính Thiên chủ. Ai có đức độ hơn cả Thiên chủ nên Thiên chủ phải chắp tay đứng hướng về phương Đông?

Đế Thích đáp:

–Tất cả cung kính ta, đúng như ngươi nói. Bậc được tất cả Trời, Người đều cung kính, hiệu là Phật. Nay ta cung kính, lễ hướng về Phật.

Đế Thích nói kệ:

Này Ma-đắc-lê, ngươi phải biết
Tối thượng thế gian là Thế Tôn
Nay ta hướng Phật sanh kính tín
Thế nên chắp tay đứng lạy Ngài.

Ma-đắc-lê nói kệ:

Thiên chủ kính lễ thế gian thắng.
Tôi cũng thuận theo cung kính lễ.

Họ nói xong, chắp tay cung kính lễ, rồi lên xe đi.

Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

–Đế Thích tự tại ở ngôi vị Thiên vương, vẫn cung kính lễ bái Đức Phật. Tỳ-kheo các ông cạo bỏ râu tóc, xuất gia học đạo cần phải cung kính Phật mới đúng pháp xuất gia.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

41. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Ngày trước, Thích Đề-hoàn Nhân muốn đến vườn vui chơi, ra lệnh cho người đánh xe là Mađắc-lê là hãy bố trí ngàn chiếc xe ngựa.

Ma-đắc-lê bố trí xe ngựa xong, đến chỗ Đế Thích, thưa:

–Xa giá đã xong, xin Thiên chủ biết là đã đến lúc.

Bấy giờ Đế Thích ra khỏi Tỳ-thiền-diên đường, chắp tay hướng về phương Nam. Ma-đắclê thấy vậy, tâm ý kinh hãi, làm rơi cả roi và dây cương.

Đế Thích hỏi:

–Ngươi thấy việc gì mà kinh hãi đến như vậy? Ma-đắc-lê trả lời:

–Thưa phu quân của Ma-khư-thích-chỉ, tôi thấy Thiên vương chắp tay hướng về phương Nam, nên tâm kinh sợ, rớt cả roi và cương. Tất cả chúng sanh đều kính trọng Thiên vương, tất cả chúa đất đều thuộc về Thiên vương. Trời Tứ Thiên vương và Tam thập tam thiên đều lễ kính Thiên vương. Ai có đức độ hơn Thiên vương đến nỗi khiến Thiên vương phải chắp tay đứng hướng về phương Nam. Đế Thích đáp:

–Tất cả cung kính ta đúng như ngươi nói. Đấng được tất cả trời, người đều cung kính là Đức Phật.

Nay ta cung kính lễ Bậc Đầy Đủ Giới Pháp.

Đế Thích nói kệ:

Có những vị xuất gia
Tu hành không phóng dật
Nhập tịch định lâu dài
Tu phạm hạnh tối thượng
Trừ bỏ cả ba độc
Chứng đắc pháp giải thoát
Bậc có những pháp ấy
Nay tôi cung kính lễ.
Chư đại A-la-hán
Xa lìa các tham dục
Trừ diệt sạch vô minh
Đoạn trừ các kết sử
Bậc tại gia tu thiện
Không làm các nghiệp ác
Con chánh pháp như vậy
Tôi đều cung kính lễ.

Ma-đắc-lê nói:

–Thiên vương lễ Bậc Tối Thắng, tôi nguyện được lễ theo. Đế Thích nói xong bài kệ ấy, chắp tay kính lễ, rồi cỡi xe đi.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Đế Thích sống tự tại giữa Trời, Người, vẫn cung kính lễ bái pháp, huống chi các ông đã cạo bỏ râu tóc, xuất gia học đạo mà không siêng năng cung kính pháp hay sao?

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

42. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Ngày xưa Thích Đề-hoàn Nhân muốn đến vườn vui chơi, ra lệnh cho người đánh xe tên Mađắc-lê:

–Ngươi hãy chuẩn bị một ngàn chiếc xe ngựa.

Ma-đắc-lê bố trí xe ngựa xong, đến gặp Đế Thích thưa:

–Xa giá đã sẵn sàng, thưa Thiên chủ đã đúng lúc.

Bấy giờ Đế Thích ra khỏi Tỳ-thiền-diên đường, chắp tay hướng về phương Tây. Người đánh xe Ma-đắc-lê thấy việc này nên rất kinh hoàng, làm rớt cả roi và dây cương.

Đế Thích hỏi: –Ngươi thấy gì mà kinh sợ đến như vậy? Ma-đắc-lê thưa:

–Thưa chồng của Ma-khư-thích-chỉ, nay tôi thấy Thiên chủ chắp tay hướng về phương Tây, sanh tâm sợ hãi nên rớt cả roi và dây cương. Tất cả các loài hiện có đều cung kính Thiên chủ, tất cả chúa đất đều thuộc về Thiên chủ, trời Tứ Thiên vương và trời Tam thập tam đều lễ kính Thiên chủ. Ai có đức độ thù thắng hơn, khiến Thiên chủ phải chắp tay cung kính hướng về phương Tây?

Đế Thích đáp: –Đúng như ngươi nói, tất cả đều cung kính ta.

Bậc được tất cả trời, người đều cung kính là Tăng bảo. Nay ta kính tín, hướng về Tăng bảo. Ma-đắc-lê nói kệ:

Thân người đầy hôi hám
Như thây chết để trần
Thường nguy khổ đói khát
Lại chuộng sống không nhà,
Nay Thiên chủ vì sao
Vô cùng cung kính họ
Họ có uy nghi gì
Và hành đạo đức gì
Xin chỉ dạy cho tôi
Xin chí tâm lắng nghe.

Thích Đề-hoàn Nhân nói kệ:

Vì họ sống không nhà
Nên ta thật chuộng họ
Họ không có kho tàng
Phòng chứa và ngũ cốc
Thoát ly những việc đời
Ăn tiết độ để sống
Khéo hộ trì giới luật
Giảng thuyết pháp vi diệu
Tâm tinh tấn dũng mãnh
Im lặng hành thánh pháp
Chư Thiên, A-tu-la
Với nhau thường gây chiến
Trong tất cả loài người
Cũng đều có phẫn nộ
Nay Bậc ta cung kính
Đều xa lìa dao gậy
Mọi người đều tích chứa
Các vị ấy xa lìa
Điều thế gian yêu, đắm
Tâm vị ấy từ bỏ
Nay ta cung kính Bậc
Xa lìa tất cả lỗi
Này Ma-đắc-lê-già
Cần phải biết việc ấy.

Ma-đắc-lê lại nói kệ:

Vương lễ bậc tối thắng
Tôi cũng cung kính theo
Ma-khư lễ vị nào
Tôi cũng lễ vị ấy.

Nói kệ xong, Đế Thích lên xe đi. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Đế Thích sống tự tại giữa Trời, Người, vẫn còn kính trọng Tăng bảo, huống chi Tỳ-kheo các ông đã xuất gia tu đạo, đều phải kính trọng Tăng bảo.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

Kệ tóm lược:

Đế Thích, Ma-ha-ly
Vì nhân gì Dạ-xoa
Đắc nhãn, đắc thiện thắng
Phược hệ và kính Phật
Kính Pháp, lễ chủ Tăng.

QUYỂN 3

TỤNG 1: PHẦN 3

43. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

–Ngày xưa, các A-tu-la tập hợp bốn loại binh gồm tượng, mã, xa, bộ, đều trang bị đầy đủ dụng cụ chiến đấu, muốn đến cõi trời Đao-lợi để đánh nhau với chư Thiên. Bấy giờ, Đế Thích nghe A-tu-la bố trí bốn loại binh, liền bảo thiên tử Tu-tỳla:

–Ta nghe A-tu-la bố trí bốn loại binh, ngươi cũng phải trang bị bốn loại binh để đến đánh với chúng Tu-tỳ-la thưa: –Việc này rất tốt.

Sau khi nói xong, Tu-tỳ-la lại phóng dật vui chơi, không nhớ đến việc ấy. Đế Thích nghe A-tu-la ra khỏi thành, lại triệu Tu-tỳ-la đến bảo:

–Nay A-tu-la đã ra khỏi thành, ngươi hãy trang bị bốn loại binh để đến đánh với chúng Tu-tỳ-la thưa:

–Này Kiều-thi-ca, việc này rất tốt.

Tu-tỳ-la vẫn ham chơi như cũ, không chuẩn bị chiến đấu.

A-tu-la trang bị bốn loại binh, đã lên núi Tudi, tiến gần đến đỉnh. Đế Thích lại nói:

–Ta nghe A-tu-la tiến dần đến gần rồi, ngươi hãy thống lĩnh bốn loại binh đến chống lại chúng. Tu-tỳ-la nói kệ:

Nếu có chỗ thanh nhàn vô sự
Chỉ mong ta được ở chỗ ấy.

Đế Thích nói kệ:

Nếu có chỗ nhàn lạc như vậy
Ngươi hãy đưa ta cùng đến đó.

Tu-tỳ-la lại nói kệ:

Nay tôi lười biếng chẳng muốn đi
Không muốn trang bị, tuy nghe rõ
Thiên nữ, năm dục khắp bốn bên
Đế Thích cho tôi thỏa nguyện này.

Đế Thích nói kệ đáp:

Nếu có chỗ biếng nhác như vậy
Có trăm ngàn Thiên nữ vây quanh
Thỏa thích năm dục, hưởng an lạc
Nếu ngươi đến đó, ta theo với.

Tu-tỳ-la nói kệ:

Chỗ nào vô sự không đao binh
Không khổ, hưởng lạc, cho tôi đến.

Đế Thích nói kệ đáp:

Này Tu-tỳ-la, có việc ấy
Ta sẽ cùng ngươi hưởng vui ngay
Nếu từng thấy nghe không sợ nghiệp
Được sống an nhàn hưởng lạc hỷ
Này ngươi, nếu có chỗ như vậy
Hãy nên đi đến, ta theo ngươi
Ngươi sợ lắm việc, muốn chỗ yên
Hãy mau nhanh chóng hướng Niết-bàn!

Nghe lời ấy xong, Tỳ-la liền tập hợp bốn loại binh ra ngoài chiến đấu với A-tu-la. Chư Thiên đắc thắng, A-tu-la thua chạy, đem tất cả các loại trang cụ chiến đấu trở về cung của mình.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Thích Đề-hoàn Nhân ở ngôi vị Thiên vương được đại tự tại, còn tự tinh cần, tán thán sự tinh tấn, huống chi các ông xuất gia bằng lòng tin, mặc pháp y, sao lại không siêng năng tinh tấn, tán thán tinh tấn? Ai siêng năng tinh tấn, tán thán tinh tấn là làm đúng với pháp xuất gia.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

44. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

–Ngày xưa, ở chỗ A-lan-nhã, cách xa xóm làng có nhiều vị Tiên tu hành ở đó. Cách không xa ở chỗ chư Tiên ở, có chư Thiên cùng A-tu-la đánh nhau. Bấy giờ vua A-tu-la là Tỳ-ma-chất-đa-la mặc năm loại trang sức, đầu đội mão thiên quan, tay cầm phất ma-ni, che lọng hoa ở trên, mang bảo kiếm, đi giày da quý báu, đến chỗ ở của chư Tiên nhân. Ông ta không đi vào bằng cửa, mà xuyên tường vào, cũng không chào hỏi, nói chuyện với chư Tiên, rồi xuyên vách đi ra.

Bấy giờ có một vị Tiên nhân nói:

–Tỳ-ma-chất-đa-la... không có tâm cung kính, không chào hỏi nói chuyện với chư Tiên, đi ra bằng vách.

Lại có vị Tiên lên tiếng:

–Những A-tu-la nào cung kính chào hỏi chư Tiên thì chắc thắng chư Thiên, nay thế là chắc chắn thua rồi!

Có một vị Tiên hỏi:

–Đó là ai?

Một vị Tiên bảo:

–A-tu-la vương Tỳ-ma-chất-đa-la. Tiên nhân lại nói:

–Pháp luật của A-tu-la kiến thức nông cạn, không có giáo pháp, không tâm tôn kính, cũng như hàng nông phu. Chư Thiên chắc thắng, A-tu-la phải thua.

Sau đó, Đế Thích đến gần chỗ các vị Tiên, cởi bỏ năm loại trang sức của Thiên vương, đi vào bằng cửa, thăm hỏi ủy lạo các vị Tiên, chăm sóc khắp nơi, nói với các vị Tiên:

–Các vị đều an ổn, không có phiền não phải không?

Sau khi thăm hỏi, Đế Thích đi ra bằng cửa. Có một vị Tiên nhân hỏi:

–Đây là ai mà thăm hỏi, chăm sóc, đi xem xét khắp nơi, sau đó mới đi ra, rất đúng giáo pháp, hình dáng đoan chính?

Một vị Tiên đáp:

–Đó là Đế Thích.

Một Tiên nhân nói:

–Chư Thiên rất kính thuận, hành động ôn hòa khiêm tốn. Chư Thiên phải thắng, A-tu-la thua.

Tỳ-ma-chất-đa-la nghe chư Tiên tán thán chư Thiên, chê bai A-tu-la nên rất phẫn nộ. Chư Tiên nghe như vậy, đến chỗ A-tu-la nói:

–Chúng tôi nghe Đại vương rất phẫn nộ.

Liền nói kệ:

Chúng tôi cố đến đây
Muốn cầu xin ước nguyện
Cho chúng tôi an ổn
Không sanh sân nộ nữa
Nếu chúng tôi có lỗi
Xin chỉ dạy chúng tôi.

Tỳ-ma-chất-đa nói kệ đáp:

Không cho ngươi an ổn
Các ngươi xâm phạm ta
Hạ mình cầu Đế Thích
Với ta lại chê bai
Các ngươi cầu an ổn
Ta cho ngươi sợ sệt.

Chư Tiên nói kệ đáp:

Con người do hành động
Tự nhận lấy quả báo
Hành thiện tự nhận thiện
Hành ác, quả báo ác
Cũng như gieo hạt giống
Tùy giống được kết quả.
Nay người trồng giống khổ
Sau phải nhận quả báo
Nay ta xin an ổn
Lại cho ta sợ hãi
Từ nay trở về sau
Nguyện ngươi sợ hãi mãi!

Chư Tiên đối mặt với A-tu-la nói xong, liền nương hư không bay đi. Tỳ-ma-chất-đa-la ngay đêm ấy mộng thấy giao chiến cùng Đế Thích, tâm rất sợ hãi. Đêm thứ hai, thứ ba cũng vậy. Ngay đêm thứ ba, quả nhiên quân lính của Đế Thích đến khiêu chiến. Tỳ-ma-chất-đa cùng chư Thiên giao chiến, A-tu-la thua, Đế Thích tiến thẳng đến cung A-tu-la. Bấy giờ Đế Thích tham dự nhiều trận đánh, đều đắc thắng, sau đó đến chỗ chư Tiên.

Chư Tiên ngồi phía Đông, Đế Thích ngồi đối diện ở phía Tây. Lúc đó có gió Đông thổi, chư Tiên hướng về Đế Thích nói kệ:

Thân tôi xuất gia lâu
Dưới nách có mùi hôi
Gió thổi hướng Thiên chủ
Hãy tránh sang phía Nam
Những mùi hôi như vậy
Chư Thiên vốn không ưa.

Đế Thích nói kệ:

Tập hợp nhiều loại hoa
Làm vòng hoa trên đầu
Đủ các loại mùi thơm
Thưởng thức mãi không chán
Chư Tiên người xuất gia
Mùi như các vòng hoa
Nay tôi đội trên đầu
Lấy đó làm ưa thích.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Đế Thích ở ngôi vị vua trời, luôn luôn cung kính người xuất gia. Tỳ-kheo các ông vì lòng tin xuất gia, cần phải cung kính như vậy.

Đức Phật dạy xong, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

45. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Khi ấy, vào giữa đêm Thích Đề-hoàn Nhân với dung mạo thù diệu vượt hơn trời, người, vào giữa đêm, đến gặp Đức Phật, lạy sát chân Phật, ngồi qua một bên. Trong tinh xá Kỳ-hoàn lúc đó hào quang rực rỡ, sáng hơn ban ngày. Thích Đề-hoàn Nhân nói kệ:

Trừ diệt điều gì ngủ an ổn?
Trừ diệt vật gì không ưu sầu?
Diệt một pháp gì Cù-đàm khen?
Xin nguyện vì con giải nghi vấn.

Đức Thế Tôn nói kệ đáp:

Diệt trừ phẫn nộ ngủ an ổn
Diệt trừ phẫn nộ không ưu sầu
Nhổ sạch gốc rễ gai độc giận
Hãy biết như vậy, này Đế Thích.
Như vậy phẫn nộ phá thiện mỹ
Trừ diệt phẫn nộ được ngợi khen.

Thích Đề-hoàn Nhân nghe lời Phật dạy, nhiễu quanh Phật ba vòng, hoan hỷ phụng hành.

46. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Phật dạy các Tỳ-kheo:

–Vào ngày mồng tám hằng tháng, Tứ Thiên vương sai sứ giả tuần hành khắp thiên hạ, xem xét thế gian để biết có người hiếu dưỡng cha mẹ, kính thuận bậc Tôn trưởng, phụng sự Sa-môn, Bà-lamôn, người tu tập pháp thiện và kẻ làm ác. Vì thế cần phải tu hành pháp thiện, diệt trừ các điều ác, phòng ý giữ giới. Đến ngày mười bốn trong tháng, Tứ Thiên vương lại sai thái tử đi xem xét khắp thiên hạ. Đến ngày mười lăm, Tứ Thiên vương đích thân tuần hành xem xét, cũng như vậy. Khi Tứ Thiên vương đã đi xem xét xong, đến gặp Đế Thích trên Pháp thiện đường, tâu:

–Trong chư Thiên và người đời có nhiều kẻ bất hiếu với cha mẹ, bất kính Sa-môn, Bà-la-môn, không phụng sự Sư trưởng và Tôn trưởng trong nhà, cho đến nhiều người không trì giới.

Bấy giờ, Đế Thích và chư Thiên nghe lời tâu này, buồn rầu không vui. Chư Thiên đều bày tỏ:

–Chư Thiên bị tổn giảm, tăng ích cho A-tu-la. Trong thế gian, nếu có người thường siêng năng hiếu thuận với cha mẹ, cúng dường Sa-môn, Bà-la-môn, cho đến nhiều người trì giới, Tứ Thiên vương tâu việc này lên Đế Thích. Khi ấy chư Thiên rất vui mừng, đều bày tỏ:

–Người trong thế gian tu hành việc thiện, rất là hiền thiện, làm việc đáng làm, tăng ích cho chư Thiên, tổn giảm A-tu-la.

Đế Thích hoan hỷ nói kệ:

Ngày mười bốn, mồng tám
Cùng với ngày mười lăm
Và trong tháng thần túc
Thọ trì giới thanh tịnh
Người này được sanh thiên
Công đức như thân ta.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Lời Đế Thích nói chưa gọi là lời thiện. Tại sao vậy? Nếu là bậc A-la-hán đã dứt sạch các lậu, việc làm đã hoàn tất, mới nên nói kệ này:

Ngày mồng tám, mười bốn
Cùng với ngày mười lăm
Và trong tháng thần túc
Thọ trì giới thanh tịnh
Người này được thắng lợi
Công đức như thân ta.

Đức Phật và bậc A-la-hán nói lên kệ này, gọi là thật thuyết, gọi là thiện thuyết. Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

47. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Ngày xưa, vua A-tu-la là Chất-đa bị bệnh trầm trọng. Thích Đề-hoàn Nhân đến chỗ vị ấy. A-tu-la vương nói với Đế Thích:

–Mong ông hãy làm cho ta hết bệnh, thân được an ổn, khỏe mạnh, mập mạp như xưa.

Đế Thích nói:

–Ông có thể dạy ta huyễn thuật của A-tu-la thì ta sẽ làm cho ông hết bệnh, an ổn, vui vẻ như trước.

A-tu-la lại nói:

–Hãy đợi ta hỏi các A-tu-la. Nếu được, ta sẽ dạy cho ông.

Vua A-tu-la liền hỏi các A-tu-la. Trong nhóm, có một A-tu-la gian dối thưa với Tỳ-ma-chất-Đa-la:

–Từ lâu Đế Thích đã làm việc ngay thẳng, hiền thiện, không có các lời dối trá. Đại vương có thể nói với Đế Thích: “Ông học huyễn thuật gian dối của A-tu-la sẽ đọa vào địa ngục Lô lâu”. Nếu Đế Thích nói với Đại vương: “Ta không học huyễn thuật kia của A-tu-la”. Đại vương hãy bỏ đi, bệnh chắc chắn sẽ hết.

Vua A-tu-la làm theo lời ấy, nói kệ với Đế Thích:

Đế Thích ngàn mắt, chồng Xá-chỉ
Nếu biết huyễn thuật phải bị đọa
Vào trong địa ngục Lô lâu kia
Suốt cả một kiếp bị thiêu đốt.

Đế Thích nghe lời nói này, liền bảo:

–Thôi, thôi, ta không cần huyễn thuật.

Đế Thích phát ngay lời nguyện:

–Mong cho ông hết bệnh, an ổn, không nguy hiểm.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Thích Đề-hoàn Nhân tuy ở địa vị vua trời, vẫn không chịu dối trá, làm việc chân thật, huống chi các ông đã xuất gia, cạo bỏ râu tóc mà lại không từ bỏ các hành động dối trá, làm việc chân thật ngay thẳng hay sao? Ai hành động ngay thật là đúng pháp xuất gia.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

48. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ Đế Thích đến chỗ Đức Phật, khi sắp trở về, xin thọ một giới. Một giới là gì? Nếu con trở về cung gặp những kẻ oán ghét, giả như họ đến hại con, con đối với họ quyết không gây hại.

Tỳ-ma-chất-đa-la được nghe Đế Thích trì giới như vậy liền cầm gươm bén đứng đợi trên đường đi. Thích Đề-hoàn Nhân nghe vua A-tu-la đang cầm gươm bén đợi ở bên đường, từ xa nói với vua A-tu-la:

Hãy dừng lại, dừng lại! Ông đã tự trói.

Tỳ-ma-chất-đa-la nói với Đế Thích:

–Ông ở nơi Đức Phật, thọ một giới, nói: “Nếu con trở về cung gặp những kẻ oán ghét, nếu họ hại con, con đối với họ quyết không gia hại”. Chẳng lẽ ông không có thọ giới như vậy sao?

Đế Thích đáp:

–Ta tuy thọ giới, nay bảo ông: “Hãy đứng tại chỗ! Ông đã tự trói”. Lời nói ấy đối với giới không có phạm.

Tỳ-ma-chất-đa-la nói:

–Kiều-thi-ca hãy thả ta ra.

Đế Thích đáp:

–Ngươi hãy thề rằng đối với ta không còn gây oán ghét, ta sẽ thả ngươi.

Tỳ-ma-chất-đa-la liền tuyên thệ: Tham, sân, vọng ngữ, báng Hiền thánh Ác báo việc ấy tôi phải chịu.

Đế Thích nghe lời thề này liền bảo Tỳ-machất-đa-la:

–Nay ta thả ông.

Thích Đề-hoàn Nhân trở lại chỗ Phật, lạy sát chân Ngài, bạch:

–Thưa Thế Tôn, Tỳ-ma-chất-đa-la nghe con thọ giới, liền cầm gươm bén đợi ở bên đường, mưu đồ hại con. Khi ấy, con nói với A-tu-la: “Hãy đứng lại, đứng lại! Ông đã bị trói rồi!”. Tỳ-ma-chất-đa nói với con: “Ông ở chỗ Đức Phật thọ trì một giới: nếu ta trở về cung gặp kẻ oán ghét, giả như muốn hại ta, ta đối với họ quyết không làm hại. Ông có thọ giới như vậy không?”. Con liền đáp: “Ta tuy thọ giới, chỉ bảo ngươi đứng lại, nay ngươi tự trói, lời nói như vậy không có phạm giới”. Tỳ-ma-chấtđa liền bảo con: “Này Kiều-thi-ca, hãy thả tôi ra”. Con trả lời: “Ngươi phải thề nặng: gặp lại ta không còn sanh oán ghét, ta sẽ thả ngươi”. Tỳ-ma-chấtđa nghe con nói, liền nói kệ:

Tham, sân, vọng ngữ, báng Hiền thánh
Ác báo việc ấy tôi phải chịu.

Con nghe lời thề này liền thả ông ta đi.

Đế Thích lại bạch Phật:

–Vị A-tu-la ấy đã phát lời thề trọng thệ. Từ nay về sau có còn gây điều ác do oán ghét không?

Phật bảo Đế Thích:

–A-tu-la nếu như không thề cũng không làm ác, huống chi đã thề rồi.

Đế Thích nghe lời Phật dạy vô cùng hoan hỷ, biến mất tại chỗ, trở về Thiên cung.

49. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ Phật bảo các Tỳ-kheo:

Một lúc nọ, Đế Thích cùng A-tu-la đánh nhau. Bấy giờ chư Thiên thua, A-tu-la thắng. Khi ấy Đế Thích thấy đã bị thua, liền hồi giá muốn trở về Thiên cung. Giữa đường, ông ta thấy cây Khổsa-la, trên cây có ổ Kim sí điểu. Đế Thích liền ra lệnh cho người đánh xe Ma-đắc-lê:

–Trong ổ này có hai trứng chim, nếu rớt ra ắt bị thương tổn. Ngươi hãy quay xe lại để tránh cây này.

Đế Thích hướng về Ma-đắc-lê, nói kệ:

Ngươi xem ổ trên cây
Trong ổ có hai trứng
Nếu xe chạy đụng cây
Trứng rơi chắc bị vỡ
Dầu ta đem thân này
Vào trận A-tu-la
Mạng sống bị giết chết
Quyết không hại trứng chim.

Đế Thích nói kệ xong, liền cho quay xe chạy ngược lại. Chúng A-tu-la thấy Đế Thích quay lại, phát sanh sợ hãi, bảo với nhau:

–Vừa rồi Đế Thích trá bại thoái lui, nay quay trở lại, chắc phá quân ta.

Chúng A-tu-la tức thời thoái lui, chư Thiên cũng lui quân, trở về thành mình.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Thích Đề-hoàn Nhân ở ngôi vua trời vẫn luôn luôn thực hành từ bi nhẫn nhục. Các Tỳ-kheo phải học như vậy. Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

50. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ là ban đêm, Thích Đề-hoàn Nhân cùng A-tu-la Bạt-lị-bà-lâu-chi, với hào quang rực rỡ cùng đến chỗ Phật, lạy dưới chân Ngài, ngồi qua một bên. Hào quang của Đế Thích và Tỳ-lâu-chi chiếu khắp khu Kỳ-hoàn sáng như ban ngày. Bạt-lị-bà-lâu-chi ngồi ở một bên, nói kệ:

Những người thường tinh tấn
Mong cầu chắc thành tựu
Đã cầu được nghĩa lý
An ổn hưởng diệu lạc.

Đế Thích cũng nói kệ:

Những người thường tinh tấn
Mong cầu tất thành công
Đã cầu được sự nghiệp
Tu nhẫn là tối thắng.

Đế Thích bạch Phật: –Thế Tôn, những lời chúng con nói, lời nào lợi ích, lời nào không lợi ích?

Đức Phật bảo Đế Thích:

Người giỏi phân biệt, lời nói đều khéo léo.

Nay các ngươi hãy nghe lời Ta nói:

Đức Phật nói kệ:

Tất cả chúng sanh đều vì lợi
Sự ham muốn tùy theo tâm niệm
Vui đạt ước muốn, được lợi dục
Người tinh tấn cầu ắt thành công
Đã được sự nghiệp, nhẫn tối thắng
Thế nên cần phải tu hành nhẫn.

Đế Thích và Tỳ-lâu-chi nghe lời Phật dạy, lạy sát chân Phật, biến mất tại chỗ, trở về Thiên cung.

51. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá. Trong thành ấy có một người nghèo khổ, bần cùng, thật đáng thương, đối với Phật pháp sanh lòng tin thanh tịnh, giữ giới trong sạch, có tụng đọc kinh, bố thí chút ít. Do nhân duyên quả báo của bốn việc ấy, sau khi qua đời, vị đó sanh vào cõi trời Đao-lợi, ở chỗ thắng diệu hoàn toàn. Vị trời mới sanh này có ba việc thù thắng: Một là sắc thù thắng, hai là tiếng khen thù thắng, ba là tuổi thọ thù thắng. Chư Thiên thấy vị ấy xong, liền cùng nhau cung kính, đến chỗ Đế Thích bạch:

–Vị trời mới sanh có ba việc thù thắng, hơn các vị khác.

Đế Thích nói:

–Trước đây ta đã từng thấy vị trời mới sanh kia, khi còn làm người bần cùng khốn khổ, rất tiều tụy, với tín tâm ngay thẳng hướng đến Tam bảo, giữ gìn tịnh giới, tu hành bố thí ít nhiều, nay được sanh lên Đao-lợi thiên.

Bấy giờ Đế Thích nói kệ:

Ai có tịnh tín với Tam bảo
Tâm ấy vững chắc không lay chuyển
Giữ giới đã thọ không hủy phạm
Nên biết người này không phải nghèo
Gọi là trí tuệ và sống lâu
Vì kính tín Tam bảo Vô thượng
Được sanh cõi trời hưởng thắng lạc
Thế nên cần phải học như thế.

Chư Thiên nghe kệ này hoan hỷ tín thọ, làm lễ trở về cung.

52. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại núi Kỳ-xà-quật, thuộc thành Vương xá.

Trong thành Vương xá, có chín mươi sáu loại ngoại đạo đều cùng nhau cúng tế. Đàn việt nào tín ngưỡng ngoại đạo Già-lặc thì nói: “Phải cúng dường thầy Già-lặc của tôi trước”. Tín đồ của ngoại đạo Bà-la-bà-thật cũng nói: “Phải cúng dường thầy Bà-la-bà-thật của tôi trước”. Tín đồ theo ngoại đạo Càn-đà đều bày tỏ: “Phải cúng dường thật lớn cho thầy Càn-đà của tôi trước, sau mới đến người khác”. Tín đồ của ngoại đạo Tam thủy phát biểu: “Nên cúng dường thầy Tam thủy của tôi trước”. Tín đồ theo ngoại đạo Lão thanh văn phát biểu: “Phải cúng dường thầy Lão thanh văn của tôi trước”. Tín đồ của ngoại đạo Đại thanh văn cũng nói: “Phải cúng dường thầy Đại thanh văn của tôi trước”. Tín đồ của Phật giáo cũng bày tỏ: “Phải cúng dường Đức Như Lai đạo sư và chúng Tăng của tôi trước”.

Khi ấy Thích Đề-hoàn Nhân tự nghĩ: “Dân chúng thành Vương xá sanh tà kiến lớn. Phật và Tăng đang ở đời, nếu để họ sanh tà kiến thật là bất thiện.”

Đế Thích liền biến hình thành một vị Bà-lamôn già, dung mạo đoan chính, đi xe ngựa trắng, các thanh niên hầu hạ hai bên, hướng đến đàn tràng, đi thẳng vào giữa. Dân chúng thành Vương xá tự nghĩ: “Vị Bà-la-môn già này trước đây ở đâu? Chúng ta hãy đi theo”.

Đế Thích biết ý nghĩ trong tâm mọi người, liền quay xe về phương Nam, hướng tới núi Linh thứu, đến sân để xe dừng lại đó, xuống xe đi bộ vào chỗ Đức Phật, lạy sát chân Phật, ngồi qua một bên.

Đế Thích nói kệ:

Thánh vương chuyển pháp luân
Vượt khổ đến bờ kia
Không oán ghét sợ hãi
Con xin đảnh lễ Ngài
Có người muốn tu phước
Nên bố thí chỗ nào?
Muốn tinh tấn cầu phước
Phải sanh tâm kính tín
Ngày nay tu bố thí
Đời sau được thiện báo
Trong những phước điền nào
Cho ít, được quả lớn?

Khi ấy Đức Thế Tôn ở núi Kỳ-xà-quật, vì trời Đế Thích giảng giải về sự tối thắng trong các cuộc tế lễ, đáp bằng kệ:

Bốn quả và bốn hướng
Thiền định, Minh hạnh túc
Sức công đức sâu xa
Như nước trong biển lớn
Đây mới là thật thắng
Đệ tử Bậc Điều Ngự
Trong thế gian tối tăm
Thắp ngọn đèn trí tuệ
Thường vì các chúng sanh
Thuyết pháp làm hướng đạo
Gọi là tăng phước điền
Rộng lớn không bờ bến
Bố thí phước điền này
Được gọi là thiện thí,
Cúng tế phước điền này
Được gọi là thiện tế
Đốt vật để tế trời
Nhọc công, không phước đức
Đốt vậy không phải thiện.
Nếu đối với phước điền
Tạo nghiệp thiện chút ít
Sau được lợi ích lớn
Đốt vậy gọi là thiện.
Đế Thích cần phải biết
Đấy là phước điền tốt
Cúng dường một vị tăng
Sau quyết được quả lớn
Việc này nói đúng lúc
Thế gian hiểu lời dạy
Phật vô lượng công đức
Nói trăm kệ khen Tăng
Tối thượng trong tế tự
Phước điền, Tăng đứng đầu
Người nào trồng ít thiện
Được quả không thể lường
Thế nên Thiện trượng phu
Nên phải cúng dường Tăng
Bậc tổng trì Chánh pháp
Nên gọi là Tăng bảo.
Thí như trong biển lớn
Có nhiều loại châu báu
Biển Tăng cũng như vậy
Nhiều công đức quý giá.
Ai siêng cúng Tăng bảo
Chính là Thiện trượng phu
Đã có hoan hỷ tín,
Ai tín tâm bố thí
Nên biết người như vậy
Được ba thời hoan hỷ.
Vì ba thời hoan hỷ
Nên vượt ba nẻo ác
Trừ sạch các cấu trần
Nhổ tên độc phiền não.
Tâm tịnh, tự tay cho
Tự lợi và lợi tha
Thường cúng tế như vậy
Người này được gọi là
Bậc trí sáng thế gian
Tín tâm đã thanh tịnh
Được tới chốn vô vi
Cảnh giới rất an lạc
Người trí sanh đến đó.

Đế Thích nghe kệ xong rất hoan hỷ, biến mất tại chỗ, trở về Thiên cung. Sau khi Đế Thích trở về cung, các Trưởng giả Bà-la-môn trong thành Vương xá đều rời chỗ ngồi, mặc áo bày vai bên mặt, quỳ gối phải xuống đất, chắp tay hướng Phật, bạch:

–Cầu mong Thế Tôn và chúng Tỳ-kheo vào sáng mai hoan hỷ thọ thỉnh tới đàn lớn.

Khi ấy Đức Như Lai im lặng nhận lời. Các Trưởng giả Bà-la-môn ở thành Vương xá biết Phật im lặng thọ thỉnh, liền đảnh lễ nơi chân Phật rồi trở về nhà. Những người ấy sau khi trở về nhà đều chuẩn bị thức ăn uống thanh tịnh, thơm ngon, mọi chỗ đều tinh sạch.

Sáng sớm, họ bố trí đầy đủ tòa ngồi, nước sạch để rửa và sai sứ giả đến núi Linh thứu, bạch Thế Tôn:

–Thưa Ngài, đã đến giờ.

Bấy giờ Thế Tôn mặc y, mang bát dẫn đầu, chúng Tăng theo sau, đến thành Vương xá, vào chỗ tế đàn lớn. Đến nơi, Như Lai trải tòa ngồi trước chúng Tăng. Người trong thành bố trí tòa ngồi đẹp để chúng Tăng ngồi. Các Trưởng giả... thấy đại chúng đã ngồi ổn định, cùng nhau dâng nước sạch. Sau đó, các Trưởng giả Bà-la-môn tự tay dọn các món ăn thơm ngon. Khi ấy mọi người đều muốn được lợi ích.

Thế Tôn quan sát chúng Tăng thọ trai đã xong, liền đưa bát cho A-nan. Mọi người đều tự trải tòa ngồi, ngồi ở trước Đức Phật, nhất tâm kính ngưỡng, cầu được nghe pháp. Đức Như Lai tán thán sự bố thí ấy, nói kệ:

Kinh sách Bà-la-môn
Tế lửa là tối thượng
Trong sách vở ngoại đạo
Bà tỉ thất tối thượng.
Những người trong thế gian
Quốc vương là tối thượng
Trong trăm sông, khe suối
Biển lớn là đứng đầu
Các tinh tú ban đêm
Ánh sáng trăng vượt trội
Trong các loại ánh sáng
Nhật quang sáng đứng đầu
Trên dưới và bốn phương
Thế gian và Trời, Người
Trong các chúng Thánh hiền
Phật tôn quý bậc nhất.

Đức Thế Tôn vì dân chúng thành Vương xá thuyết pháp giảng dạy lợi ích, làm cho họ hoan hỷ, rồi từ giã.

Đức Phật giảng như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

Kệ tóm lược:

Tu-tỳ-la, Tiên nhân
Diệt sân, ngày mồng tám
Bệnh và trì một giới
Ổ chim và Bà-lê
Người nghèo và tế lớn.

53. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở nước Câu-tát-la, du hành đến khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vua Ba-tư-nặc nghe Đức Phật đang ở khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, nước Xá-vệ, bèn đến gặp Phật, làm lễ thăm hỏi, rồi ngồi qua một bên, bạch:

–Thưa Thế Tôn, trước đây con nghe Ngài xuất gia cầu đạo đã thành Bậc Vô Thượng Chí Chân Đẳng Chánh Giác. Có thật Ngài đã nói rõ như vậy không? Hay là người khác lưu truyền sai? Hay là vì ganh ghét, cho đến chê bai, nên nói lời này?

Đức Phật bảo vua Ba-tư-nặc:

–Lời nói ấy là lời chân thật, không phải chê bai, không thêm bớt, đúng là lời Ta nói, nói đúng như pháp, không phải nói phi pháp. Tất cả ngoại đạo không thể chê trách hay dị nghị về Ta.

Vua Ba-tư-nặc lại thưa:

–Con nghe Ngài có lời nói ấy, nhưng con chưa tin. Vì sao không tin? Trước đây có những bậc xuất gia đã lâu, là Trưởng lão Bà-la-môn kỳ cựu như: Phú-lan-na Ca-diếp, Mạt-già-lê Câu-từ-lê Tử, San-xà-da Tỳ-la-chi Tử, A-xà-đa-sí-xá-khâmbà-la, Già-cứ-đa Ca-chiên-diên, Ni-càn-đà Xà-đềphất-đa-la. Các vị kỳ cựu ấy vẫn chưa tự nói là đã đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Huống chi Ngài tuổi trẻ, xuất gia chưa lâu, mà đã đắc đạo hay sao?

Đức Phật nói:

–Này Đại vương, thế gian có bốn việc tuy nhỏ nhưng không thể xem thường. Những gì là bốn? Một là con vua tuy còn nhỏ nhưng không thể khinh thường. Hai là rồng con tuy nhỏ nhưng không thể khinh thường. Ba là đốm lửa tuy nhỏ nhưng không thể khinh thường. Bốn là vị Tỳ-kheo tuy trẻ tuổi nhưng không thể khinh thường.

Thế Tôn nói kệ:

Vua chúa tuy còn nhỏ
Học đủ các kỹ nghệ
Sanh ở nơi chân chánh
Không xen lẫn uế tạp
Có danh vọng đẹp lớn
Khắp nơi đều nghe biết
Như vậy tuy còn nhỏ
Không thể khinh vị ấy
Muốn giữ gìn mạng mình
Không thể khinh vua nhỏ.
Sát-lợi tuy còn nhỏ
Theo pháp kế vị vua
Sau khi lên làm vua
Ra lệnh hành hình phạt
Thế nên phải kính thuận
Không được sanh khinh mạn.
Ở trong các làng xóm
Hay ở nơi vắng vẻ
Thấy rồng con còn nhỏ
Hình dáng tuy bé tí
Nhưng rồng lớn hay nhỏ
Đều có thể làm mây
Giáng trận mưa to lớn
Ai khinh thường vì nhỏ
Phải bị trúng nọc độc
Ai muốn giữ thân mạng
Không được khinh rồng nhỏ
Vì lợi ích cho mình
Cần phải tự phòng hộ.
Như đốm lửa nho nhỏ
Nếu đầy đủ điều kiện
Cháy bùng lên rất mạnh
Gặp phải trận gió lớn
Đốt cháy sạch núi rừng
Đã cháy rừng, đồng rồi
Gặp duyên lại cháy nữa
Muốn hộ trì tánh mạng
Không được khinh lửa nhỏ.
Nếu đối với tịnh giới
Mạ nhục bằng ác khẩu
Bản thân và con cháu
Tất cả đều hủy báng
Ngay trong đời vị lai
Thọ ác báo như vậy.
Thế nên tự hộ trì
Đừng gây ác cho hạng
Sát-lợi đủ quyền thế
Rồng nhỏ và lửa nhỏ
Tỳ-kheo giữ tịnh giới
Chớ khinh bốn hạng này
Vì hộ trì thân mạng
Cẩn thận nên tránh xa.

Vua Ba-tư-nặc nghe lời Phật dạy, trong lòng run sợ, toàn thân nổi gai ốc, liền rời chỗ ngồi, bày vai bên phải, chắp tay hướng Phật, bạch:

–Thế Tôn, nay con biết mình có tội lỗi vì đã hủy phạm Phật. Ví như đứa trẻ điên cuồng, ngu si không biết gì, hành động bất thiện. Cầu xin Thế Tôn thương xót, cho con được sám hối.

Đức Phật bảo vua Ba-tư-nặc:

–Ta luôn từ bi đối với Đại vương, nên nhận sự sám hối của ông.

Vua Ba-tư-nặc được sám hối xong, tâm rất hoan hỷ, làm lễ rồi từ giã.

54. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vua Ba-tư-nặc bản tánh nhân từ, hiếu thuận. Mẹ nhà vua vừa qua đời, ông ta thương nhớ khóc lóc, không tự chủ được. Sau khi hỏa táng mẹ xong, vua tắm rửa, y phục và mái tóc còn ướt, ngay giữa trưa đi thẳng đến gặp Phật, lạy dưới chân Ngài, rồi ngồi qua một bên.

Đức Phật hỏi vua:

–Đại vương từ đâu đến mà y phục và mái tóc còn ướt vậy?

Vua Ba-tư-nặc thưa:

–Bạch Thế Tôn, con đối với mẹ hiền rất yêu thương tôn kính. Vừa rồi, chẳng may mẹ con qua đời, con đưa linh cửu mẹ đến tận đồng trống hỏa thiêu, an táng xong, vừa mới tắm rửa nên y phục và tóc còn ướt.

Đức Phật bảo:

–Này Đại vương, nhà vua đối với mẹ có yêu thương, kính trọng lắm không?

Nhà vua đáp:

–Con hết lòng kính yêu. Giả sử có người làm cho mẹ con sống lại, con đem đủ các thứ binh: tượng, xa, mã, bộ giao hết cho người ấy để đổi lấy mạng sống mẹ con, tâm con không hối tiếc. Giả như đem một nửa đất nước để đền ơn, con cũng không hối hận.

Nhà vua lại thưa:

–Lời Đức Phật dạy rất đúng. Tất cả chúng sanh hội họp rồi phải trở về cái chết.

Phật dạy:

–Đúng vậy! Đúng vậy! Sanh phải có tử, năm cõi bốn loài đều phải chết. Vua chúa, muôn dân, Bà-la-môn chúng... hội họp rồi sẽ phải chết. Vua Quán Đảnh uy lực tự tại, thống lĩnh đất nước, cuối cùng cũng phải chết. Thần tiên đạt năm thần thông ở rừng vắng, uống nước ăn trái cũng phải tử vong. Trời Tam thập tam hưởng an lạc tột bực, hào quang rực rỡ, ở cung điện trời, tuổi thọ rất dài rồi cũng phải hết. Các vị A-la-hán đã bỏ các gánh nặng xuống, đạt đến tự lợi, sạch các kết sử, tâm được tự tại, chánh trí giải thoát, thân tối hậu cũng trở về chỗ tan hoại. Các vị Phật Bích chi một mình không bạn, thường ở chỗ tịch tĩnh cũng sẽ tan diệt. Chư Phật chánh giác, đủ mười lực, có bốn vô úy, đắc bốn vô ngại, có thể rống tiếng sư tử, thân cũng vô thường, hội họp quy về tan diệt.

Phật dạy:

–Này Đại vương, Ta vì đại vương phân biệt các trường hợp sanh phải có tử. Tóm lại, không sanh thì không chết.

Đức Phật nói kệ:

Đã sanh phải có tử
Sống bao lâu cũng chết
Tùy nghiệp thọ duyên báo
Thiện ác đều có quả
Tu phước được sanh thiên
Làm ác đọa địa ngục
Hành đạo đoạn sanh tử
Vĩnh viễn nhập Niết-bàn.
Không trên trời dưới biển
Hay vào giữa núi đá
Không có địa phương nào
Thoát khỏi được cái chết
Chư Phật và Duyên giác
Bồ tát với Thanh văn
Còn bỏ thân vô thường
Huống chi những phàm phu.

Khi vua Ba-tư-nặc nghe lời Phật dạy, tâm ý mở thông, không còn ưu sầu, hoan hỷ từ giã. Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

55. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Vua Ba-tư-nặc ở chỗ yên tĩnh tự suy nghĩ: “Với con người, thế nào là yêu bản thân, thế nào là hại bản thân?”. Vua lại suy nghĩ: “Nếu thân, khẩu, ý thực hành nghiệp thiện, xa lìa các điều ác, gọi là yêu bản thân. Nếu thân, khẩu, ý làm việc bất thiện, tạo các điều ác, gọi là không yêu bản thân”.

Vua Ba-tư-nặc nghĩ như thế rồi, rời chỗ yên tịnh, đến gặp Đức Phật, lạy dưới chân Ngài, ngồi qua một bên, thưa:

–Bạch Thế Tôn, con ở chỗ yên tịnh, tự nghĩ: “Thế nào là yêu bản thân? Thế nào là hại bản thân? Ai có thể với thân, khẩu, ý hành thiện, là yêu bản thân. Ai với thân, khẩu, ý hành nghiệp bất thiện, là không yêu bản thân”.

Đức Phật dạy:

–Này Đại vương, đúng như vậy! Người nào thân, khẩu, ý làm việc ác, là không yêu bản thân. Vì sao? Người vì điều ác, tuy có kẻ oán thù nhưng không chắc gì gây hại cho họ nhanh chóng. Nhưng nếu họ tự tạo nghiệp ác, thì sự tai hại rất ghê gớm. Thế nên tự mình tạo nghiệp ác gọi là không tự yêu mình. Lại nữa, có người vì bản thân nên hành động sát, đạo, dâm, đó là gây tổn hại cho mình.

Người nào thân, khẩu, ý hành thiện, giả như họ tự nghĩ: “Ta xả bỏ vợ con, gia đình yêu mến”, người thường thì gọi đó là không yêu bản thân. Thật ra đó chính là yêu bản thân. Tại sao? Người như vậy tuy có thân quyến, bạn bè, cha mẹ, anh em với ân tình ghi xương khắc cốt, nhưng đến lúc họ già, suy, cũng không thể cứu giúp được. Cần phải tự thân, khẩu, ý mình tu hành nghiệp thiện mới có thể tự cứu độ. Đó là yêu bản thân.

Đức Phật nói kệ:

Người nào tự yêu mình
Không gây ác cho người
Người không làm điều ác
Là kẻ được an lạc.
Nếu ai tự yêu mình
Phải làm các nghiệp thiện
Mau lẹ thu nhận được
Nhiều hạnh phúc khác nhau.
Ai muốn yêu chính mình
Phải giữ gìn ba nghiệp
Thí như thành biên giới
Đồng hoang nhiều giặc cướp
Khi tai nạn chưa đến
Tự bảo vệ nghiêm mật.
Chưa nạn, không phòng hộ
Gặp nạn khổ vô cùng.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

56. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vua Ba-tư-nặc ở chỗ vắng, tự suy nghĩ: “Thế nào là hộ trì bản thân? Thế nào là không hộ trì bản thân?”. Nhà vua lại tự nghĩ: “Người nào tu thiện là hộ trì bản thân, người nào làm ác là không hộ trì bản thân”.

Sau khi suy nghĩ như vậy, nhà vua rời chỗ ngồi, đến gặp Đức Phật, lạy dưới chân, ngồi qua một bên, thưa:

–Bạch Thế Tôn, con ở chỗ vắng, tự nghĩ: “Thế nào là hộ trì bản thân? Thế nào là không hộ trì bản thân?”. Con lại nghĩ: “Ai tu hạnh thiện là hộ trì bản thân. Ai hành bất thiện là không hộ trì bản thân”.

Đức Phật dạy:

–Này Đại vương, đúng vậy! Đúng vậy! Nếu đem bốn loại binh là tượng binh, mã binh, xa binh, bộ binh bảo vệ chung quanh tự thân, cũng không được gọi là hộ trì bản thân. Tại sao? Đây không phải là sự hộ trì bên trong. Người nào thân, khẩu, ý làm thiện, tuy không có bốn loại binh hộ vệ, vẫn được gọi là hộ trì tự thân. Vì sao? Đây là có sự phòng hộ bên trong. Sự hộ trì bên trong này hơn là sự giữ gìn từ bên ngoài, nên được gọi là hộ trì bản thân.

Đức Phật nói kệ:

Người nào muốn tự hộ
Thường hộ thân, khẩu, ý
Tu hành các pháp thiện
Có hổ và biết thẹn
Ai không hộ ba nghiệp
Tà kiến và phiền não
Ngăn che các pháp thiện
Tùy tùng theo ma ác
Chính là tự hại mình
Thế nên phải tự hộ
Tu giới, định, trí tuệ
Phụng hành lời Phật dạy.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

57. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vua Ba-tư-nặc ngồi ở chỗ vắng, suy nghĩ: “Trong thế gian này ít có người làm được sự nghiệp giàu sang, dồi dào tài sản. Giả sử có được sự nghiệp tài sản mà không sống kiêu sa, khiêm tốn biết đủ, tiết chế thị dục, không hại chúng sanh, người như vậy ít có. Thế gian có rất nhiều người được sản nghiệp hơn người, lại kiêu căng, phóng đãng, tham đắm dục vọng, não hại chúng sanh. Người như vậy rất nhiều”.

Vua Ba-tư-nặc ở chỗ yên tịnh, suy nghĩ như thế, rồi đứng dậy, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát đất, ngồi qua một bên, bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, con ở chỗ vắng, tự nghĩ: “Trong thế gian, nếu có người được sản nghiệp lớn, tâm biết tri túc, không phóng túng, không tham đắm các dục, không não hại người khác; người như vậy rất ít. Nếu có người được cơ nghiệp to lớn, kiêu căng, phóng đãng, tham đắm dục vọng, gây hại cho chúng sanh, người như vậy rất nhiều!”.

Đức Phật dạy:

–Này Đại vương, thật vậy! Thật vậy! Trong thế gian có nhiều người được phong bỗng lộc rồi sanh kiêu mạn, phóng đãng, tham đắm dục vọng, gây khổ sở cho chúng sanh. Người ngu như vậy chịu khổ lâu dài, bị tổn hại rất nhiều, phải bị đọa vào địa ngục sau khi qua đời.

Này Đại vương, như người đánh cá và đệ tử của họ với phương pháp kỹ thuật bắt cá tinh xảo, dùng lưới dày bủa ngang dòng nước chảy. Con cá, con ngao, con giải, kỳ đà, các loại thủy tộc...đều lọt vào lưới. Các loài thủy tộc này, con nào bị vào lọt lưới đều nằm trong tay người đánh cá, bị lôi kéo, di chuyển tùy theo ý của người đánh cá.

Cũng như thế, có rất nhiều người ở thế gian được phong bổng lộc hơn người, lại kiêu mạn, phóng đãng, tham đắm năm dục, làm hại cho chúng sanh. Vì sao? Người ngu như vậy đã lọt vào lưới của Ma, bị lưới Ma bắt được, cử động, sinh hoạt đều do Ma sai khiến.

Thế Tôn nói kệ:

Phóng túng, đắm sự nghiệp
Hoang mê mùi năm dục
Không biết có quả ác
Như cá vào lưới dày
Nghiệp này đã thành tựu
Chịu khổ não vô cùng.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

58. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vua Ba-tư-nặc ở chỗ vắng, tự suy nghĩ: “Trong thế gian ít có người được phong bổng lộc cao mà không kiêu mạn, phóng túng, không tham năm dục, không làm hại chúng sanh. Trong thế gian có nhiều người được cơ nghiệp hơn người, lại kiêu mạn, phóng túng, tham đắm năm dục, làm hại chúng sanh”. Nhà vua suy nghĩ như vậy xong, liền rời chỗ ngồi, đến gặp Đức Phật, lạy dưới chân Ngài, ngồi qua một bên, thưa:

–Thưa Thế Tôn, con ở chỗ vắng, suy nghĩ::Trong thế gian ít có người được cơ nghiệp hơn người mà không kiêu mạn phóng túng, không tham năm dục, không hại chúng sanh. Có nhiều người được cơ nghiệp to lớn, lại tham đắm năm dục, làm hại chúng sanh”.

Phật dạy:

–Này Đại vương, thật vậy! Thật vậy! Đúng như lời nhà vua nói. Như người thợ săn đào hầm bắt nai, đuổi chúng chạy rơi vào hầm, tùy ý bắt chúng. Trong thế gian, có nhiều chúng sanh được cơ nghiệp to lớn, kiêu căng, phóng đãng, tham đắm năm dục, gây khổ sở cho chúng sanh, cũng như vậy. Người ngu như thế đã rớt vào bẫy của Ma, tùy theo Ma sai khiến, sẽ rơi vào địa ngục, chịu khổ lâu dài.

Thế Tôn nói kệ:

Phóng dật, vướng sự nghiệp
Mê muội trong năm dục
Không biết quả ác sau
Như nai rớt bẫy sâu
Phải chịu nhiều khổ não
Người làm nghiệp ác này
Sầu khổ lại chịu khổ
Hối hận làm sao kịp
Người thực hành nghiệp thiện
Sau được kết quả tốt
Lâm chung ý hoan hỷ
Sau không có hối hận.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

59. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vua Ba-tư-nặc đến gặp Phật, lạy dưới chân Ngài, ngồi qua một bên, thưa:

−Thưa Thế Tôn, có một Trưởng giả tên Ma-ha-nam, nhà rất giàu, có nhiều của cải quý giá.

Đức Phật hỏi:

–Giàu to như thế nào?

Nhà vua bạch Phật:

–Nhà vị Trưởng giả ấy, số vàng bạc châu báu đến ngàn vạn ức, không thể kể hết, huống chi các loại tài sản khác. Ông ta tuy giàu có nhưng không dám ăn uống, thức ăn của ông chỉ là cám tạp thô nhám. Khi ông nấu canh, nấu cả gừng vào, nấu xong lại đem bán hết để lấy tiền sử dụng. Y phục của ông chỉ dùng vải thô, chỉ có năm tấm vải xấu để mặc bên trong, đi lại bằng xe cũ, lấy lá cây kết làm lọng để che. Chưa bao giờ thấy ông ta bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn, người nghèo, trẻ con.

Khi muốn ăn, trước hết đóng cửa, sợ các Sa-môn, Bà-la-môn... đến khất thực. Đức Phật dạy:

–Này Đại vương, người như thế không phải là trượng phu tốt. Vì sao? Được tài sản giàu có như vậy mà vị ấy lại không thể mở rộng lòng hưởng thụ vui vẻ một cách chân chánh, lại không thể hiếu dưỡng cha mẹ, cung cấp cho vợ con, lại không ban ơn cho nô tỳ, người làm, lại không khi nào bố thí cho các Sa-môn, Bà-la-môn, lại không cầu mong quả báu được sanh thiên. Cũng như chỗ đất mặn, có ao ít nước, vì nước mặn đắng người không uống được, nên đưa đến khô kiệt. Người ngu trong thế gian cũng như vậy, được tài sản to lớn không chịu sử dụng để tự thân hưởng an lạc, lại không thể cung dưỡng cho cha mẹ, nuôi dưỡng vợ con. Đối với quyến thuộc, nô tỳ người ở, bạn thân tri thức đều không giúp đỡ tiền của. Tuy họ có tài sản quý báu dồi dào nhưng không lợi ích gì cả.

Phật dạy:

–Này Đại vương, vị Thiện trượng phu có sản nghiệp thường đem ra sử dụng thọ hưởng một cách an lạc chân chánh, đồng thời cúng dường Sư trưởng, cha mẹ, cho vợ con, quyến thuộc, nô tỳ người ở, bạn bè tri thức, cho đến cúng dường Samôn, Bà-la-môn; người nghèo nàn đến xin đều bố thí cho cả. Người thiện như vậy, tài sản quý giá tạo được gọi là thượng nghiệp, tạo những nhân an lạc và duyên sanh thiên. Người này thu hoạch tài sản, thành tựu việc thiện lớn. Ví như bên cạnh làng xóm, thành phố, có ao nước trong xanh, chảy ra nước sạch, bốn phía bằng thẳng, có nhiều cây cối, hoa trái rậm rạp, cỏ mọc mềm mại bao phủ quanh hồ. Tất cả mọi người đều được tắm rửa, được nước uống tốt. Các loại cầm thú bay lượn, chạy chơi thích thú nơi đó. Người trượng phu khéo giỏi cũng vậy... được sanh cõi trời, thành tựu thiện lớn.

Thế Tôn nói kệ:

Đất có nhiều muối mặn
Giữa có ao nước mát
Mặn đắng không uống được
Sau tự nó khô kiệt.
Kẻ khốn khổ cũng vậy
Tuy có nhiều tài bảo
Nhưng không dám ăn mặc
Cũng không đem cho người
Gọi là kẻ khốn khổ.
Có tài sản bố thí
Như vùng đất bằng rộng
Có hồ nước trong xanh
Cây rừng rậm chung quanh
Người, thú đều ưa thích
Đây gọi là người trí
Như con trâu chúa lớn
Khi sống hưởng an lạc
Lúc chết được sanh thiên.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

60. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Trong thành, có một Trưởng giả tên Ma-ha-nam, không có con nối dõi, bị bệnh qua đời. Theo phép nước bấy giờ, ai không có con trai, sau khi qua đời thì gia tài phải nhập vào công quỹ. Vì lý do này, tài sản của Ma-ha-nam phải bị nạp cho vua.

Vua Ba-tư-nặc thân thể đầy bụi, đến gặp Phật, sau khi làm lễ, liền ngồi qua một bên. Đức Phật bảo nhà vua:

–Hôm nay vì sao Đại vương thân thể bụi bặm, dung mạo khác thường mà đến đây?

Vua Ba-tư-nặc bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, trong thành Xá-vệ có vị đại Trưởng giả tên Ma-ha-nam mới chết hôm qua. Vì không con nên tài sản của ông ta đều phải sung vào công quỹ. Con đi xem xét tài sản ông ta chẳng kể gió bụi, nên thân thể bị bụi bặm như vậy.

Đức Phật hỏi nhà vua:

–Ma-ha-nam có thật là cự phú không?

Nhà vua đáp:

–Bạch Thế Tôn, đúng vậy. Giàu có như thế nào? Vàng bạc châu báu số ngàn vạn ức, không thể tính toán, huống chi các tài sản khác. Ông ta tuy có châu báu tích chứa rất nhiều nhưng vì keo kiệt nên không dám ăn. Khi ăn, chỉ ăn lúa lép, lúa mạ, cám tạp rất thô cứng. Khi nấu canh chỉ nấu với gừng, nấu xong lại đem bán bớt để lấy tiền tiêu. Khi mặc chỉ dùng áo vải thô. Tất cả y phục chỉ có năm tấm vải xấu để mặc. Đi đâu chỉ dùng xe cũ, xấu, kết lá làm tàng lọng để che. Chưa bao giờ thấy ông ta bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn, hay người nghèo khốn xin ăn.

Đức Phật dạy:

–Người ngu thế đó chẳng phải là vị Thiện trượng phu. Vì sao? Tuy có tài sản không thể mở lòng hưởng thọ an lạc chân chánh, lại không thể giúp đỡ nuôi nấng cha mẹ cùng vợ con, không ban bố cho nô tỳ người ở, không khi nào bố thí cho Samôn, Bà-la-môn, cũng không cầu quả báo thiện để sanh thiên.

Đức Phật lại bảo nhà vua:

–Thuở xưa, vị Ma-ha-nam ấy từng ở nơi Đức Phật Bích chi, tên Đa-già-la-sắt, vun trồng một ít căn lành. Khi đó ông ta đã bố thí thức ăn uống nhưng không chí tâm, không bằng tín tâm, không tự tay cho, không cung kính, bố thí cho qua chuyện, sau khi bố thí lại sanh tâm hối hận, tự suy nghĩ: “Thức ăn uống của ta tại sao lại cho Sa-môn trọc đầu này, không bằng đem cho kẻ tôi tớ trong nhà ta”. Khi ông ấy qua đời, được sanh vào nhà Trưởng giả cự phú bậc nhất trong thành Xá-vệ. Tuy được sanh vào nhà Trưởng giả giàu có, nhưng vì đời trước bố thí thức ăn có tâm hối tiếc, nên tự nhiên không ưa mặc y phục đẹp, lại không thích thức ăn ngon, không ưa thích đi xe ngựa có trang trí đẹp.

Đại vương nên biết, Ma-ha-nam vào thuở xưa, gia đình giàu có, vì tham tài sản tiền bạc, giết người em khác mẹ. Vì nhân duyên này bị đọa vào địa ngục, chịu khổ đau trong vô lượng vạn năm. Vì lý do này, bảy lần tài sản của ông ta bị sung công. Ma-ha-nam đối với Phật Bích chi Đa-già-lasắt nhờ nhân duyên bố thí thức ăn, sau khi hưởng phước hết, như tội nhân lớn bị đọa vào địa ngục sau khi qua đời. Ma-ha-nam qua đời cũng như vậy, bị đọa vào địa ngục kêu gào lớn. Vua Ba-tư-nặc lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Ma-ha-nam sau khi qua đời có thật bị đọa vào địa ngục kêu gào lớn không?

Phật dạy:

–Thật bị đọa.

Nhà vua nghe vậy buồn bã rơi lệ, rồi sửa lại y phục, trịch vai áo bên phải, chắp tay nói kệ:

Tiền tài lúa vải và châu báu
Nô tỳ, người hầu và quyến thuộc
Tất cả tài sản và người hầu
Không thể mang theo, dù phần nhỏ.
Khi sự chết đến, thây cũng bỏ
Tất cả tài bảo tuy la liệt
Không có vật gì là của ta
Cũng không mang theo một vật nào.
Chẳng có vật gì đi theo ta
Như là cái bóng đi theo hình
Quả báo thiện ác làm không mất
Chỉ có nghiệp như bóng theo người.

Đức Thế Tôn nói kệ đáp:

Thiện ác đi theo người
Như bóng đi theo hình
Hình đi đến nơi đâu
Bóng theo đó không rời.
Như có ít lương thực
Vượt hiểm rất khổ não
Làm ác cũng như vậy
Không thể đến nẻo thiện.
Như lương thực dồi dào
An vui vượt đường hiểm
Người tu phước cũng thế
An ổn đến chỗ thiện.
Như xa nhà đã lâu
Đến nơi rất xa xôi
Khi an ổn về nhà
Trong tâm rất vui thích.
Vợ con cùng quyến thuộc
Hoan hỷ cùng đón tiếp
Tu thiện cũng như vậy
Nghiệp thiện đến nghinh đón
Như bà con xa cách
Gặp nhau rất vui mừng.
Thế nên phải chứa thiện
Gây phước cho đời sau
Muốn được phước đời sau
Phải tu hành chánh hạnh
Nay không bị chê trách
Đời sau hưởng an lạc.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

61. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ vua Ba-tư-nặc muốn tổ chức tế đàn lớn. Vua nuôi một ngàn con bò trói ở trụ, và trâu mao, trâu cày, trâu sữa, trâu nghé, trâu nhỏ, mỗi loại đều một ngàn con. Các loại dê đực, dê đen cũng một ngàn con. Các loại súc sanh đều bị dắt đến tế đàn.

Các Bà-la-môn ở những nước khác nghe nhà vua tổ chức tế đàn lớn, từ xa cũng đều kéo về tập hợp ở thành Xá-vệ.

Có nhiều Tỳ-kheo từ sáng sớm mặc y, mang bát vào thành khất thực, nghe vua Ba-tư-nặc muốn tế đàn lớn, nuôi cả ngàn con bò, trâu mao, trâu nước, trâu cày, trâu nhỏ và trâu nghé đều một ngàn con; các loại dê đen, dê đực cũng một ngàn con; các loại súc sanh này đều bị dẫn đến tế đàn. Lại nghe những Bà-la-môn ở những nước khác biết tin vua Ba-tư-nặc tổ chức đại tế đàn nên tất cả tập hợp ở thành Xá-vệ. Các Tỳ-kheo khất thực xong, sau khi thọ trai, xếp y cất bát, rửa chân, đến gặp Thế Tôn, lạy sát chân, ngồi qua một bên, bạch Phật: –Thưa Thế Tôn, hôm nay chúng con vào thành khất thực được nghe sự việc như vầy...

Đức Thế Tôn nghe xong, liền nói kệ:

Trăm ngàn tháng cúng tế
Cúng vậy để cầu phước
Không bằng phần mười sáu
Của một lần tin Phật.
Trăm ngàn tháng cúng tế
Tu vậy để cầu phước
Không bằng phần mười sáu
Của một lần tin Pháp.
Trăm ngàn tháng cúng tế
Tu vậy để cầu phước
Không bằng phần mười sáu
Của một lần tin Tăng.
Trăm ngàn tháng cúng tế
Tu vậy để cầu phước
Không bằng phần mười sáu
Một lần tu tâm Từ.
Trăm ngàn tháng cúng tế
Tu vậy để cầu phước
Không bằng phần mười sáu
Một lần thương chúng sanh.
Trăm ngàn tháng cúng tế
Tu vậy để cầu phước
Không bằng phần mười sáu
Thương tưởng đến quỷ thần.
Trăm ngàn tháng cúng tế
Không bằng phần mười sáu
Một lần phát tâm thiện
Thương xót loài súc sanh.
Trăm ngàn tháng cúng tế
Không bằng phần mười sáu
Sanh tín tâm yêu thích
Với lời Đức Phật dạy.
Giả sử tế nhiều cách
Và phụng sự thờ lửa
Tu vậy muốn cầu phước
Lễ các tế đàn này
Suốt hết cả một năm
Không bằng đứng thẳng người
Cung kính Phật một lạy
Phước đức hơn bốn lần.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

62. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ vua Ba-tư-nặc bắt một số người, có cả Sát-lợi, Tỳ-xá, Thủ-đà-la, Sa-môn, Bà-la-môn, người xuất gia giữ giới, phá giới, cho đến kỹ nữ, Chiên-đà-la... giam giữ.

Các Tỳ-kheo vào thành khất thực, nghe sự việc như trên, sau khi thọ trai, rửa chân xong, đến gặp Đức Phật, lạy sát chân Ngài, ngồi qua một bên, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, chúng con vào thành khất thực, nghe vua Ba-tư-nặc bắt giữ những vị Sát-đếlợi, Tỳ-xá, Thủ-đà-la, Sa-môn, Bà-la-môn, người xuất gia trì giới, phá giới và kỹ nữ, Chiên-đà-la...

Thế Tôn nghe lời ấy xong, nói kệ:

Vua chúa trói buộc người
Dùng sắt, gỗ và dây
Hiền thánh xem việc này
Biết chẳng phải trói chắc.
Ai ái luyến vợ con
Tiền tài và châu báu
Những thứ ấy trói người
Chắc chắn hơn lao ngục.
Vợ con và tài sản
Người ngu bị trói buộc
Nó thật như suối dữ
Làm phàm phu chìm nổi
Vậy nên phải vượt qua
Mau đến chỗ giải thoát.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

Kệ tóm lược:

Tam-bồ-đề và mẹ
Yêu ta và giữ ta
Bắt cá và bẫy nai
Xan cùng với qua đời
Tế tự cùng trói buộc.

QUYỂN 4

TỤNG 1: PHẦN 4

63. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vua A-xà-thế nước Ma-kiệt-đà, thống lĩnh bốn loại binh cùng vua Ba-tư-nặc, bày trận đại chiến.

Vua A-xà-thế con bà Vi-đề-hy phá tan quân đội của vua Ba-tư-nặc. Vua Ba-tư-nặc một mình một xe chạy thoát vào thành.

Bấy giờ các Tỳ-kheo vào thành khất thực, thấy sự việc ấy, sau khi thọ trai xong, rửa chân, đến gặp Đức Phật, lạy sát chân Ngài, rồi đứng qua một bên, bạch:

−Thưa Thế Tôn, sáng sớm chúng con vào thành khất thực, thấy vua A-xà-thế cùng vua Batư-nặc đều thống lĩnh bốn loại binh, đánh nhau rất lớn. Bốn loại binh của vua Ba-tư-nặc bị phá tan, nhà vua một mình một xe chạy thoát vào thành.

Đức Thế Tôn nghe sự việc này, liền nói kệ:

Thắng có nhiều kẻ thù
Bị thua khổ, không ngủ
Ai không bị thắng bại
Tịch diệt ngủ an ổn.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

64. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ vua A-xà-thế nước Ma-kiệt-đà cùng vua Ba-tư-nặc đều thống lĩnh bốn loại binh, đánh nhau dữ dội.

Vua Ba-tư-nặc đại phá quân binh và bắt được vua A-xà-thế. Vua Ba-tư-nặc sau khi đắc thắng, đặt vua A-xà-thế cùng ngồi một xe, đến chỗ Đức Phật lạy sát chân Ngài.

Vua Ba-tư-nặc bạch Đức Phật:

–Thế Tôn, đây là vua A-xà-thế con bà Vi-đềhy nước Ma-kiệt-đề. Con đối với ông ta trước đây không oán thù, nhưng ông ta đối với con thường ôm lòng ganh ghét. Nhưng vua này là con trai của người thân hữu với con. Vì lý do ấy, nay con muốn thả vua A-xà-thế trở về nước.

Đức Phật dạy:

–Này Đại vương, hãy nên thả ra. Nếu nhà vua thả vua kia thì được nhiều lợi ích lâu dài.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Sức phá tan quân họ
Rồi bị thua lại người
Sức xâm lược xứ người
Lại bị người xâm lược.
Ngu nghĩ không báo ứng
Phải chịu đau khổ lớn
Đến lúc sắp qua đời
Mới biết thật có báo.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

65. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vua Ba-tư-nặc ở chỗ vắng vẻ tự nghĩ: “Giáo pháp Đức Phật dạy rất đúng và lợi ích, có kết quả trong hiện tại, không có phiền não, bức bách vượt ngoài thời gian, có khả năng làm cho chính người ấy đến ngay chỗ thiện. Giáo pháp ấy như thể báo với mọi người rằng: “Các người hãy khéo đến đây, Ta chỉ dạy cho các người diệu pháp! Người có trí tuệ tự thân tác chứng, đạt đến hiểu biết tận cùng, siêng năng tu tập với thiện hữu, thiện hữu như vậy, không được gần gũi với bạn ác và tri thức xấu ác, nên xa lìa bạn ác”. Nhà vua suy nghĩ như thế, rồi rời chỗ ngồi đến gặp Đức Phật, ngồi qua một bên, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, con ở chỗ vắng, suy nghĩ: “Giáo pháp Đức Phật dạy rất đúng và lợi ích, có kết quả trong hiện tại, không có các phiền não bức bách, vượt ngoài thời gian…

cho đến… không giao du với bạn ác”.

Đức Phật bảo nhà vua:

–Đúng vậy, đúng vậy! Giáo pháp Phật dạy rất đúng và lợi ích, có kết quả trong hiện tại…

cho đến… không giao du với bạn ác. Trước đây ta ở nơi rừng Kỳ-lê-bạt-đề, thuộc thành Vương xá.

Bấy giờ Tỳ-kheo A-nan, một mình ở chỗ vắng, suy nghĩ: “Người thiện tri thức đem đến cho ta một nửa đời sống phạm hạnh.” A-nan suy nghĩ như vậy, liền đến gặp Ta, sau khi đảnh lễ, thưa như thế này:

–Người thiện tri thức đem đến cho ta một nửa đời sống phạm hạnh, chẳng phải tri thức xấu ác, bạn ác, bạn xấu.

Ta bảo A-nan:

–Thôi, thôi! Đừng bày tỏ như vậy, tại vì sao? Thiện tri thức, người quen thiện, bạn thiện chính là đem đến cho ta toàn phần đời sống phạm hạnh. Lại nữa, người bạn hữu thiện không bè đảng với tri thức ác, bạn ác, bạn xấu. Vì sao vậy? Ta nhờ thiện tri thức nên thoát khỏi sanh tử, thế nên biết rằng người thiện tri thức đem đến cho ta toàn phần đời sống phạm hạnh. Sự việc như vậy, ông cần phải phân biệt rõ, giáo pháp Đức Phật dạy đúng sự thật và đạt được lợi ích lớn, có kết quả trong hiện tại … cho đến không bè đảng với bạn ác, tri thức xấu ác …

Đức Thế Tôn nói kệ:

Trong các loại pháp thiện
Không phóng dật hơn hết
Ai đang sống phóng dật
Hiền thánh đều chê trách
Ai sống không phóng dật
Được vương vị Thiên đế
Tối thắng trong chư Thiên
Giữa làm và không làm
Không phóng dật tối thắng
Ai sống không phóng dật
Tọa thiền diệt các lậu
Chứng đắc quả thù thắng.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy đều hoan hỷ phụng hành.

66. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vua Ba-tư-nặc ở chỗ vắng, tự suy nghĩ: “Có một pháp nào tạo được lợi ích trong hiện tại và cả trong vị lai?”. Nghĩ như thế, nhà vua đến chỗ Đức Phật, lạy sát chân Ngài, ngồi qua một bên, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, có một pháp nào tạo được lợi ích cho hiện tại và cho cả trong vị lai không?

Đức Phật dạy:

–Ta có một pháp tu hành phát huy rộng rãi đưa đến nhiều lợi ích cho hiện tại và vị lai. Đó là tu hành pháp không phóng dật, được lợi ích trong hiện tại và lợi ích cả trong đời vị lai. Như mặt đất có thể sanh hàng trăm loại lương thực, và tất cả cỏ cây, tất cả pháp thiện đều bắt nguồn từ pháp không phóng dật phát sanh, tăng trưởng từ pháp không phóng dật.

Này Đại vương, cũng như mặt đất, tất cả hạt giống, nhân từ mặt đất mà sanh, nhân từ mặt đất mà tăng trưởng rộng lớn. Tất cả chúng sanh dựa vào nhân không phóng dật cũng như vậy.

Trong các loại hương rễ, hương Hắc-kiên-thật là hàng đầu. Việc này cũng như vậy, tất cả pháp thiện đều bắt nguồn từ không phóng dật. Trong các loại hương cứng chắc, hương Chiên-đàn đỏ là hạng nhất, việc này cũng vậy. Tất cả pháp thiện đều bắt nguồn từ không phóng dật là gốc, không phóng dật là nhân của Thật pháp.

Không phóng dật là chỗ sanh ra pháp thiện.

Trong các loại vòng hoa, vòng hoa Càn-đà-bàlê-cầm là bậc nhất. Trong tất cả pháp thiện, không phóng dật là bậc nhất. Ngoài ra như nói ở trên.

Tất cả các loại hoa mọc trong nước, hoa sen xanh là bậc nhất. Trong tất cả pháp thiện, không phóng dật là bậc nhất.

Dấu chân tất cả loại thú, dấu chân voi là lớn nhất. Trong tất cả pháp thiện, không phóng dật là bậc nhất.

Như đánh với giặc, ai thắng nhiều trận trước gọi là bậc nhất, tất cả pháp thiện, bất phóng dật là bậc nhất.

Tất cả loài thú, sư tử đứng đầu. Trong các pháp thiện, không phóng dật là bậc nhất.

Tất cả lâu đài, Cao-ba-na-tả là bậc nhất. Trong pháp thiện, không phóng dật là bậc nhất.

Tất cả các cây Diêm-phù-đề, cây Diêm-phù-đề ở thượng giới là bậc nhất. Trong pháp thiện, không phóng dật là bậc nhất.

Tất cả các cây Chiêm-ba-la, cây Cưu-ba-khổba-la, là bậc nhất. Trong tất cả pháp thiện, không phóng dật là bậc nhất.

Tất cả cây Bát-thát-la, cây Cẩm-văn-tiêu-thátla là bậc nhất. Trong tất cả pháp thiện, không phóng dật là bậc nhất.

Tất cả các núi, núi Tu-di là bậc nhất. Trong tất cả pháp thiện, không phóng dật là bậc nhất.

Tất cả loại vàng, vàng Diêm-phù-đàn là bậc nhất. Trong các pháp thiện, bất phóng dật là bậc nhất.

Tất cả y phục đẹp, y phục Ca-thi là bậc nhất.

Trong các pháp thiện, không phóng dật là bậc nhất.

Tất cả màu sắc, màu trắng là bậc nhất. Trong tất cả pháp thiện, không phóng dật là bậc nhất.

Tất cả loài chim, Kim sí điểu là bậc nhất. Trong các pháp thiện, không phóng dật là bậc nhất.

Tất cả ánh sáng, nhật quang là bậc nhất. Pháp không phóng dật cũng như vậy, ngoài ra như trên đã nói.

Như đã trình bày, trong các hạnh tu tập thiện, không phóng dật là căn bản, là nhân sanh ra pháp thiện.

Thế nên, này Đại vương, Đại vương nên tu tập theo pháp không phóng dật, cũng nên y chỉ nơi pháp không phóng dật. Nếu vua không phóng dật thì phu nhân, phi hậu của vua cũng không phóng dật, vương tử đại thần cùng các quan phụ thuộc cũng vậy. Ai không phóng dật là người gìn giữ trong ngoài nơi hoàng cung. Nhờ không phóng dật nên kho tàng đầy đủ. Nhà vua không phóng dật là tự hộ trì và hộ trì cho tất cả.

Bấy giờ Đức Phật nói kệ:

Không phóng dật tối thắng
Phóng dật chê bai nhiều
Đời này không phóng dật
Đời sau được lợi lớn.
Đời này, đời khác lợi
Hiểu biết lợi hai đời
Là hành động của bậc
Trượng phu và minh triết.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy đều hoan hỷ phụng hành.

67. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vua Ba-tư-nặc ở chỗ vắng, tự suy nghĩ: “Thế gian có ba pháp: một là đáng ghét, hai là không đáng yêu, ba là không đáng nhớ. Những gì đáng ghét? Đó là già. Cái gì không đáng yêu? Đó là bệnh. Cái gì không đáng nhớ? Đó là chết!”.

Vua Ba-tư-nặc nghĩ như thế rồi, rời chỗ ngồi, đến gặp Phật, làm lễ Ngài, ngồi qua một bên, bạch: –Thưa Đức Thế Tôn, con ở chỗ vắng, tự suy nghĩ: “Trên đời có ba pháp: Một là đáng ghét, hai là không đáng yêu, ba là không đáng nhớ. Cái gì đáng ghét? Đó là già. Cái gì không đáng yêu? Đó là bệnh. Cái gì không đáng nhớ? Đó là chết”.

Đức Phật bảo nhà vua:

–Đúng vậy, đúng vậy! Ba loại pháp này đúng như vua nói. Này Đại vương, thế gian nếu không có ba pháp này thì Đức Phật không ra đời và cũng không thuyết pháp. Vì có ba pháp này nên Đức Phật mới ra đời, vì chúng sanh thuyết pháp.

Đức Phật nói kệ:

Xe vua trang trí đẹp
Rực rỡ rất kỳ diệu
Lâu ngày màu tàn tạ
Như người cũng phải chết
Pháp thật không già suy
Lần lượt truyền cho nhau
Ôi! già suy, giặc ác
Sắc xinh đẹp tuấn tú
Rồi cũng bị suy tàn
Giả như sống trăm năm
Cuối cùng rồi cũng chết
Bệnh đến sức không còn
Già đến đi về chết
Nên phải vui thiền định
Chánh niệm luôn tinh cần
Thấu tỏ đời sống này
Chiến thắng chống ma quân
Vượt bờ cõi sanh tử.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy đều hoan hỷ phụng hành.

68. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vua Ba-tư-nặc đến gặp Đức Phật, đảnh lễ dưới chân, ngồi qua một bên, bạch Phật:

–Thưa Đức Thế Tôn, khi bố thí nên cho chỗ nào? Đức Phật đáp:

–Tùy theo sự ưa thích của người tu hạnh bố thí nơi đâu, thì bố thí nơi ấy.

Nhà vua lại hỏi:

–Bố thí chỗ nào thì được quả báo lớn?

Đức Phật trả lời:

–Nhà vua đã hỏi khác với câu hỏi trước. Nay Ta hỏi Đại vương, Đại vương hãy trả lời theo ý của mình.

Như khi xuất quân sắp chiến đấu, phương Đông có người Sát-lợi, khỏe mạnh có sức lực đến, nhưng họ không giỏi binh pháp, không biết tự chủ, không biết bắn cung, gặp giặc thì sợ hãi, không dám đối địch, thường bỏ chạy trước; không thể giữ vững vị trí của mình, bắn tên không xa, giả như có bắn cũng không trúng, không gánh vác, điều động được quân trong trận lớn. Khi Đại vương chiến đấu với nước khác, có người như vậy, Đại vương có an ủi bảo: “Ngươi hãy thân cận ta, sẽ được ban thưởng lớn!”. Đại vương có làm như vậy không?

Nhà vua đáp:

–Bạch Thế Tôn, con thật không sử dụng người như vậy. Tại sao? Khi chiến đấu, không cần hạng người như thế.

Đức Phật hỏi:

–Phương Nam có Bà-la-môn, phương Tây có Tỳ-xá, phương Bắc có Thủ-đà cũng như vậy. Những người như thế, nhà vua có sử dụng không?

Nhà vua đáp:

–Khi chiến đấu con không sử dụng họ.

Đức Phật nói:

–Khi chiến đấu, phương Đông có người Sátlợi đến tuổi cường tráng, thân thể vạm vỡ, sức lực khỏe mạnh, giỏi binh pháp, biết cả bắn cung và các kỹ thuật khác, nhiều thuật tài giỏi bằng tay, khéo tự chủ, dũng mãnh đối địch, gan lớn không sợ, tâm không kinh hãi, thấy địch không lùi, giữ vững vị trí, bắn tên đi xa, luôn đúng vào mục tiêu, không trật, dũng mãnh thẳng tiến, phá được trận lớn. Khi Đại vương lâm chiến sẽ sử dụng người nào? Nhà vua đáp:

–Con dùng người dũng kiện. Vì sao? Theo phép tắc chiến tranh, cần người dũng kiện, phương Nam, Tây, Bắc cũng vậy.

Đức Phật dạy:

–Này Đại vương, đúng vậy! Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn không hội đủ năm yếu tố, thì không phải là phước điền. Ai đầy đủ năm yếu tố, thì xứng đáng là phước điền, bố thí sẽ được quả báo lớn, lợi ích lớn, thịnh vượng vô cùng, quả báo luôn tăng trưởng rộng khắp.

Thế nào gọi là hội đủ năm yếu tố? Là đoạn trừ năm thứ trói buộc, ngăn che. Thế nào là đoạn trừ năm thứ ấy? Là đoạn trừ tham dục, sân hận, thùy miên, trạo hối và nghi, gọi là đoạn trừ năm thứ trói buộc, ngăn che.

Thế nào là đầy đủ năm yếu tố? Là đầy đủ giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến của bậc Vô học. Ai bố thí các bậc Sa-môn, Bà-la-môn đầy đủ năm yếu tố như vậy thì được kết quả lớn, sự thịnh vượng lớn, được quả báo sâu rộng.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Thí dụ có một người
Dũng mãnh có sức mạnh
Điêu luyện cách bắn cung
Biết đủ các kỹ thuật
Chiến đấu cần người này
Nên ban thưởng trọng hậu
Phong tước, ban châu báu
Không phân biệt dòng dõi
Chỉ ban thưởng công lao
Đại vương nên như vậy.
Người nào thường hành thiện
Nhu hòa tu nhẫn nhục
Thấy được bốn chân đế
Được bước vào dòng Thánh
Cúng dường bậc Trí tuệ
Không cần chọn giống nòi
Trú xứ tất phải có
Thực phẩm và ngọa cụ
Vật cúng dường như vậy
Nên cúng người đủ giới.
Trong dòng nước mênh mông
Làm phao nổi hay bè
Và tạo cầu, ghe thuyền
Tự độ và độ người
Chính là người đa văn
Thí như mây bủa kín
Giăng trùm cả thế giới
Điện quang chiếu sáng rực
Sấm sét chấn động xa
Giáng xuống trận mưa lớn
Đất đai đều thấm ướt
Cả cỏ cây rừng rậm
Đều nhờ tưới nước mưa
Lúa mạ thêm xanh tốt
Nông phu rất vui mừng
Tín thí chủ như vậy
Hiểu rộng, thường bố thí
Không có tâm keo kiệt
Thấm ướt dụ thực phẩm
Khuyến khích đem cho nhiều
Như tiếng sấm vang xa
Ví như mưa rơi xuống
Thu hoạch nhiều quả hạt
Người thường hành bố thí
Được công đức to lớn
Sau được vui Niết-bàn.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy đều hoan hỷ phụng hành.

69. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vua Ba-tư-nặc đến gặp Đức Phật, lạy sát dưới chân, ngồi qua một bên, bạch:

–Đức Thế Tôn, đẳng cấp Bà-la-môn thường sanh trong nhà Bà-la-môn, đẳng cấp Sát-lợi thường sanh trong nhà Sát-lợi phải không?

Đức Phật bảo nhà vua:

–Này Đại vương, không nên nói như vậy. Tại sao? Có bốn hạng người: Một là từ ánh sáng đi vào ánh sáng. Hai là từ ánh sáng đi vào bóng tối. Ba là từ bóng tối đi ra ánh sáng. Bốn là từ bóng tối đi vào bóng tối.

Thế nào là người từ bóng tối đi vào bóng tối? Như có chúng sanh sanh vào nhà bần cùng, hạ tiện; hoặc sanh vào nhà đao phủ, làm thuê, thân thể gầy ốm, hình dáng đen xấu, điếc mù câm ngọng, các căn không hoàn bị nên bị người khác sai khiến, không được tự do. Người như vậy hoặc thân hành nghiệp ác, khẩu làm nghiệp ác, hoặc tâm niệm bất thiện, sau khi qua đời, họ bị đọa vào địa ngục. Đấy là từ bóng tối đi vào bóng tối. Ta nói rõ là người ấy từ nhà xí lại đi vào nhà xí, từ bóng tối đi vào bóng tối.

Nếu như có người sanh vào nhà hạ tiện, đao phủ, làm thuê, thân thể gầy ốm, hình dáng đen xấu, điếc mù câm ngọng, các căn không đủ, bị người khác sai khiến, không được tự do thì đây gọi là bóng tối. Nếu người này, thân thường hành thiện, miệng thường hành thiện, ý thường hành thiện. Sau khi họ qua đời, được sanh cõi trời. Người như vậy từ dưới đất được đưa lên giường, từ giường được ngồi trên xe, từ xe được đưa lên ngựa, từ ngựa được đưa lên voi, từ voi được đưa lên cung điện. Do nhân duyên này, Ta nói rõ là người ấy từ bóng tối đi ra ánh sáng.

Thế nào là từ ánh sáng đi vào bóng tối?

–Có người sanh trong gia đình Sát-lợi, Bà-lamôn, Trưởng giả lớn, nhiều tài sản châu báu, giàu có vô lượng, kho tàng đầy ắp, người phục vụ đông đảo, phụ tướng đại thần, bạn bè thân thuộc đông đúc. Họ có thân hình đoan chính, sức lực mạnh khỏe, đây gọi là ánh sáng. Nếu người ấy thân làm nghiệp ác, miệng nói nghiệp ác, ý hành nghiệp ác, sau khi qua đời, bị đọa vào địa ngục như người từ cung điện bị hạ bệ xuống lưng voi, từ đi voi xuống đi ngựa, từ đi ngựa xuống đi xe, từ đi xe xuống ngồi trên giường, từ giường bị rớt xuống đất, từ dưới đất lại rơi vào hầm phân. Ta nói rõ người này từ ánh sáng đi vào chỗ tối tăm.

Thế nào là từ ánh sáng đi vào ánh sáng?

–Có người sanh vào nhà Sát-lợi, đại Bà-lamôn, Trưởng giả, có nhiều của cải châu báu, giàu có vô lượng, kho tàng tràn đầy, có nhiều tôi tớ, phụ tướng đại thần thân hữu quyến thuộc đông đảo. Họ có thân hình đoan chính, có uy lực lớn, đây gọi là ánh sáng. Người như vậy thân làm nghiệp thiện, miệng nói nghiệp thiện, ý hành nghiệp thiện, sau khi qua đời, được sanh cõi trời, như từ cung điện này đến cung điện khác, từ voi đến voi, từ ngựa đến ngựa, từ xe đến xe, từ giường đến giường. Người như thế, Ta nói rõ từ ánh sáng đi vào ánh sáng.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Đại vương, phải nên biết
Kẻ bần cùng bất tín
Lòng giận dữ ganh ghét
Thường khởi ác giác quán,
Tà kiến không cung kính
Sa-môn, Bà-la-môn
Trì giới và đa văn
Gặp họ thường nhục mạ
Nếu có ít tài vật
Không có tâm bố thí
Lại hủy báng người cho
Với nghiệp duyên như vậy
Phải bị đọa địa ngục
Nghiệp đọa địa ngục này
Là từ tối vào tối.
Này Đại vương, nên biết
Bần cùng ưa bố thí
Tín tâm, không giận dữ
Hổ thẹn, thích bố thí
Sa-môn, Bà-la-môn
Trì giới và đa văn
Và kính lễ thăm hỏi
Thường hành hạnh chánh thiện
Tự cho, khen người cho
Người nhận cũng tán thán
Người như vậy đời sau
Sanh cõi trời Ba ba
Đây là từ chỗ tối
Đi vào nơi sáng suốt.
Đại vương, lại nên biết
Giàu to mà bất tín
Thường giữ tâm sân hận
Hành động tham ganh ghét
Tà kiến, không cung kính
Sa-môn, Bà-la-môn
Trì giới và đa văn
Gặp họ thường nhục mạ
Không có tâm phụng thí
Sống như vậy, khi chết
Phải bị đọa địa ngục
Là từ sáng vào tối.
Đại vương, lại nên biết
Giàu to tín, không sân
Hổ thẹn được đầy đủ
Xả bỏ tâm keo kiệt
Sa-môn, Bà-la-môn
Trì giới và đa văn
Cung kính và chào hỏi
Thường hành việc chánh thiện
Tự cho, khen người cho
Được người nhận ca ngợi
Từ bỏ thân mạng này
Nhờ quả báo đã làm
Sanh trời Tam thập tam
Đây là nơi ánh sáng
Đi vào chỗ sáng hơn.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy đều hoan hỷ phụng hành.

70. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Vào giữa trưa, vua Ba-tư-nặc với thân thể bụi bặm đi xe đến gặp Đức Phật.

Đức Thế Tôn hỏi vua:

–Đại vương vì sao đến đây vào giữa trưa với thân thể bụi bặm thế này?

Nhà vua bạch Phật:

–Thưa Đức Thế Tôn, việc nước quá nhiều, sự vụ phức tạp, xử lý vừa xong, con liền đến gặp Đức Phật. Thế nên thân thể đầy bụi.

Đức Phật dạy:

–Này Đại vương, Ta hỏi, vua tùy ý đáp. Này Đại vương, có người bản tánh chánh trực, chưa từng dối trá, được mọi người tin tưởng từ phương Đông đi đến. Giả như họ nói với vua: “Hiện nay phương Đông có hòn núi đá lớn, trên đụng trời, dưới chạm đất, từ phương Đông đang di chuyển đến, những chỗ nó đi qua, rừng cây và các chúng sanh đều bị đè tan nát”. Phương Nam, Tây, Bắc cũng như vậy, có người được mọi người rất tin tưởng, bảo với vua rằng hiện nay bốn phương có núi đá lớn, cùng di chuyển đến một lượt, không có kẽ hở nào thoát được. Trời, Rồng, Người, Quỷ, các loại hữu tình đều bị đè tan nát, rất đáng sợ hãi.

Đức Phật lại bảo nhà vua: –Ngay lúc ấy, có phương kế gì để thoát nạn? Nhà vua thưa:

–Bạch Thế Tôn, ngay lúc ấy, không còn kế gì cả, chỉ còn tin Phật pháp, tu hành chánh hạnh, không còn phương nào khác.

Phật dạy:

–Này Đại vương, như lời vua nói, cho đến ngoại trừ việc tin Phật pháp ra, không còn kế gì cả. Này Đại vương, tại sao vua nói như vậy?

Ba-tư-nặc bạch Phật:

–Thưa Đức Thế Tôn, giả sử có vị vua đã thọ lễ quán đảnh, đủ cả tượng binh, mã binh, xa binh, bộ binh, với các chiến cụ, nhưng với hòn núi đá lớn ấy, không thể đánh với nó; đao tên cung kiếm cũng không sử dụng được. Nếu dùng chú thuật, cống hiến bằng tiền tài, những việc như vậy, không sao làm được, lại không thể cầu khẩn hay dùng sức lực đánh thắng được. Thế nên, bạch Thế Tôn, con nói nên tu pháp thiện xa lìa hư vọng, trừ việc tin Phật pháp ra không còn kế gì nữa.

Đức Phật dạy:

–Này Đại vương, đúng vậy! Đúng vậy! Núi già hủy hoại tuổi trẻ sắc đẹp. Núi bệnh hủy hoại tất cả sự cường tráng. Núi chết hủy hoại tất cả thọ mạng. Núi suy tàn làm hao tổn, hủy hoại tất cả vinh hoa phú quý, giết chết vợ con, phân ly quyến thuộc hao tổn tiền tài.

Này Đại vương, có bốn cách hủy hoại thế gian luôn đuổi theo loài người. Đúng như vua nói, chỉ có tu hành theo giáo pháp chân chánh, trừ Phật pháp ra không còn kế gì khác.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Thí như bốn hướng có núi lớn
To cao rộng lớn không giới hạn
Bốn mặt, đồng thời di chuyển đến
Hoảng sợ bỏ chạy không lối thoát
Voi, ngựa, xe, binh không chống được
Chú thuật, tài sản không thể ngăn
Đại vương, đó là núi vô thường
Núi lão, bệnh, tử, núi suy diệt
Tàn hại tất cả các chúng sanh
Sát-lợi, Thủ đà, Bà-la-môn
Cho đến hạ tiện Chân-đà-la
Tại gia xuất gia tu phạm hạnh
Gồm cả trì giới và phá giới
Đều tàn diệt hết không chừa ai
Thế nên người trí phải tu thiện
Tôn sùng Tam bảo, làm phúc đức
Thân miệng và ý thường thanh tịnh
Đời này được khen sau sanh Thiên.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy đều hoan hỷ phụng hành.

71. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vua Ba-tư-nặc đến chỗ Đức Phật, lạy sát dưới chân, ngồi qua một bên.

Khi ấy, trong khu Kỳ-hoàn, có bảy vị Phạm chí để tóc dài, bảy vị Ni-kiền lõa hình, bảy vị ngoại đạo mặc một y. Thân hình họ đều to lớn.

Vua Ba-tư-nặc thấy các ngoại đạo này đi qua lại trong vườn Kỳ-hoàn. Nhà vua đứng dậy chắp tay cung kính, hướng đến các vị ngoại đạo nói lên ba lần tên của mình:

–Con là vua Ba-tư-nặc. Đức Phật hỏi vua Ba-tư-nặc: –Vì sao nhà vua thấy người tóc dài, lõa hình, một y, lại cung kính như vậy?

Nhà vua thưa:

–Bạch Thế Tôn, nước con có ba hạng người này là bậc tối thắng trong hàng A-la-hán.

Đức Phật hỏi nhà vua:

–Nhà vua không biết rõ tâm của họ hướng về đâu, làm sao biết là chân A-la-hán hay phi A-lahán? Phải cùng sống lâu với nhau một nơi, dùng ý quán sát, vua mới có thể biết được người ấy trì giới hay phá giới. Tuy sống lâu với nhau nhưng người thông minh trí tuệ có thể biết, còn người ngu thì không biết. Cha mẹ của họ, thân bằng quyến thuộc, có người bị chết… mới có thể phân biệt họ. Nếu không có việc này, khó hiểu biết thấu đáo được.

Nếu họ bị tai nạn, bị người cưỡng bức sai làm việc sát hại, hoặc bị người nữ ở chỗ riêng ép buộc mà không phạm giới, mới có thể biết tâm họ bền vững chắc thật. Phải theo dõi quán sát mới biết họ tịnh hạnh hay chẳng tịnh hạnh.

Muốn biết đích xác trí tuệ của họ, hãy lắng nghe họ nói, chỉ có người trí mới phân biệt rõ, chỉ có người trí cùng sống chung lâu dài mới có thể biết rõ họ.

Nhà vua tán thán Đức Phật:

–Lành thay! Bạch Thế Tôn, đúng như lời Đức Phật, phải cùng sống chung lâu dài mới có thể biết được là họ trì giới hay phá giới. Người khi lâm nạn, xem xét hành động của họ, mới biết tịnh hay bất tịnh. Người có giảng thuyết nghị luận, ta mới phân biệt bậc trí hay kẻ phàm.

Như trên trình bày, người có trí tuệ mới biết được người khác, người ngu không biết được, sống lâu mới biết được, không thể vội vàng biết được. Tại sao? Người sứ giả của con, cũng giả mặc những trang phục như vậy, đến những quốc gia khác ở xa, xem xét những việc trong nước ấy, trải qua tám tháng đến mười tháng. Làm các sự việc xong, trở về nước mình vui hưởng năm dục; làm tất cả sự việc như trước không khác. Thế nên, con biết lời Đức Phật dạy thật là toàn thiện.

Nhà vua lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, trước đây, con đã biết có sự việc như vậy, nhưng vội quá không quán sát, nên mới biểu lộ sự cung kính ấy.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Không thể nhìn bề ngoài
Mà phải quan sát kỹ
Khi vừa mới gặp người
Không thể tin tưởng ngay
Tướng mạo như La-hán
Thật không nhiếp các căn
Hình dáng các hành động
Đều không thể phân biệt
Cũng như bông tai giả
Hay đồng tiền mạ vàng
Người ngu cho là vàng
Kỳ thật trong bằng đồng
Những con người như vậy
Ngu si không biết gì
Bên ngoài tướng hiền thiện
Trong lòng thật độc ác
Hành động nhiều người theo
Giả dạng trang Hiền thánh.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

72. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có năm vị Quốc vương cùng tập hợp lại một chỗ, bàn luận về vấn đề: Trong năm dục, cái nào là nhất.

Vua thứ nhất nói:

–Sắc là nhất.

Vua thứ hai nói:

–Âm thanh là nhất.

Vua thứ ba nói:

–Vị là nhất.

Vua thứ tư nói:

–Hương là nhất.

Vua thứ năm nói:

–Cảm xúc êm ái là nhất.

Tâm ý các vua không đồng nhau, ai cũng thấy mình là đúng, nên nói với nhau:

–Tâm ý của chúng ta đối với cái đẹp không giống nhau, ai cũng theo lý của mình. Hãy đến gặp Đức Phật để được Ngài phân tỏ.

Năm vị quốc vương, với vua Ba-tư-nặc là thượng thủ, cùng đến chỗ Phật, lạy sát dưới chân Ngài, đứng qua một bên, bạch:

–Thưa Thế Tôn, chúng con năm vị vua, cùng nhau bàn luận: “Trong năm dục, cái nào là nhất?” Một vị vua nói: “Sắc là nhất”… Như vậy chỗ bày tỏ của năm vua bất đồng nhau, đều cho ý mình là đúng nhất. Do chủ trương không giống nhau nên chúng con cùng đến gặp Đức Phật tham vấn về chuyện này, cái nào là bậc nhất?

Đức Phật dạy:

–Người nào đối với sắc chấp thủ tướng mạo của nó, tâm ý bị vây buộc, ý họ thỏa mãn. Ngay khi ấy, nếu như có diệu sắc nào hơn sắc ấy đi nữa thì họ vẫn cho sắc đã chấp thủ ấy là hơn, không còn để ý đến diệu sắc kia. Thanh, hương, vị, xúc cũng như vậy. Cho đến khi tiếp xúc sanh cảm giác, tâm ý bị trói buộc vào tướng mạo của nó, thì cho đó là tối thắng.

Bấy giờ có một Bà-la-môn tên Ty-nghi, rời chỗ ngồi, mặc y chừa vai mặt, quỳ chân phải xuống đất, chắp tay hướng Phật, bạch:

–Thưa Thế Tôn, con có điều muốn trình bày, xin Ngài cho phép. Đức Phật bảo Ty-nghi:

–Cứ việc nêu bày.

Ty-nghi liền nói kệ:

Đại vương Ương-già chứa giáp quý
Chúa Ma-kiệt-đề được lợi lớn
Phật vượt lên trên các quốc bảo
Tiếng khen nghe khắp như sơn vương.
Như hoa sen đẹp mới nở ra
Ánh sáng khắp hồ, hương thơm ngát.
Phật như mặt trời giữa hư không
Hào quang chiếu khắp cả thế gian
Xem kỹ tuệ lực của Như Lai
Cũng như lửa mạnh cháy rực rỡ
Mở mắt cho người thấy ánh sáng
Những kẻ nghi hoặc đến thưa hỏi
Tất cả đều được giải quyết nghi.

Năm vị vua đều khen ngợi bài kệ hay, cùng đem những tấm y quý giá ban cho Ty-nghi.

Năm vị vua nghe lời Phật dạy đều rất hoan hỷ, rời chỗ ngồi từ giã.

Sau khi các vua ra về, Ty-nghi chắp tay hướng về Đức Phật, đem năm tấm y dâng lên Ngài, cầu mong nhận cho. Đức Phật liền nhận y.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy đều hoan hỷ phụng hành.

73. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ vua Ba-tư-nặc thân thể phì mập, hơi thở nặng nề, đến gặp Đức Phật, lạy sát chân Ngài rồi ngồi qua một bên. Đức Phật bảo nhà vua:

–Hiện nay thân thể nhà vua to béo quá, đến nỗi khi di chuyển, hít thở rất khó khăn.

Nhà vua bạch Phật:

–Đúng vậy, đúng vậy! Như lời Phật dạy, nay con khốn khổ vì thân này, rất là xấu hổ, đáng chê trách.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Làm người luôn luôn tự chánh niệm
Phải biết điều độ khi ăn uống
Thân thể nhẹ nhàng ít khốn khổ
Tiêu hóa dễ dàng, sống dài lâu.

Khi ấy, trong chúng có chàng thanh niên tên Ô-đới. Nhà vua bèn bảo với chàng thanh niên ấy:

–Ngươi hãy học thuộc bài kệ đó. Vào lúc ta ăn, có thể thường đọc lên bài kệ này cho ta không? Nếu ngươi tụng được như vậy, ta sẽ thưởng cho ngươi mỗi ngày một trăm tiền vàng, và vào bữa ăn, ta sẽ được nghe ngươi đọc trước khi ăn. Chàng thanh niên Ô-đới đáp:

–Xin vâng.

Đức Phật lại vì vua Ba-tư-nặc giảng dạy vô số các giáo pháp, chỉ rõ mọi lợi ích, hoan hỷ. Nhà vua im lặng lãnh hội, sau đó lễ Phật rồi lui ra.

Thanh niên Ô-đới ở lại một lúc để học bài kệ ấy. Đức Phật bảo chàng trai:

–Khi nhà vua ăn, nên thường vì nhà vua thuyết bài kệ như trên.

Từ đó, hằng ngày vua Ba-tư-nặc ăn ít lại, thân thể ốm dần trở nên nhẹ nhàng. Sau đó, nhà vua đến chỗ Đức Phật, thân thể nhẹ nhàng, trở nên tốt đẹp, bạch:

–Con nhờ làm theo lời Đức Phật dạy, thân thể hiện nay cảm thọ vô lượng an lạc. Nam-mô Phật Bà-già-bà Chí Chân Đẳng Chánh Giác, làm cho con hiểu biết quả báo hiện tại và lợi ích hiện tại, do ăn uống có tiết độ.

Kệ tóm lược:

Đắc thắng, hủy hoại, theo Phật giáo
Một pháp, phước điền, khả yếm hoạn
Mù tối, núi đá, vận nhất y
Các vua, Suyển tức danh Bạt-cù.

74. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ có một thanh niên tên A-tu-la-diêm đến chỗ Đức Phật, với miệng, ý bất thiện, nhục mạ ngay trước mặt Ngài.

Đức Như Lai thấy nghe sự việc này, nói kệ:

Làm thiện, không giận dữ
Bố thí thường nói thật
Người không sân, không hại
Hơn kẻ ôm ác giận
Xan tham và nói dối
Kẻ thân cận người ác
Phải biết chúng sanh này
Chứa sân như gò núi
Phẫn nộ như ngựa lồng
Chế phục bằng roi cương
Khống bằng cương chưa vững
Chế tâm mới vững vàng
Thế nên Ta ngày nay
Danh là Thiện Điều Ngự.

Bấy giờ chàng thanh niên bạch Phật:

–Con thật ngu si, hành động bất thiện, nên ngay trước mặt Đức Phật đã buông lời nhục mạ.

Cầu xin Thế Tôn thương xót cho con sám hối.

Đức Phật dạy:

–Này thanh niên, biết ngươi thành tâm, nên Ta thể hiện lòng Từ đối với ngươi. Ta nhận sự sám hối ấy, để ngươi được tăng trưởng pháp lành, kể từ lúc này không còn thoái chuyển. Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

75. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Lúc ấy, có một thanh niên tên Ty-nghi đến gặp Đức Phật, ngay trước Phật với tâm ý và ngôn ngữ bất thiện, nhục mạ Đức Thế Tôn, còn thêm những lời lẽ phỉ báng thậm tệ.

Đức Như Lai thấy nghe sự việc này, bèn bảo Ty-nghi:

–Như trong thế gian, khi có lễ tiết lớn, vào ngày Cứ vô đề, ngươi vào đêm ấy có bao giờ mang y phục, chuỗi ngọc, các loại món ăn đem tặng cho thân thích không? Ty-nghi đáp:

–Thật có đem tặng họ.

Đức Phật bảo Ty-nghi:

–Nếu họ không nhận vật tặng của ngươi, thì vật tặng này thuộc về ai?

Ty-nghi đáp:

–Nếu họ không nhận, thì tôi giữ lại.

Đức Phật nói:

–Đúng vậy, đúng vậy! Này Ty-nghi, ông đến chỗ Như Lai Chí Chân Chánh Đẳng Giác nhục mạ trước mặt, hủy báng nhiều lời, xúc phạm nhiều cách, tuy ngươi đem cho Ta, Ta không nhận lấy. Cũng như người đời, có người đưa ra, người trước mặt nhận lấy, thì mới gọi là bỏ ra và nhận lấy. Có người bỏ ra nhưng người trước mặt không nhận, thì chỉ gọi là bỏ ra chứ không gọi là nhận lấy. Người nào bị nhục mạ, giận đánh, hủy báng, có phản ứng lại thì đấy gọi là có bỏ ra và có nhận lại. Còn người nào bị nhục mạ giận đánh hủy báng, nhưng nhẫn nhục, không phản ứng lại thì gọi là có bỏ ra mà không có nhận lấy. Ty-nghi nói:

–Này Cù-đàm, trước đây tôi nghe những vị Trưởng lão đạo đức kỳ cựu, đều nói: “Trên đời có Đức Phật là Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, bị mạ lỵ ngay trước mặt vẫn không sanh phiền não”. Nay tôi nhục mạ Ngài, tâm Ngài vẫn an định không dấy khởi phiền não.

Bấy giờ Thế Tôn nói kệ:

Người không còn phẫn nộ
Làm sao còn nổi sân
Bậc Điều Thuận Chánh Mạng
Không sân, ngươi nên biết
Bị giận không trả giận
Vì sợ tranh không thắng
Thắng nhưng không phản ứng
Đó gọi là Thượng sĩ
Không sân thắng được sân
Hành thiện thắng bất thiện
Bố thí không xan tham
Nói thật thắng dối trá
Người không sân không hại
Thường gần gũi Hiền thánh
Thân cận những kẻ ác
Chứa giận như núi đồi
Phẫn nộ như ngựa cuồng
Chế phục bằng roi cương
Roi cương chưa vững chắc
Chế tâm mới vững bền
Thế nên Ta ngày nay
Là Bậc Thiện Điều Thừa.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

76. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ Đức Thế Tôn đang kinh hành nơi đất trống, bên ngoài Kỳ-hoàn. Bà-la-môn Đột-la-xà tánh tình hung ác, đến gặp Đức Phật, ngay trước mặt Ngài, nói lời thô ác nhục mạ, bày tỏ sự phẫn nộ, thêm lời hủy báng, mong Phật xấu hổ. Khi thấy sự việc này, Đức Phật vẫn im lặng như cũ.

Bà-la-môn Đột-la-xà thấy Phật im lặng, lại lên tiếng:

–Ông im lặng nên ta biết ông đã bị thua rồi.

Đức Như Lai nói kệ:

Người từ bỏ thắng thua
Luôn an ổn, tịch diệt.

Bà-la-môn thưa:

–Thưa Cù-đàm, con thật có lỗi, như trẻ con ngu si vô trí, làm điều bất thiện. Nay con đã tự biết, cầu xin Thế Tôn cho con sám hối.

Đức Phật bảo Bà-la-môn:

–Ngươi mắng chửi ngay trước mặt Đức Như Lai A-la-ha Tam-miệu-tam Phật-đà, bằng mọi cách phỉ báng, xúc phạm. Ngươi thật ngu si, mê lầm, vô trí nên đã hành động bất thiện. Ta theo lời cầu xin, cho ngươi sám hối, để ngươi được tăng trưởng các pháp thiện, không thoái lui trong việc tu tập.

Sau khi được sám hối, Bà-la-môn rất hoan hỷ, đảnh lễ Phật, rồi từ giã.

77. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Đức Thế Tôn vào sáng sớm, đắp y bưng bát vào thành khất thực. Bà-la-môn Đột-la-xà từ xa thấy Thế Tôn, vội vàng chạy đến trước mặt Đức Phật, buông lời nhục mạ, hủy báng Thế Tôn, xúc phạm bằng nhiều cách. Ông ta lại bốc đất muốn làm nhơ Phật. Nhưng đất ấy bị gió thổi bay mất, không làm bẩn được Đức Phật.

Đức Như Lai thấy việc này bèn nói kệ:

Phẫn nộ ngang ngược, người không sân
Hủy báng mắng chửi, người thanh tịnh
Cũng như đập đất tự nhơ thân
Ví như nông phu trồng nơi ruộng
Trồng loại cây nào hái trái ấy
Người gây nhân nào hưởng quả đó.

Bà-la-môn thưa:

–Con thật có lỗi, ngu dại vô trí, nên hành động bất thiện. Cầu mong Đức Như Lai cho con sám hối.

Đức Phật dạy:

–Ngươi đối với Đức Như Lai A-la-ha Tam-miệu-tam Phật-đà mắng chửi ngay mặt, hành động ấy rất là ngu si. Theo lời thỉnh cầu, Ta thể niệm lòng Từ nhận sự sám hối của ngươi, để ngươi được tăng trưởng trong pháp thiện không thoái chuyển.

Vị Bà-la-môn được Đức Phật hứa chấp thuận, nên hoan hỷ từ giã.

78. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật du hóa ở nước Câu-tát-la, trở về khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có Bà-la-môn tên Phản Liệt, nghe Đức Thế Tôn du hóa từ nước Câu-tát-la trở về nước Xá-vệ nơi khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc. Vị ấy tự nghĩ: “Ta nên đến gặp Sa-môn Cù-đàm, ông ấy nói gì, ta sẽ nói ngược lại.”

Bà-la-môn ấy nghĩ thế rồi, bèn đi đến chỗ Đức Phật. Bấy giờ có ngàn ức người vây chung quanh Thế Tôn để nghe giảng pháp. Thế Tôn từ xa thấy vị Bà-la-môn kia đi tới, liền im lặng không nói nữa.

Bà-la-môn đến chỗ Đức Phật, hỏi:

–Vì sao không nói pháp, ta muốn nghe. Đức Thế Tôn liền nói kệ:

Kẻ tìm cầu lỗi người
Ý muốn chê chỗ dở
Tâm ngươi không thanh tịnh
Phẫn nộ luôn tức tối
Có nghe pháp Phật dạy
Không bao giờ hiểu rõ
Tùy thuận, xa tranh cãi
Từ bỏ tâm bất tín
Xa lìa những não hại
Và tư tưởng ganh ghét
Người nào được như vậy
Ta vì họ giảng pháp.

Bà-la-môn tự nghĩ:

–Sa-môn Cù-đàm đã biết tâm niệm của ta. Ông ta liền đứng dậy lễ Phật, thưa:

–Con thật có lỗi, đã có ý nghĩ bất thiện, cầu mong Thế Tôn cho con sám hối.

Thế Tôn vì thương xót nên nhận sự sám hối này. Phản Liệt hoan hỷ, đảnh lễ rồi cáo từ.

79. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ có thanh niên tên Vô Hại đến chỗ Phật thăm hỏi về sức khỏe, sau khi thăm hỏi, ngồi qua một bên, bạch Phật:

–Thưa Cù-đàm, tôi tên Vô Hại, vậy nhờ tên này có được vô hại không? Đức Phật dạy:

–Thân, khẩu, ý của ngươi đều không sanh hại, nên mới gọi là vô hại.

Thế Tôn nói kệ:

Thân, miệng và ý
Đều không hủy hại
Thế nên gọi ngươi
Tên là Vô Hại.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

80. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào sáng sớm, Đức Thế Tôn đắp y cầm bát vào thành Xá-vệ, theo thứ lớp khất thực, đến nhà đại Bà-la-môn Bà-la-đột-la-xà.

Khi ấy Bà-la-môn rửa tay thật sạch, nhận lấy bát của Phật đặt đầy thức ăn thơm ngon, dâng lên Thế Tôn.

Ngày thứ hai, ngày thứ ba, Thế Tôn cũng lần lượt khất thực đến nhà Bà-la-môn Bà-la-đột-laxà. Bà-la-môn này nghĩ: “Nay Sa-môn đã cạo bỏ râu tóc này thường đến đây khất thực, như người quen cũ của ta”.

Bấy giờ Đức Phật biết ý nghĩ của Bà-la-môn ấy nên nói kệ:

Trời mưa luôn nhiều trận
Ngũ cốc nhiều loại chín
Đạo nhân thường khất thực
Đàn việt thường cúng dường.
Thường thường sanh cõi trời
Thường luôn thọ quả báo
Phụ nữ thường mang thai
Luôn thường sanh con cháu
Thường thường vắt sữa bò
Thường luôn được tô lạc
Nhiều lần thọ đời sống
Nhiều lần bị diệt tận
Nhiều lần về cõi chết
Nhiều lần buồn khổ não
Lại nhiều lần bị thiêu
Nhiều lần chôn nơi mộ
Cắt đứt đường sanh tử
Thì dừng mọi lưu chuyển
Nếu không còn tái sanh
Và không còn chết nữa
Không còn phải khổ ưu
Và không còn than khóc.
Khi ấy Bà-la-môn
Nghe nói kệ này xong
Tâm sanh tín tối thượng
Rất hoan hỷ, vui mừng
Liền lấy bát Thế Tôn
Đặt đầy thức ăn ngon
Muốn dâng lên Đức Phật
Phật không nhận bát này
Ngài không nhận cúng dường
Sau khi giảng kệ pháp.

Bà-la-môn bạch Phật:

−Bạch Thế Tôn, thức ăn con cúng dường dâng lên Như Lai, Thế Tôn không nhận, sẽ đem cho ai? Phật dạy:

–Ta không thấy Sa-môn, Bà-la-môn, hoặc Ma,

Phạm nào ăn thức ăn này mà có thể tiêu hóa được. Nên bỏ thức ăn này vào chỗ nước không có trùng, chỗ cỏ xanh không có trùng.

Bà-la-môn vâng lời Phật dạy, đem thức ăn ấy bỏ vào nước không trùng. Ngay khi đó lửa khói bốc cháy, nước sôi khuấy động phát ra tiếng kêu to.

Bà-la-môn nhận xét:

–Sa-môn Cù-đàm thị hiện thần túc thật là hy hữu, với một chút thức ăn vẫn tạo ra những thần biến.

Thấy sự việc ấy xong, vị ấy trở về gặp Đức Phật, đảnh lễ dưới chân, bạch:

–Cầu mong Thế Tôn cho phép con xuất gia.

Phật dạy:

–Thiện lai Tỳ-kheo!

Vị ấy râu tóc tự rụng, thân mặc pháp y, trở thành Sa-môn, đắc giới cụ túc. Vị Tộc tánh tử ấy tin chắc nhà ở đời chẳng phải là nhà đích thực nên bỏ nhà học đạo, ngày đêm tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, chí niệm kiên cố luôn thể hiện rõ, việc làm đã xong, phạm hạnh đã lập, tự thân tác chứng, không còn thọ thân sau, thành A-la-hán, tâm đạt giải thoát.

81. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Trong thành Xá-vệ, Bà-la-môn nữ là Bà-tư-tra phát tâm thanh tịnh, tin Phật, Pháp, Tăng; tận tín quy y Tam bảo, đối với Khổ, Tập, Diệt, Đạo không còn nghi ngờ, thấy được diệu lý Tứ đế, chứng quả thứ nhất, nhận rõ các pháp bình đẳng.

Chồng cô ta là Bà-la-môn Bà-la-đột-la-xà.

Đang quỳ gối dưới đất làm việc cho chồng, cô tự đứng dây chắp tay hướng về chỗ Phật, nói lên:

–Nam-mô Phật-đà Như Lai Chí Chân Chánh Đẳng Giác, màu sắc vàng ròng, hào quang một tầm, thân thể đoan chính như cây Ni-câu-đà, thuyết pháp đệ nhất, vị Tiên thánh giải thoát thế hùng thứ bảy, Đức Thế Tôn của con.

Khi nghe vợ nói lời ấy, người chồng Bà-lamôn lòng rất phẫn nộ, lên tiếng mạ lỵ:

–Ngươi là kẻ điên cuồng Chiên-đà-la. Ai đã bỏ thuốc độc cho kẻ Chiên-đà-la ngu si này. Chẳng có ai quá ư hạ tiện như ngươi cả. Ngươi đối với hàng đại Bà-la-môn giỏi Tam minh không chịu cung kính, lại đi kính lễ kẻ đầu cạo nhẵn, gầy ốm đen thui ấy. Ngươi lại hết sức tán thán vị Sa-môn ấy như là Da-na-la-diên đoạn nhân chủng. Nếu ngươi quá tin tưởng nơi họ thì ngay bây giờ ta thỉnh thầy ngươi đến bàn luận cùng ta.

Người vợ trả lời:

–Thiếp chưa bao giờ thấy Sa-môn, Bà-la-môn hoặc Trời, Ma, Phạm nào có thể tranh luận với Đức Phật.

Người vợ lại nói:

–Nam-mô Phật-đà Như Lai Chí Chân Chánh Đẳng Giác, sắc tướng như vàng ròng, thân thể đoan nghiêm, hào quang một tầm, như cây Ni-câuđà, thuyết pháp bậc nhất, Bậc Thế hùng giải thoát Tiên thánh thứ bảy, Đức Thế Tôn của con.

Ông có thể đi tới chỗ Phật đi!

Bà-la-môn bèn đến gặp Đức Phật, sau khi thăm hỏi, ngồi qua một bên, nói kệ hỏi:

Phá bỏ vật gì được ngủ yên?
Dứt được pháp gì khỏi lo buồn?
Có một pháp gì trừ diệt chết?
Sa-môn Cù-đàm giảng cho ta.

Thế Tôn nói kệ đáp:

Phá bỏ phẫn nộ được ngủ yên
Trừ được phẫn nộ khỏi lo buồn
Phẫn nộ đối thân gây chết hại
Như vậy mọi người cần phải biết
Diệt trừ sân hận thánh ngợi khen
Diệt hết phẫn nộ không lo buồn.

Đức Phật vì vị Bà-la-môn ứng cơ thuyết pháp, chỉ dạy khiến cho vui mừng, đạt lợi ích. Ngài lần lượt giảng dạy các pháp về bố thí, trì giới, sanh thiên, dục là bất tịnh, nguồn gốc của khổ não, giải thoát là an lạc, chỉ dạy rộng những pháp toàn thiện, thanh tịnh.

Bà-la-môn nghe lời Phật dạy, tâm mở ý thông, hết sức hoan hỷ.

Đức Phật biết chàng thanh niên này tâm ý đã điều hòa, bày tỏ sự hoan hỷ vô cùng, ấy là tâm không còn nghi ngờ, có thể thọ trì giáo pháp, nên Ngài giảng dạy giáo pháp có thể lãnh hội được, như pháp của chư Phật là giảng bốn Thánh đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo, giảng giải rộng.

Bà-la-môn Đột-la-xà nghe lời Phật dạy, như tấm vải trắng dễ nhuộm màu, ngay tại chỗ ngồi lãnh hội bốn chân đế, thấy rõ các pháp, đạt đến cảnh giới chân thật của pháp, vượt qua bờ nghi ngờ, bằng khả năng của mình, đắc vô sở úy, liền rời chỗ ngồi, chắp tay hướng Phật, bạch:

–Thưa Thế Tôn, con đã thoát ly nghi ngờ, muốn quy y Phật, Pháp, Tăng bảo, nguyện trọn đời làm vị Ưu-bà-tắc, không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu.

Vị Bà-la-môn ấy, ngay tại chỗ Phật, được lòng tin kiên cố, bèn lễ Phật rồi trở về nhà.

Người vợ thấy chồng về, vẫn tán thán Đức Phật như trước và hỏi:

–Thầy tôi như vậy, ông có nói chuyện với Ngài không?

Chồng trả lời:

–Ta không thấy Sa-môn, Bà-la-môn, Trời,

Quỷ, Phạm nào trong thế gian này có thể luận nghị bằng Đức Phật.

Chồng lại bảo vợ:

–Hãy mang áo lại đây cho ta.

Người vợ đưa áo, chồng nhận lấy, đi đến chỗ Phật, lạy sát chân Phật, ngồi qua một bên, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, cho con được xuất gia học đạo trong Phật pháp.

Đức Phật cho phép, sai một Tỳ-kheo, độ cho xuất gia.

Sau khi vị ấy xuất gia, sống theo pháp xuất gia, tự mình luôn tinh tấn, như trong kinh Bà-la-độtla-xà đã nói… cho đến tâm được giải thoát, chứng A-la-hán.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy đều hoan hỷ phụng hành.

82. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một Bà-la-môn tên Ma-khư đến gặp Đức Phật, sau khi thăm hỏi, ngồi qua một bên.

Bấy giờ Ma-khư bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, hiện nay trong nhà con, nếu có một người đến, ba người đến, nhiều người đến, con đều bố thí cho họ. Thưa Đức Cù-đàm, con bố thí như vậy có được phước lớn không?

Đức Phật đáp:

–Thật có được phước lớn. Bố thí cho một người hay bố thí cho nhiều người, được vô lượng a-tăng-kỳ phước.

Bà-la-môn Ma-khư nói kệ:

Nay con thích bày lễ
Bố thí và bố thí
Vì cầu được phước đức
Con xin hỏi Mâu-ni
Xin Phật giảng giải cho
Con xin thưa Thế Tôn
Cùng Phạm thiên, Đế Thích
Làm sao được giải thoát
Làm sao đến các nẻo
Làm sao đến Phạm thiên
Như thế nào lễ đúng
Và cúng tế thế nào
Được sanh cõi Phạm thiên
Sống lâu dài vô tận.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Khi muốn lập tế đàn
Phải hoan hỷ bố thí
Làm thiện ba thời rồi
Nhờ thiện, tâm hoan hỷ
Tùy thiện, an tâm thí
Đều xa lìa lỗi lầm
Khéo trừ sạch tham dục
Đoạn được dục, giải thoát
Nếu tu Từ vô lượng
Gọi là tế đầy đủ
Liền được tâm trọn vẹn
Được sanh vào nẻo thiện
Người tế đàn như vậy
Gọi là tế chân chính
Được sanh cõi Phạm thiên
Thọ mạng rất lâu dài.

Bà-la-môn Ma-khư nghe lời Phật dạy, làm lễ từ giả, hoan hỷ phụng hành.

83. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Khi ấy Bà-la-môn Sát-lợi Ba-la-tỳ-không, đến chỗ Phật, thăm hỏi rồi ngồi qua một bên, nói kệ:

Sát-lợi đã tu nhiều pháp khổ
Vẫn không được tên là thanh tịnh
Bà-la-môn đọc ba Vị-đà
Như vậy được tên là thanh tịnh.

Đức Thế Tôn nói kệ đáp:

Ông cho là thanh tịnh
Kỳ thật là bất tịnh.

Bà-la-môn hỏi Phật:

–Ngài giảng về đạo thanh tịnh, cũng giảng dạy về sự thanh tịnh vô thượng. Vậy thế nào là đạo thanh tịnh? Thế nào là thanh tịnh vô thượng?

Đức Phật nói kệ đáp:

Khô sạch bùn lầy dục
Làm khô cả sân, si
Gọi là tịnh vô lượng
Chánh kiến, chánh tư duy
Chánh ngữ và chánh nghiệp
Chánh mạng cùng chánh chí
Chánh niệm và chánh định
Pháp này, Bà-la-môn
Gọi là đạo thanh tịnh
Luôn luôn tập chánh quán
Thường thường tu chánh định
Pháp huy pháp chánh định
Đoạn trừ mọi tham dục
Và đoạn sân hận si.

Vị Bà-la-môn nói:

–Ngài đã nói về con đường thanh tịnh, cũng nói về sự thanh tịnh vô lượng, nay tôi còn bận nhiều gia sự, xin từ giã trở về.

Đức Phật nói:

–Này Bà-la-môn, hãy làm việc đúng lúc!

Bà-la-môn nghe Phật giảng dạy, hoan hỷ làm lễ từ giã.

Kệ tóm lược:

Đệ nhất A-tu-la
Ty-nghi, hai sân mạ
Phản liệt và Vô hại
La-xà, Bà-tư-tra
Ma khư và Sát-lợi
Đây gọi là mười loại.

QUYỂN 5

TỤNG 1: PHẦN 5

84. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một Bà-la-môn đến gặp Phật, sau khi chào hỏi, ngay trước Ngài, nói kệ:

Đầy đủ những giới nào
Uy nghi không khuyết giảm
Tu tập những nghiệp gì
Thành tựu những pháp gì
Mà được gọi tên là
Bà-la-môn ba minh?
Thế Tôn nói kệ đáp:
Biết rõ được túc mạng
Thấy trời và cõi ác
Tận cùng nghiệp sanh tử
Ba thông và ba minh
Tâm đắc thiện giải thoát
Đoạn dục và tất cả
Thành tựu ba minh trên
Ta gọi là ba minh.

Bấy giờ vị Bà-la-môn nghe lời Phật dạy, vui mừng hoan hỷ, từ giã ra về.

85. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào sáng sớm, Đức Phật mặc y, bưng bát; Anan theo hầu Phật, hướng vào thành Xá-vệ.

Khi ấy, trong xóm nghèo nàn có hai vợ chồng tuổi cao, già cả chống gậy bước đi run rẩy như con cò già. Đức Phật từ xa thấy, bảo A-nan:

–Ông có thấy hai vợ chồng rất già cả ở trong chỗ nghèo nàn không?

A-nan bạch Phật:

–Vâng, con thấy.

Đức Phật bảo A-nan:

–Người già này khi tuổi còn nhỏ, tại thành Xávệ là hàng Trưởng giả bậc nhất. Khi ấy nếu xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp y, đã chứng A-lahán. Khi họ tuổi trẻ, biết giữ gìn tiền tài, là Trưởng giả bậc nhì. Khi đó nếu họ xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp y, đã chứng A-na-hàm. Nếu họ vào giai đoạn thứ ba của cuộc đời, chứa để tài sản, là Trưởng giả hạng ba. Khi ấy nếu họ cạo bỏ râu tóc, mặc pháp y, thì đã chứng Tu-đà-hoàn. Ngày nay, họ đã già cả, không thể làm ra của cải, cũng không thể tinh tấn, không thể chứng pháp của bậc Thượng nhân.

Bấy giờ Thế Tôn nói kệ:

Trẻ không tu phạm hạnh
Lại không chứa của tiền
Cũng như con cò già
Giữ cái ao trống không
Không siêng tu phạm hạnh
Khỏe không tạo tài sản
Già nhớ lại thời trẻ
Như cung gãy bỏ không.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

86. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một Bà-la-môn già, tuổi cao, thân thể suy yếu, ngày trước đã làm nhiều việc ác, rất tệ hại, hủy phạm giới cấm, không tin phước thiện, trước không làm phước, khi lâm chung không có chỗ nương nhờ, đến gặp Đức Phật. Sau khi thăm hỏi, ngồi qua một bên, vị ấy bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, ngày trước con làm nhiều điều ác rất tệ hại, hủy phạm giới cấm, không tu phước, không tu thiện, không tạo phước đức trước, đến nay sắp chết không chỗ nương nhờ.

Đức Phật nói:

–Đúng như lời ông nói.

Vị Bà-la-môn già thưa:

–Lành thay Cù-đàm, hãy giảng giải cho tôi, khiến cho tôi được an ổn lâu dài, được lợi ích thiết thực.

Đức Phật dạy:

–Đúng như ông nói, vào ngày trước, thân, khẩu, ý nghiệp của ông không làm thiện, hủy phạm giới cấm, không tu phước đức, không làm từ trước, đến khi sắp qua đời, tìm chỗ nương cậy. Ông ngày nay đã quá già, trước tạo các tội, hành động thô ác, không tạo phước nghiệp, không tu thiện hạnh, không chịu làm trước, đến khi bị sợ hãi, lại tìm chỗ quy y. Như có người khi sắp bị chết mới nghĩ đến việc chạy trốn, vào căn nhà an toàn để tự cứu mình. Những việc như vậy đều không thể được. Thế nên ngày nay thân, khẩu, ý phải làm việc thiện. Ai làm ba nghiệp thiện thì khi lâm chung, đó là căn nhà có thể chạy vào trú ẩn.

Đức Phật nói kệ:

Đời người sống ngắn ngủi
Đều trở về cái chết
Tàn phá của già suy
Không ai có thể cứu
Thế nên phải sợ chết
Chỉ có vào Phật pháp
Và tu hành pháp thiện
Mới là chỗ quy y.

Đức Phật dạy như vậy.

Kinh thứ hai không khác. “Nên cầu chỗ quy y, Đại nhân nên tu thiện”. Phần văn xuôi của kinh thứ ba không giống, kệ cũng không đồng. Kệ nói:

Trẻ mạnh và già suy
Ba thời đều đã qua
Mạng sống không còn bao
Thường bị khổ vì già
Gần đến cõi Diêm vương
Bà-la-môn muốn sanh
Chẳng biết ở chỗ nào
Người không có tư lương
Nên làm đèn sáng nhỏ
Y cứ vào tinh tấn
Trước trừ sạch các Sử
Sanh, lão, tử không còn.

87. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một Bà-la-môn già đến chỗ Phật, sau khi thăm hỏi, ngồi qua một bên, thưa:

–Bạch Thế Tôn, con nay già cả, từ xưa đến giờ chỉ tạo các điều ác, chưa từng làm phước, chưa từng tu thiện, lại cũng không thực hành các pháp, dốc xa lìa sự sợ hãi cùng cứu giúp che chở. Lành thay Cù-đàm, xin Ngài vì con mà thuyết pháp, để khi con qua đời có chỗ cứu giúp che chở, có chỗ để con làm ngôi nhà quy y, trú ẩn.

Đức Phật bảo Bà-la-môn:

–Thế gian bị đốt cháy. Cái gì đốt cháy? Đó là lão, bệnh, tử. Vì vậy thân, khẩu, ý cần phải tu thiện. Ông đã không tu thân, khẩu, ý theo thiện, nay nếu ông có thể tu thân, khẩu, ý theo thiện, nó chính là chiếc thuyền chở ông, đến khi ông chết nó cứu giúp che chở, làm nhà cho ông, là chỗ ông quy y trú ẩn.

Đức Phật nói kệ:

Như nhà bị hỏa hoạn
Đốt cháy cả phòng xá
Hãy mau mang của báu
Ra khỏi chỗ lửa cháy
Lửa sanh, lão, bệnh, tử
Đốt cháy các chúng sanh
Cần phải tu bố thí
Cứu giúp người nghèo nàn
Vàng quý trong thế gian
Nạn vua, giặc, nước, lửa
Khi chết phải bỏ hết
Chẳng có gì theo người
Quả bố thí theo người
Nó là kho vững chắc
Vua, giặc và nước, lửa
Không thể xâm đoạt được
Xan tham không bố thí
Gọi là thường ngủ say
Bố thí giúp nghèo nàn
Đó gọi là giác ngộ.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

88. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có thanh niên tên Ô-đáp, đến gặp Đức Phật. Sau khi thăm hỏi, ngồi qua một bên, chàng thưa với Ngài:

–Thưa Cù-đàm, tôi làm ra tài sản hợp pháp, cung cấp nuôi dưỡng cha mẹ, lại bằng cách hợp pháp hưởng thụ sự an lạc, giúp đỡ hợp lý, thế có được phước lớn không?

Đức Phật dạy:

–Này thanh niên, không chỉ riêng người, tất cả những ai làm ra tài sản một cách hợp lý, lại đem cung cấp cho cha mẹ hợp lý, hưởng thụ an lạc hợp lý, cung cấp hợp lý, đều được phước vô lượng. Tại sao? Nên biết rằng, người này chính là Phạm thiên ở trong nhà ấy, nếu cung cấp nuôi dưỡng cho cha mẹ một cách hợp lý. Cha mẹ là A-xà-lê ở trong nhà, nếu cung cấp cho cha mẹ một cách hợp lý, được hưởng thụ an lạc hợp lý thì tất cả mọi người đều hướng về kính trọng nhà ấy. Ai có thể cung cấp nuôi dưỡng cho cha mẹ một cách hợp lý, khiến cho an lạc hợp lý, giúp đỡ hợp lý, nên biết Đại thiên ở trong nhà người ấy. Ai cung cấp cho cha mẹ một cách hợp lý, cung cấp sự an lạc hợp lý, nên biết tất cả chư Thiên đều ở trong nhà người ấy. Tại sao vậy? Phạm thiên vương do cung cấp nuôi dưỡng cha mẹ một cách hợp lý nên được sanh cõi Phạm thiên. Ai muốn cúng cho A-xà-lê nên cúng dường cha mẹ, là cung cấp A-xà-lê. Ai muốn lễ bái, trước tiên nên lễ bái cha mẹ. Ai muốn thờ lửa, trước hết nên cúng dường cha mẹ. Ai muốn thờ trời, trước nên cúng dường cha mẹ, tức đã cúng dường chư Thiên.

Đức Phật nói kệ:

Phạm thiên và thần lửa
A-xà-lê, chư Thiên
Ai muốn cúng dường họ
Nên phụng dưỡng mẹ cha
Đời này được tiếng thơm
Đời sau sanh Phạm thiên.

89. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có thanh niên tên Ưu-tỳ-già đến gặp Phật, đảnh lễ thăm hỏi, ngồi qua một bên, thưa:

–Bạch Thế Tôn, Bà-la-môn tạo dựng tài sản đúng pháp, tụ hợp bày tế đàn lớn, dạy người khác bày tế. Tế đàn như vậy, nên làm hay không làm? Bấy giờ Thế Tôn nói kệ đáp:

Ngựa mập và người mập
Bò mập, thức ăn ngon
Hơi thở mở cửa tế
Tế lớn sáu loại này
Việc làm tuy rộng lớn
Nhưng Tiên thánh chê bai
Dê đực và dê đen
Bò chúa và bò nhỏ
Tất cả sự sát sanh
Đều không phải tế cúng
Sát sanh là tà tế
Các thánh không thi hành.
Ai lập đàn tế đúng
Không não hại quần sanh
Không giết mạng hữu tình
Nếu tế không sát sanh
Là cúng tế chân chánh
Ai tế đàn như vậy
Đại tiên tất đến đó
Bố thí và tế đàn
Phải cung cấp cho người
Bố thí với tâm sạch
Thí đúng lúc, chỗ nào?
Nên thí thắng phước điền.
Thắng phước điền là ai?
Là bậc tu phạm hạnh
Ai thí vào chỗ ấy
Gọi cúng tế rộng lớn
Lập đại tế như vậy
Bằng tài sản hợp pháp
Nước sạch tự tay cho
Ai bố thí như vậy
Chư Thiên sanh kính tín
Là tự tha đều lợi
Tất được quả báo lớn
Thiết tế lớn như vậy
Chỉ bậc trí làm được
Thường sanh tâm tin sạch
Cũng được tâm giải thoát
Não hại không phát sanh
Hưởng nhiều lạc thế gian
Được sanh vào thắng xứ
Đây gọi là người trí
Tổ chức đại tế đàn.

Đức Phật dạy như vậy, thanh niên Ưu-tỳ-già nghe lời Phật dạy, hoan hỷ từ giã.

90. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có thanh niên tên Ưu-tỳ-già đến gặp Đức Phật đảnh lễ, thăm hỏi, ngồi qua một bên, bạch Phật:

–Thế Tôn, Bà-la-môn tạo nên tài sản đúng pháp, gom lại tế lễ lớn, dạy người tế lễ. Sự tế lễ như vậy, nên làm hay không nên làm? Bấy giờ Đức Phật nói kệ:

Tổ chức tế đàn lớn
Không làm hại chúng sanh
Ai cúng tế như vậy
Là việc làm thanh tịnh
Gọi là tế an ổn
Bậc Phạm hạnh thọ nhận
Hiện đời trong thế gian
Tiếng thơm đồn rất xa
Chiến tranh xa nơi ở
Tế như vậy đáng khen
Chư Phật khen rất tốt
Tế đàn là cách tế
Bố thí bằng thanh tịnh
Nên thí bậc Ứng cúng
Thí đúng lúc nơi nào?
Gọi là tế rộng lớn
Chỗ chư Thiên kính tin
Với tài sản đúng pháp
Tay rửa sạch tự cho
Ai cúng tế như vậy
Là tự lợi, lợi tha
Đều được quả báo lớn
Tế đàn lớn như thế
Chỉ bậc trí làm được
Phát tâm được tịnh tín
Và đắc tâm giải thoát
Não hại không gia tăng
Được tối lạc trong đời
Sanh vào nơi thắng xứ
Gọi là bậc Trí tuệ.

Đức Phật dạy như vậy, Ưu-tỳ-già nghe lời Phật dạy, hoan hỷ lãnh hội rồi từ giã.

91. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một thanh niên tên Phật-di đến gặp Đức Phật, đảnh lễ, thăm hỏi, ngồi qua một bên, thưa:

–Bạch Thế Tôn, Ngài có bao nhiêu pháp dạy bảo người tại gia sống đời sống gia đình đạt được kết quả lợi ích và an lạc trong hiện tại?

Đức Phật dạy:

–Này thanh niên, có bốn pháp khiến cho người tại gia đạt được kết quả lợi ích và an lạc trong hiện tại. Thế nào là bốn? Một là siêng năng tinh tấn. Hai là thường giữ gìn các căn. Ba là gần gũi thiện tri thức. Bốn là nuôi dưỡng thân mạng một cách hợp lý.

Thế nào là tinh tấn? Tùy theo khả năng làm nghề nghiệp mưu sanh trong gia đình, hoặc làm quan cho vua, hoặc làm nghề nông, hoặc kinh doanh, hoặc chăn nuôi, tùy theo công việc làm, siêng năng không biếng nhác. Gặp phải lạnh, nóng, gió, mưa, đói, khát hay no đủ, bị xúc chạm do ruồi muỗi mòng ong... tuy có khổ nhọc nhưng không bỏ công việc làm của mình, khiến cho hoàn thành, không nghĩ đến việc bỏ phế, đó gọi là tinh tấn.

Thế nào là giữ gìn các căn? Vị tộc tánh tử tích lũy tài sản hợp pháp, đặt ra những cách thức để không bị vua, giặc, nước, lửa cướp đoạt, không bị kẻ thù ghét xâm phạm, không nuôi dưỡng nghịch tử. Đấy gọi là giữ gìn các căn.

Thế nào là gần gũi bạn tốt? Tộc tánh tử gần gũi bạn tốt; bạn tốt này tư chất hiền lương, không gian xảo trộm cắp. Ai cùng với người này kết làm bạn thân thì sầu khổ chưa sanh khiến cho không sanh; sầu khổ đã sanh khiến cho trừ diệt; hỷ lạc chưa sanh khiến cho phát sanh; hỷ lạc đã sanh thì khiến cho không mất. Đây gọi là gần gũi bạn tốt. Thế nào là nuôi dưỡng thân mạng một cách hợp lý? Tộc tánh tử biết rõ tài sản của mình, xem xét nhiều ít để sử dụng một cách điều độ, thu nhiều hơn chi, không sử dụng phung phí. Như người ăn trái Ưu-đàm, khi mới ăn thì trên cây còn rất nhiều, khi ăn ngủ say bảy ngày, tỉnh dậy mới biết là đã hết trái. Phải sử dụng tài sản hợp lý, trung bình giữa phung phí và keo kiệt. Ai có tiền tài không chịu ăn mặc, không chịu bố thí, sử dụng quá keo kiệt, mọi người đều nói: “Người như vậy chết như chó chết”, phải tự trù tính, không xa hoa, không keo kiệt. Đấy gọi là nuôi dưỡng thân mạng một cách hợp lý.

Người thanh niên lại bạch Phật:

–Tu hành những pháp gì khiến cho người tại gia đời này thọ hưởng lợi ích, đời sau được phước? Đức Phật bảo thanh niên:

–Có bốn pháp khiến cho thu đạt được phước bảo ấy. Những gì là bốn? Đó là Tín, Giới, Thí và Văn tuệ.

Thế nào là Giới? Thường thực hành không sát sanh cho đến không uống rượu.

Thế nào là Thí? Bố thí cho Sa-môn, Bà-lamôn, Sư trưởng, cha mẹ, người nghèo cùng, người đi xin... các thứ y phục, thức ăn, giường, nệm nằm, thuốc trị bệnh, các loại nhu cầu, hết sức bố thí. Đây gọi là Thí.

Thế nào là Văn tuệ? Tức trí tuệ do học hỏi tìm hiểu mà có. Đó là nhận thức như thật về khổ, tức nhận thức về Khổ đế; nhận thức như thật về nguyên nhân của khổ, tức nhận thức về Tập đế; nhận thức như thật về con đường diệt khổ, tức nhận thức về Đạo đế; nhận thức như thật về sự diệt khổ tức nhận thức về Diệt đế. Đây gọi là Văn tuệ đầy đủ.[1]

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói kệ:

Nhiệt tâm tạo sự nghiệp
Siêng giữ gìn không mất
Gần gũi với bạn lành
Thường nuôi mạng hợp lý
Tín, giới, thí, văn tuệ
Trừ bỏ hết sân tham
Người nào làm như vậy
Mau đạt đạo thanh tịnh
Như vậy tám pháp này
Được lợi, vui hiện tại
Và trong đời tương lai
Hưởng an lạc cõi trời.

Đức Phật dạy như vậy, thanh niên Phật-di nghe lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

92. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại vườn Am-bà-la, thuộc nước Di-hy-la. Bấy giờ nữ Bà-la-môn Bà-tư-tra có đứa con thứ sáu vừa chết. Vì con chết nên tâm ý bà ta như điên loạn, lõa lồ cuồng chạy... chạy dần mãi đến vườn Am-bà-la ở Di-hy-la.

Lúc ấy Đức Thế Tôn đang thuyết pháp cho vô số đại chúng vây quanh. Nữ Bà-la-môn Bà-tư-tra từ xa thấy Thế Tôn, tâm ý phục hồi bình thường, xấu hổ ngồi thụt xuống đất. Đức Phật bảo A-nan:

–Ông hãy đưa y Uất-đa-la-tăng cho bà ta và dẫn đến đây, Ta sẽ giảng pháp.

A-nan vâng lời, đưa y Uất-đa-la-tăng. Nữ Bàla-môn Bà-tư-tra nhận y mặc vào, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ dưới chân. Đức Thế Tôn vì nữ Bàla-môn thuyết giảng giáo pháp, chỉ dạy, khiến đạt lợi ích, hoan hỷ. Như thuở xưa chư Phật đã giảng các pháp quan trọng, Ngài giảng về bố thí, trì giới, sanh thiên, dục là bất tịnh, nguồn gốc của khổ não, giải thoát là an lạc. Đức Thế Tôn giảng rộng giáo pháp, biết tâm bà sắp thoát mọi trói buộc che phủ, nên Ngài giảng về bốn Thánh đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo.

Vị nữ Bà-tư-tra này thông minh lãnh hội nhanh, nghe pháp có thể thọ trì, như tấm vải trắng dễ nhuộm màu, Bà-tư-tra ngay tại chỗ đã nhận rõ bốn chân đế, thấy pháp, đạt pháp, vượt khỏi bờ nghi, tự mình chứng pháp, không hiểu theo người, chứng tín không thoái chuyển; ở trong pháp Đức Phật dạy, đắc vô sở úy. Bà liền rời chỗ ngồi, chắp tay lạy Phật, thưa:

–Bạch Thế Tôn, nay con đã vượt qua ba ác, trọn đời con xin quy y Tam bảo, làm vị Ưu-bà-di, trọn đời chánh tín thanh tịnh không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu.

Nữ Bà-la-môn nghe pháp hoan hỷ, lễ Phật rồi từ giã.

Vào lúc khác, Bà-tư-tra bị chết đứa con thứ bảy, tâm không ưu sầu, không khổ não cũng không thương nhớ đến nỗi chạy cuồng loạn như trước.

Khi ấy người chồng là Ba-la-đột-la-xà nói kệ hỏi:

Xưa, khi nàng mất con
Nhớ thương rất đau khổ
Sầu muộn trói tâm ý
Bỏ luôn cả uống ăn
Nay đứa con thứ bảy
Bị bệnh vừa chết đi
Nàng là người từ mẫu
Tại sao không nhớ thương?

Bà-tư-tra nói kệ đáp lời chồng:

Vô lượng kiếp đến nay
Thọ thân không bờ bến
Do ân ái cho nên
Con cháu nhiều vô số
Thọ thân khắp nơi nơi
Bỏ mạng không phải một
Trong đường dài sanh tử
Chịu khổ vô cùng rồi
Ta đã thấy rõ đường
Đến đi của sanh tử
Thế nên ngày hôm nay
Không ý niệm sầu khổ.

Người chồng Bà-la-môn lại nói kệ:

Như lời nàng vừa nói
Xưa nay chưa được nghe
Nhờ ai nàng tỏ ngộ
Mà không còn ưu tư?

Bà-tư-tra nói kệ đáp:

Bà-la-môn nên biết
Trước đây Đức Chánh giác
Ở nước Di-hy-la
Trong vườn Am-bà-la
Giảng đoạn tất cả khổ
Và con đường diệt khổ
Tu bát thánh đạo phần
An ổn đắc Niết-bàn.

Bà-la-môn lại nói kệ:

Nay ta cũng muốn đến
Trong vườn Am-bà-la
Thưa hỏi Đức Thế Tôn
Cách trừ khổ nhớ con.

Bà-tư-tra lại nói kệ:

Thân Phật chân kim sắc
Ánh sáng chiếu một tầm
Đoạn sạch các phiền não
Vượt trên bờ tử sanh
Đại Đạo Sư như vậy
Điều phục được tất cả
Chúng sanh nhờ ngài độ
Nên hiệu là Chân Tế
Nay chàng hãy đi mau
Đến gặp Đức Phật-đà.

Vị Bà-la-môn nghe lời vợ nói, vô cùng hoan hỷ, tức thời lên xe đến khu vườn kia. Từ xa thấy Đức Thế Tôn uy quang sáng rực, vị ấy càng sanh tâm cung kính. Đến rồi đảnh lễ, ngồi qua một bên. Đức Phật với tha tâm trí quán sát tâm vị ấy, biết đã thuần thục, Ngài liền giảng về Khổ, Tập, Diệt, Đạo và Bát chánh đạo. Những pháp này có thể đưa đến Niết-bàn.

Vị Bà-la-môn sau khi nghe pháp ấy, giác ngộ bốn chân đế, được thấy pháp liền xin xuất gia. Đức Phật cho phép. Vị ấy sau khi xuất gia tinh tấn tu hành, chỉ trong ba đêm, đắc đủ ba minh. Đức Phật ghi nhận vị ấy chứng A-la-hán, nên đổi tên là Thiện Sanh.

Thiện Sanh sau khi chứng ba minh, bảo người đánh xe Bà-la-đề:

–Ông hãy mang chiếc xe quý giá này về nhà, bảo với Bà-tư-tra: Đối với ta, nàng có thể sống tự do tùy ý. Tại sao? Nay Đức Phật giảng bốn Thánh đế cho ta, ta đã xuất gia chứng được ba minh. Thế nên nàng đối với ta phải sanh lòng tin thanh tịnh.

Khi Bà-la-đề đem xe về nhà, Bà-tư-tra thấy xe liền hỏi:

–Chồng ta có gặp Đức Phật không?

Người đánh xe thưa:

–Ông chủ ngay tại chỗ ngồi đã thấy rõ bốn chân đế. Sau khi thấy rõ bốn chân đế, ông cầu xin xuất gia, Đức Phật đã cho người xuất gia. Sau khi xuất gia chỉ trong ba đêm đã chứng quả A-la-hán. Người vợ bảo với người đánh xe:

–Nay ngươi hãy truyền rộng tin tức này ra. Ta thưởng cho ngươi ngựa và ngàn tiền vàng.

Người đánh xe thưa:

–Nay tôi không cần ngựa và tiền vàng, chỉ muốn đến gặp Đức Phật để nghe diệu pháp.

Bà-tư-tra nói:

–Ngươi được như vậy rất là toàn hảo. Nếu ngươi xuất gia sẽ mau đạt đạo quả A-la-hán.

Bà-tư-tra bảo với con gái:

–Con khéo quản lý gia đình, thọ hưởng năm dục lạc, ta muốn xuất gia Người con tên là Tôn-đà-lợi, thưa với mẹ:

–Cha con có thể từ bỏ năm dục lạc, xuất gia cầu đạo. Nay con cũng nên theo đó xuất gia, xa lìa tâm niệm về anh em quyến thuộc, như voi lớn đi, voi nhỏ đi theo, con cũng như vậy, sẽ xuất gia theo, ôm bát đất đi khất thực. Con có thể tu hành đối với pháp dễ nuôi sống, chứ không sống một cách khó nuôi dưỡng.

Bà-tư-tra nói;

–Sự ưa muốn của con thật là tốt đẹp toàn thiện, nguyện này chắc chắn thành tựu. Ta xem con không bao lâu sẽ đoạn sạch dục vọng, xa lìa những thứ trói buộc.

Bấy giờ Bà-la-môn Bà-la-xà, Bà-tư-tra và Tôn-đà-lợi giúp đỡ nhau, đồng thời xuất gia, đều đoạn trừ sạch những cảnh giới đau khổ.

93. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu rừng Đại lâm, thuộc nước Tỳ-xá-ly. Khi ấy Đức Như Lai mặc y, bưng bát vào thành khất thực, sau khi thọ trai, thu xếp y bát, rửa chân, ngồi dưới gốc cây, trụ vào thiền định.

Có một Bà-la-môn tên Uất-thấu-la Đột-la-xà bị mất bò sữa đã sáu ngày, tìm khắp nơi nhưng vẫn chưa gặp. Ông ta tiếp tục tìm kiếm, nên vào rừng Đại lâm, từ xa thấy Đức Như Lai ngồi bên gốc cây, dung mạo đặc biệt, các căn tịch định, tâm ý điềm tĩnh, điều phục tâm ý đạt đến chỗ tối thượng, như lầu bằng vàng, ánh sáng rực rỡ. Thấy như thế, ông ta bèn đến chỗ Đức Phật, đứng trước mặt Ngài nói kệ:

Vui gì Tỳ-kheo độc cư tịnh
Tư duy như vậy đắc được gì?

Đức Phật nói kệ đáp:

Đối với việc được thua
Ta không còn vui sầu
Người đừng cho là ta
Giống như người không khác.

Bà-la-môn lại nói kệ:

Trong này đúng là Phạm trú xứ
Thật như Tỳ-kheo đã nêu bày
Tôi muốn hỏi về việc trong nhà
Xin ngài nghe cho lời tôi nói:

Sa-môn Ngài đang ngồi
Yên tịnh giữa rừng cây
Không như tôi mất bò
Đã sáu ngày đau khổ
Nên biết Sa-môn này
Thật là vui tịch nhiên
Người cũng không trồng lúa
Chẳng lo phải tưới nước
Cũng chẳng lo lúa gạo
Có xuất nhập hay không
Những nỗi khổ như vậy
Người từ bỏ đã lâu,
Người cũng không trồng mè
Nên không sợ cỏ hoang
Người cũng đã không có
Khổ não của cày bừa
Nên biết Sa-môn này
Thật hưởng vui tịch nhiên.
Nhà tôi có nệm cỏ
Dùng trải qua bảy tháng
Trong nệm có trùng độc
Bọ cạp chích khổ não
Sa-môn không việc ấy
Ngài thật là an lạc.
Ngài không có bảy con
Hoang tàng khó dạy dỗ
Buôn bán mắc nợ người
Ngài không có việc ấy
Sa-môn thật an lạc,
Ngài không, tôi có bảy
Con gái đều có chồng
Có con hoặc không con
Chồng chết đều về nhà
Ngài không khổ việc ấy
Nên biết Sa-môn vui,
Vì không có chủ nợ
Sáng sớm đã tới cửa
Để đòi số nợ kia
Không có những việc ấy
Sa-môn thật là vui,
Ngài không có nhà hư
Nhiều lu vò trống rỗng
Trong đó chuột giỡn nhau
Đụng vật phát ra tiếng
Nhiễu loạn tôi mất ngủ
Suốt đêm nghỉ chẳng yên.
Ngài không có vợ ác
Xấu xí mắt trợn trừng
Nửa đêm đã bắt dây
Sớm chiều mắng chửi luôn
Hoặc than nhà khổ lạnh
Hoặc than mắc nợ người
Sa-môn không việc này
Nên biết Ngài thật vui.

Thế Tôn nói kệ:

Bà-la-môn nên biết
Lời ngươi rất thành thực
Ta không bò bị trộm
Đã trải qua sáu ngày
Ta không có việc ấy
Nên thật là an lạc
Ta thật không lúa ruộng
Mà lo toan thiếu nước
Lại không lo lúa gạo
Có thu hoạch hay không
Ta không có khổ ấy
Thường biết là an lạc.
Ta không ruộng trồng mè
Bị cỏ mọc hoang sơ
Ta không lo việc ấy
Nên sống thật an lạc.
Ta không có nệm cỏ
Dùng đến bảy tháng dài
Sanh trùng độc, bò cạp
Cắn đốt khổ cả nhà
Ta không có việc này
Nên sống thật an lạc.
Ta không có bảy con
Ngang ngược khó dạy bảo
Tự gây ra nợ nần
Bị người khác chèn ép,
Ta không bảy con gái
Có con hay không con
Chồng chết về nhà ở
Ta không có khổ ấy.
Ta không có chủ nợ
Sáng sớm đến gõ cửa
Yêu sách đòi nợ nần,
Lại không có nhà hư
Khắp nơi lu trống rỗng
Chuột giỡn đùa bên trong
Đụng nhau gây tiếng động
Nhiễu loạn Ta bỏ ngủ
Suốt đêm ngủ không yên
Ta không có vợ ác
Xấu xí mắt vàng khè
Nửa đêm lôi thức dậy
Sáng chiều mắng chửi luôn
Hoặc than nhà nghèo khổ
Kể lể nợ người ta
Khổ này Ta không có
Nên sống thật an lạc.
Bà-la-môn nên biết
Ngươi không bỏ yêu ghét
Không thoát khổ ấy đâu!
Đoạn dục, xa lìa ái
Sau đó mới an lạc.

Bấy giờ Thế Tôn thuyết giảng giáo pháp cho Bà-la-môn, khiến cho ông ta được lợi ích, hoan hỷ...

nói rộng như trên... cho đến ông ta đoạn trừ nghiệp phiền não, không thọ sanh đời sau.

Lúc ấy Tôn giả Uất-thấu-la Đột-la-xà chứng quả A-la-hán, đạt được vị giải thoát, vô cùng hoan hỷ, nói kệ:

Nay tôi rất hoan hỷ
Giáo pháp Đại tiên dạy
Nghe pháp được giải ngộ
Không còn những dấy bỏ
Đến Thế Tôn không uổng
Gặp Phật được chứng đạo.

94. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở xóm Bà-la-môn Sa-la. Vào sáng sớm, Đức Thế Tôn mặc y, cầm bát vào xóm Sa-la khất thực. Gặp lúc mây trái mùa nổi lên, trời mưa xuống, Đức Như Lai tránh mưa, nên đi vào xóm ấy. Khi đó, trong khu này, các Trưởng giả Bà-la-môn đang tụ tập bàn luận. Từ xa thấy Đức Phật đến, họ lên tiếng:

–Đạo nhân cạo đầu biết những pháp gì?

Đức Phật nghe nói thế, bảo họ:

–Bà-la-môn các vị có người biết pháp có người không biết pháp? Các hàng Sát-lợi, Cư sĩ... cũng như vậy.

Đức Phật nói kệ:

Không thể với bạn thân
Làm họ sanh khuất phục
Vua chúa không thể hàng
Phục bậc không chịu phục
Vợ không cầu chồng phục
Cha mẹ khi tuổi già
Làm con phải kính dưỡng
Không được sanh bội nghịch
Không có chỗ đông nào
Không có bậc hiền lương
Vị thiện trượng phu nào
Cũng đều giảng pháp ngữ
Đoạn trừ tham, sân, ái
Là lời nói hợp pháp.

Bấy giờ các Bà-la-môn nói:

–Ngài hiểu biết giỏi về pháp Bà-la-môn, hãy vào đây với chúng tôi.

Họ trải tòa mời Đức Phật ngồi và thưa: –Ngài hãy thuyết pháp cho chúng tôi, chúng tôi muốn nghe.

Thế Tôn vào giữa chúng, ngồi nơi tòa của họ, thuyết giảng nhiều giáo pháp khiến cho họ lợi ích, hoan hỷ.

Thế Tôn nói kệ:

Ai im lặng không nói
Chẳng biết họ trí ngu
Cần phải nhờ lời nói
Sau đó mới thấu đạt
Nếu người giảng diệu pháp
Thuyết pháp hướng Niết-bàn
Thế nên phải giảng nói
Thắp sáng ngọn đuốc pháp
Phước Tiên Thánh dựng lên
Đều do lời giảng pháp
Nói pháp là phướn thánh
Vậy không nên im lặng.

Đức Phật giảng như vậy rồi đứng dậy từ giã họ.

95. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật du hóa ở nước Câu-tát-la. Trong nước này, có vị Bà-la-môn tên là Thiên Kính, ở trong xóm làng có nhà cho khách nghỉ. Khi ấy Tôn giả Ưu-ba-ma-na là thị giả của Phật, đang nghỉ trong nhà khách đó. Bấy giờ Đức Như Lai bị gió động nên đau lưng. Tôn giả Ưu-ba-Ma-na mặc y, cầm bát đến nhà Bà-la-môn Thiên Kính. Thiên Kính đang ngồi trong nhà cạo râu, từ xa thấy Tôn giả, bèn nói kệ:

Cạo tóc mặc pháp y
Tay cầm bát ứng khí
Đứng yên bên ngó tôi
Ngài muốn cầu chuyện gì?

Tôn giả Ưu-ba-ma-na nói kệ đáp:

Đại La-hán, Thiện Thệ
Mâu-ni đang đau lưng
Cần chút thuốc nước ấm
Nên đến nhà này xin.

Bà-la-môn lấy bát và đựng đầy tô, dầu, một cục đường đen, một thùng thuốc nước ấm, đem ra cúng dường. Tôn giả nhận những thứ ấy rồi đem đến chỗ Đức Phật, dùng tô, dầu và nước thuốc tắm rửa thân Phật, uống mật, đường, bệnh đau lưng liền giảm.

Bà-la-môn Thiên Kính vào sáng sớm hôm sau đến gặp Đức Phật. Sau khi thăm hỏi Thế Tôn xong thì ngồi qua một bên. Thế Tôn nói kệ hỏi vị Bà-lamôn:

Xin hỏi Bà-la-môn
Hành pháp Bà-la-môn
Cho gì được quả lớn
Cho khi nào đúng lúc
Cho vào phước điền nào
Được quả báo thù thắng?

Bà-la-môn nói kệ đáp:

Bậc học thức, hiểu biết
Đa văn ghi nhớ nhiều
Cha mẹ dòng chánh tịnh
Dung mạo rất đoan nghiêm
Những vị ấy gọi là
Bà-la-môn tam minh
Ai thí những vị ấy
Thu đạt quả báo lớn
Tùy thời thí y thực
Là phước điền thù thắng.

Bà-la-môn nói kệ hỏi Đức Phật:

Cù-đàm nói hạng nào
Gọi là Bà-la-môn?
Thế nào là ba minh?
Thí đâu được quả lớn?
Thí khi nào đúng lúc?
Thắng phước điền là gì?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Biết rõ cả ba đời
Thấy trời, người, đường ác
Không còn sanh tử nữa
Chứng đắc những thần thông
Tâm trí đạt giải thoát
Đấy gọi là ba minh
Thí vị ấy quả lớn
Gọi là thắng phước điền.

Bà-la-môn Thiên Kính nghe lời Phật dạy, hoan hỷ từ giã.

96. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật du hóa ở nước Câu-tát-la, ban đêm nghỉ ở rừng Sa-la. Có một Bà-la-môn đang canh tác ở gần rừng, sáng sớm đi thăm ruộng nên đến chỗ Phật, thưa:

–Bạch Thế Tôn, con trồng trọt gần rừng nên ưa thích rừng này. Nay Ngài cũng ưa thích rừng Sa-la này, có phải chăng Ngài cũng muốn canh tác ở đây?

Bà-la-môn nói kệ:

Ngài vì muốn trồng cây
Phải chăng ưa rừng này?
Không bạn, vui cô tịch
Thích rừng này phải không?

Đức Thế Tôn nói kệ đáp:

Ta ở trong rừng này
Chẳng phải làm gì cả
Nhổ sạch hết gốc rễ
Tất cả đều phá khô
Ở rừng nhưng không rừng
Đã xa lìa hẳn rừng
Ta bỏ hẳn thú vui
Thiền định, đoạn nhiễm đắm.

Vị Bà-la-môn lại nói kệ:

Ngài thật tên Phật-đà
Tôn quý nhất thế gian
Diệt trừ các phiền não
Xa lìa sự tích chứa
Bậc Tối Thượng thế gian
Nên hiệu là Thế Tôn.

Bà-la-môn này nói kệ xong, hoan hỷ từ giã.

97. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật du hóa tại nước Câu-tát-la, trụ nơi rừng Sa-la. Cách rừng không xa, có một Bà-la-môn dạy học cho năm trăm thanh niên. Bàla-môn ấy thường nghĩ: “Bao giờ Đức Thế Tôn du hành đến tại rừng này ta sẽ tới thăm hỏi, Ngài sẽ giải thích cho ta những điều nghi ngờ!”

Lúc đó vị ấy sai các thanh niên vào rừng chặt củi để tế lửa. Các thanh niên kia vào rừng thấy Đức Như Lai ngồi bên gốc cây, đoan nghiêm đặc biệt, dung mạo hòa nhã, như lầu bằng vàng ròng, hào quang rực rỡ. Những thanh niên thấy Như Lai rồi, vội vác củi về, thưa với thầy:

–Trước đây thầy thường nghĩ đến việc thấy Phật, nay Đức Như Lai ở tại rừng này rất gần, nếu thầy muốn gặp thật là đúng lúc.

Vị Bà-la-môn nghe nói như vậy, liền đến gặp Đức Phật, thăm hỏi sức khỏe, ngồi qua một bên, nói kệ:

Rừng sâu rất rậm rạp
Trông thấy thật đáng sợ
Vì sao ngồi một mình
Tu thiền tâm không hãi
Lại không có tiếng ồn
Nên tự thân hoan hỷ
Vì sao vui tĩnh lặng
Thật là chưa từng có
Ngài vì cầu Phạm thiên
Chúa tự tại thế giới
Hay cầu làm Đế Thích
Vua cõi trời Ba ba?
Vì sao vui ở riêng
Trong rừng sâu đáng sợ
Thường tu hành khổ hạnh
Nhằm mong cầu điều chi?

Đức Thế Tôn nói kệ đáp:

Người nào còn mong cầu
Nghi hoặc đầy tâm ý
Với vô số cảnh giới
Tâm nhiễm đắm chạy theo
Tất cả các kết sử
Sanh ra vì không trí
Ta nhổ gốc ngu si
Cạn khô bùn dục buộc
Đoạn sạch ý mong cầu
Không còn các dối trá
Ở trong các pháp thiện
Chứng biết được thanh tịnh
Đắc đạo quả vô thượng
Bậc tu thiền ly dục.

Vị Bà-la-môn lại nói kệ:

Nay con xin đảnh lễ
Quy y Đấng Mâu-ni
Tự tại trong các thiền
Giác ngộ Chánh biến tri
Thế Tôn trong Trời, Người
Đầy đủ ba hai tướng
Đoan chánh không ai bằng
Giống như vua Tuyết sơn
Trong rừng được giải thoát
Nhưng không đắm vướng rừng
Bậc Thanh Tịnh Giải Thoát
Vô sanh nhổ tên độc
Giáo pháp Như Lai thuyết
Cao thượng trong các luận
Lời lẽ vi diệu nhất
Sư tử rống trong đời
Thuyết giảng bốn Thánh đế
Độ khắp cho tất cả
Tự xa lìa khổ lớn
Lại hóa độ quần sanh
Khiến đạt được an lạc
Nguyện vì thuyết pháp này
Nay con hướng về lạy
Được sang bờ giải thoát
Xa lìa những sợ hãi.
Lành thay! Ngài đến đây!
Để con được gặp gỡ
Bậc Thầy của Trời, Người
Trừ diệt được tất cả
Khổ não của chúng sanh.

Vị Bà-la-môn nói kệ ấy xong, hoan hỷ từ giã.

98. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật du hóa ở nước Câu-tát-la. Bấy giờ Đức Thế Tôn đang ở bên bờ sông Tônđà-lợi. Bên bờ sông này, có một Bà-la-môn đang sống ở đó. Ông ta đến gặp Đức Phật, sau khi chào hỏi, ngồi qua một bên, thưa Phật:

–Ngài muốn xuống sông tắm phải không?

Đức Phật hỏi lại:

–Xuống tắm ở sông này có lợi ích gì? Vị Bà-la-môn đáp:

–Sông này là nơi ngày xưa Tiên nhân đi qua. Ai xuống sông tắm rửa, trừ những điều xấu, được thanh tịnh, xinh đẹp tinh khiết, gọi là an lành lớn lao.

Đức Phật nghe như vậy liền nói kệ:

Dầu là sông Tôn-đà
Đắc bế hay Hằng hà,
Yết-xà, Bà-bát-đề
Tắm trong những sông ấy
Không thể trừ sạch được
Những nghiệp ác đã tạo.
Đại lực Bát-kiện-đề
Cùng kẻ ngu hèn kém
Nếu cùng tắm một sông
Cho đến trăm ngàn năm
Vẫn không thể trừ ác
Cấu uế của phiền não.
Nếu tâm người thanh tịnh
Trì giới thường bố tát
Người thường tu nghiệp tịnh
Thường được đầy đủ giới
Không giết và không trộm
Không tà dâm, vọng ngữ
Người thường tin tội phước
Không ganh ghét người khác
Nước pháp rửa bụi trần
Nên tắm ở chỗ ấy.
Tuy nơi Tôn-đà-lợi,
Kiệt-xà, những dòng sông
Đều là nước thế gian
Uống nước và tắm rửa
Không thể trừ cấu uế
Và trừ những nghiệp ác.
Tắm, uống để làm gì!
Chân thật, nói nhu hòa
Bỏ sân, không hại vật
Nước này chân tịnh thủy
Ai vào sông tịnh giới
Tẩy trừ những phiền não
Tuy không trừ bẩn ngoài
Nhưng sạch uế bên trong.
Người hung ác tàn hại
Ngu bướng tạo nghiệp ác
Những bất tịnh như vậy
Như uế, ô, cấu, ác
Nước chỉ tắm ngoài thân
Không thể trừ nghiệp ác.

Bà-la-môn nghe lời Phật dạy, tán thán:

–Lành thay! Lành thay! Đúng như lời ngài dạy. Người tắm rửa chỉ trừ cáu bẩn trên thân. Người tạo nghiệp ác không thể trừ ác bằng cách tắm rửa.

99. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật du hóa, bên bờ sông Tônđà-lợi, thuộc nước Câu-tát-la. Khi ấy Đức Thế Tôn vừa mới cạo râu tóc, trú đêm bên bờ sông. đêm tàn, trời sắp sáng, Ngài dùng y phủ lên đầu, chánh thân ngồi thẳng, đặt niệm ở trước mặt.

Bấy giờ, bên bờ sông ấy có vị Bà-la-môn tế lửa. Theo pháp tế lửa, phần vật phẩm tế xong phải đem cho các vị Bà-la-môn khác. Khi trời sắp sáng, vị ấy cầm vật tế xong đi tìm Bà-la-môn để thí cho họ, trên đường đi gặp Đức Phật. Đức Thế Tôn nghe tiếng ông ta đi, lấy y che đầu xuống, tằng hắng lên tiếng. Bà-la-môn này khi thấy Đức Phật, liền lên tiếng:

–Đây không phải là Bà-la-môn, mà là đạo nhân đầu trọc.

Ông ta muốn trở về nhà, lại suy nghĩ: “Người cạo đầu chưa chắc là Sa-môn, Bà-la-môn cũng có người cạo tóc, ta nên đến gặp ông ấy để hỏi về nguồn gốc, đẳng cấp, tộc họ”.

Vị Bà-la-môn ấy bèn đến gặp Đức Phật, thưa hỏi:

–Người sanh ở đâu và thuộc dòng họ nào? Đức Thế Tôn nói kệ đáp:

Đừng hỏi sanh ở đâu
Nên hỏi đã làm gì?
Cây nhỏ cũng sanh lửa
Ti tiện sanh hiền đạt
Khéo điều phục đời sống
Hổ thẹn, làm việc thiện
Siêng năng tự điều thuận
Vượt khỏi bờ Vi-đà
Định ý thu nhiếp tâm
Tu phạm hạnh đầy đủ
Sáng sớm nên bố thí
Phẩm vật tế tự xong.
Này vị Bà-la-môn,
Nếu ai muốn tu phước
Hãy cúng dường vị ấy
Là bậc thiện trượng phu.

Vị Bà-la-môn nói kệ:

Nay tôi đang cúng dường
Nơi này thật tế lửa
Nay tôi quán sát Ngài
Đã vượt bờ Vi-đà
Xưa nay tế lễ xong
Đem cúng dường người khác
Chưa gặp ai như Ngài
Bậc Thắng Diệu Ứng Cúng.

Vị Bà-la-môn liền đem thực phẩm dâng lên Đức Thế Tôn. Đức Phật không nhận và nói kệ:

Trước không nghĩ bố thí
Nghe thuyết pháp rồi cho
Thức ăn uống như vậy
Thật không nên nhận lấy
Thường pháp quy định vậy
Nên Ta không thọ nhận
Thế nên không được nhận
Vì thuyết giảng kệ pháp.
Các Đại nhân hiện tại
Tận diệt hết phiền não
Nên đem thức ăn uống
Cúng dường các vị ấy
Người muốn cầu phước điền
Nên cúng dường chốn đó
Nếu ai muốn làm phước
Ta chính là phước điền.

Bà-la-môn lại bạch Phật:

–Nay con nên đem thực phẩm này bố thí cho ai?

Đức Phật dạy:

–Ta không thấy có Sa-môn, Bà-la-môn, Trời, Ma, Phạm nào trong thế gian này có thể ăn thực phẩm ấy mà tiêu hóa được. Nên bỏ chúng vào chỗ nước không có trùng.

Vị Bà-la-môn vâng lời Phật, đem thức ăn bỏ vào chỗ nước không trùng, lửa khói bốc lên, nước sôi phát tiếng. Bà-la-môn thấy sự việc ấy rất sợ hãi, toàn thân nổi ốc. Vì sợ hãi nên ông ta chặt thêm củi dùng để tế lửa.

Đức Thế Tôn đến nơi kia nói kệ:

Ngươi đốt lửa đàng hoàng
Cho là được thanh tịnh
Người ít phước vô trí
Chỉ đốt lửa bên ngoài
Bà-la-môn nên biết
Ngươi bỏ đốt lửa đi
Nên tu lửa trong tâm
Cháy mãi không thể tắt.
Thêm rộng lửa như thế
Gọi là tế chân chánh
Thường tín tâm bố thí
Ngươi nên tế như vậy.
Nay ngươi kiêu mạn nặng
Chẳng xe nào chở nổi
Sân độc như khói tỏa
Như dầu tưới vào lửa
Lưỡi luôn dấy lời ác
Tâm chứa đựng lửa dữ
Không thể tự điều thuận
Sao gọi là trượng phu?
Ai lấy tín làm sông,
Giới làm bờ tế độ
Nước thanh tịnh như vậy
Được người thiện tán thán.
Ai tin tắm bằng giới
Là thần chú Tỳ-đà
Diệt được các tướng ác
Được sang bờ bên kia
Dùng pháp để làm ao
Cù-đàm chân tế độ
Nước tịnh thủy thanh khiết
Thiện trượng phu rất quý
Những người thường tắm rửa
Người công đức Tỳ-đà
Thân thể không nhơ bẩn
Được sang bờ bên kia
Nói thật, điều các căn
Chế ngự cả ba nghiệp
Tu đầy đủ phạm hạnh
Nhẫn, hổ thẹn tối thượng
Tín đến người chất trực
Đấy là pháp tắm rửa
Thế nên ông ngày nay
Cần phải biết như vậy.

Vị Bà-la-môn nghe lời Phật dạy, bỏ dụng cụ tế lửa, đứng dậy lễ Phật, chắp tay cung kính, bạch:

–Cầu mong Đức Phật cho phép con được xuất gia thọ giới cụ túc trong Phật pháp, được làm vị Tỳ-kheo, theo pháp Phật tu phạm hạnh.

Đức Phật đồng ý cho vị ấy xuất gia, thọ giới cụ túc. Vị Tôn giả ấy siêng năng, dốc tâm tu tập, hết mực tự kiềm chế, vui ở chỗ vắng, xa lìa phóng dật, không ưa gần gũi kẻ tại gia, xuất gia. Vì sao vậy? Tộc tánh tử đó cạo bỏ râu tóc, mặc pháp y, chánh tín xuất gia, tu vô lượng phạm hạnh, hiện tại thấy biết tự thân chứng đạo. Bấy giờ Tỳ-kheo ấy tu tập định tuệ, đắc quả A-la-hán, diệt tận hữu lậu, phạm hạnh đã lập, hoàn tất công việc, không thọ đời sau.

100. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một Bà-la-môn bện tóc tên là Bà-la-đột-raxà, đến gặp Đức Phật. Sau khi thăm hỏi, ngồi qua một bên, vị ấy nói kệ:

Tóc bên ngoài bị bện
Trong có tóc bện không?
Thế gian bị tóc quấn
Ai có thể thoát được?

Thế Tôn nói kệ:

Bậc trí sáng lập giới
Tâm tu bằng trí tuệ
Tinh tấn chuyên cần học
Tuổi trẻ trừ tóc bện.

Bà-la-môn nói kệ:

Bên ngoài bị tóc quấn
Trong có tóc quấn không?
Thế gian bị tóc quấn
Ai có thể đoạn trừ?

Thế Tôn nói kệ:

Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân
Cùng ý căn pháp trần
Danh sắc đều không còn
Tâm, ý, xứ đều diệt
Ai chứng được như vậy
Đoạn trừ được tóc quấn.

Tổng nhiếp tụng:

Chiên đà, Bà-tư-tra
Mất bò, giảng tập xứ
Thiên kính, rừng Sa-la
Lấy củi, hai Tôn Đà
Nhất bện tóc là mười.

101. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại gốc cây Bồ-đề, bên bờ sông Nê-liên, thuộc xóm Ưu-lâu-tần-loa, thành đạo chưa được bao lâu.

Bấy giờ Đức Thế Tôn ngồi im lặng một mình, suy nghĩ: “Người nào không có tâm cung kính, không kính thuận với Tôn trưởng của mình, không nhận lãnh sự dạy bảo, không có chỗ để kính sợ, mặc tình phóng túng, thì vĩnh viễn mất sự lợi ích chân thật. Những người như vậy bị các khổ ràng buộc. Người nào hiếu thuận, phụng sự Sư trưởng, kính dưỡng, biết sợ, tùy thuận không nghịch, ước nguyện thành tựu, được lợi ích chân thật lớn. Người như vậy sống ở đâu cũng an lạc”.

Đức Phật lại suy nghĩ: “Tất cả trong thế gian như: Trời, Người, thế giới chư Thiên, thế giới nhân loại, thế giới Ma, thế giới Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn … tất cả sanh loại trong thế gian, nếu người nào có Giới, Định, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến hơn Ta, Ta sẽ gần gũi, nương tựa, cúng dường cung kính. Sau khi quán sát khắp, Ta đều không thấy tất cả Trời, Người, Ma, Phạm, Samôn, Bà-la-môn, trong thế gian, không có vị nào hơn Ta về Giới, Định, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến để Ta nương tựa”.

Ngài lại suy nghĩ: “Pháp mà Ta đã giác ngộ được, nay Ta nên gần gũi, cúng dường, cung kính, thành tâm tôn trọng. Vì sao? Tất cả chư Phật trong quá khứ đều gần gũi, nương tựa, cúng dường, cung kính, tôn trọng pháp ấy. Chư Phật trong vị lai và hiện tại cũng gần gũi, nương dựa pháp ấy, cúng dường, cung kính, sanh tâm tôn trọng. Nay Ta cũng như chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại gần gũi, nương tựa, cúng dường, cung kính, tôn trọng Pháp”.

Bấy giờ Thiên chủ Phạm vương từ xa biết Thế Tôn đang ngồi nơi gốc cây Bồ-đề, bên sông Nêliên, thuộc xóm Ưu-lâu-tần-loa, suy nghĩ: “Quán sát trong thế gian cả Trời, Người, Ma, Phạm, Samôn, Bà-la-môn, tất cả chúng sanh nếu có ai hơn Ta về Giới, Định, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến, Ta sẽ nương dựa vị ấy, nhưng Ta chẳng thấy có người nào hơn Ta cả”. Ngài lại quán sát chư Phật ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều gần gũi, nương tựa Pháp, cúng dường cung kính, sanh tâm tôn trọng. Hiện nay Ngài cũng tùy theo chư Phật đã làm, gần gũi, nương tựa, cúng dường cung kính, tôn trọng Pháp.

Khi ấy vua trời Phạm thiên lại suy nghĩ: “Ta nên rời chỗ này đến gặp Đức Phật”.

Vua trời Phạm thiên, chỉ trong thời gian như người tráng sĩ co duỗi cánh tay, đến gặp Đức Phật, bạch:

–Thưa Thế Tôn, thật như ý nghĩ của Ngài, đúng như ý nghĩ của Ngài!

Phạm thiên nói kệ:

Quá khứ, hiện tại chư Như Lai
Tất cả Phật-đà trong hiện tại
Bậc Chánh Giác này đã trừ não
Tất cả đều lấy Pháp làm thầy
Gần gũi, nương tựa sống với Pháp
Đấy chính là pháp ba đời Phật
Thế nên muốn tôn trọng bản thân
Trước phải tôn trọng kính Pháp ấy
Cần phải ghi nhớ lời Phật dạy
Tôn trọng cúng dường pháp vô thượng.

Bấy giờ Phạm vương tán thán Thế Tôn, sanh tâm hoan hỷ sâu xa, rồi làm lễ từ giã.

102. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại gốc cây Bồ-đề, bên bờ sông Nê-liên, thuộc xóm Ưu-lâu-tần-loa, thành đạo chưa bao lâu.

Ngồi một mình bên gốc cây, Đức Phật suy nghĩ: “Có con đường duy nhất đưa chúng sanh đến thanh tịnh, khiến cho xa lìa khổ não, cũng trừ diệt được nghiệp ác, bất thiện, đạt được lợi ích đúng pháp. Pháp ấy là bốn Niệm xứ. Bốn Niệm xứ là gì? Đó là: Quán thân niệm xứ, quán thọ niệm xứ, quán tâm niệm xứ, và quán pháp niệm xứ. Người nào không tu bốn Niệm xứ là xa lìa pháp Hiền thánh, rời bỏ nẻo thánh. Ai xa lìa nẻo thánh là xa lìa pháp cam lộ. Ai xa lìa pháp cam lộ thời không thoát khỏi sanh, lão, bệnh, tử, ưu bi, khổ não. Những người như vậy, Ta nói rõ: họ không thể nào thoát ly tất cả các khổ. Ai tu bốn Niệm xứ là gần gũi pháp Thánh hiền. Ai gần gũi Thánh hiền là gần gũi đạo Hiền thánh. Ai gần gũi đạo Hiền thánh là gần gũi pháp cam lộ. Ai gần gũi pháp cam lộ là có khả năng thoát khỏi sanh, lão, bệnh, tử, ưu bi, khổ não, chính những người ấy thoát ly hoàn toàn sự khổ”.

Lúc ấy vua trời Phạm thiên từ xa biết ý nghĩ của Đức Thế Tôn nên tự nghĩ: “Nay ta nên đến gặp Đức Thế Tôn, tùy hỷ tán trợ”. Nghĩ như thế xong, trong khoảng thời gian nhanh như người tráng sĩ co duỗi cánh tay, vua trời Phạm thiên đến gặp Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài, đứng qua một bên, bạch Phật:

–Đúng như ý nghĩ của Đức Thế Tôn, có con đường duy nhất đưa chúng sanh đến thanh tịnh… cho đến được thoát khỏi ưu bi, khổ não.

Khi ấy Phạm thiên nói kệ:

Chỉ có đạo cam lộ
Chốn ấy phải tinh cần
Muốn cầu xa lìa khổ
Chỉ có một đường kia
Ai đi trên đường đấy
Như nhạn vượt không gian
Đức Thích-ca Mâu-ni
Đã chứng đắc Phật đạo
Tất cả Chánh Đạo Sư
Đều đem đường giác đó
Chỉ dạy cho chúng sanh
Nên nêu giảng nhiều lần
Để mong mọi người biết
Tận ranh giới sanh hữu
Mong Ngài thuyết nhất đạo
Tế độ các chúng sanh
Chư Phật trong quá khứ
Giải thoát bằng đường này
Phật vị lai, hiện tại
Đi đường ấy giác ngộ.
Thế nào gọi là độ?
Vượt qua được dòng thác
Cứu cánh nơi vô biên
Điều phục được cực tịnh
Thế gian đều sanh tử
Ngài biết các cảnh giới
Vì những người có mắt
Chỉ dạy con đường này
Như dòng Hằng hà kia
Chảy hướng về biển lớn
Thánh đạo cũng như vậy
Phật khai thị hiển nhiên
Đạo này như sông kia
Hướng về biển cam lộ
Xưa nay chưa từng nghe
Tiếng chuyển diệu pháp luân
Cầu mong Thiên Tôn Nhân
Đấng Vượt Già, Bệnh, Chết
Nơi tất cả quy y
Xin chuyển diệu pháp luân.

Vua trời Phạm thiên nói kệ xong, đảnh lễ dưới chân Phật, từ giã biến mất.

103. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Khi ấy, vào giữa đêm, vua trời Phạm thiên với hào quang chiếu sáng, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, ngồi qua một bên. Phạm thiên, với hào quang rực rỡ chiếu sáng cả nơi ấy, ngay tại chỗ ngồi, nói kệ:

Sát-lợi, Lưỡng Túc Tôn
Bậc Chủng Tánh Chân Chánh
Đầy đủ cả minh hạnh
Tối thắng trong Trời, Người.

Đức Phật bảo Phạm thiên:

–Lời nói rất đúng! Lời nói rất đúng!

Sát-lợi, Lưỡng Túc Tôn Đấng Chủng Tánh Chân Chánh Đầy đủ minh và hạnh Tối thắng trong Trời, Người.

Vua trời Phạm thiên nghe lời Phật dạy, hoan hỷ vui mừng, đảnh lễ nơi chân Phật, biến mất tại chỗ, trở về Thiên cung.

104. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật du hóa ở nước Câu-tát-la. Trong nước ấy có một trú xứ A-lan-nhã, Đức Thế Tôn cùng đại chúng Tỳ-kheo nghỉ đêm ở đó. Đức Thế Tôn khen ngợi trú xứ ấy, thuyết giảng về pháp trú xứ A-lan-nhã.

Vua trời Phạm thiên biết Đức Như Lai đang du hóa ở nước Câu-tát-la, cùng đại chúng Tỳ-kheo nghỉ đêm tại trú xứ yên tịnh, tán thán trú xứ ấy, thuyết giảng về pháp trú xứ A-lan-nhã. Vua trời Phạm thiên suy nghĩ: “Nay ta nên đến gặp Thế Tôn, tùy hỷ tán thán”.

Phạm thiên vương biến mất ở cung trời, nhanh như thời gian người tráng sĩ co duỗi cánh tay, đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Đức Phật, ngồi qua một bên, nói kệ:

Trải tọa cụ chỗ vắng
Nên đoạn mọi trói buộc
Nếu không thích như vậy
Nên về sống giữa Tăng
Luôn luôn tự chánh niệm
Thu nhiếp căn, khất thực
Giữ gìn đủ giới cấm
Nên đến nơi yên tịnh
Xả bỏ hết sợ hãi
Trú vững tâm không sợ
Đoạn trừ sạch kiêu mạn
Kiên tâm trú nơi ấy
Điều con nghe như vậy
Không nên nghi hoặc nữa
Một ngàn A-la-hán
Tại đây đoạn sanh tử
Học hữu hai ngàn rưỡi
Ngàn một trăm Dự lưu
Nhập lưu tu chánh đạo
Không còn đi đường tà
Không thể trình bày hết
Người hành đạo đắc quả
Lý do không thể nói
Sợ họ không kính tín.

Khi ấy Phạm thiên chủ nói kệ xong, đảnh lễ chân Phật, trở về Thiên cung.

105. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở rừng Thích-sí, thuộc thành Ca-tỳ-la-vệ cùng đại chúng Tỳ-kheo năm trăm vị, đều là bậc A-la-hán, diệt sạch hết các lậu, đã làm xong việc, bỏ gánh nặng xuống, đạt đến tự lợi, hết nghiệp đời sau, không còn bị phiền não trói buộc, trí tuệ chân chánh giải thoát. Lại có chư Thiên đại uy đức trong mười thế giới đến gặp Phật, thăm hỏi Đức Phật và Tăng.

Khi ấy Đức Thế Tôn thuyết pháp tùy thuận Niết-bàn. Có bốn vị trời ở cõi Phạm thân, tự nghĩ: “Hiện nay Đức Phật đang ở rừng Thích-sí, thành Ca-tỳ-la-vệ, cùng năm trăm vị Tỳ-kheo Tăng, đều là bậc A-la-hán, đã hết các lậu, việc làm đã xong, bỏ gánh nặng xuống, đạt đủ tự lợi, hết nghiệp đời sau, không còn phiền não trói buộc, trí tuệ chân chánh giải thoát. Lại có chư Thiên đại uy đức trong mười thế giới đến chỗ Phật, thăm hỏi Đức Phật và Tăng. Thế Tôn vì họ thuyết giảng pháp tùy thuận Niết-bàn. Nay ta nên đến chỗ Đức Thế Tôn”.

Các vị thiên cõi Phạm thân nghĩ như thế rồi, liền biến mất tại chỗ, trong khoảng thời gian nhanh như người tráng sĩ co duỗi cánh tay, đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài, rồi đứng qua một bên.

Vị thiên thứ nhất ở cõi Phạm Thân nói kệ:

Hiện nay tại rừng này
Cả đại chúng tập hội
Thế nên chúng con đến
Vì muốn xem chúng Tăng
Không dùng tâm bất thiện
Hoại phá hòa hợp Tăng.

Vị thiên thứ hai cõi Phạm thân nói kệ:

Tỳ-kheo tâm thành thật
Phải làm việc tinh cần
Như người khéo chế ngự
Khiến ngựa phải phục tùng
Tỳ-kheo cũng như vậy
Nên chế ngự các căn.

Vị thiên thứ ba cõi Phạm thân nói kệ:

Thí như ngựa rừng bị cương cột
Nhổ trụ vượt hào thoát an ổn
Các vị Tỳ-kheo cũng như vậy
Nhổ ba trụ độc, vượt hào dục
Được Đạo sư Thế Tôn điều phục
Nên đời có những voi quý lớn.

Vị thiên thứ tư cõi Phạm thân nói:

Những người quy y với Phật đà
Từ bỏ thân người được thân trời.

Bốn vị trời Phạm thân, mỗi người nói kệ xong, hướng về chúng Tăng cung kính khép nép làm lễ, rồi từ giã.

106. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá. Bấy giờ, vào giữa đêm, vua trời Phạm thiên với hào quang sáng chói, đến gặp Đức Phật.

Khi ấy Thế Tôn nhập pháp tam-muội Hỏa quang. Vua trời Phạm thiên tự nghĩ: “Hiện nay Đức Như Lai đang vào chánh định. Ta đến đây thật trái thời”.

Trong thời gian ấy, thân hữu của Đề-bà-đạt-đà là Tỳ-kheo Cù-ca-lê hủy báng Tôn giả Xá-lợi-phất và Tôn giả Mục-kiền-liên. Vị Phạm thiên ấy bèn đến chỗ Ca-lê gõ cửa phòng ông ta, gọi:

–Này Cù-ca-lê, Cù-ca-lê, ông nên sanh tâm tịnh tín đối với Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-liên. Hai vị Tôn giả ấy tâm tịnh, hòa dịu, phạm hạnh đầy đủ. Ông hủy báng như vậy, sau này phải chịu nhiều đau khổ lâu dài.

Cù-ca-lê hỏi Phạm thiên:

–Ngươi là ai? Đáp: –Ta là vua trời Phạm thiên. Cù-ca-lê nói:

–Đức Phật thọ ký ông đã đắc A-na-hàm phải không? Phạm thiên đáp: –Đúng vậy. Cù-ca-lê nói:

–A-na-hàm nghĩa là không trở lại (Bất hoàn). Tại sao ông trở lại?

Vua trời Phạm thiên tự nghĩ: “Những hạng người này không nên nói chuyện với họ”. Phạm thiên nói kệ:

Muốn lường pháp vô lượng
Bậc trí không làm vậy
Ai lường pháp vô lượng
Tất phải bị thiêu hại.

Phạm thiên nói kệ xong, đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ dưới chân Đức Phật, ngồi qua một bên, đem sự việc với lời nói của Cù-ca-lê trình bày đầy đủ với Đức Thế Tôn. Phật bảo Phạm thiên:

–Đúng vậy, đúng vậy. Muốn lường pháp vô lượng, có thể đốt cháy kẻ phàm phu.

Thế Tôn nói kệ:

Con người sống trong đời
Lưỡi búa để trong miệng
Do lời ác của họ
Tự chặt lấy thân mình
Hủy báng bậc đáng khen
Ca ngợi kẻ đáng chê
Người xấu ác như vậy
Không bao giờ an vui.
Cù-ca-lê vu báng
Với Phạt-đà, Hiền thánh
Ca-lê bị đọa lạc
Vào trăm ngàn địa ngục
Ngay khi A-phù-đà
Hủy báng bậc Thánh hiền
Do khẩu ý ác độc
Đọa vào địa ngục ấy.

Vua trời Phạm thiên nghe kệ xong, lễ Phật rồi từ giã.

QUYỂN 6

TỤNG 1: PHẦN 6

107. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ có hai vị trời, vị thứ nhất tên là Tiểu Thắng Thiện Bế Phạm, vị thứ hai tên Tiểu Thắng Quang Phạm, cùng muốn đến gặp Đức Phật.

Phạm thiên Bà-già thấy hai vị ấy bèn hỏi:

–Các vị muốn đến đâu?

Hai vị Phạm thiên đáp:

–Chúng tôi muốn đến chỗ Đức Thế Tôn để thăm hỏi, lễ kính.

Phạm thiên Bà-già nói kệ:

Bốn Phạm tên Hạc Tước
Ba Phạm tên là Kim
Bảy mươi hai năm trăm
Tên gọi là Dư-tỳ
Ngươi xem ta sắc vàng
Chiếu sáng rất rực rỡ
Uy quang minh của ta
Ánh sáng che Phạm thiên
Tại sao không ngắm ta
Mà muốn đến thăm Phật?

Hai vị trời nói kệ đáp:

Ngài có chút ánh sáng
Chói che cả Phạm thiên
Nên biết sắc quang ấy
Đều có nhiều nguy hại
Bậc minh trí giải thoát
Nào thích sắc quang này.

Hai vị trời ấy nói kệ xong, liền đến gặp Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài, ngồi qua một bên, thưa:

–Thưa Đức Thế Tôn, chúng con muốn đến gặp Ngài, vì thế Phạm thiên Bà-già hỏi chúng con: “Muốn đến chỗ nào?” Chúng con đáp: “Muốn đến gặp Đức Phật”. Phạm thiên Bà-già nói kệ:

“Bốn Phạm tên Hạc Tước
Ba Phạm tên là Kim
Bảy mươi hai năm trăm
Tên gọi là Dư-tỳ
Ngươi xem ta sắc vàng
Chiếu sáng rất rực rỡ
Uy quang minh của ta
Ánh sáng che Phạm thiên
Tại sao không ngắm ta
Mà muốn đến thăm Phật?”

Chúng con nói kệ đáp:

“Ngài có chút ánh sáng
Chói che cả Phạm thiên
Nên biết sắc quang ấy
Đều có nhiều nguy hại
Bậc minh trí giải thoát
Nào thích sắc quang này”.

Đức Phật nói:

–Này Phạm thiên, đúng vậy! Đúng vậy! Vị Phạm thiên kia tuy có chút ít ánh sáng che cả Phạm thiên, nên biết ánh sáng ấy đều có lỗi lầm nguy hiểm. Bậc trí hiểu rõ không nên ưa thích nó.

Đức Phật vì hai vị Phạm thiên thuyết giảng giáo pháp khiến họ được lợi ích, vui vẻ.

Hai vị Phạm thiên nghe pháp hoan hỷ đảnh lễ, rồi trở về Thiên cung.

108. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Khi ấy Phạm thiên Bà-ca sanh tà kiến, bày tỏ:

–Chỗ này thường còn vững chắc, không hư hoại, không bị thay đổi trong vòng sanh tử. Nếu ngoài chỗ này ra, có chỗ không bị thay đổi thì không có chuyện ấy.

Đức Thế Tôn biết ý nghĩ trong tâm Phạm thiên Bà-ca, nên chỉ trong khoảng thời gian như người tráng sĩ co duỗi cánh tay, Đức Như Lai đi đến cung Phạm thiên Bà-ca. Phạm thiên Bà-ca nói với Đức Phật:

–Này Đại Tiên, chỗ này thường còn vững chắc, không hư hoại, không bị thay đổi. Nếu ngoài chỗ này thì không thể nào có chỗ không bị thay đổi.

Đức Phật bảo Phạm thiên:

–Chỗ này vô thường, tại sao ông sanh vọng tưởng cho là thường? Chỗ này hư hoại, lại sanh vọng tưởng cho là không hư hoại. Chỗ này bất định lại sanh vọng tưởng cho là cố định. Chỗ này thay đổi, lại sanh vọng tưởng cho là không thay đổi. Có thắng xứ khác hoàn toàn không bị thay đổi, ông lại sanh vọng tưởng không có thắng xứ khác.

Phạm thiên Bà-ca nói kệ:

Bảy mươi hai Phạm tạo thắng phước
Đều từng qua đời tại chỗ này
Tất cả Phạm thiên đều biết tôi
Duy một mình tôi ở đây mãi.

Thế Tôn nói kệ:

Ông cho là trường thọ
Kỳ thật sống ngắn ngủi
Ta biết thọ mạng ông
Trăm ngàn Ni-la-phù.

Phạm thiên Bà-ca nói kệ đáp:

Bà-ca-bà Thế Tôn
Trí Ngài thật vô tận
Vượt khỏi sanh, lão, ưu
Vì người đủ mắt nói
Trước tôi tạo nghiệp gì?
Tu những giới hạnh gì?
Được ở trời Phạm này
Tuổi thọ được dài lâu.

Thế Tôn nói kệ:

Thuở xưa có toán giặc
Cướp đoạt phá xóm làng
Trấn lột, trói cột người
Lấy rất nhiều tài vật
Ông vào lúc bấy giờ
Có sức khỏe mạnh mẽ
Cứu giải thoát mọi người
Làm họ không bị hại
Ông cùng những người ấy
Tu thiện trong một kiếp
Từ bi, ưa bố thí
Lại thường giữ giới hạnh
Khi ông thức hay nghỉ
Đều nhớ bản hạnh mình.
Lại có người đi thuyền
Ngay giữa dòng sông Hằng
Bị rồng ác muốn bắt
Muốn phun độc làm hại
Ông là vị Thần tiên
Cứu cho họ được sống
Ngày xưa ông đã từng
Tu giới đến như vậy.

Phạm thiên Bà-ca nói kệ:

Ngài thật biết rõ tôi
Tuổi thọ ngắn và dài
Lại có những việc khác
Ngài cũng đều biết rõ
Ánh sáng Ngài rực rỡ
Che ánh sáng chư Thiên
Ngài thông suốt tất cả
Nên hiệu Bà-già-bà.

Bấy giờ Thế Tôn vì Phạm thiên Bà-ca giảng dạy giáo pháp, khiến vị ấy được lợi ích, hoan hỷ, rồi biến mất tại chỗ, trở về Kỳ-hoàn.

109. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Khi ấy có một vị Phạm thiên khởi lên tà kiến lớn, bày tỏ:

–Ta ở đây thường tồn, không thấy ai có khả năng sanh vào cung của ta, huống chi có khả năng hơn ta.

Đức Thế Tôn nhập chánh định, biến mất ở cõi Diêm-phù-đề và hiện ra trên đỉnh cõi Phạm thiên, ngồi nơi hư không.

Tôn giả Kiều-trần-như dùng thiên nhãn thanh tịnh quan sát Thế Tôn đang đến đâu, biết Thế Tôn đang ngồi trong hư không, trên đỉnh cõi Phạm thiên, nên Tôn giả Kiều-trần-như cũng nhập định, biến mất ở cõi này, hiện ra trên đỉnh cõi Phạm thiên, bên dưới Đức Như Lai, hướng về phương Đông.

Tôn giả Ma-ha Ca-diếp với thiên nhãn thanh tịnh quan sát Đức Như Lai đến chỗ nào, biết Đức Như Lai đang ở trên đỉnh cõi Phạm thiên, liền nhập định, biến mất ở nơi này, hiện ra trên đầu cõi Phạm thiên, ngồi dưới Đức Như Lai, mặt quay về hướng Nam.

Tôn giả Mục-liên dùng thiên nhãn thanh tịnh quan sát Đức Như Lai đến chỗ nào, biết Đức Thế Tôn đang ở trên đầu cõi Phạm thiên, liền nhập định, biến mất ở nơi này, hiện ra trên đầu cõi Phạm thiên, ngồi dưới Đức Như Lai, mặt quay về hướng Tây.

Tôn giả A-na-luật dùng thiên nhãn thanh tịnh quan sát Đức Như Lai đến chỗ nào, biết Đức Như Lai ở trên đầu cõi Phạm thiên, liền nhập định biến mất ở cõi này, hiện ra trên đầu cõi Phạm thiên, ngồi dưới Đức Như Lai, mặt quay về hướng Bắc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo Phạm thiên:

–Ông đã bỏ tà kiến trước đây chưa?

Ngài lại bảo Phạm thiên:

–Tâm niệm của ông trước đây là: “Ta không thấy có người nào có khả năng sanh vào cung của ta, huống chi vượt hơn ta”. Nay ông thử xem các vị Đại nhân này dung mạo quang minh, có hơn ông không? Phạm thiên bạch Phật:

–Thưa vâng, đã thấy. Nay con nhận ra hào quang của các vị này xưa nay thật chưa từng thấy. Ánh sáng của các vị ấy thù thắng, từ nay về sau con không còn dám nói chỗ này thường tồn, không có thay đổi.

Đức Phật bảo Phạm thiên:

–Chỗ này là vô thường, là không, chẳng tự tại. Đức Phật vì Phạm thiên ấy giảng thuyết, chỉ dạy khiến vị ấy được lợi ích, hoan hỷ. Sau đó Ngài nhập định, biến mất ở cõi Phạm ấy, trở về Kỳhoàn.

Tôn giả Kiều-trần-như, Ma-ha Ca-diếp, A-naluật... cũng vì vị Phạm thiên ấy giảng thuyết giáo pháp, chỉ dạy tạo mọi lợi ích, hoan hỷ và nhập định biến mất tại chỗ, trở về Kỳ-hoàn. Riêng Tôn giả Đại Mục-kiền-liên vẫn ngồi ở chỗ cũ.

Phạm thiên ấy hỏi Mục Liên:

–Đệ tử của Thế Tôn có vị nào đạt đại uy đức, thần túc như Tôn giả không?

Mục-kiền-liên đáp:

–Các vị Thanh văn khác cũng có uy đức thần túc như vậy.

Tôn giả Mục-kiền-liên nói kệ:

Đại La-hán đệ tử Mâu-ni
Có đại uy đức đủ ba minh
Diệt tận hữu lậu chứng tha tâm
Thanh văn như vậy số rất nhiều
Thế nên nay ngươi phải cung kính.

Tôn giả Mục-kiền-liên nói kệ xong, giảng thuyết giáo pháp, chỉ dạy, đem lại lợi ích, hoan hỷ, sau đó nhập định biến mất tại chỗ, trở về Kỳ-hoàn.

110. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại rừng Sa-la, thuộc nước Câu-thi-na-kiệt, quê hương của những người lực sĩ. Bấy giờ Đức Như Lai sắp nhập Niết-bàn.

Ngài bảo Tôn giả A-nan:

–Ông hãy vì ta trải tòa giữa hai cây Sa-la, đầu hướng về phương Bắc.

Tôn giả A-nan vâng lệnh Đức Phật, trải tòa giữa hai cây Sa-la, đầu hướng về phương Bắc. Sau khi trải tòa xong, Tôn giả đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài, ngồi qua một bên, bạch:

–Thưa Đức Thế Tôn, giữa hai cây Sa-la con đã trải tòa đầu hướng về phương Bắc.

Đức Thế Tôn dời chỗ ngồi, đi đến tòa giữa hai cây Sa-la, nằm nghiêng về bên phải, đầu hướng về phương Bắc, hai chân xếp lên nhau, đặt tâm ở ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, hướng đến Niết-bàn.

Tại nước Câu-thi-na-kiệt, có một Phạm chí tên Tu-bạt-đà-la, sống ở nước này đã lâu, tuổi tác quá già: một trăm hai mươi tuổi.

Khi ấy, trong nước ấy, các vị lực sĩ thường cúng dường, cung kính, tôn trọng vị ấy, tán thán cho là vị A-la-hán. Bấy giờ Tu-bạt-đà-la nghe mọi người đồn Đức Bà-già-bà trong đêm nay sẽ nhập Niết-bàn, nên suy nghĩ: “Ta đối với pháp còn có chỗ nghi ngờ, chỉ có Đức Cù-đàm mới đủ khả năng giải thích, quyết đoán sự nghi ngờ của ta.”

Tu-bạt-đà-la nghĩ như thế rồi liền rời khỏi Câu-thi-na-kiệt, đi đến rừng Sa-la. Tôn giả A-nan đang kinh hành bên ngoài, Tu-bạt-đà-la thấy Anan liền đến gặp và thưa:

–Tôi nghe mọi người nói Sa-môn Cù-đàm trong đêm nay sẽ vào Niết-bàn Vô dư. Hiện tại tôi muốn được gặp Ngài để thưa hỏi về sự nghi ngờ. A-nan đáp:

–Này Phạm chí, thân Đức Phật đang mệt mỏi, ông lại muốn làm phiền Ngài sao?

Tu-bạt-đà-la thưa với A-nan:

–Tôi nghe rằng vào giữa đêm nay, Đức Như Lai nhập Niết-bàn Vô dư. Trước đây tôi đã từng nghe các bậc Tiên kỳ cựu nói: “Đức Như Lai Chí Chân Chánh Đẳng Giác xuất hiện trên thế gian như hoa Ưu-đàm-bát, rất khó được gặp”. Tôi có chút nghi ngờ, mong muốn được thưa hỏi, giải quyết. Xin cho phép tôi được gặp.

Tu-bạt xin như vậy ba lần. A-nan đáp:

–Đừng nên làm phiền Đức Phật.

Bấy giờ Đức Thế Tôn với thiên nhĩ thanh tịnh từ xa nghe A-nan ngăn Tu-bạt-đà không cho tiến vào. Đức Phật bảo A-nan:

–Đừng ngăn người ấy, cho phép ông ta vào, được tùy ý hỏi.

Tu-bạt nghe Đức Phật từ bi cho phép đi vào, nên rất vui mừng đến gặp Đức Phật:

–Thưa Thế Tôn, con có ít nghi ngờ, cho phép con được hỏi?

Đức Phật nói:

–Cho phép ông hỏi.

Tu-bạt-đà sau khi được Phật đồng ý, bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, sáu vị sư ngoại đạo có ý kiến khác nhau. Phú-lan-na Ca-diếp, Mạt-ca-lê Câuxa-lệ Tử, A-xà-da Tỳ-la-chỉ Tử, A-xà-đa-xí-xábà-la-ca, Ni-đà Ca-chiên-diên, Ni-càn-đà Xà-đề Tử, sáu vị thầy ấy đều tự xưng mình là Thế Tôn. Vậy họ có thật chứng đắc Nhất thất trí không?

Đức Phật Thế Tôn nói kệ:

Ba mốt tuổi xuất gia
Đến nay năm mươi năm
Tìm cầu các pháp thiện
Tu chứng Giới, Định, Tuệ
Chúng sanh trong thế gian
Không biết phương hướng đúng
Huống chi biết chánh pháp
Ai tu Bát chánh đạo
Chứng được quả Dự lưu
Cho đến quả thứ tư
Ai không tu Bát chánh
Dự lưu còn không biết
Nói gì quả thứ tư
Ta ở giữa đại chúng
Sư tử gầm thuyết pháp
Ngoài chánh pháp này ra
Thật không có Sa-môn
Và Bà-la-môn quả.

Khi Đức Phật dạy như vậy, Tu-bạt-đà-la liền xa lìa được mọi thứ bụi bặm cấu nhiễm, đắc pháp nhãn thanh tịnh. Ông ta sửa y Uất-đa-la-tăng, chắp tay hướng Phật, bạch:

–Thưa Đức Thế Tôn, hiện nay con đã vượt qua ba đường ác.

Tu-bạt-đà-la bạch với A-nan:

–Lành thay A-nan, Tôn giả được lợi ích lớn, là đệ tử thị giả của Đức Phật. Hiện nay con cũng được lợi ích trọn vẹn, mong được xuất gia trong Phật pháp.

A-nan chắp tay bạch Phật:

–Tu-bạt-đà-la muốn được xuất gia trong Phật pháp.

Khi ấy Đức Thế Tôn bảo Tu-bạt-đà-la:

–Lành thay! Hãy đến đây Tỳ-kheo!

Tu-bạt-đà-la râu tóc tự rụng, thân mặc pháp y, đắc giới cụ túc. Sau khi đắc giới, chứng A-la-hán, Tu-bạt-đà-la tự nghĩ: “Nay ta không nỡ nào nhìn thấy Đức Như Lai nhập Niết-bàn. Ta nên nhập trước”.

Tu-bạt-đà-la tức thời nhập Niết-bàn trước. Đức Như Lai sau đó cũng nhập Niết-bàn. Lúc ấy, trong chúng có một Tỳ-kheo nói kệ:

Nhập diệt nơi song thọ
Cành nhánh che bốn bên
Mưa hoa trên rơi xuống
Tung rải lên Đức Phật
Thế Tôn nhập Niết-bàn
Nên mưa hoa rơi xuống.

Thích Đề-hoàn Nhân nói kệ:

Các hành đều vô thường
Nó là pháp sanh diệt
Diệt hết sanh diệt rồi
Đấy gọi là Niết-bàn.

Vua trời Phạm thiên nói kệ:

Chúng sanh trong thế gian
Bỏ thân quy về diệt
Hiện nay Đức Đại Thánh
Đầy đủ cả mười lực
Thế Tôn, Đấng Vô Thượng
Nay đã nhập Niết-bàn.

Tôn giả A-na-luật nói kệ:

Đấng Pháp Chủ dừng nghỉ
Hơi thở đã không còn
Thành tựu của Như Lai
Hạnh lực đều tròn đủ
Nay nhập vào Niết-bàn
Tâm Ngài không sợ hãi
Xả tất cả các thọ
Như dầu hết đèn tắt
Diệt nghiệp, nhập Niết-bàn
Tâm ý đạt giải thoát.

Khi mọi người thấy vậy, lông tóc đều dựng ngược. Đức Phật nhập Niết-bàn bảy ngày, Tôn giả A-nan thực hiện việc trà tỳ nhục thân của Đức Như Lai, đi nhiễu theo phía phải nói kệ:

Đức Đại Bi Thế Tôn
Thân thể như vàng ngọc
Có sức thần thông lớn
Thân tự phát lửa đốt
Ngàn lớp vải quấn thân
Trong ngoài đều không cháy.

TỤNG 2: PHẦN 1

111. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

–Các ông cần phải siêng năng tu hành thiện hạnh, dần dần tăng trưởng, như mặt trăng mới mọc. Có những Tỳ-kheo vừa mới thọ giới, từ từ tu hạnh tàm quý, giữ gìn uy nghi trọn vẹn, du hóa trong nhân gian, nhu hòa kính thuận, không làm việc trái nghịch, chế ngự thân tâm. Như người có mắt sáng tránh những chỗ giếng sâu, gành, bờ núi, Tỳ-kheo cũng như vậy, như mặt trăng bắt đầu mọc, dần dần tăng trưởng, hành động ngày càng tinh tấn.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Hiện nay trong hội này, Tỳ-kheo Ca-diếp siêng năng tu thiện hạnh, như mặt trăng mới mọc, dần dần tăng trưởng, dần dần tu hạnh tàm quý, du hóa trong nhân gian, chế ngự thân tâm, nhu hòa kính thuận, không trái nghịch lại. Như người mắt sáng có thể tránh giếng sâu, xa lìa hố, bờ núi, Tỳ-kheo Ca-diếp cũng như vậy.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Tỳ-kheo như thế nào là tương ứng với pháp, gánh vác được việc đến từng nhà?

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, Như Lai là căn bản của các pháp, là Bậc Dẫn Đường, là chỗ nương cậy của các pháp. Lành thay! Bạch Thế Tôn, xin Ngài vì chúng con diễn giải ý nghĩa này. Chúng con được nghe, sẽ chí tâm thọ trì.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe! Chí tâm ghi nhớ! Như có Tỳ-kheo không bị nhiễm đắm, không bị ràng buộc do sự yêu mến gia đình, không có thêm hay bớt, tâm không tức giận, cũng không ganh ghét, không thấy lợi dưỡng của họ tâm sanh ưa thích. Thấy họ cho người khác cũng không phẫn nộ. Đối với người tu phước đều phát tâm tùy hỷ. Không được tự tán thán đức hạnh của mình. Những lời lẽ nói ra đều vì tất cả. Thấy Tỳ-kheo khác cùng đến nhà người khác, không chê bai hủy báng. Đối với ta và người, không có tâm so sánh cao thấp. Nếu các Tỳ-kheo thường tu thiện tâm như đã nói ở trên mới được gọi là tùy thuận, như pháp chuyển biến, lui tới khắp nơi trong thế gian. Khi ấy Đức Thế Tôn di chuyển cánh tay trong không trung, bảo các Tỳ-kheo:

–Hiện nay tay của Ta không bị vướng ở không trung, không bị cột vào khoảng không, không có hiềm khích, không có phẫn nô, tay này có bị trói buộc, vướng mắc thêm bớt hay không?

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, tay ấy ở không trung không bị trói, không bị vướng, không thêm bớt.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Đúng vậy! Đúng vậy! Nếu có Tỳ-kheo tâm không bị trói buộc, như cánh tay di chuyển trong hư không, mới có thể ra vào, qua lại nơi những nhà người, không có thêm bớt, không sanh áo não, không ganh ghét, thấy người được lợi dưỡng tâm sanh hoan hỷ. Thấy người bố thí không cho đến mình cũng không tức giận. Thấy người tu phước đều tùy hỷ cho đến tâm không phân biệt cao thấp. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Tỳ-kheo Ca-diếp thực hiện được như vậy, du hóa trong thế gian không bị ràng buộc ... cho đến... tâm không phân biệt cao thấp.

Đức Phật lại vẫy tay lần thứ hai trên khoảng không, bảo các Tỳ-kheo:

(như nói ở trên... cho đến Tỳ-kheo Ca-diếp như vậy).

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Tỳ-kheo ra vào nơi các gia đình, thuyết pháp cho người như thế nào? Như thế nào được gọi là thuyết pháp thanh tịnh? Thế nào gọi là thuyết pháp không thanh tịnh?

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, Như Lai là căn bản của các pháp, là Bậc Dẫn Đường, là chỗ nương cậy của các pháp. Lành thay! Đức Thế Tôn, xin Ngài diễn giải, chúng con nghe rồi chí tâm thọ trì.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Hãy lắng nghe, lắng nghe! Chí tâm ghi nhớ!

Như có Tỳ-kheo thuyết pháp cho người, nếu khởi suy niệm: “Ta thuyết pháp cho người kia, sẽ khiến người ấy kính tín ta, để thường cho ta nhiều thức ăn uống, y phục, thuốc trị bệnh”. Ai thuyết pháp vì mục đích ấy gọi là bất tịnh. Nếu có Tỳ-kheo vì người thuyết pháp, muốn người nghe hiểu rõ Phật pháp, trừ khổ hiện tại, xa lìa các phiền não, vượt mọi vướng mắc, hướng dẫn đến chỗ toàn thiện, khiến họ tự thấy rõ, cho đến làm cho người trí tự hiểu được, không phải hiểu bằng lời của người khác. Ngay nơi sự sanh, lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ não, làm cho thính giả nghe được lời giảng dạy, như pháp tu hành khiến người nghe ở trong cõi sanh tử được đắc pháp, đắc nghĩa, đạt được lợi ích an lạc lâu dài. Người thuyết pháp như vậy gọi là thuyết giảng với lời từ bi, thanh tịnh, thương xót, đem lại lợi ích cho muôn loài, khiến chánh pháp được trường tồn. Thuyết pháp như vậy gọi là thanh tịnh. Thế nên Tỳ-kheo phải suy nghĩ như vạy, vì người thuyết pháp cần phải học hỏi như thế.

(Lần thứ ba cũng nói như trên, Tỳ-kheo Cadiếp có khả năng thuyết pháp như vậy, khiến thính giả hiểu rõ Phật pháp,... cho đến vì khiến chánh pháp được trường tồn, do đấy luôn thương xót, đem lại lợi ích cho chúng sanh). Nên thuyết pháp như vậy đấy gọi là tuyên dương Phật pháp một cách thanh tịnh.

Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

112. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Nếu có Tỳ-kheo sắp đi đến nhà đàn việt, trước khi đi tự suy nghĩ: “Người nào có cho hãy cho ta nhanh, đừng chậm trễ, hãy chí tâm cho ta, đừng không chí tâm. Ta mong được nhiều, không phải được ít. Hãy cho ta vật tinh khiết mềm mại, không nên thô cứng”; vị ấy suy nghĩ như vậy rồi quyết định đi đến nhà đàn việt. Đàn việt tuy cho nhưng không chí tâm, không cung kính. Tuy họ cho thức ăn nhưng không đầy đủ, cho vật thô cứng không cho vật tinh khiết mềm mại. Nếu họ có cho thì chậm chạp không nhanh nhẹn, nên Tỳ-kheo kia vì không vừa ý, nên xấu hổ buồn rầu, sanh tâm tổn giảm.

Vị Tỳ-kheo ấy phải tự nghĩ: “Ta đến nhà đàn việt, họ chẳng phải gia đình ta, làm sao vừa lòng ta được. Tại sao ta lại nghĩ: muốn đàn việt cho nhanh, đừng chậm trễ, cả đến cho vật tinh khiết mềm mại, đừng có thô cứng”. Nên suy nghĩ như vầy: “Nếu như không được gì, tâm ta cũng không hối hận, xa lìa tăng giảm, không có tức giận. Cũng vậy nếu như đàn việt cho ít, cho không chí tâm, chậm trễ không nhanh,... cho đến cho vật thô cứng, không cho vật tinh khiết mềm mại”. Như vậy Tỳ-kheo tâm không tức giận, cũng không xấu hổ, tâm không tăng giảm.

Tỳ-kheo Ca-diếp cũng có tâm niệm như vậy. Khi đến chỗ đàn việt, Tôn giả suy nghĩ: “Nơi đó chẳng phải nhà của ta, tại sao muốn được vừa với ý của ta? Tức mong muốn họ cho nhanh không chậm... cho đến vật tinh khiết mềm mại, đừng cho vật thô cứng”. Tỳ-kheo Ca-diếp tự nghĩ: “Ta đến nhà đàn việt, tuy không được cho vẫn không xấu hổ, tâm không tổn giảm”.

Vì thế, Tỳ-kheo nên suy nghĩ thế này: “Ta đến nhà đàn việt không nên sanh ý niệm: hãy mau đem cho ta... cho đến tinh khiết mềm mại”.

Thế nên, này các Tỳ-kheo, cần phải học như Tỳ-kheo Ca-diếp trong khi đến nhà đàn việt.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

113. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ Tôn giả Ma-ha Ca-diếp ở giảng đường Tỳ-xá-khư, trong khu lâm viên cũ tại Xá-vệ. Tôn giả Ma-ha Ca-diếp vào đêm ấy xuất định. Sau khi xuất định, Tôn giả đến gặp Đức Phật, đảnh lễ nơi chân Ngài, rồi ngồi qua một bên. Đức Phật bảo Ca-diếp:

–Ông hãy chỉ dạy, trao truyền cho các Tỳ-kheo, hướng dẫn họ về pháp thiền định, giảng dạy pháp cốt yếu. Vì sao? Ta thường làm công việc chỉ dạy, trao truyền cho các Tỳ-kheo ấy, ông cũng làm như vậy. Ta thường vì các Tỳ-kheo giảng dạy pháp quan trọng, ông cũng làm như Ta.

Ca-diếp bạch Phật:

–Các Tỳ-kheo ấy không thể dạy dỗ, khó hướng dẫn trao truyền.

Đức Phật bảo Ca-diếp:

–Hiện nay, ông vì nhân duyên gì mà không thuyết pháp cho họ?

Ca-diếp bạch Phật:

–Nay có hai Tỳ-kheo, một là đệ tử cùng đi với Tôn giả A-nan, tên Nan-đồ; thứ hai là đệ tử của Tôn giả Mục-liên, tên là A-tỳ-phù. Hai đệ tử này thường tranh hơn thua. Họ đều tự cho là: “Tri kiến của tôi hơn, lời nói của tôi hơn”. Họ giằng co nhau, quyết định hơn kém về tri kiến và bằng lời lẽ: “Tôi nói hay, hoặc là ông nói hay, câu và nghĩa của tôi đầy đủ, hoặc là câu và nghĩa của ông đầy đủ”. Bấy giờ Tôn giả A-nan đang quạt hầu Thế Tôn. A-nan nói với Ca-diếp:

–Thưa Tôn giả, hãy bỏ qua đi! Cho phép tôi được sám hối. Tỳ-kheo như thế vì mới vào Phật pháp, ngu si không trí, chưa có sự hiểu biết.

Tôn giả Ca-diếp bảo Tôn giả A-nan:

–Thôi đi A-nan, Tôn giả chớ nên ở giữa Tăng chúng phát biểu lời thiên vị.

Thế Tôn sai một vị Tỳ-kheo:

–Ông hãy đi gọi hai Tỳ-kheo ấy đến đây.

Tỳ-kheo kia vâng lệnh, đi gọi hai Tỳ-kheo: –Thế Tôn gọi các ông!

Hai Tỳ-kheo vâng lệnh gọi, liền đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ nơi chân Ngài, đứng qua một bên. Thế Tôn bảo hai Tỳ-kheo:

–Cả hai người thật có nói thế này: “Tôi đọc tụng nhiều, tôi hiểu biết nhiều, lời lẽ văn kệ tôi nói không sai”. Các người muốn tranh hơn thua, có phải không?

Hai Tỳ-kheo bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật lại dạy:

–Nếu hai ông hiểu lời Ta giảng dạy như Tuđa-la, Kỳ dạ, Thọ ký, Thuyết kệ, Ưu-đà-na, Ni-đàna, Y-đế-mục-đa-già, Bản sanh, Tỳ Phật lược, Vị tằng hữu, Ưu-ba-đề-xà, Bổn sự, là mười hai bộ. Nếu đọc tụng thông thạo thì trong những kinh ấy có nói sự hơn thua hay không?

Hai Tỳ-kheo bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, trong mười hai bộ này, thật không có nói như vậy.

Đức Phật lại bảo hai Tỳ-kheo:

–Mười hai bộ kinh được thuyết ra là nhằm diệt trừ sự tranh tụng hơn thua. Nay hai ông tại sao lại có lời lẽ như thế? Các ngươi là người ngu tối nên mới nêu bày như vậy. Chẳng lẽ Ta không có nói như vầy hay sao: “Ai phát sanh tranh tụng thì không đúng với Phật pháp, lại không đúng với pháp xuất gia”. Trong Phật pháp của Ta, không bao giờ có chuyện tranh nhau: tôi thắng người thua, cho đến... pháp cú được tôi nói với nghĩa đầy đủ, pháp ngươi nói thì nghĩa không đầy đủ. Tranh tụng như vậy thật không phải là lời Ta dạy. Này hai Tỳ-kheo, sự việc như thế, các ông có nên làm không? Khi ấy hai Tỳ-kheo lạy sát chân Đức Phật, bạch:

–Chúng con nghe lời Phật dạy, tự biết mình có lỗi, thật như đứa bé ngu si không hiểu biết, làm việc không nên làm, làm việc bất thiện, cùng nhau tranh cãi, quyết định hơn thua, thật là có lỗi. Cầu mong Thế Tôn thương xót, cho chúng con được sám hối.

Đức Phật dạy:

–Biết các ngươi thành tâm, ân cần sám hối, các ngươi thật như đứa bé ngu, chưa biết gì cả, hành động bất thiện, không đúng lời Phật dạy, không đúng pháp xuất gia, mới tranh hơn thua. Ai cũng nói mình biết nhiều, cho nên bảo lời tôi nói cú nghĩa đầy đủ, lời người kia nói không đầy đủ. Tranh hơn thua như vậy thật không nên làm. Nay Ta nhận sự thành tâm sám hối của các ngươi, để các ngươi được tăng trưởng các pháp thiện, không có thoái thất. Tại sao? Người nào thành tâm, thật biết có tội, sau đó sám hối, quyết không làm nữa. Người sám hối như vậy thì các pháp lành tăng trưởng, không hề bị thoái chuyển, hủy hoại. Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

114. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ Tôn giả Đại Ca-diếp ở giảng đường Tỳ-xá-khư, nơi khu lâm viên cũ. Tôn giả Ca-diếp vào chiếu tối, xuất thiền đi đến chỗ Phật, lạy sát chân Ngài, ngồi qua một bên. Đức Phật bảo Cadiếp:

–Ông hãy chỉ dạy trao truyền cho các Tỳ-kheo, hãy thuyết pháp cho họ. Tại sao? Ta luôn làm công việc chỉ dạy trao truyền cho họ, ông cũng nên làm như vậy. Ta thường vì các Tỳ-kheo thuyết pháp, ông cũng nên như thế.

Ca-diếp bạch Phật:

–Các Tỳ-kheo ấy khó có thể giảng dạy, trao truyền. Họ không chịu nghe lời chỉ giáo.

Đức Phật bảo Ca-diếp:

–Hiện tại, ông thấy có nhân duyên gì mà không muốn thuyết pháp?

Ca-diếp thưa:

–Người nào không có lòng tin, thoái thất đối với pháp thiện liền sanh biếng nhác, không có hổ thẹn, ngu si vô trí, tham đắm vật của kẻ khác, có tâm phẫn nộ, gây hại, bị che đạy do phiền não vây phủ, dao động không dừng, đối với pháp có nghi ngờ, cố chấp, ngã kiến, tâm đầy phiền não cấu uế, ưa sân hận, thất niệm, không lúc nào định tĩnh. Người nào có đủ các pháp bất thiện ấy thì không còn có một chút pháp thiện nào, huống chi nói tới việc làm tăng trưởng pháp thiện, khiến không bị thoái chuyển, hủy hoại.

Nếu người nào có đầy đủ tín tâm, không thoái thất các pháp thiện thì tinh tấn không biếng nhác, thường biết hổ thẹn. Người có trí thực hành đủ các pháp thiện, không có tưởng tham, xa lìa sân hận, hiềm khích, trừ bỏ sự tham đắm về ngủ nghỉ, tâm không xao động, không có nghi ngờ, không chấp thân kiến, tâm tịnh vô nhiễm, không ưa phẫn nộ, trụ tâm chánh niệm, đầy đủ thiền định, không thoái thất pháp thiện. Người nào có đầy đủ các pháp thiện như trên, con không hề nói người ấy bị dừng lại trong pháp thiện, huống chi nói là không tăng trưởng. Những người như vậy, ngày đêm pháp thiện luôn tăng trưởng.

Đức Phật bảo Ca-diếp:

–Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Ai không có lòng tin, thoái thất với pháp thiện...

cho đến những người như vậy là không thể có một chút thiện, huống chi nói tới việc tăng tưởng. Còn người nào có đầy đủ lòng tin, không thoái thất pháp thiện...

cho đến ta không hề nói người ấy bị dừng lại trong pháp thiện, huống chi nói là không tăng trưởng các pháp thiện.

Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

115. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Tôn giả Ma-ha Cadiếp trú ở giảng đường Tỳ-xá-khư thuộc khu lâm viên cũ.

Tôn giả Ca-diếp vào chiếu tối, xuất thiền, đi đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Ngài, ngồi qua một bên. Đức Phật bảo Ca-diếp:

–Ông có thể giảng dạy, trao truyền cho các Tỳ-kheo, hãy thuyết pháp cho họ. Tại sao? Ta luôn làm công việc chỉ dạy, trao truyền cho họ, ông cũng nên như vậy. Ta thường vì các Tỳ-kheo thuyết giảng pháp quan trọng, ông cũng nên như thế.

Ca-diếp bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, các Tỳ-kheo ấy không chịu nghe lời dạy, khó dẫn dắt trao truyền.

Đức Phật bảo Ca-diếp:

–Ông vì sao không làm công việc giảng dạy, trao truyền, không thuyết pháp cho họ?

Ca-diếp đáp:

–Thế Tôn là căn bản của pháp, là người dẫn đường, là chỗ nương tựa của pháp. Lành thay! Bạch Thế Tôn, xin Ngài diễn giải, con được lãnh hội, chí tâm trì thọ.

Đức Phật bảo Ca-diếp:

–Nay ông hãy lắng nghe, ghi nhớ, thọ trì. Ta sẽ vì ông phân biệt, giảng giải.

Ca-diếp bạch Phật:

–Xin vâng, Thế Tôn, con rất muốn nghe.

Đức Phật bảo Ca-diếp:

–Trước đây có Tỳ-kheo tu theo hạnh A-luyệnnhã, tán thán người tu hạnh A-luyện-nhã, đi khất thực mặc y phấn tảo, tán thán người khất thực mặc y phấn tảo, ít dục biết đủ, thường ưa thích chỗ yên tịnh vắng lặng, tinh tấn tu tập, tâm không tán loạn, thường vui với thiền định, tự sạch các lậu, tán thán người dứt sạch các lậu. Vì vậy, tất cả các Tỳ-kheo đều luôn đến thăm hỏi gần gũi. Các Tỳ-kheo đều nói với vị ấy:

–Thiện lai Tỳ-kheo! Xin mời ngồi chỗ này. Hiền giả tên gì? Đệ tử của ai? Hành hóa hiền thuận, ứng hợp pháp Sa-môn, làm người xuất gia cần phải như Hiền giả, hành hóa đúng pháp Samôn. Ai được thấy Hiền giả, tu tập theo pháp của Hiền giả, không bao lâu sẽ thu đạt được tự lợi.

Tỳ-kheo mới tu học, thấy được sự việc này, tự suy nghĩ: “Ở đó có vị Tỳ-kheo được mọi người cùng nhau cung kính. Nay ta cũng nên tu tập theo hạnh của vị ấy. Vị ấy tự tu hành hạnh A-luyệnnhã, tán thán người tu hạnh A-luyện-nhã, đi khất thực, mặc y phấn tảo, tán thán người đi khất thực mặc y phấn tảo, ít dục biết đủ, thường ưa thích chỗ yên tịnh vắng vẻ, tinh tấn tu tập, tâm không tán loạn, thường vui với thiền định, tự đoạn sạch các lậu, tán thán người dứt sạch các lậu. Vì lý do ấy, tất cả Tỳ-kheo đều đến thăm hỏi gần gũi an ủi. Các Tỳ-kheo nói với vị Tỳ-kheo ấy: “Thiện lai Tỳ-kheo! Xin mời ngồi chỗ này. Hiền giả tên gì? Đệ tử của ai? Hành hóa hiền thuận, ứng hợp pháp Samôn, làm người xuất gia cần phải như Hiền giả, hành hóa đúng pháp Sa-môn. Ai được thấy Hiền giả, tu tập theo hạnh của Hiền giả, không bao lâu sẽ thu đạt được tự lợi”.”

Các vị mới tu học, ai có ý nghĩ này thì được lợi ích lâu dài, được tốt đẹp, được an lạc. Đây gọi là tự cứu độ, có khả năng khiến chánh pháp được tồn tại lâu dài ở thế gian. Người này luôn tiến bước không bị thoái chuyển.

Đức Phật bảo Ca-diếp:

–Như có Tỳ-kheo, đời này có phước báo, mới vừa xuất gia đã được nhiều lợi dưỡng về y phục, thuốc thang, giường nằm, ngọa cụ, bốn món cúng dường luôn đầy đủ, sung túc. Lại có Tỳ-kheo thấy Tỳ-kheo này tìm đến gần gũi nói chuyện, thăm hỏi. Tỳ-kheo kia nói với Tỳ-kheo này:

–Hiền giả tên gì? Là đệ tử của vị nào, đời này có phước báo, được nhiều lợi dưỡng về y phục, thuốc thang, giường nằm, ngọa cụ, bốn thứ đầy đủ. Có Tỳ-kheo nào gần gũi với Hiền giả thì tứ sự không thiếu.

Nếu có Tỳ-kheo mới tu học, thấy sự việc ấy, suy nghĩ: “Nơi đó có Tỳ-kheo với đời sống nhiều phước báo, được mọi người cung kính. Nay ta nên tu hạnh như vậy, thì y phục, ngọa cụ, thức ăn uống, thuốc thang, bốn thứ cúng dường cũng đều sung túc”. Tỳ-kheo mới tu học nào tác ý như vậy, học sự việc như vậy thì bị hao tổn lâu dài, không có lợi ích, an vui gì cả, hành hóa không đúng với pháp của Sa-môn, chịu nhiều khổ hoạn, gọi là tự khinh hủy, phạm hạnh không đứng vững, chìm trong bùn lầy, bị điều xấu ác lừa dối, kết sử trói buộc, thường thọ nhiều nghiệp, phiền não luôn phát sanh quả báo khổ, chắc chắn mãi chịu sanh, lão, bệnh, tử.

Bấy giờ Tôn giả Đại Ca-diếp và các Tỳ-kheo nghe theo lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

116. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Tôn giả Ma-ha Ca-diếp ở giảng đường Tỳ-xákhư, thuộc khu lâm viên cũ. Tôn giả vào buổi chiều tối, xuất thiền, đến gặp Đức Phật, lạy sát chân Ngài, ngồi qua một bên. Đức Thế Tôn bảo Ca-diếp:

–Nay ông đã già, tuổi tác lớn, sức lực suy yếu, mặc y phấn tảo vải gai này thô xấu, dầy nặng. Nay ông nên vào ở cùng trong Tăng, ăn uống theo các vật dùng của Tăng. Đàn việt cúng y thì cắt và nhuộm cho hoại sắc để mặc.

Ca-diếp bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, y vá này con dùng đã lâu. Con cũng tán thán người mặc y vá. Làm sao có thể bỏ được?!

Đức Phật bảo Ca-diếp:

–Ông thấy người mặc y vá có lợi ích tốt đẹp gì mà ưa thích mặc mãi; tự hành hạnh A-luyện-nhã, tán thán người hành A-luyện-nhã; tự mình khất thực, tán thán người khất thực?

Ca-diếp bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, con thấy người mặc y vá có hai điều lợi: ngay đời hiện tại sống an lạc, trong đời vị lai vì các Tỳ-kheo làm sáng tỏ giáo pháp, khiến cho người đời sau học tập. Những người đời sau sẽ có ý nghĩ: “Thuở xưa, khi Đức Phật còn tại thế, các Đại Tỳ-kheo luôn dốc tu tập phạm hạnh, an lạc trọn vẹn với Phật pháp, thông đạt đường lối của giáo pháp, ít dục, biết đủ; tự hành hạnh Aluyện-nhã, tán thán người hành hạnh A-luyện-nhã; mặc y phấn tảo, tán thán người mặc y phấn tảo; thứ lớp đi khất thực, tán thán người khất thực”. Người trong đời vị lai phần nhiều sanh ý nghĩ này, mến mộ pháp ấy, tạo nên hành động cứu độ, đem lại lợi ích tốt đẹp, an lạc.

Đức Phật khen ngợi Ca-diếp:

–Lành thay, lành thay! Nếu ông hành hóa như vậy ở trong cõi sanh tử, mãi mãi thương xót thế gian, tạo lợi ích rộng khắp, vì hành động cứu giúp, đem lại nghĩa lợi, an lạc.

Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn nào hủy báng người tu hạnh Đầu đà là hủy báng Ta. Ai tán thán công đức của hạnh Đầu đà, những người ấy đã tán thán Ta. Vì sao? Vì Ta đã dùng nhiều nhân duyên với vô số phương tiện tán thán công đức đạt được do tu hạnh Đầu đà, an lập hạnh Đầu đà, tán thán hạnh Đầu đà là hơn hết trong các hạnh. Ông từ nay về sau nên hành hạnh A-luyện-nhã tán thán những người thực hành hạnh A-luyện-nhã.

Đại Ca-diếp cùng các Tỳ-kheo nghe lời Đức Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

117. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Tôn giả Ma-ha Ca-diếp ở nơi xa xôi vắng vẻ, y phục cũ rách, bạc màu sắc, râu tóc đều dài, đi đến gặp Thế Tôn.

Bấy giờ Đức Thế Tôn đang thuyết pháp cho đại chúng vây quanh. Các Tỳ-kheo thấy Tôn giả Ca-diếp đều suy nghĩ: “Vị Tôn giả kia không biết uy nghi phải có của người xuất gia, màu y trở nên bạc nhớp, râu tóc dài, uy đức không đầy đủ.” Lúc đó Đức Thế Tôn biết ý nghĩ của các Tỳ-kheo, muốn khiến cho họ sanh tâm kính trọng mến chuộng, nên thấy Ca-diếp từ xa đến, liền bảo Tôn giả:

–Lành thay! Ca-diếp hãy tới đây, cho phép ông ngồi vào nửa tòa của Ta. Ta đang suy nghĩ: “Ông xuất gia trước, Ta xuất gia sau.” Thế nên Ta mời ông cùng ngồi một tòa với Ta.

Ma-ha Ca-diếp nghe lời dạy này của Đức Phật, rất kinh sợ, bàng hoàng, vội đứng dậy chắp tay đảnh lễ dưới chân Phật, bạch:

–Thưa Thế Tôn, Ngài là Đại sư, con là đệ tử.

Tại sao được cùng thầy ngồi chung một tòa?

Tôn giả thưa ba lần như vậy, Đức Phật bảo Cadiếp:

–Đúng như lời ông nói, Ta là Thầy, ông là đệ tử.

Đức Phật lại bảo Ca-diếp:

–Ông nên ngồi nơi chỗ ngồi thích ứng. Tôn giả Ca-diếp vâng lời Đức Phật, trải tòa và ngồi. Khi ấy Đức Thế Tôn muốn cho các Tỳ-kheo tăng trưởng lợi ích, chán bỏ điều ác, tự chê trách mình, vì muốn tán thán công đức của Ma-ha Cadiếp để họ tôn trọng như Phật, nên bảo các Tỳ-kheo:

–Ta tu định lìa dục, nhập định sơ thiền, tác ý suy nghĩ. Tỳ-kheo Ca-diếp cũng tùy ý muốn lìa dục, ác, bất thiện, có giác, có quán, nhập vào sơ thiền, cả ngày lẫn đêm. Ta tùy ý muốn vào sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, Ca-diếp cũng vậy. Nếu Ta phát tâm muốn nhập tâm Từ, không có tâm oán giận, không có tâm phiền não, tâm hiện rộng khắp, tu tâm vô lượng, ở phương Đông dụng tâm như vậy, các phương Nam, Tây, Bắc, bốn hướng, trên dưới cũng dụng tâm này, trong ngày hay đêm, Ta tùy ý tu tâm ấy, Ma-ha Ca-diếp cũng như vậy, tùy ý muốn nhập tâm Từ, không có tâm oán giận, không có tâm phiền não, tâm hiện rộng khắp, khéo tu tâm vô lượng, dụng tâm này ở phương Đông, phương Nam, Tây, Bắc, bốn hướng trên dưới cũng dụng tâm ấy. Nếu Ta tu tâm Bi, Hỷ, Xả, trong suốt ngày đêm, tùy ý nhập tâm này, Ma-ha Ca-diếp cũng như vậy, trong suốt ngày đêm cũng nhập tâm ấy. Ta muốn diệt trừ phiền não, từ khước sắc tưởng, trừ nhiều loại tưởng, nhập vô biên hư không, tùy ý trong cả ngày đêm thường nhập định này. Thức xứ, Bất dụng xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ cũng như vậy. Khi Ta muốn nhập các định về thần thông, có thể với một thân hóa ra vô lượng thân, với vô lượng thân hợp thành một thân. Ta muốn quan sát các phương trên dưới, nhập vào vách đá không bị chướng ngại cũng như vào hư không, nằm ngồi trong hư không như vua loài nhạn, đi vào đất như xuống nước, đi xuống nước như trên đất, thân đến trời Phạm thiên, cũng như tay sờ mặt trời, mặt trăng. Trong ngày hay đêm Ta tùy ý muốn tu định này, Tỳ-kheo Ca-diếp cũng như vậy, tùy ý muốn nhập vào định về thần thông kia, có thể với một thân hóa ra vô lượng thân, từ vô lượng thân hoàn lại một thân. Quan sát bốn phương trên dưới, có thể với thân này nhập vào vách đá không bị chướng ngại như nhập vào hư không, nằm ngồi trên hư không như vua loài nhạn, đi vào đất như xuống nước, đi dưới nước như trên đất, thân lên đến cõi Phạm thiên, sờ vỗ mặt trời, mặt trăng thì tùy ý muốn ngày đêm nhập vào định này. Thiên nhãn, thiên nhĩ và tha tâm trí, túc mạng, lậu tận cũng như vậy.

Bấy giờ Đức Thế Tôn ở giữa đại chúng tán thán công đức của Tôn giả Ca-diếp, tôn trọng như vậy, với nhiều việc tu tập, thể hiện bằng Ngài. Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

118. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà, rồi núi Kỳ-xà-quật, thuộc thành Vương xá.

Tôn giả Ma-ha Ca-diếp và Tôn giả A-nan đều ở trong núi Kỳ-xà-quật. Đến giờ ăn, A-nan nói với Tôn giả Ca-diếp:

–Thưa Đại đức, đã đến giờ ăn, có thể cùng đi khất thực.

Bấy giờ Ma-ha Ca-diếp mặc y, cầm bát, cùng A-nan ra khỏi núi Kỳ-xà-quật, vào thành Vương xá khất thực. A-nan nói với Tôn giả Ca-diếp: –Trời còn sớm, con muốn đến tinh xá của chúng Tỳ-kheo-ni quan sát pháp thức tu hành của các Tỳ-kheo-ni.

Ca-diếp đáp:

–Được!

Cả hai cùng đến tinh xá của Tỳ-kheo-ni. Các Tỳ-kheo-ni từ xa thấy hai Tôn giả đến, liền sắp đặt chỗ ngồi. Sau khi bày biện tòa xong, họ mời hai Tôn giả ngồi vào tòa ấy. Hai vị Tôn giả liền an tọa.

Các Tỳ-kheo-ni thấy hai vị đã an tọa, liền lạy sát chân, đứng qua một bên. Tôn giả Ma-ha Cadiếp vì các Tỳ-kheo-ni thuyết giảng giáo pháp, chỉ dạy, khiến họ đạt được lợi ích hoan hỷ.

Trong chúng ấy có Tỳ-kheo-ni tên Thâu-lanan-đà, nghe giảng pháp quan trọng ấy, tâm không ưa thích, liền nói ra lời ác:

–Hiện nay, tại sao Trưởng lão Ca-diếp ở trước mặt Tôn giả A-nan vì các Tỳ-kheo-ni thuyết giảng giáo pháp? Như người bán kim, đến cửa thợ làm kim muốn bán kim thì không thể nào bán được. Hiện nay, Tôn giả Ca-diếp cũng như vậy, tại sao ở trước mặt Tôn giả A-nan mà giảng thuyết giáo pháp?

Tỳ-kheo-ni này nói như vậy rồi im lặng đứng yên. Ma-ha Ca-diếp với thiên nhĩ thanh tịnh, nghe lời nói này, bảo với Trưởng lão A-nan:

–Ông có nghe Tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà tâm không hoan hỷ, bày tỏ lời nói thô không?

Tôn giả A-nan nói với Ca-diếp:

–Cô ấy nói gì? Ca-diếp đáp:

–Cô ấy nói: “Tại sao Tôn giả Ca-diếp ở trước mặt Tôn giả A-nan Tỳ-đề-hê Tử Mâu-ni mà giảng nói giáo pháp, cho ông giống như con người thợ làm kim, cho ta như người bán kim.

Tôn giả A-nan nói với Tôn giả Ca-diếp:

–Thôi thôi, Tôn giả! Họ còn trẻ con, ngu si ít hiểu biết, không đáng trách. Cầu mong Đại đức cho họ sám hối.

Ca-diếp bảo Tôn giả A-nan:

–Đức Như Lai, Thế Tôn, Đa-đà-a-già-độ A-la-ha Tam-miệu-tam-phật-đà đã thuyết giảng, hướng dẫn bằng thí dụ về mặt trăng, ngày càng lớn dần, có thể đủ hổ thẹn, xa lìa việc không biết hổ thẹn, nhẫn nhục đối với sự mạ lỵ, chế ngự thân tâm, qua lại trong nhân gian, Ngài nói ta hay ông giống như mặt trăng kia?

Tôn giả A-nan đáp: –Đức Như Lai Thế Hùng thật sự không nói con giống như mặt trăng kia.

Ca-diếp lại nói:

–Chỉ có Đức Phật, Thế Tôn, Vô Thượng Sĩ, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác Tri đã nói rõ rằng ta cũng như mặt trăng khi mới mọc, dần dần tăng trưởng, đầy đủ sự hổ thẹn, xa lìa việc không biết hổ thẹn, nhẫn nại đối với sự mạ lỵ, chế ngự thân tâm, qua lại nơi những gia đình ở thế gian!

A-nan bạch:

–Đúng vậy.

Tôn giả Ca-diếp bảo với Tôn giả A-nan:

–Đức Như Lai, Thế Tôn ở trước vô lượng trăm ngàn đại chúng, khen tên họ của ta: “Vị Đại đức này là người có tàm quý, trí tuệ sâu xa, tương tợ như Ta”. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: “Nay Ta lìa dục ác, bất thiện, có giác, có quán, hỷ lạc nhất tâm, nhập Sơ thiền, ngày đêm thường trú trong định này. Tỳ-kheo Ca-diếp cũng thường lìa dục, ác, bất thiện, có giác, có quán, hỷ lạc nhất tâm nhập Sơ thiền, ngày đêm thường trú trong định này”.

A-nan đáp:

–Thưa Tôn giả Ca-diếp, đúng như vậy. Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, Từ, Bi, Hỷ, Xả và bốn thiền định, ba minh, sáu thông cũng như vậy.

Khi ấy Tôn giả Ma-ha Ca-diếp ở trước đại chúng Tỳ-kheo-ni, đã giảng nói, nêu bày như tiếng gầm của sư tử, rồi rời khỏi chỗ ngồi, trở về nơi mình ở.

119. Bấy giờ Đức Như Lai sắp nhập Niết-bàn. Tôn giả A-nan, Ma-ha Ca-diếp ở tại núi Kỳ-xàquật.

Thời gian ấy trong dân gian gặp lúc đói kém, rất khó khất thực. Do đó Tôn giả A-nan đưa các Tỳ-kheo mới tu học đi về khu xóm Nam sơn. Trong số Tỳ-kheo mới tu học có các Tỳ-kheo trẻ tuổi ưa thích đùa giỡn, ham thích ăn uống, không giữ gìn các căn, không có uy nghi, đầu đêm cuối đêm, không siêng năng hành đạo, đọc tụng kinh điển, thường nằm nghiêng xuống đất theo phía bên trái, mặc tình ngủ nghỉ.

Sau khi đến nơi ấy, trong số các Tỳ-kheo có hơn ba mươi người bỏ đạo hoàn tục. Vì lý do này, đồ chúng giảm xuống còn ít. Sau khi du hành, họ trở về đại thành Vương xá, vào núi Kỳ-xà-quật, thu xếp y bát, rửa sạch chân, đi đến chỗ Tôn giả Ca-diếp, lạy sát chân Tôn giả, ngồi qua một bên. Tôn giả Đại Ca-diếp hỏi A-nan:

–Ông từ đâu đến? Đồ chúng sao ít vậy? A-nan đáp:

–Con đi đến khu xóm Nam sơn, trong số đệ tử có hơn ba mươi người, trước đây đều là đồng chân xuất gia, đã bỏ đạo hoàn tục, vì lý do này nên đồ chúng còn ít.

Ma-ha Ca-diếp bảo A-nan:

–Vì sao Đức Như Lai đã chế ra pháp “Biệt chúng thực”, mà ông lại cho phép ba người cùng ăn một chỗ? Ý nghĩa của việc cấm chế như vậy là muốn giúp đỡ cho nhiều người, khiến họ không bị tổn giảm, lại nhằm chế ngự các dục xấu ác nơi các Tỳ-kheo, ngăn trừ kẻ có nhiều quyến thuộc, lấy danh nghĩa của Tăng chúng, mong cầu cho nhiều, làm hao tổn của cải nơi nhiều nhà, phá bỏ chúng Tăng, chia rẽ làm hai phe, khiến cho Tỳ-kheo đúng như pháp không được cúng dường y phục, thức ăn, Tỳ-kheo phi pháp thì được nhiều lợi dưỡng. Tỳ-kheo tham dục xấu ác đã được lợi dưỡng rồi lại tranh tụng với các bậc tịnh hạnh. Vậy vì sao ông, vào lúc dân gian đói kém, lại nhận nhóm Tỳ-kheo mới tu học trẻ tuổi ấy làm đồ chúng? Những Tỳ-kheo này ưa thích đùa giỡn, ham thích việc ăn uống, các căn tán loạn, không có uy nghi, mặc sức ngủ nghỉ, không biết đủ, đầu đêm cuối đêm không siêng năng hành đạo, đọc tụng kinh điển. Tại sao với đồ chúng như vậy mà du hành đến khu xóm Nam sơn. Khi đến chỗ kia, hơn ba mươi người trước đây đều là đồng tử xuất gia, đều bỏ đạo hoàn tục. Nay ông như thế là đã phá hoại đồ chúng, thật là vô trí cũng như trẻ con. A-nan đáp:

–Nay tôi đã lớn tuổi, tại sao Tôn giả nói tôi như trẻ con?

Tôn giả Ca-diếp đáp:

–Chẳng phải vô cớ ta nêu tên họ ông, gọi là trẻ con. Hiện nay gặp lúc đói kém, khất thực khó khăn. Tại sao ông lại đưa nhiều người du hành đến khu xóm Nam sơn? Trong nhóm đệ tử của ông có những người trẻ tuổi ưa thích đùa giỡn, tham lam ăn uống, các căn tán loạn, không có uy nghi, ưa thích ngủ nghỉ, không biết chán, đầu đêm cuối đêm không siêng năng hành đạo, đọc tụng kinh điển, đến nỗi hơn ba mươi người bỏ đạo hoàn tục. Xử lý sự việc như vậy chẳng phải là trẻ con hay sao?

Bấy giờ Tỳ-kheo-ni Đế-xá-nan-đà nghe Tôn giả Đại Ca-diếp chê trách Tôn giả A-nan làm việc như trẻ con, nên tâm không vui, rất buồn bực, bày tỏ lời ác:

–Đại Ca-diếp này vốn là ngoại đạo, mà nay tại sao chê mắng Tôn giả A-nan Tỳ-đề-ê-mâu-ni là làm việc như trẻ con?

Tôn giả Ca-diếp, với thiên nhãn thanh tịnh, nghe Tỳ-kheo-ni phát ra lời thô hủy báng này rồi, nên bảo A-nan:

–Tỳ-kheo-ni Đế Xá Nan-đà trong tâm không vui, phát sanh khổ não lớn, bày tỏ lời ác: “Đại Cadiếp này vốn là ngoại đạo, tại sao chê trách Tôn giả A-nan Tỳ-đề-ê-mâu-ni hành động như trẻ con?”.

Tôn giả A-nan thưa với Tôn giả Ca-diếp:

–Tỳ-kheo-ni này còn nhỏ tuổi, kém trí, cũng như trẻ con, cầu mong Đại đức cho họ sám hối. Ma-ha Ca-diếp bảo A-nan:

–Khi ta xuất gia, phát thệ nguyện: “Thế gian, nếu có bậc A-la-hán, ta sẽ quy y. Từ khi xuất gia đến nay, chẳng có hướng về đường khác, chỉ nương tựa nơi Đức Như Lai Vô Thượng Chí Chân Đẳng Chánh Giác. Trước đây, khi ta còn ở thế gian, lúc chưa xuất gia, quan sát khắp cõi đời đều là sự tụ tập các khổ về sanh, lão, bệnh, tử, sầu, bi, ưu, não, những việc này luôn tranh nhau đến bức bách. Bấy giờ, lúc ta chán sự phiền não của đời sống gia đình, không có gì vừa ý, ưa thích pháp xuất gia, có thể xa lìa bụi bặm cấu nhiễm. Ta xem xét cuộc sống tại gia vốn nhiều sự ồn ào, cũng như đi vào trong rừng nhiều gai móc, bị gai đâm móc kéo, khiến thân thể bị thương, y phục bị rách, khó thoát ra được. Đời sống tại gia cũng vậy, nhiều duyên sự trói buộc, chìm trong bùn dục, không thể tu hành phạm hạnh thanh tịnh. Ngày đêm suy nghĩ, không thấy một pháp nào hơn pháp xuất gia cạo bỏ râu tóc, mặc pháp y, từ bỏ gia nghiệp vì lòng tin xuất gia. Lúc sắp xuất gia, chọn lựa loại y áo tầm thường nhất trong nhà, được một áo xấu, vây mà giá trị còn đến mười vạn lượng vàng bèn lấy áo ấy làm Tăng-già-lê. Ta bỏ tất cả sản nghiệp đã có và xa lìa hết quyến thuộc thân thích. Lại suy nghĩ: “Trên thế gian nếu có vị A-la-hán nào ta sẽ quy y, theo vị ấy xuất gia”. Khi đó, trong đại thành Vương xá, có La-la-kiền-đà. Tại chỗ La-la-kiềnđà, nơi có nhiều tháp, ta được gặp Đức Thế Tôn dung mạo trang nghiêm đặc biệt, các căn tịch định, tâm ý điềm đạm, tâm đạt được sự điều phục vô thượng, tướng hảo sáng rực như lầu bằng vàng ròng. Khi ta được thấy Đức Thế Tôn, trong tâm rất kích động, tự nghĩ: “Trước đây, ta cầu mong vị thầy xuất thế, nay đấng ta thấy chính là Đức Thế Tôn, A-la-hán Chánh Đẳng Chánh Giác của ta”. Ta nghĩ thế rồi tâm không tán loạn, chánh niệm quán Đức Phật, sửa lại y phục, đi nhiễu bên phải ba vòng, quỳ xuống chắp tay, bạch:

–Đức Phật là Thế Tôn của con, con là đệ tử của Phật.

Nói ba lần như vậy, Đức Phật cũng nói ba lần:

–Này Ca-diếp, đúng vạy. Ta là Thế Tôn của ông, ông là đệ tử của ta.

Đức Phật bảo Ca-diếp:

–Trong thế gian, nếu có đệ tử Thanh văn nào tâm không một chút chí thành, thật chẳng phải Thế Tôn mà nói là Thế Tôn, thật chẳng phải là La-hán mà nói là La-hán, chẳng phải Nhất thiết trí nói là Nhất thiết trí. Người như vậy đầu họ sẽ bị vỡ làm bảy phần. Hôm nay Ta là Bậc Chánh Tri, Bậc Thấy Đúng, thật là La-hán nên xưng là La-hán, thật là Chánh Đẳng Giác nên xưng là Chánh Đẳng Giác. Những pháp Ta nói ra đều có nhân duyên, chẳng phải là không nhân duyên, để giảng dạy pháp yếu, thật có đưa đến giải thoát, chẳng phải không đưa đến giải thoát, thật có đối trị, chẳng phải không đưa đến đối trị, thật có tinh tấn, chẳng phải không tinh tấn, có khả năng đoạn trừ kết lậu, chẳng phải không có khả năng đoạn trừ. Này Cadiếp, nay ông nên học như vậy, những điều ông đã nghe là pháp thiện tốt đẹp, cần phải chí tâm thọ trì đừng quên, tôn trọng ghi nhớ, từ bỏ loạn tâm, cần phải chuyên ý quán sát sự tăng trưởng, tổn giảm của năm thọ ấm, thường nên quan sát sự sanh diệt của sáu nhập, an tâm trụ nơi bốn Niệm xứ, tu Bảy giác ý khiến luôn tăng trưởng, rộng chứng Tám giải thoát, hệ niệm tùy thân không lúc nào rời, luôn tăng trưởng sự tu tỉnh, biết hổ thẹn.

Khi ấy Đức Như Lai vì ta thuyết giảng phân biệt các pháp quan trọng, chỉ dạy đem lại mọi lợi ích, hoan hỷ. Bấy giờ ta luôn theo sau Đức Phật không rời một chút, lại tự nghĩ: “Nếu Đức Phật ngồi, ta sẽ dùng Tăng già lê giá trị mười vạn lượng vàng để trải cho Ngài ngồi”. Đức Phật biết ý của ta, đứng lại bên đường. Ta vội xếp y trải nơi chỗ ngồi, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, mong Ngài ngồi lên chỗ này. Đức Phật ngồi lên, sau khi ngồi, nói với Cadiếp:

–Y này êm nhẹ.

Ca-diếp bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, đúng vậy. Cầu mong Thế Tôn thương mến con, nhận lấy y này.

Đức Phật bảo Ca-diếp:

–Ông có thể nhận lấy y vá vải thô của Ta không? Ca-diếp đáp:

–Con có thể nhận y này.

Đức Như Lai nhận đại y của Ca-diếp đang mặc. Ngay lúc đó ta nhận lấy y gai phấn tảo từ tay Phật. Đức Phật trao y cho ta xong liền đứng dậy ra đi. Ta theo sau Đức Phật, nhiễu Phật ba vòng, làm lễ Ngài rồi trở về chỗ ở, trong tám ngày ta đạt được ba quả, đến ngày thứ chín ta dứt sạch hữu lậu, đắc A-la-hán.

Này A-nan nên biết, nếu người nào có thể bày tỏ lời chân chánh thì phải nói thế này:

–Ta là trưởng tử của Đức Phật, được sanh ra từ miệng Đức Phật, được hóa sanh từ pháp, giữ gìn gia tài Phật pháp, thiền định giải thoát trong các tam-muội, tự tại xuất nhập, như vua Chuyển luân Thánh vương có trưởng tử chưa lên ngôi vua, thọ hưởng đầy đủ năm dục. Nay ta cũng như vậy, là trưởng tử của Phật, từ miệng Phật sanh ra, hóa sanh từ pháp, giữ gìn gia tài Phật pháp, xuất nhập vô ngại nơi các pháp tam-muội thiền định, giải thoát. Như con voi quý của Chuyển luân Thánh vương, rất cao lớn, cầm một lá cây Đa-la che thân thể mình, muốn không bị lộ ra, có thể được hay không? Tôn giả A-nan thưa:

–Lá cây như vậy không thể nào che thân con voi lớn kia được.

Tôn giả Ca-diếp bảo với A-nan;

–Che được voi còn dễ, không ai có thể che đậy sáu thần thông của ta. Người nào có chỗ nghi ngờ về Như ý thông, ta sẽ vì họ giảng thuyết ý nghĩa của nó, làm cho họ được hiểu rõ. Có người nào nghi ngờ về Thiên nhĩ thông, Tha tâm thông, Túc mạng thông, Sanh tử trí thông, Lậu tận thông, ta đều vì họ diễn thuyết về ý nghĩa nơi các thần thông ấy, khiến hiểu rõ.

A-nan đáp:

–Con suốt ngày đêm, khi kính ngưỡng Tôn giả thì tâm sanh tịnh tín.

Khi ấy hai vị Tôn giả nói như vậy xong, làm lễ nhau và từ giã.

120. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà, rồi núi Kỳ-xà-quật, thuộc thành Vương xá. Tôn giả Xá-lợi-phất và Đại Ca-diếp cùng trú nơi núi ấy.

Trong nước có các nhóm người của lục sư ngoại đạo dị kiến đến gặp Tôn giả Xá-lợi-phất. Sau khi thăm hỏi, ngồi qua một bên, thưa: –Đức Như Lai Thế Tôn có nói về việc ta chết chỗ này sanh ra ở chỗ kia không?

Xá-lợi-phất đáp:

–Sự việc như vậy, Đức Phật không nói.

Ngoại đạo lục sư lại hỏi:

–Nếu như vậy thì cho rằng thân ta ở mãi thế gian này phải không? Không còn sanh trở lại chăng?

Xá-lợi-phất đáp:

–Sự việc như vậy, Đức Phật cũng không nói.

Ngoại đạo lại hỏi:

–Ta chết chỗ này, vừa sanh vào chỗ kia, vừa không sanh vào chỗ kia phải không? Xá-lợi-phất nói:

–Đức Phật cũng không nói như vậy.

Ngoại đạo lại hỏi:

–Sau khi ta chết, chẳng phải sanh, chẳng phải không sanh, phải không?

Xá-lợi-phất đáp:

–Phật cũng không nói như thế.

Ngoại đạo lại hỏi:

–Đầu tiên ta hỏi ông: chết ở đây sanh ra nơi chỗ kia…

cho đến… chẳng phải sanh, chẳng phải không sanh, đều không thấy đáp. Nếu ông được gọi là xuất gia lâu ngày, đáng ra nên phân biệt giảng giải rộng được ý nghĩa này cho chúng tôi. Nay chúng tôi xem ông không thể đáp được, chúng tôi cho ông là người ngu, mờ, tối, vô trí.

Các ngoại đạo bày tỏ xong liền đứng dậy bỏ đi về chỗ của họ. Bấy giờ Tôn giả Ma-ha Ca-diếp ở cách Tôn giả Xá-lợi-phất không xa. Khi ngoại đạo đi rồi, Xá-lợi-phất đến gặp Ma-ha Ca-diếp, đem câu hỏi của ngoại đạo nói với Ca-diếp:

–Vì sao Đức Như Lai, với bốn câu hỏi như vậy, ngài đã im lặng không đáp. Vì sao không diễn ra loại tương tự, so sánh để trả lời. Trước đây tôi đã từng nghe có người hỏi Đức Phật: “Chết ở đây rồi có thọ thân đời sau chăng?”, Đức Phật im lặng không trả lời. Lại hỏi: “Sau khi chết không thọ thân đời sau chăng?”. Đức Phật cũng không đáp. Lại hỏi: “Tôi qua đời ở đây, vừa thọ thân đời sau, vừa không thọ phải không?”. Đức Phật cũng không đáp. Lại hỏi: “Sau khi tôi chết, chẳng phải thọ thân đời sau, chẳng phải không thọ thân đời sau chăng?”, Đức Phật cũng im lặng.

Tôn giả Ca-diếp nói với Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Nếu Như Lai có thể nói sau khi sắc bị diệt sanh vào thân đời sau…

cho đến… chẳng phải sanh, chẳng phải là không sanh. Thế Tôn đã diệt tận đối với sắc kia, chánh trí giải thoát, không còn chết chỗ này sanh chỗ kia, chết chỗ này không sanh chỗ kia, cũng sanh cũng không sanh, chẳng sanh chẳng không sanh. Thế nên Ngài không đáp. Ý nghĩa này thật hết sức sâu xa rộng lớn, vô lượng vô biên, không thể lường tính… cho đến tận diệt thọ, tưởng,… thức, chết ở đây sanh ở kia… cho đến chẳng sanh chẳng không sanh, cũng như vậy. Đây là sự luân chuyển, đây là kiêu mạn, đây là phóng dật, đây là sự tạo tác hữu vi nơi nghiệp, đây là ái kết, ở đây còn ái thì sanh chỗ kia, ở đây còn ái không sanh chỗ kia, ở đây còn ái vừa sanh chỗ kia, vừa không sanh chỗ kia; chỗ này còn ái chẳng phải sanh chỗ kia, chẳng phải không sanh chỗ kia. Đức Như Lai đã tận diệt ái, đạt giải thoát hoàn toàn, ái đã bị đoạn tận nên không còn sanh chỗ kia, không còn không sanh chỗ kia, không còn sanh chỗ kia không sanh chỗ kia, không còn chẳng không có sanh chỗ kia, không còn chẳng không có không sanh chỗ kia. Ý nghĩa này thật sâu xa, rộng lớn vô biên, không thể tính toán… đến chỗ tận diệt. Đại đức Xá-lợi-phất nên biết, vì nhân duyên này nên Như Lai đối với những câu hỏi ấy không trả lời trực tiếp: Chết ở đây sanh chỗ kia. Chết ở đây không sanh chỗ kia. Chết ở đây vừa sanh vừa không sanh chỗ kia. Chết ở đây chẳng phải sanh chẳng phải không sanh chỗ kia. Hai vị Đại đức ấy cùng nhau nói lên những điều tốt đẹp, rồi trở về chỗ của họ.

121. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Tôn giả Ma-ha Cadiếp ở nước Xá-vệ, nơi giảng đường Tỳ-xá-khư, trong rừng Tây viên.

Tôn giả Đại Ca-diếp vào lúc chiều tối, ra khỏi thiền định, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi ngồi qua một bên, bạch Phật:

–Thưa Đức Thế Tôn, vì nhân duyên gì khi Đức Như Lai bắt đầu đặt ra rất ít giới luật mà người tu hành nhiều. Vì sao ngày nay giới luật tăng nhiều, người tu hành lại ít?

Đức Phật bảo Ca-diếp:

–Đúng vậy! Đúng vậy! Chúng sanh do năm thứ dục nhơ là mạng trược, phiền não trược, chúng sanh trược, kiếp trược, kiến trược khiến họ trở nên xấu ác, chánh pháp vì vậy mà suy giảm. Thế nên Như Lai vì các đệ tử chế ra nhiều giới cấm, ít có Tỳ-kheo thuận theo lời Phật dạy, thọ trì giới cấm. Các loại chúng sanh cũng dần dần thoái thất. Ví như vàng quý dần dần bị tổn giảm, cho nên vàng giả xuất hiện. Chánh pháp của Như Lai cũng như vậy, dần dần tiêu diệt thì Tượng pháp xuất hiện. Tượng pháp đã xuất hiện thì chánh pháp diệt mất. Này Ca-diếp nên biết, như ghe thuyền đi trong biển, chở quá nhiều vật quý tất bị chìm đắm. Giáo pháp của Đức Như Lai cũng thế, đã dần dần giảm thiểu, diệt vong. Chánh pháp của Như Lai không phải bị tiêu diệt do đất, nước, lửa hay gió. Người nào trong giáo pháp của Ta sống với ái dục, hành theo uy nghi xấu ác, tạo tác các điều ác, pháp thì nói là phi pháp, phi pháp nói là pháp, chẳng phải luật nói là luật, phạm nói chẳng phạm, chẳng phải phạm nói phạm, tội khinh nói trọng, tội trọng nói khinh. Sự việc như vậy xuất hiện trong thế gian đều do Tượng pháp với câu và nghĩa tương tự với chánh pháp, khiến chánh pháp của Phật dần dần diệt mất. Ca-diếp nên biết, có năm nhân duyên khiến cho chánh pháp bị diệt, tất cả đều do quên mất chương cú, pháp thiện bị thoái chuyển. Những gì là năm?

1. Không cung kính Phật, không tôn trọng Phật, không cúng dường Phật, không chí tâm quy y Phật, nhưng lại sống dựa dẫm vào pháp Phật.

2. Không kính Pháp, không tôn trọng Pháp, không cúng dường Pháp, đối với chánh pháp không chí tâm, lại sống dựa dẫm nơi Pháp.

3. Không cung kính Giới, không tôn trọng Giới, không cúng dường Giới, không chí tâm trì giới đã thọ, lại sống dựa dẫm vào Giới.

4. Không cung kính người truyền dạy, không tôn trọng người truyền dạy, không cúng dường người truyền dạy, không chí tâm với người truyền dạy, nhưng lại sống dựa dẫm vào người truyền dạy.

5. Đối với vị đồng phạm hạnh được Đức Phật tán thán thì không cung kính, không tôn trọng, không cúng dường, không thường chí tâm lễ bái thăm hỏi, nhưng vẫn nhờ họ mà được sống an ổn.

Này Ca-diếp, vì năm nhân duyên kể trên, khiến chánh pháp dần dần bị suy thoái, diệt vong.

Này Ca-diếp, có năm nhân duyên khiến chánh pháp trụ thế lâu dài, không chìm đắm, không suy thoái, không quên, không mất. Những gì là năm? Cung kính Đức Thế Tôn, tôn trọng Phật, cúng dường Phật, thường chí tâm quy y Phật. Đối với Pháp, với Giới, với bậc Giáo thọ, với vị đồng phạm hạnh cũng phải cúng dường, cung kính, tôn trọng, chí tâm hướng về. Do năm nhân duyên thiện này khiến chánh pháp an trụ lâu dài ở thế gian, không chìm mất, không thoái chuyển, không quên, không mất. Do ý nghĩa này cần phải cung kính Phật, Pháp, Giới, người truyền dạy, vị đồng phạm hạnh.

Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy đều hoan hỷ phụng hành.

Kệ tóm lược:

Nguyệt dụ, bố thí
Phụ thắng, vô tín
Phật vi căn bản
Cực lão, nạp y
trùng Thị thời, chúng
giảm thiểu Ngoại đạo,
pháp tổn hoại.

QUYỂN 7

TỤNG 2: PHẦN 2

122.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn ở tại rừng trúc CA-lan-đà trong thành Vương xá.

Trong thành có một nghệ sĩ trưởng, hiệu là Động Phát. Ông ta đến gặp Đức Phật, lạy sát dưới chân, ngồi qua một bên, thưa:

–Thưa Đức Cù-đàm, trước đây con đã từng gần gũi và được nghe các nghệ sĩ kỳ cựu lão thành nói: “Bày biện dụng cụ trên sân khấu, trình diễn nhiều màn vui chơi, khảy đàn, tấu nhạc, đánh trống, ca hát cho cả trăm ngàn vạn người đến xem, ai làm những việc ấy, sau khi qua đời, được sanh lên cõi trời Quang chiếu”. Lời nói như vậy là đúng hay sai?

Đức Phật bảo ông ta:

–Thôi đi, thôi đi! Đừng hỏi việc này.

Người nghệ sĩ trưởng hỏi hai, ba lần như vậy, nhưng Đức Phật vẫn không đáp.

Đức Như Lai nói với người nghệ sĩ trưởng:

–Ta hỏi, ông tùy ý đáp. Người nghệ sĩ nào bày biện dụng cụ vui chơi trên sân khấu, khảy đàn, đánh trống, ca nhạc, vì vậy có trăm ngàn người tụ tập đến xem. Người này vốn bị ái dục, sân hận ngu si trói buộc sẵn, nay lại làm thêm những hành động phóng dật, lẽ nào không tăng thêm tham, sân, si hay sao? Ví như có người bị dây trói, lấy nước rưới vào dây, thì càng bị cột chặt thêm. Những người kia trước đây vốn bị ba độc trói buộc, nay lại chơi đùa ca nhạc trên sân khấu, họ chỉ tăng thêm ba độc, hưng thịnh như ca tấu nhạc vậy. Này nghệ sĩ trưởng, ông cho rằng nhờ vào việc này, khi chết được sanh lên cõi trời Quang chiếu, không thể có điều ấy.

Ai cho rằng người nào nhờ tấu nhạc trên sân khấu, khi chết được sanh nơi cõi trời Quang chiếu. Ta nêu rõ rằng: “Ai nói như vậy là tà kiến. Quả báo của tà kiến, là sanh vào hai chỗ: Một là địa ngục, hai là súc sanh”.

Đức Phật dạy như vậy, người nghệ sĩ trưởng khóc rơi nước mắt.

Đức Phật bảo vị nghệ sĩ trưởng:

–Vì lý do này nên ông thưa hỏi ba lần, Ta vẫn không đáp.

Người nghệ sĩ trưởng bạch:

–Thưa Thế Tôn, con không phải khóc vì vừa nghe lời Phật dạy. Con chỉ thương cho những nghệ sĩ kia trẻ dại ngu si, không có trí tuệ nên hành động bất thiện. Từ lâu trong cuộc sống họ đã có tri kiến như vậy, vào đời vị lai sẽ thọ nhận khổ lớn, thường bị khinh khi dối gạt, bị người xem thường. Người nghệ sĩ nào nói rằng: “Chơi nhạc, ca hát trên sân khấu, khi qua đời được sanh đến cõi trời Quang chiếu”. Lời nói như thế là đại vọng ngữ. Ai nhờ nghiệp này được sanh lên cõi trời Quang chiếu, việc này không thể có. Bạch Thế Tôn, từ hôm nay, con không tạo tác nghiệp ác như vậy nữa.

Đức Phật bảo:

–Ông đã hiểu biết chân chánh, chắc chắn được sanh vào cõi thiện trong đời vị lai. Người nghệ sĩ trưởng và các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

123. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại rừng trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá.

Trong thành có một đấu tướng giỏi làm thôn trưởng. Ông ta đến gặp Đức Phật, đảnh lễ dưới chân, sau khi thăm hỏi, ngồi qua một bên, bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, trước đây con đã từng nghe các hàng Trưởng lão kỳ cựu nói: “Khi ai muốn chiến đấu phải trang bị binh khí cầm tay, tự phòng hộ vững chắc, dũng mãnh tiến tới, không có khiếp nhược, có thể phá quân địch ở trước, tiêu diệt các sanh mạng, khiến cho quân đội kia bị thua, tan rã.

Ai làm được việc này thì được sanh cõi trời Tiễn trang nghiêm”.

Người đấu tướng hỏi như vậy, Đức Phật đáp: –Hãy ngừng lại, đừng hỏi nữa! Nay ý nghĩa của điều ông hỏi thật bất thiện.

Người đấu tướng hỏi ba lần như vậy. Đức Phật bảo:

–Ông đã ba lần ân cần hỏi Ta. Nếu ông có thể lãnh thọ, Ta sẽ vì ông mà giảng nói. Những kẻ có việc đánh nhau, sẽ cố gắng tự trang bị về sự hiểu biết đối với chiến thuật giỏi, dẫn đầu mặt trận, dũng mãnh tiến tới. Như vậy, lẽ nào chiến tướng không tác ý tìm phương tiện để tàn sát cho được quân đội bên kia, với suy nghĩ: Làm sao bắt trói được chúng, làm sao tàn sát được chúng, làm sao cho chúng tan nát hết. Có khi nào họ không sanh ý niệm như vậy không? Này Chiến tướng, như thế là ông đối với chúng sanh đã khởi lên ba nghiệp tà ác. Ba nghiệp tà ác là gì? Đó là thân, khẩu, ý ác. Ai sử dụng ba nghiệp ác, bất thiện ấy, sau khi qua đời, lại được sanh lên cõi trời, không thể có sự việc này. Này Chiến tướng, nhận thức đang có của ông chính là tà kiến. Nghiệp tà kiến chắc chắn sanh vào hai chỗ, địa ngục hay súc sanh.

Sau khi người đấu tướng nghe lời Phật dạy, khóc lóc rơi lệ.

Đức Phật hỏi:

–Do vậy ông đã hỏi ba lần, Ta vẫn không nói.

Nay đã nói cho ông, tại sao lại khóc?

Đấu tướng bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, không phải con nghe Ngài nói vậy mà khóc lóc, chỉ thương cảm các đấu tướng lâu nay ngu si, khờ dại vô trí, hành động bất thiện nên thường làm việc này, trong đời vị lai sẽ bị khổ lớn. Nghiệp ác như vậy thật sự không có sanh lên cõi trời, thật không có sự việc người nào làm nghiệp này mà được sanh lên cõi trời Tiễn trang nghiêm. Bạch Thế Tôn, từ nay về sau con không làm theo các tà kiến này nữa.

Đức Phật tán dương:

–Lành thay, lành thay! Lời ông vừa nói thật là ít có. Người đấu tướng nghe lời Phật dạy, đảnh lễ từ giã.

124. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở nơi rừng trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá.

Có người chủ khu xóm giỏi nghề huấn luyện ngựa đến gặp Đức Phật, lạy sát chân Ngài, ngồi qua một bên.

Đức Phật bảo ông huấn luyện ngựa:

–Có bao nhiêu điều kiện làm cho ngựa thuần thục?

Vị ấy đáp:

–Thưa Đức Cù-đàm, có ba điều kiện làm cho ngựa được thuần thục là:

1. Một mặt cần phải mềm dẻo.

2. Một mặt cần phải cứng rắn.

3. Một mặt cần phải dung hòa.

Đức Phật bảo ông ta:

–Nếu thực hiện cả ba điều kiện trên, vẫn không điều phục được nó, thì phải làm thế nào?

Người huấn luyện ngựa đáp:

–Đánh cho chết.

Ông ta hỏi tiếp:

–Thưa Đức Cù-đàm, Ngài là Bậc Điều Ngự Vô Thượng, bằng bao nhiêu cách Ngài điều phục kẻ trượng phu.

Đức Phật đáp: –Ta cũng điều phục bằng ba cách:

1. Có khi cần phải nói lời ôn hòa.

2. Có khi nói lời cứng rắn.

3. Có khi nói lời dung hợp.

Thế nào là có khi cần phải ôn hòa? Như Ta dạy các Tỳ-kheo: “Nếu các ông tu ba nghiệp thiện sẽ được quả báo tốt đẹp của trời hay người”. Đây là một mặt dùng lời ôn hòa để điều phục.

Thế nào là điều phục bằng lối cứng rắn? Như thuyết giảng về ba đường ác. Đây là do nghiệp nơi thân, khẩu, ý tạo quả xấu.

Thế nào là điều phục bằng cách dung hợp giữa cứng rắn và ôn hòa? Là giảng dạy về thân, khẩu, ý, làm các việc thiện được sanh vào cõi trời, cõi người. Đấy là quả báo thu đạt được do thân, khẩu, ý thiện. Thuyết giảng về các nghiệp xấu do thân, miệng, ý sẽ bị đọa vào ba đường ác, đây là quả báo của thân, khẩu, ý. Đó gọi là dùng cách dung hợp giữa ôn hòa và cứng rắn để điều phục chúng sanh. Người huấn luyện ngựa bạch Phật: –Nếu dùng ba cách này mà không điều phục được, thì phải điều phục bằng cách nào?

Đức Phật bảo:

–Nói lời tha thiết mà họ không thuần thục, thì gây hủy hại nặng cho họ.

Vị ấy nói:

–Đức Cù-đàm thường thuyết giảng không sát hại. Tại sao lại nói hủy hại?

Đức Phật bảo ông ta:

–Đúng vậy! Đức Như Lai giảng nói điều không sát hại. Đấy là hành động không được làm. Đức Như Lai Thế Tôn dùng ba cách này để điều phục chúng sanh: Nếu người nào không chịu điều phục thì sẽ không nói chuyện, không răn dạy, không hướng dẫn cho họ nữa.

Đức Phật hỏi người huấn luyện ngựa:

–Ý ông thế nào? Nếu Đức Như Lai không dạy dỗ, không nói chuyện, không hướng dẫn, với cách thức như vậy gọi là hủy hại, là thực sự hủy hại phải không?

Người dạy ngựa đáp:

–Bạch Đức Cù-đàm, đúng như vậy! Nếu Đức Như Lai không nói chuyện với họ, không dạy bảo, không hướng dẫn là đã thành hủy hại rồi. Thật sự rất tai hại cho đời sống của họ.

Ông ta lại thưa:

–Bạch Đức Cù-đàm, từ nay về sau, con sẽ đoạn trừ sự hủy hại bằng cách không làm việc ác.

Đức Phật tán dương: –Này người dạy ngựa, lời ông nói rất đúng, đó là việc rất chân chánh.

Người dạy ngựa nghe lời Phật dạy, hoan hỷ đảnh lễ từ giã.

125. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại rừng trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá.

Có người thôn trưởng tên Ác Tánh đến gặp Đức Phật, lạy sát dưới chân, ngồi qua một bên, bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, trong thế gian có người không tu tập, gây phiền não cho người khác, nói lời phiền não với người khác. Vì vậy, mọi người đều gọi họ là cực ác.

Đức Phật bảo thôn trưởng:

–Có một người nào đó xúc phạm người khác, nói lời xúc phạm. Người khác bị lời nói kia xúc phạm nên nổi sân hận, vì vậy nên tên là Ác Tánh, do không tu hành chánh kiến, chánh nghiệp, chánh ngữ, chánh mạng, chánh niệm, chánh phương tiện, chánh chí, chánh định. Vì không tu chánh định nên xúc phạm người khác và khi bị xúc phạm thì sanh ra phẫn nộ, dữ dội, vì phẫn nộ nên nói lời giận dữ, phát ra lời phẫn nộ nên gọi là Ác Tánh.

Thôn trưởng thưa:

–Hy hữu thay Đức Cù-đàm! Đúng như lời Ngài nói. Xúc phạm người khác đúng tên là Ác Tánh. Con vì không tu hành chánh kiến nên xúc não người khác, vì bị xúc phạm nên họ gọi con là Ác Tánh. Tất cả mọi người gọi con là Ác Tánh. Từ đó đến nay con có tên là Ác Tánh. Thôn trưởng lại thưa:

–Bạch Đức Cù-đàm, làm thế nào không bị xúc phạm, không gây xúc phạm và không phát ra lời nói xúc phạm?

Đức Phật dạy:

–Tuy bị người xúc phạm nhưng không xúc phạm lại người. Bị người khác nói lời xúc phạm nhưng không nói lời xúc phạm trở lại. Tuy bị xúc phạm nhưng tâm không bị khổ não. Vì tự thân không xúc phạm nên được người đời gọi là khéo nhẫn nhục và đối với người khác có ý tưởng nhẫn nhục. Ai muốn được vậy phải thường tu tập chánh kiến. Do có chánh kiến nên có chánh nghiệp, chánh ngữ, chánh mạng, chánh chí, chánh phương tiện, chánh định, chánh niệm. Do có tu tập chánh định nên khi bị người khác xúc phạm không sanh tâm phiền não, không sanh phiền não thì gọi là khéo nhẫn nhục.

Thôn trưởng thưa:

–Hy hữu thay Đức Cù-đàm! Lời nói của Ngài thật toàn thiện. Đúng như lời Ngài dạy, con vì không tu tập chánh kiến nên bị người khác xúc phạm. Khi bị xúc phạm con nói ra lời xúc phạm lại. Do đó người đời gọi con là Ác Tánh. Do con phát sanh ý tưởng ác nên gọi là Ác Tánh. Con vì không tu tập Bát chánh đạo nên khi bị xúc phạm liền nói ra lời xúc phạm lại, đưa đến phẫn nộ. Do có ý tưởng ác này nên người đời gọi con là Ác Tánh. Thưa Đức Cù-đàm, từ nay về sau, con xin từ bỏ những tánh xấu ác, dữ tợn, ngã mạn, hung hiểm như vậy.

Đức Phật tán thán:

–Ông làm như vậy thật hết sức tốt đẹp. Thôn trưởng nghe lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành, làm lễ từ giã.

126.

Bấy giờ có thôn trưởng, tên Như Ý Châu Đảnh Phát, đến gặp Đức Phật, lạy sát dưới chân, ngồi qua một bên, bạch Phật.

–Thưa Thế Tôn, trước đây trên điện nhà vua, con cùng các phụ tướng quyến thuộc, quần thần, ngồi chung một nơi cùng nhau đàm luận về việc Sa-môn có được cầm tài vật quý báu hay không? Trong chúng có người nói: “Giá như có cầm, nào bị lỗi gì? Vậy được phép cầm!” Người khác nói: “Không được cầm! Sa-môn Thích tử không được cầm vàng, vật quý”.

Bạch Thế Tôn, hai thuyết này, thuyết nào đúng pháp, thuyết nào không đúng pháp? Những lời bày tỏ ấy, lời nào là hủy báng Phật và lời nào có lỗi? Thuyết nào đúng lời Phật dạy, thuyết nào không đúng lời Phật dạy?

Đức Phật bảo thôn trưởng:

–Ai bày tỏ lời nói không đúng như thế này là lời nói có lỗi, là vu báng Ta, lời nói của Ta thật không phải như vậy. Tại sao? Theo đúng pháp thì Tỳ-kheo, Sa-môn Thích tử không được cầm giữ vàng tiền, vật quý... Ai cầm tiền, vàng, vật quý..., người ấy không phải làm theo pháp Sa-môn Thích tử. Giáo pháp của Phật làm cho con người trở thành toàn thiện đặc biệt, thế nên Đức Phật đã thuyết giảng: “Là Tỳ-kheo không được cầm giữ tiền, vàng, vật quý... Người nào cầm giữ chúng là chẳng phải đúng pháp Sa-môn”.

Thôn trưởng nói:

–Bấy giờ, giữa mọi người, con sẽ bày tỏ: Samôn Thích tử không được cầm giữ tiền vàng vật quý... Nếu ai cầm tiền thì mặc sức, tùy ý phóng túng nơi năm dục.

Người thôn trưởng nghe lời Đức Phật dạy, đảnh lễ từ giã.

Khi ấy Tỳ-kheo A-nan đang đứng hầu, cầm quạt quạt Đức Phật. Đức Phật bảo A-nan: –Ông hãy gọi các Tỳ-kheo đang trú tại thành Vương xá này, tập trung tất cả ở giảng đường.

A-nan vâng lời Phật dạy, triệu tập tất cả Tỳ-kheo đến họp ở giảng đường. Khi các Tỳ-kheo đã tập hợp, A-nan đến gặp Phật đảnh lễ dưới chân, ngồi qua một bên, bạch:

–Thưa Thế Tôn, các Tỳ-kheo Tăng đang trú ở thành Vương xá đều đã đến tập hợp hết ở giảng đường. Kính thưa Thế Tôn, nên biết đúng lúc.

Thế Tôn đến giảng đường, trải tòa ngồi trước chúng Tăng, bảo các Tỳ-kheo:

–Có vị thôn trưởng là Như Ý Châu Đảnh Phát đến gặp Ta. Sau khi đảnh lễ, vị ấy thưa với Ta: “Trước đây trên điện vua, con và các phụ tướng cùng nhau bàn luận: Pháp của Sa-môn Thích tử là được cầm giữ vàng, tiền, vật quý hay không? Bấy giờ trong chúng có người nói: “Giả sử Sa-môn Thích tử cầm giữ tiền vật quý, vàng bạc... nào có lỗi lầm gì! Ai chỉ cầm giữ chúng, không có khổ”. Có người khác nói: “Pháp của Sa-môn đúng ra không được giữ vàng, tiền, vật báu...”. Hai người ấy nói lời không giống nhau. Như vậy lời nói của hai người lời nào đúng pháp?

Ta trả lời: “Sa-môn Thích tử không được cầm giữ tiền, vàng, vật báu...”.

Người thôn trưởng bày tỏ: “Bấy giờ khi ở giữa hội chúng ấy, con sẽ bày tỏ: Nếu Sa-môn Thích tử được giữ vàng bạc, tiền, vật quý... thì sẽ phóng túng đưa đến thọ hưởng năm dục.

Người thôn trưởng nghe lời Ta dạy, hoan hỷ từ giã. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Các ông phải biết, người thôn trưởng Như Ý Châu Đảnh Pháp, ngay trước mọi người, đã gầm lên tiếng gầm của sư tử. Pháp của Sa-môn Cù-đàm là không được nhận giữ vàng, bạc, tiền vật quý. Này các Tỳ-kheo, từ nay về sau, ai có nhu cầu cần thiết muốn cầm vàng bạc... phải quán tưởng chúng như cỏ, cây và như phải cầm phẩn, thà cầm phẩn uế chứ không nên cầm vật quý.

Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, hoan hỷ đảnh lễ rồi lui ra.

127. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở bên bờ hồ Kiệt thành kỳ, thuộc nước Chiêm-ba. Có thôn trưởng tên Vương Đảnh Phát đến gặp Đức Phật, lạy sát chân Ngài, ngồi qua một bên. Đức Phật bảo ông ta:

–Trong thế gian có nhiều chúng sanh sống dựa vào hai pháp: Một là tham đắm dục lạc, hai là luyện tập khổ hạnh vô ích, tự thân thực hành pháp phi thánh đạo. Do đó họ chịu sự tổn hại, không chút lợi ích gì. Tham đắm theo dục lạc gọi là pháp trói buộc, chìm sâu trong hạ tiện. Người thọ hưởng dục lạc có ba hạng.

–Thế nào là ba hạng?

1. Hạng tích tụ tài sản phi pháp nên tàn hại chúng sanh, vì thương yêu tự thân, chỉ vì tự thân nên làm những công việc đưa đến sung sướng cho mình. Họ không nuôi dưỡng cha mẹ, cung cấp cho vợ con, người giúp việc, không giúp đỡ thân hữu tri thức, quyến thuộc, người hỗ trợ, không cúng dường Sa-môn Bà-la-môn, những chỗ phước điền. Người như vậy không tu đạo cao thượng, không tạo nhân an lạc nên không được kết quả an lạc. Đây là hạng thứ nhất thọ hưởng dục lạc.

2. Có hạng người thọ hưởng dục lạc, có khi đúng pháp, có khi phi pháp, có khi hành động tàn hại, có khi không tàn hại để đem mọi an lạc cho bản thân và đối với cha mẹ, vợ con, tôi tớ, bạn bè, quyến thuộc, người hỗ trợ của mình, họ đều cúng dường cung cấp đủ sự an vui. Nhưng họ không bố thí cho Sa-môn Bà-la-môn và các chỗ phước điền. Họ cũng không tu tập chánh đạo, không tạo nhân an lạc, không cầu quả báo an lạc, không tạo nhân duyên để sanh thiên. Đây gọi là hạng thứ hai thọ hưởng dục lạc.

3. Có hạng người tích trữ tài sản, vật báu, để dành đúng pháp, không làm việc tàn hại, sống đúng pháp nên không hành động tàn hại, tự thân có tu tập, thọ hưởng an lạc đầy đủ. Họ cúng dường đúng pháp cho cha mẹ, vợ con, tôi tớ, bạn bè, quyến thuộc, người phụ trợ, đều được bố thí, cúng dường đầy đủ. Họ luôn luôn cúng dường Sa-môn, Bà-la-môn tạo lập ruộng phước, tu tập theo con đường hướng thượng, trồng nhân an lạc, cầu quả báo an lạc, tạo nhân duyên sanh thiên. Đây là hạng thứ ba thọ hưởng dục lạc.

Với những người thọ hưởng dục lạc như vậy, Ta nói rõ: Có trường hợp thọ hưởng dục lạc gọi là hạ tiện. Có trường hợp thọ hưởng dục lạc gọi là trung bình. Có trường hợp thọ hưởng dục lạc gọi là cao thượng.

Trường hợp nào là hạ tiện? Có người bằng cách phi pháp hay đúng như pháp tích trữ tài sản để tạo sự sung sướng cho mình, chỉ gây nhân an lạc cho riêng tự thân. Họ không cúng dường cha mẹ, không giúp đỡ vợ con, tôi tớ, bạn bè, quyến thuộc, cũng không tùy thời cúng dường Sa-môn,

Bà-la-môn, các bậc phước điền, không tu tập theo đường hướng thượng, không gây nhân an lạc, không được quả báo an lạc, không gây nhân duyên sanh thiên. Đây gọi là trường hợp hạ tiện. Trường hợp nào là trung bình? Có người thọ hưởng dục lạc, có khi như pháp, có khi phi pháp, có khi hành động tàn hại, để đem lại sự an lạc cho mình, hoặc đem sự an lạc đến cho cha mẹ, vợ con, tôi tớ, thân thuộc... nhưng không tạo nhân duyên sanh thiên. Đây gọi là trung bình.

Trường hợp nào là cao thượng? Đó là tích tụ tài sản đúng như pháp, không gây tàn hại cho chúng sanh, tự thân thọ hưởng đầy đủ an lạc, đúng pháp, cúng dường cha mẹ cung cấp cho vợ con, tôi tớ, thân hữu... cho đến làm những nhân duyên để sanh thiên. Đây là trường hợp cao thượng.

Thế nào là ba hạng người hành động vô ích làm khổ thân?

Đó là khổ hạnh không đúng pháp của bậc Thánh, không có nội dung lợi ích. Ai có thân khổ thì tâm đã bị biến động. Như người mới phạm giới lần đầu, cả trong ngoài thân tâm bức rức, luôn luôn hối hận về việc này. Trong đời hiện tại họ luôn luôn bị phiền não, không thể nào chứng đắc pháp vượt hơn người. Đây là pháp khổ hạnh vô ích thứ nhất.

Có người tuy không phạm giới, tâm không bị biến động, hành động thân tâm điều hòa nhau, trong ngoài đều an ổn. Họ tu tập khổ hạnh, nhưng trong đời hiện tại cũng không thoát ly phiền não, không thể nào đắc được pháp vượt hơn người. Đây gọi là pháp khổ hạnh vô ích thứ hai.

Có người tuy không phạm giới, tâm không biến động, hai nghiệp thân tâm điều hòa nhau, trong ngoài an ổn. Họ tu tập khổ hạnh, trong đời hiện tại, tuy không thoát ly phiền não nhưng có tăng tiến chút ít về pháp vượt hơn người, hoặc chứng đắc ít phần trí tuệ để được thấy pháp, chứng chút ít thiền định. Đây là pháp khổ hạnh vô ích cho thân thứ ba.

Này thôn trưởng, Ta không nói rõ các loại khổ hạnh vô ích đều giống như nhau. Có loại khổ hạnh là hạ phẩm. Có loại khổ hạnh là trung phẩm. Có loại khổ hạnh là thượng phẩm.

Thế nào là khổ hạnh hạ phẩm? Người khi mới phạm giới, tâm đã bị biến động, cả trong ngoài thân tâm đều bứt rứt, luôn luôn hối hận về việc ấy. Họ tu khổ hạnh, ngay trong đời này không thoát ly phiền não, không chứng đắc pháp vượt hơn người. Đây là hạ phẩm.

Thế nào là trung phẩm? Có người tuy không phạm giới, tâm không thay đổi, hai nghiệp thân tâm điều hòa, trong ngoài đều an ổn. Họ tu khổ hạnh, ngay trong đời này không thoát ly phiền não, không chứng đắc pháp vượt hơn người. Đây là trung phẩm Thế nào là thượng phẩm? Có người tuy không phạm giới, tâm không bị biến động, hai nghiệp thân tâm điều hòa, trong ngoài an ổn. Họ tu tập khổ hạnh, trong đời hiện tại này tuy không đoạn trừ phiền não, nhưng có tiến bộ một phần nhỏ về pháp vượt hơn người, chứng đắc phần nhỏ trí tuệ, hoặc được thấy pháp, tự thân thọ hưởng thiền lạc. Đây là thượng phẩm.

Này thôn trưởng, hãy từ bỏ hai cực đoan này, hướng đến với đạo pháp. Đó là từ bỏ ba loại dục lạc, ba loại khổ hạnh vô ích ở trên, hướng đến trung đạo Thế nào là từ bỏ ba loại dục lạc và ba loại khổ hạnh vô ích hướng đến trung đạo?

Này thôn trưởng, người tham đắm dục lạc, làm hại tự thân, làm hại người khác, làm hại cả hai. Hiện tại duyên tập nghiệp ác, đời vị lai cũng duyên tập nghiệp ác. Do nhân duyên này, tâm ý phiền não ưu bi, chịu các loại khổ đau. Ai dứt sạch mọi trói buộc của dục, không còn tự làm khổ, không làm khổ người, không làm khổ cả hai. Trong đời hiện tại không nhận lấy đau khổ, trong đời vị lai cũng không bị các loại khổ. Với ý nghĩa này: Được pháp lạc hiện tại, thoát ly các khổ não, đến gần Niết-bàn, không bị lệ thuộc vào hoàn cảnh, ngay trong đời này có thể chứng đạo quả, người trí tự mình hiểu biết, sáng suốt không trở ngại, tự đến để thấy. Đây là Trung đạo thứ nhất.

Này thôn trưởng, lại có trung đạo khác, viễn ly phiền não, không bị lệ thuộc vào hoàn cảnh, được gần Niết-bàn, người trí tự biết, tự mình đến để thấy, đó là: Chánh kiến, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh định, chánh phương tiện, chánh chí, chánh niệm. Đây là Trung đạo thứ hai.

Đức Phật thuyết giảng pháp này, thôn trưởng Vương Đảnh Phát liền xa lìa mọi bụi bặm cấu uế, đắc pháp nhãn thanh tịnh.

Thôn trưởng Vương Đảnh Phát hiểu biết pháp, thấy pháp, đắc pháp, không còn nghi ngờ, lìa bỏ nghi hoặc, liền rời chỗ ngồi, sửa y phục, chắp tay hướng về Đức Phật, bạch:

–Thưa Thế Tôn, hôm nay con đã không còn bị mê lầm nữa. Con xin quy y Phật bảo và hai bảo Pháp, Tăng; xin thọ trì giới Ưu-bà-tắc. Từ nay đến trọn đời, con xin quy y Tam bảo.

Thôn trưởng Vương Đảnh Phát nghe lời Phật dạy, hoan hỷ vô cùng, đảnh lễ từ giã.

128.

Một thời, Đức Thế Tôn du hành từ thôn Mạt lao đi dần đến rừng Anh vũ diêm vô quả thuộc thôn Ưu-lâu-tần-loa.

Thôn trưởng tên Lư Tánh, từ xa đã nghe đồn Đức Thế Tôn du hành từ thôn Mạt lao đến rừng Anh vũ diêm vô quả thuộc khu xóm Ưu-lâu-tầnloa, nên suy nghĩ: “Ta nghe đồn giáo pháp do Thế Tôn Cù-đàm nói ra có thể diệt trừ tất cả khổ, tập trong hiện tại. Ta đang muốn diệt trừ được những thứ ấy, vậy nên đến gặp Ngài để được nghe diệu pháp đó. Có thể Ngài sẽ giảng dạy cho ta về con đường diệt tận khổ, tập”. Sau khi suy nghĩ, Lư Tánh rời khỏi thôn đến gặp Thế Tôn, đảnh lễ dưới chân Phật, ngồi qua một bên, bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, con nghe rằng giáo pháp do Như Lai thuyết giảng có thể diệt trừ khổ, tập của chúng sanh trong hiện tại. Lành thay! Thế Tôn, xin Ngài từ bi thương cảm, chỉ dạy cho con về phương pháp có thể diệt trừ khổ, tập trong hiện tại.

Đức Thế Tôn bảo ông ta:

–Nếu Ta giảng cho ông về khổ, tập và pháp diệt khổ đã từng có ở vô số đời trong quá khứ thì ông có khi tin hoặc không tin; có khi ưa thích hay không ưa thích.

Nếu ta giảng cho ông về khổ, tập và pháp diệt khổ sẽ có ở vô số đời trong vị lai thì ông có khi tin, hoặc không tin; có khi ưa thích hoặc không ưa thích. Đức Phật lại dạy:

–Ngay lúc này và tại đây, Ta sẽ giảng cho ông về khổ, tập và pháp diệt khổ. Ông hãy lắng nghe và chí tâm thọ trì. Chúng sanh đều có những đau khổ dù nhỏ nhặt. Khổ này có nhiều loại khác nhau, đều được sanh ra từ dục, tập khởi từ dục, lấy dục làm căn bản, có nhân duyên từ dục.

Người thôn trưởng bạch Thế Tôn:

–Lành thay! Thế Tôn, con căn tánh ám độn, không hiểu lời nói tóm lược, cầu mong Ngài từ bi giảng rộng ý nghĩa này cho con được khai ngộ.

Đức Phật dạy:

–Ta hỏi ông, tùy ý đáp. Trong thôn Ưu-lâutần-loa này với số dân chúng ở đấy, giả sử có người bắt trói, hủy nhục, giết chết họ, ông đối với việc này, có sanh khổ não không?

Thôn trưởng đáp:

–Tuy có buồn thảm nhưng không phải con quá đau khổ đối với tất cả mọi người. Bạch Thế Tôn, trong thôn Ưu-lâu-tần-loa này, người nào được con yêu mến, mới làm cho con đau khổ, sầu não, tâm không vui vẻ. Người nào mà con không yêu mến, không tham ái, không nhớ đến, với tất cả những người không thân thiết ấy, con không có ưu, bi, khổ não.

Đức Phật bảo ông ta:

–Này thôn trưởng, thế nên phải biết tất cả các loại khổ phát sanh đều do dục, đều nhân nơi dục; dục là căn bản.

Đức Phật lại bảo:

–Này ông chủ thôn, ông nghĩ thế nào với đứa con chưa sanh của ông, chưa có trong bụng mẹ, chưa thấy, nghe về nó bao giờ, ông đối với nó có tâm ý yêu mến thân thiết không?

Đáp: –Bạch Thế Tôn, không có.

Đức Phật lại bảo:

–Đứa con ông do vợ ông đã sanh ra, khi thấy nó, ông có tâm ý ưa muốn thân thiết yêu mến không?

Đáp: –Vâng! Có như vậy.

Đức Phật nói:

–Con của ông do vợ sanh, vừa mới lớn lên, giả như nó làm việc bại hoại, làm giặc cướp chống lại vua. Nó làm như vậy, ông có khổ não, ưu, bi không? Thôn trưởng thưa:

–Nếu gặp phải trường hợp này, ngay lúc ấy tâm con đau khổ như chết hay gần chết, nói gì đến ưu, bi, khổ não.

Đức Phật lại bảo:

–Vậy nên biết rằng: Tất cả khổ não đều phát sanh từ dục, lấy dục làm nhân; dục là căn bản.

Thôn trưởng nói:

–Hy hữu thay Đức Thế Tôn! Lời Ngài dạy rất đầy đủ, với ví dụ rất tinh tế.

Ông ta lại bạch Phật:

–Giả như con của con đang ở nơi xa, con sai người đến thăm viếng. Nếu người ấy trở về chậm, con cùng mẹ nó tâm ý không yên, lo ngại vì người ấy về muộn, bởi con muốn biết con của con có bình an không.

Đức Phật nói:

–Này thôn trưởng, như vậy, nên biết chúng sanh bị khổ não với nhiều loại ưu, bi đều bắt nguồn từ dục, sanh ra từ dục, có căn bản từ dục. Giả như bốn ái bị hư hoại, thay đổi thì sanh ra bốn loại ưu, bi, khổ não. Ai có ba loại ái cũng còn sanh ưu, bi, khổ não... Ai có một loại ái cũng sanh ưu, bi, khổ não. Người nào không có ái thì không có ưu, bi, khổ não, xa lìa trần cấu, như hoa sen trong ao không bị dính nước.

Khi Đức Phật thuyết giảng pháp này, thôn trưởng Lư Tánh xa lìa bụi bặm cấu nhiễm, đắc pháp nhãn thanh tịnh, thấy pháp, đắc pháp, hiểu pháp, tri pháp, vượt qua nghi hoặc, tự tâm tác chứng, không đi sai đường, chứng đắc sức hiểu biết trong giáo pháp của Đức Phật.

Ông ta rời chỗ ngồi, sửa lại phục, chắp tay bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, con đã giải thoát, từ nay về sau xin quy y Tam bảo làm vị Ưu-bà-tắc, trọn đời con nguyện chánh tín thanh tịnh.

Thôn trưởng nghe lời Phật dạy, hoan hỷ đảnh lễ, từ giã. Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy đều hoan hỷ phụng hành.

129.

Một thời Đức Thế Tôn cùng đoàn người gồm đại chúng Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị, một ngàn vị Ưu-bà-tắc, năm trăm hành khất, du hành ở nước Ma-kiệt-đề, từ thôn xóm này đến thôn xóm khác, từ thành này đến thành khác, đi đến khu lâm viên Mại điệp thuộc thành Na-lakiền-đà và tạm nghỉ ở đó.

Có người thôn trưởng họ Bế Khẩu, là đệ tử của Ni-kiền Tử, nghe Đức Phật từ nước Ma-kiệt-đề du hành đến đây và đang ở trong khu lâm viên này, nên tự nghĩ: “Ta nên đến thưa với thầy Ni-càn-đà trước, sau đó mới đến gặp Cù-đàm”. Bế Khẩu liền đi đến gặp Ni-càn-đà, đảnh lễ sát dưới chân, ngồi qua một bên.

Ni-càn-đà bảo Bế Khẩu:

–Ông có thể dùng song phương luận để vấn nạn Cù-đàm không? Như cho cá cắn lưỡi câu hai ngạnh, nuốt vào không được, nhả ra không xong. Song phương luận này cũng vậy, có thể làm cho đối phương không thể nhả ra hay nuốt vào.

Thôn trưởng đáp:

–Xin thầy dạy cho con, con sẽ đến hỏi. Thế nào là song phương luận, có thể làm cho Cù-đàm nhả không ra, nuốt không vào.

Ni-càn-đà nói:

–Ông đến gặp Cù-đàm, nói theo lời ta: Này Cù-đàm, có phải Ngài muốn tạo lợi ích cho các gia đình phải không? Nếu ông ta nói không muốn tạo lợi ích, thì nói ông ta có khác gì kẻ phàm ngu. Nếu ông ấy nói, muốn tạo lợi ích cho các gia đình, thì hỏi rằng: Vậy tại sao hiện nay Ngài đưa một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ-kheo, một ngàn Ưu-bà-tắc, năm trăm hành khất đi từ thôn xóm này đến xóm thôn khác, từ thành này đến thành khác, phá hại nhiều nhà, những nơi đã đi qua bị Ngài chà đạp phá hoại làm thương tổn như mưa đá phá lúa. Đây gọi là phá hoại, chẳng phải là làm lợi ích.

Bế Khẩu học lời dạy xong, đến rừng Mại điệp, vào gặp Đức Phật, thăm hỏi qua loa rồi ngồi qua một bên, thưa với Đức Phật:

–Này Cù-đàm, Ngài muốn làm việc tăng trưởng lợi ích cho các gia đình phải không? Ngài thường tán thán về sự tăng trưởng lợi ích phải không? Đức Phật đáp:

–Đối với cuộc sống này, Ta luôn luôn muốn thực hiện pháp tăng trưởng lợi ích.

Thôn trưởng lên tiếng:

–Nếu Ngài mong muốn sự lợi ích, vì sao hiện nay trong dân gian bị đói kém, lại cùng một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ-kheo, một ngàn Ưu-bà-tắc, năm trăm hành khất, cùng nhau đi từ thôn này đến xóm khác, từ thành phố này đến thành phố khác, làm tổn hại nhiều gia đình. Đây không phải là pháp tăng trưởng lợi ích, đó là tổn giảm, như mưa đá phá lúa. Ngài phá hoại dân chúng cũng như vậy.

Đức Phật bảo thôn trưởng:

–Ta nhớ trong chín mươi mốt kiếp đã qua, không hề có một gia đình nào tự ý đem thực phẩm đã chín bố thí mà đến nỗi bị tổn giảm. Ông hãy xem, tất cả các gia đình có nhiều tài sản, của báu quyến thuộc, tôi tớ, voi ngựa bò dê... cơ nghiệp giàu có ấy, có trường hợp nào không do bố thí mà được như vậy. Chính Ta do bố thí vô hạn nên được quả báo này. Có tám nhân duyên làm tổn hại các gia đình:

1. Bị vua xâm chiếm.

2. Bị giặc cướp đoạt.

3. Bị lửa đốt cháy.

4. Bị nước lụt cuốn trôi.

5. Mất dấu chỗ chôn của cải.

6. Sanh con ác không biết làm ăn.

7. Bị người có uy thế làm tổn hại tài sản.

8. Con xấu sử dụng tài sản không hợp lý.

Người thế gian đều nói tám việc này thường phá hoại gia đình. Nay Ta nói thêm về việc phá hoại thứ chín. Điều phá hoại thứ chín là vô thường.

Ngoài chín thứ này ra, ai cho rằng Sa-môn Cùđàm hay phá hoại các gia đình, sự việc này không đúng. Ai loại trừ chín nhân duyên này, nói Sa-môn Cù-đàm hay phá hoại các gia đình, làm cho không phát triển, việc này cũng không đúng. Những người nào không từ bỏ lời nói này, không từ bỏ ý muốn này, như phí sức đập vào quả banh bằng da, rồi cũng bị đọa địa ngục.

Thôn trưởng Bế Khẩu khi nghe lời dạy này, rất sợ hãi, ưu sầu, lông tóc dựng ngược, đứng dậy lạy sát chân Phật, hướng về Phật thưa:

–Con xin thành tâm sám hối với Đức Phật, con quá ngu si, cũng như trẻ con, hành động bất thiện, ngay trước Đức Phật, nói ra lời dối trá hạ tiện, hư vọng không thật. Cầu xin Ngài thương xót cho phép con sám hối.

Đức Phật bảo thôn trưởng:

–Ta biết rõ ông thành tâm, biết rõ tội mình, biết rõ sự ngu si như trẻ con, hành động bất thiện, nên đối với Đức Như Lai A-la-hán đã tạo hành động đại hư vọng hạ tiện. Hiện nay, ông đã tự biết tội, thành tâm sám hối, tăng trưởng pháp thiện, diệt trừ pháp ác. Ta thương xót ông, nhận sự sám hối này làm cho ông tăng trưởng pháp thiện, thường không thoái chuyển, hư hoại.

Khi ấy vị thôn trưởng họ Bế Khẩu nghe lời Phật dạy, hoan hỷ đảnh lễ từ giã.

130. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại rừng Mại điệp, thuộc thành Na-la-kiền-đà. Có người thôn trưởng họ Bế Khẩu suy nghĩ: “Ta muốn gặp Sa-môn Cù-đàm nhưng không gặp thầy Ni-càn-đà của ta trước thì không được”. Ông ta đến gặp Ni-càn-đà, lạy sát dưới chân, ngồi qua một bên.

Ni-càn-đà bảo ông ta:

–Ta dạy ông cách vấn nạn bằng song phương luận, làm cho Sa-môn Cù-đàm không thể nhả ra mà cũng không thể nuốt vào.

Bế Khẩu hỏi:

–Thưa A-xà-lê, dùng luận song phương gì mà có thể làm cho Sa-môn Cù-đàm nhả không được, nuốt không trôi.

Ni-càn-đà nói: –Ông hãy đến gặp Sa-môn Cù-đàm, nói rằng: Ngài không muốn tạo lợi ích an lạc cho tất cả chúng sanh hay là Ngài tán dương pháp đem lại lợi ích, an lạc cho tất cả chúng sanh? Nếu ông ấy nói không muốn tạo lợi ích an lạc cho tất cả chúng sanh thì khác gì phàm phu ngu si ở thế gian. Nếu ông ấy nói muốn đem lại lợi ích, an lạc cho tất cả chúng sanh, thì tại sao không bình đẳng thuyết pháp cho mọi người. Có trường hợp không được nghe thuyết pháp như nhau.

Người thôn trưởng ghi nhận lời dạy, đến gặp Đức Phật thăm hỏi qua loa rồi ngồi qua một bên, bạch Phật:

–Có phải Ngài không muốn tạo lợi ích an lạc cho các chúng sanh phải không? Hay là Ngài tán dương pháp đem lại an lạc, lợi ích?

Đức Phật nói:

–Ta luôn luôn muốn đem lại lợi ích cho tất cả chúng sanh và thường tán thán pháp này.

Bế Khẩu nói:

–Như vậy, tại sao Ngài không thuyết pháp cho tất cả chúng sanh một cách bình đẳng. Có người không được nghe pháp?

Đức Phật bảo:

–Nay Ta hỏi, ông tùy ý đáp lại. Ví như người đời có ba loại ruộng. Có loại ruộng thượng hảo hạng, mầu mỡ phì nhiêu. Loại ruộng thứ hai tốt trung bình. Loại ruộng thứ ba ở đồng hoang xa xôi, lẫn cát, muối mặn. Như vậy, những người nông phu nên gieo giống ở loại ruộng nào trước.

Bế Khẩu đáp:

–Ai vì lợi ích đều gieo giống ở ruộng tốt trước để mong muốn thu đạt ích lợi lớn.

Đức Phật hỏi:

–Nếu ruộng tốt không còn thì gieo giống ở ruộng nào?

Bế Khẩu đáp:

–Sau đó là gieo giống ở ruộng trung bình. Sau khi gieo giống khắp ruộng trung bình thì mới gieo giống đến ruộng xấu nhất để mong thu hoạch chút ít về sau.

Đức Phật bảo:

–Ông nên biết ruộng thượng hạng cũng như các đệ tử Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni của Ta. Ta thuyết pháp cho họ, đầu giữa và cuối luôn toàn thiện, câu văn và ý nghĩa đều vi diệu, thành tựu lợi ích cho bản thân, lợi ích hoàn toàn, trong sáng đầy đủ, hiển lộ phạm hạnh. Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni ấy được nghe pháp của Ta rồi, y chỉ nơi Ta, quy y nơi Ta, nương tựa nơi Ta. Ta là thuyền trưởng đưa họ qua sông. Ta làm cho họ mở mắt thấy rõ, sống an lạc. Họ được nghe pháp rồi, bày tỏ: “Đức Phật vì chúng ta giảng dạy, chúng ta cần phải tận tâm tu hành, khiến cho chúng ta được lợi ích lâu dài, được an lạc thật sự”.

Ruộng trung bình như đệ tử Ưu-bà-tắc, Ưu-bàdi của Ta. Ta thuyết pháp cho họ, trước sau đều toàn thiện, câu văn và ý nghĩa đều vi diệu, thành tựu lợi ích cho bản thân, lợi ích hoàn toàn, đầy đủ trong sáng, hiển lộ phạm hạnh. Ưu-bà-tắc, Ưu-bàdi nghe pháp của Ta rồi, y chỉ nơi Ta, quy y nơi Ta, nương dựa nơi Ta. Ta là thuyền trưởng đưa họ qua sông. Ta làm cho họ mở mắt thấy rõ, sống an lạc. Họ được nghe pháp, bày tỏ: “Đức Phật vì ta giảng pháp. Chúng ta cần phải chú tâm tu hành, để cho chúng sanh được lợi ích lâu dài, được thật sự an lạc”.

Ruộng bậc hạ có lẫn cát, muối mặn như ngoại đạo. Ta cũng thuyết pháp cho họ, đầu giữa và cuối toàn thiện... hiển lộ phạm hạnh. Những ngoại đạo ấy đều có thể nghe, ghi nhận, tùy theo sự ưa thích của họ, cho đến chỉ với một câu hiểu được nội dung để hướng đến. Ta cũng vì họ, luôn luôn giúp đỡ tạo lợi ích, để họ thật sự an lạc.

Bế Khẩu nghe lời Phật dạy, thưa:

–Hy hữu thay Đức Cù-đàm! Ngài nói ví dụ thật hoàn toàn chính xác. Đức Phật bảo:

–Để làm sáng tỏ ý nghĩa này, Ta nói thêm ví dụ: Ví như người đời có ba cái bồn để đựng nước. Cái thứ nhất rắn chắc lành lặn, không bị nứt, không bị thấm chảy. Cái thứ hai cũng lành lặn không bị hư, không bị nứt, nhưng bị thấm chảy chút ít. Cái thứ ba vừa bị hư vừa bị thấm rỉ. Có người muốn rót nước vào, nên dùng bồn nào trước?

Đáp: –Đầu tiên rót vào bồn không bị hư, thấm chảy. Sau khi bồn này đầy mới rót qua bồn thứ hai. Bồn này tuy nguyên vẹn không bị hư nhưng có thấm rỉ chút ít. Đức Phật hỏi:

–Bồn thứ hai đầy rồi thì rót vào đâu?

Đáp:

–Bồn thứ ba tuy bị hư, thấm chảy, nhưng có thể rót nước đến chỗ không bị chảy để dùng tạm thời.

Đức Phật nói:

–Bồn thứ nhất dụ cho các đệ tử Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni của Ta. Ta thuyết pháp cho họ ... cho đến... làm cho họ thực sự an lạc.

Bồn thứ hai dụ cho các đệ tử Ưu-bà-tắc, Ưubà-di của Ta. Ta thuyết pháp cho họ ... cho đến... được thật sự an lạc.

Bồn thứ ba dụ cho các ngoại đạo. Ta thuyết pháp cho họ nghe và ghi nhớ nhiều ít…

cho đến... khiến họ được lợi lạc thật sự.

Khi thôn trưởng Bế Khẩu nghe lời Phật dạy, tâm rất kinh sợ, ưu sầu lo lắng, toàn thân nổi gai ốc, đứng lên lạy sát dưới chân Phật, thưa:

–Con xin thành tâm sám hối với Đức Thế Tôn. Con quá ngu si như đức bé khờ, hành động bất thiện, đối trước Đức Phật, nói lời hạ tiện dối trá không thật. Cầu mong Ngài từ bi cho con được sám hối.

Đức Phật bảo ông ta:

–Ông đã chí tâm biết rõ tội mình, biết rõ thật ngu si như đứa bé, hành động bất thiện. Ông trực tiếp nói với Đức Như Lai lời dối trá hư vọng hạ tiện. Nay ông đã biết tội, thành tâm sám hối thì pháp thiện ngày càng tăng trưởng, điều ác bị tiêu diệt. Ta thương cảm ông, cho ông được sám hối, để tăng trưởng pháp thiện, không bị thoái chuyển. Thôn trưởng Bế Khẩu nghe lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành, đảnh lễ từ giã.

131. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong rừng Mại điệp, thuộc thành Na-la-kiện-đà.

Bấy giờ vị thôn trưởng, người họ Kết Tập Luận, suy nghĩ: “Ta không cần đến gặp Ni-kiền, nên đến chỗ Đức Phật”. Nghĩ thế rồi, ông ta đến gặp Đức Phật, sau khi thăm hỏi, ngồi qua một bên. Đức Phật hỏi thôn trưởng Kết Tập Luận:

–Ni-càn-đà-nhã-đề Tử giảng thuyết những pháp gì cho các đệ tử?

Thôn trưởng thưa:

–Bạch Thế Tôn, Ni-càn-đà thường giảng dạy: Ai gây nghiệp giết hại, do giết hại nhiều lần, chắc chắn bị đọa vào cõi ác, đọa địa ngục. Cũng như vậy, trộm cắp, tà dâm, nói dối... do làm nhiều lần phải đọa địa ngục.

Đức Thế Tôn bảo thôn trưởng:

–Theo như chủ thuyết của Ni-càn-đà thì không có chúng sanh nào bị đọa xứ ác, địa ngục cả. Tại sao? Như Ni-càn-đà giảng dạy ai gây nghiệp sát hại nhiều lần phải bị đọa xứ ác, địa ngục. Ai gây nghiệp trộm cắp, tà dâm, nói dối... cũng như vậy. Trong đời sống, tất cả chúng sanh dùng thời gian sát hại thì ít, thời gian không sát hại thì nhiều. Nếu cho rằng do nhiều thời gian sát sanh mới bị đọa địa ngục. Trong khi đó thời gian để sát sanh thì ít, thời gian không sát sanh thì nhiều. Thế nên không thể nào bị đọa vào xứ ác địa ngục. Đối với trộm cắp, tà dâm, nói dối… cũng như vậy, thời gian để gây nghiệp thì ít, thời gian không gây nghiệp thì nhiều, tất nhiên không thể nào bị đọa vào xứ ác, địa ngục.

Đức Phật lại bảo thôn trưởng:

–Như vậy, theo lời ông nói, không có người nào bị đọa địa ngục cả.

Thôn trưởng bạch Phật:

–Thưa Đức Cù-đàm, đúng như vậy.

Đức Phật bảo thôn trưởng:

–Ở thế gian có những đạo sư với khả năng suy nghĩ khéo léo, với trí tuệ phân biệt, trên cơ sở suy nghĩ ấy, trong phạm vi phàm phu, dùng ngôn ngữ biện tài của mình, thuyết giảng cho các đệ tử về pháp như thế này: “Ai tạo nghiệp sát sanh nhiều lần phải bị đọa xứ ác, địa ngục. Bởi vì nhiều thời gian tạo nghiệp nên bị đọa địa ngục. Đối với trộm cắp, tà dâm, nói dối cũng vậy, do nhiều thời gian tạo nghiệp nên bị rơi vào xứ ác, địa ngục”.

Các đệ tử của họ nhất tâm tín kính lời dạy của vị thầy ấy, chí tâm thọ trì, và bày tỏ: “Vị đạo sư của ta hiểu biết như thế kia, nhận thức như thế kia”.

Đến lượt các đệ tử này dạy các đệ tử của mình cũng giảng nói: “Đạo sư của ta đã nói rằng khi người nào sát sanh, do nhiều lần sát sanh bị đọa xứ ác, địa ngục”. Các đệ tử hạng cháu, tự nghĩ: “Trước đây ta sát sanh, chắc chắn phải bị đọa địa ngục. Trộm cắp, tà dâm và nói dối chắc chắn bị đọa xứ ác và rơi vào địa ngục”. Từ nguyên nhân trên phát sanh nhận thức này. Nhận thức đó gọi là tà kiến. Ai không xả bỏ tà kiến ấy thì không giải trừ được nghi hoặc, không tu sửa việc ác đã làm. Do nghiệp ác này thường tạo thêm các nghiệp ác. Vì tâm không được sửa đổi đầy đủ nên không có được tâm giải thoát hoàn toàn, tuệ giải thoát hoàn toàn. Vì không có tâm giải thoát, tuệ giải thoát hoàn toàn nên phỉ báng Hiền thánh. Do phỉ báng Hiền thánh nên gọi là tà kiến.

Đức Phật bảo thôn trưởng:

–Nếu có ai sanh tà kiến ấy thì chắc chắn đọa xứ ác, địa ngục. Tất cả chúng sanh do có nguyên nhân này làm tâm cấu bẩn nhiễm ô. Do nguyên nhân ấy khiến cho chúng sanh có tất cả nghiệp trói buộc.

Có Đức Phật Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, A-la-ha Tam-miệu-tam Phật-đà ra đời. Ngài dùng nhiều cách để chê trách việc sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối... Ngài tán dương người có thắng pháp, có tin hiểu, xác quyết đúng đắn.

Họ bạch với Phật:

–Thế Tôn của con với tri kiến chân chánh thuyết giảng các loại giáo pháp, làm cho con được hiểu biết đúng như thật. Đệ tử của Ngài cũng giảng pháp như vậy, bằng nhiều nhân duyên chê trách sát sanh, tán dương không sát sanh, dùng nhiều nhân duyên tán dương không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ. Trước đây ta đã từng sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối... Ta vì sự việc này thường tự hối trách. Tự hối trách nên không gây thêm nghiệp ác. Do rất hối trách nghiệp ác này bằng cách sám hối, nên các nghi, hối đều được trừ diệt, tăng trưởng nghiệp thiện, không còn tiếp tục sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối... Sám hối những điều đã làm trước đây và sau này không còn gây nghiệp ác nữa. Vì thực hiện như vậy nên đạt được đầy đủ tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Do tâm và tuệ đầy đủ nên không phỉ báng Hiền thánh. Do không phỉ báng Hiền thánh nên được chánh kiến.

Đức Phật bảo thôn trưởng:

–Nhờ thường tu tập chánh kiến nên sau khi qua đời được đi vào xứ thiện, sanh lên cõi Trời. Tâm tất cả chúng sanh được thanh tịnh nhờ thường sám hối với chánh kiến. Sám hối làm cho thanh tịnh các nghiệp ác buộc với phiền não, tội lỗi cấu uế của chúng sanh.

Đệ tử của bậc Hiền thánh nghe được việc này liền quan sát tu tập: “Trong suốt ngày đêm, giờ phút giây đã trôi qua, thời gian giết hại nhiều hay thời gian không giết hại nhiều? Suy luận cho chính xác thì thời gian sát hại ít, thời gian không sát hại nhiều. Trong thời gian ta hành động sát hại, ta thật bất thiện, hành động phi lý. Từ nay về sau ta không sát sanh nữa. Ta đối với tất cả các loài không còn hiềm khích, hận thù, đố kỵ nữa. Do vậy nên sanh tâm hoan hỷ, sanh tâm hoan hỷ nên ái lạc phát sanh, do ái lạc sanh nên được hỷ lạc, do hỷ lạc sung mãn nên thọ hưởng an lạc, do thọ hưởng an lạc nên tâm được an định”.

Đệ tử của bậc Hiền thánh vì tâm được định nên kết hợp với tâm Từ. Đã kết hợp với tâm Từ thì không oán hận, không đố kỵ, tâm quảng đại, tâm vượt xa vô lượng, vô biên. Do tu tâm Từ một cách thiện xảo nên đối với tất cả chúng sanh ở hướng Đông không có oán hận. Phương Nam, Tây, Bắc bốn hướng và trên dưới cũng như vậy. Tâm Từ bao trùm khắp cả thế giới.

Đệ tử của bậc Hiền thánh hiểu biết như thế rồi phải tu hành theo tâm thiện này, trụ trong pháp thiện này.

Bấy giờ Thế Tôn lấy chút ít đất đặt trong móng tay, hỏi thôn trưởng:

–Đất trên mặt đất nhiều hay đất trong móng tay Ta nhiều?

Thôn trưởng đáp:

–Đất trong móng tay quá ít, không thể so sánh với đất trên mặt đất, đến gấp trăm lần, ngàn lần, ngàn ức lần cũng không thể tỉ dụ so sánh được.

Đức Phật bảo thôn trưởng:

–Những tội do nghiệp đã tạo tác như đất trên móng tay, tâm Từ như đất trên đại địa, không thể lường được bằng tính toán, ví dụ.

Thôn trưởng thưa:

–Đúng vậy, đúng vậy! Nghiệp ác có thể so sánh tính toán được. Với nghiệp ác hạn hẹp như vậy không thể đưa người vào cõi ác đạo. Cũng không thể trụ, cũng không thể tính kể. Phàm người hành tâm Từ thì công đức đạt được như đất ở đại địa, tội sát sanh như đất trên móng tay. Công đức của tâm Bi như đất trên đại địa, tội trộm cắp như đất trên móng tay. Công đức của tâm Hỷ như đất trên đại địa, tội tà dâm như đất trên móng tay. Công đức của tâm Xả như đất trên đại địa, tội nói dối như đất trên móng tay.

Khi Đức Như Lai phân biệt giảng dạy pháp này, vị thôn trưởng nghe lời Phật dạy liền xa lìa bụi bặm cấu uế đạt được nhãn thanh tịnh, chứng pháp, thấy pháp, tri pháp, thông suốt các pháp, vượt qua các nghi hoặc, tự mình thấu triệt, không phải do tin người khác. Ông ta rời chỗ ngồi, sửa lại y phục, chắp tay bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, con đã được độ, con đã được độ. Con xin quy y Phật, quy y Pháp, Tăng, trọn đời tín tâm thanh tịnh làm vị Ưu-bà-tắc.

Thôn trưởng lại bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, ai vì lợi dưỡng nên mắng chửi thô ác, ngày càng tăng thêm ác, tài sản của mình đã mất thì làm sao được lợi ích. Con cũng như vậy, vì lợi lộc nên thân cận Ni-kiền ngu si, bất thiện. Con vì ngu si khờ dại nên thân cận họ, cúng dường cung kính. Với họ, con không được lợi ích gì, bị họ che đậy, sắp bị đọa địa ngục. Thế Tôn đã cứu con thoát ly cõi ác. Lần nữa con xin quy y Phật, Pháp, Tăng, trọn đời làm Ưu-bà-tắc. Nay con từ bỏ tất cả tâm tin tưởng, kính ngưỡng, tôn trọng trước đây đối với Ni-kiền ngu si. Lần thứ ba, con xin quy y Phật, Pháp, Tăng bảo, trọn đời tín ngưỡng làm vị Ưu-bà-tắc.

Khi ấy thôn trưởng họ Tạo Luận nghe lời Phật dạy, hoan hỷ đảnh lễ rồi từ giã.

Kệ tóm lược:

Động dao và đấu tranh
Điều mã với ác tánh
Đảnh phát cùng Mâu-ni
Vương phát và họ Lư
Đói kém với ruộng giống
Thuyết luận gì là mười.

QUYỂN 8

132. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ, vào giữa đêm, có một vị trời với hào quang rực rỡ đến chỗ Đức Phật, lạy sát dưới chân, ngồi qua một bên. Ánh sáng của vị trời ấy chói lọi, chiếu sáng khắp cả Kỳ viên. Vị trời ấy sau khi an trụ, nói kệ:

Sống ở A-lan-nhã
Tịch diệt, tu phạm hạnh
Ngày chỉ ăn một bữa
Dung mạo rất hoan hỷ.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Không sầu nhớ quá khứ
Không lo cầu vị lai
Chánh trí hiện tại, ăn
Chỉ để nuôi thân thể
Sáu tình đều vui vẻ
Nên dung mạo nhu hòa.
Lo lắng việc chưa đến
Hối tiếc việc đã qua
Như cỏ non mới mọc
Bị cắt phơi giữa trưa
Phàm phu tự phơi khô
Việc này cũng như vậy.

Vị trời lại nói kệ tán thán:

Thuở xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Từ lâu bỏ ghét sợ
Vượt tham ái thế gian.

Vị trời ấy nói kệ xong, hoan hỷ trở về Thiên cung.

133. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào giữa đêm có vị trời hào quang rực rỡ khác thường, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, lạy sát dưới chân Ngài rồi ngồi qua một bên, bạch Phật bằng kệ:

Có những kẻ kiêu mạn
Không chế ngự các căn
Giả dạng tu thiền định
Sống phóng dật trong rừng
Do phóng dật như vậy
Không thể thoát bờ chết.

Thế Tôn nói kệ:

Lìa mạn, thường nhập định
Quán tưởng biết rõ pháp
Giải thoát hết trở ngại
Rừng vắng, không phóng dật
Do sống không phóng dật
Vượt qua khỏi bờ chết.

Vị trời nói kệ khen:

Thuở xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Vứt bỏ sợ và ghét
Vượt qua ái ở đời.

Vị trời này nói kệ xong, hoan hỷ trở về Thiên cung.

134. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào giữa đêm có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát dưới chân rồi ngồi qua một bên, nói kệ:

Làm sao suốt ngày đêm
Phước nghiệp thường tăng trưởng
Trì giới đúng như pháp
Ai đến được cõi thiên?

Đức Thế Tôn nói kệ:

Trồng cây, gây vườn rừng
Làm cầu đò qua sông
Đào giếng nơi đồng khô
Làm nhà trọ đường chính
Người này suốt ngày đêm
Phước nghiệp thường tăng trưởng.
Người trì giới chánh pháp
Đúng vậy, hưởng cõi trời.

Vị trời tán thán:

Thuở xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Bỏ hẳn ganh tị, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ trở về Thiên cung.

135. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào giữa đêm có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, ngồi qua một bên, nói kệ:

Làm gì được sức mạnh,
Làm gì được sắc đẹp,
Cho gì được an lạc
Duyên gì được mắt tịnh?
Cho tất cả là gì?
Xin vì con giảng dạy.

Đức Phật nói kệ đáp:

Cho ăn uống được sức
Cho áo được sắc đẹp
Cho xe được an lạc
Cho đèn được mắt sáng
Cho tất cả chỗ ở
Dạy đệ tử đúng pháp
Thường bố thí như vậy
Gọi là thí cam lộ.

Vị trời tán thán:

Thuở xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Xả lìa hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ trở về cung.

136. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào giữa đêm, có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường chiếu sáng cả Kỳ viên, đến gặp Phật, lạy sát chân Ngài, ngồi qua một bên, nói kệ:

Trời, người trong thế gian
Ăn uống sanh vui mừng
Trong thế gian không có
Ăn uống không vui thích.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Ai tín tâm bố thí
Khiến tâm rất thanh tịnh
Đời này và đời sau
Phước ăn uống theo luôn.

Vị trời ấy nghe lời Phật dạy, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thật là hy hữu! Ngài nói kệ này rất hay! Bạch Thế Tôn, con nhớ thời quá khứ có một vị vua ở cõi người, tên là Trì Hoãn, vị Quốc vương này thường bố thí thức ăn uống ở bốn cửa thành và chợ búa trong thành.

Phu nhân của vua tâu với vua: −Nay nhà vua làm phước, xin cho phép chúng thiếp hỗ trợ theo vua làm phước.

Nhà vua nghe tâu, đem thức ăn để bố thí ở cửa thành phía Đông giao lại cho phu nhân.

Thái tử của vua cũng tâu lên phụ vương: −Cha mẹ tu tập phước đức, con cũng muốn làm theo.

Nhà vua nghe tâu, đem thức ăn để bố thí ở cửa thành phía Nam giao lại cho Thái tử.

Sau đó, phụ tướng tâu lên vua:

–Nay nhà vua, phu nhân, thái tử đều làm phước nghiệp. Xin cho phép hạ thần được hỗ trợ công việc ấy.

Nhà vua nghe tâu, đem thức ăn để bố thí ở cửa thành phía Tây giao lại cho quan phụ tướng.

Khi ấy, quần thần cùng tâu vua:

–Phu nhân, thái tử, quan phụ tướng đều tu tập phước đức, chúng hạ thần muốn hổ trợ công việc này.

Nhà vua nghe tâu, bèn đem thức ăn để bố thí ở cửa thành phía Bắc giao lại cho quần thần.

Lúc ấy dân chúng trong nước lại tâu vua:

−Phu nhân, thái tử, phụ tướng, quần thần đều tu phước đức, xin cho phép chúng thần được tu tập phước nghiệp.

Nhà vua nghe tâu lại đem của bố thí giao cho dân chúng. Khi ấy người quản lý việc bố thí tâu vua:

−Sở hữu của vua để bố thí ở bốn cửa thành đều giao lại cho phu nhân, thái tử, phụ tướng, đại thần, dân chúng trong nước, như vậy sự bố thí ấy đã cắt đứt công việc bố thí của vua và làm kiệt quệ kho tàng. Nhà vua liền ra lệnh:

–Những vật đã xuất thì đem cho hết. Từ nay về sau những vật tiến cống của các nước nhỏ ở phương khác, một nửa nhập kho tàng, một nửa dùng bố thí, tu phước.

Bạch Thế Tôn, bây giờ con luôn luôn làm phước, con luôn luôn được quả báo đầy đủ, thường được hỷ lạc, được thọ hưởng phước báo vô cùng tận, không thấy giới hạn. Theo như quả báo lớn con đã thọ nhận được, mới biết Thế Tôn nói kệ này thật hoàn toàn.

Bấy giờ thiên tử Trì Hoãn nghe lời Phật dạy, vô cùng hoan hỷ, đảnh lễ sát chân Phật, rồi trở về Thiên cung.

137. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào giữa đêm, có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Phật, lạy sát chân Ngài, ngồi qua một bên, nói kệ:

Đi xa đến nước khác
Lấy ai làm người thân
Trong đời sống gia đình
Lấy ai làm người thân
Trong vấn đề tài sản
Lấy ai làm bạn thân
Và khi đến đời sau
Lấy ai làm người thân?

Khi ấy Thế Tôn nói kệ:

Ai đi đến nước khác
Bạn đường là người thân,
Sống trong gia đình mình
Mẹ hiền là chí thân
Trong kinh doanh tài lợi
Quyến thuộc là thân hữu
Phước đức người thường tu
Là bạn thân đời sau.

Vị trời tán thán:

Thuở xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Từ bỏ, ghét và sợ
Vượt qua ái thế gian.

Bấy giờ vị trời nghe lời Phật dạy, hoan hỷ từ giã.

138. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào giữa đêm, có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến chỗ Đức Phật, ngồi qua một bên, bạch Phật:

Tuổi thọ người không định
Từng ngày về đường chết
Bị vô thường cướp đoạt
Mạng sống quá ngắn ngủi.
Già đến giết trẻ đẹp
Không ai có thể cứu
Lo sợ hướng về chết
Làm phước đến cõi vui.

Thế Tôn nói kệ đáp:

Tuổi thọ người bất định
Từng ngày đi đường chết
Bị vô thường cướp đoạt
Mạng sống quá ngắn ngủi.
Già đến cướp trẻ đẹp
Không có ai cứu được
Lo sợ hướng về chết
Muốn được vui tịch diệt
Nên bỏ năm dục lạc
Không được tham đắm nữa.

Vị trời tán thán bằng kệ:

Thuở xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Từ bỏ hẳn ghét sợ
Vượt hẳn ải thế gian.

Vị trời nghe lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành, rồi từ giã.

139. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào giữa đêm, có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường chiếu sáng khắp khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, ngồi qua một bên, bạch Phật:

Bốn mùa trôi qua mãi
Mạng sống cạn theo ngày
Tráng niên không dừng lâu
Sợ hãi chết đến nơi
Vì hướng đến Niết-bàn
Phải siêng năng tu phước.

Thế Tôn nói kệ đáp:

Bốn mùa trôi qua mãi
Mạng sống cạn theo ngày
Tráng niên không ngừng lại
Sợ hãi chết đến nơi
Thấy được khổ sanh tử
Nên sanh tâm sợ hãi
Bỏ năm dục ở đời
Nên cầu nơi giải thoát.

Vị trời nói kệ:

Thuở xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Từ bỏ hẳn ghét sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời này nghe lời Phật dạy, hoan hỷ từ giã.

140. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào giữa đêm, có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường chiếu sáng khắp khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, ngồi qua một bên, bạch Phật bằng kệ:

Chánh tư duy pháp gì?
Nên vứt bỏ pháp gì?
Tu hành thắng sự gì?
Thành tựu những điều gì?
Vượt qua dòng nước mạnh
Được gọi là Tỳ-kheo?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Ai đoạn trừ năm che
Vứt bỏ hẳn năm dục
Tu năm căn tăng trưởng
Thành tựu năm phần pháp
Vượt qua dòng nước mạnh
Được gọi là Tỳ-kheo.

Vị trời tán thán:

Thuở xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Từ bỏ hẳn ghét sợ
Vượt hẳn ái thế gian.

Vị trời nghe lời Phật dạy, hoan hỷ từ giã.

141. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào giữa đêm, có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường chiếu sáng khắp cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, ngồi qua một bên, bạch Phật:

Ai ngủ gọi là thức
Ai thức nhưng là ngủ
Nhiễm trần cấu là gì
Thế nào được thanh tịnh?

Đức Phật nói kệ đáp:

Người nào giữ năm giới
Tuy ngủ gọi là thức
Ai làm năm điều ác
Tuy thức gọi là ngủ
Ai bị năm ấm che
Gọi là nhiễm trần cấu
Chứng năm phần vô học
Là thanh tịnh lìa bụi.

Vị trời nói kệ tán thán:

Thuở xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Từ bỏ hẳn ghét sợ
Vượt hẳn ái thế gian.

Vị trời nghe lời Phật dạy hoan hỷ từ giã.

Kệ tóm tắt:

A-luyện-nhã, kiêu mạn
Tu phước ngày đêm tăng
Làm sao được sức mạnh
Vật gì sanh hoan hỷ
Viễn chí, cường thân bức
Ngày đêm có tổn giảm
Tư duy và ngủ thức.

142. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào giữa đêm, có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến chỗ Đức Thế Tôn, ngồi qua một bên, nói kệ:

Người nào có con cháu
Thì sống được hoan hỷ
Có của báu, vật nuôi
Thì cũng được hoan hỷ
Khi người nào thọ thân
Thì cũng được hoan hỷ
Người nào thấy không thân
Thì tâm không hoan hỷ.

Thế Tôn nói kệ đáp:

Người nào có con cháu
Thì thường sanh phiền não
Của báu và vật nuôi
Đều là gốc khổ não
Khi người nào thọ thân
Thời còn khổ ưu não
Nếu ai không thọ thân
Thì sống vui tịch diệt.

Vị trời nói kệ tán dương:

Thuở xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Từ bỏ hết ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nghe lời Phật dạy, hoan hỷ từ giã.

143. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

–Trên đời có ba loại ngựa chưa được điều phục, mà tất cả mọi người đều biết. Có loại ngựa chạy nhanh, không có sắc đẹp, không đủ khả năng để vận tải. Lại có loại ngựa chạy nhanh, có sắc đẹp, không đủ khả năng để vận tải. Có loại ngựa tốt, chạy nhanh, có sắc đẹp, lại có đủ khả năng để chuyên chở. Có ba hạng người như ba loại ngựa chưa được điều phục.

Ba hạng này biểu hiện cho tri kiến của họ trong giáo pháp của Đức Phật. Thế nào là ba?

Có người đủ khả năng chạy nhanh, không có sắc đẹp, không có khả năng vận tải. Có người đủ khả năng chạy nhanh, sắc đẹp đầy đủ nhưng không có khả năng vận tải.

Có người có khả năng chạy nhanh, sắc đẹp, khả năng vận tải đều đầy đủ.

Hạng người nào đủ khả năng chạy nhanh, không đầy đủ sắc đẹp, không có khả năng vận tải? Sống trong giáo pháp, có người như thật tri về khổ, như thật tri về nguyên nhân của khổ, như thật tri về khổ diệt, như thật tri về con đường đưa đến khổ diệt. Với tri kiến này, họ đoạn trừ ba kết sử là thân kiến, giới cấm thủ và nghi. Sau khi đoạn trừ ba kết sử này, họ đắc quả Tu-đà-hoàn, không còn đọa vào xứ ác, đã quyết định với đạo, chỉ còn sanh tử trong các cõi Trời, Người bảy lần là chấm dứt cảnh giới khổ. Đây gọi là hạng có khả năng chạy nhanh.

Hạng người nào không đầy đủ sắc đẹp?

Người được hỏi về A-tỳ-đàm, Tỳ-ni thì không hoàn toàn thông suốt. Họ không thể hiểu và giải thích câu hỏi sâu xa, không thể giảng thuyết với câu và ý nghĩa tương ứng, không thể thuyết minh đầy đủ, đúng lý. Đây gọi là người không đầy đủ sắc đẹp.

Thế nào gọi là hạng không vận tải đầy đủ?

Hạng người ít phước đức, sống trong hoàn cảnh không có phước đức, không được lợi dưỡng về y phục, ẩm thực, ngọa cụ, y dược. Đây là hạng không vận tải đầy đủ.

Trên đây là hạng có khả năng chạy nhanh, không đầy đủ sắc đẹp và không vận tải đầy đủ. Thế nào là hạng đủ khả năng chạy nhanh, đầy đủ sắc đẹp, nhưng không vận tải đầy đủ?

Hạng đủ khả năng chạy nhanh là gì?

Sống trong giáo pháp, có người như thật tri về khổ, như thật tri về khổ tập, như thật tri về khổ diệt, như thật tri về con đường đưa đến khổ diệt. Với tri kiến này, họ đoạn trừ ba kết sử, đó là thân kiến, giới cấm thủ và nghi. Sau khi đoạn trừ ba kết sử này, họ chứng quả Tu-đà-hoàn, không còn đọa vào xứ ác, đã quyết định với đạo, chỉ còn sanh tử trong cõi Trời, Người bảy lần là chấm dứt cảnh giới khổ. Đây là hạng đủ khả năng chạy nhanh.

Thế nào là hạng đầy đủ sắc đẹp?

Khi được vấn nạn về A-tỳ-đàm, Tỳ-ni, họ đủ khả năng giải thích với văn từ và ý nghĩa thích ứng, phô diễn hợp lý. Đây là hạng đầy đủ về sắc đẹp.

Thế nào là hạng vận tải không đầy đủ?

Hạng người ít phước đức, sống trong hoàn cảnh không có phước đức, không được lợi dưỡng về y phục, thức ăn, ngọa cụ và thuốc thang. Đây là hạng đầy đủ việc chạy nhanh, đầy đủ sắc đẹp, nhưng không vận tải đầy đủ.

Thế nào là hạng có sức chạy nhanh, có sắc đẹp, khả năng vận tải đầy đủ?

Hạng nào là có sức chạy nhanh?

Trong giáo pháp này, người như thật tri về khổ, như thật tri về tập, như thật tri về khổ diệt, như thật tri về con đường đưa đến khổ diệt. Với tri kiến như thật này, họ đoạn trừ ba kết sử, đắc quả Tuđà-hoàn, chỉ bảy lần sanh lại trong cõi trời, người, không còn đọa vào xứ ác. Đây gọi là hạng có đủ sức chạy nhanh.

Hạng nào là có đầy đủ sắc đẹp? Nếu có người vấn nạn về A-tỳ-đàm, Tỳ-ni, họ có khả năng giải thích thông suốt, văn nghĩa khế hợp nhau, trình bày hợp lý. Đây gọi là hạng đầy đủ sắc đẹp.

Hạng nào vận tải đầy đủ? Hạng người có nhiều phước đức, sống trong cảnh có nhiều phước đức, thường được lợi dưỡng về y phục, thức ăn, ngọa cụ, thuốc thang. Đây gọi là hạng vận tải đầy đủ. Đấy gọi là hạng đầy đủ cả ba phương diện: chạy nhanh, sắc đẹp và vận tải.

Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

144. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Trên đời có ba loại ngựa được huấn luyện thuần thục. Có loại ngựa đầy đủ sức khỏe, chạy nhanh nhưng không đầy đủ về sắc đẹp và vận tải. Có loại ngựa đầy đủ sức chạy nhanh, sắc đẹp nhưng không đầy đủ về vận tải. Có loại ngựa đầy đủ cả ba việc ấy.

Có ba hạng người khác nhau như ba loại ngựa trên. Ba hạng này được biểu hiện bằng tri kiến của họ trong Phật pháp.

Có người đầy đủ sức chạy nhanh, nhưng sắc đẹp và khả năng vận tải không đầy đủ. Có người đầy đủ hai điều kiện sau nhưng không đầy đủ điều kiện thứ nhất. Có người đầy đủ cả ba điều kiện.

Người nào đầy đủ điều kiện một, không đầy đủ hai điều kiện sau?

Trong Phật pháp có người như thật tri về khổ, như thật tri về khổ tập, như thật tri về khổ diệt, như thật tri về con đường đưa đến khổ diệt, đoạn năm hạ phần kết, đắc quả A-na-hàm. Người này không còn trở lại, không còn đọa vào xứ ác.

Thế nào là không đầy đủ sắc đẹp?

Có người vấn nạn về A-tỳ-đàm, Tỳ-ni, họ không thể giải thích với văn và nghĩa hợp lý, không thể trình bày thích đáng. Đây gọi là sắc đẹp không đầy đủ.

Thế nào là vận tải không đầy đủ?

Người có ít phước đức, đời sống không thuận tiện, không có phước đức lớn, không được lợi dưỡng về y phục, ăn uống, ngọa cụ, thuốc thang. Đây gọi là không đầy đủ điều kiện vận tải.

Thế nào là hạng thứ hai? Đầy đủ hai điều kiện đầu, không đầy đủ điều kiện thứ ba?

Hạng người này ở trong Phật pháp thấy bốn Chân đế, cho đến đoạn trừ năm hạ phần kết, đắc A-na-hàm. Có người vấn nạn về A-tỳ-đàm, Tỳ-ni, họ có khả năng diễn giải thuyết minh. Ngoài ra như đã trình bày ở trên. Điều kiện thứ ba không đầy đủ như trình bày ở trên. Đây là hạng thứ hai, đầy đủ hai điều kiện trên, không đầy đủ điều kiện thứ ba.

Thế nào là hạng thứ ba đầy đủ cả ba điều kiện? Người này ở trong Phật pháp đã như thật tri về kiến về bốn Chân đế, đắc quả A-na-hàm... cho đến có nhiều phước đức, được nhiều lợi dưỡng. Đây là hạng thứ ba đầy đủ cả ba điều kiện.

Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

145. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

–Trong thế gian đã có ba loại ngựa đã được điều phục hoàn toàn. Người cũng có ba hạng như vậy.

Hạng thứ nhất đầy đủ một trong ba mặt: chạy nhanh, sắc đẹp, vận tải. Có người sống trong Phật pháp như thật tri về bốn Chân đế, đã đoạn trừ ba lậu; là dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, đầy đủ giải thoát tri kiến, đoạn tận các hữu kết, tâm được tự tại, sanh tử đã tận, phạm hạnh đã lập, việc đã làm xong, không thọ thân sau, đắc A-la-hán. Đây là đầy đủ về chạy nhanh. Ngoài ra như đã nói ở trên.

Thế nào là hạng thứ hai đầy đủ mặt một và hai, không đầy đủ mặt thứ ba?

Có người ở trong Phật pháp như thật tri về kiến về bốn Thánh đế... cho đến đắc A-la-hán. Nếu có người hỏi, trả lời thông suốt ... như trên...

Thế nào là hạng thứ ba, đầy đủ cả ba mặt?

Người này ở trong Phật pháp như thật tri về kiến về bốn Thánh đế,... cho đến có phước đức... được lợi dưỡng,... đây gọi là ba sự việc đều đầy đủ.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

146. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Có ba loại ngựa được khéo huấn luyện để cỡi, xứng đáng được vua và vương tử cỡi. Thế nào là ba loại? Đó là đầy đủ về chạy nhanh, đầy đủ về sắc đẹp, đầy đủ về vận tải.

Có ba hạng Tỳ-kheo cũng như ba loại ngựa kia. Tỳ-kheo nào đầy đủ ba việc, đáng được lễ bái, cúng dường, tán thán. Đây gọi là đầy đủ ba việc.

Thế nào là đầy đủ về sắc đẹp?

Tỳ-kheo nào trì giới đầy đủ, hộ trì hoàn toàn Ba-la-đề-mộc-xoa, qua lại, ra vào, đầy đủ các uy nghi, tâm sợ hãi đến những tội lỗi nhỏ nhặt, kiên trì về giới luật, không có vi phạm. Đây gọi là đầy đủ sắc đẹp.

Thế nào là đầy đủ về sức lực?

Tỳ-kheo nào đối với pháp ác chưa sanh, làm cho không sanh; pháp ác đã sanh, làm cho tiêu diệt; pháp thiện chưa sanh, làm cho phát sanh; pháp thiện đã sanh làm cho tăng trưởng. Đây gọi là đầy đủ sức lực.

Thế nào là đầy đủ về chạy nhanh?

Tỳ-kheo nào ở trong Phật pháp đã như thật tri về kiến về bốn chân đế, đây gọi là đầy đủ về chạy nhanh.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

147. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Có bốn loại ngựa hay, xứng đáng để hàng vương giả cỡi. Thế nào là bốn? Được điều phục hoàn toàn, chạy nhanh, kham nhẫn ở yên, không đá lộn.

Tỳ-kheo thành tựu bốn đức tánh như vậy, xứng đáng được mọi người quy y, cúng dường, lễ bái, chắp tay cung kính là phước điền vô thượng trong thế gian. Thế nào là bốn? Đó là được điều phục hoàn toàn, nhanh nhẹn, kham nhẫn an định, không tán loạn.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy hoan hỷ phụng hành.

148. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Có bốn loại ngựa đáng để người hiền cỡi, có mặt trong thế gian này. Thế nào là bốn?

Loại thứ nhất: Thấy bóng roi giơ lên liền kinh sợ, tùy ý người điều khiển.

Loại thứ hai: Roi vừa chạm vào lông trên thân liền kinh sợ, tùy ý người điều khiển.

Loại thứ ba: Roi chạm đến thịt thì sợ, tùy ý người điều khiển.

Loại thứ tư: Roi buốt đến thịt xương sau đó mới kinh sợ, tùy ý người điều khiển.

Bậc trượng phu cũng có bốn hạng. Thế nào là bốn?

Hạng thứ nhất: Nghe ở thôn xóm khác có người nam hay nữ bị bệnh nặng, rất đau khổ đến gần chết; nghe nói như vậy, người này đối với pháp thế tục nhàm chán, biết rõ, do nhàm chán nên chí tâm tu tập pháp thiện. Đây gọi là hạng trượng phu được điều thuận, như ngựa thấy bóng roi liền theo ý người điều khiển.

Hạng thứ hai: Nghe ở trong xóm làng của mình có người nam hay nữ bị bệnh nặng đến gần chết rồi qua đời; thấy sự việc này rồi, người ấy sanh tâm nhàm chán, do nhàm chán nên chí tâm tu tập pháp thiện. Đây gọi là hạng trượng phu được điều thuận, như ngựa bị roi vừa chạm vào lông thân liền tùy ý người điều khiển.

Hạng thứ ba: Tuy thấy trong làng xóm mình có người bị bệnh, chết vẫn không sanh tâm nhàm chán, nhưng khi thấy thân thuộc, bạn bè, người hỗ trợ mình bị bệnh quá nặng, cho đến qua đời, sau đó mới sanh tâm nhàm chán thế gian. Do nhàm chán nên siêng năng tu hành hạnh thiện. Đây là hạng trượng phu được điều thuận như ngựa bị roi chạm vào thịt liền theo ý người điều khiển.

Hạng thứ tư: Tuy thấy bà con thân thuộc, bạn bè bị bệnh qua đời, vẫn không sanh lòng nhàm chán, nhưng khi tự thân bị bệnh rất nguy kịch, rất đau đớn, quá đau khổ, không vui chút nào, sau đó mới sanh tâm nhàm chán. Do tâm nhàm chán, tu hành các hạnh thiện. Đây là bậc trượng phu như ngựa bị roi đánh buốt vào xương cốt mới theo ý người điều khiển.

Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

149. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Ngựa có tám tánh xấu, cả thế gian đều biết và thấy trong hiện tại. Những gì là tám?

Thứ nhất: Khi người cỡi ngựa, giật dây cương điều khiển bằng roi để đi đường xa thì ngựa dữ này cắn ngàm, nhảy vòng vòng, bứt dây cương, phá nát dụng cụ để cỡi, làm thân thể bị tổn thương. Đây là tánh xấu của ngựa.

Thứ hai: Khi được người cỡi, ngựa dữ này không tiến tới, nhảy vọt lên, không chịu sự khống chế, phá nát dụng cụ cỡi ngựa.

Thứ ba: Khi được người cỡi, không chịu đi trên đường lộ, nhảy bừa vào hào, vào hố.

Thứ tư: Khi được người cỡi, không chịu tiến tới lại chạy thụt lui.

Thứ năm: Không biết sợ đau đớn chút nào với roi vọt của người điều khiển.

Thứ sáu: Khi bị người cỡi điều khiển bằng roi, ngựa nhảy chồm lên đứng bằng hai chân.

Thứ bảy: Người cỡi muốn ngựa chạy, nó lại nằm lăn ra đất, không chịu chạy tới.

Thứ tám: Người cỡi muốn ngựa đi, nó lại đứng yên.

Những người tu học trong Phật pháp cũng có tám lỗi như vậy. Thế nào là tám?

Thứ nhất: Tỳ-kheo nào được vị đồng phạm hạnh đem việc thấy, nghe, nghi để cảnh giác cho, liền bảo với vị kia rằng: “Hiện nay ông còn nhỏ, không trí tuệ, không hoàn thiện, không hiểu rõ, hãy đi cảnh giác người khác, tại sao lại muốn cảnh giác ta? Ông đã có lỗi còn đi nêu việc của người khác ra”. Tỳ-kheo như vậy giống như loại ngựa thứ nhất.

Thứ hai: Vị đồng phạm hạnh thấy Tỳ-kheo có tội về kiến, văn, nghi nên nhắc bảo với người có tội rằng: “Hiện nay ông đã phạm tội như thế”. Khi ấy người có tội lại bảo với vị kia: “Hiện nay ông cũng đã phạm tội như vậy, hãy sám hối đi rồi mới nêu tội tôi lên”. Người như vậy có những lỗi lầm như loại ngựa thứ hai.

Thứ ba: Tỳ-kheo nào có tội về kiến, văn, nghi, bị người khác nêu ra, liền nói quanh co, tùy theo nơi ái, sân, sợ, si mà tâm sanh phẫn nộ. Người như vậy có lỗi như loại ngựa thứ ba.

Thứ tư: Tỳ-kheo nào có tội về kiến, văn, nghi, bị người khác nêu lên, liền bảo người cử sự: “Về việc phạm tội ấy, tôi không nhớ gì cả”. Nên biết người này có lỗi như loại ngựa thứ tư.

Thứ năm: Tỳ-kheo nào phạm vào tội về kiến, văn, nghi, bị vị đồng phạm hạnh đến nêu tội ấy ra. Khi đó người phạm tội thu xếp y bát tự ý bỏ đi nơi khác, tâm không nể sợ chúng Tăng và người cử sự gì cả. Nên biết người này có lỗi như loại ngựa thứ năm.

Thứ sáu: Tỳ-kheo nào phạm tội về kiến, văn, nghi, bị đồng phạm hạnh cử tội ấy lên. Khi đó, người phạm tội vẫn ngồi ở chỗ cao, cùng các vị Trưởng lão Tỳ-kheo tranh luận đạo lý, quơ tay nói lớn, bày tỏ: “Tất cả các người đều phạm tội về kiến, văn, nghi vậy mà nói tôi phạm tội ấy”. Nên biết người này có lỗi như loại ngựa thứ sáu.

Thứ bảy: Tỳ-kheo nào phạm tội về kiến, văn, nghi, các Tỳ-kheo thanh tịnh cùng nêu việc ấy ra, người phạm tội đứng im lặng không chịu nói có tội hay không có tội, làm não loạn chúng Tăng. Nên biết người này có lỗi như loại ngựa thứ bảy.

Thứ tám: Tỳ-kheo nào phạm tội về kiến, văn, nghi, Tỳ-kheo thanh tịnh phát hiện và nêu việc ấy ra, người phạm tội liền xả giới, thiện căn thoái chuyển, bỏ đạo hoàn tục. Sau khi hoàn tục vị ấy đứng bên cửa chùa nói với các Tỳ-kheo: “Nay tôi đã hoàn tục, làm thỏa mãn ý nguyện các người chưa? Nay các người có vô cùng hoan hỷ, thích thú không?”. Nên biết người này có lỗi như loại ngựa thứ tám. Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

150. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

–Có tám loại ngựa xứng đáng để bậc Hiền nhân cỡi. Bậc Hiền nhân là Chuyển luân Thánh vương. Thế nào là tám?

Tướng hiền thứ nhất của ngựa là sanh ra từ giống ngựa hiền.

Thứ hai: Được điều phục hoàn toàn, không gây phiền não cho các ngựa thường khác. Đây là tướng hiền thứ hai của ngựa.

Thứ ba: Khi ăn cỏ không chọn tốt xấu, ăn hết không rơi vãi. Đây là tướng ngựa hiền thứ ba.

Thứ tư: Không bao giờ đứng lại, nằm nghỉ nơi có vật ô uế, bất tịnh, nơi đại tiểu tiện. Đây là tướng ngựa hiền thứ tư.

Thứ năm: Thường chỉ cho người điều khiển về lỗi lầm của ngựa dữ và dạy người điều khiển sửa trị ngựa dữ về những tật xấu. Đây là tướng ngựa hiền thứ năm.

Thứ sáu: Thường kham chịu chở nặng không cầu nhẹ, luôn suy nghĩ: “Khi ta gặp ngựa khác chuyên chở, ta sẽ chở thay cho nó”. Đây là tướng ngựa hiền thứ sáu.

Thứ bảy: Thường đi giữa đường, bắt đầu đi không nhảy vọt, đường đi nhỏ hẹp thì biết rõ để đi qua. Đây là tướng ngựa hiền thứ bảy.

Thứ tám: Tuy bị bệnh nặng đến gần chết vẫn không thay đổi sức làm việc. Đây là tướng ngựa hiền thứ tám.

Bậc Trượng phu hiền thiện cũng có tám hạng.

Những gì là tám?

Thứ nhất: Tỳ-kheo nào trì giới trọn vẹn, đầy đủ uy nghi, quan hệ với thế gian không bị phạm giới, lỡ phạm vào tội nhỏ tâm cũng rất sợ hãi, giữ giới đã thọ như người bị chột giữ gìn con mắt còn lại. Nên biết người này giống như hạng ngựa hiền thứ nhất sống hiền thiện.

Thứ hai: Tỳ-kheo nào sống với đầy đủ pháp thiện, không bao giờ làm phiền vị đồng phạm hạnh khác, sống chung một cách an lạc như nước hòa với sữa. Nên biết người này như loại ngựa thứ hai sống hiền thiện.

Thứ ba: Tỳ-kheo nào khi thọ nhận sự ăn uống không chọn ngon dở, ăn hết không để rơi vãi. Nên biết người này như loại ngựa thứ ba sống hiền thiện.

Thứ tư: Tỳ-kheo nào thấy các pháp ác, không thanh tịnh, tâm sanh nhàm chán, ba nghiệp đều xa lìa hành động bất thiện, chê trách pháp ác là xấu xa hạ tiện. Nên biết người này như loại ngựa thứ tư sống hiền thiện.

Thứ năm: Tỳ-kheo nào sau khi đã phạm tội, tự thân đến trước Đức Phật hay các vị đồng phạm hạnh để phát lộ sám hối tội lỗi của mình. Phải biết người này như hạng ngựa thứ năm sống hiền thiện.

Thứ sáu: Tỳ-kheo giữ gìn đầy đủ học giới, thấy các vị Tỳ-kheo đồng phạm hạnh khác bị phạm giới, nên tâm sợ sệt tự nghĩ: “Ta phải tu học đừng để phạm giới như họ”. Phải biết người này như hạng ngựa thứ sáu sống hiền thiện.

Thứ bảy: Tỳ-kheo nào hành tám Chánh đạo, không đi đường tà, phải biết người này như hạng ngựa thứ bảy sống hiền thiện, không đi sai đường.

Thứ tám: Tỳ-kheo nào tuy bị bệnh rất nặng đến gần chết nhưng vẫn tinh tấn không biếng nhác, tâm chí kiên cố không thay đổi, luôn luôn tiến tới cầu các pháp thắng diệu, tâm không mệt mỏi. Phải biết người này như hạng ngựa thứ tám, tận lực đến chết luôn sống hiền thiện, chắc chắn chứng quả chân thật trong giáo pháp của Phật. Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

151. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tinh xá Bồn-thật-ca, nước Na-đề-ca.

Thế Tôn bảo Tôn giả Đại Ca-chiên-diên:

–Hãy định ý, chớ loạn tưởng, phải như ngựa toàn thiện chế ngự các căn, đừng như ngựa dữ tán loạn các căn. Như con ngựa dữ bị cột trong chuồng, chỉ nghĩ đến cỏ và nước, ngoài ra không biết gì cả, nếu không được cho ăn, bứt cả dây cương. Như có người tương ưng với nhiều dục trói buộc, vì tham dục nên tâm có nhiều giận hờn, sanh ra nhiều dục giác, vì có dục giác nên sanh ra nhiều não hại, nhiều loại ác giác do đó phát sanh. Do sự việc này nên không biết xuất ly, cuối cùng không thể nhận thức được thể tướng của dục.

Lại có người đam mê ngủ nghỉ, vì thường ngủ nghỉ nên sanh nhiều loạn tưởng, các loại phiền não phát sanh từ đấy. Do sự việc này nên không biết pháp đối trị để xuất ly.

Lại có người sanh nhiều trạo hối, vì tâm thường sanh trạo hối nên không thể phân biệt rõ hình tướng của các pháp. Phải biết trạo hối là nguyên nhân đưa đến tán loạn. Vì lý do này không biết pháp đối trị để xuất ly.

Như con ngựa được huấn luyện hoàn toàn, bị cột trong chuồng, tâm không nghĩ đến cỏ và nước, không bứt dây cương. Như có người tâm không bị dục trói buộc, chỉ có tưởng tịnh, vì không nhiễm đắm dục tưởng nên không sanh ra sự che phủ, chướng ngại cho trạo hối, do nghi, do thùy miên... vì họ có năng lực không dấy tâm với năm thứ vây buộc, ngăn che nên biết pháp đối trị để xuất ly. Tỳ-kheo như vậy không dựa vào địa, thủy, hỏa, phong, cũng không dựa vào bốn định vô sắc mà sanh các pháp thiền, không căn cứ vào đời này, không căn cứ vào đời khác, cũng không căn cứ vào nhật, nguyệt, tinh tú, không căn cứ vào thấy nghe, không căn cứ vào chỗ phân biệt của thức, không nương vào trí tri, không nương vào cảnh giới do tâm thức suy cầu, không dựa vào giác tri mà chứng đắc thiền vô sở y chỉ. Tỳ-kheo nào không nương tựa vào các cảnh giới thiền pháp như vậy mà đạt được định thâm sâu thì được Thích Đềhoàn Nhân, trời Tam thập tam và các Phạm chúng đều chắp tay cung kính, tôn trọng, quy y. Họ bày tỏ:

–Hiện nay chúng con không biết Tôn giả nương tựa vào phép tắc nào mà đắc thiền định như vậy.

Khi ấy Tôn giả Bạc-ca-lê đứng ở sau Phật, cầm quạt quạt Phật, lên tiếng thưa:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là Tỳ-kheo tu các thiền định mà không căn cứ vào bốn đại hay bốn vô sắc, cho đến không căn cứ vào tưởng giác quán. Nếu như thế thì các Tỳ-kheo làm sao đắc được thiền định như vậy để được Thích Đề-hoàn Nhân cùng đại chúng chắp tay cung kính, tôn trọng, tán thán người đắc thiền định này, và bày tỏ: “Vị thiện nam này là bậc cao thượng trong hàng trượng phu đã nương tựa vào pháp gì mà tu tập các thiền định như vậy!”

Đức Phật bảo Bạc-ca-lê:

–Tỳ-kheo nào tu tập thâm sâu nơi thiền định, quán sát địa đại đều hư ngụy, hoàn toàn không thấy có một tướng trạng của địa đại nào là chân thật, đối với thủy, hỏa, phong đại chủng và bốn vô sắc, đời này đời khác, nhật, nguyệt, tinh tú, phân biệt, biết, thấy, nghe, cảnh giới do tâm ý suy cầu, xem biết cùng với cảnh giới không do trí tri đạt được, tất cả đều hư giả, không có pháp thật, chỉ là giả hiện, do nhân duyên hòa hợp nên có tên gọi. Quán sát sự không tịnh ấy, không thấy có pháp và phi pháp.

Thế Tôn nói kệ:

Này ông Bạc-ca-lê
Cần phải biết thế này
Tu tập pháp tọa thiền
Quan sát vô sở hữu
Thiên chủ Kiều-thi-ca
Và trời Tam thập tam
Bậc chúa tể thế giới
Trời Đại Phạm thiên vương
Chắp tay cung kính lễ
Bậc tôn quý trong đời
Đều xưng tán bằng lời
Nam-mô Thiện Trượng Phu
Chúng tôi không biết ngài
Dựa nơi phương pháp nào
Chứng đắc thiền định này
Mà không ai biết cả.

Khi Đức Thế Tôn giảng pháp này, Đại Cachiên-diên xa lìa bụi bặm cấu nhiễu, đắc pháp nhãn thanh tịnh. Tỳ-kheo Bạc-ca-lê diệt sạch phiền não, không còn thọ đời sau, đoạn hết kết nghiệp.

Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

Kệ tóm lược:

Ác mã, điều thuận mã
Hiền thừa, ba và bốn
Tiên ảnh tịnh điều thừa
Hữu quá, tám loại ác
Ca-chiên-diên ly cấu
Mười việc đều hoàn thành.

152. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại rừng Ni-câu-đà, thuộc nước Ca-tỳ-la-vệ.

Bấy giờ, Thích-ma-nam đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát dưới chân rồi ngồi qua một bên, thưa Phật:

–Bạch Thế Tôn, Ưu-bà-tắc nghĩa là gì? Cầu mong Như Lai giảng cho con.

Đức Phật bảo Ma-ha-nam:

–Người tại gia bạch y, quy y Tam bảo thì gọi là Ưu-bà-tắc, ông chính là hạng này. Ma-ha-nam lại bạch Phật:

–Thế nào là Ưu-bà-tắc có lòng tin? Phật bảo Ma-ha-nam:

–Ai đối với Như Lai có tâm tận tín, an trú trong lòng tin ấy, không bị Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Ma, Phạm, Người, phá hoại mất lòng tin, đấy gọi là Ưu-bà-tắc có lòng tin.

Ma-ha-nam lại bạch Phật: –Thế nào là giới của Ưu-bà-tắc? Đức Phật bảo Ma-ha-nam:

–Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Đây là giới của Ưu-bà-tắc.

Hỏi: –Thế nào là bố thí đầy đủ? Phật bảo Ma-ha-nam:

−Pháp của Ưu-bà-tắc là cần phải bỏ tham lam keo kiệt, tất cả chúng sanh đều bị tham lam ganh ghét như vậy. Vì thế cần phải xa lìa tâm ý tham lam keo kiệt, ganh ghét, phát tâm buông bỏ, hết sức tự mình bố thí không có mệt mỏi. Đấy gọi là bố thí đầy đủ.

Hỏi:

–Thế nào là trí tuệ đầy đủ?

Đức Phật bảo Thích-ma-nam:

–Vị Ưu-bà-tắc như thật tri về khổ, như thật tri về khổ tập, như thật tri về khổ diệt, như thật tri về con đường dẫn đến khổ diệt, biết bốn Thánh đế này một cách chắc chắn rõ ràng, đây gọi là trí tuệ đầy đủ.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy đều hoan hỷ phụng hành.

153. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại rừng Ni-câu-đà, thuộc nước Ca-tỳ-la-vệ.

Lúc ấy Thích-ma-nam cùng năm trăm Ưu-bàtắc đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát chân Ngài rồi ngồi qua một bên, bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, như lời Phật dạy, Ưu-bà-tắc là người tại gia bạch y, đủ tâm trí trượng phu, quy y Tam bảo, tự mình nói rõ tôi là Ưu-bà-tắc. Họ làm thế nào để đắc quả Tu-đà-hoàn, cho đến quả A-na-hàm?

Phật bảo Thích-ma-nam:

–Ai đoạn trừ hết ba kết là thân kết, giới cấm thủ và lưới nghi thì chứng Tu-đà-hoàn, không còn bị đọa vào ba đường ác, có lòng tin quyết định với đạo vô thượng, qua lại bảy lần trong cõi Trời, Người thì đoạn sạch cảnh giới khổ, chứng Niếtbàn. Đây gọi là Ưu-bà-tắc chứng Tu-đà-hoàn. Hỏi:

–Làm thế nào để đắc quả Tư-đà-hàm? Đức Phật bảo Ma-ha-nam:

–Ai sau khi đoạn xong ba kết, giảm thiểu dâm, nộ, si, gọi là Tư-đà-hàm. Hỏi:

–Làm thế nào đắc quả A-na-hàm? Đức Phật bảo Ma-ha-nam:

–Ai đoạn trừ được ba phần kết và năm hạ phần kết sử, thì chứng A-na-hàm.

Ma-ha-nam cùng năm trăm vị Ưu-bà-tắc nghe pháp này rồi, sanh tâm hoan hỷ, bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, rất là ít có. Những người tại gia mà được lợi ích thù thắng này, tất cả nên trở thành Ưu-bà-tắc.

Ma-ha-nam thưa như vậy xong, lễ Phật rồi từ giã.

Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy đều hoan hỷ phụng hành.

154. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại rừng Ni-câu-đà, thuộc nước Ca-tỳ-la-vệ.

Lúc ấy Ma-ha-nam đến gặp Đức Phật, sau khi lễ kính thì ngồi qua một bên, bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, thế nào gọi là Ưu-bà-tắc đủ chí khí trượng phu... như đã trình bày ở trước. Lại phải như thế nào mới có đầy đủ các hạnh? Đức Phật bảo Ma-ha-nam:

–Vị Ưu-bà-tắc đầy đủ lòng tin nhưng không giữ giới đầy đủ, gọi là có tín nhưng chưa đủ giới. Người muốn cầu đầy đủ tín và giới cần phải siêng năng tu tập các phương pháp làm cho đầy đủ. Đây là Ưu-bà-tắc có đầy đủ tín và giới. Này Ma-ha-nam, vị Ưu-bà-tắc đầy đủ tín giới, nhưng chưa đầy đủ xả, cần phải tu tập các phương pháp làm cho đầy đủ.

Ma-ha-nam bạch Phật: –Hiện nay con đầy đủ cả ba chi: tín, giới, xả. Đức Phật bảo Ma-ha-nam:

–Ông nay tuy đầy đủ ba việc trên, nhưng không thường lui tới tăng phòng, tinh xá, vì lý do này gọi là không đầy đủ, cần phải siêng năng tìm phương pháp thường đến chùa, tháp.

Bấy giờ Ma-ha-nam bảo các Ưu-bà-tắc: –Chúng ta cần phải có đầy đủ lòng tin, giữ giới, tâm xả và thường lui tới chùa.

Đức Phật bảo Ma-ha-nam:

–Ai có thể có đầy đủ cả lòng tin, giữ giới, tâm xả, thường đến chùa thân cận Tăng bảo, được gọi là đầy đủ. Này Ma-ha-nam, nếu có đầy đủ bốn việc trên nhưng không chịu nghe pháp, là không đầy đủ.

Ma-ha-nam thưa:

–Con thường nghe pháp.

Phật bảo:

–Này Ma-ha-nam, người nào tuy thường nghe kinh, nhưng không thọ trì thì không gọi là đầy đủ. Ai tuy thường thọ trì mà không hiểu nghĩa, cũng là không đầy đủ. Ai tuy hiểu ý nghĩa mà không tu hành đúng lời nói, cũng là không đầy đủ. Ai đầy đủ lòng tin, giữ giới, tâm xả, thường đến chùa nghe pháp, thọ trì, hiểu đúng ý nghĩa, theo đúng như thuyết tu tập, đây là hành động đầy đủ viên mãn. Này Ma-ha-nam, người nào đủ tín, giới, tâm xả, thường đến chùa, thân cận Tăng bảo, nhưng không chuyên tâm nghe pháp, cũng gọi là không đầy đủ hạnh. Vì lý do này cần phải có phương tiện chuyên tâm nghe pháp, nhưng có nghe pháp mà không thọ trì cũng gọi là không đầy đủ. Thế nên cần phải thọ trì chánh pháp. Tuy thường thọ trì, nếu không hiểu nghĩa cũng gọi là không đầy đủ. Thế nên cần phải hiểu rõ nội dung ý nghĩa của lời nói. Tuy hiểu rõ đúng nghĩa nhưng không tu tập theo đúng lời nói ấy, cũng gọi là không đầy đủ. Thế nên cần phải tu tập đúng như giáo thuyết. Ai có thể đầy đủ cả tín tâm, trì giới, tâm xả, thường đến chùa, chuyên tâm nghe pháp, thọ trì không quên, hiểu rõ ý nghĩa... nhưng không tu tập đúng theo giáo thuyết cũng gọi là không đầy đủ. Này Ma-ha-nam, vị Ưu-bà-tắc nhờ tín tâm nên trì giới, nhờ trì giới nên đầy đủ tâm xả, nhờ đầy đủ tâm xả nên thường thân cận Tăng bảo, nhờ thân cận Tăng bảo nên chuyên tâm nghe pháp, do chuyên tâm nghe pháp nên thường thọ trì, do thường thọ trì nên hiểu được ý nghĩa, do hiểu được ý nghĩa nên thường tu tập đúng lời nói, siêng năng tu tập các phương pháp làm cho đầy đủ. Ma-ha-nam lại bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, vị Ưu-bà-tắc đủ bao nhiêu chi phần để tự lợi và chưa lợi tha?

Phật bảo Ma-ha-nam:

–Người nào có đầy đủ tám chi phần là tự lợi, chưa lợi tha. Những gì là tám? Vị Ưu-bà-tắc có tín tâm không dạy người có tín tâm, có giữ giới không dạy người giữ giới, tự tu hạnh xả không dạy người bố thí, tự đến chùa tháp thân cận Tăng bảo nhưng không dạy người đến chùa tháp thân cận Tăng bảo, tự mình nghe pháp không dạy người nghe chánh pháp, tự mình thọ trì không dạy người thọ trì, tự mình hiểu nghĩa không dạy người hiểu nghĩa, tự mình tu tập đúng lời nói không dạy người tu tập đúng lời nói. Đây là Ưu-bà-tắc đủ tám chi phần tự lợi, không lợi tha.

Ma-ha-nam lại bạch Phật:

–Đầy đủ bao nhiêu chi phần thì gọi là đầy đủ tự lợi và lợi tha?

Đức Phật dạy:

–Ai có thể đầy đủ mười sáu chi phần thì người ấy tạo được tự lợi và lợi tha. Đó là: Tự mình sanh lòng tin, dạy người có lòng tin. Tự trì giới, dạy người trì giới. Tự tu tập tâm xả, dạy người bố thí. Tự đi đến chùa, dạy người đến chùa thân cận Tăng bảo. Tự nghe pháp, dạy người nghe chánh pháp. Tự mình thọ trì, dạy người thọ trì. Tự mình giải rõ ý nghĩa, dạy người giải rõ. Tự mình tu hành đúng lý thuyết, dạy người tu hành đúng lý thuyết. Ai thực hành đầy đủ mười sáu chi phần này, được gọi là tự lợi và lợi tha đầy đủ. Người như vậy đến với chúng Sát-lợi, Bà-la-môn, Cư sĩ, Sa-môn nào, đều làm cho những chúng hội ấy sáng rực lên, như ánh sáng mặt trời phá tan các bóng tối. Nên biết người này thật ít có.

Đức Phật dạy như vậy, Thích-ma-nam lễ Phật rồi từ giã. Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

155. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại rừng Ni-câu-đà, thuộc nước Ca-tỳ-la-vệ.

Bấy giờ Thích-ma-nam đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát dưới chân Phật rồi ngồi qua một bên, bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, thành Ca-tỳ-la này dân chúng phồn thịnh, giàu có an lạc. Con sống trong cảnh này có lúc suy nghĩ: “Nếu có voi dữ, xe chạy nhanh, ngựa lồng, người cuồng, chạy đụng vào người con, vào trường hợp ấy có khi con không còn nhớ đến Phật, Pháp, Tăng”. Con lại nghĩ: “Nếu ta qua đời trong lúc tâm không có nhớ đến Tam bảo thì sẽ sanh vào nơi nào, cảnh giới nào và thọ quả báo gì?”.

Đức Phật dạy:

–Trường hợp ấy ông không nên sợ hãi. Sau khi qua đời, ông sẽ sanh vào cảnh giới thiện, không bị đọa nơi cõi ác, không thọ quả báo ác. Như cây đại thọ khi mọc lên luôn luôn hướng về phương Đông, nếu nó bị hạ xuống sẽ ngã về phương nào? Phải biết cây này chắc chắn ngã về phương Đông. Cũng như vậy, ông đã luôn luôn tu tập pháp thiện lâu ngày, nếu bị đọa vào cõi ác, thọ ác báo là điều không thể có.

Ma-ha-nam nghe lời Phật dạy, đảnh lễ sát chân Phật, trở về nhà. Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

156. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại rừng Ni-câu-đà, thuộc nước Ca-tỳ-la-vệ.

Bấy giờ Thích-ma-nam đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát dưới chân, ngồi qua một bên, bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, vị Tỳ-kheo ở địa vị hữu học, việc làm chưa xong, thường muốn tiến tới quả vị A-la-hán, nhập Niết-bàn, vị ấy cần phải tu tập bao nhiêu pháp để diệt sạch các hữu lậu, đắc tâm giải thoát, tuệ giải thoát, ngay trong đời này chứng đắc quả vị La-hán, đạt được giới vô lậu, tự biết chắc chắn: “Ta không còn sanh tử, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không thọ thân đời sau nữa”? Phật bảo Ma-ha-nam:

–Vị Tỳ-kheo ở địa vị hữu học, chưa đắc vô học, ý luôn cầu tiến, muốn chứng đắc Niết-bàn, phải thường tu tập sáu niệm. Như có người thân thể gầy yếu muốn an vui phải ăn món ngon, các Tỳ-kheo cũng vậy, vì muốn chứng Niết-bàn, phải tu tập sáu niệm. Thế nào là sáu?

Một: niệm Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Khi niệm Phật không có tham dục, sân hận, ngu si, chỉ có tâm thanh tịnh chân chính. Nhờ tâm chân chính nên đắc pháp và nghĩa, thân cận Phật. Thân cận Phật nên tâm hoan hỷ, nhờ hoan hỷ nên thân hỷ lạc, thân hỷ lạc nên tâm đắc định, do đắc định nên đối với kẻ oán gia và thân tộc của mình, không nghĩ đến yêu, ghét, giữ tâm bình đẳng, an trụ nơi dòng nước pháp, tâm nhập định, nhờ tu tập niệm Phật, tiến đến Niếtbàn, gọi là niệm Phật.

Thứ hai: niệm Pháp là niệm công đức của Như Lai có mười Lực, bốn Vô sở úy, chắc chắn đưa đến Niết-bàn, cần phải chí tâm quan sát pháp này, chỉ có người trí mới biết rõ. Thánh đệ tử cần phải niệm Pháp, ngay khi ấy xa lìa tham dục, sân hận, ngu si, chỉ có tâm chân chính thanh tịnh, nhờ tâm chân chính nên hiểu đúng Pháp, thân cận Pháp nên tâm sanh hoan hỷ, nhờ hoan hỷ nên thân hỷ lạc, do hỷ lạc nên tâm đắc định, tâm đã định nên bình đẳng, đối với thù oán không còn yêu ghét, trụ nơi dòng nước pháp, tâm nhập định nhờ tu tập quán niệm pháp hướng đến Niết-bàn. Đây là niệm Pháp.

Thứ ba: niệm Tăng. Chúng Tăng là đệ tử Đức Như Lai, đắc pháp vô lậu, xứng đáng là ruộng phước tốt của thế gian. Những gì là ruộng phước tốt? Tăng có Tu-đà-hoàn hướng và quả, Tư-đàhàm hướng và quả, A-na-hàm hướng và quả, A-la-hán hướng và quả nên gọi là ruộng phước tốt. Tăng có đầy đủ giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến, nên xứng đáng được chắp tay cung kính. Ai niệm Tăng thì được pháp và nghĩa, thân cận với Tăng, tâm sanh hoan hỷ, vì hoan hỷ nên hỷ lạc, vì hỷ lạc nên đắc định, vì tâm định nên bình đẳng với oán thù, không có tham dục, sân hận, ngu si, chỉ có tâm thanh tịnh chân chính, trụ nơi dòng nước pháp, nhờ tu tập quán niệm Tăng, tiến đến Niết-bàn. Đây là niệm Tăng.

Thế nào là niệm Giới?

Nghĩa là niệm giới không hoại, giới không khuyết, giới không tạp, giới không cấu uế, giới thoát ly sợ hãi, giới lìa hạnh tà, giới lìa trộm cắp, giới thanh tịnh, giới hoàn toàn thiện. Ai niệm các giới như vậy thì xa lìa tham dục, sân hận, ngu si, tà kiến, xa lìa pháp ác, đắc pháp và nghĩa, thân cận giới, tâm sanh hoan hỷ, vì hoan hỷ nên hỷ lạc, nhờ hỷ lạc nên tâm đắc định, tâm định nên bình đẳng đối với oán thù, thanh tịnh chân chính, trụ nơi dòng nước pháp, tâm nhập định nhờ tu quán niệm giới. Đây là niệm Giới.

Thế nào là niệm Thí?

Niệm sự bố thí của ta có kết quả hoàn hảo. Khắp thế gian đều bị keo kiệt, ganh tỵ phủ vây, nay ta được thoát ly cấu uế của sự tham lam keo kiệt, đem tất cả các vật bố thí với tâm không luyến tiếc. Sau khi bố thí, ta hoan hỷ như gặp ngày hội lớn, phân phối tài vật của ta cho người khác. Người nào có thể tu tập tâm bố thí như vậy, ngay trong đời này đắc pháp với nghĩa, thân cận bố thí, không có tâm tham dục, sân hận, ngu si, chỉ có tâm chân chính thanh tịnh, nhờ đó sanh hoan hỷ, nhờ hoan hỷ nên thân hỷ lạc, thân hỷ lạc nên tâm nhập định, tâm đã định nên bình đẳng đối với oán thù, trụ trong dòng nước pháp. Tâm nhập định nhờ tu tập quán niệm thí.

Thế nào là niệm Thiên?

Đó là Tứ Thiên vương, Tam thập tam thiên, Diệm-ma thiên, Đâu-suất thiên, Hóa lạc thiên, Tha hóa tự tại thiên. Ai có lòng tin nơi chư Thiên này, nhờ năng lực ấy sẽ sanh vào các cõi của chư Thiên. Cũng vậy, ta có tín, giới, văn, thí, tuệ, nhờ công đức này sanh lên cõi thiên. Ta cũng thấy những người có công đức như vậy sanh lên cõi thiên. Niệm thiên như vậy nên thoát ly tham dục, sân hận, ngu si, chỉ có tâm thanh tịnh ngay thẳng, ngay trong đời này đắc pháp với nghĩa, thân cận chư Thiên nên tâm hoan hỷ, tâm hỷ nên thân hỷ lạc, thân lạc nên tâm nhập định, tâm định nên bình đẳng đối với oán ghét, trụ nơi dòng nước pháp, tâm nhập định nhờ tu tập quán niệm thiên, gọi là niệm Thiên.

Này Ma-ha-nam, Tỳ-kheo nào ở địa vị hữu học, việc làm chưa xong, thường muốn cầu tiến đến quả A-la-hán, nhập Niết-bàn, cần phải chí tâm tu tập sáu niệm này. Ai tu tập được sáu niệm ấy thì đoạn sạch các hữu lậu, đắc tâm giải thoát, tuệ giải thoát, ngay trong đời này chứng quả giải thoát. Khi đã chứng đắc, vị ấy bày tỏ: “Ta đã hết sanh tử, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không thọ thân đời sau nữa”.

Ma-ha-nam và các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

157. Khi ấy Đức Thế Tôn an cư kiết hạ tại rừng Ni-câu-đà, thuộc nước Ca-tỳ-la-vệ.

Bấy giờ vào cuối mùa hạ, có nhiều Tỳ-kheo tập hợp ở giảng đường may y cho Đức Phật. Sau khi may y, các Tỳ-kheo suy nghĩ: “Chúng ta đã may vá y xong rồi, hãy theo Đức Phật du hành”.

Thích-ma-nam nghe nói các Tỳ-kheo may vá y đã xong sẽ theo Phật du hành, nghe như vậy, ông ta đến gặp Đức Phật, lạy sát chân Ngài, rồi ngồi qua một bên, bạch:

–Thân tâm của con đang rất nặng nề, trì độn, không còn phân biệt được gì cả, tuy có nghe pháp nhưng tâm không cảm thấy thích thú. Tại sao? Con nghe các Tỳ-kheo may vá y đã xong, sẽ theo Phật du hành, nên con suy nghĩ: “Bao giờ mới gặp lại Thế Tôn và các Tỳ-kheo để tu tâm?”.

Đức Phật dạy:

–Ta và các Tỳ-kheo tuy rời khỏi nơi này nhưng ông muốn luôn luôn được thấy Như Lai và các Tỳ-kheo, phải dùng pháp nhãn, chí tâm quan sát, thường tu tập năm việc. Thế nào là năm?

Đó là đầy đủ tín tâm, thường tùy thuận giáo pháp, chẳng phải không có tín tâm mà tùy thuận giáo pháp. Trì tịnh giới tùy thuận giáo pháp, chẳng phải phá giới mà tùy thuận giáo pháp. Đa văn tùy thuận giáo pháp, chẳng phải ít hiểu biết mà tùy thuận giáo pháp. Không phải keo kiệt mà thực hành bố thí, vì tâm xả nên thường hành bố thí. Không phải tu tâm trí tuệ bằng ngu si, vì tâm trí tuệ nên có thể phân biệt hình tướng các pháp. Thế nên, này Ma-ha-nam, ai muốn thường thấy Đức Phật và các Tỳ-kheo phải thường tu tập năm pháp như vậy và sáu pháp niệm. Ai thực hiện được như thế, ta cùng chúng Tỳ-kheo luôn luôn có ở trước mặt họ. Tăng có nghĩa là hòa hợp.

Ma-ha-nam nghe lời Phật dạy, hoan hỷ đảnh lễ rồi từ giã.

158. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại rừng Ni-câu-đà, thuộc nước Ca-tỳ-la-vệ.

Bấy giờ Thích-ma-nam đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát chân Phật, ngồi qua một bên, bạch:

–Thưa Thế Tôn, theo như con hiểu ý nghĩa lời Phật dạy, tâm được định mới đắc giải thoát. Như vậy thì đắc định trước, giải thoát sau; hay giải thoát trước, đắc định sau; hay định và giải thoát cùng đắc một lần? Đây là việc con chưa từng gặp, chưa từng làm, chưa từng phát sanh trong quá khứ, hiện tại và vị lai.

Thế Tôn im lặng không đáp. Ma-ha-nam hỏi lần thứ hai, thứ ba, Như Lai vẫn im lặng không đáp. Tôn giả A-nan đang ở bên cạnh Như Lai, cầm quạt quạt Phật, suy nghĩ: “Ma-ha-nam đem ý nghĩa thâm diệu thưa hỏi Đức Thế Tôn, Thế Tôn đang vừa mới khỏi bệnh, khí lực còn yếu, chưa thuyết pháp được. Ta sẽ thay Ngài lược nói một ít giáo pháp để ông ta đi về”.

Tôn giả A-nan nghĩ như thế rồi, bảo với Thíchma-nam:

–Đức Như Lai có giảng dạy về hữu học giới và vô học giới, hữu học định và vô học định, hữu học tuệ và vô học tuệ, hữu học giải thoát và vô học giải thoát.

Ma-ha-nam bạch Tôn giả A-nan:

–Thế nào là học giới, vô học giới; học định, vô học định; học tuệ, vô học tuệ; học giải thoát, vô học giải thoát, do Đức Như Lai giảng dạy?

Tôn giả A-nan đáp:

–Thánh chúng của Như Lai sống trong giới luật, hộ trì Ba-la-đề-mộc-xoa, đầy đủ uy nghi, chánh hạnh, đối với tội lỗi nhỏ nhặt, tâm cũng sợ hãi, giữ gìn đầy đủ giới cấm. Đây là trì giới đầy đủ. Vị ấy nhàm chán pháp ác, dục, bất thiện, lìa dục sanh hỷ lạc, nhập Sơ thiền, cho đến đệ Tứ thiền. Đây là đắc thiền định. Vị ấy như thật tri về khổ, như thật tri về khổ tập, như thật tri về khổ diệt, như thật tri về khổ diệt đạo. Với tri kiến như vậy, đoạn năm hạ phần kết là: thân kiến, giới cấm thủ, nghi ngờ, tham dục, sân hận. Sau khi đoạn năm hạ phần kết, được hóa sanh đến cảnh giới khác để đắc Niết-bàn. Vị này gọi là A-na-hàm, không còn tái sanh đến Dục giới này nữa. Đây gọi là hữu học giới, hữu học định, hữu học tuệ, hữu học giải thoát.

Vào lúc khác, vị ấy đoạn tận các hữu lậu, đắc vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, ngay trong pháp này tự biết chứng đắc vô sanh; sanh tử đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn thọ thân ở đời sau. Lúc đó vị ấy đắc vô học giới, vô học định, vô học tuệ, vô học giải thoát.

Này Ma-ha-nam, vì vậy Đức Phật giảng dạy có hữu học và vô học.

Khi ấy Ma-ha-nam nghe lời dạy này, hoan hỷ đảnh lễ rồi từ giã. Sau khi Ma-ha-nam đi chưa bao lâu, Đức Phật hỏi A-nan:

–Các Tỳ-kheo cùng chúng họ Thích ở nước Ca-tỳ-la-vệ này có cùng nhau giảng luận những ý nghĩa sâu xa như vậy không?

A-nan bạch Phật:

–Các Tỳ-kheo và chúng họ Thích ở nước Catỳ-la-vệ này thường bàn luận với nhau về ý nghĩa sâu xa như vậy.

Đức Phật bảo A-nan:

–Các Tỳ-kheo cùng chúng họ Thích ở nước Ca-tỳ-la-vệ này được thuận lợi to lớn, đã hiểu rõ về tuệ nhãn của thánh hiền như vậy.

Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

159. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại rừng Ni-câu-đà, thuộc nước Ca-tỳ-la-vệ.

Bấy giờ Thô Thủ Thích đến gặp Ma-ha-nam hỏi:

–Như Lai giảng dạy về Tu-đà-hoàn, có bao nhiêu bất hoại tín?

Ma-ha-nam đáp:

–Theo lời dạy của Như Lai, vị Tu-đà-hoàn có bốn chi bất hoại tín. Đó là đối với Phật bất hoại tín, với Pháp..., với Tăng..., với Thánh giới đã thọ bất hoại tín.

Thô Thủ Thích nói:

–Bạn không nên nói Đức Như Lai giảng thuyết bốn Bất hoại tín. Vì sao? Như Lai chỉ dạy có ba bất hoại tín. Đó là không được hoại tín đối với Tam bảo.

Hai người phân vân tranh cãi theo ý kiến của mình, không thể xác quyết nên cùng đi đến gặp Phật, đảnh lễ sát dưới chân, ngồi qua một bên, thỉnh Phật giải quyết chỗ nghi ngờ. Ma-ha-nam bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, Thô Thủ Thích này đến gặp con hỏi: “Như Lai dạy có bao nhiêu bất hoại tín?”. Con đáp: “Như Lai dạy có bốn Bất hoại tín là Tam bảo và Thánh giới đã thọ”. Thô Thủ Thích nói: “Như Lai chỉ dạy có ba Bất hoại tín là Tam bảo, tại sao nói có bốn?”. Bạn ấy nói ba lần như vậy, con đều đáp: “Sự thật Như Lai nói có bốn, không nói có ba”. Cả hai chúng con không hiểu nhau.

Thô Thủ Thích đứng dậy bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, giả sử Phật không dạy con, Tăng không dạy con, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưubà-di, Trời, Ma, Phạm, những hạng ấy đều không dạy con hướng đến với Phật, con cũng nhất tâm hướng về Phật, Pháp, Tăng.

Phật bảo Ma-ha-nam:

–Thô Thủ Thích nêu bày như vậy, ông đáp thế nào? Ma-ha-nam bạch Phật:

–Như vậy con không còn gì để đáp, ngoài Phật pháp ra không có chỗ thiện nào khác, ngoài Phật pháp ra không có chỗ chân thật nào khác, không còn chỗ nào đúng và hoàn thiện hơn nữa.

Phật bảo Ma-ha-nam:

–Từ nay về sau ông nên hiểu rằng: có đầy đủ bốn Bất hoại tín là Phật, Pháp, Tăng và Thánh giới đã thọ.

Thô Thủ Thích vì không hiểu rõ nên đã bày tỏ như vậy, khi nghe Phật giảng liền hiểu rõ.

Ma-ha-nam và Thô Thủ Thích nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

160.

Một thời, Đức Phật ở tại rừng Ni-câu-đà, thuộc nước Ca-tỳ-la-vệ.

Bấy giờ những người họ Thích trong nước tập hợp ở chỗ bình luận. Sau khi an tọa, những người này cùng nhau bàn bạc, nói với Ma-ha-nam: –Không có liên hệ giữa trước và sau. Theo ý ông thì lấy nhân gì để làm quả sau? Thô Thủ Thích được Như Lai thọ ký ông ấy đắc quả Tu-đà-hoàn, chỉ còn sanh tử bảy lần trong cõi trời, người thì vượt qua bờ khổ, nhưng ông ta đã phạm giới cấm uống rượu, vậy mà Phật còn thọ ký đắc quả Tuđà-hoàn. Như vậy thì có liên hệ gì giữa trước và sau?

Họ lại bảo Ma-ha-nam:

–Ông hãy đến gặp Thế Tôn hỏi về ý nghĩa này.

Ma-ha-nam theo lời nói ấy, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát chân Phật, ngồi qua một bên, bạch Phật:

–Những người họ Thích ở Ca-tỳ-la tập hợp nơi chỗ bàn luận. Tại đó họ lý luận với con thế này: “Cái gì là trước và sau? Khi Thô Thủ Thích qua đời, Như Lai đã thọ ký ông ta đắc Tu-đà-hoàn, sanh tử bảy lần trong cõi nhân thiên, thì vượt qua bờ khổ, nhưng Thô Thủ Thích phạm giới cấm, phóng dật, uống rượu. Nếu ông ta được thọ ký đắc quả Tu-đà-hoàn, như vậy biết rằng không có quan hệ trước và sau”.

Đức Phật dạy:

–Người nào tôn xưng Ta là Thiện Thệ, Thế Tôn, khi gọi là Thiện Thệ tất họ có tâm hướng đến Thiện Thệ. Đệ tử Hiền thánh có tâm chánh niệm, thấy đúng đắn nên miệng tôn xưng Thiện Thệ. Này Ma-ha-nam, vị Thánh đệ tử một lòng quy y Phật, Pháp, Tăng, Tam bảo nên đắc trí nhanh nhạy, trí sắc bén, trí xa lìa, trí hợp với đạo, không đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và cõi khác, đắc tám giải thoát, đắc thân chứng, đầy đủ tám giải thoát, sống đầy đủ với giới, dùng trí tuệ thấy rõ, dứt sạch các lậu. Vị này gọi là đắc câu phần giải thoát A-la-hán. Lại nữa, này Ma-ha-nam, vị Thánh đệ tử như trên đã nói, nhưng chỉ đắc tuệ giải thoát A-la-hán vì không đắc tám giải thoát. Lại nữa, này Ma-ha-nam, vị đệ tử Hiền thánh hết lòng quy y Phật, ngoài ra như trên..., thân chứng A-na-hàm, thành tựu tám giải thoát, nhưng chưa hết các lậu.

Này Ma-ha-nam, vị đệ tử Hiền thánh một lòng quy y Phật như trên, không đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, không đọa vào nẻo ác; đối với chánh pháp của Như Lai, tùy thuận không trái nghịch, gọi là Kiến đạo.

Này Ma-ha-nam, vị đệ tử Hiền thánh một lòng quy y Phật như trên đã nói, tin theo giáo pháp của Phật, tùy thuận với giải thoát, gọi là Tín giải thoát.

Này Ma-ha-nam, vị đệ tử Hiền thánh tin theo lời Phật, hoan hỷ tu tập, chấp nhận năm pháp là: tín, tấn, niệm, định, tuệ, không đọa vào ba đường ác, gọi là Kiên pháp.

Này Ma-ha-nam, vị đệ tử Hiền thánh tin một phần lời Phật, chấp nhận yêu thích năm pháp ở trên, không đọa ba đường ác, gọi là Kiên tín.

Này Ma-ha-nam, nếu ta nói mà rừng cây Sa-la hiểu được ý nghĩa, thì việc này không đúng, nhưng giả sử chúng hiểu được ý nghĩa thì ta cũng thọ ký chúng đắc quả Tu-đà-hoàn. Với ý nghĩa này, tại sao ta không thọ ký cho Thô Thủ Thích đắc quả Tu-đà-hoàn! Vì sao? Thô Thủ Thích không phạm tánh giới, chỉ phạm giá giới, khi lâm chung lại sám hối việc đã làm, nhờ sám hối nên giới được trọn vẹn. Người có phạm tội nhỏ, biết sám hối đầy đủ, tại sao không thọ ký Thô Thủ Thích đắc quả Tuđà-hoàn!

Thích Ma Nam nghe lời Phật dạy, hoan hỷ đảnh lễ rồi từ giã.

Kệ tóm lược:

Ưu-bà-tắc là gì
Đắc quả, tất cả hạnh
Tự khinh và trú xứ
Mười một cùng mười hai
Giải thoát với Xá-ly
Thô Thủ là đủ mười.

QUYỂN 9

161. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật rồi ngồi qua một bên, nói kệ:

Không sống vườn Hoan hỷ
Không thể nào được vui
Ở cõi trời Ba ba
Tiếng khen khắp thế giới
Các vị Thiên nhân ấy
Thường ở vườn cõi này.

Thế Tôn nói kệ đáp:

Ông như trẻ ngu si
Trí ông nào biết được
Diệu pháp như thế này
Là lời bậc La-hán
Các hành đều vô thường
Chính là pháp sanh diệt
Diệt sạch sanh diệt rồi
Tịch diệt mới là vui.

Vị trời nói kệ tán thán:

Thuở xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Vứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ trở về Thiên cung.

162. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, rồi ngồi qua một bên, nói kệ:

Ai từ bỏ gia nghiệp
Đoạn trừ tất cả pháp
Thường dạy cho người khác
Là Sa-môn không tốt.

Đức Thế Tôn nói kệ đáp:

Dạ-xoa, ngươi hãy biết
Ai trong các chủng tộc
Gặp phải tai nạn khổ
Những người có trí tuệ
Không thể không thương họ
Thiện Thệ dùng đại bi
An ủi dạy, hướng dẫn
Pháp La-hán như vậy.

Vị trời nói kệ tán thán:

Thuở xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Từ bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ trở về Thiên cung.

163. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Phật, ngồi qua một bên, nói kệ:

Có người hiền thiện nào
Thường tu tập hổ thẹn
Thí như con ngựa thuần
Không hung hăng ngang ngược?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Những người trong thế gian
Tu tập giảm hổ thẹn
Ai xa lìa những ác
Như ngựa thuần được cỡi.

Vị trời nói kệ tán thán:

Thuở xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Từ bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ trở về Thiên cung.

164. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Phật, ngồi qua một bên, nói kệ:

Không biết rằng pháp mình
Lại ưa học pháp người
Gọi là ngủ không thức
Bao giờ mới thấy được?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Đã biết rõ pháp mình
Không thích làm pháp người
A-la-hán lậu dứt
Bỏ ác đạt chánh pháp.

Vị trời nói kệ tán thán:

Ngày xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Từ bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ trở về Thiên cung.

165. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Phật, ngồi qua một bên, nói kệ:

Không khéo tu chánh pháp
Dựa cậy vào tà kiến
Là ngủ say không thức
Bao giờ mới tỉnh giấc?

Đức Phật nói kệ đáp:

Khéo tu tập chánh pháp
Không nương tựa tà kiến
Vượt qua hẳn bờ ải
Phật biết đã Niết-bàn.

Vị trời nói kệ khen:

Ngày xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Từ bỏ hẳn ghét sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ trở về Thiên cung.

166. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Phật, ngồi qua một bên, nói kệ.

Tỳ-kheo đắc La-hán
Hết các pháp hữu lậu
Người diệt kết như vậy
Thân này là cuối cùng
Nói là ngã cũng sai
Nói phi ngã cũng sai.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Tỳ-kheo đắc La-hán
Hết các pháp hữu lậu
Người diệt các kết ấy
Thân này là cuối cùng
Nội tâm không còn chấp
Ngã hay là phi ngã
Tùy thuận theo thế tục
Nên nói ngã, phi ngã.
Vị trời nói kệ khen:
Ngày xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Từ bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ trở về Thiên cung.

167. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ vua A-tu-la là La-hầu-la lấy tay che mặt trăng. Nguyệt thiên tử rất kinh hãi, toàn thân lông tóc dựng ngược, vội đến gặp Phật, đảnh lễ sát chân Phật, rồi nói kệ:

Như Lai đại tinh tấn
Con đảnh lễ quy y
Tất cả trở ngại gì
Cũng đều được giải thoát
Nay con gặp nạn lớn
Xin cho con quy y
Thiện Thệ của thế gian
Ứng Cúng A-la-hán
Nay con đến quy y
Như Lai thương thế gian
Làm cho La-hầu-la
Không ngăn che con nữa.

Thế Tôn nói kệ đáp:

Trăng ở giữa hư không
Diệt trừ hết tối tăm
Chiếu ánh sáng quang minh
Trắng sáng và rõ ràng
Trăng là đèn thế gian
La-hầu hãy thả mau
La hầu nghe kệ xong
Trong lòng rất run sợ
Mồ hôi ra như tắm
Liền thả mặt trăng ngay.

Khi ấy Bạt-la-bồ-lô-chiên thấy vua A-tu-la vội vàng thả mặt trăng, liền nói kệ:

Tại sao ông kinh sợ
Vội thả mặt trăng ngay
Toát mồ hôi như tắm
Run rẩy như kẻ bệnh?

A-tu-la lại nói kệ:

Ta nghe Phật nói kệ
Nếu không thả mặt trăng
Đầu sẽ bể bảy phần
Không còn hưởng an lạc.

Bạt-la-bồ-lô-chiên nói kệ:

Phật ra đời hy hữu
Thấy Ngài, được an lạc
A-tu-la nghe kệ
Liền thả mặt trăng ngay.

168. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, ngồi qua một bên, nói kệ:

Tay Ngài đã bị cùm
Và xiềng xích trói buộc
Dù không ở trong lao
Không bị gông trói buộc.

Thế Tôn nói kệ đáp:

Tay Ta không bị cùm
Và các loại xiềng gông
Trói bằng dây, bị nhốt
Ta diệt hết tất cả
Này Dạ-xoa phải biết
Ta thoát việc ấy rồi.

Vị trời nói kệ:

Thế nào gọi là xiềng?
Thế nào gọi gông cùm?
Thế nào là dây trói?
Thế nào là bị nhốt?

Đức Phật nói kệ đáp:

Mẹ tức gọi là xiềng
Vợ chính là cùm gông
Con gọi là dây trói
Ái chính là bị nhốt
Ta không có mẹ xiềng
Cũng không vợ gông cùm
Không có con trói buộc
Không ái nào nhốt cả.

Vị trời nói kệ:

Lành thay không bị xiềng
Và không có cùm gông
Lành thay không dây trói
Không bị nhốt, lành thay!

Vị trời nói kệ tán thán:

Ngày xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Xa lìa hẳn ghét sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ trở về Thiên cung.

169. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở thôn Cư-la-tỳ-đại-tư, thuộc Thích-sí-la.

Vào sáng sớm, Đức Thế Tôn vừa cạo râu tóc xong, Ngài ngồi thẳng lưng, dùng y che trên đầu. Trong thôn Cư-la-tỳ-đại-tư ấy, có một Thiên thần đến gặp Phật, hỏi:

–Ngài ưu sầu phải không?

Phật đáp:

–Ta không mất gì cả, có gì phải ưu sầu?!

Thiên thần hỏi:

–Ngài vui mừng phải không?

Đức Phật đáp:

–Ta không được gì cả, có gì phải vui mừng.

Hỏi:

–Này Sa-môn, Ngài không ưu sầu, không hoan hỷ phải không?

Đức Phật nói:

–Ngươi nói đúng:

Vị trời nói kệ:

Tỳ-kheo, Ngài vì sao
Sống không có phiền não
Sống không có vui mừng
Ngồi riêng trong rừng vắng
Nơi này chẳng gì vui
Mà Ngài trong lúc ấy
Không hề bị trở ngại
Do hành động không vui?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Ta không có phiền não
An trú nơi giải thoát
Cũng không có hoan hỷ
Không vui nên không loạn
Thiên thần, ngươi nên biết
Thế nên Ta độc cư.

Vị trời lại nói kệ hỏi:

Này Tỳ-kheo, tại sao
Ngài sống không phiền não?
Tại sao không hoan hỷ?
Độc cư nơi rừng vắng
Không hề bị trở ngại
Do đời sống không vui?

Thế Tôn nói kệ:

Hoan hỷ tức phiền não
Phiền não tức hoan hỷ
Thiên thần, ngươi nên biết
Ta không vui, phiền não.

Thiên thần lại nói kệ:

Tỳ-kheo, thật lành thay!
Không có các phiền não
Cũng không có hoan hỷ
Lành thay! Không hoan hỷ
Lành thay! Sống độc cư
Không vui nên không loạn.

Thiên thần nói kệ tán thán:

Ngày xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Xa lìa hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ này xong, hoan hỷ trở về Thiên cung.

170. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, ngồi qua một bên, nói kệ:

Như ngồi trên dao bén
Như lửa cháy trên đầu
Phải siêng nghĩ phương pháp
Để đoạn trừ dục kết.

Thế Tôn nói kệ đáp:

Như ngồi trên dao bén
Như lửa cháy trên đầu
Tỳ-kheo-niệm giác ngộ
Phải siêng nghĩ phương pháp
Để đoạn trừ biên kiến,
Thân kiến và ngã kiến.

Vị trời nói kệ tán thán:

Ngày xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Lìa bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ trở về Thiên cung.

171. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào giữa đêm, có vị trời với hào quang rực rỡ khác thường, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, ngồi qua một bên, nói kệ:

Thiên nữ hầu hai bên
Quỷ yêu tinh chen lấn
Trong rừng ngu tối tăm
Làm sao được giải thoát?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Chánh trực chính là đường
Không sợ là phương tiện
Yên lặng là diệu lạc
Che bằng thiện giác quán
Hổ thẹn là dây thắng
Niệm là quân hộ vệ
Trí tuệ là xe tốt
Chánh kiến là hướng đạo
Người nam hay người nữ
Đi bằng loại xe này
Tất xả bỏ danh sắc
Lìa dục, dứt sanh tử.

Vị trời nói kệ tán thán:

Ngày xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết bàn
Lìa bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ trở về Thiên cung.

172. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào giữa đêm, có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Phật, ngồi qua một bên, nói kệ:

Chín cửa, bốn bánh xe
Trong đầy nặng như đồng
Bị chìm sâu trong bùn
Làm sao được thoát khỏi?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Đoạn tận kết hỷ ái
Và trừ ác dục tham
Nhổ bật gốc ái dục
Sau đó ra an ổn.

Vị trời nói kệ tán thán:

Thuở xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết bàn
Lìa bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời ấy nói kệ xong, hoan hỷ trở về Thiên cung.

173. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào giữa đêm, có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Phật, ngồi qua một bên, nói kệ:

Tóc kết trói bên ngoài
Tóc kết trói ở trong
Tóc kết trói thế gian
Nay con hỏi Cù-đàm
Làm sao tóc kết sử
Chúng không còn trói buộc?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Kiên trì giữ giới cấm
Tu định tâm, trí tuệ
Cần hành pháp tinh tấn
Là Tỳ-kheo đủ niệm
Làm cho tóc kết sử
Chúng không còn trói buộc.

Vị trời nói kệ tán thán:

Ngày xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Lìa bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ trở về cung.

174. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào giữa đêm, có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, ngồi qua một bên, nói kệ:

Xuất gia thật là khó
Rất khó, khó thấy được
Kẻ ngu làm Sa-môn
Có rất nhiều trở ngại
Kẻ sợ hãi, biếng nhác
Tâm thường không hoan hỷ
Làm sao mà hành trì
Tu tập pháp Sa-môn
Không chế ngự tâm mình
Thường sanh tâm phiền não
Dục tưởng đã chế ngự
Làm sao trừ diệt được?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Tỳ-kheo giữ ác giác
Như rùa rút sáu phần
Tỳ-kheo không chấp trước
Cũng không não hại ai
Tỳ-kheo nhập Niết-bàn
Hoàn toàn không chê bai.

Vị trời nói kệ tán thán:

Ngày xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Lìa bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời ấy nói kệ xong, hoan hỷ trở về cung.

175. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào giữa đêm, có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, ngồi qua một bên, nói kệ:

Duỗi người nằm ngủ say
Biếng nhác lại buồn chán
Ăn uống không điều độ
Cùng với tâm hèn kém
Năm việc đến như vậy
Không thể thấy thánh đạo.

Thế Tôn nói kệ đáp:

Người nào ngủ không chán
Biếng nhác lại buồn rầu
Ăn uống không điều độ
Và tâm ý hèn kém
Siêng bỏ năm pháp này
Chắc chắn thấy thánh đạo

Vị trời nói kệ tán thán:

Ngày xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Lìa bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ trở về cung.

176. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào giữa đêm, có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, ngồi qua một bên, nói kệ:

Làm sao cạn ao nước
Để nước không trở lại
Khổ vui của thế gian
Nơi nào tiêu tan hết?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Nhãn, nhĩ với tỷ, thiệt
Và thân cùng với ý
Danh sắc đều không còn
Như vậy ao khô cạn
Làm cạn các nghiệp buộc
Khổ vui của thế gian
Do vậy không còn nữa
Và không có trở lại.

Vị trời nói kệ tán thán:

Thuở xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Lìa bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời ấy nói kệ xong, hoan hỷ trở về Thiên cung.

177. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào giữa đêm, có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, ngồi qua một bên, thưa bằng kệ:

Mâu-ni, Đấng Thế Hùng
Cũng như Y-ni-diên
Ăn ít không cần mùi
Yên lặng ngồi trong rừng
Nay con có chút nghi
Muốn hỏi Đức Cù-đàm
Khổ từ đâu sanh ra?
Làm sao giải thoát khổ?
Nơi nào diệt hết khổ,
Xin Ngài chỉ cho con.
Thế Tôn nói kệ đáp:
Thế gian có năm dục
Ý căn là sáu xứ
Trừ đoạn sạch hỷ dục
Xa lìa tất cả khổ
Đây là đường thoát khổ
Cũng gọi giải thoát khổ
Chỗ này diệt hết khổ
Ngươi nên biết như vậy.
Vị trời nói kệ khen:
Ngày xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Lìa bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ trở về cung.

178. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào giữa đêm, có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, ngồi qua một bên, nói kệ:

Giữa dòng nước sâu mạnh
Không có gì bám víu
Không có chỗ để chân
Ai không bị chìm đắm
Phải tinh tấn những gì
Vượt qua dòng nước mạnh?

Đức Thế Tôn nói kệ:

Giữ giới cấm thanh tịnh
Tu tập trí, thiền định
Quán sát niệm nơi thân
Khó vượt mà vượt được
Thoát ly được dục kết
Vượt qua nghiệp sắc sử
Diệt hết nghiệp ái hỷ
Qua chỗ sâu như vậy
Vẫn không bị chìm đắm
Thì vượt được dòng thác.

Vị trời nói kệ tán thán:

Ngày xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Lìa bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời ấy nói kệ xong, hoan hỷ trở về cung.

179. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường, chiếu sáng cả khu Kỳ-hoàn, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát chân Phật, ngồi qua một bên hỏi:

–Thưa Đức Cù-đàm, Ngài có biết về sự trói buộc của tất cả chúng sanh và sự giải thoát, giải thoát hoàn toàn của tất cả chúng sanh không?

Thế Tôn bảo vị trời:

–Ta hoàn toàn như thật tri về sự trói buộc của tất cả chúng sanh, sự đạt được giải thoát, giải thoát tận cùng, giải thoát hoàn toàn.

Vị trời lại hỏi:

–Làm sao biết được sự trói buộc, đạt được giải thoát, giải thoát tận cùng, giải thoát hoàn toàn của tất cả chúng sanh?

Đức Phật bảo:

–Ta đã quán triệt nghiệp hỷ ái. Nay ngươi nên biết, tâm Ta đã đạt được giải thoát hoàn toàn. Do đạt giải thoát nên biết được sự buộc trói, sự giải thoát, sự giải thoát tận cùng, giải thoát hoàn toàn của tất cả chúng sanh.

Vị trời tán thán:

–Lành thay Cù-đàm! Ngài biết rõ sự trói buộc, sự giải thoát, giải thoát hoàn toàn...

Vị trời lại nói kệ:

Ngày xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Lìa bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ trở về cung.

180. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào giữa đêm, có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, ngồi qua một bên, bạch hỏi Phật:

–Thưa Đức Cù-đàm, Ngài đã vượt qua dòng nước chảy xiết phải không?

Thế Tôn đáp:

–Đúng vậy!

Vị trời nói:

–Thưa Cù-đàm, dòng nước mạnh này rất sâu rộng, không bờ, không có chỗ bám leo, không có nơi đặt chân mà vượt qua được, thật kỳ lạ!

Phật dạy:

–Đúng như vậy!

Vị trời lại hỏi:

–Thưa Cù-đàm, làm thế nào Ngài vượt qua được dòng nước chảy mạnh, không có bờ để tựa, leo, không có chỗ đặt chân ấy?

Đức Phật đáp:

–Nếu Ta biếng nhác tất bị đắm trong đó, đã bị chìm đắm thì bị cuốn trôi. Vì Ta tinh tấn nên không bị chìm đắm, không bị cuốn trôi, nên ở trong dòng nước lớn chảy mạnh này không có chỗ dựa leo, không có chỗ đặt chân mà có thể vượt qua được.

Vị trời tán thán:

–Lành thay! Lành thay! Tỳ-kheo có thể vượt qua được dòng nước mạnh này, không có chỗ vịn leo, thật là hiếm có.

Vị trời nói kệ tán thán:

Ngày xưa Ta từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Xa lìa hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ trở về cung.

Kệ tóm tắt:

Mâu toàn và Thiên nữ
Bốn bánh xe, tóc kết
Ngủ mê, thật khó xong
Y-ni-diên, sử lưu
Vô triền trước giải thoát
Mà hay được tế độ.

181. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, ngồi qua một bên, nói kệ:

Thế gian thường kinh sợ
Chúng sanh mãi lo phiền
Chưa được tài danh lợi
Và khi đã được rồi
Khi được và chưa được
Làm sao không mừng sợ?
Đối với những nghĩa này
Xin Ngài dạy cho con.

Thế Tôn nói kệ:

Người nào có trí tuệ
Tu tập giữ các căn
Từ bỏ hết thế sự
Những người làm như vậy
Không còn phải tử sanh
Ai không bỏ thế sự
Thường ở mãi sanh tử
Kinh hoàng và sợ hãi
Ưu sầu các hiểm nguy
Bị khổ não bức ép
Ai lìa bỏ tất cả
Trừ các hiểm nguy trên
Thời thoát ly sanh tử
Những pháp ác: lo, sợ.
Vị trời nói kệ: Thuở
xưa đã từng thấy Bà
la-môn Niết-bàn Xa
lìa hẳn ghét, sợ Vượt
qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ trở về cung.

182. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào giữa đêm, có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, ngồi qua một bên, nói kệ:

Ai được sắc thắng diệu
Ai cỡi xe thoát qua
Được trú ở chỗ này
Phải tu tập nghiệp gì
Với những chúng sanh nào
Được chư Thiên dâng cúng?

Thế Tôn nói kệ:

Trì giới, có trí tuệ
Tự thân khéo tu tập
Niệm, thiền không phóng dật
Trừ bỏ bốn nhiệt não
Đúng pháp ý giải thoát
Như vậy được sắc đẹp
Đạt mỹ diệu tối thắng
Đi bằng đường hòa hợp
Bất cứ ở nơi nào
Đều tu tập pháp thiện
Nếu có bậc như vậy
Nên được trời cúng dường.

Vị trời nói kệ:

Thuở xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Lìa bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ trở về cung.

183. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào giữa đêm, có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, ngồi qua một bên, nói kệ:

Thương gia nước La-thát
Tài sản giàu vô cùng
Họ cạnh tranh ham lợi
Tham cầu không biết chán
Tranh giành vì tài sản
Kết ái dục chảy tràn
Với những việc như vậy
Làm sao bỏ ái dục?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Lìa bỏ hết các duyên
Vợ con và lục súc
Cùng các thói quen ái
Trừ hẳn dục tham, si
Dứt dục đi xuất gia
Như vậy đoạn dục kết
Vĩnh viễn bỏ tất cả
Nổi chìm và tranh tụng.

Vị trời nói kệ tán thán:

Ngày xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết bàn
Từ bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ trở về cung.

184. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

–Ngày xưa, ở nước Câu-tát-la có đám thương gia với năm trăm chiếc xe kết đoàn với nhau đi đến chỗ hoang vắng hiểm nạn, không có nước cỏ. Có năm trăm tên cướp theo dõi đoàn xe, lập mưu muốn cướp đoạt. Trong chỗ hoang vắng, có vị Thiên thần biết bọn giặc cướp muốn đoạt xe, nên tự nghĩ: “Ta sẽ đến gặp các xe kia và hỏi họ. Họ đáp được ta sẽ cứu giúp. Nếu họ nói không thông ta sẽ để mặc họ”. Sau khi suy nghĩ, vị thần liền đến trước đoàn xe, thân chiếu hào quang sáng rực cả năm trăm chiếc xe, nói kệ hỏi những thương gia:

Người nào đang thức gọi là ngủ?
Người nào đang ngủ gọi là thức?
Ai thấu hiểu được ý nghĩa này
Đây chính là lúc trả lời ta.

Trong số thương gia có vị Ưu-bà-tắc quy y Tam bảo đạt được lòng tin đầy đủ, đối với Phật, Pháp, Tăng đã quyết định không còn nghi, đối với bốn Thánh đế không còn ngờ, đã được kiến đế, chứng quả thứ nhất. Sáng sớm, vị ấy thức dậy, ngồi thẳng người, đặt niệm ở trước mặt, tiếng đọc kinh phát rõ, tụng kệ pháp cú, kinh duyên khởi, các bài kinh kệ. Vị Ưu-bà-tắc này nói kệ đáp:

Ta đối với thức gọi là ngủ
Đối với người ngủ gọi là thức
Ta hiểu rất rõ sự việc này
Thế nên nay ta nói kệ đáp.

Thiên thần nói kệ hỏi:

Vì sao người bày tỏ thế này:
Ta đối với thức gọi là ngủ
Đối với người ngủ gọi là thức
Vì sao như vậy, xin trả lời.

Vị Ưu-bà-tắc nói kệ:

Đoạn trừ tham dục, sân giận, si
Các lậu đã hết, chứng La-hán
Bậc ấy đã thức, tôi đang ngủ
Không biết khổ, tập và diệt, đạo
Ta với kẻ ngủ gọi là thức
Thiên thần, ngài nên biết như vậy.

Thiên thần nói kệ:

Lành thay! Với thức gọi là ngủ
Ông đáp lời tôi thật hoàn toàn
Lâu nay không gặp anh em pháp
Nay được gặp nhau thật hoan hỷ
Các bạn của ông nhờ nơi ông
Tất cả được an ổn trở về.

Đức Phật giảng nói xong, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

185. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Ngày xưa ở thành Thâu-ba-la có trú xứ của các vị Ưu-bà-tắc. Những vị Ưu-bà-tắc này cùng nhau tập hợp ở hội trường, chê trách lỗi lầm của dục tham, ngoại hình của dục như xương trắng phơi ra. Dục như miếng thịt bị các con chim tranh nhau. Dục như phân độc, nọc độc, ô uế. Dục như hầm lửa, người bị ghẻ lở lói hơ vào lửa để bớt đau đớn nhưng bệnh càng nặng thêm. Dục như cầm đuốc đi ngược gió, nếu không vứt bỏ tất bị đuốc dốt cháy. Dục như mông huyễn, như vay mượn, như trái cây sắp rụng, như mũi giáo, là bất tịnh, tràn ngập cả xấu xa nhơ bẩn, như ăn không tiêu, hôi hám đáng ghét. Tuy họ cùng nhau bàn luận bằng nhiều lời lẽ chê trách về lỗi lầm của dục, nhưng sau khi về nhà, họ vẫn tự phóng dật. Khi ấy vị Thiên thần ở chỗ giảng đường, nơi các vị Ưu-bà-tắc tụ tập, suy nghĩ: “Các Ưu-bà-tắc tập hợp ở đây bàn luận về sự lỗi lầm, nguy hiểm của dục, nhưng khi về nhà, họ vẫn thụ hưởng say đắm dục, không thanh tịnh, không hành theo pháp. Nay ta hãy gây phiền phức để họ tỉnh ngộ”. Nghĩ như thế rồi, vị Thiên thần này trong lúc các Ưubà-tắc hội họp, nói kệ:

Ưu-bà-tắc hội họp
Nói dục là vô thường
Các người lại hành động
Chìm đắm trong dòng dục
Cũng như lún trong bùn
Bò già rơi vào đó
Như nay ta quan sát
Rất nhiều Ưu-bà-tắc
Đa văn, trì cấm giới
Chỉ thuyết lỗi của dục
Nói dục là vô thường
Nhưng chỉ là nói suông
Không thật tâm bỏ dục
Tham đắm tướng nam nữ
Tham đắm là phi pháp
Các người hãy từ bỏ
Cần tu tập như pháp
Trong giáo pháp của Phật.

Khi Thiên thần nói kệ này, các Ưu-bà-tắc nghe kệ đều hiểu biết tỉnh ngộ ra, nhàm chán tham dục, tin nơi nhà chẳng phải nhà, cạo bỏ râu tóc xuất gia học đạo siêng năng tinh tấn, tu tập giới, định, tuệ, đều chứng quả A-la-hán.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

186. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại rừng trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá.

Trưởng giả Tu-đạt-đa có một ít việc, từ nước Xá-vệ đến thành Vương xá, ở nhà trưởng già Hộ Di, thấy trong nhà này suốt đêm không ngủ, chẻ củi, đốt lửa nấu các món ăn, sắp đặt tòa cao, bày biện ghế giường.

Trưởng giả Tu-đạt thấy sự việc này, suy nghĩ: “Nhà Trưởng giả này đang sửa soạn, bày biện vật dụng để tổ chức tiệc vui chơi cho lễ cưới, hay vì đón tiếp vua Tần-bà-sa-la và các đại thần?”. Ông ta lại suy nghĩ: “Nếu vì đón tiếp nhà vua, đại thần hay lễ cưới thì Trưởng giả này không phải nhọc thân vội vã tự làm những việc lao khổ, đốt lửa nấu thức ăn, chắc chắn người ấy quan trọng lắm, nhưng không biết là ai? Ta sẽ hỏi ông ta”.

Tu-đạt nghĩ như thế rồi, đem ý tưởng hỏi Trưởng giả kia. Trưởng giả Hộ Di đáp:

–Tôi không phải tổ chức lễ mừng đám cưới, cũng không đón tiếp vua Tần-bà-sa-la cùng các đại thần... mà sáng sớm ngày mai tôi sẽ nghinh đón Đức Phật và chư Tăng, thế nên tổ chức, bày biện như thế này.

Trưởng giả Tu-đạt-đa vừa nghe đến tên Phật, toàn thân rung động, vừa sợ vừa mừng, hỏi:

–Tại sao gọi là Phật?

Hộ Di đáp:

–Vị ấy thuộc chủng tộc họ Thích, xuất gia, cạo bỏ râu tóc, chứng đạo Vô thượng chân chánh, hiệu là Phật.

Tu-đạt lại hỏi:

–Tại sao gọi là Tăng?

Trưởng giả đáp:

–Người con dòng Sát-lợi cạo bỏ râu tóc theo Phật xuất gia, hay dòng Bà-la-môn, Cư sĩ, Thủ-đàla... tin nơi nhà chẳng phải nhà, theo Phật xuất gia, đấy gọi là Tăng. Nay tôi đang thỉnh Đức Phật và Tăng.

Tu-đạt-đa hỏi:

–Hôm nay có thể gặp Đức Như Lai không?

Hộ Di đáp:

–Đức Như Lai đang ở tại rừng trúc Ca-lan-đà gần đây, bạn hãy chờ thời gian ngắn, Đức Phật sẽ đến thọ sự cúng dường của tôi.

Khi ấy Tu-đạt-đa trong lòng rộn ràng nghĩ đến việc gặp Thế Tôn, nên chỉ ngủ một chút liền thức dậy. Trời vẫn còn tối, Tu-đạt tưởng là đã sáng, liền đứng lên lần hồi đi đến cửa thành. Thường thường cửa thành ấy mở cửa vào đầu đêm và cuối đêm.

Khi Tu-đạt đến bên dưới cửa thành, thấy cửa thành mở, cho rằng trời đã sáng, nên ra khỏi cửa thành, muốn đến gặp Đức Phật. Trước đây, ông ta niệm Phật nên có ánh sáng chiếu vào thân ông.

Ra ngoài thành, ông thấy một miếu thờ trời, liền đi nhiễu và cung kính lễ bái miếu. Bỗng nhiên ánh sáng bị mất, trời tối lại, ông suy nghĩ: “Trời còn quá tối, có thể ta bị người hay phi nhân làm hại, ta nên trở vào thành”.

Thiên thần Thi-bà lúc ấy liền phóng hào quang rực rỡ chiếu sáng đến tận Kỳ Hoàn, bảo với Tuđạt:

–Ông hãy tiến tới, không nên trở về.

Thiên thần nói kệ:

Giả sử trăm con ngựa
Chở đầy cả châu báu
Với trăm người bưng vàng
Để đem đi bố thí
Lần lượt thí như vậy
Khắp cả cõi Diêm-phù
Hết công đức như thế
Gom lại thành một phần
Chỉ bằng phần mười sáu
Công đức của một người
Phát tâm đi về Phật
Giở chân bước một bước.
Giả sử trong núi Tuyết
Có voi sức mạnh lớn
Số này đến trăm thớt
Mang đầy vàng ngọc quý
Thân thể rất đẹp đẽ
Bước đi thật là nhanh
Sức lực thật dũng mãnh
Chở nhiều vật quý báu
Đem dùng để bố thí
Không bằng phần mười sáu
Công đức một bước chân
Hướng về với Đức Phật.
Như nước Kiếm-ma-kỳ
Cung cấp nhiều nữ quý
Dung nhan rất xinh xắn
Số này đến cả trăm
Trang sức với chuỗi ngọc
Vàng ròng là chủ yếu
Đầu đội vòng ngọc quý
Đem số này bố thí
Công đức này đạt được
Không bằng phần mười sáu
Giở chân đi một bước
Đến Phật bằng lòng tin
Thế nên ta khuyên người
Đến đây đừng trở về.

Tu-đạt-đa hỏi Thiên thần:

–Người là ai?

Thiên thần đáp:

–Ngày trước tôi là chàng trai tên Thiện Thân, bạn của ông. Trong lúc lâm chung, phát tâm hoan hỷ với Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên, nên qua đời được sanh thiên, làm con Tỳ-sa-môn Thiên vương ở phương Bắc. Tôi đối với đệ tử của Đức Như Lai phát tâm tùy hỷ còn được phước như vậy, huống chi đối với Đức Phật.

Tu-đạt-đa tự nghĩ:

–Vị Thiên thần này xưng tán như thế, theo đấy suy luận thì biết Bậc kia có công đức tôn quý, thù thắng.

Khi ấy Thế Tôn đang đi kinh hành trên đất trống, Trưởng giả Tu-đạt liền đến bên Đức Phật. Do lần đầu gặp Thế Tôn nên ông ta không biết lễ kính, ngồi ngay ở trước. Thiên thần kia hóa thành một Bà-la-môn, đến chỗ Đức Phật đi nhiễu ba vòng, cung kính đảnh lễ, sau đó mới ngồi. Tu-đạt thấy như vậy rồi nên bắt chước vị kia, sau khi lễ kính, ngồi xuống thăm hỏi:

–Không biết thánh thể Ngài có an lạc không?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Sống hoàn toàn an lạc
Bà-la-môn Niết-bàn
Không nhiễm ô do dục
Giải thoát tất cả hữu
Tâm đoạn các dục cầu
Tâm trừ mọi phiền não
Tâm Ta đã thanh tịnh
Tịch diệt nghỉ an ổn.

Thế Tôn đưa Tu-đạt vào phòng, rồi lên ngồi trên tòa. Tu-đạt lạy sát chân Phật, ngồi qua một bên. Đức Phật giảng thuyết giáo pháp cho ông, khiến ông hoan hỷ, đạt lợi ích, giảng về bố thí, trì giới, sanh thiên, dục là bất tịnh, xuất ly là an lạc. Đức Phật biết tâm ý của Tu-đạt-đa đã thuần chính, rộn rã vui mừng nên Ngài giảng pháp Tứ đế cho ông. Ngay tại chỗ ngồi, Tu-đạt thấy rõ bốn Chân đế, như tấm vải mới, sạch, rất dễ nhuộm màu. Cũng như vậy, Tu-đạt rất dễ giác ngộ, thấy pháp chứng pháp, đoạn trừ tám mươi kết sử sâu dày, đắc Tu-đà-hoàn, liền đứng dậy sửa lại y phục, lạy sát chân Phật, bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, con tên Tu-đạt-đa, vì hay bố thí cho những người nghèo cùng, mọi người tôn xưng con là Cấp Cô Độc.

Đức Phật nói:

–Ông là người nước nào, thuộc chủng tộc nào? Tu-đạt bạch Phật:

–Con sanh ra ở nước Xá-vệ, cầu mong Thế Tôn đến nước ấy, trọn đời con sẽ cúng dường Ngài. Phật bảo Tu-đạt-đa:

–Nước ấy có trú xứ cho Tăng chúng không?

Tu-đạt-đa bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, chỉ mong Ngài đến đó, con sẽ tạo lập để các Tỳ-kheo qua lại an trú.

Đức Như Lai im lặng nhận lời. Tu-đạt-đa nghe Phật dạy và nhận lời thỉnh, đảnh lễ chân Phật, hoan hỷ từ giã.

187. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Khi ấy Trưởng giả Tu-đạt bị bệnh rất nặng. Thế Tôn nghe ông ấy bị bệnh nặng, vào sáng sớm, mặc y mang bát đến thăm.

Trưởng giả Tu-đạt từ xa thấy Thế Tôn đến, liền cựa mình muốn ngồi dậy. Đức Phật bảo Trưởng giả:

–Ông không cần ngồi dậy.

Sau khi ngồi trên tòa riêng, Đức Phật hỏi Trưởng giả:

–Bệnh hoạn, đau đớn, ông chịu đựng được không? Uống thuốc, bệnh tăng giảm thế nào?

Trưởng giả bạch Phật:

–Bệnh khổ của con rất khó chịu đựng, sự đau đớn càng lúc càng tăng, hành hạ thật khó chịu. Như người có sức mạnh dùng dây quấn chặt đầu người yếu ớt, siết mạnh dây, ép sát vào, đầu con đau đớn cũng như vậy. Ví như người đồ tể với con dao thật bén mổ bụng con bò, nạo quậy trong ngũ tạng, bụng con đau đớn cũng như thế. Như hai lực sĩ nắm lấy một người rất gầy yếu bệnh hoạn đem nướng lên lửa, thân bệnh của con nóng sốt, đau đớn cũng như vậy.

Đức Phật bảo Trưởng giả:

–Nay ông phải sanh tâm tin tưởng không gì hủy hoại được đối với Phật, Pháp, Tăng và Giới.

Trưởng giả bạch:

–Con đã có đầy đủ bốn Bất hoại tín của Đức Phật dạy.

Đức Phật bảo Trưởng giả:

–Dựa vào bốn Bất hoại tín, nay ông phải tiếp tục tu tập pháp sáu niệm. Ông phải niệm các công đức của Phật, nhớ mười hiệu của Đức Phật là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Đây là niệm Phật.

Thế nào là niệm Pháp?

Giáo pháp thù thắng vi diệu do Như Lai thuyết giảng đều tốt đẹp, toàn thiện, có lợi ích trong hiện tại, có đạo thì đắc quả, xa lìa nhiệt não, vượt ngoài thời gian, có khả năng hướng đến xứ thiện để thấy rõ trong hiện tại ... cho đến... chỉ có người trí tự mình biết rõ. Đây là niệm Pháp.

Thế nào là niệm Tăng?

Thường phải nhớ nghĩ về đức hạnh của Tăng bảo. Thánh tăng của Như Lai đầy đủ hướng và quả, tùy bệnh cho thuốc, chân chánh hướng về đạo, tu hành theo thứ lớp, không vượt qua trung đạo, thường tùy theo Phật hành động theo Pháp, Tu-đà-hoàn hướng, Tu-đà-hoàn quả, Tư-đà-hàm hướng, Tư-đà-hàm quả, A-na-hàm hướng, A-nahàm quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả. Đây là Thanh văn Tăng của Như Lai, đầy đủ giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, là bậc để người khác thăm viếng. Những bậc Tăng như vậy, xứng đáng được kính lễ, chắp tay vái chào. Đây gọi là niệm Tăng.

Thế nào là niệm Giới?

Tự niệm, hành động với giới viên mãn, giới thanh tịnh, giới không vết nhơ, giới không khuyết, giới không rò rỉ, giới thuần tịnh, giới không cấu uế, giới vì không cầu tài vật, giới là chỗ người trí ưa thích, giới không thể chê trách. Theo thứ tự niệm như vậy, gọi là niệm Giới.

Thế nào là niệm Thí?

Với hành động bố thí của ta, ta được lợi ích toàn thiện, nên phải xa lìa tham lam keo kiệt, thực hành bố thí, tâm không bị lệ thuộc thì lìa bỏ được. Khi bố thí, cho với tự tay, tâm thường vui với sự bố thí, không nhàm chán mệt mỏi, đầy đủ tâm xả. Có ai cầu xin thường phân chia cho họ. Đây là niệm Thí.

Thế nào là niệm Thiên?

Thường nên hộ trì tâm niệm về Lục dục thiên, niệm Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, sanh vào sáu cõi trời kia.

Tu-đạt-đa bạch Phật: –Thưa Thế Tôn, con đã tu tập đầy đủ sáu pháp niệm do Đức Phật dạy.

Tu-đạt lại bạch Phật:

–Cầu mong Thế Tôn nhận lời thọ trai tại nhà con.

Đức Thế Tôn im lặng thọ thỉnh. Đến giờ thọ trai, Trưởng giả Tu-đạt sai người dọn các món ăn thơm ngon tinh khiết dâng lên Đức Như Lai. Sau khi cúng dường, Trưởng giả chắp tay hướng về Phật, thưa:

–Thế Tôn ra đời, thật khó được gặp.

Đức Phật giảng dạy giáo pháp làm cho Trưởng giả được lợi ích vui vẻ, rồi từ giã ra về. Sau khi Đức Phật ra về, ngay trong đêm ấy, Trưởng giả Tu-đạt qua đời, sanh lên cõi trời.

Sau khi sanh lên cõi trời, thiên tử Tu-đạt với hào quang dị thường, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, trở lại gặp Đức Phật, lạy sát chân Phật, ngồi qua một bên, nói kệ:

Nơi này nay vẫn vậy
Vườn rừng chùa Kỳ viên
Nơi Tiên thánh trú ngụ
Rừng ao rất thanh tịnh
Pháp chủ sống ở đây
Nay tâm con hoan hỷ
Tín, giới, định, tuệ nghiệp
Chánh mạng làm thanh tịnh
Ai tu tập như vậy
Là hướng đến thanh tịnh.
Giòng họ hay giàu có
Không thể đạt quả này
Xá-lợi-phất trí tuệ
Yên lặng giữ cấm giới
Vui sống nơi chỗ vắng
Tối thắng không ai bằng.

Đức Phật bảo vị trời ấy:

–Đúng vậy! Đúng vậy!

Thế Tôn nói kệ:

Tín, giới, định, tuệ nghiệp
Chánh niệm làm thanh tịnh
Không phải do dòng họ
Giàu có đạt quả này
Xá-lợi-phất trí tuệ
Tịch diệt thường trì giới
Vui sống nơi yên vắng
Tối thượng không ai bằng.

Thiên tử Tu-đạt nghe lời Phật dạy, hoan hỷ đảnh lễ, biến mất khỏi chỗ ngồi, trở về Thiên cung.

Vào lúc trời chưa sáng tỏ, Đức Thế Tôn vào giảng đường, trải tọa cụ ra ngồi, bảo các Tỳ-kheo:

–Vừa rồi có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Ta, đảnh lễ sát dưới chân, nói kệ:

Nơi này vẫn như xưa
Vườn rừng của Kỳ viên
Nơi Tiên thánh trú ngụ
Rừng ao rất yên tịnh
Pháp chủ sống ở đây
Nay con sanh hoan hỷ
Tín, giới, định, tuệ nghiệp
Chánh mạng là thanh tịnh
Ai tu tập như vậy
Là hướng đến thanh tịnh
Chẳng phải do dòng họ
Giàu có đạt quả này
Xá-lợi-phất trí tuệ
Tịch nhiên giữ giới cấm
Vui sống nơi vắng lặng
Tối thượng không ai bằng.

Bấy giờ Tôn giả A-nan ở sau lưng Đức Phật, nghe bài kệ của vị thiên, bạch Phật:

–Đây chắc là Trưởng giả Tu-đạt được lên sanh cõi trời nên trở lại ca ngợi Xá-lợi-phất.

Phật dạy:

–Đúng như vậy. Tu-đạt-đa được sanh lên cõi trời, trở lại gặp Ta nói bài kệ ấy.

A-nan và các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

188. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong rừng Đệ nhất, thuộc vườn Khoáng dã. Bấy giờ Thủ Trưởng giả bị bệnh nặng. Thế Tôn nghe ông ta bị bệnh nên vào sáng sớm hôm sau, Ngài đắp y bưng bát đến nhà vị ấy.

Thủ Trưởng giả từ xa thấy Thế Tôn đến, chuyển mình muốn ngồi dậy. Phật bảo Trưởng giả:

–Ông không cần ngồi dậy. Ông chịu đựng được đau đớn không? Uống thuốc có thuyên giảm, không tăng thêm chứ?

Trưởng giả bạch Phật:

–Nay con đau đớn rất khó chịu, đau khổ kịch liệt càng lúc càng tăng, hành hạ thật nguy nan. Như người có sức mạnh lấy tay bóp lấy đầu người sức yếu, ép chặt siết mạnh, đầu con đau đớn cũng như vậy. Như người đồ tể với cái dao bén của ông ta mổ khoét, cắt đứt từng đoạn ruột gan của con bò, bụng con đau đớn cũng như thế. Như hai người lực sĩ nắm chặt một người yếu ớt bệnh hoạn đem nướng trên lửa làm thân thể khô nứt, thân thể con đau đớn, nóng sốt cũng không khác.

Đức Phật bảo Trưởng giả:

–Nay ông cần phải đối với Phật, Pháp, Tăng, Giới phát sanh tâm tin tưởng không gì hủy hoại được.

Trưởng giả bạch Phật:

–Con đã có đầy đủ bốn Bất hoại tín của Đức Phật giảng dạy.

Đức Phật bảo Trưởng giả:

–Dựa vào bốn Bất hoại tín để tu tập sáu niệm.

Trưởng giả bạch Phật:

–Sáu niệm này con đã tu tập đầy đủ.

Bấy giờ Trưởng giả bạch Phật:

–Cầu mong Thế Tôn thọ trai ở đây.

Đức Phật im lặng nhận lời.

Đến giờ ăn, Thủ Trưởng giả sai người dọn các món ăn thơm ngon tinh khiết dâng lên Đức Như Lai. Sau khi Trưởng giả cúng dường, Đức Như Lai thọ trai xong, Trưởng giả chắp tay hướng về Đức Phật, bạch:

–Đức Thế Tôn ra đời rất ít khi được gặp. Đức Phật giảng giáo pháp làm cho Trưởng giả được lợi ích, hoan hỷ, sau đó đứng dậy cáo từ.

Khi Như Lai trở về, vào đêm ấy, Thủ Trưởng giả qua đời, sanh lên cõi trời Vô nhiệt. Sau khi sanh thiên, vị ấy tự nghĩ: “Ta nên đến gặp Đức Phật”. Suy nghĩ như trên rồi, vị trời ấy đến gặp Đức Phật với hào quang rực rỡ chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đảnh lễ sát dưới chân Phật, ngồi xuống qua một bên, thì thân thể bị lún vào đất như bơ dầu rớt trên đất. Đức Phật bảo thiên tử:

–Ông hãy hóa thân thô xấu với ý tưởng trụ lại. Thủ thiên tử vâng lệnh Phật, liền hóa ra thân hình thô xấu ở Dục giới nên không bị chìm lún nữa. Đức Phật bảo Thủ thiên tử:

–Ông hành bao nhiêu pháp với tâm tinh tấn không nhàm chán nên sau khi qua đời sanh lên cõi trời Vô nhiệt?

Thủ thiên tử bạch Phật:

–Con thực hành ba pháp, tâm không nhàm chán nên được sanh thiên, là gặp Phật, nghe Pháp, cúng dường chúng Tăng không nhàm chán, nên sau khi qua đời được sanh cõi trời Vô nhiệt.

Thủ thiên tử nói kệ:

Con thường ưa gặp Phật
Không bỏ việc nghe pháp
Cúng dường Tỳ-kheo Tăng
Thọ trì pháp Hiền thánh
Điều phục tâm tham sân
Được sanh trời Vô nhiệt.

Thủ Trưởng giả nói kệ xong, hoan hỷ đảnh lễ, biến mất tại chỗ, trở về Thiên cung.

189. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, ngồi qua một bên, nói kệ:

Bảy Tỳ-kheo giải thoát
Sanh cõi trời Vô phiền
Đoạn hết nghiệp phải thọ
Vượt tham ái thế gian
Ai vượt qua dòng dữ
Vượt dòng chảy dữ này
Tự tại thoát sanh tử
Thật khó mà vượt khỏi
Ai bứt dây thần chết
Vượt khỏi cảnh giới trời.
Thế Tôn nói kệ đáp:
Ưu-tỳ, La-kiến-đà
Thứ ba Phật Yết-la
Bạt Trực, Yết-đề-bà
Bà-hầu, Đề-tỳ-nữu
Những vị Tỳ-kheo ấy
Đã vượt khỏi dòng thác
Tự tại thoát sống chết
Cắt đứt dây tử sanh
Vượt qua cảnh giới trời
Ngôn thuyết rất sâu xa
Khó biết, khó hiểu rõ
Lời nói thật toàn thiện
Ông là vị thiên nào
Đến hỏi Ta việc ấy?
Vị trời nói kệ đáp:
Con không xa cõi này
Tên là trời Vô phiền
Thế nên con biết rõ
Bảy Tỳ-kheo giải thoát
Đoạn sạch hết nghiệp ái
Thoát trói buộc thế gian
Con sanh lên trời trước
Nay sẽ nói đầy đủ
Phạm hạnh, các lậu hết
Ưu-bà-tắc Ca-diếp
Thợ gốm nuôi cha mẹ
Xa lìa hẳn dâm dục
Ca-diếp và cha mẹ
Các thanh niên Ái Đáp
Họ là bạn thân con
Con, bạn thân của họ
Tịnh thân, giữ miệng ý
Đang sống thân cuối cùng
Những đại nhân như vậy
Là bạn lành với con.

Thế Tôn nói với vị trời:

–Đúng vậy! Đúng vậy! Thật như lời ông nói.

Thợ gốm như ông nói
Ở Tỳ-bà-lăng-già
Thợ gốm Nan-đề-bà
Ưu-bà-tắc Ca-diếp
Hiếu dưỡng nuôi cha mẹ
Phạm hạnh đoạn phiền não
Ông bạn thân với ta
Ta cũng thân với ông
Các đại nhân như vậy
Ngày xưa thân cận nhau
Tu tập thân, khẩu, ý
Thân này là cuối cùng.

Vị trời nghe Phật dạy, hoan hỷ đảnh lễ từ giã.

Kệ tóm lược:

Thường kinh khủng nhan sắc
La-thát quốc, cổ khách
Du-ba-la, Tu-đạt
Tu-đạt-đa sanh thiên
Thủ Trưởng giả sanh thiên
Lại có trời Vô phiền.

QUYỂN 10

190. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại rừng trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá.

Bấy giờ Phạm chí Độc Tử đến gặp Đức Phật, sau khi thăm hỏi, ngồi qua một bên, bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, con có chút nghi ngờ, muốn thưa hỏi. Ngài là Bậc Đa Văn, xin Ngài cho phép.

Đức Phật bảo Độc Tử:

–Nếu có nghi ngờ, tùy ý nêu hỏi.

Độc Tử hỏi:

–Ngã và thân là một phải không?

Phật đáp:

–Ta không trả lời về sự việc này.

Hỏi:

–Ngã và thân khác nhau phải không?

Phật đáp:

–Ta cũng không trả lời về sự việc này.

Độc Tử nói:

–Con hỏi Ngài: “Ngã với thân là một phải không?”, Ngài không đáp; “Ngã với thân khác nhau phải không?”, Ngài cũng không đáp. Những câu hỏi này không được Ngài đáp, tại sao Ngài có thể thọ ký cho đệ tử chết chỗ này sanh chỗ kia trong cảnh giới Trời, Người? Nếu Ngài đã thọ ký họ chết chỗ này sanh chỗ kia thì chẳng phải là thân chỗ này còn ngã đến một trong năm cảnh giới kia hay sao? Nếu như vậy thì thân với ngã phải khác nhau? Phật bảo Phạm chí:

–Ta giảng nói: kẻ nào có thủ thì chắc chắn kẻ ấy thọ sanh, ai không có thủ thì không còn thọ sanh. Này Độc Tử, như lửa có thủ (nhiên liệu) mới cháy, nếu không có thủ thì không thể cháy.

Độc Tử nói:

–Thưa Cù-đàm, con cũng thấy lửa không thủ vẫn cháy.

Phật hỏi Độc Tử:

–Ngươi thấy lửa gì không có thủ, vẫn cháy?

Độc Tử đáp:

–Con thấy có trường hợp lửa cháy dữ, bùng lên rực rỡ, có ngọn gió mạnh làm lửa bay đi mà nó vẫn còn cháy.

Phật bảo Độc Tử:

–Ngọn lửa bay đi này vẫn có thủ.

Độc Tử nói:

–Rời đống lửa, ngọn lửa vẫn cháy, vậy lấy gì làm thủ?

Đức Phật nói:

–Ngọn lửa rời đống lửa, nhờ gió mà cháy, lấy gió làm thủ, nên ngọn lửa vẫn cháy, nhờ sức của gió nên thấy ngọn lửa rời vẫn cháy.

Độc Tử nói:

–Lửa có thể được, chứ người thì không phải. Tại sao? Thân chết ở đây, ý sanh ở kia, khoảng gián cách này lấy gì làm thủ?

Phật dạy:

–Khi ấy lấy ái làm thủ, do nhân duyên ái thủ nên chúng sanh thọ sanh. Tất cả chúng sanh thế gian đều yêu mến thủ, tất cả đều vì thủ nên yêu mến, tất cả đều lấy thủ làm nhân, chúng sanh thấy thủ đều sanh tâm hoan hỷ. Tất cả chúng sanh đều rơi vào thủ. Đức Như Lai, A-la-hán vì không có thủ nên chứng Vô thượng Chánh đẳng giác.

Độc Tử thưa:

–Nay con có việc cần phải làm, muốn trở về nhà. Phật dạy:

–Này Phạm chí, phải biết tùy thời.

Độc Tử nghe lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

191. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại rừng trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá.

Phạm chí Độc Tử đến gặp Tôn giả Đại Mụcliên. Sau khi thăm hỏi, ngồi qua một bên. Phạm chí Độc Tử hỏi Mục-liên:

–Vì lý do nào mà Sa-môn, Bà-la-môn đến hỏi Phật về việc chết ở đây sanh nơi kia, cho đến… chẳng phải sanh, chẳng phải không sanh thì Ngài im lặng không đáp? Trong khi đó các Sa-môn, Bàla-môn khác thấy có người đến hỏi, đều trả lời tùy ý họ. Trước đây, tôi từng hỏi Sa-môn Cù-đàm về chết nơi này sanh nơi kia nhưng không được Ngài đáp. Hỏi về chết ở đây không sanh nơi kia, chết ở đây cũng sanh nơi kia, cũng không sanh nơi kia, chết ở đây chẳng phải sanh nơi kia, chẳng phải không sanh nơi kia, đều không được đáp. Vì lý do nào Sa-môn Cù-đàm im lặng không đáp?

Tôn giả Mục-liên nói:

–Các Sa-môn, Bà-la-môn khác không biết về nguyên nhân phát sanh ra sắc, không biết sắc diệt, không biết sắc vị, không biết cái hại của sắc, không biết xuất ly sắc. Vì họ không hiểu được những ý nghĩa này nên chấp trước sắc, cho rằng sắc của ta sanh ở kia, ta không sanh ở kia, vì chấp trước sắc nên cho rằng ta cũng sanh ở kia, cũng không sanh ở kia, vì chấp trước sắc nên cho rằng ta phải sanh ở kia, ta chẳng phải không sanh ở kia. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Đức Như Lai như thật tri về sắc từ nhân nào sanh, sắc từ nhân nào diệt, biết sắc vị, biết cái hại của sắc, biết xuất ly sắc. Đức Như Lai như thật tri về sắc sanh ở chỗ kia nên tâm không chấp thủ, cho đến biết về sắc chẳng sanh, chẳng phải không sanh, cũng không chấp thủ. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Với ý nghĩa này sâu xa vô lượng, không có giới hạn, không thể biết được bằng toán số, không có nơi chốn, không có đến đi, tịch diệt vô tướng.

Phạm chí Độc Tử nghe lời giảng giải của Tôn giả Mục-liên, hoan hỷ phụng hành.

192. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại rừng trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá.

Phạm chí Độc Tử đến gặp Đức Phật, sau khi thăm hỏi, ngồi qua một bên, bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, vì lý nào các Sa-môn, Bà-lamôn khác, nếu có người hỏi đều tùy thuận trả lời: “Ta chết ở đây sanh chỗ kia, ta chết ở đây không sanh chỗ kia, ta chết ở đây cũng sanh chỗ kia, cũng không sanh chỗ kia, ta cũng chẳng sanh chỗ kia, chẳng không sanh chỗ kia”.

Độc Tử lại hỏi:

–Thưa Cù-đàm, câu hỏi như vậy vì sao Ngài không thể tùy thuận mà đáp? Đức Phật bảo:

–Các Sa-môn, Bà-la-môn khác không biết nguyên nhân sanh ra sắc, không biết sắc diệt, không biết cái hại của sắc, không biết sắc vị, không biết xuất ly sắc. Do họ không biết nguyên nhân sanh ra sắc, cho nên không biết cách lìa khỏi sắc, nên đối với sắc cho rằng ta chết ở đây sanh chỗ kia, chết ở đây không sanh chỗ kia, chết ở đây cũng sanh chỗ kia, cũng không sanh chỗ kia, chết ở đây chẳng phải sanh chỗ kia, chẳng phải chẳng sanh chỗ kia, đều do chấp thủ. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy.

Đức Phật lại bảo Độc Tử:

–Đức Như Lai không phải như vậy, Như Lai biết như thật về nguyên nhân sanh sắc, biết sắc diệt, biết sắc vị, biết cái hại của sắc, biết xuất ly sắc. Như Lai đã biết như thật về nguyên nhân sanh ra sắc, sắc diệt, cái hại của sắc, sắc vị, xuất ly sắc, do biết rõ sắc nên đối với sự việc: ta chết ở đây sanh chỗ kia, cho đến chẳng phải sanh, chẳng phải chẳng sanh chỗ kia, đều không chấp trước. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy.

Đức Phật bảo Độc Tử:

–Thế nên ý nghĩa này rất sâu rộng, to lớn, vô lượng vô biên không thể tính toán được.

Này Độc Tử, vì nhân duyên này, các Sa-môn, Bà-la-môn, không thấu triệt ý nghĩa ấy, theo câu hỏi mà đáp bừa. Ai hỏi Như Lai về sắc của ta sanh chỗ kia hay không sanh chỗ kia, cũng sanh chỗ kia, cũng không sanh chỗ kia, chẳng sanh chỗ kia, chẳng không sanh chỗ kia, vì những câu hỏi này vô nghĩa lý nên Ta không đáp. Câu hỏi đã sanh chỗ kia, cho đến chẳng sanh, chẳng phải sanh, Ta cũng đều không đáp.

Độc Tử nói:

–Hy hữu thay Đức Cù-đàm! Ngài cùng đệ tử trình bày những sự việc đều giống nhau cả về hình thức và nội dung, ý nghĩa câu nói đều đúng.

Độc Tử lại thưa:

–Trước đây con đến gặp Sa-môn Mục-kiềnliên, lúc ấy con đem ý nghĩa câu hỏi này hỏi Mụcliên, vị ấy đem câu nói với ý nghĩa đúng trả lời con. Thưa Cù-đàm, nay lời Ngài giảng dạy không khác lời Mục-liên. Thế nên nay con tôn xưng giáo pháp thế này là hy hữu, xưa chưa từng có và chưa được giảng nói với nghĩa lý thuận hợp, trả lời câu hỏi này thật hoàn toàn.

Phạm chí Độc Tử nghe lời Phật dạy, hoan hỷ từ giã.

193.

Một thời Tôn giả Tăng-đề Ca-chiên-diên ở tại trú xứ Quần-thật-ca, thành Na-đề.

Bấy giờ Phạm chí Độc Tử có sự việc nên đến thành này. Sau khi đến thành ấy hoàn tất việc kinh doanh xong, Độc Tử đi đến gặp Tôn giả Tăng-đề Ca-chiên-diên, thăm hỏi, ngồi qua một bên, thưa với Tôn giả:

–Tôi có một điều nghi ngờ muốn thưa hỏi Tôn giả, nếu rảnh rỗi cho phép tôi hỏi, mong Tôn giả giải đáp.

Tôn giả nói:

–Này Độc Tử, tôi cho phép ông hỏi, sau đó sẽ rõ.

Độc Tử hỏi:

–Vì nhân duyên gì các Sa-môn, Bà-la-môn khác, khi có người đến hỏi: Chết đây sanh ở kia, chết ở đây không sanh chỗ kia, cho đến chẳng phải sanh chỗ kia, chẳng phải chẳng sanh chỗ kia, họ đều trả lời. Sa-môn Cù-đàm khi được hỏi về vấn đề sắc chết ở đây sanh nơi kia, cho đến chẳng phải sanh nơi kia, chẳng phải chẳng sanh nơi kia, vì cho rằng vô nghĩa lý nên bỏ qua không đáp, phải không? Tôn giả bảo:

–Ta hỏi ông, theo sự hiểu biết của ông, tùy ý đáp. Ý ông nghĩ sao? Với nhân, với duyên, với hành, với căn bản, với hành mà từ đó đưa đến đời sống, với sắc hoặc vô sắc, hoặc hữu tưởng, hoặc vô tưởng, với nhân này, với duyên này, với hành này, với căn bản này, với hành này đưa đến chỗ tịch diệt hoàn toàn, vô tưởng tận xứ, nếu đã như vậy thì không còn có nhân duyên, không hành, không tướng và các pháp đã bị tận diệt. Như vậy Như Lai có thể nào nói rằng: chết ở đây sanh ở chỗ kia, cho đến nói chẳng phải sanh chỗ kia, chẳng phải chẳng sanh chỗ kia được không?

Độc Tử nói:

–Này Ca-chiên-diên, với nhân như vậy, duyên như vậy, hành như vậy, căn bản như vậy, với hành như vậy mà từ đó phát sanh sắc như vậy, vô sắc như vậy, tưởng như vậy, vô tưởng như vậy, nếu các pháp này đều đi đến chỗ diệt tận hoàn toàn, vô tưởng diệt tận thì với các pháp như thế không còn có nhân duyên gì cả, Như Lai làm sao nói gì về chúng được?

Độc Tử lĩnh hội được điều ấy, trong tâm hoan hỷ hỏi Tôn giả:

–Tôn giả là đệ tử Phật, được thân cận với Phật đã lâu rồi phải không?

Tôn giả đáp:

–Tôi là đệ tử của Phật mới trải qua ba năm.

Độc Tử nói:

–Này Ca-chiên-diên, Tôn giả được lợi ích lớn, có thể ở giữa mọi người với thân khẩu trí tuệ biện tài như thế. Trong thời gian ngắn, Tôn giả có đủ khả năng như vậy, thật là hy hữu!

Độc Tử nói tiếp:

–Nay tôi có việc, cần phải trở về.

Tôn giả nói:

–Hãy biết tùy thời.

Phạm chí Độc Tử nghe lời dạy của Tôn giả Cachiên-diên hoan hỷ từ giã.

194. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại rừng trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá.

Phạm chí Độc Tử đến gặp Đức Phật. Sau khi thăm hỏi, vị ấy ngồi qua một bên, thưa Phật: –Bạch Thế Tôn, con có chút nghi ngờ, muốn thưa hỏi. Nếu Ngài rảnh rỗi xin giải đáp cho con.

Đức Phật nói:

–Ông tùy ý hỏi. Độc Tử thưa:

–Vì lý do nào mà các Sa-môn, Bà-la-môn khác, khi có người đến hỏi: chết ở đây sanh ở kia, cho đến chẳng sanh kia, chẳng phải không sanh kia, họ đều đáp. Sa-môn Cù-đàm khi được hỏi về vấn đề này: chết đây sanh kia, cho đến… chẳng sanh kia, chẳng phải không sanh kia, đều cho rằng vô nghĩa lý nên bỏ qua không đáp?

Đức Phật bảo Độc Tử:

–Nay Ta hỏi, ông tùy theo chỗ hiểu biết mà trả lời. Ý ông thế nào? Với nhân, duyên, hành, căn bản, với hành đưa đến đời sống, với sắc, vô sắc, tưởng, vô tưởng, với nhân này, duyên này, hành này, căn bản này, với hành này đưa đến tịch diệt hoàn toàn, vô tưởng tận xứ. Những pháp như vậy không còn có nhân, duyên, không hành, không tưởng, là pháp tận diệt. Ta làm sao đối với pháp không nhân duyên, tận diệt này mà nói chết đây sanh kia, cho đến nói chẳng phải sanh kia, chẳng phải chẳng sanh kia cho được?!

Độc Tử bạch Phật:

–Với nhân như vậy, duyên như vậy, hành như vậy, căn bản như vậy, với hành như vậy là cơ sở đưa đến đời sống, sắc như vậy, vô sắc như vậy, tưởng như vậy, vô tưởng như vậy, các pháp như vậy, cho đến tận diệt hoàn toàn, vô tưởng diệt xứ. Các pháp như thế không còn có nhân duyên, con làm sao có thể nói về nó được?!

Độc Tử lãnh hội được lời Phật dạy, tâm sanh hoan hỷ, bạch Phật:

–Hy hữu thay Đức Cù-đàm! Đệ tử Ngài và Ngài thuyết giảng về sự thật này với câu văn và ý nghĩa không khác nhau.

Độc Tử lại thưa:

–Vào một ngày nọ con có ít sự việc, đến trú xứ Quần-thật-ca thuộc thành Na-đề, hỏi Sa-môn Tăng-đề Ca-chiên-diên về sự việc như vậy. Tôn giả ấy đem ý nghĩa này để trả lời con, câu văn và ý nghĩa cùng với lời Ngài đang nói không khác nhau, không sai lầm. Thế nên con tôn xưng là hy hữu, giáo pháp như vậy là chưa từng có, chưa từng được nghe nói, nghĩa lý thuận hợp, khéo đáp ứng được với câu hỏi.

Phạm chí Độc Tử nghe lời Phật dạy, hoan hỷ từ giã.

195. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại rừng trúc Ca-lan-đà, núi Linh thứu, thuộc thành Vương xá.

Phạm chí Độc Tử đến gặp Phật, sau khi thăm hỏi ngồi qua một bên, bạch Phật:

–Thưa Cù-đàm, tất cả chúng sanh có ngã không?

Phật im lặng không đáp.

Ông lại hỏi:

–Vô ngã phải không?

Phật cũng không đáp. Độc Tử tự nghĩ: “Ta từng hỏi Sa-môn Cù-đàm về ý nghĩa này nhưng vị ấy im lặng không đáp”.

Bấy giờ Tôn giả A-nan đang ở bên cạnh cầm quạt quạt hầu Phật, nghe hỏi như vậy, thưa với Phật:

–Bạch Thế Tôn, vì sao Ngài im lặng không đáp câu hỏi của Độc Tử? Nếu Ngài không đáp, Độc Tử sẽ nói: “Ta hỏi Như Lai, không thấy đáp gì cả!

Có thể ông ta sẽ tăng trưởng tà kiến chăng?” Đức Phật bảo A-nan:

–Trước đây ông ấy hỏi Ta: “Tất cả các pháp có ngã phải không?”. Nếu Ta đáp như câu hỏi của Độc Tử là các pháp có ngã thì ngược lại trước đây trong các kinh dạy các pháp vô ngã, phải không? Nếu Ta trả lời theo câu hỏi của ông ta: các pháp không có ngã, thì ngược với đạo lý. Tại sao? Bởi vì tất cả các pháp không có ngã thì lấy cái ngã nào để đối đáp với ông ta? Làm như vậy càng khiến tăng thêm sự ngu si, nghi ngờ vốn có của ông ta.

Lại nữa, này A-nan, ai nói có ngã là rơi vào thường kiến. Ai nói không có ngã là rơi vào đoạn kiến. Như Lai thuyết pháp xa lìa cả hai bên, nhằm vào trung đạo. Thế nên, phải biết các pháp biến hoại mà không thường còn, liên tục mà không đoạn tuyệt, không thường không đoạn, nhân như vậy thì có như vậy, nhân này sanh thì cái kia sanh, nhân này không sanh thì cái kia không sanh. Thế nên nơi vô minh thì có hành sanh, nhân hành có thức, nhân thức có danh sắc, nhân danh sắc có lục nhập, nhân lục nhập có xúc, nhân xúc có thọ, nhân thọ có ái, nhân ái có thủ, nhân thủ có hữu, nhân hữu có sanh, nhân sanh có lão, tử, ưu, bi, khổ não, cả một khối khổ lớn. Nhân diệt thì quả diệt: Vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sanh dệt, sanh diệt thì lão, tử, ưu, bi, khổ não, tập hợp các khổ bị diệt tận, cả khối khổ lớn bị diệt hết.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

196. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại rừng trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá.

Phạm chí Độc Tử đến gặp Đức Phật, sau khi thăm hỏi, ngồi qua một bên, hỏi Đức Phật:

–Thưa Cù-đàm, có phải Ngài đã bày tỏ với tri kiến này, với lý luận này: “Thế giới là thường, chỉ ta riêng hiểu rõ, người khác không biết?”.

Phật bảo Độc Tử:

–Ta không bày tỏ theo tri kiến như vậy, với lời nói như vầy: “Chỉ có Ta biết, người khác không biết.”

Độc Tử lại hỏi:

–Nếu Ngài không bày tỏ với lời nói như vậy thì tất cả thế giới đều vô thường phải không?

Phật bảo Độc Tử:

–Ta cũng không nói là thế giới vô thường, chỉ có Ta biết, người khác không biết.

Độc Tử lại hỏi:

–Có phải Ngài bày tỏ với lý luận: “Thế giới vừa thường vừa vô thường, chỉ có Ta biết, người khác không biết, phải không?” Phật bảo Độc Tử:

–Ta cũng không giảng nói rằng thế giới vừa thường vừa vô thường, chỉ có Ta biết, người khác không biết.

Độc Tử lại hỏi:

–Có phải Ngài giảng nói: “Tất cả thế giới chẳng thường, chẳng vô thường, chẳng phải chẳng thường, chẳng phải chẳng vô thường, chỉ có Ta hiểu, người khác không biết, phải không?” Đức Phật đáp:

–Ta không giảng nói tất cả thế giới chẳng thường,

... cho đến… người khác không biết.

Độc Tử lại hỏi:

–Thế giới hữu biên hay vô biên? Hay vừa hữu biên vừa vô biên? Hay chẳng phải hữu biên chẳng phải vô biên? Hay chẳng phải chẳng hữu biên, chẳng phải chẳng vô biên? Thân tức là mạng, hay mạng sống là thân? Hay thân thể và mạng sống khác nhau? Thần ngã của chúng sanh chết ở đây sanh ở kia là có hay không? Hay cũng có cũng không? Hay chẳng có chẳng không? Hay chẳng chẳng có, chẳng chẳng không? Này Cù-đàm, Ngài có thể nói như thế nào?

Đức Phật bảo Độc Tử:

–Ta không bày tỏ với tri kiến, với luận thuyết: Thế giới hữu biên, vô biên,

... cho đến… chẳng chẳng không.

Độc Tử thưa:

–Này Cù-đàm, trong những pháp này, Ngài thấy có điều gì sai lầm mà không chấp nhận một ý kiến nào cả?

Đức Phật bảo Độc Tử:

–Ta không giảng nói thế giới là thường, chỉ có đây là sự thật, ngoài ra đều là ngu si sai lầm, vì với tri kiến như vậy chỉ gây ra những trói buộc ngăn che, vì với hành động và quan sát theo tri kiến ấy chỉ đưa đến nhận thức theo phiền não, cấu uế, bất tịnh. Tri kiến trói buộc ấy cùng với khổ đưa đến tàn hại, làm phát sanh buồn não, làm cho hành giả u uất, sanh ra nhiều ưu phiền. Ai cùng tương ưng với tri kiến như thế tức là ngu si trẻ con, gọi là không hiểu biết, cũng gọi là phàm phu, khiến cho sanh tử luân hồi luôn nối tiếp.

Đức Phật lại bảo Độc Tử:

–Thế gian là thường, vô thường … cho đến… chẳng phải vô thường. Thế giới hữu biên … cho đến… chẳng phải vô biên. Thần ngã của chúng sanh chết đây sanh kia… cho đến chẳng phải chẳng không. Nếu có ai chấp trước với tri kiến ấy thì gọi là trẻ ngu, gọi là không hiểu biết, gọi là phàm phu, chỉ tăng trưởng sanh tử phiền não nhiễm ô, làm cho hành giả phải chịu ràng buộc bức bách, sanh nhiều ưu khổ, không có an lạc. Do sự thật này, Ta đối với các kiến ấy không có chấp trước.

Độc Tử lại hỏi:

–Nếu Ngài không chấp vào các kiến này, vậy Ngài có kiến chấp gì?

Phật bảo Độc Tử:

–Như Lai Thế Tôn từ lâu đối với kiến chấp đều đã đoạn trừ, không còn kiến chấp. Tuy có tri kiến nhưng tâm không chấp thủ. Đó là tri kiến về khổ thánh đế, tri kiến về khổ tập đế, tri kiến về khổ diệt đế, tri kiến đúng sự thật về con đường diệt khổ hoàn toàn. Ta đã có tri kiến sáng suốt như vầy: thấy tất cả các pháp đều là tham ái, các phiền não trói buộc là ngã, ngã sở, là kiến thủ trước, cũng gọi là kiêu mạn, pháp như vậy thật đáng nhàm chán, thế nên cần phải đoạn trừ chúng. Khi đã đoạn trừ xong, chứng đắc Niết-bàn tịch diệt thanh tịnh. Các Tỳ-kheo với nẻo chánh giải thoát như vậy, thì không còn người nào phải bị thọ thân trong ba cõi nữa.

Độc Tử nói:

–Thưa Cù-đàm, hiện nay Ngài thấy nhân duyên gì mà nói là không còn tái sanh? Phật bảo Độc Tử:

–Ta hỏi ông, tùy ý đáp. Như có người đốt đống lửa lớn ngay trước mắt ông, ông biết đống lửa đang cháy hay không? Nếu đống lửa này tắt ngay trước mắt ông, ông biết là nó tắt không? Nếu có người đến hỏi ông: “Lửa này sau khi bị diệt đi về phương Đông hay Nam, Tây, Bắc, bốn hướng, trên hay dưới? Đến nơi nào trong các phương này?”. Ai hỏi như vậy, ông sẽ đáp thế nào?

Độc Tử thưa:

–Cù-đàm, nếu có người hỏi như vậy, con sẽ trả lời một cách đúng đắn: Nếu có cỏ, gỗ, phân bò… thì lửa cũng như củi hỗ trợ nhau cháy không tắt. Nếu cỏ, gỗ, phân bò… hết sạch thì lửa tắt, không đến chỗ nào cả.

Phật bảo Độc Tử:

–Đúng vậy, đúng vậy! Nếu nói sắc là Như Lai, thọ, tưởng, hành, thức là Như Lai thì không đúng. Tại sao? Như Lai đã đoạn sạch sắc, thọ, tưởng, hành, thức đó. Như có người chặt đứt ngọn cây Đa-la thì nó không mọc lại được. Như Lai cũng vậy, đã đoạn trừ năm ấm không còn sanh khởi nữa, tịch diệt vô tưởng, là pháp vô sanh.

Độc Tử nói:

–Thưa Cù-đàm, con muốn nói ví dụ, xin Ngài cho phép.

Đức Phật bảo:

–Ông hãy nói tùy ý. Độc Tử nói:

–Như cách thành phố, xóm làng không xa, nơi bình nguyên có rừng Sa-la. Trải qua trăm ngàn năm, cành lá, cây Sa-la trong rừng đều rơi rụng, chỉ còn phần lõi. Ngài Cù-đàm hiện nay cũng vậy, Ngài đã đoạn trừ tất cả phiền não trói buộc, đã diệt hết cả bốn tà kiến điên đảo, chỉ còn có pháp thân kiên cố chân thật. Thưa Cù-đàm, hiện nay con có công việc cần phải trở về.

Đức Phật dạy:

–Ông hãy tùy thời.

Phạm chí Độc Tử nghe lời Phật dạy, hoan hỷ từ giã.

197. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại rừng trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá.

Phạm chí Độc Tử đến gặp Đức Phật, hỏi:

–Thưa Cù-đàm, có người ngu si phát sanh kiến thức thế này và nói: “Thế gian là thường, chỉ có đây là đúng, ngoài ra không đúng, cho đến ta chết không sanh chỗ kia, chẳng phải chẳng sanh chỗ kia”.

Phật bảo Độc Tử:

–Người không biết rõ về sắc sẽ phát sanh kiến thức với ngôn luận: Sắc nơi thế gian đều là thường. Họ tự chấp chặt tư kiến này cho là chân thật, các điều khác đều sai lầm. Thế gian là thường, vô thường, chẳng thường, chẳng vô thường; thế gian là hữu biên, vô biên, chẳng hữu biên, chẳng vô biên, chẳng phải chẳng hữu biên, chẳng phải chẳng vô biên. Thân với thần ngã là một hay khác nhau? Ta chết ở đây sanh ở kia, chết ở đây, không sanh ở kia. Ta chết ở đây vừa sanh ở kia, vừa chẳng phải sanh ở kia. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy.

Độc Tử nói:

–Thưa Cù-đàm, nếu người có trí không chấp thủ vào kiến này, không chấp thủ ngôn luận như vậy thì không nên phát sanh kiến thức và bày tỏ với ngôn luận: “Thế giới là thường, kiến thức này đúng, kiến thức khác sai”.

Phật bảo Độc Tử:

–Ai có thể biết rõ sắc, hiểu rõ tánh tướng của sắc thì những người ấy không phát khởi tri kiến này với lời lẽ bày tỏ: “Thế giới là thường, là vô thường… cho đến… chẳng phải sanh ở kia”. Cũng như vậy đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng như sắc đã nói ở trên. Ai thấu đạt về thức, hiểu rõ tánh tướng của thức, những người ấy không phát khởi kiến thức này và nói: “Thức là thường, kiến thức này đúng, kiến thức khác sai. Thức là vô thường… cho đến… chẳng sanh ở kia, chẳng không sanh ở kia… cũng như vậy”. Người không biết theo như người biết nói; người thấy, người không thấy theo như người biết nói; người hiểu, người không hiểu, như trình bày ở trên. Người thông triệt, người không thông triệt như nói ở trên; hữu tướng vô tướng như nói ở trên. Ý nghĩa sâu và cạn của nó như nói ở trên. Tỉnh ngộ hay không tỉnh ngộ như nói ở trên.

Phạm chí Độc Tử nghe lời Phật dạy, hoan hỷ từ giã.

198. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại thành Vương xá. Bấy giờ Phạm chí Độc Tử đến gặp Đức Phật. Sau khi thăm hỏi, vị ấy ngồi qua một bên, bạch Phật: –Thưa Cù-đàm, con có ít nghi ngờ, nếu Ngài cho phép con mới dám hỏi.

Đức Phật im lặng không đáp. Độc Tử hỏi đến ba lần, Đức Phật đều im lặng.

Độc Tử thưa:

–Thưa Cù-đàm, từ lâu con đã gần gũi với Ngài, con có ít câu hỏi, xin Ngài đáp cho con.

Đức Phật suy nghĩ: “Phạm chí Độc Tử tới lui đã lâu, bẩm tánh ngay thật, không có tà ngụy. Những câu hỏi của ông ta đều vì cầu giải thoát chứ không phải vì gây phiền phức. Ta nên cho phép ông ấy tùy ý hỏi về A-tỳ-đàm, Tỳ-ni”.

Đức Phật bảo Độc Tử:

–Cho phép ông hỏi về những điều nghi ngờ, chớ có ngại ngùng.

Độc Tử bạch Phật:

–Thưa Cù-đàm, tất cả trong thế gian có pháp bất thiện không?

Phật đáp: –Có.

Hỏi: –Có pháp thiện không? Phật đáp: –Có. Độc Tử nói:

–Thưa Cù-đàm, xin Ngài giảng cho con về pháp thiện và bất thiện để con được hiểu rõ.

Đức Phật bảo Độc Tử:

–Ta có thể nói về nhiều loại pháp thiện và bất thiện. Nay sẽ giảng chỗ chính yếu cho ông.

Đức Phật bảo Độc Tử:

–Dục là bất thiện, ly dục là thiện. Sân hận, ngu si là bất thiện; ly sân hận, si là thiện. Trộm cắp, tà dâm, nói dối, lời nói thô ác, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, tham, sân, tà kiến là bất thiện; xa lìa những pháp ác trên với chánh kiến là thiện. Ta đã vì ông nói về ba thứ bất thiện và ba thứ thiện, mười loại bất thiện, mười loại thiện.

Này Độc Tử, nếu đệ tử của Ta hiểu rõ ba thứ thiện, bất thiện và mười loại thiện, bất thiện này, biết rõ như thật thì có thể đoạn dục; tham, sân, ngu si cũng vĩnh viễn không còn; tham dục, các ác đều bị diệt tận không còn gì. Ai có thể đoạn tận tham dục, ngu si thì các dục lậu đều hết. Vì hết hữu lậu nên thành tựu vô lậu, đắc tâm giải thoát, tuệ giải thoát, ngay trong pháp hiện tại này tự thân hiểu rõ. Chứng biết đã đắc pháp. Tự biết sanh tử đã hết, phạm hạnh đã lập, đã làm xong việc, không còn thọ thân đời sau.

Độc Tử bạch Phật:

–Trong giáo pháp của Phật, có một Tỳ-kheo nào thành tựu vô lậu, đạt tâm giải thoát, tuệ giải thoát, ngay trong pháp hiện tại này tự thân hiểu rõ, chứng biết đã đắc pháp, tự biết sanh tử đã hết, phạm hạnh đã lập, đã làm xong việc, không còn thọ thân đời sau hay không?

Phật bảo Độc Tử:

–Người đắc pháp này không phải chỉ một, hai, ba, bốn, cho đến năm trăm. Có nhiều Tỳ-kheo đắc tâm giải thoát, ngay trong pháp hiện tại này tự thân tác chứng.

Độc Tử lại hỏi:

–Trong giáo pháp Đức Phật có một Tỳ-kheo-ni nào đắc tâm giải thoát, tuệ giải thoát không?

Phật bảo Độc Tử:

–Trong giáo pháp của Ta, các Tỳ-kheo-ni chứng đắc pháp này chẳng phải một, hai, cho đến năm trăm mà có rất nhiều vị.

Độc Tử lại hỏi:

–Trừ số Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni ấy ra có vị Ưubà-tắc nào vượt nghi ngờ đến bến bờ bên kia không?

Đức Phật bảo Độc Tử:

–Trong giáo pháp của Ta, các Ưu-bà-tắc vượt nghi ngờ đến bờ bên kia, số người ấy rất nhiều, chẳng phải một, hai, ba, bốn, cho đến năm trăm, đoạn trừ năm hạ phần kết sử, chứng A-na-hàm, không còn trở lại Dục giới.

Độc Tử lại hỏi:

–Trừ số Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni tu phạm hạnh, trừ số Ưu-bà-tắc ra, có một Ưu-bà-di nào trừ hết nghi hối, vượt qua nghi đến bờ kia không?

Phật bảo Độc Tử:

–Trong Phật pháp của Ta, hạng người đó đắc pháp này chẳng phải chỉ một hai, ba cho đến năm trăm, số người ấy rất nhiều, đoạn năm hạ phần kết, chứng A-na-hàm, không còn trở lại Dục giới.

Phạm chí Độc Tử lại bạch Phật:

–Xin để qua một bên các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di tu phạm hạnh, trong Phật pháp này có vị Ưu-bà-tắc nào vẫn sống trong gia đình, hưởng thụ năm dục mà vượt qua nghi ngờ đến bờ kia không?

Phật bảo Độc Tử:

–Trong Phật pháp này chẳng phải một, hai, ba cho đến năm trăm, số người này rất nhiều. Những người này vẫn sống chung với nam nữ cận kề xung quanh, dùng hương thơm, hoa, chuỗi ngọc, mặc y phục mềm mại, đẹp, dùng các loại bột thơm, chiên-đàn… để thoa thân thể, tích trữ vàng bạc, các loại châu báu, nuôi dưỡng nhiều nô tỳ, người hầu, ở trong chỗ ồn ào chật hẹp, đoạn trừ ba thứ trói buộc, chứng Tu-đà-hoàn, chắc chắn đến chỗ giải thoát, chấm dứt cảnh giới khổ. Người nào quá độn căn sanh lại bảy lần trong cảnh giới Trời, Người không còn đọa vào cõi ác, chắc chắn thoát cảnh giới khổ.

Độc Tử lại hỏi:

–Xin tạm gác các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưubà-tắc, Ưu-bà-di tu phạm hạnh, và tạm gác các vị Ưu-bà-tắc sống trong năm dục mà đắc Tu-đàhoàn. Có người nữ nào tin theo giáo pháp của Phật, làm vị Ưu-bà-di sống trong năm dục mà vượt nghi, đến bờ kia không?

Phật bảo Độc Tử:

–Trong Phật pháp của Ta, các vị Ưu-bà-di sống trong cõi Dục, vượt qua nghi ngờ, chẳng phải chỉ một, hai, ba cho đến năm trăm, có rất nhiều các vị Ưu-bà-di tuy sống trong gia đình như Ưu-bàtắc, đã đoạn trừ ba thứ trói buộc, đắc Tu-đà-hoàn. Độc Tử thưa:

–Thưa Cù-đàm, đối với đạo Bồ-đề, Ngài đã giác ngộ hoàn toàn, giả sử các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đang tu phạm hạnh; các vị Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đang sống trong dục, các vị ấy không đầy đủ đạo hạnh thì các chi phần này không đầy đủ, trọn vẹn. Thưa Cù-đàm, Ngài đã đắc Chánh Đẳng Giác; các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đang tu phạm hạnh, Ưubà-tắc, Ưu-bà-di còn sống trong dục, đều đắc quả chứng, trong giáo pháp Phật gọi là gồm đủ.

Độc Tử lại nói:

–Thưa Cù-đàm, con muốn nói ví dụ, xin Ngài nghe con nói.

Đức Phật bảo:

–Ông hãy tùy ý nói. Độc Tử thưa:

–Như trời mưa to, nước chảy theo chỗ thấp đến biển lớn, giáo pháp của Ngài cũng như vậy, nam nữ, người lớn, người trẻ, cả người già đều được nhờ mưa pháp của Phật, trong suốt ngày đêm luôn hướng đến Niết-bàn. Lành thay Đức Cù-đàm! Lành thay diệu pháp! Lành thay người có khả năng đi vào Phật pháp!

Độc Tử lại nói:

–Con xin hỏi: giả sử có người muốn xuất gia tu phạm hạnh thì bao lâu được thành tựu?

Phật bảo Độc Tử:

–Nếu có người ngoại đạo theo học thuyết khác, muốn cầu xuất gia trong giáo pháp của Phật, trước hết cạo râu tóc cho họ, cho sống trong Tăng chúng đủ bốn tháng, nếu tâm ý họ tùy thuận, sau đó cho thọ giới. Nhưng tùy theo tâm ý từng người, không nhất thiết phải như vậy.

Phạm chí Độc Tử nghe Phật nói xong, tâm sanh hoan hỷ, thưa:

–Nếu con được xuất gia, được thọ giới, giả sử trải qua bốn năm con cũng làm được, huống chi là bốn tháng.

Phật bảo Độc Tử:

–Trước đây Ta đã nói cho ông, có hai hạng người, không nhất thiết phải làm như vậy.

Độc Tử thưa:

–Thưa Cù-đàm, quả thật trước đây Ngài đã nói như vậy.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Này các ông, hãy cho Độc Tử cạo tóc thọ giới.

Các Tỳ-kheo vâng lệnh Đức Phật, cạo tóc cho Độc Tử và truyền giới theo đúng pháp Tỳ-kheo. Tôn giả Độc Tử tinh cần tu tập, chỉ trong nửa tháng chứng đủ quả hữu học, biết pháp, thấu rõ pháp, thấy pháp, lãnh hội pháp. Đã chứng quả hữu học, hiểu biết chánh pháp rồi, Tôn giả Độc Tử suy nghĩ: “Ta nên đến gặp Phật”.

Sau khi suy nghĩ, Tôn giả đến gặp Phật, đảnh lễ sát chân Phật rồi đứng qua một bên, thưa: –Bạch Thế Tôn, con đã chứng đắc quả vị hữu học. Cầu mong Thế Tôn giảng dạy thêm pháp cho con, để con được nghe, tâm đắc giải thoát.

Phật bảo Độc Tử:

–Nếu ông mong cầu đắc tâm giải thoát, cần phải tu hai pháp, phải học hai pháp, phải phát triển rộng hai pháp. Hai pháp đó là trí tuệ và thiền định. Ai có thể tu tập rộng lớn hai pháp này thì biết được các cảnh giới, thông đạt các cảnh giới, biết vô số cảnh giới.

Phật bảo Tỳ-kheo Độc Tử:

–Ai muốn lìa dục và pháp ác, bất thiện, có giác có quán, chứng Sơ thiền, Tỳ-kheo phải tu hai pháp là trí tuệ và thiền định … cho đến… đệ Tứ thiền; Từ, Bi, Hỷ, Xả, Không xứ, Thức xứ, Bất dụng xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ cũng như vậy. Này Độc Tử, muốn đắc Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-nahàm đều cần phải học hai pháp này. Muốn học thần thông, muốn biết tha tâm trí, muốn biết túc mạng, muốn đắc thiên nhãn, thiên nhĩ, muốn đắc lậu tận trí cần phải tu tập hai pháp này, phát triển rộng lớn hai pháp này, thì biết các cảnh giới, thông đạt các cảnh giới, biết vô số cảnh giới.

Tôn giả Độc Tử nghe lời Phật dạy, hoan hỷ đảnh lễ từ giã.

Đức Đại Bi Như Lai bằng nhiều phương pháp giảng dạy, Độc Tử thọ trì pháp rồi ở chỗ vắng, ngồi yên, siêng năng, tinh tấn, tâm không phóng dật, thường trú nơi thiền định. Sở dĩ Tộc tánh tử cạo bỏ râu tóc chính vì muốn tu tập phạm hạnh vô thượng, ngay trong pháp luật này tự thân tác chứng: Với ta, sanh tử đã hết, phạm hạnh đã lập, đã làm xong việc, không còn thọ thân đời sau.

Khi ấy có nhiều Tỳ-kheo đi đến gặp Phật, Tôn giả Độc Tử thấy các Tỳ-kheo đi, hỏi họ:

–Các vị muốn đến đâu?

Tỳ-kheo đáp: –Chúng tôi muốn đến gặp Đức Phật để thân cận cúng dường.

Tỳ-kheo Độc Tử bảo các Tỳ-kheo:

–Các vị đang đi đến chỗ Thế Tôn. Nhân đây, tôi xin kính lời hỏi thăm sức khỏe Thế Tôn, và xin quý vị hãy vì tôi thưa với Thế Tôn: “Tỳ-kheo Độc Tử đã báo ân Phật, cúng dường bằng pháp, tu hành thuận theo Phật”.

Các Tỳ-kheo đến gặp Phật, lạy sát chân Phật, ngồi qua một bên, thưa:

–Bạch Thế Tôn, Tôn giả Tỳ-kheo Độc Tử lạy sát chân Thế Tôn, hỏi thăm sức khỏe Thế Tôn. Tỳ-kheo Độc Tử có nói: “Hãy vì tôi thưa với Phật, con đã tu phạm hạnh, tùy thuận lời Phật, hành theo Thế Tôn, con đã chứng đắc đầy đủ”.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Trước các ông đã có một vị trời đến đây nói với Ta: Tỳ-kheo Độc Tử đã chứng A-la-hán. Ta đã biết trước khi vị trời nói, các ông đã nói sau vị trời. Thế Tôn ghi nhận Độc Tử đã chứng A-la-hán. Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

Kệ tóm lược:

Thân mạng và Mục-liên
Hy hữu Ca-chiên-diên
Vị tằng hữu, hữu ngã
Kiến cùng với ngu si
Độc Tử được xuất gia.

QUYỂN 11

199. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại thành Vương xá. Bấy giờ có Phạm chí tên Ưu-trắc đến gặp Đức Phật. Sau khi chào hỏi, vị ấy ngồi qua một bên, thưa:

–Thưa Cù-đàm, thế giới hữu biên hay vô biên?

Đức Phật bảo Ưu-trắc:

–Ta không đáp câu hỏi này.

Ưu-trắc nói:

–Thưa Cù-đàm, tôi hỏi thế giới hữu biên hay vô biên, Ngài đều không đáp. Nếu như vậy, thông thường Ngài thuyết pháp, giải thích vấn nạn là đáp điều gì?

Phật bảo:

–Này Ưu-trắc, Ta đã biết rõ hoàn toàn về các pháp, giảng thuyết Chánh đạo cho đệ tử Thanh văn để họ diệt trừ tận cùng biên giới các khổ.

Ưu-trắc thưa:

–Ngài đã biết rõ hoàn toàn về các pháp, giảng thuyết Chánh đạo cho đệ tử Thanh văn để họ diệt trừ các khổ đến hết biên giới. Như vậy đạo mà Ngài đắc được là để cho mọi người đều hành hay là chỉ dành riêng cho một số người hành đạo ấy? Lúc ấy Đức Như Lai im lặng không đáp. Ưutrắc hỏi ba lần như vậy, Như Lai đều im lặng. Bấy giờ Tôn giả A-nan đang quạt hầu Phật, nghe câu hỏi của Ưu-trắc, Tôn giả bảo ông ta:

–Câu hỏi của ông không khác câu trước, cho nên Thế Tôn im lặng không đáp. Tôi sẽ vì ông nói một ví dụ: Như biên giới có thành trì với tường vách kiên cố, lan can cửa sổ đều chắc chắn, đại lộ, đường hẻm, dinh thự, chợ búa sắp xếp khép kín không xen tạp nhau, nhưng thành trì này chỉ có một cửa. Người giữ cửa thông minh trí tuệ, có sức ghi nhớ rất tốt, biết phân biệt rõ những người vãng lai cũ, biết cho ai vào và không cho ai vào. Khi ấy, trong thành có người muốn ra nhưng không biết đường ra, tìm khắp nơi không có chỗ trống, chỉ có một cửa này mới có thể ra được. Người giữ cửa trí tuệ ấy không cần biết hết các hạng người trong thành, nhưng biết tất cả những người trong thành muốn ra ngoài đều phải đi bằng cửa này. Này Ưutrắc, Như Lai cũng như vậy, tuy không suy nghĩ phân biệt đến tất cả mọi người, nhưng biết rất rõ tất cả đều phải ra vào bằng cửa này, biết biên giới của khổ ở quá khứ, hiện tại, vị lai đều do đường này mà chấm dứt hết khổ.

Phạm chí Ưu-trắc nghe lời Tôn giả A-nan giảng giải, hoan hỷ từ giã.

200. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá, còn Tôn giả Phú-na ở núi Linh thứu.

Có nhiều Phạm chí dị học ngoại đạo đến gặp Tôn giả, sau khi chào hỏi, ngồi qua một bên, thưa với Tôn giả:

–Chúng tôi đều nghe Sa-môn Cù-đàm nói rằng chúng sanh chết rồi không sanh nữa. Sự việc này như thế nào?

Tôn giả đáp:

–Như tôi hiểu ý nghĩa trong lời Phật dạy, thì Đức Phật không bao giờ nói chúng sanh chết rồi lại không có gì cả, chết ở đây sanh ở kia. Đức Phật không thấy có tướng chúng sanh. Vì sao? Phàm phu vọng tưởng có ngã mạn nên nói có chúng sanh. Như Lai đoạn ngã mạn, tán thán đoạn ngã mạn nên không có tưởng về chúng sanh.

Các ngoại đạo nghe Tôn giả nói, họ không hoan hỷ, cũng không chê bai, cùng nhau bỏ đi. Họ đi chưa bao lâu, Phú-na liền đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát chân Ngài, đứng qua một bên, trình bày đầy đủ với Thế Tôn những lời ngoại đạo nói: “Họ nói rằng Thế Tôn giảng, nói chúng sanh diệt rồi không còn thọ sanh nữa. Sự việc này … như trên… không có tưởng về chúng sanh”.

Phú-na lại thưa:

–Con trả lời với ngoại đạo như vậy có trái với giáo pháp của Đức Phật dạy, có hủy báng hay thêm bớt không? Có giống hay khác lời Thế Tôn dạy, nói đúng pháp hay không đúng pháp, có giống pháp hay không giống pháp, có đáng chê trách vì sai với Phật pháp không?

Phật bảo Phú-na:

–Lời ông nói rất đúng, không hủy báng, không thêm bớt, không khác lời Ta dạy, nói đúng pháp, không phi pháp, đúng với Phật pháp nên không có gì chê trách ông được. Tại sao? Xưa nay tất cả chúng sanh đều do ngã mạn làm hại, phiền não của chúng sanh đều do ngã mạn sanh trưởng, do hỷ lạc ngã mạn, không biết rõ ngã mạn nên đưa đến không biết gì cả. Như không biết chỗ đầu tiên trên vòng tròn, không biết đầu mối nơi cuộn chỉ rối, như đống dây rối, như đội quân khi bị địch đánh tan bỏ chạy hỗn loạn. Chúng sanh bị hỗn loạn bất định ở đâu? Ở đời này qua đời khác, chạy mãi không ngừng, lưu chuyển trong sanh tử không thể thoát khỏi. Này Phú-na, với ngã mạn, như vậy, nếu chúng sanh diệt tận ngã mạn không còn chút nào thì người ấy tuy ở trong cảnh giới Người, Trời, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, nhưng thấy được sự thật, thoát khổ, được an lạc mãi mãi.

Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy hoan hỷ phụng hành.

201. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá.

Giữa đêm, Tôn giả A-nan đến sông Đa-bạt, cởi y phục để trên bờ, xuống sông tắm, sau đó mặc y tắm, lên bờ hong thân cho khô.

Có ngoại đạo tên Cụ-ca-na-đề đang đi đến bờ sông ấy. Tôn giả A-nan nghe tiếng chân và tiếng ho của ông ta. Ông ta cũng nghe tiếng của Tôn giả, hỏi: –Hiền giả là ai?

Đáp: –Tôi là Sa-môn.

Hỏi: –Sa-môn rất nhiều, Hiền giả là Sa-môn nào? A-nan đáp:

–Tôi là Thích tử.

Ngoại đạo hỏi: –Tôi có điều thắc mắc, nếu Hiền giả rảnh rỗi xin cho phép tôi hỏi.

A-nan đáp:

–Ông cứ hỏi, nghe rồi mới biết.

Hỏi: –Ta chết ở đây sanh đến chỗ kia phải không?

A-nan nói:

–Như Lai không trả lời.

Hỏi: –Ta chết ở đây không sanh ở kia; cũng sanh, cũng không sanh; chẳng phải sanh, chẳng phải không sanh nơi chỗ kia, phải không?

A-nan lại nói:

–Những câu hỏi này, Như Lai đều không đáp.

Ngoại đạo nói:

–Tôi hỏi Hiền giả, ta chết ở đây sanh ở kia… đều không được đáp. Hay là Hiền giả không biết việc này?

A-nan đáp:

–Những việc như vậy, tôi đều thấy biết, chẳng phải là không thấy biết.

Ngoại đạo hỏi:

–Hiền giả thấy biết như thế nào? A-nan đáp:

–Theo sự thấy biết của tôi, thấy được cảnh giới ấy, thấy hành nghiệp của chúng sanh, cho đến thấy biết chúng sanh từ đâu sanh ra, thấy biết nghiệp trói buộc do hành động đã làm, thấy phiền não vây phủ tụ tập đen như mực. Phàm phu ít hiểu biết tương ứng với tri kiến bị trói buộc, tất nhiên trong vị lai phải trôi theo sanh tử mãi mãi. Sự việc là như vậy, có gì là không thấy biết?!

Ngoại đạo Câu-ca-na hỏi:

–Hiền giả tên gì?

A-nan đáp:

–Tôi tên A-nan. Ngoại đạo nói:

–Lành thay, lành thay! Đệ tử của Bậc Đại Sư, tôi đã đàm luận từ nãy giờ mà không biết Hiền giả A-nan. Nếu tôi biết Hiền giả, nào dám có thể cùng đối đáp được. Ngoại đạo nghe Tôn giả A-nan thuyết giảng, hoan hỷ từ giả.

202. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Trưởng giả Tu-đạt-đa muốn đến gặp Đức Phật để được gần gũi cúng dường, lại suy nghĩ: “Ta đến đó khi trời còn quá sớm, có khi Đức Như Lai chưa ra khỏi thiền định, vậy nên đến chỗ ngoại đạo trước”.

Trưởng giả đến chỗ ngoại đạo, sau khi chào hỏi, ngồi qua một bên. Dị học ngoại đạo hỏi Tuđạt:

–Trưởng giả có thể nói cho tôi biết Sa-môn Cùđàm hành động với tri kiến nào?

Tu-đạt-đáp: –Lời dạy của Như Lai, tôi chưa đạt đến được.

Tri kiến của Ngài thì ngoài nhận thức của tôi.

Ngoại đạo nói:

–Nếu Trưởng giả không biết về tri kiến của Phật, vậy có biết về tri kiến của các Tỳ-kheo không?

Tu-đạt-đáp:

–Những việc như vậy tôi đều không biết.

Ngoại đạo nói:

–Như vậy, cuối cùng Trưởng giả có kiến thức gì? Nếu biết được chút ít gì xin nói cho tôi nghe. Tu-đạt nói:

–Hiền giả hãy nói trước về kiến thức của mình, tôi sẽ trình bày sau.

Vị ngoại đạo ấy nói với Tu-đạt:

–Theo nhận thức của tôi, chúng sanh là thường, là thật, nói khác đi là sai.

Một vị ngoại đạo khác nói với Tu-đạt:

–Theo nhận thức của tôi, tất cả đều là vô thường, chỉ như vậy là thật, ngoài ra đều nói sai.

Lại có người nói:

–Chúng sanh cũng thường, cũng vô thường, chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Chỉ có đây là đúng, nói khác đi là sai.

–Thế giới hữu biên, thế giới vô biên; cũng hữu biên, cũng vô biên; chẳng phải hữu biên, chẳng phải vô biên, thân là mạng, mạng là thân; thân và mạng khác nhau; thần ngã của chúng sanh chết đây sanh kia, chết đây không sanh kia, chết đây cũng sanh kia, cũng không sanh kia; chết đây chẳng sanh kia, chẳng không sanh kia. Trưởng giả, đây là kiến thức của chúng tôi.

Sau khi các ngoại đạo đưa ra những nhận thức của mình xong, nói với Trưởng giả: –Nhân giả hãy nói kiến thức của mình đi. Tu-đạt-đáp:

–Theo nhận thức của tôi, tất cả chúng sanh đều là hữu vi, từ các nhân duyên hòa hợp mà có, gọi là nhân duyên tức chỉ cho nghiệp. Cái gì đã dựa vào sự hòa hợp của nhân duyên mà có tức là vô thường. Vô thường là khổ, khổ tức là vô ngã. Vì sự thật này, tôi không có tâm chấp trước vào kiến nào cả. Ngoại đạo quý vị bày tỏ thế này: “Tất cả các pháp đều thường, chỉ đây là đúng, nói khác đi là sai”, với suy tính như vậy chính là căn bản của các khổ. Ai tham chấp với các kiến này là tương ưng với khổ, phải chịu khổ lớn, phải chịu khổ vô cùng trong sanh tử, đều do kiến chấp về hữu, cho thế giới là thường, cho đến sau khi chết chẳng sanh chỗ kia; chẳng phải không sanh chỗ kia…. Những kiến này thật sự là pháp hữu vi do nhân duyên hòa hợp của nghiệp tập khởi. Theo như vậy, suy luận ra phải biết tất cả đều vô thường, vô thường là khổ, khổ là vô ngã.

Lại có ngoại đạo nói với Tu-đạt:

–Trưởng giả, nếu chúng sanh do nhân duyên hòa hợp của nghiệp tập khởi mà có, tất nhiên là vô thường, vô thường là khổ, khổ là vô ngã. Nếu như vậy, hiện nay tôi đang tạo những gốc khổ, cùng tương ứng với khổ, chịu khổ vô cùng trong sanh tử?

Tu-đạt-đáp:

–Trước đây tôi đã nói: Tâm tôi không chấp trước vào tất cả các kiến. Thế nên nay tôi cũng không chấp trước vào kiến này.

Khi ấy ngoại đạo tán thán Tu-đạt:

–Đúng vậy, này Trưởng giả, Trưởng giả đã bày tỏ đúng như vậy.

Sau khi Tu-đạt ở giữa chúng ngoại đạo bày tỏ tiếng gầm của sư tử, khiến cho tâm tà kiến của các ngoại đạo bị tiêu diệt, bèn đi đến gặp Phật, đảnh lễ sát chân, ngồi qua một bên, đem sự việc vừa bàn luận với ngoại đạo thưa với Đức Như Lai. Đức Phật tán thán:

–Lành thay! Ông phá tan những tà kiến của ngoại đạo với lý luận như vậy, làm cho chánh pháp hưng thịnh.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

203. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá.

Phạm chí Trường Trảo đến gặp Đức Phật, ngồi qua một bên, bày tỏ:

–Hiện nay, đối với tất cả các pháp, tôi không chấp nhận điều gì cả.

Đức Phật bảo Trường Trảo:

–Ông đối với các pháp không chấp nhận điều gì cả. Như vậy ông có chấp nhận tri kiến ấy không? Trường Trảo nói:

–Tri kiến như vậy, tôi cũng không chấp nhận.

Đức Phật bảo Trường Trảo:

–Nếu ông đã không chấp nhận tri kiến như vậy tại sao lại bày tỏ: “Đối với các pháp, tôi không chấp nhận gì cả”, vậy lời tỏ bày không chấp nhận của ông nói ra là gì?

Đức Phật lại bảo:

–Này người thờ lửa! Nếu ông thấy, ông biết mà không chấp nhận cái thấy ấy, tức là cắt đứt cái thấy ấy, đã vứt bỏ cái thấy ấy. Cũng như có người đã nôn các kiến ra ngoài, nếu người như vậy, đối với các kiến khác không còn tiếp nối, không còn giữ lấy, không còn phát sanh.

Phạm chí Trường Trảo lại nói:

–Theo Ngài nói, tôi đã đoạn trừ kiến này, đã vứt bỏ kiến này, cũng như người đã nôn các kiến ra ngoài, không còn tiếp nối, không giữ, không sanh nữa.

Phật bảo Trường Trảo:

–Nếu như vậy, có nhiều chúng sanh cùng ý kiến với ông, cũng lý luận như vậy. Có nhiều Samôn, Bà-la-môn dị đạo, nếu xả bỏ kiến này, lại không chấp nhận kiến khác, đây gọi là thiếu trí, rất cạn cợt, ngu si.

Phạm chí nên biết, chúng sanh trong thế gian đều dựa vào ba loại kiến:

Một, chấp nhận tất cả.

Hai, không chấp nhận tất cả.

Ba, chấp nhận một phần, không chấp nhận một phần.

Đệ tử của bậc Hiền thánh quán sát loại kiến thứ nhất, thấy nó phát sanh do tham dục, sân hận, ngu si, lại bị ba độc trói buộc không thoát ly được, thường sanh nguy hiểm tai hại, luôn gây phiền não, không thể giải thoát, hỷ lạc với dục là bị giam giữ trong dục, nên gọi là chấp nhận tất cả.

Kiến thứ hai: Không chấp nhận điều gì cả, từ đó phát sanh tham dục, sân hận, ngu si, rồi lại luôn bị ba độc ấy trói buộc, không thể xả ly, giải thoát được. Do hỷ lạc với tham dục, thường bị ái dục quản thúc trói buộc, nên gọi là không chấp nhận gì cả.

Kiến thứ ba: Chấp nhận một phần, không chấp nhận một phần, cũng như chấp nhận hay không chấp nhận đã trình bày ở trên. Đệ tử của bậc Hiền thánh nếu chấp nhận tất cả thì tranh cãi với hai kiến kia. Nếu không chấp nhận gì cả hay chấp nhận một phần, không chấp một phần thì cũng cùng với hai kiến còn lại tranh luận, vì tri kiến của mình trái với người khác, nên phát sanh tranh luận. Nếu tranh luận phát sanh thì hủy hại nhau, vì cùng tranh luận thì sanh ra hủy hại.

Sai lầm của các kiến là phát sanh tranh luận: Bỏ kiến này không nhận kiến khác. Do sự thật ấy nên đoạn trừ kiến, vứt bỏ kiến. Cũng như người đã nôn ra, đối với các kiến không còn nối tiếp, không còn giữ, không còn phát sanh. Đệ tử của bậc Hiền thánh nếu bày tỏ: Chấp nhận hay không chấp nhận, chấp nhận một phần, không chấp nhận một phần thì vẫn có lỗi này.

Này Phạm chí, sắc pháp do bốn đại tạo thành, nên đệ tử của bậc Hiền thánh thấy sắc thân này là vô thường, đã thấy vô thường thì thường lìa dục; thấy thân này hoại diệt nên xa lìa. Ai thấy thân vô thường liền xa lìa dục về thân, lìa ái về thân, lìa sự giam giữ về thân, lìa tưởng quyết định về thân.

Này Phạm chí, nên biết có ba loại thọ là: Khổ thọ, lạc thọ và xả thọ. Ba thọ này lấy gì làm nhân, lấy gì làm tập, nhân vào đâu để phát sanh, xuất hiện từ đâu? Chúng lấy xúc làm nhân, nhân xúc tập khởi, tập hợp từ xúc, nhân xúc phát sanh. Nếu xúc diệt thì thọ diệt. Như mặt trời lặn, hết nóng được mát. Có thọ thuộc phạm vi của thân, có thọ thuộc phạm vi của sanh mạng. Khi cảm nhận thân, biết cảm nhận thuộc thân. Khi cảm nhận thuộc sanh mạng, biết thọ thuộc sanh mạng. Biết đúng như vậy, không sai lầm.

Đệ tử của bậc Hiền thánh khi cảm nhận lạc thọ biết sự cảm nhận thuộc thân tất bị hoại diệt. Khi nhận khổ thọ, xả thọ, biết các thọ thuộc thân này tất bị hoại diệt. Khi nhận lạc thọ thì không cùng các thọ khác hòa hợp. Khi nhận khổ thọ, xả thọ cũng vậy. Khi cảm nhận không hòa hợp với sân si, không hòa hợp với sanh, lão, bệnh, tử thì sanh, ưu, bi, khổ não, tập hợp các khổ.

Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất vừa xuất gia được nửa tháng, đang quạt hầu bên cạnh Đức Phật. Trong khi Như Lai thuyết giảng về pháp đoạn lậu lìa dục, Xá-lợi-phất quán sát như thật, thấy các pháp đều vô thường, ngay tại chỗ chứng đắc lìa dục, xa lìa các tà kiến, các lậu chấm dứt, không còn phát sanh nữa, tâm đắc giải thoát.

Phạm chí Trường Trảo đối với các pháp đắc pháp nhãn thanh tịnh, như nói ở trên. Sau khi đạt tín tâm, Trường Trảo bạch Phật:

–Cầu mong Thế Tôn cho con xuất gia. Như Lai cho phép ông ta xuất gia. Sau khi xuất gia, Tôn giả ấy tu tập tinh tấn, đắc đạo quả A-lahán.

204. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại bờ hồ Tu-ma-kiệt-đà, thuộc thành Vương xá.

Bấy giờ Phạm chí Xa-la-phù nói giữa đại chúng:

–Tôi biết rõ giáo pháp của Thích tử. Hiểu biết của tôi vượt hơn họ.

Khi đó có nhiều Tỳ-kheo vào thành khất thực, thấy Phạm chí Xa-la-phù ở bên bờ sông ấy, bày tỏ: “Tôi biết rõ giáo pháp của Thích tử. Hiểu biết của tôi vượt hơn cả họ”.

Sau khi nghe như vậy, các Tỳ-kheo trở về Tăng xá, thu xếp y bát, rửa sạch chân tay, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát chân Ngài, ngồi qua một bên, bạch:

–Thưa Thế Tôn, hôm nay chúng con vào thành khất thực, sau khi thọ trai xong, trên đường về, đi ngang qua hồ Tu-ma-kiệt-đà, trên bờ hồ ấy có một Phạm chí tên Xa-la-phù, bày tỏ giữa đại chúng: “Tôi biết rõ giáo pháp của Thích tử. Hiểu biết của tôi vượt hơn cả họ”. Lành thay! Thế Tôn, xin Ngài đi đến bờ hồ ấy.

Đức Thế Tôn im lặng đồng ý, cùng với các Tỳ-kheo trước sau vây quanh đi theo, đến hồ Tu-makiệt-đà. Xa-la-phù thấy Đức Phật đến liền đứng dậy, thưa với Phật:

–Mời Ngài an tọa.

Đức Phật ngồi vào chỗ ngồi, bảo Xa-la-phù:

–Sự thật ông có bày tỏ: “Tôi biết rõ giáo pháp của Thích tử. Hiểu biết của tôi vượt hơn cả họ” hay không?

Khi ấy Phạm chí đứng im lặng. Đức Phật bảo ông ta:

–Tại sao ông im lặng không đáp? Nếu hiểu, ông tùy ý nói. Nếu ông không hiểu, Ta sẽ vì ông phân biệt giảng thuyết, làm cho ông được hiểu biết hoàn toàn. Nếu ông có thể trình bày đầy đủ, Ta sẽ tán trợ ông. Này Phạm chí, trong đời có người nói: “Đức Như Lai không phải là Bậc Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác”. Đối với người bày tỏ như vậy, Ta khen: “Lành thay!” và sẽ hỏi họ: “Ông căn cứ vào sự việc gì bày tỏ Như Lai không phải là Bậc Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác?”. Những chúng sanh này không thông suốt nghĩa lý nên không thể đáp được, bèn nói theo những ngôn luận khác của thế gian, xen lẫn vào bằng những lời sai lầm, kiêu mạn, cao ngạo, sanh tâm hủy hại, vì không thể đáp câu hỏi này nên đứng im lặng, xấu hổ, cúi đầu không trình bày gì cả. Này Xa-la-phù, ông cũng vậy, giả sử có người nói: “Sa-môn Cù-đàm thuyết giảng giáo pháp có lỗi lầm”. Đối với người bày tỏ như vậy, Ta vẫn khen: “Lành thay”, và hỏi người ấy: “Căn cứ vào trí nào mà biết sự việc này?”. Họ không đáp được nên nói theo ngôn luận của thế gian, nội dung thác loạn, cùng lời đuối lý, xấu hổ cúi đầu, đứng im lặng không trình bày được gì cả, cũng như ông hiện nay không khác. Lại có người cho rằng: “Đệ tử của Sa-môn Cù-đàm không có hướng thiện, không đủ giới luật”, Ta cũng khen: “Lành thay!” và hỏi lại họ rằng: “Ông dựa vào pháp gì mà nghiệm biết việc ấy?”. Họ không thể đáp, lại nói chuyện thế gian với ngôn luận thác loạn, cùng lời đuối lý, xấu hổ cúi đầu đứng im lặng, không nói được gì cả, nay ông cũng như vậy. Khi ấy các bạn đồng phạm hạnh bảo Xa-laphù:

–Tại sao bạn im lặng không đáp? Ngày trước bạn thường tuyên bố giữa đám đông người: “Hiểu biết của tôi hơn giáo pháp của Cù-đàm”. Đáng lẽ hôm nay bạn phải vấn nạn Sa-môn Cù-đàm, tại sao bạn lại bị Sa-môn Cù-đàm hỏi ngược lại, vặn bạn phải trả lời, bảo rằng: “Nếu lời nói của ông đầy đủ, Ta tán trợ ông, khen tặng lành thay. Nếu lời nói của ông không đầy đủ, Ta sẽ giúp ông phân biệt, trình bày làm cho đầy đủ”.

Xa-la-phù nghe bạn bè đồng phạm hạnh nói như vậy, vẫn im lặng không trình bày được gì cả.

Bên bờ hồ Tu-ma-kiệt-đà, sau khi nêu bày tiếng rống của sư tử, Đức Thế Tôn đứng dậy, trở về thành Vương xá. Phật đi chưa bao lâu, những người bạn đồng phạm hạnh của Xa-la-phù chê trách ông ta:

–Này bạn, hiện nay bạn như bò gãy sừng, chỉ rống ở chỗ vắng. Bạn cũng vậy, ở chỗ vắng vẻ thì rống lên tiếng sư tử. Khi đến trước Sa-môn Cùđàm thì im lặng, không biết nói gì. Bạn như con gái, giả nói tiếng đàn ông, nhưng không làm được, vẫn là giọng nữ. Bạn cũng vậy, muốn bắt chước Sa-môn Cù-đàm rống tiếng sư tử nhưng không thành công. Như con dã can cái muốn rống lên tiếng sư tử, nhưng khi phát ra tiếng thì vẫn là âm thanh của loài dã can, không thể giống như âm thanh của sư tử được.

Các người bạn sau khi chê trách Xa-la-phù bằng những lời như vậy xong, cùng bỏ đi tứ tán.

205. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại rừng trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá.

Có một Phạm chí tên Trọng Sào ở bên bờ hồ Tu-ma-kiệt-đà bày tỏ giữa chúng của ông ta:

–Ai có thể phân tích đầy đủ và thuyết minh được ý nghĩa bài kệ của tôi nói ra, tôi sẽ làm đệ tử người ấy.

Đến giờ ăn, các Tỳ-kheo mặc y mang bát, lần lượt vào thành Vương xá khất thực. Sau khi thọ trai xong, trên đường về, đi ngang qua bờ hồ Tuma-kiệt-đà, các Tỳ-kheo nghe lời vị Phạm chí ấy nói; họ trở về Tăng xá, thu xếp y bát, rửa sạch tay chân, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát chân, ngồi qua một bên, bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, bên bờ hồ Tu-ma-kiệt-đà có Phạm chí Trọng Sào bày tỏ: “Người nào phân tích đầy đủ, thuyết minh được ý nghĩa kệ của tôi nói ra, tôi sẽ làm đệ tử người ấy”. Cầu mong Thế Tôn đi đến đó.

Thế Tôn im lặng đồng ý, cùng các Tỳ-kheo trước sau đi đến bờ hồ kia. Phạm chí Trọng Sào từ xa thấy Phật đến, liền bày biện tòa cao, thưa với Phật:

–Xin mời Cù-đàm ngồi ở đây.

Sau khi an tọa, Như Lai bảo Phạm chí:

–Ta nghe ông có nói rằng người nào có thể phân tích đầy đủ, thuyết minh được ý nghĩa kệ do ông nói, ông sẽ làm đệ tử họ phải không?

Phạm chí đáp:

–Thưa Cù-đàm, đúng vậy.

Đức Phật bảo: –Ông hãy đọc kệ cho Ta nghe. Ta sẽ phân tích giảng giải cho ông.

Bấy giờ Phạm chí Trọng Sào sắp đặt lại tòa cao, ngồi trên đó và nói kệ:

Ai là Tỳ-kheo
Mang họ Thích-ca
Cần phải như pháp
Sinh hoạt thanh tịnh
Không được làm hại
Các loài chúng sanh
Cần phải xa lìa
Các pháp bất thiện
Giữ ý thanh tịnh
Trì giới đã thọ
Điều phục như vậy
Tùy thuận định, tuệ.

Thế Tôn nói kệ đáp:

Nếu làm được như vậy
Tùy thuận mà thực hành
Trong các thiện trượng phu
Ông là người hơn hết
Tỳ-kheo sống yên lặng
Thanh tịnh tự điều thuận
Không làm hại chúng sanh
Xa lìa tất cả ác
Người điều phục như vậy
Tùy thuận với định, tuệ.
Tâm nhu hòa hoàn toàn
Thân miệng không làm ác
Thường thu nhiếp ba nghiệp
Gọi tùy thuận định, tuệ
Làm phước điền cho đời
Mang bát đến từng nhà
Nhiếp tâm, tu niệm xứ
Khiêm tốn, sống giản dị
Từ dục, bỏ tham cầu
Nên đắc vô sở úy.

Khi Phạm chí Trọng Sào nghe kệ này xong, bèn suy nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm thật đã biết rõ tâm ý ta, vậy ta nên quy y Tam bảo”. Sau khi nghĩ như vậy, Trọng Sào bạch Phật:

–Cầu mong Như Lai cho con được xuất gia.

Đức Phật cho phép Trọng Sào xuất gia học đạo, thọ giới cụ túc, trở thành Sa-môn, tinh cần tu tập, đoạn trừ phiền não, đắc A-la-hán.

Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

206. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá.

Bấy giờ các ngoại đạo ở Ma-kiệt-đà cùng nhau tụ tập trên bờ Tu Ma-kiệt-đà, bày tỏ với ngôn luận:

–Vấn đề này là sự thật của Bà-la-môn, đây là sự thật của Bà-la-môn.

Đức Như Lai đang ở tinh xá, với thiên nhĩ thiền tịnh, nghe lời nói của họ nên sau khi xuất thiền, đi đến bờ ao Tu Ma-kiệt-đà.

Các vị Bà-la-môn thấy Phật từ xa đến, cùng nhau đứng dậy xếp đặt chỗ, mời Phật ngồi. Sau khi an tọa, Đức Phật bảo với họ:

–Các vị tập hợp ở đây bàn luận về việc gì? Các Bà-la-môn thưa với Đức Phật:

–Thưa Cù-đàm, hôm nay chúng tôi tập hợp nhau cùng bàn luận: Vấn đề này là sự thật của Bàla-môn, đây là sự thật của Bà-la-môn. Đức Phật bảo họ:

–Đúng vậy, đúng vậy! Ngày xưa, sau khi tìm đạo Ta đã chứng Chánh Đẳng Giác. Sau khi chứng tri, Ta đã tuyên bố: Tất cả thế gian không ngoài ba sự thật, Ta sẽ phân biệt. Những gì là ba?

Đó là không được sát hại tất cả các loài. Đây là lời chân thật, không dối trá. Nếu chấp nhận đây là sự thật thì cần phải tinh tấn, đối với các chúng sanh thường sanh tâm Từ. Đây là sự thật thứ nhất của Bà-la-môn. Ta biết đúng như vậy và giảng thuyết rộng cho mọi người.

Lại nữa, này Bà-la-môn, tất cả khổ tập là pháp sanh diệt, lời nói này chân thật không sai. Nếu đây là sự thật, cần phải tinh tấn, đối với khổ tập thường phải tu tâm quán sát về tướng sanh diệt, nên tu tập như vậy. Đây là sự thật thứ hai của Bà-la-môn. Ta vì biết rõ tướng sanh diệt ấy nên chứng Chánh Đẳng Giác, thường vì chúng sanh thuyết giảng pháp này.

Lại nữa, sự thật thứ ba của Bà-la-môn là thoát ly ngã và ngã sở, đạt vô ngã chân thật.

Ai xa lìa ba pháp tướng này thì viễn ly các điều ác. Nếu chấp nhận đây là sự thật, cần phải sống như vậy.

Khi Đức Phật thuyết giảng pháp này, các ngoại đạo nghe lời Phật dạy, vẫn ngồi im lặng. Thế Tôn suy nghĩ: “Kẻ ngu si này thường bị ma gây chướng ngại nên trong đại chúng cần có một ai tin nhận lời này để phát sanh chí nguyện cầu học, tu trì phạm hạnh”. Nghĩ như vậy xong, Đức Như Lai đứng dậy ra đi.

Đức Phật vừa đi khỏi, vị thần hồ Tu-ma-kiệtđà nói kệ:

Như vẽ trên nước muốn tìm dấu
Ruộng muối, gieo giống muốn mọc mạ
Như dùng mùi thơm ướp vật thối
Dội nước bờ đá mong mềm mại
Thổi vào chày sắt cầu tiếng hay
Vào giữa mùa đông tìm Dã mã
Những ngoại đạo này cũng như vậy
Tuy nghe diệu pháp không tín thọ.

Khi nghe thần hồ nói kệ ấy, các Bà-la-môn liền cùng nhau đi theo Phật, cầu xin xuất gia. Đức Phật cho phép. Sau khi xuất gia họ tinh tấn tu tập, đắc quả A-la-hán.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

207.

Một thời Tôn giả A-nan ở tại rừng Cù-sưla thuộc nước Câu-diệm-di.

Có Phạm chí tên Văn-đà đến gặp Tôn giả Anan. Sau khi chào hỏi, ngồi qua một bên, thưa:

–Vì lý do nào Hiền giả xuất gia học đạo trong giáo pháp của Sa-môn Cù-đàm?

A-nan đáp:

–Vì tôi muốn bỏ ác làm thiện nên xuất gia học đạo trong giáo pháp của Đức Phật.

Phạm chí lại hỏi:

–Bỏ những ác gì? A-nan đáp:

–Tôi muốn từ bỏ tham dục, sân hận, ngu si.

Phạm chí lại hỏi: –Hiền giả cũng biết đoạn trừ tham dục, sân hận, ngu si hay sao?

A-nan đáp:

–Chỉ trong Phật pháp mới có pháp chế ngự thân tâm, đoạn trừ tham, sân, si như vậy.

Phạm chí lại hỏi:

–Tham, sân, si có lỗi lầm gì mà bị cấm chế trong giáo pháp của các vị thế?

A-nan đáp:

–Đắm nhiễm ái dục, phát sanh não loạn, ngay trong đời ngày càng tăng trưởng pháp ác; ưu, bi, khổ não do đó phát sanh, trong đời vị lai cũng như vậy. Tham, sân, si khống chế, phá hoại tâm ta và tâm người khác, làm cả hai đều khổ não, ngay trong đời này tăng trưởng các pháp ác. Lại nữa, ai nhiễm đắm trong tham dục thì bị mù tối không có tuệ nhãn, do nhân duyên tham dục làm cho trí tuệ bị yếu ớt, tổn giảm các điều thiện, không hướng đến Niết-bàn, không đắc ba minh, sáu thông, xa đường giác ngộ. Đối với tham dục, sân hận, ngu si có nguy hại như thế nên phải cấm chế, đoạn trừ chúng. Phạm chí lại hỏi: –Có con đường tu nào rộng lớn, đoạn trừ được tham, sân, si, không? A-nan đáp:

–Có tám Thánh đạo, đó là chánh kiến, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh định, chánh niệm, chánh chí, đoạn trừ được tham, sân, si; hướng đến Niết-bàn.

Phạm chí nói:

–Thánh đạo như vậy thật toàn thiện, tu tập phát triển đoạn trừ được tham sân si. Hiền giả A-nan, tôi đang có nhiều công việc phải làm, muốn trở về.

A-nan bảo:

–Nên biết tùy thời.

Phạm chí nghe Tôn giả A-nan giảng giải, hoan hỷ từ giã.

208. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Tôn giả Xá-lợi-phất đến gặp Đức Phật, lạy sát dưới chân Ngài, ngồi qua một bên. Đức Như Lai thuyết giảng giáo pháp làm cho Xá-lợi-phất hoan hỷ, rồi Ngài im lặng.

Xá-lợi-phất thấy Phật im lặng nên đứng lên, lạy sát chân Phật rồi từ giã. Trên đường về, chưa đến trú xứ, gặp một Phạm chí tên Ưu-trắc. Ưu-trắc hỏi:

–Hiền giả từ đâu đến đây? Xá-lợi-phất đáp:

–Này Phạm chí, hôm nay tôi đến gặp Đức Thế Tôn, nghe giáo pháp rồi trở về.

Ưu-trắc nói:

–Vậy là hiện nay Hiền giả vẫn còn lệ thuộc vào giáo pháp, như trẻ con chưa bỏ bú.

Xá-lợi-phất nói:

–Tôi nghe giáo pháp không chán, không giống như trẻ con. Tại sao? Trẻ con lớn lên thì rời sữa mẹ.

Ưu-trắc nói:

–Tôi đã không còn nghe giáo pháp và giáo giới đã lâu.

Xá-lợi-phất nói:

–Trong giáo pháp của ông, tuy có giáo giới, nhưng không có lợi ích thật sự, hành động phi đạo, không phải là phương pháp cứu đời, không đưa đến giác ngộ, là pháp bại hoại, không thể nương nhờ một pháp nào cả. Thầy của ông không phải là Bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác. Ông hãy tránh xa thầy tà với giáo pháp ấy đi. Như con bò tồi tệ, tánh tình không thuần thục, ưa phá phách, lại ít sữa nên sanh ra con nghé gầy gò, thường xa rời mẹ, tâm ý buông lung. Tôn sư với giáo pháp vô nghĩa của ông cũng như vậy, tánh tình hời hợt, nóng nảy, giáo pháp không có lợi ích thật sự, đệ tử còn nhỏ không có trí tuệ, rời xa thầy, tùy ý phóng dật, còn cho rằng: “Ta đã không còn lệ thuộc nơi giáo pháp và giáo giới”. Trong giáo pháp của Như Lai có giáo pháp và giới luật đúng nghĩa, có phương pháp xuất ly toàn hảo đưa đến giác ngộ, không bị tà kiến phá hoại, có các pháp thiện để nương cậy. Đức Thế Tôn của ta là Đấng Như Lai, Vô Thượng Sĩ, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, các đệ tử luôn luôn thân cận không rời. Như con bò khỏe mạnh, tính nết thuần thục, không phá phách, có nhiều sữa nên thân thể con nghé ngày càng phát triển, theo mẹ không rời.

Phạm chí Ưu-trắc khen Xá-lợi-phất:

–Lành thay! Lành thay! Ông được thiện lợi, pháp và luật đã thọ là pháp xuất thế, đưa đến giác ngộ, có phương pháp xuất ly toàn hảo, hướng đến Niết-bàn, không thể phá hoại. Hiền giả có bậc thầy để y chỉ là Đức Thế Tôn, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác.

Sau khi nói xong, Phạm chí từ giã.

209. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một Phạm chí tên là Ưu-trắc đến gặp Đức Phật. Sau khi chào hỏi, ngồi qua một bên, thưa:

–Thưa Cù-đàm, trước đây các ngoại đạo tập hợp ở đại giảng đường bàn luận nhiều vấn đề, nào là Sa-môn Cù-đàm ở nơi yên tịnh, tu tập thu nhiếp tâm ý, trí tuệ biện tài. Khi ấy tôi cũng bàn luận và bày tỏ: Sự việc này tương ứng, sự việc này không tương ứng. Như con trâu già bị mù, chúng ta cũng vậy, giáo pháp của ta quá tầm thường, mù tối không có con mắt tuệ. Sa-môn Cù-đàm có đại trí tuệ, sống nơi chốn vắng lặng, tu tập thu nhiếp tâm ý. Thưa Cù-đàm, hiện nay Ngài đang giáo hóa các đệ tử như thế nào?

Đức Phật bảo ông ta:

–Trong Phật pháp của Ta, gọi sự việc đồng nam, đồng nữ cùng nhau họp mặt, tổ chức hội hè ca múa, vui chơi là tương ứng. Như có người già hơn tám mươi tuổi, tóc bạc, da nhăn, răng rụng mà vẫn ca múa, cỡi trâu, ngựa gỗ, đánh đàn tỳ bà, thổi sáo, thổi tiêu, chơi thuyền nhỏ, đá cầu. Người già với hành động như vậy gọi là không tương ứng. Có người thấy như vậy, nên gọi hành động người này là trí hay ngu? Phạm chí đáp:

–Như vậy nên gọi là trẻ ngu, không có trí tuệ.

Đức Phật bảo ông ta:

–Trong Phật pháp của Ta, tương ứng, tương thuận như đồng tử vui chơi. Này Phạm chí, giáo pháp của Thánh hiền tương ứng nhau như đồng tử mà vui chơi.

Ưu-trắc bạch Phật:

–Tỳ-kheo tu pháp thiện như thế nào?

Đức Phật đáp:

–Pháp của Tỳ-kheo là phải xa lìa các pháp ác, bất thiện, tu tập các pháp thiện. Người chưa điều phục thì tinh tấn tu tập làm cho điều phục. Người chưa đắc định, phải tinh tấn tu tập làm cho đắc định. Người chưa giải thoát phải tinh tấn tu tập làm cho giải thoát. Người có chỗ chưa đoạn, phải tinh tấn tu tập làm cho đoạn trừ. Người có chỗ chưa biết, phải tinh tấn tu tập làm cho hiểu biết. Người có chỗ chưa tu, phải siêng năng tu tập để thực hiện việc tu tập. Người chưa đắc phải siêng năng tu tập cho chứng đắc.

Phạm chí hỏi:

–Chưa điều phục những gì vì muốn điều phục nên phải tinh tấn tu tập?

Đức Phật đáp:

–Chưa điều phục được mắt, cho đến chưa điều phục được ý, cần phải tinh tấn tu tập làm cho điều phục.

Phạm chí hỏi:

–Chưa giải thoát những gì nên cần phải tinh tấn tu tập làm cho giải thoát?

Đức Phật đáp:

–Tâm chưa giải thoát nên cần phải tinh tấn tu tập để tâm được giải thoát.

Phạm chí hỏi:

–Cần đoạn trừ những ác gì nên phải siêng năng tu tập?

Đức Phật dạy:

–Vì đoạn trừ vô minh và ái nên cần phải tinh tấn tu tập.

Phạm chí hỏi:

–Không biết những gì cần phải siêng năng tu tập để biết?

Đức Phật dạy:

–Chưa biết về danh sắc, cần phải tinh tấn tu tập để biết.

Phạm chí hỏi: –Chưa tu tập những gì, vì muốn tu tập nên phải siêng năng tu tập?

Đức Phật dạy: –Chưa tu tập định tuệ, chưa đắc tám đạo nên cần phải tu tập.

Phạm chí bạch Phật:

–Hạnh của Tỳ-kheo thật là đúng đắn. Con đang có nhiều việc muốn trở về nhà.

Đức Phật bảo:

–Nên biết tùy thời.

Phạm chí Ưu-trắc đứng dậy từ giã.

210. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá.

Trong nước có một Phạm chí tên là Thi-bặc, đến gặp Đức Phật. Sau khi chào hỏi, ngồi qua một bên, hỏi:

–Thưa Cù-đàm, gọi là học, tại sao gọi là học?

Đức Phật đáp:

–Vì có học tập nên gọi là học.

Phạm chí hỏi:

–Học tập những gì nên gọi là học?

Đức Phật đáp:

–Luôn luôn tu học tăng thượng giới, tăng thượng trí, tăng thượng tâm, nên gọi là học.

Phạm chí lại hỏi:

–Thưa Cù-đàm, nếu có vị A-la-hán không còn hữu lậu, đã làm xong việc, bỏ gánh nặng xuống, đạt đến vô ngã, tâm được tự tại, không còn phiền não, đắc chánh trí giải thoát, khi ấy sẽ còn học gì nữa?

Đức Phật đáp:

–Khi vị A-la-hán không còn phiền não, chánh kiến, tâm đắc giải thoát, bấy giờ tham dục, sân hận, nghi ngờ đều bị đoạn diệt hết không còn tàn dư, nên gọi là vô học. Lại nữa, vị A-la-hán không những đã diệt tham, sân, si, mà không còn có hành động xấu ác nơi thân miệng ý nữa, vì ý nghĩa này nên gọi là vô học.

Phạm chí Thi-bặc nghe lời Phật dạy, hoan hỷ từ giã.

211. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá.

Phạm chí Thi-bặc đến gặp Đức Phật. Sau khi chào hỏi, ngồi qua một bên, thưa:

–Thưa Cù-đàm, có Bà-la-môn bày tỏ như thế này: “Tùy theo nghiệp đã tạo trong quá khứ làm nhân, các nghiệp trong hiện tại tăng trưởng đều tùy theo nhân bất thiện của ta trong đời quá khứ. Trong đời hiện tại, nếu không tạo nghiệp nữa, thì có thể phá gãy cầu sanh tử, đoạn tuyệt hẳn bốn dòng chảy, không còn luân hồi vì nghiệp đã hết, khổ cũng không còn; khổ hết thì không còn cảnh giới khổ”. Thưa Cù-đàm, sự việc này như thế nào? Đức Phật bảo Thi-bặc:

–Như lời ông nói, các Sa-môn, Bà-la-môn đã bày tỏ: “Tùy theo nghiệp đã làm … như trên… không còn cảnh giới khổ”. Nếu như vậy, vì lý do nào ngay trong đời này có bệnh gió, bệnh lạnh… do bốn đại tăng giảm, do tự thân gây ra, hay yếu tố khác gây ra?

Thi-bặc bạch Phật:

–Do yếu tố khác gây ra.

Đức Phật bảo Thi-bặc:

–Thế nào là nghiệp do bản thân làm? Như luôn luôn nhổ râu tóc, hoặc đứng đưa tay, hoặc không ngồi trên giường, hoặc ngồi xổm, lấy đó làm nghiệp tu tập. Hoặc ngồi trên gai góc, hoặc nằm, ngồi trên cây đòn dài, hoặc ngồi trên tro đất, hoặc ngồi trên đất có phân bò, hoặc đứng một chân, quay người theo mặt trời, hoặc vào tháng hè nóng bức thiêu đốt toàn thân ngoài nắng, hoặc ăn rau, ăn hạt cỏ dại, ăn ngó sen, ăn cám, ăn cặn bã dầu, ăn phân bò, hoặc tế lửa ba lần trong ngày, hoặc vào mùa đông ngâm thân trong nước lạnh… có vô số phương pháp làm khổ thân, như vậy đều là nghiệp khổ do bản thân làm.

Thế nào là khổ do người khác làm? Người khác dùng tay chân, dao gậy, gạch đá đánh ném, những khổ này là khổ do người khác gây ra. Tất cả người đời khi bốn đại tăng giảm, hoặc bị gió lạnh mà phát sanh bệnh hoạn. Những bệnh như vậy có thấy trong hiện tại, tại sao các Bà-la-môn kia thấy như vậy lại còn nói: “Tùy theo nghiệp trong quá khứ … như trên… cảnh giới khổ”, tức là bày tỏ sai lầm. Do tất cả sai lầm này nên người đời đều biết họ nói lời không thật.

Có năm nhân duyên làm cho thân tâm chịu các khổ não. Những gì là năm? Đó là tham dục, sân hận, trạo hối, hôn trầm, nghi ngờ. Năm pháp này làm cho thân tâm chúng sanh ngay trong đời này chịu nhiều khổ não. Lại có năm nhân duyên làm cho thân tâm chúng sanh ngay trong đời này thường được an lạc, không bị cảm nhận khổ não. Những gì là năm? Đó là đoạn trừ tâm tham dục… thì ngay trong đời hiện tại thân tâm được thọ hưởng an lạc. Vì sao vậy? Vì có tham dục, sân hận, trạo hối, hôn trầm, nghi ngờ, thường làm cho chúng sanh chịu nhiều khổ não. Ai đoạn trừ được chúng thì thọ an lạc, không có đau khổ. Thế nên cần phải đoạn trừ năm thứ trói buộc, che phủ ấy. Nếu ai đoạn trừ chúng thì ngay khi đó đắc giải thoát, chắc chắn đến Niết bàn. Này Thi-bặc, đây gọi là pháp tạo được sự chứng ngộ trong hiện tại.

Lại có pháp khiến chứng đắc ngay trong hiện tiền là chánh kiến, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh chí, chánh niệm và chánh định.

Khi Thế Tôn thuyết pháp này, Phạm chí Thibặc xa lìa bụi bặm cấu uế, đắc pháp nhãn thanh tịnh đối với các pháp. Sau khi được thấy đạo, Phạm chí Thi-bặc sửa lại y phục, chắp tay hướng Phật, bạch:

–Thưa Thế Tôn, xin Ngài từ bi thương xót cho con được xuất gia.

Như Lai cho phép ông ta xuất gia. Sau khi xuất gia, Tôn giả Thi-bặc sống nơi vắng lặng, ân cần tinh tấn tu tập, đắc quả A-la-hán.

212. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở nơi rừng Am-bà-la, thuộc thôn xóm bán vải Na-la-kiện-đà. Khu xóm này có một Phạm chí tên Na-lị-bà-lực, đã già cả, một trăm hai mươi tuổi. Dân chúng sống trong thôn đều cho vị ấy là bậc A-la-hán, nên tất cả đều cung kính cúng đường.

Phạm chí này có một bạn thân đã qua đời, được sanh lên cõi trời. Vị trời ấy suy nghĩ: “Nay nếu ta khuyên Na-lị-bà-lực đến gặp Đức Phật, chắc ông ta không chấp nhận. Vậy ta nên thuyết giáo, có thể làm cho ông ta tin nơi ta”. Sau khi nghĩ như vậy, vị Trời bèn đến nơi vị Phạm chí già kia, với hào quang rực rỡ chiếu toàn thân và chung quanh, hỏi Phạm chí:

–Thế nào đúng là oán gia của ta mà giả làm người thân? Thế nào là người xem bạn thân như thân mình? Thế nào là nói về đoạn trừ? Thế nào là không nhiệt não? Bạn hãy ghi nhớ và suy nghĩ trong lòng, không nên nói ra điều này. Nếu ai hiểu và giải thích được ý nghĩa ấy, bạn nên đến gặp họ, cầu xin xuất gia, tịnh tu phạm hạnh.

Vị trời nói xong liền biến mất. Phạm chí Nalị-bà-lực nghe nói như vậy liền đến gặp Phú-lanna Ca-diếp và vấn nạn bằng những ý nghĩ trong lòng: Thế nào là oán gia … như trên… Nhưng Phúlan-na Ca-diếp không biết được ý nghĩ của Phạm chí, làm sao đáp được!

Phạm chí lại đến gặp San-xà-da Tỳ-la-chi Tử và cũng hỏi bằng ý nghĩa… cho đến Ni-càn-đànhã-đề Tử cũng được hỏi bằng ý nghĩ như vậy. Nhã-đề Tử vẫn không biết Phạm chí nghĩ gì, làm sao đáp được!

Phạm chí Na-lị-bà-lực đã gặp hết Lục sư nhưng họ đều không biết ông ta nghĩ gì nên không thể đáp được. Phạm chí suy nghĩ: “Nay ta làm sao xuất gia tu đạo trong pháp của họ, chi bằng hoàn tục hưởng thọ năm dục lạc. Hiện nay gia sản của ta rất giàu, vậy nên sống ở gia đình bố thí làm phước!”. Ông ta lại nghĩ: “Hay là ta đến gặp Samôn Cù-đàm”.

Sau khi nghĩ như vậy, ông ta đi đến gặp Phật, trên đường đi, lại suy nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm xuất gia còn trẻ tuổi, nhóm Lục sư Phú-lan-na… đều là những người kỳ cựu, túc đức, còn không biết được ý nghĩ của ta, huống chi Sa-môn Cù-đàm đã trẻ tuổi, lại xuất gia chưa lâu, học lực còn kém, làm sao có thể hiểu được ý nghĩa này!”. Nghĩ như vậy, ngay giữa đường, ông ta muốn quay xe trở về, nhưng lại suy nghĩ: “Trước đây ta đã từng nghe các Phạm chí Trưởng lão kỳ cựu túc đức nói: Đối với người xuất gia nhỏ tuổi không nên khinh thường. Vì sao? Tuổi tuy nhỏ nhưng có thần thông lớn và nhiều trí tuệ”.

Nghĩ như vậy rồi, Phạm chí đến gặp Đức Phật, cung kính chào hỏi, ngồi qua một bên, trong lòng nghĩ đến bốn câu hỏi … như trên… Thế Tôn biết ý nghĩ trong tâm Phạm chí nên nói kệ:

Nói xấu, mắng sau lưng
Chê bai trăm ngàn cách
Trước mặt lại khen ngợi
Nói là người tốt đẹp
Thật đã làm những việc
Dối trá không nên làm
Người trí cần phải biết
Đây là oán giả thân.
Giả nói lời thân thiện
Hành động thì gây hại
Người trí cần nên biết
Đây là oán giả thân.
Thế nào với bạn thân
Kính mến như thân mình
Không nên với bạn thân
Tìm kiếm lỗi của họ.
Bạn thân đồng tâm nguyện
Nhớ nhau thường không quên
Bạn mà thân như vậy
Không bị ai chia rẽ.
Cần phải luôn kính mến
Yêu thương như thân mình
Vì sao nói phải đoạn
Đoạn phát sanh hỷ lạc
Cũng hay được thắng lợi
Đến cảnh giới tịch diệt
Siêng tu đến thắng quả
Trượng phu hành chánh đạo
Vì nghĩa này nên đoạn
Làm sao được không nhiệt
Hưởng mùi vị tịch tịnh
Chứng đắc đại trí tuệ
Khi ấy được không nhiệt
Xa lìa hẳn các ác
Hưởng pháp vị hoan hỷ
Đây gọi là không nhiệt.

Phạm chí nghe kệ xong, liền sửa lại y phục, bạch Phật:

–Cầu mong Thế Tôn cho con xuất gia. Đức Như Lai cho Phạm chí xuất gia. Sau khi xuất gia, Tôn giả tinh tấn tu tập, chứng A-la-hán.

213.

Về Tu-bạt-đà-la, giống phần kệ tụng của kinh 110.

Kệ tóm lược:

Ưu-trắc, Phân-nặc, Câu ca-na
Tu-đạt, Trường Trảo, Xa-la-phù
Trọng Sào, tam đế và Văn đà
Hai không giữ được, Thi-bặc căn
Thi-bặc, Na-lị-bà-lực-ca
Tu-bạt-đà-la thứ mười lăm.

QUYỂN 12

214. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một Tỳ-kheo-ni tên Khoáng Dã, vào sáng sớm, mặc y, mang bát vào thành khất thực, sau khi thọ trai rửa bát xong, muốn đi đến rừng Đắc nhãn.

Ma vương Ba-tuần suy nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm đang ở trong rừng Đắc nhãn thuộc Xá-vệ. Tỳ-kheo-ni Khoáng Dã, đệ tử của ông ta, vào thành khất thực, sau khi thọ trai rửa bát xong, xếp tọa cụ muốn vào rừng Đắc nhãn. Ta phải quấy nhiễu cô ấy.

Ba-tuần hóa ra một thanh niên, ở bên đường hỏi Khoáng Dã:

–Cô đi đâu vậy?

Tỳ-kheo-ni đáp:

–Tôi muốn đến nơi vắng lặng tịch tĩnh.

Thanh niên nghe nói như vậy liền đọc kệ:

Khắp cả trong thế gian
Không có ai giải thoát.
Cô đến nơi tịch tĩnh
Vì muốn làm việc gì?
Cô đang tuổi trẻ đẹp
Không hưởng thọ năm dục.
Một mai già suy đến
Thế nào chẳng hối hận!

Tỳ-kheo-ni suy nghĩ: “Đây là ai mà muốn quấy nhiễu ta, thật là xấc láo, là người hay là phi nhân?” Sau khi suy nghĩ, Tỳ-kheo-ni nhập định quán sát, biết là Ba-tuần muốn đến quấy nhiễu, liền nói kệ:

Thế gian có giải thoát
Nay ta tự chứng biết
Này Ba-tuần ngu si
Ngươi nào biết việc này.
Dục như kích bén đâm
Như giặc cầm dao rượt
Ngươi nói hưởng năm dục
Dục thật khổ đáng sợ
Dục thường sanh ưu sầu
Dục thường sanh hối hận
Dục sanh ra trăm khổ
Dục là gốc các khổ
Đoạn trừ tất cả ái
Diệt vô minh ngu si
Chứng đến nơi tận diệt
Sống với pháp vô lậu.

Khi ấy Ba-tuần suy nghĩ: “Tỳ-kheo-ni Khoáng Dã biết hết tâm ta”. Ba-tuần sầu não hối hận, hổ thẹn trở về cung.

215. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Tỳ-kheo-ni Tô-ma mặc y mang bát vào thành Xá-vệ khất thực, sau khi thọ trai, đem tọa cụ vào rừng Đắc nhãn.

Ma vương Ba-tuần suy nghĩ: “Tỳ-kheo-ni Tôma mặc y mang bát vào thành khất thực, sau khi thọ trai rửa bát xong, đem tọa cụ vào rừng Đắc nhãn”.

Ba-tuần hóa ra một Bà-la-môn đứng bên đường hỏi:

–Này A-xà-lê muốn đi đâu vậy? Tỳ-kheo-ni đáp:

–Ta đang muốn đi đến nơi tịch tĩnh. Ba-tuần nói kệ:

Chỗ chứng của Tiên thánh
Nơi ấy khó bước đến
Chẳng phải trí thấp hèn
Của cô đạt đến được.

Tỳ-kheo-ni suy nghĩ: “Đây là người hay phi nhân, mà muốn quấy nhiễu ta vậy?”, bèn nhập định quán sát, biết là Ba-tuần, nên nói kệ:

Thân nữ chẳng ngại gì
Chuyên ý tu thiền định
Quán sát pháp tăng thượng
Ai chấp tướng nam nữ
Nên cho rằng người nữ
Không thể tu thắng pháp
Ai không chấp nam nữ
Lấy gì sanh phân biệt
Đoạn trừ tất cả ái
Diệt sạch hết vô minh
Chứng đắc đến tận diệt
Trụ nơi pháp vô lậu
Thế nên hãy biết rõ
Ba-tuần ngươi thua rồi.

Ba-tuần suy nghĩ: “Tỳ-kheo-ni Tô Ma đã biết hết tâm ta”. Ba-tuần ưu sầu hối hận, hổ thẹn nên trở về cung.

216. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Tỳ-kheo-ni Sí-xá Kiều-đàm-di, vào sáng sớm, mặc y, mang bát vào thành khất thực, sau khi thọ trai rửa bát xong, cầm tọa cụ đi vào rừng Đắc nhãn.

Ma vương Ba-tuần suy nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm đang ở trong rừng Đắc nhãn thuộc nước Xá-vệ. Tỳ-kheo-ni Sí-xá Kiều-đàm-di vào thành khất thực, sau khi thọ trai rửa bát xong, cầm tọa cụ đi vào rừng Đắc nhãn”.

Suy nghĩ xong, Ma vương hóa ra một thanh niên, muốn quấy nhiễu nên nói kệ:

Sư cô đang làm gì
Buồn bã bên gốc cây
Sụt sùi rơi nước mắt
Vừa mất con phải không
Hay ở riêng trong rừng
Vì muốn cầu nam tử?

Sau khi suy nghĩ: “Đây là ai, thật là xấc láo, người hay phi nhân mà muốn quấy nhiễu ta”, Tỳ-kheo-ni nhập định quán sát, biết là Ma vương nên nói kệ:

Ta đã đoạn ân ái
Không muốn, không tưởng con
Ngồi thẳng giữa cây rừng
Không sầu không phiền não
Đoạn trừ tất cả ái
Diệt sạch hết vô minh
Chứng đắc đến tận diệt
An trú pháp vô lậu
Thế nên phải biết rõ
Ba-tuần ngươi thua rồi.

Ma vương suy nghĩ: “Tỳ-kheo-ni Sí-xá Kiềuđàm-di đã biết hết tâm ta. Ba-tuần ưu sầu hối hận, hổ thẹn nên trở về cung.

217. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Liên Hoa Sắc, mặc y, mang bát vào thành khất thực, sau khi thọ trai rửa bát xong, cầm tọa cụ vào rừng Đắc nhãn, ngồi bên gốc cây, chánh niệm tư duy, nhập định.

Ma vương Ba-tuần suy nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm đang ở trong rừng Đắc nhãn thuộc nước Xá-vệ. Tỳ-kheo-ni Liên Hoa Sắc vào thành khất thực, sau khi thọ trai rửa bát xong, cầm tọa cụ đi vào rừng Đắc nhãn”.

Suy nghĩ xong, Ma vương hóa ra một thanh niên, đến chỗ Tỳ-kheo-ni nói kệ:

Ngồi dưới cây Sa-la
Như hoa nở xinh đẹp
Một mình Tỳ-kheo-ni
Cô đang thiền phải không
Một mình không có bạn
Không sợ kẻ hại sao?

Sau khi suy nghĩ: “Đây là ai, thật là xấc láo, người hay phi nhân mà muốn quấy nhiễu ta”, Tỳ-kheo-ni nhập định quán sát, biết là Ma vương nên nói kệ:

Trăm ngàn kẻ gian tặc
Đều cùng làm như ngươi
Chẳng động mảy lông ta
Nên không gì đáng sợ.

Ma vương nói kệ:

Nay ta tự biến hình
Nhập vào bụng của ngươi
Hoặc vào giữa lông mày
Làm ngươi không thấy được.

Tỳ-kheo-ni nói kệ đáp:

Tâm ta được tự tại
Khéo tu định như ý
Cắt đứt buộc trói lớn
Không bao giờ sợ người.
Ta đã vượt kết sử
Nhổ sạch ba gốc rễ
Phá tan nền móng sợ
Nên ta chẳng sợ gì.
Nay ngươi trụ ở đây
Chẳng làm tâm ta sợ
Quân của ngươi đến hết
Ta cũng chẳng sợ hãi.
Đoạn trừ tất cả ái
Diệt trừ hết vô minh
Chứng đắc nơi diệt tận
An trú pháp vô lậu
Thế nên ngươi phải biết
Ba-tuần ngươi thua rồi.

Ma vương suy nghĩ: “Tỳ-kheo-ni Liên Hoa Sắc đã hiểu rõ hoàn toàn tâm ta”. Ba-tuần ưu sầu hối hận, hổ thẹn trở về cung.

218. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Thạch Thất mặc y mang bát, vào thành khất thực, sau khi thọ trai, rửa bát, đem tọa cụ đi vào rừng Đắc nhãn.

Ma vương suy nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm đang ở trong rừng Kỳ-đà Cấp cô độc, nước Xá-vệ. Có Tỳ-kheo-ni Thạch Thất ... như trên... Đắc nhãn. Ta phải quấy nhiễu cô ấy”. Suy nghĩ xong, Ma vương hóa thành một thanh niên đến gặp Thạch thất, nói kệ:

Chúng sanh do ai tạo
Chúng sanh tạo ra ai
Vì sao gọi chúng sanh
Chúng sanh đi về đâu?

Nghe kệ xong, Tỳ-kheo-ni Thạch Thất suy nghĩ: “Đây là ai, thật là xấc láo, là người hay phi nhân”, bèn nhập định quán sát, biết là Ma vương nên nói kệ:

Chúng ma sanh tà kiến
Tưởng có tướng chúng sanh
Do giả không hội tụ
Hoàn toàn không chúng sanh
Như nhân nhiều bộ phận
Hòa hợp có xe dùng
Ấm, giới, nhập cũng vậy
Do nhân duyên mà có
Do nghiệp duyên hội tụ
Do nghiệp duyên tan diệt
Đoạn trừ tất cả ái
Diệt tất cả vô minh
Đạt đến nơi tận diệt
An trú nơi vô lậu
Này Ba-tuần nên biết
Ngươi thật đã thua rồi.

Ma vương suy nghĩ: “Tỳ-kheo-ni đã biết rõ hoàn toàn tâm ta”. Nên Ma ưu sầu hối hận, hổ thẹn trở về cung.

219. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Tỳ-lê ở tinh xá nơi vườn vua nước Xá-vệ, mặc y mang bát, vào thành khất thực, sau khi thọ trai, rửa bát, đem tọa cụ vào rừng Đắc nhãn.

Ma vương suy nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm ... như trên..., ta phải quấy nhiễu”. Nghĩ như thế rồi, Ma vương hóa ra một thanh niên đứng bên vệ đường, nói kệ:

Ai tạo ra hình tượng
Hình tượng tạo ra ai
Hình tượng từ đâu sanh
Hình tượng đi về đâu?

Nghe kệ xong, suy nghĩ: ai quấy nhiễu ta vậy, thật là xấc láo, là người hay phi nhân, Tỳ-kheo-ni bèn nhập định quán sát, biết là Ma vương, nên nói kệ:

Hình tượng không tự tạo
Chẳng do người khác tạo
Do các duyên mà có
Duyên ly thì tan diệt.
Cũng như trồng hạt giống
Nhờ đất mà sanh trưởng
Ấm, giới cùng các nhập
Hòa hợp thành hình tượng.
Nhân khổ nên sanh trưởng
Nhân khổ nên tán diệt
Đoạn trừ tất cả ái
Diệt sạch hết vô minh
Đạt đến nơi tận diệt
An trú pháp vô lậu
Thế nên cần phải biết
Ba-tuần ngươi thua rồi.

Sau khi suy nghĩ: “Tỳ-kheo-ni này biết hoàn toàn tâm ta”. Ba-tuần ưu sầu hối hận, hổ thẹn nên trở về cung.

220. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Tỳ-kheo-ni Tỳ-xà-da, từ tinh xá nơi vườn vua, mặc y mang bát, vào thành khất thực, sau khi thọ trai, rửa bát, đem tọa cụ đến rừng Đắc nhãn, ngồi bên gốc cây nhập thiền định.

Ma vương suy nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm … như trên… nhập thiền định, ta phải quấy nhiễu vị ấy”. Suy nghĩ xong, Ma vương hóa thành một thanh niên đến nơi Tỳ-xà-da nói kệ:

Cô đang rất sung sức
Tôi tuổi trẻ như cô
Cùng nhau hưởng năm dục
Hoan lạc theo ý muốn
Sao ngồi đây một mình
Không làm bạn với tôi?

Nghe kệ ấy, Tỳ-kheo-ni suy nghĩ: “Đây là ai đến quấy nhiễu ta, thật là xấc láo, là người hay phi nhân”, bèn nhập định quán sát, biết là Ma vương, nên nói kệ:

Ca múa theo tiếng nhạc
Cùng với năm dục lạc
Ngươi đem về để dùng
Không thích hợp với ta.
Tất cả năm loại dục
Trong cõi người và trời
Đưa hết cho người dùng
Không thích hợp với ta.
Ta đoạn tất cả ái
Diệt hết sạch vô minh
Đạt đến nơi tận diệt
An trú pháp vô lậu
Vì vậy nên phải biết
Ba-tuần ngươi thua rồi.

Sau khi suy nghĩ: “Tỳ-kheo-ni này đã biết rõ hoàn toàn tâm ta”. Ba-tuần ưu sầu hối hận, hổ thẹn nên trở về cung.

221. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Chiết-la mặc y mang bát, vào thành khất thực, thọ trai, rửa bát xong, đem tọa cụ đến rừng Đắc nhãn, ngồi bên gốc cây, nhập thiền định.

Ma vương suy nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm … như trên… nhập thiền định, ta nên đến đó quấy nhiễu”. Sau khi suy nghĩ, Ma vương hóa thành một thanh niên, đến nơi ấy và nói:

–Này A-lợi-da, người muốn sanh về đâu? Tỳ-kheo-ni đáp:

–Hiện nay ta không có nơi sanh nữa.

Thanh niên nói kệ:

Có sanh tất được lạc
Sống tất hưởng năm dục
Cô nghe ai dạy bảo
Nói không cần sanh nữa.

Tỳ-kheo-ni Chiết-la nói kệ đáp:

Có sanh phải có chết
Bị các khổ trói buộc
Phải đoạn tất cả khổ
Thế nên không cầu sanh
Đấng Mâu-ni đủ mắt
Thuyết pháp chân đế này
Khổ làm nhân sanh khổ
Nên phải xả ly hết.
Tu tập tám Thánh đạo
An ổn hướng Niết-bàn
Thế Tôn hướng dẫn ta
Ta mến giáo pháp ấy.
Ta chứng tri pháp đó
Nên không muốn tái sanh
Đoạn trừ tất cả ái
Diệt tận các vô minh
Đạt đến nơi tận diệt
An trú pháp vô lậu
Vậy nên cần phải biết
Ba-tuần ngươi thua rồi.

Ma vương suy nghĩ: “Tỳ-kheo-ni này đã biết rõ hoàn toàn tâm ta”, nên ưu sầu hối hận, hổ thẹn trở về cung.

222. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Ưu-ba-chiết-la ở tinh xá nơi vườn vua, mặc y mang bát, vào thành Xá-vệ khất thực, sau khi thọ trai, rửa bát và chân xong, cầm tọa cụ đi vào rừng Đắc nhãn, ngồi thẳng người bên gốc cây nhập thiền định.

Ma vương suy nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm … như trên… nhập thiền định, ta nên đến đó quấy nhiễu”. Nghĩ như vậy rồi, Ma vương hóa ra một thanh niên đi đến nơi ấy và hỏi Tỳ-kheo-ni:

–A-lợi-da, muốn thọ thân nơi nào? Tỳ-kheo-ni đáp:

–Ta không còn nơi nào thọ thân cả.

Thanh niên nói kệ:

Đao-lợi và Diệm ma
Đâu-suất và Hóa lạc
Trời Tha hóa tự tại
Nơi ấy thật vui sướng
Cô hãy nguyện đến đấy
Hưởng an lạc thắng diệu.

Tỳ-kheo-ni Ưu-ba-chiết-la nói kệ:

Đao-lợi và Diệm ma
Đâu-suất và Hóa lạc
Trời Tha hóa tự tại
Các nơi tuy đủ lạc
Không thoát khỏi ngã kiến
Tất bị ma trói buộc
Thế gian đều vô thường
Đều trở về hủy diệt
Không có phàm phu nào
Thoát khỏi cảnh buộc trói
Thế gian bị đốt cháy
Thế gian mù khói tỏa
Thoát ly khỏi vô thường
Ta thích nơi như vậy.
Đoạn trừ tất cả ái
Diệt hắc ám vô minh
Đạt đến nơi tận diệt
An trú pháp vô lậu
Thế nên cần phải biết
Ba-tuần ngươi thua rồi.

Sau khi suy nghĩ: “Tỳ-kheo-ni này biết rõ hoàn toàn tâm ta”, Ba-tuần ưu sầu hối hận, hổ thẹn nên trở về cung.

223. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Động Đầu ở tinh xá nơi vườn vua, mặc y mang bát, vào thành khất thực, sau khi thọ trai, tẩy bát rửa chân xong, cầm tọa cụ đi vào rừng Đắc nhãn, ngồi thẳng người bên gốc cây nhập thiền định.

Ma vương suy nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm … như trên… nhập thiền định, ta nên đến đó quấy nhiễu”.

Suy nghĩ thế, Ma vương hóa ra một thanh niên, đi đến nơi ấy nói với Tỳ-kheo-ni:

–Chín mươi sáu thứ đạo, cô thích đạo nào? Tỳ-kheo-ni đáp:

–Ta không thích các đạo ấy. Ba-tuần nói kệ:

Theo ai mà cắt tóc
Tự xưng là Tỳ-kheo
Không ưa thích ngoại đạo
Cô thật là ngu si.

Tỳ-kheo-ni Động Đầu nói kệ:

Các chúng ngoại đạo này
Đều bị tà kiến trói
Các loại kiến trói buộc
Rơi hết vào lưới ma
Đại Thế Tôn họ Thích
Đấng Trượng Phu hơn hết
Tối thắng trong các loài
Ngồi đạo tràng hàng ma
Thiện Thệ, Vô Thượng Sĩ
Giải thoát hết tất cả
Giác ngộ đến tận cùng
Đức Phật dạy cho ta
Là Thế Tôn của ta
Ta mến giáo pháp Ngài
Nay ta đã biết Ngài
Trừ hết các kiến lậu
Đoạn trừ tất cả ái
Diệt vô minh tối tăm
Đạt đến nơi tận diệt
An trú pháp vô lậu
Vì vậy nên phải biết
Ba-tuần ngươi thua rồi.

Ma vương nghĩ: “Tỳ-kheo-ni này đã biết rõ hoàn toàn tâm ta”, nên Ba-tuần ưu sầu hối hận, hổ thẹn trở về cung.

Kệ tóm lược:

Khoáng dã, Tố Di, Tô Cù-đàm
Hoa Liên, Thạch Thất và Tỳ-la
Tỳ xà, Chiết-la, Ưu-ba chiết
la Thứ mười tên Động Đầu.

224. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở nơi bờ hồ Yết-xà, thuộc nước Tát-la.

Vào ngày rằm, Đức Thế Tôn ngồi trước chúng Tăng thuyết giới. Ngay đêm ấy, khi mặt trăng vừa mọc, Bà-kỳ-xa ngồi giữa đại chúng suy nghĩ: “Ta muốn lấy mặt trăng làm thí dụ để tán thán Đức Phật”.

Sau khi suy nghĩ, Tôn giả rời chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng về Phật, bạch: –Thưa Thế Tôn, con có điều muốn nói, cầu mong Đấng Thiện Thệ cho phép. Đức Phật bảo Bà-kỳ-xa: –Cho phép ông nói.

Tôn giả Bà-kỳ-xa nói kệ:

Như mặt trăng tròn đầy
Giữa không trung vắng mây
Ánh sáng chiếu thế giới
Muôn loài đều thích nhìn.
Đức Thích ca Mâu-ni
Đạo Sư của thế gian
Đoan nghiêm rất đặc biệt
Tiếng khen khắp nơi nơi
Trăng mọc, sen trắng tươi
Trời mọc, sen hồng nở
Người được Phật giáo hóa
Như hoa nở tươi tròn
Mở thiện căn đã có
Làm cho thấy nẻo đạo.

Bà-kỳ-xa nói kệ xong, hoan hỷ vui mừng, trở về chỗ ngồi.

225. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ, đang thuyết pháp cho vô số đại chúng vây quanh.

Tôn giả Kiều-trần-như, từ nơi khác đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát dưới chân, ngồi qua một bên. Khi ấy Tôn giả Bà-kỳ-xa đang ở trong hội suy nghĩ: “Nay đang ở trước Đức Phật, ta muốn nói kệ tán thán Tôn giả Kiều-trần-như”.

Sau khi suy nghĩ, Tôn giả đứng dậy bạch Phật: –Thưa Thế Tôn, cầu mong cho phép con nói ít lời tán thán.

Đức Phật nói:

–Tùy ý ông nói.

Tôn giả Bà-kỳ-xa nói kệ:

Thượng tọa Tỳ-kheo Kiều-trần-như
Nói thật, an trú chốn lợi lạc
Thường ưa thích tịch tịnh, lặng lẽ
Là bậc Thanh văn cầu pháp Phật
Chứng đắc hoàn toàn không phóng dật
Có đủ uy đức, đủ ba minh
Biết tâm sai biệt các căn lành
Trưởng tử Như Lai Kiều-trần-như
Quy y đảnh lễ Đức Thế Tôn.

Bà-kỳ-xa nói kệ xong, hoan hỷ trở về chỗ ngồi.

226. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Tôn giả Xá-lợi-phất ở trong giảng đường đang thuyết pháp cho chúng Tăng với âm thanh đầy đủ, lời lẽ chánh trực, khiến cho người nghe tâm ý được hỷ lạc, hiểu rõ, tâm được thông suốt, lời giảng dạy thật trọn vẹn. Chúng Tỳ-kheo chí tâm lãnh hội, hoan hỷ tôn trọng, cung kính, hết lòng ghi nhớ, cùng nhau hoan hỷ tiếp nhận giáo pháp.

Khi ấy Tôn giả Bà-kỳ-xa đang ngồi giữa chúng, suy nghĩ: “Ta muốn nói kệ ca ngợi Tôn giả Xá-lợi-phất”.

Suy nghĩ như vậy xong, Bà-kỳ-xa sửa lại y phục, đứng dậy chắp tay hướng về Xá-lợi-phất nói:

–Xin phép Tôn giả cho tôi được nói.

Sau khi Tôn giả Xá-lợi-phất cho phép tùy ý nói, Bà-kỳ-xa nói kệ:

Lành thay Xá-lợi-phất
Biết rõ đạo, phi đạo
Vì các Tỳ-kheo tăng
Giảng giải rộng và hẹp
Vị Ưu-ba-thất-sử
Nói âm thanh vi diệu
Người nghe đều hoan hỷ
Ngôn ngữ rất hòa nhã
Rất đáng thích đáng yêu
Đại chúng nghe không chán.

Sau khi nói kệ, Bà-kỳ-xa vui mừng hoan hỷ trở về chỗ ngồi.

227. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại sườn núi Rồng, thuộc thành Vương xá, cùng với đại chúng Tỳ-kheo năm trăm vị, đều là bậc A-la-hán, đã hết các lậu, việc làm đã xong, bỏ gánh nặng xuống, hết các nghiệp trói buộc, tâm đã giải thoát.

Khi ấy Tôn giả Mục-liên quan sát năm trăm Tỳ-kheo đang ngồi đều là bậc lìa hết ái dục.

Bấy giờ, vào nửa tháng thuyết giới, Đức Thế Tôn trải tòa ngồi trước chúng Tăng. Tôn giả Bàkỳ-xa đang ở trong chúng, suy nghĩ: ‘Ta nay đang đứng trước Đức Phật và chư Tăng, muốn tán thán”.

Tôn giả liền đứng dậy, sửa lại y phục, chắp tay hướng Phật, thưa:

–Cầu mong Thế Tôn cho con được nói. Sau khi được Đức Phật cho phép, Tôn giả Bàkỳ-xa nói kệ:

Đấng Thương Chủ Vô Thượng
Tại bên bờ núi Rồng
Trí tuệ giúp đỡ khắp
Năm trăm Tỳ-kheo tăng
Mục liên dùng thần túc
Quán sát năm trăm tâm
Biết các Tỳ-kheo này
Đều đoạn dục, kết sử
Tất cả đều đầy đủ
Đấng Mâu-ni Đại Thánh
Vượt qua khỏi bờ khổ
Thân tối hậu thế gian
Con nay quy mạng lễ
Đức Bổn sư Cù-đàm.

228. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá, đang an cư mùa hạ, cùng với đại chúng Tỳ-kheo năm trăm vị, đều là bậc A-la-hán, đã hết các lậu, việc làm đã xong, bỏ gánh nặng xuống, không còn nghiệp trói buộc, chánh trí, tâm đắc giải thoát, chỉ trừ một người được Như Lai thọ ký trong đời hiện tại sẽ dứt sạch hết các lậu.

Vào ngày rằm tháng bảy, đến lúc tự tứ, Đức Phật trải tòa ngồi trước Tăng chúng, bảo các Tỳ-kheo:

–Các thầy nên biết, Ta là vị Bà-la-môn đã chứng Niết-bàn, ở thân cuối cùng là Bậc Lương Y Vô Thượng, đã nhổ sạch mũi tên độc. Các thầy đều là con Ta vì từ tâm, miệng Ta sanh ra, là pháp tử của Ta vì từ pháp hóa sanh. Nay Ta muốn tự tứ, thân, miệng, ý của Ta có lỗi lầm gì không?

Tôn giả Xá-lợi-phất đang ngồi giữa đại chúng, bèn đứng dậy, sửa lại y phục, chắp tay bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, đúng như đã Phật nói: “Ta là … như trên… pháp hóa sanh”. Chúng con không thấy nơi thân miệng của Như Lai có chút lỗi lầm nào cả. Vì sao vậy? Thế Tôn đã làm cho người chưa điều thuận được điều thuận, người chưa tịch tĩnh được tịch tĩnh, làm cho người khổ não được an ổn, người chưa nhập Niết-bàn làm cho đạt được Niết-bàn. Như Lai là Bậc Tri Đạo, là Bậc Chỉ Đạo, là Bậc Thuyết giảng đạo, là Bậc Hướng dẫn theo đạo. Các đệ tử nối tiếp bất tuyệt giáo pháp của Thế Tôn, thứ lớp tu đạo, thường học tập dạy bảo nhau, tùy thuận chánh pháp, thường giúp đỡ thân ái nhau trong pháp thiện. Chúng con không thấy Thế Tôn có một chút lỗi lầm nào về thân, miệng, ý.

Tôn giả Xá-lợi-phất thưa:

–Xin Thế Tôn tự tứ, nói lên khuyết điểm về thân, miệng, ý của con phạm phải, xin Ngài từ bi dạy bảo.

Phật bảo Xá-lợi-phất: –Ta không thấy thầy có một chút nào lỗi lầm. Vì sao? Xá-lợi-phất luôn kiên trì tịnh giới, rộng nghe, ít dục, biết đủ, xa lìa ồn ào, thích nơi yên tĩnh, có tinh tấn đầy đủ, tâm định, gồm đủ trí tuệ: Trí tuệ nhanh nhạy, trí tuệ sắc bén, trí tuệ rộng mở, có giống trí tuệ lớn lao, đặc biệt. Chỉ trừ Đức Như Lai, còn trí tuệ những người khác không thể bằng trí tuệ của thầy, thầy đã thành tựu thật trí, chỉ dạy đem lại lợi ích, hoan hỷ, tâm không ganh ghét, thấy người khác có khả năng chỉ dạy tạo được lợi ích, hoan hỷ thì luôn tùy hỷ tán trợ, nếu thuyết pháp cho bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bàtắc, Ưu-bà-di, không có mệt mỏi chán nản. Thế nên hiện nay thầy không có một chút lỗi lầm nào về thân, miệng, ý.

Xá-lợi-phất bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, Ngài thấy năm trăm Tỳ-kheo này có chút lỗi lầm nào về thân, miệng, ý không?

Phật bảo Xá-lợi-phất:

–Ta không thấy một chút lỗi lầm nào của năm trăm Tỳ-kheo này. Tại sao? Năm trăm vị Tỳ-kheo này đều là bậc A-la-hán, các lậu đã hết, đã làm xong việc, bỏ gánh nặng xuống, đạt đến vô ngã, sạch các nghiệp trói buộc, chánh trí, tâm đắc giải thoát. Vì sự thật này, Ta không thấy năm trăm Tỳ-kheo này có một chút lỗi lầm nào về thân, miệng, ý. Xá-lợi-phất bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, Ngài không chê năm trăm Tỳ-kheo có một khuyết điểm nhỏ nào và cũng không thấy họ có một chút lỗi lầm nào về thân, miệng, ý. Thưa Thế Tôn, năm trăm vị Tỳ-kheo này, bao nhiêu vị đầy đủ ba minh, bao nhiêu vị đạt câu phần giải thoát, bao nhiêu vị đạt tuệ giải thoát?

Phật dạy:

–Trong chúng Tỳ-kheo này, có chín mươi vị đủ ba minh, một trăm tám mươi vị đắc câu phần giải thoát, số còn lại đều đắc tuệ giải thoát.

Tôn giả Xá-lợi-phất thưa:

–Năm trăm vị này đã xa lìa các phiền não cấu uế, không có phần hư mục, đều là phần cốt lõi tinh túy. Khi ấy Bà-kỳ-xa đang ở trong chúng, suy nghĩ: –Đức Phật đang tự tứ, ta muốn nói kệ tán thán sự việc tự tứ ấy.

Tôn giả chắp tay hướng về Phật bạch:

–Thưa Thế Tôn, cho phép con nói kệ.

Sau khi được Phật cho phép, Tôn giả Kỳ-xa nói kệ:

Hôm nay mười lăm, ngày thanh tịnh
Năm trăm Tỳ-kheo cùng hội họp
Tất cả đều đoạn hết kết sử
Là bậc Đại tiên không còn nghiệp
Thành tâm thân cận Thế Tôn tịnh
Tất được giải thoát, không đời sau
Việc đoạn sanh tử làm đã xong
Các lậu đã hết, diệt vọng động
Trừ tham, kiêu mạn, đoạn hữu kết
Nhổ tên độc ái, diệt nghiệp ái
Sư tử trong đời, lìa các thủ
Hết sạch hữu kết, diệt sợ hãi
Như vị Chuyển luân Đại thánh vương
Quần thần tùy tùng ở chung quanh
Du hành khắp nơi tận biển cả
Như được thắng lớn trong chiến đấu
Đệ tử của Thương Chủ Vô Thượng
Đầy đủ ba minh, diệt tử thần
Họ đúng là con của Đức Phật
Không còn cấu uế, thuần thanh tịnh
Kính lễ thân thuộc của mặt trời.

229. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Tôn giả Bà-kỳ-xa ở nơi vắng vẻ, bị dục quấy tâm, suy nghĩ đến tư tưởng xấu, không hỷ lạc, liền chánh niệm tỉnh giác: “Ta đang mất lợi ích thiện, người xuất gia gọi là khó được, nếu có dục tâm thì không gọi là khó được. Ta đang thoái thất tâm thiện, tâm ác xâm nhập, vậy ta nên nói kệ trình bày những lỗi lầm xấu xa của tâm.

Tôn giả nói kệ:

Dứt bỏ những ưa thích
Không ưa thích cũng bỏ
Bỏ áo cảm giác tham
Không tạo rừng phiền não
Cành dục tỏa rộng khắp
Chúng sanh thích vịn kéo
Chặt đốn sạch cành dục
Mới tên là Tỳ-kheo.
Không kéo cành dục xuống
Không rừng gọi Tỳ-kheo
Ý thức sanh dục cảm
Với cảm giác dục này
Làm thế gian thích thú
Ai thoát dục giác ý
Thì thoát ly trói buộc
Ai không ưa thắng dục
Ưa nói lời thô ác
Không gọi là Tỳ-kheo
Thích cảm thọ thuộc thân
Từ thấy nghe ý thức
Dục tưởng từ năm căn
Xa lìa hẳn dục tưởng
Không cảm thọ nhiễm ô
Gọi là được giải thoát
Mặt đất đến hư không
Tận thế gian hữu sắc
Đều phải bị tan hoại
Tất cả đồng diệt tận
Thấy biết việc này rồi
Hành pháp đã quyết định
Các xứ không sanh thọ
Chân thật không dối trá
Cầu chánh niệm giữ thân
Cũng vì việc lợi ích
Ai làm được như vậy
Hiện đời chứng Niết-bàn.

230. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Tôn giả Bà-kỳ-xa cùng với Tôn giả A-nan mặc y, mang bát vào thành khất thực, thấy một cô gái trẻ đẹp, nên sanh dục tưởng.

Bà-kỳ-xa tự tỉnh giác, trách lấy mình: “Ta gây bất lợi cho việc xuất gia. Mạng sống của ta rất khó được, nếu sanh tâm này, gọi là bất thiện, thà bỏ thân mạng, không làm theo dục tưởng. Ta thật không xứng là người xuất gia. Vì sao? Thấy cô gái trẻ đẹp liền sanh tâm yêu mến, nếu sanh tâm này thật không thích hợp với ta!”.

Tôn giả hướng về Tôn giả A-nan, nói kệ:

Vì dục kết xâm chiếm
Thiêu đốt trong tâm tôi
Cầu mong dạy cho tôi
Phương pháp khéo trừ dục
A-nan nói kệ đáp:
Tưởng điên đảo phát sanh
Hay thiêu đốt tâm ta
Do tưởng tịnh sanh dục
Nên tu quán bất tịnh
Ở riêng ngồi thiền định
Mau diệt được tham dục
Đừng để cảm thọ đốt
Phải quán sát các hành
Vô thường không có vui
Đều là pháp vô ngã
An tâm chánh niệm thân
Nhiều chán, ác, sanh tử
Tu tập chánh trí tuệ
Trừ bảy mạn, kết sử
Ai biết đoạn hết mạn
Thì không còn khổ đau.

231. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào giữa đêm, có vị trời với hào quang rực rỡ khác thường chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, ngồi qua một bên, nói kệ:

Thắng lợi thật là gì
Ai là bạn thân nhất
Chúng sanh dựa vào đâu
Mà tự sinh hoạt được
Làm những sự việc gì
Để dành được tài sản?

Thế Tôn nói kệ:

Làm ruộng thật có lợi
Vợ là bạn thân nhất
Chúng sanh nhờ cây chín
Mà tự sanh sống được
Ai siêng năng làm việc
Sản nghiệp để dành nhiều.

Vị trời nói kệ:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ từ giã.

232. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào giữa đêm, có vị trời với hào quang rực rỡ khác thường chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, ngồi qua một bên, nói kệ:

Trong nhà yêu con nhất
Tài sản, bò đứng đầu
Mặt trời ánh sáng nhất
Vực sâu, biển sâu nhất

Thế Tôn nói kệ đáp:

Yêu thân mình hơn hết
Của quý nhất, giáo dục
Trí tuệ là sáng nhất
Mưa là vực sâu nhất.

Vị trời nói kệ tán thán:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ từ giã.

233. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào giữa đêm, có vị trời với hào quang rực rỡ khác thường chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, ngồi qua một bên, nói kệ:

Trong những loài hai chân
Giòng Sát-lợi hơn hết
Trong các loài bốn chân
Bò là loài hơn hết
Trong các hạng thê thiếp
Đồng nữ là hơn hết
Trong các hàng con cháu
Trưởng tử là hơn hết.

Đức Phật nói kệ đáp:

Trong loài hai chân, Phật tối thắng
Các loại bốn chân, xe hơn hết
Trong số thê thiếp, trinh nữ hơn
Hiếu tử hơn hết, trên con cháu.

Vị trời nói kệ khen:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ từ giã.

234. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào giữa đêm, có vị trời với hào quang rực rỡ khác thường chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, ngồi qua một bên, nói kệ:

Vật sống nào là hơn
Vật nào vào đất hơn
Hạt giống nào là hơn
Gieo giống ai nào hơn?

Có vị trời, trước đây là người làm ruộng, nói kệ:

Lúa mạ mọc là hơn
Hạt giống vào đất hơn
Giúp đỡ cày và bò
Người gieo giống là hơn.

Vị trời kia nói với vị trời này:

–Tôi không hỏi ông, chỉ muốn hỏi Phật.

Vị ấy nói kệ:

Vật sống nào là hơn
Vật nào vào đất hơn
Hạt giống nào là hơn
Gieo giống ai nào hơn?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Minh là mạ tối thắng
Diệt vô minh là thắng
Thân cạn cúng dường Phật
Gieo giống tăng tối thắng.

Vị trời nói kệ khen:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ từ giã.

235. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào giữa đêm, có vị trời với hào quang rực rỡ khác thường chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, ngồi qua một bên, nói kệ:

Cái gì sanh thế gian
Những gì được hòa hợp
Bao nhiêu ái sanh hữu
Cái gì khổ thế gian?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Sáu ái sanh thế gian
Hòa hợp do sáu xúc
Sáu ái phát sanh nghiệp
Sáu căn sanh các khổ.

Vị trời nói kệ khen:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ từ giã.

236. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào giữa đêm, có vị trời với hào quang rực rỡ khác thường chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, ngồi qua một bên, nói kệ:

Ai mang thế gian đi
Cái gì là khổ não
Nhờ vào một pháp gì
Thế gian được tự tại?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Ý đưa đến các nẻo
Ý làm khổ thế gian
Ý chính là một pháp
Làm thế gian tự tại.

Vị trời nói kệ tán thán:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ từ giã.

237. Tôi nghe như vầy:

Một thời … như trên… nói kệ:

Vật gì trói thế gian
Làm sao được giải thoái
Đoạn trừ những pháp nào
Chứng đắc đến Niết-bàn?

Thế Tôn nói kệ:

Dục trói buộc thế gian
Bỏ dục đạt giải thoát
Cắt đứt được dây ái
Gọi là đắc Niết-bàn.

Vị trời nói kệ:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ từ giã.

238. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc. Vị trời nói kệ:

Vật gì trùm thế gian
Vật gì hay bao vây
Vật gì trói chúng sanh
Cái gì tạo thế gian?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Già bao trùm thế gian
Chết vây quanh đời sống
Ái trói buộc thế gian
Pháp xây dựng thế gian.

Vị trời nói kệ:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ từ giã.

239. Tôi nghe như vầy:

Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà ... như trên… vị trời nói kệ:

Vật gì mê thế gian
Vật gì hòa với nghiệp
Gì ô nhiễm chúng sanh
Cái gì dựng làm cờ?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Vô minh mê thế gian
Ái ngã hòa với nghiệp
Sân ô nhiễm chúng sanh
Ngã mạn dựng nên cờ.

Vị trời lại nói kệ hỏi:

Ai không bị ngăn che
Ai đoạn trừ được dục
Ai ra khỏi ô nhiễm
Ai hạ được cờ mạn?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Phật không bị ngăn che
Chánh trí đắc giải thoát
Ngài không còn ngăn che
Đoạn trừ hết ái kết
Vượt ra khỏi trần cấu
Phá gãy cờ ngã mạn.

Vị trời nói kệ khen:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ từ giã.

240. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà,

…như trên…, vị trời nói kệ:

Tài sản nào hơn hết
Tu hành hạnh thiện nào
Được quả báo an lạc
Vị ngọt nào tối thắng
Trong các loại thọ mạng
Thọ mạng nào tối thắng?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Trong các loại tài sản
Tín tài là hơn hết
Tu hành là chánh pháp
Được kết quả an lạc
Trong các loại quả ngọt
Nói thật là ngọt nhất
Trong các loại thọ mạng
Tuệ mạng là tối thắng.

Vị trời nói kệ:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ từ giã.

241. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà,

… như trên…, vị trời nói kệ:

Sống trong đường sanh tử
Người bạn thân là ai
Ai là người dạy bảo
Hướng đến đường Niết-bàn
Tỳ-kheo vui pháp nào
Đoạn trừ được kết phược?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Trong các đường sanh tử
Lòng tin là bạn thân
Trí tuệ là thầy dạy
Người ưa thích Niết-bàn
Đoạn các triền, kết sử
Đúng tên là Tỳ-kheo.

Vị trời nói kệ khen:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ từ giã.

242. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà,

… như trên…, vị trời nói kệ:

Thiện gì đến tận già
Thiện gì an trú nhất
Vật báu gì đứng đầu
Vật gì giặc không cướp?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Trì giới thiện đến già
Lòng tin an trú nhất
Trí tuệ hơn vật báu
Phước đức giặc không cướp.

Vị trời nói kệ khen:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ từ giã.

243. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà,

… như trên…, vị trời nói kệ:

Chúng sanh do ai sanh
Thường mong cầu những gì
Tại sao trong sanh tử
Lưu chuyển không giải thoát?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Chúng sanh do ái sanh
Ý mong cầu các trần
Tất cả loài hữu tình
Luân chuyển trong sanh tử
Thường thọ các khổ não
Làm sao mà giải thoát.

Vị trời nói kệ:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ từ giã.

244. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà,

… như trên…, vị trời nói kệ:

Chúng sanh do đâu sanh
Tại sao thường tìm cầu
Luân chuyển trong sanh tử
Cái gì làm sợ hãi?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Chúng sanh do ái sanh
Tâm ý chạy không ngừng
Chúng sanh trong sanh tử
Khổ làm lo sợ nhất.

Vị trời nói kệ:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ từ giã.

245. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà,

… như trên…, vị trời nói kệ:

Chúng sanh do ai sanh
Cái gì thường tìm cầu
Sanh tử thường luân chuyển
Cái gì đáng sợ nhất?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Ái sanh ra chúng sanh
Ý theo các thứ trần
Chúng sanh trong sanh tử
Nghiệp là đáng sợ nhất.

Vị trời nói kệ:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ từ giã.

246. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà,

… như trên…, vị trời nói kệ:

Cái gì là phi đạo
Vật gì ngày đêm trôi
Ai làm bẩn phạm hạnh
Ai não hại thế gian
Thế nào là nước tắm
Mà không cần dùng nước
Cầu mong Phật Thế Tôn
Giảng giải cho con rõ?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Dục gọi là phi đạo
Mạng người ngày đêm trôi
Nữ làm ố phạm hạnh
Và não hại thế gian
Người chuyên tu phạm hạnh
Trong sạch hơn cả nước.

Vị trời nói kệ khen:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ từ giã.

247. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà,

… như trên…, vị trời nói kệ:

Vật gì đứng hàng đầu
Hơn hết trong các vật
Cái gì ở khắp nơi
Được tôn là tối thượng
Có một loại pháp gì
Tự tại trong thế gian.

Thế Tôn nói kệ:

Trong các vật thế gian
Bốn uẩn, danh hơn hết
Danh uẩn ở nơi nào
Cũng đều là tối thượng
Một pháp bốn uẩn danh
Tự tại trong thế gian.

Vị trời nói kệ khen:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ từ giã.

248. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà,

… như trên…, vị trời nói kệ:

Bắt đầu kệ là gì
Và phân biệt bằng gì
Kệ y cứ vào đâu
Và lấy gì làm thể?

Thế Tôn đáp:

Ý muốn sanh ra kệ
Kệ phân biệt bằng chữ
Kệ y vào danh từ
Lấy văn chương làm thể.

Vị trời nói kệ:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ từ giã.

249. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà,

… như trên…, vị trời nói kệ:

Làm sao biết xe vua
Làm sao biết được lửa
Nhờ đâu biết quốc gia
Làm sao biết người nữ.

Thế Tôn đáp:

Nhờ cờ biết xe vua
Thấy khói biết có lửa
Nhờ vua biết quốc gia
Nhờ chồng biết phụ nữ.

Vị trời nói kệ khen:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ từ giã.

Kệ tóm lược:

Tín và thứ hai và chí lão

Các loại sanh thế gian
Phi đạo, tối thượng thắng
Kệ lấy gì làm đầu
Biết xe, đó là mười.

QUYỂN 13

250. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một Trưởng giả thỉnh Đức Phật và chư Tăng thọ trai. Thế Tôn cùng đại chúng đến nhà vị đại Trưởng giả ấy.

Tôn giả Bà-kỳ-xa theo thứ tự được phân công, ở nhà bảo vệ tăng xá. Bấy giờ có nhiều phụ nữ đến tăng xá, trong số đó có một cô gái rất xinh đẹp. Bà-kỳ-xa thấy cô gái ấy, bị sắc đẹp lôi cuốn, tâm sanh dục tưởng, nên suy nghĩ: “Ta đang vọng tưởng mất lợi ích lớn. Thân người khó được, chết rồi khó được lại. Nếu sanh tâm này thật là bất thiện, thà bỏ thân mạng, không làm theo dục tưởng. Ta thật không xứng là người xuất gia. Vì sao? Ta thấy cô gái trẻ tuổi xinh đẹp, không kiềm chế được tâm, phát sanh dục tưởng. Ta nên nói về sự nguy hiểm đáng nhàm chán”.

Tôn giả nói kệ:

Ta đang bỏ dục lụy
Sống trong pháp xuất gia
Dục, vô minh theo đuổi
Làm mất cả tâm thiện
Như bò ăn mạ người
Ngon quá không nhịn được
Năm dục cũng như vậy
Tham ăn không hổ thẹn
Nếu không ngăn cấm ngay
Tất hại lúa pháp thiện
Ví như người Sát-lợi
Tập đủ các nghệ tài
Giả sử có ngàn người
Cung tên bắn loạn xạ
Thanh niên Sát-lợi này
Vẫn chiến thắng số kia
Tỳ-kheo đủ chánh niệm
Như người Sát-lợi ấy
Đang cầm dao trí tuệ
Chặt đứt các dục giác
Đã trừ dục giác rồi
An lạc thường tịch diệt.
Chính ta nghe Phật dạy
Có hai loại bạn thân
Trên đường về Niết-bàn
An lạc trong tâm ta
Ta tu không phóng dật
Ở rừng sống yên tịnh
Ta tán trợ tâm ý
Cho là lập chánh pháp
Sau phải đến chỗ chết
Ai chứng đắc Niết-bàn
Biết đó là tâm ác
Làm sao sai được ta.

251. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Tôn giả Bà-kỳ-xa đối với các vị Tỳ-kheo có đức độ nhu hòa khiêm tốn, sanh tâm kiêu mạn, liền tỉnh giác ngay, tự trách bản thân: “Ta đã mất sự lợi ích lớn. Thân người khó được, xuất gia khó hơn. Ta đã được cả hai lại không thể cẩn thận, khinh thường việc xuất gia, khinh thường mạng sống, dùng trí năng của ta khinh miệt Tỳ-kheo có đức độ nhu hòa khiêm tốn. Ta phải nói lên sự nhàm chán đối với tâm kiêu mạn ấy”. Tôn giả nói kệ:

Ngươi phải bỏ các mạn
Không nên tự kiêu căng
Đừng vì mạn, nên lùi
Sau hối hận không kịp
Tất cả các chúng sanh
Đều bị mạn làm hại
Hại đến rơi địa ngục
Thế nên ta ngày nay
Không nên ỷ tài năng
Mà sanh tâm kiêu mạn
Ai xa lìa kiêu mạn
Thì bỏ được triền cái
Tâm trong sạch cung kính
Chứng đắc được ba minh
Người khiêm tốn như vậy
Là Tỳ-kheo chánh niệm
Kiều-trần-như, Xá-lợi
Tự tại, không trói buộc
Không ưa thích dục kết
Thoát ly hẳn kiêu mạn.

252. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Tôn giả Bà-kỳ-xa ở nơi yên tịnh, siêng năng tu tập, tinh tấn không phóng dật, trú nơi quả vị này chứng đắc ba minh. Tôn giả tự nghĩ: “Ta ở nơi yên tịnh, chứng được ba minh. Ta muốn ca ngợi sự chứng đắc ba minh của mình”. Tôn giả nói kệ:

Xưa ta mê đắm dục
Trải qua nhiều thành phố
Trên đường đi gặp Phật
Được hưởng phước lợi lớn
Đức Cù-đàm thương xót
Giảng chánh pháp cho con
Con nghe chánh pháp rồi
Được lòng tin thanh tịnh
Tư duy việc xuất gia
Đại Đạo Sư thế gian
Giáo hóa không phân biệt
Nam nữ hay lớn bé
Trung niên hay già lão
Phật gọi là thân hữu
Chỉ dạy phương trời thiện
Cho chúng vô minh, mù
Hướng dẫn chỉ môn này
Đó là pháp môn nào
Chính là bốn Chân đế
Từ nhân tập sanh khổ
Từ khổ nên xuất gia
Thấy được tám Chánh đạo
Giúp đỡ các chúng sanh
An ổn hướng Niết-bàn
Ta tu không phóng dật
Ở rừng vắng, tĩnh lặng
Chứng đắc được ba minh
Làm xong lời Phật dạy

253. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Ta đang muốn dạy bốn câu kệ pháp. Các ông hãy lắng nghe, Ta sẽ nói. Thế nào là ý nghĩa bốn câu kệ pháp?

Bậc Tiên thánh giảng dạy
Thiện ngữ là tối thượng
Ái ngữ không thô ác
Là tối thượng thứ hai
Thật ngữ không dối trá
Là tối thượng thứ ba
Không nói lời phi pháp
Đúng pháp là thứ tư
Đây là giảng về bốn
Ý nghĩa tứ cú kệ.

Tôn giả Bà-kỳ-xa đang ở giữa hội chúng, suy nghĩ: “Phật đang giảng nói về bốn câu pháp, ta muốn khen mỗi kệ một câu tán dương”.

Bà-kỳ-xa đứng dậy, chắp tay hướng về Phật, thưa:

–Bạch Thế Tôn, con là Bà-kỳ-xa có điều muốn nói, xin Ngài cho phép.

Sau khi được Đức Phật cho phép tùy ý, Tôn giả Bà-kỳ-xa nói kệ:

Lời nói ra không hại bản thân
Lại không hại người là lời thiện
Thường nên ái ngữ để người vui
Cũng không nói ra lời thô ác
Làm theo những lời Phật đã dạy
Tất được an lạc đến Niết-bàn
Lời nói thiện thường đoạn các khổ
Lời nói thật vị ngọt tối thượng
Nói thật đúng lúc được lợi lớn
Sống bằng lời thật, Thiện trượng phu.

254. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Trên đời có hạng lương y biết trị bệnh bằng bốn cách, xứng đáng là thầy của vua. Thế nào là bốn? Một, biết rõ bệnh; hai, biết nguyên nhân sanh bệnh; ba, biết cách trị hết bệnh đang có; bốn, trị hết bệnh không còn tái phát. Người có khả năng như vậy là lương y trên đời. Đức Phật cũng thành tựu bốn pháp. Đức Như Lai Chí Chân Chánh Đẳng Giác là Lương y Vô thượng, có bốn cách nhổ tên độc cho chúng sanh. Thế nào là bốn? Đó là khổ, là nguyên nhân của khổ, là sự diệt khổ và con đường diệt khổ.

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

–Mũi tên độc sanh, lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ não, y sĩ thế gian không thể biết được nguyên nhân khổ sanh, trừ sạch hết khổ và phương pháp có thể đoạn trừ lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ não, chỉ có Đức Như Lai Chí Chân Chánh Đẳng Giác là Bậc Vô Thượng Lương Y, biết nguyên nhân khổ sanh, sự hết khổ cho đến biết lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ não, biết nguyên nhân của nó và sự đoạn trừ. Đức Như Lai biết hoàn toàn về bốn cách nhổ tên độc, thế nên được tôn xưng là Lương Y Vô Thượng.

Tôn giả Bà-kỳ-xa đang ngồi trong hội, suy nghĩ: “Ta nên ca ngợi bốn phương pháp nhổ tên độc của Như Lai”.

Tôn giả đứng dậy chắp tay hướng về Đức Phật, nói kệ:

Con xin quy y Phật
Thương xót các chúng sanh
Đấng Tối Thượng Đệ Nhất
Nhổ được tên độc ra
Có bốn hạng thầy thuốc
Trị được bốn loại bệnh
Đó là trị thân bệnh
Trẻ con, mắt, tên độc
Như Lai trị bệnh mắt
Hơn thầy thuốc thế gian
Dùng mũi nhọn trí tuệ
Lột mạc mắt vô minh
Như Lai trị thân bệnh
Hơn thầy thuốc thế gian
Thầy thuốc trong thế gian
Chỉ trị bệnh bốn đại
Như Lai giỏi phân biệt
Sáu giới, mười tám giới
Dùng giáo pháp trị liệu
Bệnh nặng tham, sân, si
Hay trị bệnh kẻ ngu
Tối thắng không ai bằng
Nên nay con kính lễ
Đại Tôn Sư Cù-đàm
Y vương tên Ca-lưu
Cho nhiều người thuốc thang
Lại có thầy thuốc giỏi
Tên là Bà-hô-lư
Chiêm-tỳ và Kỳ-bà
Các y vương như vậy
Trị được nhiều chứng bệnh
Gặp bốn thầy thuốc này
Người bệnh liền trị hết
Nhưng bệnh sẽ tái phát
Cũng không thoát khỏi chết.
Như Lai Vô Thượng Y
Ngài có thể liệu trị
Nhổ tên độc hết khổ
Thoát ly hẳn sanh tử
Không còn thọ khổ nữa
Vô lượng na-do-tha
A-tăng-kỳ chúng sanh
Phật trị cho hết khổ
Không bao giờ tái phát
Con xin thưa đại chúng
Chư Hiền ở trong hội
Đều nên chí tâm dùng
Thuốc cam lộ bất tử
Mọi người nên tin thọ
Người trị mắt vô thượng
Trị thân nhổ tên độc
Không thầy thuốc nào bằng
Thế nên phải chí tâm
Quy y Đấng Cù-đàm.

255. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá.

Tỳ-kheo Ni-cù-đà-kiếp-ba ở trong rừng rộng vắng thứ nhất, trong rừng này lại có một khu rừng nữa. Bấy giờ Tỳ-kheo ấy bị bệnh, Tôn giả Bà-kỳxa là người nuôi bệnh. Do cơn bệnh ấy, Tỳ-kheo Ni-cù-đà-kiếp-ba nhập Niết-bàn. Sau khi hỏa thiêu cúng dường Hòa thượng Ni-cù-đà-kiếp-ba, Tôn giả Bà-kỳ-xa lần lượt du hành đến vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương xá.

Vào sáng sớm, Tôn giả Bà-kỳ-xa mặc y mang bát vào thành Vương xá khất thực, sau khi thọ trai, rửa bát, mang tọa cụ đến gặp Phật, chỉnh đốn y phục, chắp tay hướng Phật, nói kệ:

Nay con muốn hỏi Phật
Bậc Trí Tuệ Vô Lượng
Trừ nghi hoặc hiện tại
Ở trong rừng rộng vắng
Tỳ-kheo nhập Niết-bàn
Sanh ra có phúc đức
Giữ gìn thân, miệng, ý
Và có tiếng khen lớn
Ni-cù-đà-kiếp-ba
Phật đặt cho tên này
Phật là Bà-la-môn
Đặt tên họ như vậy.

256. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Khi ấy các vị đại Thanh văn kỳ cựu đều cất am cốc chung quanh chỗ Phật và ở đó. Tôn giả Kiềutrần-như đứng đầu các vị Hiền giả như Bạt-câu Ma-ha-nam, Da-xá, Na-tỳ-la-ma-ngưu-từ, Xá-lợiphất, Ma-ha Mục-liên, Ma-ha Ca-diếp, Ma-ha Câu-hi-la, Ma-ha Kiếp-tân-na, A-na-luật, Nan-đà Ca, Cam-tỳ-la, Da-xá-từ-la, Câu-tỳ-ha-phú-na, Câu-tỳ-la Câu-bà-ni-nê-ca, Tha-tỳ-la, các vị ấy và các vị đại Thanh văn khác đều ở trong các am cốc bằng cỏ.

Vào ngày mười lăm bố tát, Đức Như Lai trải tọa cụ, ngồi trước chúng Tăng. Tôn giả Bà-kỳ-xa ở trong đại chúng, đứng dậy chắp tay bạch Phật: –Xin cho phép con nói.

Sau khi được Phật cho phép, Bà-kỳ-xa nói kệ:

Các vị đại Tỳ-kheo
Ái dục đã khô cạn
Dứt bỏ các tập khí
Dũng mãnh không sợ hãi
Biết thời, và tri túc
Không tham vị năm dục
Rời tất cả cấu uế
Thâm tâm có trí tuệ
Với đầy đủ như vậy
Gọi là đại Tỳ-kheo

257. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Tôn giả Bà-kỳ-xa ở giảng đường Tỳ-xá-khư Lộc tử mẫu, bị bệnh rất nặng. Phú-nặc là người nuôi bệnh. Tôn giả Bà-kỳ-xa bảo Phú-nặc:

–Ông hãy đến gặp Đức Thế Tôn, nhân danh ta, đảnh lễ sát chân Thế Tôn, thăm Thế Tôn, ít bệnh ít phiền não, sinh hoạt có nhẹ nhàng mạnh khỏe không?

Phú-nặc vâng theo lời Tôn giả đến gặp Phật, đảnh lễ sát chân Phật, ngồi qua một bên, chắp tay bạch:

–Thưa Thế Tôn, Tỳ-kheo Bà-kỳ-xa ở giảng đường Tỳ-xá-khư bị bệnh rất nặng, bảo con đến gặp Thế Tôn, nhân danh Tôn giả đảnh lễ sát chân Thế Tôn, thăm hỏi Thế Tôn, ít bệnh ít phiền não, sinh hoạt có nhẹ nhàng mạnh khỏe không?

Phú-nặc lại bạch Phật:

–Bà-kỳ-xa có thể với cơn bệnh này sẽ nhập Niết-bàn, cầu mong Thế Tôn hạ cố đi đến đó.

Như Lai im lặng nhận lời của Phú-nặc. Phú-nặc trở lại gặp Bà-kỳ-xa:

–Thưa Hòa thượng, con đã thăm hỏi và thưa thỉnh Thế Tôn: “Tôn giả Bà-kỳ-xa có thể bệnh nặng mà vào Niết-bàn”. Thế Tôn im lặng nhận lời của con.

Sau khi xuất thiền, Thế Tôn đi đến gặp Bà-kỳxa ở giảng đường Tỳ-xá-khư.

Khi Tôn giả Bà-kỳ-xa thấy Thế Tôn đang đi đến, nên cố sức muốn ngồi dậy. Thế Tôn bảo:

–Thầy không cần phải dậy.

Thế Tôn ngồi trên một tọa cụ riêng, bảo Bàkỳ-xa:

–Thân thể ông đang bệnh hoạn, có chịu nổi không, có ăn uống được không?

Bà-kỳ-xa thưa:

–Sự đau đớn này có tăng, không giảm. Bệnh của con, như người lực sĩ bắt lấy người yếu đuối ghịt đầu tóc đè xuống bóp chặt, đầu con đau đớn cũng như vậy. Như người đồ tể lực lưỡng dùng dao mổ bụng, cắt ruột con bò, bụng con đau đớn cũng như vậy. Như người gầy ốm bị người mạnh khỏe bắt đem nướng trên lửa nên thân thể bị cháy khô, thân con bị đau đớn cũng như vậy. Hôm nay con muốn nhập Niết-bàn. Con muốn ca ngợi Phật lần cuối cùng.

Sau khi được Phật cho phép, Tôn giả đã nói kệ: (nguyên bản thiếu bài kệ) Kệ tóm lược:

Bổn như tửu túy tứ cú tán

Long hiệp, bạt độc tiễn
Ni-cù đà kiếp-tân nhập Niết-bàn
Tán đại Thanh văn Bà-kỳ-xa diệt tận.

258. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật du hóa ở nước Câu-tát-la trở về nước Xá-vệ, ngự tại lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc.

Có một thanh niên tên là Cực Mạn, thừa hưởng sự thông thái hiểu biết đúng đắn của bảy đời từ tổ tiên đến cha mẹ, tự mình đọc tụng lại dạy bảo người khác. Người này nghe điều gì cũng đều ghi nhận, đạt được chỗ ý nghĩa sâu xa nơi bốn sách Vi-đà, Sa-la-càn-đà Luận, Thanh luận, luận Tỳca-la, luận Hý tiếu, luận Tỳ-đà-la, hiểu biết pháp điển và thông đạt ý nghĩa của các luận ấy. Anh ta với dung mạo đẹp đẽ, tài nghệ hơn người, không ai bì kịp, lại sanh vào nhà hào tộc, sống nơi phú quý, tự thị về tài lực nên rất kiêu mạn, không kính thuận cha mẹ và không lễ kính các bậc Hòa thượng, A-xà-lê, Sư trưởng thân thuộc.

Thanh niên Cực Mạn nghe Đức Phật từ nước Câu-tát-la đến nước Xá-vệ, ngự tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, muốn đến gặp Phật, nên suy nghĩ: “Khi ta đến nơi ấy, nếu Sa-môn Cù-đàm tiếp đãi ta, ta sẽ chào hỏi. Ngược lại, ta sẽ trở về!”

Sau khi suy nghĩ, thanh niên này đi đến gặp Phật. Trong lúc Đức Thế Tôn đang thuyết pháp cho đại chúng chung quanh, thanh niên Cực Mạn đi vào. Như Lai không để mắt tới. Thanh niên suy nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm không quan tâm đến ta”, nên muốn trở về. Thế Tôn biết tâm niệm của anh ta nên nói kệ:

Vì muốn, biết đến đây
Chưa được lại muốn về
Tại sao không hành động
Đạt tâm nguyện tự thân.

Thanh niên Cực Mạn suy nghĩ: “Sa-môn Cùđàm biết tâm niệm của ta”. Liền sanh lòng tin, muốn làm lễ dưới chân Phật.

Đức Phật bảo thanh niên:

–Ta ghi nhận tâm ông, không cần làm lễ, như vậy là đủ rồi.

Mọi người thấy việc lạ chưa từng có như vậy, nên đều lên tiếng:

–Sa-môn Cù-đàm có thần thông lớn, thanh niên Cực Mạn này đối với cha mẹ, Hòa thượng, A-xà-lê của mình còn không cung kính, nay gặp Cù-đàm, lại tự mình khiêm tốn, kính thuận vâng lời. Thanh niên Cực Mạn nghe tiếng nói của mọi người vừa dứt, liền ngồi qua một bên, thẳng người chánh ý, nói kệ:

Đối với những nơi nào
Không nên sanh kiêu mạn
Lại đối với chỗ nào
Phải có lòng khiêm nhượng
Ai trừ hết các khổ
Ai cho sự an lạc
Cúng dường ai là hơn
Được hiền trí khen ngợi?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Cúng dường cho cha mẹ
Bằng tâm sạch trăng tròn
Kính thuận anh thân thuộc
Hòa thượng, A-xà-lê
Cùng các Tôn trưởng khác
Không khinh mạn với họ
Cần phải nên khiêm tốn
Thân tâm đều cung kính
Nếu gặp ai đau khổ
Nên giúp họ trừ khổ
Làm cho họ an lạc
Cúng dường khắp tất cả
Với bậc trừ tham sân
Và xa lìa ngu si
A-la-hán dứt lậu
Chánh trí, đắc giải thoát
Các bậc Thượng nhân ấy
Không được tự cao ngạo
Phải hướng về quy y
Chắp tay cung kính lễ.

Khi ấy Thế Tôn giảng nói pháp quan trọng cho Cực Mạn,

… cho đến … không thọ nghiệp ở đời sau như đã nói trong kinh Ba-la-mật-xà.

Phật giảng dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy đều hoan hỷ phụng hành.

259. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật du hóa ở nước Câu-tát-la đi đến khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Khi ấy Bà-la-môn Ưu-kiệt-đề-xá-lị tổ chức đàn tế lớn, cột bảy trăm trâu chúa ở trụ, các loại súc sanh như trâu đực, trâu nghé, dê đực, dê đen… nhiều vô số, bị cột khắp nơi để tế đàn. Tại đó có dọn các món ăn thơm ngon.

Các Bà-la-môn ở những nước khác nghe ông ta tổ chức tế đàn, đều vân tập đến.

Bà-la-môn Ưu-kiệt-đề-xá-lị nghe Đức Phật từ nước Câu-tát-la đi tới khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, nước Xá-vệ, muốn đến gặp Phật, nên suy nghĩ: “Ta đang sắp đặt các phẩm vật để tổ chức tế đàn, nên hỏi Cù-đàm xem có thiếu sót gì không?”. Bà-la-môn đi bằng xe gắn lông, mặc y phục toàn trắng, cầm chĩa ba bằng vàng, bình vàng đựng đầy nước sạch, các thanh niên hầu hạ hai bên, các Bà-la-môn ở những nước khác cũng cùng đi theo, đến gặp Đức Phật, sau khi thăm hỏi rồi, ngồi qua một bên, bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, con đang tổ chức đại tế đàn, cột bảy trăm trâu chúa và các loại súc sanh… cho đến Bà-la-môn các nước khác đều vân tập tới, vật dụng đã bày biện xong, muốn tiến hành tế đàn lớn, xin Đức Phật dạy con làm sao cho đầy đủ hơn, không có thiếu sót.

Đức Phật dạy:

–Này Bà-la-môn, ông là chủ tổ chức cúng tế, bố thí lớn, cầu phước, mà bị tội rất nặng, dựng lên ba loại dao gọi là bất thiện, gây ra nhân khổ và bị quả báo khổ, làm thuận theo khổ nên thọ lấy quả báo khổ. Những gì gọi là ba thứ dao? Đó là dao nơi ý, khẩu, thân. Những gì là dao nơi ý? Nếu ông tế với ý nghiệp bất thiện, giết hại súc sanh để cúng tế lớn, đó là dựng lên dao bằng ý. Thế nào là dao bằng miệng? Khi ông muốn cúng tế, nên nêu bày: ngày mai ta sẽ giết các loại sanh mạng theo yêu cầu, đó là dựng lên dao bằng miệng. Thế nào là dao bằng thân? Khi ông cúng tế, chính tay lôi kéo trâu chúa và các loài súc sanh khác để chú nguyện, đó là dựng lên dao bằng thân.

Này Bà-la-môn, có ba loại lửa tối thắng vi diệu, cần phải cẩn thận, cần phải cung kính, chẳng phải tế lửa theo tà kiến của ông đâu. Thế nào là ba? Một là lửa cung kính, hai là lửa cùng khổ vui, ba là lửa ruộng phước. Lửa cung kính là gì? Cần phải cúng dường, cung kính tôn trọng giúp đỡ cha mẹ. Vì sao? Cha mẹ vì cầu có con, nên cúng tế thần linh, sau đó được con. Tinh huyết của cha mẹ hòa hợp thành thân thể, sanh ra con cái nuôi nấng cho khôn lớn. Vì vậy nên gọi là lửa cung kính. Lửa này cần phải cúng dường đầy đủ, làm cho được an lạc, không để thiếu thốn khổ cực. Lửa cùng khổ vui là gì? Tộc tánh tử siêng năng làm việc, tích chứa tài sản tiền bạc, đối với vợ con, thân quyến, nô tỳ, người phục vụ, bạn bè, người giúp đỡ, thân tộc, đều nên cung cấp theo khả năng, làm cho họ được lợi lạc. Những người này đều cùng vui khổ với ta, nên gọi là lửa cùng khổ vui. Lửa ruộng phước là gì? Sa-môn, Bà-la-môn nào đoạn trừ tham dục, giải thoát tham dục, đoạn trừ sân hận, giải thoát sân hận, đoạn trừ ngu si, giải thoát ngu si. Các Sa-môn, Bà-la-môn như vậy gọi là lửa ruộng phước. Thế nên Tộc tánh tử thường nên chí tâm cúng dường cung kính lửa này thì được an lạc. Lại có ba loại lửa, cần phải diệt đi. Ba loại lửa gì? Đó là lửa tham dục, ngu si, sân hận, không phải như lửa ở thế gian, có lúc cần đốt cháy, có lúc cần diệt tắt.

Thế Tôn nói kệ:

Cung kính, cùng phước điền
Nên tế ba lửa này
Ai chuyên tâm cúng dường
Được ba loại an lạc.
Ba loại lạc là gì?
Thí, giới và tu định
Ba loại quả báo ấy
Lạc Trời, Người, Niết-bàn
Người nào hiểu biết rõ
Tất cả các phương pháp
Vào những lúc phải cúng
Nên cúng dường thân quyến
Cúng dường cần phải cúng
Bậc xứng đáng cúng dường
Kết quả tất đạt được
Thoát ly hẳn khổ nạn.

Khi Bà-la-môn Ưu-kiệt-đề-xá-lị nghe Phật dạy liền bảo thanh niên Ô-đáp:

–Ngươi hãy về lại nơi tế đàn, trước hết đến nơi những súc sanh dùng để tế, hãy thả hết chúng ra và đưa tới nơi có nước và cỏ, cho sống hết đời chúng, không được giam giữ.

Sau khi thưa: “Hòa thượng đã ra lệnh, con xin thừa hành”, thanh niên Ô-đáp liền đi đến tế đàn bảo mọi người:

–Ta nhận lệnh của Ưu-kiệt-đề-xá-lị, thả hết tất cả súc sanh và cho chúng được tự do.

Lúc thanh niên Ô-đáp đi đến tế đàn, Như Lai liền vì Bà-la-môn Ưu-kiệt-đề-xá-lị, theo như thường pháp của chư Phật, giảng thuyết chỉ dạy pháp trọng yếu, làm cho ông ta được lợi ích, hoan hỷ. Khi Bà-la-môn thọ giới … cho đến... thấy được chân đế như trong phẩm Đột-la-xà (kinh 81).

Bà-la-môn Ưu-kiệt-đề-xá-lị sửa lại y phục, lạy sát dưới chân Phật, bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, cầu mong ngày mai Ngài cùng đại chúng đến tế đàn nhận sự cúng dường của con. Thế Tôn im lặng nhận lời.

Sau khi nghe Đức Phật giảng dạy, lại thấy Ngài đã thọ thỉnh, Bà-la-môn hoan hỷ trở về tế đàn, suốt đêm bày biện các món ăn thơm ngon, sắp đặt tòa ngồi và nước sạch. Sáng hôm sau, ông ta đến gặp và bạch Phật:

–Thưa Ngài, đã đến giờ!

Thế Tôn cùng đại chúng đắp y mang bát đi đến tế đàn, Ngài ngồi trước chúng Tăng.

Lúc Bà-la-môn thấy Phật cùng đại chúng đã an tọa, tự tay dâng nước sạch và các món ăn uống thơm ngon.

Đại chúng thọ trai xong, thu xếp bát. Bà-lamôn liền đặt một chỗ ngồi trước Thế Tôn, cầu mong được nghe pháp.

Thế Tôn chú nguyện:

Trong những cách tế lớn
Cúng tế lửa đứng đầu
Các sách Bà-la-môn
Tát-bà-để đứng đầu
Trong khắp cả đất nước
Nhà vua đứng hàng đầu
Khắp trăm sông các suối
Nước biển đứng hàng đầu
Ánh sáng có trong đêm
Mặt trăng sáng hơn hết
Trong các loại ánh sáng
Nhật quang là bậc nhất
Trong mười phương thế giới
Đức Phật là Tối tôn.

Thế Tôn giảng thuyết giáo pháp cho Bà-lamôn, đem lại lợi ích, hoan hỷ, sau đó Ngài từ giã.

260. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một thanh niên tên là Tăng-già-la đến gặp Phật, sau khi thăm hỏi, ngồi qua một bên, bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, quan sát thế nào để biết người bất thiện?

Phật dạy: –Như quán sát mặt trăng.

Hỏi: –Quán sát thế nào để biết người toàn thiện?

Phật dạy: –Như quán sát mặt trăng.

Thanh niên lại hỏi:

–Thế nào là quán sát người bất thiện như mặt trăng?

Phật dạy:

–Người bất thiện như mặt trăng mười sáu, từ ánh sáng tỏa sáng tròn đầy giảm dần đến khuyết, cho đến khuyết hoàn toàn không còn gì cả. Như trong Phật pháp, người không đủ tín tâm để thọ trì giới cấm, ít đọc tụng hành trì bố thí. Sau đó họ biếng nhác, không siêng năng, mất dần tín tâm, hủy phạm giới cấm, không còn bố thí, lại gần gũi kẻ ác, không thân cận Tăng bảo để nghe giáo pháp. Họ không nghe giáo pháp nên thân, miệng, ý tạo nghiệp bất thiện. Đã tạo nghiệp ác nên sau khi chết, họ bị đọa vào đường ác. Thế nên biết rằng người ác cũng như mặt trăng khuyết dần cho đến mất hẳn.

Hỏi: –Thế nào là người thiện như mặt trăng?

Phật dạy:

–Như mặt trăng bắt đầu có, ánh sáng phát triển dần dần, đến ngày mười lăm thì tròn sáng hoàn toàn. Trong Phật pháp người có tín tâm tu hành giữ giới, học tập đa văn, tu hạnh bố thí, trừ bỏ tà kiến, tu học chánh kiến, ở trong Phật pháp được thuần tín tâm, kiên trì giới cấm, tu học đa văn, bố thí không keo kiệt, đầy đủ chánh kiến, tăng trưởng dần tín tâm, trì giới, đa văn, bố thí. Người với hành động nơi thân, miệng, ý đều thiện, thân cận bạn thiện, tu tập đầy đủ các pháp thiện, sau khi qua đời được sanh lên cõi trời. Thế nên biết rằng người thiện cũng như mặt trăng.

Thế Tôn nói kệ:

Ví như trăng tròn sáng
Lơ lửng giữa không trung
Ánh sáng chiếu vằng vặc
Che ánh sáng muôn sao
Như người đủ tín tâm
Giới, văn, bỏ tham ganh
Vượt lên trên ganh ghét
Như trăng che muôn sao.

Thanh niên Tăng-già-la nghe lời Phật dạy, hoan hỷ từ giã. Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

261. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Bà-la-môn tên Sanh Thính đến gặp Đức Phật, sau khi thăm hỏi, ngồi qua một bên, bạch Phật:

–Con từng nghe người ta nói, Thế Tôn nêu giảng: “Chỉ nên cúng dường cho Ta đừng cho người khác. Chỉ nên cúng dường cho đệ tử của Ta, đừng cho đệ tử người khác. Ai cúng dường cho Ta và đệ tử của Ta được nhiều phước báo lớn. Ai cho người khác và đệ tử họ thì không được phước báo”. Ngài có nói rõ như vậy không, hay là người đời phỉ báng?

Phật dạy:

–Đây thật là lời phỉ báng dối trá, Ta hoàn toàn không giảng nói như vậy. Ai nói lời như thế là gây ra hai nạn. Một là nạn ngăn che, hai là khiến người nghe theo bị nạn tổn giảm. Ai nói lời như vậy là gây ra tổn giảm lớn, sau khi qua đời sẽ bị đọa vào ba đường ác. Ông nên biết, thậm chí đối với nước rửa bát, Ta còn nói, đem bố thí cho loài trùng kiến sẽ được phước báo lớn. Đối với việc bố thí, Ta thật có giảng dạy: “Bố thí cho người trì giới thì được phước báo rất nhiều, còn bố thí người phá giới thì chỉ được phước báo rất ít”.

Thế Tôn nói kệ:

Bố thí đến nơi nào
Ta cũng đều tán thán
Phá giới được phước ít
Trì giới đạt nhiều phước
Bò đen, trắng, đỏ, xanh
Sanh con còn khác nhau
Xe ngựa cần năng lực
Không cần chọn nguồn gốc
Con người cũng như vậy
Sát-lợi, Bà-la-môn
Tỳ-xá, Thủ-đà-la
Chân-đà-la phú thả
Người nào giữ tịnh giới
Cho họ, được quả lớn
Như đi buôn sợi gai
Bỏ gai lấy châu báu
Kẻ ngu si vô trí
Chưa từng nghe chánh pháp
Không tu tập phạm hạnh
Cho họ được phước ít
Ai thân cận Hiền thánh
Chánh giác và Thanh văn
Chánh tín Bậc Thiện Thệ
Có lòng tin vững bền
Thì cuộc sống tôn quý
Sau cùng đắc Niết-bàn.

Sanh Thính nghe lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

262. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào sáng sớm, Thế Tôn mặc y mang bát vào thành khất thực. Có một vị Bà-la-môn già chống gậy cầm bát đi khất thực. Thế Tôn thấy vậy, bảo Bà-la-môn: –Ông già cả, vì sao phải chống gậy cầm bát đi khất thực?

Bà-la-môn đáp:

–Tôi có bảy đứa con, đã cưới vợ và phân chia tài sản cho chúng. Nay tôi không còn gì, bị con xua đuổi nên phải đi xin ăn.

Phật bảo ông ta:

–Ta vì ông mà nói kệ, ông có thể đến giữa mọi người nói kệ này không?

Đáp:

–Tôi có thể.

Thế Tôn nói kệ:

Sanh con rất vui mừng
Vì nó, gom tiền của
Rồi cưới vợ cho chúng
Lại xua đuổi cha già
Những kẻ không hiếu từ
Miệng gọi là cha mẹ
Như con của La-sát
Ta sắp chết nên đuổi
Cũng như trong tàu ngựa
Để đầy cả lúa mạch
Ngựa nhỏ không kính nhượng
Chen lấn xô ngựa già.
Con tôi cũng như vậy
Không có tâm kính yêu
Xua đuổi, tôi đi xin
Không bằng gậy yêu tôi
Tôi nhờ vào gậy này
Ngăn ngừa chó dê ngựa
Giúp sức cho tôi đi
Đêm tối làm bạn tôi
Dò nước biết cạn sâu
Đứng dậy nhờ gậy chống
Nhờ gậy khỏi nghe nhiều
Chính gậy này yêu ta.

Bà-la-môn nghe bài kệ này và học thuộc lòng. Lúc bảy người con ở trong đám đông, Bà-la-môn đến đó và bảo:

–Các người hãy nghe tôi nói.

Khi mọi người im lặng, ông liền nói bài kệ trên. Bảy người con xấu hổ, cùng nhau đứng dậy cung kính đỡ lấy cha già, đem cha về nhà, để ở lại chỗ cũ. Các người con đều dâng lên cha hai tấm vải đẹp.

Bà-la-môn suy nghĩ:

–Ta được an lạc là nhờ vào sức của Ngài Cùđàm, vậy Ngài là A-xà-lê của ta, theo pháp của Bà-la-môn, nên cúng dường Hòa thượng A-xà-lê.

Bà-la-môn bèn chọn lấy tấm vải đẹp nhất, đi đến gặp Phật, ngồi qua một bên, bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, con đang sống trong nhà, được nhiều lợi lạc là nhờ ân của Ngài. Trong kinh sách của con có dạy, đối với A-xà-lê nên cúng dường theo phần A-xà-lê, đối với Hòa thượng nên cúng dường theo phần Hòa thượng. Thưa Cù-đàm, Ngài là A-xà-lê của con, xin thương con mà nhận tấm vải này.

Khi ấy vì lòng từ bi, Thế Tôn thọ nhận tấm vải ấy.

263. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Thế Tôn mặc y mang bát vào thành khất thực. Có một Bà-la-môn già chống gậy cầm bát đi khất thực, thấy Phật ở từ xa, liền đi đến và nói với Ngài: –Tôi chống gậy cầm bát đi xin ăn, Ngài cũng xin ăn. Vậy tôi với Ngài đều là Tỳ-kheo.

Thế Tôn nói kệ:

Chẳng phải xin của người
Được gọi là Tỳ-kheo
Khi sống đời tại gia
Ai tu tập phạm hạnh
Quả phước và ác báo
Đoạn hết không chấp trước
Cạn khô các nghiệp buộc
Mới gọi là Tỳ-kheo.

Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy đều hoan hỷ phụng hành.

264. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá.

Khi ấy phía Bắc thành Vương xá có Bà-la-môn làm ruộng tên là Đậu-la-xà. Vào sáng sớm, Thế Tôn mặc y mang bát đến chỗ ông ấy.

Bà-la-môn thấy Thế Tôn từ xa đi tới, liền đến gặp Thế Tôn và thưa:

–Thế Tôn, con gieo giống, cày ruộng mới có ăn, chứ không xin người khác. Thưa Cù-đàm, nay Ngài cũng nên cày ruộng để ăn.

Phật dạy: –Ta cũng cày gieo hạt để ăn.

Bà-la-môn Đậu-la-xà nói kệ:

Ngài tự nói biết cày
Nhung chưa thấy Ngài cày
Nếu Ngài thật biết cày
Xin nói ra phương pháp.
Thế Tôn nói kệ đáp:
Lấy tín tâm làm giống
Các thiện làm ruộng tốt
Tinh tấn là trâu kéo
Trí tuệ là ách cày
Hổ thẹn là lưỡi cày
Niệm là người cầm cày
Điều thuận thân, miệng, ý
Trì giới dây cột cỏ
Cày tan cỏ phiền não
Trời mưa ngọt đúng lúc
Cào cỏ là tâm thiện
Thu hoạch cây lúa thiện
Đưa về nơi an ổn
Chắc chắn được an toàn
Ta cày bừa như vậy
Nên được quả cam lộ
Vượt lên khỏi ba cõi
Không trở lại luân hồi.

Bà-la-môn thưa:

–Ngài đã cày bằng phương pháp cày tối thượng, hơn các cách cày khác.

Khi Bà-la-môn nghe kệ, tâm được tin hiểu, liền đem đầy bát thức ăn đến dâng lên Phật. Đức Phật không nhận. Ngoài ra, như lời nói của Bà-la-môn Đậu-la-xà … cho đến... không thọ thân ở đời sau.

265. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Khi ấy có một Tỳ-kheo tên là Phạm Thiên, du hành từ nước Ương-già đến Chiêm-bà, bên bờ hồ Kiền-già. Sáng hôm sau, thầy đắp y mang bát vào thành Chiêm-bà lần lượt khất thực, đi đến nhà cũ của mình.

Bấy giờ mẹ của Tôn giả Phạm Thiên đang ở phía trong cửa dùng gạo trắng và mè rải vào lửa, để cầu sanh lên cõi Phạm thiên. Tôn giả bước vào đứng phía trong cửa nhưng bà mẹ không biết.

Tỳ-sa-môn Thiên vương rất kính tín Phạm Thiên, đang cùng vô số chúng Dạ-xoa bay trên không trung, thấy mẹ Phạm Thiên đang tế lửa mà không thấy con mình, chỉ thấy đạo nhân, không biết đó là con. Tỳ-sa-môn Thiên vương nói kệ cho người mẹ:

Này nữ Bà-la-môn,
Phạm thiên xa đây lắm
Tế lửa cầu sanh thiên
Không phải đi đúng hướng
Không rõ cõi Phạm thiên
Siêng tế lửa làm gì?
Phạm thiên giữa Phạm thiên
Đang đứng trong nhà người
Hoàn toàn không chấp trước
Và không còn nuôi dưỡng
Xa lìa cảnh giới ác
Không còn bụi kết sử
Xa lìa các dục cầu
Không nhiễm ô thế pháp
Như voi tốt khéo điều
Không gì gây phiền não
Tỳ-kheo luôn chánh niệm
Tâm hoàn toàn giải thoát
Bậc Ứng chân như vậy
Đang đến nhận ngươi cúng
Hãy đốt sáng đèn tâm
Mau tịnh tâm cúng dường.

Khi người mẹ nghe Tỳ-sa-môn nói, tâm liền giác ngộ, đem thức ăn cúng dường cho Tôn giả Phạm Thiên. Sau khi thọ trai, Tôn giả thuyết pháp về nhân an lạc đời sau cho mẹ nghe.

266. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một Bà-la-môn đến gặp Đức Phật, sau khi chào hỏi, ngồi qua một bên, thưa với Phật:

–Người đời gọi Ngài là Phật, tên này là từ đâu có?

Bà-la-môn nói kệ:

Phật đà là thắng danh
Với nghĩa bậc vượt qua
Vì cha mẹ đặt cho
Nên tên Ngài là Phật?
Thế Tôn nói kệ đáp:
Ta vì thương đến ông
Nên phân biệt giảng giải
Ông hãy chú ý nghe
Vì sao gọi như vậy
Phật biết đời quá khứ
Thông suốt cả vị lai
Biết hoàn toàn hiện tại
Tướng sanh diệt các hành
Thấy rõ hết các pháp
Việc cần tu đã tu
Cần đoạn đã đoạn hết
Thế nên gọi là Phật.
Tướng chung và tướng riêng
Đều phân biệt hiểu rõ
Thấy biết hết tất cả
Thế nên gọi là Phật.
Bà-la-môn nên biết
Quán sát vô lượng kiếp
Khổ não của các hành
Chấm dứt hẳn thọ sanh
Xa lìa trần cấu nhóm
Nhổ tên độc phiền não
Vượt qua bờ sanh tử
Vậy nên tên là Phật.

Bà-la-môn nghe lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

267. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại nước Kiều-tát-la du hành đến thôn Sa lâm.

Trên đường đi, Đức Phật đến bên gốc cây, ngồi thẳng người, đặt niệm trước mặt.

Có một Bà-la-môn họ Yên đi sau Phật, thấy trong dấu chân Phật có tướng thiên bức luân, nên lấy làm lạ, cho là việc chưa từng có, nên suy nghĩ: “Ta chưa thấy người nào có dấu chân như vậy, ta nên tìm xem đây là dấu chân của ai”.

Sau khi suy nghĩ, tìm theo dấu chân lần lượt đi đến nơi Phật, vị ấy chiêm ngưỡng dung nhan của Đức Phật với sắc diện hoan hỷ khiến người xem kính tín, thân tâm đều an tịnh, đạt đến chỗ tịch diệt tối thượng, thân Phật vàng ròng như ngôi lầu bằng vàng, nên thưa:

–Thưa Thế Tôn, Ngài là vị trời phải không?

Phật bảo:

–Này Bà-la-môn, Ta không phải là vị trời.

Bà-la-môn hỏi:

–Ngài là A-tu-la, Rồng, Càn-thát-bà, Dạ-xoa, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già? Phật đáp: –Ta không phải là các loài ấy. Bà-la-môn hỏi:

–Ngài là người phải không?

Phật đáp: –Ta không phải là người. Bà-la-môn nói:

–Tôi hỏi Ngài là trời, …, người, Ngài đều nói không phải. Vậy Ngài là gì?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Không phải Trời, Rồng, A tu-la
Khẩn-na, Ma hầu, Càn-thát-bà
Chẳng phải Dạ-xoa hay loài người
Ta đã hết lậu đoạn phiền não
Ta đã điều ngự như voi quý
Không còn bị người khác chế ngự
Không bị người khác làm trở ngại
Đoạn ái, giải thoát hẳn luân hồi.
Biết hết tất cả, đoạn đời sau
Như hoa sen trắng nở đều đặn
Luôn luôn tăng trưởng ở trong nước
Hoàn toàn không bị nước làm nhơ
Thanh tịnh thơm sạch người ưa thích
Tám gió không động như hoa sen
Ta giữa thế gian cũng như vậy
Như pháp thế gian nhưng không nhiễm.
Quán sát vô lượng kiếp đến nay
Vì duyên các hành chịu khổ não
Chấm dứt tất cả sự thọ sanh
Xa lìa trần cấu, đoạn gốc khổ
Nhổ hẳn tên độc đoạn ba phiền
Vượt bờ sanh tử đoạn luân hồi
Vì vậy danh hiệu Ta là Phật.

Bà-la-môn họ Yên nghe Phật dạy hoan hỷ từ giã.

Kệ tóm lược:

Mạn, Ưu-kiệt-đề
Sanh Thính, Cực Lão
Tỳ-kheo, Chủng tác
Phạm Thiên, Phật-đà
Luân tướng là mười.

268. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá.

Thế Tôn đắp y mang bát vào thành khất thực, đến nhà Bà-la-môn Hỏa tánh Đạt-lại-thù. Khi ấy Hỏa tánh Đạt-lại-thù đang tế lửa ở trước cửa nhà trong. Đức Phật tới cửa, Đạt-lại-thù thấy Phật đến, nên nói:

–Dừng lại! Dừng lại! Này Chiên-đà-la, đừng đến nơi đây.

Phật bảo ông ta: –Ông có biết về Chiên-đà-la và pháp của Chiên-đà-la không?

Bà-la-môn đáp:

–Tôi không phân biệt và không biết về Chiênđà-la và pháp của Chiên-đà-la. Ngài hiểu biết và phân biệt về Chiên-đà-la và pháp của Chiên-đà-la hay sao?

Đức Phật bảo:

–Ta hiểu biết và phân biệt về Chiên-đà-la và pháp của Chiên-đà-la.

Bà-la-môn liền đứng dây, xếp đặt chỗ ngồi cho Đức Phật và bạch:

–Xin Ngài giảng giải cho tôi về pháp của Chiên-đà-la!

Sau khi an tọa, Thế Tôn nói kệ:

Tánh xấu ưa sân, oán hận lâu
Ngang ngược ác độc, lòng kiêu mạn
Hành động tà kiến dối gạt người
Nên biết người này Chiên-đà-la.
Phẫn nộ, ganh ghét, tham muốn ác
Rất khó dạy bảo, không xấu hổ
Hành động như vậy Chiên-đà-la.
Làm hại thai nhi, đập trứng sống.
Tâm không từ bi hại chúng sanh
Tàn sát noãn, thai, thấp, hóa sanh
Kẻ này chính là Chiên-đà-la.
Cướp đoạt đồng thời hại mạng người
Tài sản của họ đi trên đường
Vật quý trong nhà hay nơi vắng
Hành động như vậy Chiên-đà-la.
Làm những việc ác không hối hận.
Người ấy chính là Chiên-đà-la.
Bỏ vợ, đến sống cùng gái điếm
Ngang nhiên thông dâm với vợ người
Như vậy tên là Chiên-đà-la.
Đối với tộc họ và bạn thân
Vẫn gây tà ác đến cho họ
Gian dâm chẳng kể gì tốt xấu
Hạng này cũng là Chiên-đà-la.
Học hỏi nghĩa lý để nói ngược
Như vậy cũng gọi Chiên-đà-la.
Tự tán dương mình chê người khác
Tham đắm ngã mạn, sống hạ tiện
Như vậy cũng gọi Chiên-đà-la.
Ngang ngược phỉ báng, quá ngu si
Phỉ báng chỉ vì lợi lộc nhỏ
Như vậy cũng tên Chiên-đà-la.
Tội lỗi của mình đẩy cho người
Chuyên môn dối gạt hủy báng người
Như vậy chính là Chiên-đà-la.
Tài sản có nhiều, thân tộc đông
Mình ăn thơm ngon, cho vật dở
Như vậy cũng là Chiên-đà-la.
Mình tới nhà người được ăn ngon
Người đến nhà mình dọn món dở
Như thế cũng là Chiên-đà-la.
Cha mẹ già cả không khỏe mạnh
Con không hiếu thuận và phụng dưỡng
Kẻ ấy tên là Chiên-đà-la.
Đối với cha mẹ, anh chị em
Mắng chửi, ác khẩu, không theo phận
Như vậy tên là Chiên-đà-la.
Sa-môn cùng với Bà-la-môn
Đúng giờ họ đến không bố thí
Lại còn mắng nhiếc và giận dữ
Như vậy tên là Chiên-đà-la.
Sa-môn cùng với Bà-la-môn
Người nghèo, ăn xin, tìm đến nhà
Không cho ăn uống, không bố thí
Như vậy tên là Chiên-đà-la.
Hủy báng Đức Phật cùng Thanh văn
Mạ lỵ xuất gia và tại gia
Như vậy gọi là Chiên-đà-la.
Giả dối tự xưng A-la-hán
Làm kẻ giặc hại trong Trời, Người
Sống gia đình lớn Bà-la-môn
Thông thuộc hết điển tịch Vi-đà
Nhưng thường tạo ra các nghiệp ác
Đẳng cấp không ngăn sự chê bai
Cũng không cứu thoát khỏi địa ngục
Hiện tại bị người mắng làm nhục
Vị lai bị đọa cảnh giới ác
Sanh Chiên-đà-la hay Tu-đà
Hành động tiếng thơm vang khắp nơi
Lại được hoan hỷ sanh Phạm thiên
Đẳng cấp không ngăn sanh cõi trời
Hiện đời được khen, chết sanh thiên
Nay Ta giảng giải rõ cho ông

Nên biết sự thật như thế này:

Gọi Chiên-đà-la, Bà-la-môn
Không phải căn cứ vào đẳng cấp
Làm thiện trở thành Bà-la-môn
Làm ác trở thành Chiên-đà-la.

Bà-la-môn nghe kệ xong, khen:

–Đúng vậy, đúng vậy! Này Bậc Đại Tinh Tấn, đúng như lời Ngài nói. Thưa Đại Mâu-ni, Bà-lamôn hay Chiên-đà-la không phải do đẳng cấp, tu tập việc thiện là Bà-la-môn, hành động xấu ác là Chiên-đà-la.

Sau khi nghe kệ, Bà-la-môn hoan hỷ tin hiểu, bưng đầy bát thức ăn dâng lên Phật. Đức Phật không thọ, vì thuyết pháp mà được dâng cúng thức ăn thì không nhận.

Bà-la-môn thưa với Phật:

–Thức ăn này nên đưa cho ai?

Phật dạy:

–Ta không thấy có Sa-môn, Bà-la-môn, Trời, Ma, Phạm nào có thể ăn mà tiêu được thức ăn này, nên đem thức ăn này bỏ vào đất sạch hay nước không trùng.

Bà-la-môn liền đem thức ăn ấy bỏ vào nước không trùng, khói lửa bốc lên, nước sôi sục phát ra tiếng kêu lớn.

Bà-la-môn thấy việc chưa từng có nên nghĩ: –Đối với thức ăn, mà Phật Thế Tôn còn có đại thần túc như vậy.

Bà-la-môn trở lại gặp Phật bạch:

–Cầu mong Thế Tôn cho phép con xuất gia học đạo.

Phật dạy:

–Thiện lai Tỳ-kheo!

Râu tóc ông ta tự rụng, pháp phục mặc trên thân, được đắc giới cụ túc, như pháp xuất gia, ở nơi yên tịnh, siêng năng tinh tấn. Sở dĩ tộc tánh tử cạo bỏ râu tóc, mặc pháp y chính vì nhằm tu tập phạm hạnh vô thượng. Tộc tánh tử phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn thọ hữu, thành A-la-hán đắc giải thoát, hoan hỷ nói kệ:

Trước mê không biết chánh
Ngu si hành động tà
Không biết thanh tịnh đạo
Và không biết đường chết
Vọng tưởng sanh điên đảo
Khổ nhọc thờ phụng lửa
Thật hư vọng uổng công
Không được kết quả gì
Gặp Đấng Thiên Trung Thiên
Nhờ ánh sáng phá tối
Được vui trong an lạc
Đủ giới đắc ba minh
Trong giáo pháp Đức Phật.
Đã thực hiện hoàn tất
Trước tuy Bà-la-môn
Nhưng thật Chiên-đà-la
Ngày nay thật đúng là
Bà-la-môn tịnh hạnh
Xa lìa hẳn bùn lầy
Tắm rửa đã sạch sẽ
Vượt cảnh giới Vi-đà.

QUYỂN 14

269. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại núi Kỳ-ni, thuộc thành Vương xá.

Vào giữa đêm, có một Thiên nữ tên Cầu-ca-nisa, trước đây là Ba-thuần-đề Nữ, với hào quang rực rỡ khác thường chiếu sáng cả núi ấy, đến gặp Đức Phật, lạy sát dưới chân, ngồi qua một bên, nói kệ:

Miệng, ý nên tu thiện
Không làm những điều ác
Thân không làm ác nhỏ
Gây hại cho thế gian
Quán dục là không, giả
Tu nơi niệm giác ý
Nếu không thích đau khổ
Đừng gây nghiệp tổn giảm.

Thế Tôn khen Thiên nữ:

–Lành thay! Lành thay! Đúng như lời Thiên nữ nói.

Miệng, ý nên tu thiện
Không làm những điều ác
Thân không làm ác nhỏ
Gây hại cho thế gian
Quán dục là không, giả
Tu nơi niệm giác ý
Nếu không thích đau khổ
Đừng gây nghiệp tổn giảm.

Ba-thuần-đề Nữ nghe lời Phật dạy, hoan hỷ đảnh lễ, biến mất tại chỗ, trở về Thiên cung.

270. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Tôn giả A-nan bảo các Tỳ-kheo:

–Ta muốn giảng bốn câu kệ pháp. Các thầy đều nên ghi nhận đầy đủ, lắng nghe, ghi nhớ đừng quên. Thế nào là bốn câu kệ pháp:

Miệng, ý nên tu thiện
Không làm những điều ác
Thân không làm ác nhỏ
Gây hại cho thế gian
Quán dục là không, giả
Tu nơi niệm giác ý
Nếu không thích đau khổ
Đừng gây nghiệp tổn giảm.

Cách A-nan không xa, có một Bà-la-môn nghe bài kệ này, suy nghĩ: “Ý nghĩa của bài kệ này rất sâu xa, chẳng phải con người làm được, chắc là do phi nhân nói ra, vậy nên đến hỏi Phật.”

Sau khi suy nghĩ, Bà-la-môn đến gặp Đức Phật, chào hỏi, ngồi qua một bên, bạch Phật: –Thưa Đức Cù-đàm, sau khi được nghe Tôn giả A-nan nói kệ này, con suy nghĩ, văn nghĩa của kệ ấy không phải do con người làm.

Phật bảo Bà-la-môn:

–Đúng vậy! Đúng vậy! Thật do phi nhân nói, không phải do người nói. Trước đây Ta ở núi Kỳni, thành Vương xá, Thiên nữ Cầu-ca-ni-sa đến gặp Ta, sau khi đảnh lễ, ngồi qua một bên, nói kệ này, nên kệ này thật là do phi nhân nói ra.

Bà-la-môn nghe lời Phật dạy, hoan hỷ từ giã.

271. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở núi Kỳ-ni, thuộc thành Vương xá.

Khi ấy vị trời Cầu-ca-ni-bà, trước đây là Bathuần-đề Nữ, thân phát hào quang rực rỡ như ánh chớp, chiếu sáng cả núi ấy, thành tín chí tâm quy y Tam bảo, đến gặp Đức Phật, ngồi qua một bên, nói kệ:

Con có nhiều ngôn từ
Ca ngợi Phật, Pháp, Tăng
Nay chỉ nói tóm lược
Theo ý người thích đủ
Miệng ý nên tu thiện
Không làm những việc ác
Thân không tạo lỗi nhỏ
Gây hại cho thế gian
Quán dục tánh tướng không
Tu tập niệm giác ý
Ai không thích đau khổ
Đừng gây nghiệp tổn hại.

Khi ấy Thế Tôn bảo Thiên nữ:

–Đúng vậy! Đúng vậy! Thật như lời Thiên nữ nói.

Thiên nữ Cầu-ca-ni-sa nghe lời Phật dạy, hoan hỷ đảnh lễ, biến mất tại chỗ, trở về Thiên cung.

272. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại tinh xá bên bờ Di-hầu, phía Bắc thành Tỳ-xá-ly.

Khi ấy Thiên nữ Ba-thuần-đề, Thiên nữ Quậtla với hào quang khác thường, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ dưới chân, ngồi qua một bên. Ánh sáng của họ chiếu sáng cả khu Di-hầu và Tỳ-xá-ly.

Thiên nữ Quật-la nói kệ:

Thế Tôn Bà-già-bà
Vô Thượng Đẳng Chánh Giác
Ở tại Tỳ-xá-ly
Trong khu rừng Đại lâm
Trời Cầu-ca-ni-sa
Cùng Thiên nữ Quật-la
Các Ba-thuần-đề Nữ
Lạy dưới chân Thế Tôn
Xưa con đã từng nghe
Giáo pháp thuyết toàn thiện
Đấng Mâu-ni Thế Tôn
Hiện tại đang giảng pháp
Những ai muốn hủy báng
Giáo pháp thâm sâu này
Thật là kẻ ngu si
Sau phải đọa đường ác,
Ai tán trợ chánh pháp
Thành tựu đủ chánh niệm
Gọi là người có trí
Chắc chắn sanh cõi thiện.

Thiên nữ Cầu-ca-ni-sa nói kệ:

Miệng, ý nên tu thiện
Không làm những việc ác
Thân không tạo ác nhỏ
Gây hại cho thế gian
Quán dục tánh tướng không.
Tu tập niệm giác ý
Ai không thích đau khổ
Đừng gây nghiệp tổn giảm.
Thế Tôn bảo Thiên nữ:

–Đúng vậy! Đúng như lời Thiên nữ nói.

Các Thiên nữ nghe lời Phật dạy hoan hỷ từ giã.

273. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào giữa đêm, có một vị trời với hào quang rực rỡ, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, sau khi đảnh lễ, ngồi qua một bên, nói kệ:

Chớ gây hại người thiện
Gây hại là hại mình
Vì nhân quả như vậy
Nên đừng gây hại bậy
Nơi không phải bến đò
Đừng vọng tưởng vượt qua.

Thế Tôn nói kệ đáp:

Đáng sân nhưng nhẫn nhục
Thanh tịnh không kết sử
Đem việc ác hại người
Quả ác hại thân mình
Như ngược gió tung đất
Bị bụi phủ thân mình
Kẻ đem sân hại người
Người bị hại báo thù
Cả hai đều là ác
Đều không thoát đau khổ
Bị sân không báo thù
Hàng phục kẻ oán lớn.
Vị trời nói kệ khen:
Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong hoan hỷ, từ giã.

274. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có vị trời với hào quang rực rỡ khác thường, đến gặp Đức Phật, lạy sát chân Phật, ngồi qua một bên, nói kệ:

Người ngu si thiếu trí
Tạo ra các nghiệp ác
Tự mình gây oán thù
Sau chịu quả khổ lớn.

Thế Tôn nói kệ đáp:

Đã tạo nghiệp không thiện
Làm rồi tự đốt mình
Ngu làm các việc ác
Khóc than khi nhận quả.

Vị trời nói kệ khen:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ đảnh lễ trở về Thiên cung.

275. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường, đến gặp Đức Phật, sau khi đảnh lễ, ngồi qua một bên, nói kệ:

Không phải dùng lời nói
Được gọi là Sa-môn
Thật tâm hướng đến đạo
Bước đi thật vững chắc
Có tinh tấn dũng mãnh
Tu thiền định thâm sâu
Chứng đắc pháp giải thoát
Phá dây trói của ma
Nghiệp tạo và không tạo
Đều nói thật cả hai
Bậc trí vứt những điều
Trá ngụy, không thành tín
Tự thân thật không có
Dối khen vì tự kiêu
Nói dối trá không thật
Là giặc lớn trong đời.
Thế Tôn nói kệ đáp:
Không phô trương đức mình
Không dò xét người khác
Tự đã đến Niết-bàn
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nghe Phật nói kệ, bạch Phật:

–Con thật có lỗi, cầu mong Ngài cho con thành tâm sám hối.

Khi ấy Đức Phật im lặng, vị trời nói kệ:

Con đang cầu sám hối
Ngài không nhận cho con
Giữ tâm ác không thiện
Không bỏ lòng oán hận.
Thế Tôn nói kệ đáp:
Sám hối tội bằng lời
Nội tâm thật không sám
Làm sao trừ hiềm khích
Làm sao đạt được thiện.

Vị trời lại nói kệ hỏi:

Người nào không lầm lỗi
Người nào không sai lầm
Ai không bị ngu si
Ai đầy đủ chánh niệm?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Như Lai, Đức Thế Tôn
Chánh trí đắc giải thoát
Ngài không còn lầm lỗi
Cũng không còn sai lầm
Đã trừ sạch ngu si
Luôn luôn đủ chánh niệm.

Vị trời nói kệ khen:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ từ giã.

276. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại rừng trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá.

Khi ấy Cù-ca-lê, bạn của Đề-bà-đạt-đa, đến gặp Phật đứng qua một bên.

Phật bảo Cù-ca-lê:

–Ông với Tôn giả Xá-lợi-phất có quan hệ, đừng sanh ý hiềm khích. Xá-lợi-phất và Mục-liên đều tịnh tu phạm hạnh, tâm ý hòa nhã. Ông chớ nên hiềm khích, phải chịu khổ não lâu dài.

Cù-ca-lê thưa:

–Con tin lời Phật, con vâng theo Phật, nhưng Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên thật có dục ác. Họ thật ung dung trong dục ác và chạy theo dục xấu ác. Phật lại bảo Cù-ca-lê:

–Ông không nên có tâm thù hận hai vị ấy Ba lần như vậy, tuy nghe Phật dạy nhưng Cùca-lê vẫn không thay đổi tâm ác, nên bỏ Phật ra đi. Rời khỏi Phật không xa, thân ông ta sanh mụt dữ, ban đầu như hạt cải, lớn nhanh như hạt đậu, rồi lớn to như trái Tỳ-lê, thân thể lầy nhầy máu mủ tuôn chảy; sau khi qua đời đọa vào đại địa ngục Liên hoa.

Khi ấy có ba vị trời với hào quang sáng chói, vào giữa đêm đến gặp Đức Phật, sau khi đảnh lễ đứng qua một bên. Vị trời thứ nhất bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, Cù-ca-lê đã qua đời trong đêm nay. Vị trời thứ hai nói:

–Đọa đại địa ngục Liên hoa.

Vị trời thứ ba nói kệ:

Con người ở trên đời
Lưỡi búa ở trong miệng
Do nói ra lời ác
Tự chặt lấy thân mình.
Đáng khen mà lại chê
Đáng chê mà lại khen
Miệng nói lời phù phiếm
Sau phải chịu đau khổ.
Ỷ ngữ đoạt tài sản
Đó chỉ là lỗi nhỏ
Chê mắng Phật thánh hiền
Là tội lỗi to lớn
Phải chịu khổ lâu dài
Đủ số cả trăm ngàn
Ở ngục Ni-la-phù
Và ba mươi sáu lần
Vào ngục A-phù-đà
Cho đến phải bị đọa
Vào năm A-phù-đà
Do chê bai Hiền thánh
Miệng và ý làm ác
Đọa những địa ngục ấy.

Sau khi lạy sát dưới chân Phật, ba vị trời trở về Thiên cung. Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: –Các thầy có muốn nghe về tuổi thọ dài ngắn ở địa ngục A-phù-đà không?

Các Tỳ-kheo bạch: –Xin giảng cho chúng con, sau khi được nghe, chúng con tin và thọ trì.

Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

–Hai mươi khư-lỵ hạt mè thì đổ đầy một xe ở Ba-la-nại. Có người sống trường thọ, cứ một trăm năm nhặt ra một hạt mè. Như vậy đến khi hết không còn hạt mè nào, thì tuổi thọ ở địa ngục Aphù-đà vẫn chưa hết. Hai mươi A-phù-đà thành một Ni-la-phù-đà, hai mươi Ni-la-phù-đà thành một A-thát-thát, hai mươi A-thát-thát thành một Hầu-hầu, hai mươi Hầu-hầu thành một địa ngục Liên hoa. Tỳ-kheo Cù-ca-lê vì phỉ báng hai Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-liên nên bị đọa vào đại địa ngục Liên Hoa.

Này các Tỳ-kheo, đối với trụ bị đốt cháy còn không nên hủy báng, huống chi là đối với loại có tình thức.

Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

277. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, sau khi đảnh lễ, ngồi qua một bên nói kệ:

Khinh người khác là gì
Và không khinh là gì?
Bị người khác khinh khi
Trước mắt gì đứng đầu?
Nay con hỏi Như Lai
Đại Tiên giảng cho con.

Thế Tôn nói kệ đáp:

Biết rõ không khinh khi
Không biết rõ khinh khi
Ưa pháp gọi cung kính
Khinh pháp là không kính
Không gần thiện tri thức
Là dẫn đầu không kính
Thích làm việc phi pháp
Bạn thân thành oán ghét.
Kẻ oán thành bạn thân
Đứng đầu không cung kính
Như có người phụ nữ
Không trinh thuận hiền lương
Ưa gian dâm tư thông
Hành động không hợp lý
Đàn ông trái lễ độ
Nghĩa ấy cũng như vậy
Những điều ấy chính là
Đứng đầu sự khinh thường.
Cân lường dối gạt người
Xảo ngụy không cân đúng
Chỉ nghĩ đến tham lợi
Đứng đầu sự khinh khi
Cờ bạc gian lận nhau
Tiêu tán hết tiền tài
Những việc ấy chính là
Đứng đầu sự khinh khi
Thích ngủ, tham ăn ngon
Ngủ sớm, dậy quá trễ
Biếng nhác với công việc
Nhưng lại ưa phẫn nộ
Những người sống như vậy
Cũng đứng đầu bị khinh.
Hoa tai và vòng vàng
Che dù mang giày thêu
Trang sức che bần cùng
Dẫn đầu sự khinh khi
Tài sản thì quá ít
Tình ái quá đắm say
Tuy thuộc dòng Sát-lợi
Mong muốn được ngôi vua
Kẻ ngu si như vậy
Đứng đầu sự khinh thường.
Của báu, sản nghiệp lớn
Nhiều quyến thuộc bạn thân
Tham ăn uống riêng mình
Không cho đến kẻ khác
Thọ nhận của người khác
Thức ăn ngon, của báu
Khi họ đến nhà mình
Không có tâm báo đáp
Thậm chí chẳng mời ăn
Là đứng đầu khinh thường.
Cha mẹ đến tuổi già
Thân suy tàn sức cạn
Con ăn đồ thơm ngon
Không cung dưỡng cha mẹ
Những hạng người như vậy
Đáng khinh chê đứng đầu.
Cha mẹ và anh em
Thân thuộc chị em gái
Đánh mắng nói lời ác
Đứng đầu bị khinh khi.
Sa-môn, Bà-la-môn
Đúng giờ họ đến nhà
Không cúng dường bố thí
Là khinh khi đứng đầu.
Sa-môn, Bà-la-môn
Và người nghèo ăn xin
Mắng chửi không bố thí
Là khinh khi đứng đầu.
Chê Phật và Thanh văn
Cả xuất gia, tại gia
Làm việc phi pháp này
Là khinh khi đứng đầu.
Thật chẳng phải La-hán
Tự xưng là La-hán
Là giặc trong Trời, Người
Sa-môn, Bà-la-môn
Kẻ trá ngụy như vậy
Thật đứng đầu khinh khi.
Những hạng người như trên
Bị mọi người khinh chê
Kẻ đáng khinh trong đời
Ta đều thấy biết rõ
Hãy nên mau tránh xa
Như sợ hãi đường hiểm.

Vị trời nói kệ:

Từ xưa đã từng thấy
Bà la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ từ giã.

278. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ có một vị trời dung mạo hết sức tươi đẹp, hào quang rực rỡ, sáng chiếu khắp khu Kỳ viên, đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ nơi chân Phật, rồi ngồi qua một bên, nói kệ:

Ai gọi là kính thuận
Ai gọi là xem thường
Ai là trẻ ngu đùa
Như trẻ con vọc đất?

Đức Thế Tôn nói kệ đáp:

Người nam nếu kính thuận
Người nữ tất xem thường
Người nam nếu coi thường
Người nữ tất kính thuận
Người nữ, trẻ ngu đùa
Như trẻ con vọc đất.

Vị Trời nói kệ thưa:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn, Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị Trời nói kệ xong hoan hỷ từ giã, trở về Thiên cung.

279. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ có một vị trời, thân tỏa hào quang rực rỡ giống như làn chớp, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đi đến chỗ Phật, cung kính đảnh lễ nơi chân Phật, ngồi qua một bên, nói kệ:

Quán biết tâm dục khởi
Ngăn chặn, nên ngăn chặn
Ngăn chặn hết tất cả
Chẳng tạo nẻo tử sanh.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Quán biết tâm dục khởi
Ngăn chặn, phải ngăn chặn
Chẳng nên ngăn chặn hết
Chỉ ngăn giác quán ác
Ý ác phải ngăn chặn
Luôn có thể ngăn chặn
Nếu làm được như vậy
Chẳng bị sanh tử ngăn.

Vị trời nói kệ khen:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ trở về Thiên cung.

280. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có vị trời với hào quang rực rỡ, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ dưới chân, ngồi qua một bên, nói kệ:

Làm sao được tiếng khen
Làm sao được tài sản
Làm sao có danh dự
Làm sao được bạn thân?

Thế Tôn nói kệ:

Giữ giới được tiếng khen
Bố thí được tài sản
Nói thật được danh dự
Giúp người có bạn thân.

Vị trời nói kệ:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ từ giã trở về cung.

281. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời với hào quang rực rỡ, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, lạy sát chân Phật, ngồi qua một bên, nói kệ:

Làm người sống thế nào
Thấy đúng trí sáng suốt
Giàu có nhiều tài sản
Ý nghĩa ấy ra sao?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Trước học các kỹ năng
Sau để dành của cải
Tài sản chia làm bốn
Một phần dùng ăn mặc
Hai phần dùng kinh doanh
Một phần dành khi thiếu
Thứ nhất nghề làm ruộng
Thứ hai nghề buôn bán
Lợi tức nhiều, nuôi trâu
Bò, dê cùng lục súc
Lại có nhiều cháu con
Nên cưới vợ cho họ
Gả con em lấy chồng
Trang bị vật gia dụng
Điều hòa được lợi lạc
Bất hòa sanh khổ não
Làm việc phải hoàn tất
Không bỏ phế nữa chừng
Người trí khéo tư duy
Hiểu rõ sự được mất
Hiểu rõ làm, không làm
Của báu đến với ta
Như sông về biển lớn
Siêng năng tạo sự nghiệp
Như ong hút các hoa
Ngày càng được thêm nhiều
Ngày đêm tụ tài sản
Như ong tích tụ mật
Tiền không gởi người già
Không đưa người đi xa
Người ác làm nghề xấu
Thế lực dù hơn ta
Quyết không đem của báu
Giao cho những người ấy
Đưa tiền cho người thân
Khi đòi thì giận cãi
Lạ thay! Tiền, nghĩa, lợi
Hết tiền hết bạn thân
Hãy kiếm tiền đúng pháp
Không làm tiền phi pháp
Trượng phu làm đúng pháp
Đàng hoàng thì phồn thịnh
Tự thân được no ấm
Lại giúp được cho người
Điều độ và thích ứng
Qua đời sanh cõi trời.

Vị trời nói kệ:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ từ giã về cung.

282. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Ngày xưa, ở nước Câu-tát-la có một người giỏi đánh đàn, tên là Câu-đâu-la đang đi trên đường. Có sáu Thiên nữ đang cỡi cung điện bay trên không trung. Các vị trời ra khỏi cung, bảo với người ấy:

–Này cậu, hãy đánh thanh cầm để chúng ta nhảy múa ca hát.

Người đánh đàn thấy Thiên nữ dung nhan rực rỡ khác thường, nên lấy làm lạ, hỏi:

–Này các chị em, tạo công đức gì mà được sanh lên cõi ấy. Các vị hãy nói cho tôi nghe về sự việc này trước, tôi sẽ đánh thanh cầm phục vụ các vị.

Thiên nữ đáp:

–Cậu hãy đánh đàn, chúng tôi sẽ trình bày sự việc ngày trước trong tiếng ca.

Ở trước sáu Thiên nữ, Câu-đâu-la liền khảy đàn.

Thiên nữ thứ nhất cất tiếng hát:

Ai thường đem áo quý
Bố thí cho người khác
Sanh cõi người tôn quý
Ở trời như chúng tôi
Thân như khối vàng ròng
Hào quang chiếu rực rỡ
Thiên nữ có hằng trăm
Tôi là hàng tối thắng
Bố thí vật mình thích
Phước ấy hơn như vậy.

Thiên nữ thứ hai nói kệ:

Ai đem các thức ăn
Thơm ngon nhất bố thí
Sanh làm nam hay nữ
Đều là người tối thắng
Nếu sanh vào cõi trời
Cũng như tôi ngày nay
Nhờ cho điều mình thích
Nên hưởng lạc tùy ý.
Ngươi xem cung điện ta
Đi tự do trên không
Thân như khối vàng ròng
Ánh sáng rất đẹp lạ
Thiên nữ có hằng trăm
Tôi là hàng tôn quý
Cho thức ăn ngon tuyệt
Được thắng quả như vậy.

Thiên nữ thứ ba nói kệ:

Ai dùng hương thơm nhất
Bố thí để tu phước
Sanh làm người tôn quý
Ở trời như thân tôi
Đem cho điều mình thích
Hưởng an lạc tùy ý.
Ngươi xem cung điện ta
Đi tự do trên không
Thân như khối vàng ròng
Ánh sáng rất đẹp lạ
Thiên nữ có hằng trăm
Ta là hàng tối thắng
Nhờ cho hương thơm nhất
Được kết quả như vậy.

Thiên nữ thứ tư nói kệ:

Khi ta còn làm người
Săn sóc cha mẹ chồng
Bị làm khó, mắng chửi
Ta đều nhẫn nhục chịu
Thế nên ngày hôm nay
Được thân trời như vầy
Vì nhờ sống hiếu thuận
Nên an lạc tùy ý.
Ngươi xem cung điện ta
Đi tự do giữa trời
Thân như vàng gom lại
Ánh sáng rất diệu kỳ
Thiên nữ có hằng trăm
Ta là hàng tối thắng
Vì sống đời hiếu thuận
Nên được kết quả này.

Thiên nữ thứ năm nói kệ:

Vào đời trước của ta
Làm tôi tớ cho người
Hầu hạ nơi nhà chủ
Tùy thuận không giận khóc
Siêng năng không biếng nhác
Dậy sớm, đi ngủ trễ
Sống ở trong nhà chủ
Được chút ăn uống nào
Chia bớt đem cúng cho
Sa-môn, Bà-la-môn
Nên được thân làm trời
Hưởng an lạc tùy ý.
Ngươi hãy xem cung ta
Đi tự do trên không
Thân như khối vàng ròng
Ánh sáng rất rực rỡ
Trong hàng trăm Thiên nữ
Ta rất là tôn quý
Thân hèn trồng ruộng phước
Nên kết quả như vậy.

Thiên nữ thứ sáu nói kệ:

Trong đời trước của tôi
Được gặp vị Tỳ-kheo
Và vị Tỳ-kheo-ni
Nên tâm rất hoan hỷ
Họ dạy tôi tinh tấn
Tôi nghe họ thuyết pháp
Thọ trai giới một ngày
Nên nay được sanh thiên
Hưởng an lạc tùy ý.
Hãy xem cung điện ta
Đi tự do trên không
Thân như màu vàng ròng
Ánh sáng rất kỳ diệu
Trong hằng trăm Thiên nữ
Ta thuộc hạng tối thắng
Ngươi hãy nhìn ngắm ta
Nhờ thực hiện lời dạy
Nên được quả báo này.

Người đánh đàn bèn nói kệ:

Ta đến đây thật tốt
Rừng Tát-la đáng yêu
Được diện kiến Thiên nữ
Chói sáng như ánh chớp
Thấy nghe việc như vậy
Tôi về làm công đức.

Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

283. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, lạy sát chân Ngài, ngồi qua một bên, nói kệ hỏi:

Cái gì khởi phải diệt
Cái gì ngăn chẳng sanh
Cái gì lìa sợ hãi
Cái gì thành pháp lạc?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Phẫn nộ khởi phải diệt
Tham dục sanh tất ngăn
Vứt vô minh, không sợ
Chứng diệt, an lạc nhất
Trừ diệt sân, tham dục
Thoát ra ngoài kết sử
Không vướng vào sắc, danh
Quán pháp như rừng vắng
Dục là gốc sanh tử
Dục sanh ra các khổ
Đoạn dục được giải thoát
Các khổ cũng như vậy
Ai chứng đắc giải thoát
Giải thoát luôn gốc khổ
Người ngu si không trí
Phóng dật không quán khổ
Nên chìm trong biển khổ
Bị trói buộc không cùng
Người trí chế ngự tâm
Không tham đắm dục ác
Các hành động phóng dật
Phá hoại thiền định lạc
Thế nên phải giữ ý
Không đắm nhiễm vào dục
Ví như người giàu có
Giữ châu báu của mình.

Vị trời nói kệ khen:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ từ giã.

284. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, lạy sát chân Ngài, ngồi qua một bên, nói kệ:

Tuy đến với năm trần
Không gọi là tham dục
Tư tưởng sanh nhiễm đắm
Mới gọi là tham dục
Tham dục trói thế gian
Bậc Hùng được giải thoát.

Thế Tôn nói kệ đáp:

Tánh của dục vô thường
Đoạn diệt thì ngộ đạo
Tham dục sanh trói buộc
Mãi mãi không giải thoát
Ai lấy tín làm bạn
Và làm với lòng tin
Tiếng khen được truyền xa
Qua đời được sanh thiên
Ai đoạn trừ được dục
Không còn thọ thân sau
Không trở lại sanh tử
Vĩnh viễn nhập Niết-bàn
Biết thân không, vô ngã
Quán danh, sắc không bền
Không tham đắm danh, sắc
Từ đó chứng giải thoát
Nhưng không kiến chấp về
Giải thoát, không giải thoát
Từ bi giúp quần sanh
Lợi ích cho tất cả.

Vị trời nói kệ khen:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Vứt ghét sợ đã lâu
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ từ giã.

285. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời với ánh sáng rực rỡ, đến gặp Đức Phật, lạy sát dưới chân Ngài, ngồi qua một bên, nói kệ:

Nên đứng lại với ai
Nên thân cận với ai
Nên học pháp với ai
Được lợi không sanh ác?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Nên sống với người thiện
Thân cận với người thiện
Học pháp với người ấy
Được lợi ác không sanh.
Nên sống với người thiện
Thân cận với người thiện
Học pháp với người thiện
Người trí được lợi lạc.
Nên sống với người thiện
Thân cận với người thiện
Học pháp với người thiện
Người trí được danh dự.
Thân cận với người thiện
Học pháp với người thiện
Người trí được thấu đạt
Vì vậy nên sống chung.
Thân cận với người thiện
Học pháp với người thiện
Tôn quý trong thân tộc
Thoát ly khỏi ưu sầu.
Sống giữa nơi đau khổ
Nhưng giải thoát tất cả
Xa hẳn cảnh giới ác
Đoạn tất cả dây trói
Hưởng diệu lạc tối thượng
Được gần gũi Niết-bàn.

Vị trời nói kệ:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ từ giã.

286. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời với hào quang rực rỡ khác thường, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật lạy sát chân Ngài, ngồi qua một bên, nói kệ:

Tham keo bần cùng khổ
Đều do không bố thí
Nếu muốn cầu phước đức
Người trí nên bố thí.

Thế Tôn nói kệ:

Không sợ gì bằng tham
Bần cùng thường đói khát
Sợ nghèo, không bố thí
Không thí, thật đáng sợ
Đời này và đời sau
Nghèo khổ không kể xiết
Có ít cũng thường cho
Có nhiều cũng thường cho
Đời này được an lạc
Qua đời được sanh thiên.
Khó cho lại thường cho
Gọi là nghiệp khó làm
Kẻ ngu không hiểu biết
Pháp chư Phật, Thánh hiền
Ngu trí đều phải chết
Nơi tái sanh khác nhau
Kẻ ngu đọa địa ngục
Phải chịu nhiều khổ đau
Người trí sanh cõi trời
Cho đến được giải thoát
Kẻ nghèo cùng thu nhặt
Để nuôi dưỡng vợ con
Tịnh tâm cắt bớt cho
Phước này thật vô lượng
Cúng tế lớn trăm ngàn
Cúng dường cho tất cả
Không bằng phần mười sáu
Bần cùng mà bố thí
Tế lớn có đánh đập
Xâm phạm tài sản người
Gây khổ não nhiều người
Để thành nghiệp cúng lớn
Với ác, thu của báu
Mọi người không vui mừng
Thí không tịnh như vậy
Thí ít nhưng thanh tịnh
Quả báo có tốt xấu
Không thể so sánh được
Thu tài vật đúng pháp
Không tìm bằng phi pháp
Được tiền đem bố thí
Người cho với chánh trực
Đủ giới tu thiền định
Người nhận cũng chánh trực
Phước nhiều khắp mười phương
Cũng như nước biển lớn.
Vị trời nói kệ khen:
Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ từ giã.

287. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong hang Thất diệp, sườn núi Tỳ-bà, thuộc thành Vương xá.

Đức Phật bị cây Khước-đà-la đâm dưới chân rất đau đớn. Như Lai tuy đau nhưng im lặng không yêu cầu gì cả.

Khi ấy có tám vị thiên tử với thân hình đẹp đẽ, đến gặp Đức Phật.

Vị trời thứ nhất nói:

–Sa-môn Cù-đàm là Sư tử trong hàng trượng phu, tuy đau đớn nhưng vẫn chánh niệm tỉnh giác, không phiền não. Người nào đối với Đại Sư Tử Cù-đàm mà phỉ báng, nên biết kẻ ấy là đại ngu si. Vị trời thứ hai nói:

–Sa-môn Cù-đàm là Bậc Long Tượng Trượng Phu, tuy đau đớn, nhưng vẫn chánh niệm tỉnh giác, không phiền não. Người nào đối với Long Tượng Cù-đàm mà phỉ báng, phải biết kẻ ấy rất là ngu si. Vị trời thứ ba nói:

–Sa-môn Cù-đàm như con Trâu thuần thục hoàn toàn.

Vị trời thứ tư nói:

–Sa-môn Cù-đàm như Tuấn mã thuần thục hoàn toàn.

Vị trời thứ năm nói:

–Sa-môn Cù-đàm như Trâu chúa.

Vị trời thứ sáu nói:

–Sa-môn Cù-đàm là Bậc Trượng Phu Vô Thượng.

Vị trời thứ bảy nói:

–Sa-môn Cù-đàm là Hoa sen trong loài người. Vị trời thứ tám nói:

–Sa-môn Cù-đàm như hoa Phân-đà-lợi, quan sát thiền định của Ngài ấy tịch tịnh hoàn toàn, không kiêu căng, không ti tiện, dừng lại nên giải thoát, giải thoát nên tịch tĩnh.

Vị trời thứ tám nói kệ:

Người tâm không thanh tịnh
Giả sử đầy trăm ngàn
Thông đạt năm Vệ-đà
Bị giới thủ trói buộc
Chìm trong biển ái dục
Không thể đến bờ kia.

Tám vị trời nói kệ xong, đảnh lễ sát chân Phật, trở về cung.

Kệ tóm lược:

Thùy hạ và giá chỉ
Danh xưng và kỹ năng
Đàn cầm và khí xả
Chủng biệt, thiện trượng phu
Xan tham không bố thí
Tám trời là thứ mười.

288. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời với hào quang rực rỡ, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát chân Ngài, ngồi qua một bên, nói kệ:

Ví như mặt trái đất
Rộng lớn không biên cương
Lại cũng như biển cả
Sâu không có giới hạn
Tu-di rất cao lớn
Không gì ví dụ được
Ai như Na-la-diên
Tối thượng trong nam tử.
Thế Tôn nói kệ đáp:
Không gì rộng hơn ái
Sâu rộng nào hơn lòng
Kiêu mạn hơn Tu-di
Chỉ có Phật Thế Tôn
Trong các hạng nam tử
Vô thượng chẳng ai bằng.

Vị trời nói kệ khen:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ trở về cung.

289. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời với hào quang rực rỡ, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát chân Ngài, ngồi qua một bên, nói kệ:

Vật gì lửa không đốt
Bão lớn không phá được
Kiếp tận, đại hồng thủy
Tất cả đều nát tan
Trong đó có vật gì
Không hề bị tan nát
Đàn ông và đàn bà
Sở hữu các của báu
Phải dùng phương pháp gì
Vua, giặc không cướp được
Kho tàng kiên cố gì
Không thể phá hoại được.

Thế Tôn nói kệ đáp:

Phước đức lửa không cháy
Bão tố không phá được
Kiếp tận đại hồng thủy
Không thể làm hư mục
Phước đức của nam nữ
Vua, giặc không cướp được
Phước là kho kiên cố
Không ai trộm phá được.

Vị trời nói kệ khen:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ trở về cung.

290. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời với hào quang rực rỡ, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát chân Ngài, ngồi qua một bên, nói kệ:

Ai đi đường sáng rộng
Đủ hành lý lương thực
Với phương pháp thế nào
Giặc không thể cướp được
Giả như gặp gian ác
Làm sao phòng hộ được
Vì sao kẻ cướp đoạt
Mà sanh hoan hỷ lớn
Làm sao thường thân cận
Kẻ trí sanh hoan hỷ?

Thế Tôn nói kệ:

Tín, tư lương đi xa
Phước đức giặc không cướp
Ngăn ngừa giặc giết hại
Sa-môn lấy thì vui
Thường thân cận Sa-môn
Người trí sanh hoan hỷ.

Vị trời nói kệ khen:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ trở về cung.

291. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời với hào quang rực rỡ, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát chân Ngài, ngồi qua một bên, nói kệ:

Suy nghĩ đến diệu lạc
Khi được thật vừa ý
Trong tất cả các lạc
Dục lạc là hơn hết.

Thế Tôn nói kệ đáp:

Diệu lạc, nghĩ gì nữa!
Đau khổ lại nguyện cầu
Ai bỏ được mong cầu
Là bậc thắng hơn hết.

Vị trời nói kệ khen:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ trở về cung.

292. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời với hào quang rực rỡ, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát chân Ngài, ngồi qua một bên, nói kệ:

Phật là Thiên Nhân Sư
Tối thắng trong muôn vật
Biết rõ tất cả pháp
Lợi ích khắp thế gian
Trong mọi việc khó khăn
Việc gì là khó nhất?
Cầu mong Đấng Đại Tiên
Vì con giảng giải rõ.

Thế Tôn nói kệ đáp:

Bị người gây xúc phạm
Tự tại nhẫn là khó
Nghèo cùng hay bố thí
Nguy ách giữ giới khó
Tuổi trẻ sống phú quý
Lìa dục xuất gia khó.

Vị trời nói kệ khen:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ trở về cung.

293. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời với hào quang rực rỡ, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát chân Ngài, ngồi qua một bên, nói kệ:

Xe do đâu sanh ra
Ai làm xe chạy được
Xe chạy gần hay xa
Làm sao xe hư nát?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Từ nghiệp sanh ra xe
Tâm làm xe chuyển vận
Chạy đến chỗ hết nhân
Nhân hết thì xe hoại.

Vị trời nói kệ khen:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ trở về cung.

294. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời với hào quang rực rỡ, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát chân Ngài, ngồi qua một bên, bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, nàng Tu-đa-mật-xà-cứ-đà sanh con trai. Phật dạy:

–Đây là bất thiện, ngược lại là thiện.

Vị trời nói kệ:

Sanh con, đời nói vui
Sanh con rất may mắn
Cha mẹ già suy dần
Vì sao nói không thiện?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Ta biết đã có con
Phải có ái biệt ly
Năm ấm hòa hợp khổ
Đây không phải là con
Thế nên cùng với khổ
Người ngu cho là vui
Thế nên Ta nói rằng
Sanh con là không thiện
Không thiện tưởng là thiện
Không ái tưởng là ái
Khổ lại tưởng là vui
Do tập khí phóng dật.

Vị trời nói kệ khen:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ trở về cung.

295. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời với hào quang rực rỡ, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát chân Ngài, ngồi qua một bên, nói kệ:

Tự tư duy thế nào
Không bị phiền não phủ
Như thế nào gọi là
Viễn ly tất cả xứ?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Ai tính toán với thiện
Hai lậu không lưu chuyển
Đã diệt hết danh, sắc
Gọi là thoát các xứ
Các xứ không che phủ
Đã thoát hẳn các xứ.

Vị trời nói kệ khen:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ trở về cung.

296. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời với hào quang rực rỡ, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát chân Ngài, ngồi qua một bên, nói kệ:

Vật gì nặng hơn đất
Gì cao hơn hư không
Vật gì nhanh hơn gió
Gì nhiều hơn cỏ cây?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Giới đức nặng hơn đất
Kiêu mạn cao hơn không
Ý nghĩ nhanh hơn gió
Loạn tưởng nhiều hơn cây.

Vị trời nói kệ khen:

Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ trở về cung.

297. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời với hào quang rực rỡ, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát chân Ngài, ngồi qua một bên, nói kệ:

Tu tập giới đức gì
Và hành uy nghi nào
Có sức công đức gì
Gây tạo nghiệp hạnh nào
Đầy đủ những pháp chi
Được sanh lên thiên giới?
Nguyện Thế Tôn từ bi
Giảng giải cho con rõ.

Thế Tôn nói kệ đáp:

Ta sẽ giảng cho ngươi
Vậy hãy chí tâm nghe
Ai muốn sanh lên trời
Trước phải bỏ sát sanh
Giữ hoàn toàn giới cấm
Giữ gìn các căn mình
Không được hại chúng sanh
Thì được sanh cõi trời.
Không trộm vật của người
Họ cho vui lòng lấy
Bỏ tâm gian, trộm cướp
Thì được sanh cõi trời.
Không gian phụ nữ người
Không hành động tà dâm
Biết đủ với vợ mình
Thì được sanh cõi trời.
Lợi mình như thế nào
Dùng lợi người như vậy
Tuy sử dụng tài lợi
Nhưng không hề phóng dật
Nói thật không dối trá
Thì được sanh lên trời.
Từ bỏ nói hai lưỡi
Không chia rẽ hai bên
Thích nói lời hòa hợp
Nhờ vào nhân duyên này
Được sanh lên cõi trời.
Không nói lời thô ác
Kích bác, xúc phạm người
Nói bằng lời hòa nhã
Người nghe sanh hoan hỷ
Với hạnh nghiệp như vậy
Được sanh lên cõi trời.
Không nói lời thêu dệt
Không bàn chuyện vô ích
Nói pháp đúng thời cơ
Thì được sanh cõi trời.
Ở làng xóm, đồng trống
Không sanh tâm tham lợi
Tài vật của người khác
Không sanh tâm ngu si
Thì sanh lên cõi trời.
Tâm Từ không hại vật
Không ép người gây oán
Đối với các chúng sanh
Tâm không sân nộ hại
Thì được sanh cõi trời.
Tin nghiệp và quả báo
Thường tu tập tín, thí
Chánh tín hai pháp này
Đầy đủ sanh chánh kiến
Thì được sanh cõi trời.
Các pháp thiện như vậy
Mười nghiệp đạo thanh tịnh
Người tu tập theo đó
Được sanh lên cõi trời.
Vị trời nói kệ khen:
Từ xưa đã từng thấy
Bà-la-môn Niết-bàn
Dứt bỏ hẳn ghét, sợ
Vượt qua ái thế gian.

Vị trời nói kệ xong, hoan hỷ trở về cung.

Kệ tóm lược:

Đại địa, lửa không thiêu
Mang hành trang, sở nguyện
Thậm năng và xa thừa
Cứ đà nữ, toán số
Gì nặng và thập thiện.

QUYỂN 15

298. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào giữa đêm, có một vị trời tên là Nhân-đàla với hào quang rực rỡ, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát chân Ngài, ngồi qua một bên, nói kệ:

Gì không biết thọ mạng
Gì biết rõ thọ mạng?
Gì tham đắm thọ mạng
Gì trói buộc thọ mạng?
Thế Tôn nói kệ đáp:
Sắc không biết thọ mạng
Hành không rõ thọ mạng
Thân ta tham đắm thọ
Ái trói buộc thọ mạng.

Thiên tử Nhân-đà-la lại nói kệ:

Như lời Phật đã nói
Sắc không phải thọ mạng
Tại sao cùng ý thức
Mà trở thành thân thể?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Thức dựa Ca-la-la
Đầu tiên Ca-la-la
Ca-la-la sanh bào
Phôi bào sanh cục thịt
Cục thịt sanh bọc cứng
Bọc sanh năm chi bào
Năm chi sanh lông, móng
Do đó sanh năm căn
Phân nam nữ khác tướng
Thay đổi mãi không dừng
Do nhân duyên như vậy
Làm gì có thọ mạng?

Vị trời nghe lời Phật dạy xong, hoan hỷ trở về cung.

299. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Vào giữa đêm, có một vị trời tên Thích ca với hào quang rực rỡ, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát chân Ngài, ngồi qua một bên, nói kệ:

Đoạn tất cả trói buộc
Lìa bỏ mọi sự việc
Nếu có dạy bảo người
Là Sa-môn bất thiện

Thế Tôn nói kệ đáp:

Dạ-xoa, ngươi nên biết
Các loài bị khổ đau
Người trí nên thương tưởng
Thuyết pháp dạy bảo họ
Không nên từ bỏ chúng
Đọa lạc trong đường khổ
La-hán có bi trí
Cứu độ không lỗi lầm.

Vị trời Thích-ca nghe lời Phật dạy xong, hoan hỷ đảnh lễ trở về cung.

300. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời tên Trưởng giả Tối Thắng với hào quang rực rỡ, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát chân Ngài, ngồi qua một bên, nói kệ:

Thường học kệ toàn thiện
Thân cận kính Sa-môn
Luôn thích nơi không, tịnh
Giữ các căn tịch tĩnh.
Thế Tôn nói kệ đáp:
Thường học kệ toàn thiện
Thân cận kính Sa-môn
Luôn thích nơi không, tịch
Tâm ý luôn định tĩnh.

Vị trời Trưởng giả Tối Thắng nghe lời Phật dạy xong, hoan hỷ đảnh lễ trở về Thiên cung.

301. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời tên Thi-tỳ với hào quang rực rỡ, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát chân Ngài, ngồi qua một bên, nói kệ:

Nên sống chung với ai
Nên hòa hợp với ai
Với ai được chánh pháp
Kết quả thắng không lỗi?

Thế Tôn nói kệ:

Nên sống cùng Hiền thánh
Cùng Hiền thánh hòa hợp
Chánh pháp hỏi bậc hiền
Kết quả thắng không lỗi.

Vị trời Thi-tỳ nghe lời Phật dạy xong, hoan hỷ đảnh lễ trở về cung.

302. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời tên là Nguyệt Tự Tại, với hào quang rực rỡ, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát chân Ngài, ngồi qua một bên, nói kệ:

Tu thiền đến tận cùng
Ăn cỏ, tránh gà, nai
Thành tựu vui từ bỏ
Đạt đến nơi Tứ thiền.

Thế Tôn nói kệ đáp:

Ai tuy tu thiền kia
Vẫn trong lưới sanh tử
Ai đầy đủ chánh niệm
Độc cư tâm an định
Thoát ra ngoài sanh tử
Như chim khỏi lưới săn.

Vị trời Nguyệt Tự Tại nghe lời Phật dạy xong, hoan hỷ đảnh lễ, trở về Thiên cung.

303. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời tên là Tỳ-nữu với hào quang rực rỡ, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát chân Ngài, ngồi qua một bên, nói kệ:

Những người thân cận Phật
Ai cũng đều hoan hỷ
Làm sao hết mọi người
Vui nơi giáo pháp Ngài
Để cho người tu học
Đạt được không phóng dật.

Thế Tôn nói kệ:

Giáo pháp thiện thuyết này
Biết đúng không phóng dật
Thì tự tại giữa ma
Ma chẳng làm gì được.

Thiên tử Tỳ-nữu nghe lời Phật dạy, hoan hỷ đảnh lễ, rồi trở về Thiên cung.

304. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời tên Bát-xà-la với hào quang rực rỡ, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát chân Ngài, ngồi qua một bên, nói kệ:

Tại gia nhiều việc trói
Xuất gia rất cao rộng
Mâu-ni nhờ tinh tấn
Thiền định giác hoàn toàn
Mà hoát nhiên đại ngộ
Trí tuệ lớn hiển bày.

Thế Tôn nói kệ đáp:

Tuy sống giữa sự việc
Vẫn có thể đắc pháp
Người đầy đủ niệm lực
Do thường chuyên tinh định
Chỉ có người minh trí
Chứng đắc pháp Niết-bàn.

Thiên tử Bát-xà-la nghe lời Phật dạy, hoan hỷ đảnh lễ, rồi trở về Thiên cung.

305. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời tên là Tu-thi-ma, cùng với năm trăm thân quyến, đến gặp Đức Phật, lạy sát chân Ngài, ngồi qua một bên.

Khi ấy Đức Thế Tôn bảo Tôn giả A-nan: –Trên đời, người nào có thể khen ngợi đúng, thì nên nói thế này: “Tỳ-kheo Xá-lợi-phất trì giới, hiểu biết rộng, ít dục, biết đủ, thích sống nơi yên tịnh, siêng năng tu tập thiền định, có sức chánh niệm lớn, thành tựu trí tuệ, trí tuệ nhanh nhạy, sắc bén, biết rõ sự xuất ly, hiểu rõ Đạo đế, đầy đủ thật trí”.

Tôn giả A-nan bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, đúng như Ngài dạy, nếu khen ngợi đúng, thì nên nói thế này: “Tỳ-kheo Xá-lợiphất trì giới, đa văn đệ nhất... cho đến thành tựu thật trí”.

Khi các thiên tử nghe Đức Như Lai cùng Tôn giả A-nan tán thán Trưởng lão Xá-lợi-phất, thì dung mạo của chư Thiên trở nên xinh đẹp, hào quang trên thân rực rỡ hơn bình thường, chiếu sáng cả khu Kỳ viên.

Sau khi dung mạo, uy quang, chuyển thành rực rỡ, vị trời Tu-thi-ma chắp tay hướng Phật, nói kệ:

Xá-lợi-phất đa văn
Mọi người xưng Đại trí
Trì giới khéo điều thuận
Được Thế Tôn tán thán.

Thế Tôn nói kệ:

Xá-lợi-phất đa văn
Xứng đáng là Đại trí
Trì giới khéo điều thuận
Được Thế Tôn tán thán
Đắc Vô sanh tịch diệt
Phá ma, thân cuối cùng.

Tu-thi-ma nghe lời Phật dạy, hoan hỷ đảnh lễ, rồi trở về Thiên cung.

306. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời tên Xích Mã với hào quang rực rỡ, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát chân Ngài, ngồi qua một bên, hỏi:

–Ở nơi nào không có sanh, già, chết; nơi không còn chấm dứt hay phát sanh, chỗ tận cùng của chúng sanh; có thể biết được biên giới ấy không?

Thế Tôn bảo thiên tử Xích Mã:

–Đã không còn sanh, già, chết thì không còn chấm dứt hay phát sanh, không có người đi đến biên giới ấy, cũng không có thể đi đến nơi tận cùng của biên giới ấy.

Thiên tử Xích Mã bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, lời Thế Tôn dạy: “Đã không sanh, già, chết… cho tới không thể đến nơi biên giới của nó”, thật hy hữu, toàn thiện. Tại sao? Nhớ lại thời quá khứ, con từng là vị Tiên tên Xích Mã, đoạn trừ mọi trói buộc của dục, đắc năm thần thông thế tục, thần lực quảng đại, mau lẹ hơn cả nhật nguyệt, đưa chân một bước là có thể qua biển lớn. Con suy nghĩ: “Nay ta có thần lực quảng đại, mau lẹ như vậy, ta nên đi đến biên giới tận cùng của chúng sanh”. Khi ấy, tâm chí con chỉ muốn đến nơi tận cùng của chúng sanh, nên ý tưởng bồn chồn không yên, chỉ trừ lúc rửa tay ăn uống và đại tiểu tiện, trong cả trăm năm cũng không đến được biên giới tận cùng của chúng sanh, rồi qua đời. Thế nên biết Như Lai dạy rất đúng về nơi không sanh, già, chết; nơi không còn phát sanh hay chấm dứt. Muốn đến nơi ấy để biết biên giới của nó thì không thể được.

Phật bảo thiên tử Xích Mã:

–Đúng vậy! Đúng vậy! Nếu có biên giới của chúng sanh không sanh, già, chết, không phát sanh, không chấm dứt thì không đúng. Nếu muốn biết điều ấy, thì biên giới của chúng sanh, chính là Niết-bàn. Ai chấm dứt biên giới khổ thì gọi là đến được biên giới của chúng sanh.

Thế Tôn nói kệ:

Tuy thật có thần lực
Trọn không thể đến được
Tận biên giới chúng sanh
Nếu không đến biên giới
Làm sao chấm dứt khổ?
Thế nên Ta, Mâu-ni
Biết hoàn toàn thế gian
Chỉ có bậc Thắng trí
Hiểu rõ hết biên giới
Phạm hạnh đã lập xong
Biết rõ bờ chúng sanh
Vượt sang bờ giải thoát.

Thiên tử Xích Mã nghe lời Phật dạy, hoan hỷ đảnh lễ, rồi trở về Thiên cung.

307. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại rừng trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá.

Bấy giờ có sáu thiên tử, trước kia là môn đệ của lục sư ngoại đạo. Một tên là Nan Thắng, hai là Tự Tại, ba là Hiển Hiện, bốn là Quyết Thắng, năm là Thời Khởi, sáu là Khinh Lộng.

Vào giữa đêm, sáu vị thiên tử ấy với hào quang rực rỡ khác thường chiếu sáng cả khu Trúc lâm, đều đến gặp Phật, ngồi qua một bên.

Nan Thắng nói kệ:

Tỳ-kheo thật đáng chê
Luôn luôn tự cấm chế
Ai thấy nghe họ sống
Người ấy rời các ác.

Thiên tử Tự Tại nói kệ:

Khổ hạnh thật đáng chê
Ngăn cấm tự thân mình
Đoạn ác khẩu giận cãi
Khổ vui đồng Thế Tôn
Nơi bậc Chủ của pháp
Không tạo các điều ác.

Thiên tử Hiển Hiện nói kệ:

Chặt chém gây thương hại
Hay tế lửa nhiều cách
Đều không quả thiện ác
Ca-diếp nói như vậy.

Thiên tử Quyết Thắng nói kệ:

Ni-càn-nhã-đề Tử
Thường dạy như thế này
Ngày đêm tu khổ hạnh
Trừ bỏ nói dối trá
Đã gần bậc La-hán
Dự vào chỗ Thế Tôn.

Thế Tôn nói kệ đáp:

Từ nay gọi các ngươi
Dù một hay đông người
Ta xem đều thúi mục
Đồng như là thây chết
Làm sao đặt chó hoang
Ngang vua sư tử được
Ngươi tôn đám lõa hình
Rất ác ưa nói dối
Như các ngoại đạo ấy
Họ rất xa La-hán

Lại có thiên tử nói kệ:

Kẻ thực hành khổ hạnh
Rất đáng chê, hủy báng
Tuy sống nơi yên tịnh
Uổng công làm việc khổ
Mong Ngài giúp đỡ họ
Dạy bảo hướng dẫn họ
Sanh lên cõi Sắc giới
Sống vui nơi cõi Phạm.

Thế Tôn nói kệ:

Sắc giới trong thế giới
Nơi này và chỗ khác
Cùng tại giữa hư không
Có ánh sáng rất lớn
Tất cả cảnh giới ấy
Đều rớt trong bẫy ma
Ví như người bắt cá
Dùng lưới tóm bầy cá.

Lại có vị trời nói kệ:

Nói lỗi hữu và dục
Các ác do huyễn si
Đều đoạn trừ tất cả
Tán thán dứt dục buộc
Phải đến lễ vị ấy
Cúng dường và khen ngợi
Vì sao làm như vậy?
Vị ấy là Thế Tôn.

Có vị trời lại nói kệ:

Nói lỗi hữu và sân
Các ác do huyễn si
Đã đoạn trừ tất cả
Tán thán diệt sân buộc
Phải đến lễ vị ấy
Cúng dường và khen ngợi
Vì sao làm như vậy?
Vị ấy là Thế Tôn.

Một vị thiên lại nói kệ:

Nói lỗi hữu và si
Các ác do huyễn si
Đã đoạn trừ tất cả
Tán thán người đoạn si

Một vị thiên nói kệ:

Nói lỗi hữu, kiêu mạn
Các ác do huyễn mạn
Đã đoạn trừ tất cả
Tán thán dứt kiêu mạn.

Một vị thiên nói kệ:

Nói lỗi hữu, các kiến
Các ác do huyễn kiến
Đã đoạn trừ tất cả
Tán thán trừ các kiến.

Một vị trời nói kệ:

Nói lỗi hữu, chấp ái
Các ác do huyễn ái
Đã đoạn trừ tất cả
Tán thán người đoạn ái.

Một vị trời nói kệ:

Các núi ở Vương xá
Tỳ-phú-la lớn nhất
Các núi trên quả đất
Tuyết sơn vĩ đại nhất
Thế giới ở bốn phương
Trên dưới và bốn hướng
Với Trời, Người trong đó
Như Lai là tối tôn.

Chư Thiên nghe lời Phật dạy, đều nói kệ khen, hoan hỷ tán thán và trở về Thiên cung.

Kệ tóm lược:

Nhân-đà-la hỏi tuổi
Đoạn tất cả kết phược
Nói Trưởng giả thiện xưng
Thi-tỳ hỏi sống chung
Rất nhanh hỏi biên giới
Bà-hầu hỏi vui lớn
Đại hỷ Tỳ-nữu hỏi
Bát-xà-la kiến trì
Tu ma hỏi thứ nhất
Ngoại đạo hỏi các kiến.

308. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời tên Ma-khư với hào quang rực rỡ, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát chân Ngài, ngồi qua một bên, nói kệ:

Giết ai, được ngủ yên
Hại ai, không còn buồn
Diệt trừ một pháp gì
Được bậc Thánh khen ngợi?

Thế Tôn nói kệ:

Giết sân, ngủ yên ổn
Hại sân, không còn buồn
Gốc độc của sân hận
Giả người thân, hại người
Diệt sạch một pháp này
Được Hiền thánh khen ngợi.

Ma-khư nghe lời Phật dạy, hoan hỷ đảnh lễ, rồi trở về Thiên cung.

309. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời tên Di-khư với hào quang rực rỡ, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát chân Ngài, ngồi qua một bên, nói kệ:

Làm sao được chói sáng
Rực rỡ giữa thế gian
Bậc nào là Vô thượng
Chiếu sáng rực hơn hết
Nghĩa thâm diệu như vậy
Xin Phật dạy cho con!

Thế Tôn nói kệ đáp:

Các vật trong thế gian
Có ba loại chiếu sáng
Ba loại sáng ấy là
Mặt trăng, mặt trời, lửa.
Thường trong ngày và đêm
Chiếu sáng khắp mọi nơi
Trên trời đến nhân gian
Chỉ Phật sáng hơn hết.

Thiên tử Di-Khư nghe lời Phật dạy, hoan hỷ đảnh lễ, rồi trở về Thiên cung.

310. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời tên Đàm-ma-thi với hào quang rực rỡ, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát chân Ngài, ngồi qua một bên, nói kệ:

Hiện nay Bà-la-môn
Đã đoạn ba dục hữu
Không còn mong các hữu
Cuối cùng làm gì nữa.

Thế Tôn nói kệ:

Bà-la-môn không còn
Nghĩ làm việc gì nữa
Lội nước chân chạm đáy
Đến tận bờ bên kia
Nếu chân không chạm đáy
Không thể đến bờ kia.
Tay chân đều vận động
Mới là đang làm việc.
Lấy việc này ví dụ
Làm sáng nghĩa không làm.
Này Đàm-ma, nên biết
Đã sạch hết các lậu
Ở đời sống cuối cùng
Lỗi các hữu, ái, dục
Đều đoạn trừ tất cả
Vượt qua biển tử sanh.

Thiên tử Đàm-ma nghe lời Phật dạy, hoan hỷ đảnh lễ, rồi trở về Thiên cung.

311. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời tên Đa-la-kiện-đà với hào quang rực rỡ, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát chân Ngài, ngồi qua một bên, nói kệ:

Đoạn trừ bao nhiêu pháp
Dứt bỏ bao nhiêu pháp
Tiến tu bao nhiêu pháp
Tỳ-kheo đắc mấy pháp
Tu tập trừ mấy pháp
Vượt qua khỏi dòng thác?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Trừ năm dục thủ ấm
Lìa bỏ năm buộc, che
Tinh tấn tu năm căn
Thành tựu ngũ phần thân
Tỳ-kheo làm như vậy
Vượt qua biển sanh tử.

Thiên tử Đa-la-kiện-đà nghe lời Phật dạy, hoan hỷ đảnh lễ, trở về Thiên cung.

312. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời tên Ca-mặc với hào quang rực rỡ, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát chân Ngài, ngồi qua một bên, bạch Thế Tôn:

–Thế nào là khó làm được việc khó làm?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Khó làm người có học
Đầy đủ giới và định
Thoát mọi sự buộc ràng
Điềm tịnh mà an lạc.

Thiên tử Ca-mặc thưa Thế Tôn:

–Đúng như lời Ngài dạy, yên tịnh rất là khó.

Thế Tôn nói kệ đáp:

Hiện nay này Ca-mặc
Khó được mà muốn được
Ngày đêm tu định ý
Tất an ổn tịnh mặc.

Ca-mặc bạch Phật:

–Tâm ý thật khó định.

Thế Tôn nói kệ:

Định giữ tâm loạn động
Giữ vững tâm khó trụ
Phá hủy hết lưới chết
Chứng đắc được thánh trí.

Ca-mặc lại bạch Phật:

–Đường quá hiểm trở làm sao vượt qua?

Phật nói kệ đáp:

Kẻ phàm tất đọa hiểm
Đọa rồi chẳng biết ra
Hiền thánh qua đường hiểm
An ổn thoát đi ra.

Ca-mặc nghe lời Phật dạy, hoan hỷ đảnh lễ, trở về Thiên cung.

313. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời tên Ca-mặc với hào quang rực rỡ, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát chân Ngài, ngồi qua một bên, nói kệ:

Tham dục và sân hận
Lấy gì làm căn bản
Vui không vui sợ hãi
Vì sao có như vậy
Bé con ôm vú mẹ
Tình ý từ đâu sanh?

Thế Tôn nói kệ:

Từ ái sanh tâm ta
Như cây Ni-câu-đà
Rễ sanh ra từ đất
Lại đi sâu vào đất
Bò đi khắp mọi nơi
Ái đắm sanh từ dục
Cũng như dây ma lâu
Quấn phủ lên cây rừng
Nếu biết gốc của nó
Dạ-xoa nên chặt bỏ
Thì vượt biển tử sanh
Qua rồi không thọ khổ.

Thiên tử Ca-mặc nghe lời Phật dạy, hoan hỷ đảnh lễ, trở về Thiên cung.

314. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời tên Chiên-đàn với hào quang rực rỡ, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát chân Ngài, ngồi qua một bên, nói kệ:

Con hỏi Đức Cù-đàm
Đại trí tuệ thù thắng
Trừ khử các chướng ngại
Thấy biết hết tất cả:
Phải dừng ở chỗ nào
Tu tập giáo pháp gì
Không còn sợ, đời sau
Được quả báo toàn thiện?

Thế Tôn nói kệ:

Trừ bỏ ý, ác ngôn
Thân không làm điều ác
Dù sống ở gia đình
Bố thí như nước chảy
Tín tâm thường thọ giới
Chánh niệm, cho tài sản
Chư Thiên đến ở chung
Tu học các pháp trên
Ai thân tâm chuyên cần
Không sợ gì đời sau.

Thiên tử Chiên-đàn nghe lời Phật dạy, hoan hỷ đảnh lễ trở về Thiên cung.

315. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời tên Chiên-đàn với hào quang rực rỡ, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát chân Ngài, ngồi qua một bên, nói kệ:

Làm sao vượt dòng thác
Ngày đêm luôn tinh tấn
Trong dòng cuồng lưu này
Sóng lớn rất dữ dội
Không có nơi bám vịn
Chẳng có chỗ đặt chân
Giữa dòng dữ sâu mạnh
Ai không bị cuốn chìm?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Hộ trì giới trọn vẹn
Tâm định đầy trí tuệ
Chánh niệm quán thân tâm
Thì vượt sự khó vượt
Trừ khử những dục tưởng
Vượt qua dòng kết sử
Chấm dứt nghiệp khát ái
Không bị đắm giữa dòng.

Thiên tử Chiên-đàn nghe lời Phật dạy, hoan hỷ đảnh lễ trở về Thiên cung.

316. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời tên Ca-diếp với hào quang rực rỡ, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát chân Ngài, ngồi qua một bên, bạch Phật:

–Thưa Tỳ-kheo, con muốn nói về điều thắng lợi của Tỳ-kheo. Phật bảo Ca-diếp:

–Cho phép ngươi nói! Ca-diếp nói kệ:

Tỳ-kheo luôn chánh niệm
Tâm hoàn toàn giải thoát
Các dục và mong cầu.
Đạt đến nơi vô cấu
Biết rõ trong thế gian
Hữu cấu và vô cấu
Xả ly tất cả hữu
Không còn chứa sở hữu.
Nên gọi là Tỳ-kheo
Có công đức thù thắng.

Thiên tử Ca-diếp nói kệ này xong, hoan hỷ đảnh lễ trở về Thiên cung.

317. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một vị trời tên Ca-diếp với hào quang rực rỡ, chiếu sáng cả khu Kỳ viên, đến gặp Đức Phật, đảnh lễ sát chân Ngài, ngồi qua một bên, bạch Phật:

–Thưa Đại đức Tỳ-kheo, con muốn nói về công đức của Tỳ-kheo. Phật dạy:

–Này Ca-diếp, hãy nói tùy ý. Ca-diếp liền nói kệ:

Tỳ-kheo đủ chánh niệm
Tâm thiện xảo giải thoát
Nguyện cầu đắc Niết-bàn
Đã biết rõ thế gian
Về hữu và phi hữu
Biết rõ các pháp không
Đây gọi là Tỳ-kheo
Thoát hữu, chứng Niết-bàn.

Thiên tử Ca-diếp nói kệ này xong, hoan hỷ đảnh lễ, trở về Thiên cung.

Kệ tóm lược:

Ma-khư hỏi sự hại
Di-khư hỏi chiếu sáng
Đàm-ma tụng nên làm
Đa-la thưa sở đoản
Cực nan và phục tàng
Ca-mặc quyết hai nghi
Thật trí và vượt lưu
Lời nói của Chiên-đàn
Vô cấu hữu, phi hữu
Hai bài Ca-diếp nói.

318. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật du hóa ở nước Ma-kiệt-đà, muốn đến cung điện của Dạ-xoa Quật-mặc. Dạ-xoa Quật-mặc đến gặp Đức Phật, đảnh lễ, ngồi qua một bên, bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, cầu mong Như Lai và chúng Tỳ-kheo ở lại trong cung điện của con.

Thế Tôn im lặng nhận lời.

Dạ-xoa Quật-mặc muốn sắp đặt, bày biện chỗ ở của Phật và chúng Tăng, liền hóa ra năm trăm cung điện với đầy đủ giường tòa nằm; lại hóa ra năm trăm lò lửa cháy rực rỡ, nhưng không có khói, thỉnh Đức Phật ở phòng trên trong cung, năm trăm Tỳ-kheo tùy theo thứ tự ở các phòng.

Sau khi Đức Như Lai vào phòng, an tọa, Dạxoa Quật-mặc đứng một bên, nói kệ:

Được chánh niệm là vui
Thường chánh niệm cũng vui.
Chánh niệm thường không quên
Chánh niệm được ngủ yên
Chánh niệm vui bậc Hiền
Không hại, không đánh đập.
Không thắng cũng không thua
Với tất cả chúng sanh
Đem lòng Từ thương khắp
Không bao giờ oán ghét
Đây chính là vui lớn
Không vui nào qua được.

Dạ-xoa Quật-mặc nói kệ ấy xong, hoan hỷ đảnh lễ, trở về cung.

319. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở Bạch sơn, với Tôn giả Tượng Hộ là thị giả.

Vào đêm nọ, Thế Tôn đang đi kinh hành dưới mưa lâm râm, sấm chớp sáng lòa. Khi ấy trời Đế Thích hóa ra tòa nhà bằng lưu ly báu che bên trên Đức Phật. Sau khi biến hóa, Đế Thích đến nơi đảnh lễ sát dưới chân Phật. Đức Như Lai vẫn tiếp tục kinh hành.

Thời đó, dân chúng nước ấy, khi trẻ con khóc không nín, thường đem quỷ Bạc-câu-la ra dọa. Theo thường pháp của chư Phật, thầy chưa vào phòng, đệ tử không được vào phòng nghỉ trước.

Tôn giả Tượng Hộ suy nghĩ: “Đêm nay đã khuya, nhưng Thế Tôn chưa nghỉ, ta nên giả làm quỷ Bạc-câu-la gây sự sợ hãi để Ngài đi nghỉ”. Sau khi suy nghĩ, Tượng Hộ mang dụng cụ giả quỷ, đến đầu đường kinh hành, nói với Phật: –Sa-môn! Sa-môn! Quỷ Bạc-câu-la đến. Thế Tôn bảo Tượng Hộ:

–Ngươi quá ngu si, nên đem quỷ Bạc-câu-la để dọa Ta. Chẳng lẽ ngươi không biết là Như Lai đã đoạn trừ hết mọi kinh hãi từ lâu, không còn sợ gì nữa hay sao? Thích Đề-hoàn Nhân thấy sự việc ấy xong, bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, trong Phật pháp cũng có những người xuất gia như vậy sao?!

Phật bảo Thiên đế:

–Này Kiều-thi-ca, tộc họ của Cù-đàm rất rộng rãi, dung nạp rất nhiều hạng, loại. Người như vậy, không bao lâu cũng sẽ đắc pháp thanh tịnh.

Thế Tôn nói kệ:

Ai với pháp của mình
Đủ hạnh Bà-la-môn
Đến được bờ bên kia
Hết các kết hữu lậu.
Ai với pháp của mình
Đủ hạnh Bà-la-môn
Gọi là đến bờ kia
Quán các thọ diệt hết.
Ai với pháp của mình
Đủ hạnh Bà-la-môn
Đến được bờ bên kia
Quán diệt tận của nhân.
Ai với pháp của mình
Đủ hạnh Bà-la-môn
Đến được bờ bên kia
Quán tịch diệt kết sử.
Ai với pháp của mình
Đủ hạnh Bà-la-môn
Đến được bờ bên kia
Quán sanh, lão, bệnh, tử.
Ai với pháp của mình
Đủ hạnh Bà-la-môn
Đến được bờ bên kia
Vượt khỏi Tỳ-xá xà
Và bờ Bạc-câu-la.

Đế Thích nghe lời Phật dạy, hoan hỷ đảnh lễ, rồi trở về Thiên cung.

320.

Một thời, Tôn giả A-na-luật theo Phật du hóa, đến cung Quỷ tử mẫu, nước Ma-kiệt-đà.

Khi ấy Tôn giả A-na-luật dậy sớm vào giữa đêm, thân ngồi ngay thẳng, tụng kệ Pháp cú và kệ Đại đức Ba-la-diên, lại lớn tiếng đọc tụng ý nghĩa về Tu-đa-la...

Bấy giờ đứa con nhỏ thân yêu của Quỷ tử mẫu tên là Tân-già-la khóc lóc rơi nước mắt, Quỷ tử mẫu vỗ về con nói:

–Đạo nhân tụng kinh, con đừng khóc.

Và đọc kệ:

Tân-già-la ơi! Hãy nín đi
Lắng nghe đạo nhân tụng Pháp cú
Nghe kệ này rồi bỏ phá giới
Được sự thanh tịnh giữ giới cấm
Này Tân già-la, hãy nín đi
Lắng nghe đạo nhân tụng Pháp cú
Nghe kệ này rồi, không sát sanh
Tân già-la ơi! Hãy nín đi
Lắng nghe đạo nhân tụng Pháp cú
Nghe kệ này rồi, nói lời thật
Tân-già-la ơi! Hãy nín đi
Lắng nghe đạo nhân tụng pháp cú
Nghe kệ này rồi, thoát thai quỷ
Thế nên con hãy nín đi con.

321. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở cung điện của Dạ-xoa mẫu Phú-na-bà-tu, nước Ma-kiệt-đề.

Vào đêm ấy, Đức Phật ở lại trong cung của Dạxoa. Bà-tu, con trai của Dạ-xoa và em gái là Ưuhằng-la, vào ban đêm kêu khóc. Dạ-xoa mẹ vỗ về hai con đừng khóc nữa, nói kệ:

Phú-na-bà-tu Và
Ưu-hằng-la Này các
con ơi, Đừng có khóc
nữa Đức Phật Thế Hùng
Giảng dạy giáo pháp Làm
ta được nghe Cha mẹ
không thể Làm cho thoát
khổ Chỉ có Thế Tôn
Thuyết pháp thiện xảo Khiến
cho người nghe Hết hẳn
các khổ Tất cả chúng
sanh Trôi trong dòng dục
Chìm biển sanh tử Ta
muốn nghe pháp Đoạn dòng
dục ấy Thế nên các
con! Phú-na-bà-tu
Và Ưu-hằng-la Hãy
nên im lặng.

Phú-na-bà-tu nói kệ:

Con nghe lời mẹ dạy
Không gây tiếng ồn nữa
Tiểu muội Ưu-hằng-la
Em cũng hãy nín đi
Lắng nghe Sa-môn kia
Thuyết giáo pháp vi diệu
Phật ở Ma-kiệt-đề
Tối thượng trong loài người
Vì khắp cả chúng sanh
Diễn thuyết pháp diệt khổ
Giảng khổ và khổ tập
Chỉ con đường thoát khổ
Là tám đường Hiền thánh
An ổn đến Niết-bàn
Lành thay! Được lắng nghe
Giáo pháp Sa-môn giảng.
Dạ-xoa mẫu nói kệ:
Con là người hiểu biết
Lời nói hợp ý ta
Con khen Ngài thật hay
Đạo sư của thế gian
Nhờ các con im lặng
Nên ta thấy Tứ đế
Sau này Ưu-hằng-la
Cũng sẽ thấy Tứ đế.

322. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật du hóa ở nước Ma-kiệt-đề, đi đến cung điện của Dạ-xoa Ma-ni-hành.

Khi ấy Dạ-xoa Ma-ni-hành cùng các Dạ-xoa, không ở trong cung mình mà tập hợp ở nơi khác. Có một nữ nhân mang hoa thơm đẹp và rượu ngon đến trong cung của Dạ-xoa ấy.

Đức Thế Tôn đang ngồi trong cung của Dạxoa, các căn tịch định.

Cô gái ấy thấy Như Lai đang ngồi trong cung, sắc diệu hòa nhã, ý chí trong sáng, các căn tịch định, tâm điều phục hoàn toàn, như lầu bằng vàng. Thấy việc đó rồi, bèn suy nghĩ: “Hiện nay ta đang muốn được gặp Dạ-xoa Ma-ni-hành”, cô gái bèn đến trước Phật, lạy sát chân Ngài và nói kệ:

Ngài thật đáng cúng dường
Xin cho tôi điều nguyện
Khiến tôi được hiền thiện
Người ở Ma-kiệt-đề
Đều mong cầu nơi Ngài
Ngài thường đáp ứng cả
Ban phúc và cứu hộ
Xin Ngài thỏa nguyện tôi
Được an lạc hiện tại
Đời sau sanh cõi trời.

Thế Tôn nói kệ:

Nàng cần phải cẩn thận
Không phóng dật kiêu mạn
Thường phải thích tín giới
Phải tự cứu lấy mình.
Cầu thỉnh Ma-ni-hành
Ông ta làm gì được!
Nếu ngươi chẳng tự tu
Nghiệp thiện để sanh thiên.

Cô gái nghe kệ xong, suy nghĩ: “Vị này chẳng phải là Dạ-xoa Ma-ni-hành, chính là Sa-môn Cùđàm.”

Nàng liền đem hoa thơm và bình rượu để qua một bên, đảnh lễ sát chân Phật, chắp tay hướng về Phật nói kệ:

Làm sao hiện tại được
An vui, chết sanh thiên?
Hướng đến sự việc gì
Thường thọ hưởng an lạc
Phải làm hạnh nghiệp gì
Nay con hỏi Cù-đàm
Làm sao hiện tại lạc
Qua đời được sanh thiên?

Thế Tôn nói kệ:

Bố thí, giữ các căn
Thường được sanh an lạc
Chánh kiến sống hiền thiện
Thân cận với Sa-môn
Nuôi sống bằng chánh mạng
Cần gì cầu sanh thiên
Trong Tam thập tam thiên
Là nơi lưới đau khổ
Nàng trừ hết dục ái
Chí tâm nghe Ta dạy
Ta sẽ giảng cho nàng
Về pháp không trần cấu
Này các chúng Dạ-xoa
Lành thay nghe Cam lộ!

Bấy giờ Thế Tôn liền vì vị ấy thuyết pháp, đem lại lợi ích hoan hỷ, như pháp của chư Phật, thuyết về bố thí, trì giới, sanh thiên, dục là bất tịnh, giải thoát là quan trọng. Khi Đức Phật biết tâm chí của người nghe đã điều thuận, nên giảng dạy về bốn Thánh đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo.

Cô gái ấy tâm ý thông minh, nghe pháp liền tin hiểu, như tấm vải trắng dễ nhuộm màu, ngay tại chỗ ngồi thấy được pháp Tứ đế, biết pháp, chứng pháp, thấu triệt đạo pháp, không còn nghi ngờ, vượt bờ nghi đến bờ kia không còn lệ thuộc người khác. Nàng đứng lên lễ Phật, thưa:

–Thế Tôn, con đã được thoát! Con đã được thoát! Trọn đời con xin quy y Tam bảo, thành tựu không sát sanh.

Cô gái ấy nghe pháp hoan hỷ, đảnh lễ từ giã.

323. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật du hóa ở nước Ma-kiệt-đà, đến cung điện Dạ-xoa Tiễn Mao, nghỉ qua đêm. Khi ấy Dạ-xoa Tiễn Mao và các Dạ-xoa kia đi tụ hội ở nơi khác, không có trong cung.

Lúc ấy có bạn của Tiễn Mao tên là Viêm. Dạxoa Viêm thấy Phật ở trong nhà của Tiễn Mao, nên đến bảo với Tiễn Mao:

–Bạn được lợi lớn! Đức Như Lai Chí Chân Chánh Đẳng Giác đang nghỉ đêm trong cung của bạn.

Dạ-xoa Tiễn Mao nói:

–Vì sao vị ấy nghỉ đêm trong cung của tôi như thế?

Dạ-xoa Viêm nói:

–Vị ấy tuy là loài người nhưng thật là Bậc Như Lai Chí Chân Chánh Đẳng Chánh Giác.

Tiễn Mao nói:

–Ta hãy về cung thì phân biệt rõ có phải là Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác hay không?

Sau khi tụ hội, Dạ-xoa Tiễn Mao trở về cung mình, lấy thân mình chạm vào thân Phật. Thân Phật liền chuyển ra xa.

Dạ-xoa hỏi:

–Này Sa-môn, Ngài đang sợ phải không?

Phật nói:

–Ta không sợ sự xúc chạm quá hung tợn của ngươi.

Tiễn Mao nói:

–Này Sa-môn, ta vấn nạn, nếu ông giải thích được thì tốt đẹp vô cùng; nếu không đáp, ta sẽ phá tim ông, làm cho máu nóng trào ra mặt, lại bẻ hai giò ông ném đến bờ sông Bà-kỳ.

Phật bảo:

–Ta không thấy trong thế gian này dù là Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn nào có khả năng làm cho tâm ý Ta điên đảo, phá được tim Ta làm máu trào ra miệng, bẻ giò Ta ném đến tận bờ sông Bà-kỳ.

Tiễn Mao nói kệ:

Tham dục, sân hận
Lấy gì làm gốc
Thế nào gọi là
Vui và không vui
Sợ hãi lông dựng
Vị ý giác kia
Trụ ở nơi nào
Trẻ con còn nhỏ
Làm sao biết được
Nắm đúng vú mẹ?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Ái do chấp ngã sanh
Như cây Ni-câu-đà
Dục ái theo ngã chấp
Như cây Ma-lâu-đa
Quấn chặt cây Ni-câu
Dạ-xoa cần phải biết
Ai biết được gốc rễ
Thời vứt bỏ được hết
Những gốc rễ như vậy
Vượt qua biển sanh tử
Qua dòng chảy dữ Hữu
Không còn thọ đời sau.

Dạ-xoa Tiễn Mao nghe lời Phật dạy, tâm mở ý thông, hoan hỷ vui mừng thọ ba quy y.

324. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Ưu-bà-di nọ có một con trai thọ trì tám giới nhưng lại phạm; vì phạm giới nên bị quỷ làm cho điên cuồng. Ưu-bà-di nói kệ:

Ngày mười bốn, mười lăm
Và mồng tám trong tháng
Tháng thần túc Như Lai
Thanh tịnh giữ tám giới
Tu hành không khuyết giảm
Quỷ thần không gây rối
Tôi nghe sự việc này
Từ các vị La-hán.

Khi ấy có Dạ-xoa nói kệ:

Ngày mười bốn, mười lăm
Và mồng tám trong tháng
Ngày trai tháng thần túc
Trì giới không hủy khuyết
Thọ đủ tám trai giới
Quỷ thần không quấy nhiễu
Ngươi từ A-la-hán
Nghe điều này thật đúng
Ta sẽ thả con ngươi.

Dạ-xoa lại nói:

Phá giới, bị quỷ phá
Ai có hủy phạm giới
Hiện tại quỷ thần hại
Vị lai nhận quả ác
Thọ giới như cầm dao
Chậm nhanh đều bị thương
Người trí cầm cho giỏi
Vừa phải không bị hại
Không trì pháp Sa-môn
Sau thọ khổ địa ngục
Như cầm dao ở lưỡi
Tất bị họa đứt tay
Khéo cầm không bị thương
Thường giữ pháp Sa-môn
Sau tất đến Niết-bàn
Dạ-xoa bắt trẻ rồi
Bắt rồi lại thả ra.

Khi ấy Ưu-bà-di bảo với con mình:

Con hãy nghe lời ta
Lời Dạ-xoa đã nói
Có các nghiệp chậm chạp
Phạm hạnh không thanh tịnh
Tà mạng và dối trá
Thì không thành quả lớn
Cũng như cầm dao ngược
Tất bị thương đứt tay
Khéo giữ pháp Sa-môn
Sau tất gần Niết-bàn
Như người khéo cầm dao
Không làm đứt tay mình.

Sau khi vị Ưu-bà-di giảng thuyết các pháp cho con xong, người con liền sanh tâm nhàm chán, cầu xin xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục. Người này xuất gia khi tuổi nhỏ nên không ưa thích pháp xuất gia lắm; vì vậy lại trở về nhà.

Vị Ưu-bà-di thấy con trở về, nên đưa tay kêu to và nói kệ:

Nhà đã bị cháy
Lửa khói ùn khắp
Dọn đồ vật ra
Tại sao mang lại
Đem vào trong lửa
Nhà đã cháy rực
Khói lửa mịt mù
Vì sao chạy vào.
Muốn bị lửa đốt?

Người con nói kệ:

Người đời khi bị chết
Tất kể lể khóc than
Hiện tại không thấy chết
Mà lại kêu gào khóc
Nay mẹ vì sao lại
Khóc lóc như ngạ quỷ?

Người mẹ nói kệ:

Trước con đã bỏ dục
Xuất gia làm Sa-môn
Nay con muốn về nhà
Sợ con bị ma trói
Ta vì sự việc này
Thương con nên khóc lóc.

Vị Ưu bà-di
Bằng nhiều lời lẽ
Trách mắng người con
Khiến sanh nhàm chán.

Bấy giờ người con bèn đi đến nơi yên tịnh, tinh cần tu tập suốt ngày đêm và chứng được quả A-lahán.

325. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật du hóa ở nước Ma-kiệt-đề, đi đến cung điện của Dạ-xoa Khoáng Dã và nghỉ đêm ở đó.

Khi ấy Dạ-xoa Khoáng Dã cùng các Dạ-xoa đang tập hợp ở nơi khác, không ở cung mình. Có Dạ-xoa tên Lư Câu thấy Đức Như Lai nghỉ đêm trong cung, liền đến gặp Khoáng Dã, nói:

–Ông được lợi lớn! Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác đang nghỉ đêm trong cung của ông. Khoáng Dã đáp:

–Vị nào nghỉ đêm trong cung của ta?

Dạ-xoa Lư Câu nói:

–Tuy là loài người, nhưng thật là Bậc Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác.

Khoáng Dã lại hỏi:

–Ngươi xét kỹ thật đúng là Đức Như Lai Chí Chân Chánh Đẳng Giác, phải không?

Sau khi hội họp xong, Khoáng Dã trở về cung mình, thấy Đức Phật, liền nói:

–Sa-môn hãy đi ra!

Lúc đó Như Lai ở trú xứ của họ, nên theo lời nói đi ra.

Dạ-xoa lại nói với Phật:

–Sa-môn hãy đi vào!

Phật đã đoạn ngã mạn, nên theo lời nói mà đi vào. Lần thứ hai, thứ ba, gọi Phật đi ra đi vào, Ngài đều tùy thuận theo. Lần thứ tư Dạ-xoa nói:

–Sa-môn hãy đi ra!

Phật hỏi:

–Ngươi đã ba lần thỉnh Ta, nay Ta không theo lời ngươi đi ra nữa.

Khoáng Dã nói:

–Ta muốn hỏi, nếu ông giải thích được, sẽ cho phép ở lại; nếu không trả lời, ta sẽ làm cho tâm ý ông điên đảo, lại phá tim ông khiến máu nóng tràn ra mặt, xé xác ông ném bên bờ sông Bà-kỳ.

Phật bảo:

–Ta không thấy trong thế gian, có Trời, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn nào làm những điều như ngươi nói đối với Ta. Nhưng ngươi muốn hỏi, hãy tùy ý.

Dạ-xoa Khoáng Dã nói kệ:

Trong tất cả của báu
Vật gì quý trọng nhất
Tu tập hạnh thiện nào
Thường được quả an lạc
Trong các vị thơm ngon
Vị gì ngon hơn hết
Trong các loại thọ mạng
Hạng nào thọ mạng hơn.

Thế Tôn nói kệ:

Tài sản trong loài người
Tín tài là đứng đầu
Tu tập theo pháp ấy
Thường được quả an lạc
Nói thật vị ngon nhất
Thọ mạng trí tuệ hơn.

Dạ-xoa Khoáng Dã nói kệ:

Nhờ đâu vượt cuồng lưu
Nhờ đâu vượt biển lớn
Nhờ đâu đoạn trừ khổ
Ai làm cho thanh tịnh?

Thế Tôn nói kệ:

Chánh tín vượt thác dữ
Không phóng dật vượt biển
Tinh tấn thoát ly khổ
Trí tuệ làm thanh tịnh.
Dạ-xoa Khoáng Dã nói
kệ: Làm sao được chánh
tín Làm sao được tài
sản Làm sao được tiếng
khen Làm sao được bạn
lành?

Thế Tôn nói kệ:

A-la-hán được tín
Hành pháp đắc Niết-bàn
Cẩn thận khi hành động
Siêng năng tài sản đến
Nói thật tiếng khen xa
Rộng rãi được bạn thân
Ngươi có thể hỏi nhiều
Sa-môn, Bà-la-môn
Ai nói được sự thật
Ngoài Ta, ai có pháp!
Chín mươi sáu loại đạo
Ngươi hỏi rồi xét kỹ
Có pháp nào không hại
Và điều thuận người không?

Khoáng Dã lại nói kệ:

Cần gì phải hỏi họ
Sa-môn, Bà-la-môn
Đại Tinh tấn giảng dạy
Khéo phân biệt thuyết pháp
Nay con nhớ ân Ngài
Nhờ Ngài chỉ dạy con
Làm con đang được thấy
Đại Thương Chủ Vô Thượng
Con kể từ hôm nay
Đến bất cứ nơi đâu
Thành phố hay làng xóm
Luôn luôn quy y Phật
Phụng hành truyền chánh pháp.

Dạ-xoa Khoáng Dã nghe lời Phật dạy hoan hỷ vui mừng, quy y Tam bảo và thọ giới cấm, trở thành đệ tử Đức Phật.

326. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá.

Khi ấy, trong tinh xá vườn vua, có Tỳ-kheo-ni tên Tỳ-lê. Gặp lúc mọi người trong nước tập hợp cúng sao Câu-mật-đầu, vui chơi trong bảy ngày đêm, nên không ai cúng dường cho vị Tỳ-kheo-ni ấy.

Có một Dạ-xoa sanh tâm kính tín Tỳ-kheo-ni Tỳ-lê, biết trong nước không ai cúng dường, nên ở trong ngõ đầu đường nơi xóm làng, nói kệ:

Những người thành Vương xá
Tất cả đều say ngủ
Tỳ-kheo-ni Tỳ-lê
Tịch nhiên khéo nhập định
Hành giả thật là hùng
Thành tựu pháp đại hùng
Vị Tỳ-kheo-ni này
Hay tu tập thiện căn
Vĩnh viễn lìa trần cấu
Tịch diệt đến Niết-bàn
Vị Đại đức như thế
Nên hết lòng cúng dường
Nay vì sao các ngươi
Không cung thỉnh thọ trai?

Các Ưu-bà-tắc trong thành, nghe kệ này, từng người mang y phục và thức ăn thịnh soạn đến cúng dường cho vị Tỳ-kheo-ni ấy.

Khi Dạ-xoa thấy nhiều người cúng dường, bèn nói kệ:

Tỳ-kheo-ni Tỳ-lê
Đoạn trừ tất cả kết
Ưu-bà-tắc có trí
Nên cúng dường vị ấy
Nhờ cúng dường thức ăn
Phước lớn được tăng trưởng
Tỳ-kheo-ni Tỳ-lê
Đoạn trừ hết kết sử
Ưu-bà-tắc có trí
Cúng y cho Tỳ-lê
Nhờ cúng vị ấy y
Phước lớn được tăng trưởng.

327. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá. Tại tinh xá trong vườn vua, có Tỳ-kheo-ni tên Bạch Tịnh.

Khi ấy dân chúng trong nước làm lễ hội cúng sao Câu-mật-đầu, tập hợp vui chơi trong bảy ngày đêm, không có ai cúng dường thức ăn cho Tỳ-kheo-ni ấy.

Có một Dạ-xoa đối với Tỳ-kheo-ni Bạch Tịnh sanh tâm kính tín, biết người trong nước không có ai thỉnh vị này cả, nên ở trong ngõ đầu đường, nói kệ:

Những người thành Vương xá
Tất cả đều ngủ say
Không thỉnh Tỳ-kheo-ni
Vị tu tập các căn
Bạch tịnh, pháp Bạch tịnh
Tỳ-kheo-ni giỏi định
Thoát ly hẳn cấu uế
Tịch diệt đến Niết-bàn
Với vị Đại đức ấy
Phải siêng năng cung cấp
Nay tại sao các người
Lại không ai mời thỉnh?

Bấy giờ những người trong thành nghe kệ này, mỗi người đều mang y phục, thực phẩm đến cúng dường Tỳ-kheo-ni.

Dạ-xoa thấy Tỳ-kheo-ni nhận được y phục, thực phẩm, lại nói kệ:

Tỳ-kheo-ni Bạch Tịnh
Đoạn trừ hẳn tham ái
Ưu-bà-tắc có trí
Dâng thức ăn cho người
Nhờ dâng cúng thực phẩm
Được phước báo vô lượng
Tỳ-kheo-ni Bạch Tịnh
Đoạn trừ hẳn xan tham
Ưu-bà-tắc có trí
Dâng y phục cho người
Nhờ dâng cúng y phục
Được vô lượng phước đức.

328. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá.

Có hai Dạ-xoa, một là Thất Khưu, hai là Tuyết Sơn, làm bạn thân với nhau, cùng thề hẹn: “Nếu trong cung của chúng ta có vật báu đẹp xuất hiện, thì bảo cho nhau biết.”

Khi trong cung của Dạ-xoa Tuyết Sơn xuất hiện hoa sen ngàn cánh như bánh xe với cọng bằng lưu ly màu biếc, râu bằng kim cương, Dạ-xoa Tuyết Sơn thấy sự việc này, sai người đến nói với Thất Khưu:

–Trong cung tôi có vật lạ như thế, bạn hãy đến xem! Dạ-xoa Thất Khưu nghe nói vậy, liền suy nghĩ: “Đức Như Lai Thế Tôn ở gần đây, nên sai người đến bảo với Dạ-xoa Tuyết Sơn, sau đấy ta mới đến đó xem hoa.” Suy nghĩ rồi, Dạ-xoa sai người đến bảo:

–Tại chỗ của ta, có Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác xuất hiện. Trong cung của bạn tuy có hoa báu, nhưng có ích gì!

Khi Dạ-xoa Tuyết Sơn nghe lời nói ấy liền mang theo năm trăm Dạ-xoa tùy tùng, đi đến cung của Dạ-xoa Thất Khưu.

Dạ-xoa Tuyết Sơn hướng về Thất Khưu nói kệ:

Trăng rằm đêm mười lăm
Tròn đầy sáng trong ngần
Vâng lệnh đem đồ chúng
Đến đây gặp gỡ nhau
Vậy phải thân cận ai
La-hán bạn là ai?

Dạ-xoa Thất Khưu nói kệ đáp:

Đức Như Lai Thế Tôn
Tối thượng ở Vương xá
Thuyết pháp bốn Thánh đế
Diệt trừ tất cả khổ
Dạy khổ do nhân sanh
Nhân sanh khổ là Tập
Thánh đế Bát chánh đạo
Đưa đến tận Niết-bàn
Là La-hán của tôi
Bạn nên thân cận Ngài.

Dạ-xoa Tuyết Sơn nói kệ:

Ai với các chúng sanh
Có tâm Từ, bình đẳng
Hiểu rõ ái, không ái
Thì được tự tại không?

Dạ-xoa Thất Khưu nói kệ đáp:

Tâm ý rất điều hòa
Đối với các chúng sanh
Thấu rõ tất cả pháp
Đại Đạo Sư của đời
Giác ngộ ái, không ái
Tâm hoàn toàn tự tại.

Dạ-xoa Tuyết Sơn nói kệ:

Ai nói lời chân thật
Không nói lời giả dối
Từ bi khắp chúng sanh
Từ bỏ hẳn giết hại
Tinh tấn không phóng dật
Luôn an trú thiền định.

Dạ-xoa Thất Khưu nói kệ:

Phật luôn luôn nói thật
Từ bỏ hẳn sát hại
Tinh tấn không phóng dật
Ngài lúc nào cũng định.

Dạ-xoa Tuyết Sơn nói kệ:

Ai không tham đắm dục
Tâm không còn loạn động
Là có pháp nhãn không?
Đã hết ngu si chưa?
Đã dứt hết phiền não
Chứng đắc giải thoát chưa?

Dạ-xoa Thất Khưu nói kệ:

Vượt khỏi bùn lầy dục
Tâm tịnh không loạn động
Pháp nhãn rất trong suốt
Hoàn toàn hết ngu si
Thoát hẳn các kết sử
Đã chứng đắc giải thoát.

Dạ-xoa Tuyết Sơn nói kệ:

Ai không sầu ly biệt
Ai không nói phù phiếm
Ai thấy vật không tham
Ai không sanh tà kiến.

Dạ-xoa Thất Khưu nói kệ:

Không còn ái biệt khổ
Chưa từng nói vô nghĩa
Trừ diệt tâm tham dục
Hoàn toàn không tà kiến.

Dạ-xoa Tuyết Sơn lại nói kệ:

Đầy đủ các minh chưa
Giới hạnh thanh tịnh chăng
Các lậu sạch hết chưa
Còn thọ hậu hữu không?

Dạ-xoa Thất Khưu nói kệ:

Đầy đủ minh và hạnh
Trì giới hạnh thanh tịnh
Sạch các lậu từ lâu
Không còn thọ hậu hữu.

Dạ-xoa Tuyết Sơn nói kệ:

Ba nghiệp của Như Lai
Nghiệp nào đủ hạnh thiện
Mà nay bạn tuân hành
Tán thán pháp chân thật.

Dạ-xoa Thất khưu nói kệ:

Thân, miệng, ý Như Lai
Đầy đủ các hạnh thiện
Ngài minh đạt hoàn toàn
Tôi tán thán pháp thật.

Dạ-xoa Tuyết Sơn nói kệ:

Mâu-ni thiên thế hùng
Đùi Ngài như Ni-diên
Ăn ít không đắm vị
Như Tiên thiền trong rừng
Chúng ta cùng nhau đến
Kính lễ Đức Cù-đàm.

Bấy giờ hai Dạ-xoa Thất Khưu và Tuyết Sơn dẫn hai ngàn Dạ-xoa đồng thời đến nơi Phật, y phục chỉnh tề, chắp tay cung kính, nói kệ:

Thế Tôn Bà-già-bà
Phật-đà, Lưỡng Túc Tôn
Điều chư Thiên không biết
Ngài thấy rất rõ ràng.

Sau khi nói kệ, Tuyết Sơn và Thất Khưu ngồi qua một bên. Dạ-xoa Tuyết Sơn nói kệ hỏi:

Thoát khổ, con đường nào
Làm sao xả ly khổ
Thế Tôn dạy cho con
Nơi nào không còn khổ?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Năm dục căn, với ý
Nếu không dục, tại đây
Giải thoát các đau khổ
Đây là đường thoát khổ
Giải thoát khổ như vậy
Chính là nơi khổ diệt
Nay ngươi đã hỏi Ta
Giảng cho ngươi như vậy.

Dạ-xoa Tuyết Sơn nói kệ:

Hồ gì nước chảy xoáy
Nơi nào không đứng yên
Ở nơi nào khổ vui
Bị diệt không còn gì?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân
Ý căn là thứ sáu
Hồ sáu căn chảy xoáy
Nơi ấy không đứng yên
Danh sắc không chuyển nữa
Nơi này được diệt tận.

Dạ-xoa Tuyết Sơn nói kệ:

Thế gian từ đâu sanh
Do đâu được tập hợp
Thọ sanh ra từ đâu
Khổ cầu vì việc gì?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Sáu xứ sanh thế gian
Tập hợp do sáu xứ
Sáu xứ sanh ra thọ
Khổ cầu vì sáu xứ.

Dạ-xoa Tuyết Sơn nói kệ:

Tu pháp thiện thế nào
Ngày đêm không biếng nhác
Làm sao vượt dòng thác
Không có nơi đặt chân
Cũng không nơi vịn nắm
Giữa chỗ sâu không chìm?

Thế Tôn nói kệ:

Không phạm giới nào cả
Đủ thiền định trí tuệ
Tư duy các lỗi lầm
Đầy đủ sức chánh niệm
Thì vượt nơi khó vượt
Viễn ly tập hợp dục
Bỏ các nghiệp kết sử
Diệt tận nghiệp hỷ ái
Người như vậy gọi là
Không chìm giữa vực sâu.

Dạ-xoa Tuyết Sơn nói kệ:

Ai vượt khỏi dòng dữ
Ai vượt qua biển lớn
Ai thoát được các khổ
Làm sao được thanh tịnh?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Lòng tin vượt cuồng lưu
Không phóng dật vượt biển
Tinh tấn thoát khổ đau
Trí tuệ làm thanh tịnh
Ông đến các Sa-môn
Và các Bà-la-môn
Hỏi nhiều chuyện khác nhau
Ai là người biết pháp
Ai dạy thật thoát khổ
Ngoài Ta, ai dạy được?

Dạ-xoa Tuyết Sơn nói kệ:

Con được nghe Phật dạy
Phá tan mọi lưới nghi
Cần gì hỏi nơi khác
Sa-môn, Bà-la-môn
Thế Tôn khéo hiển bày
Phân biệt đủ rõ ràng
Ân Thất Khưu rất nặng
Làm cho con được thấy
Bậc Đạo Sư Vô Thượng
Những nơi con đang đến
Thành phố và xóm làng
Khắp bất cứ ở đâu
Ngày đêm thường quy y
Như Lai Chánh Đẳng Giác
Chánh pháp trong các pháp
Một ngàn các Dạ-xoa
Trong tâm đều vui mừng
Chắp tay hướng về Phật
Đồng xin làm đệ tử
Quy y Phật, Thế Tôn.

329. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá. Tôn giả Xá-lợi-phất, Mụckiền-liên ở núi Linh thứu.

Vào sáng sớm, Tôn giả Xá-lợi-phất vừa mới cạo tóc, ngồi thẳng người dùng y che trên đầu.

Có hai Dạ-xoa tên là Vi Hại và Phục Hại. Phục Hại thấy Xá-lợi-phất, bảo với Vi Hại:

–Nay ta muốn dùng quyền đánh vào Sa-môn trọc đầu mới cạo kia.

Vi Hại nói:

–Nhưng Tỳ-kheo này có thần đức lớn, bạn đừng làm như vậy, phải chịu khổ lâu dài.

Vi Hại can ngăn ba lần như thế, Phục Hại vẫn cố muốn dùng quyền đánh Tôn giả Xá-lợi-phất, nên không nghe lời can gián, cho nên Vi Hại phải hết sức dùng thân giữ lại.

Khi ấy Phục Hại tâm ác dấy khởi mạnh mẽ, tuy nghe bạn can ngăn thậm chí đã ôm giữ lại, nhưng vẫn không thuận theo, liền dùng quyền đánh vào đầu Tôn giả Xá-lợi-phất.

Sau khi đánh, Dạ-xoa Phục Hại bảo với Vi Hại:

–Vì đánh Tỳ-kheo này làm cho ta bị thiêu đốt, bạn hãy cứu lấy ta.

Ngay lúc đang nói như thế thì đất tự nứt ra, Phục Hại bị rơi vào địa ngục Vô gián.

Lúc ấy Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đang ngồi bên gốc cây, cách nơi Tôn giả Xá-lợi-phất không xa, nghe tiếng đánh Xá-lợi-phất, liền đi đến chỗ Tôn giả, nói:

–Thầy có thể chịu đựng được đau khổ này, không bị kinh sợ, tan nát thân chăng?

Xá-lợi-phất đáp: –Tôi chịu đựng được, không có đau đớn và không bị tan hoại.

Tôn giả Mục-liên khen:

–Thật có thần đức, giả sử Phục Hại dùng quyền đánh núi Kỳ-xà-quật, núi cũng tan nát vậy mà Tôn giả Xá-lợi-phất không sao cả.

Khi hai Tôn giả nói như trên, Thế Tôn đang ở trong phòng vào ban ngày, với thiên nhãn thanh tịnh, từ xa nghe nói như thế, nên nói kệ:

Chánh tâm như núi lớn
An trụ không lay động
Những nơi đáng tham đắm
Không bị nhiễm pháp nhiễm
Xa lìa nẻo ái lạc
Pháp ái lạc nghĩa là
Dục lạc thuộc các trần
Nếu ai đến gây hại
Không báo oán trở lại
Gọi là không gây hại
Ai tu tâm như vậy
Không bao giờ bị khổ.

Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

Kệ tóm lược:

Nhân-đà-la, Thích-ca
Quật Ma, Bạch Sơn
Tân ca-la, Phú-na bà tu
Mạn-giá-ni-la, Tiễn Mao
Thọ Trai và Hùng Tịnh
Thất Khưu cùng Tuyết Sơn
Hại cùng với Vô Hại
Gọi tên đệ thập tứ.

QUYỂN 16

330.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn ở trong đại giảng đường, bên bờ hồ Di-hầu, thuộc nước Tỳ-xá-ly. Có bốn mươi Tỳ-kheo Ba-lợi-xà-ca ở nơi thanh vắng, đắp y phấn tảo, siêng năng khất thực, đang ở địa vị hữu học, chưa ly dục. Họ đồng đến gặp Phật, lạy sát chân Ngài, ngồi qua một bên.

Thế Tôn suy nghĩ: “Các Tỳ-kheo này đều ở nơi thanh vắng, đắp y phấn tảo, tận lực hành khất thực, nhưng chưa đoạn trừ các kết sử, Ta sẽ thuyết pháp thích hợp cho họ, làm các Tỳ-kheo ngay tại chỗ ngồi tâm đắc giải thoát, sạch các kết lậu.” Phật dạy:

–Tỳ-kheo nên biết, sanh tử lâu dài không có biên giới, không thể biết được căn nguyên của nó. Tất cả chúng sanh đều bị vô minh che lấp, tham ái phiền não trói buộc nơi cổ, lưu chuyển mãi trên đường dài sanh tử, không thể nào biết hết vô số đau khổ trong quá khứ. Ví như sông Hằng chảy vào bốn biển lớn, nay Ta hỏi các ông, ở trong sanh tử, máu ông chảy ra nhiều, hay nước sông Hằng nhiều?

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, như con hiểu ý nghĩa của lời Phật dạy, ở trong sanh tử, máu trong thân con chảy ra, nhiều hơn nước sông Hằng và bốn biển lớn. Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Lành thay! Lành thay! Ông thọ thân voi trong đời quá khứ, bị người khác cắt vòi, cắt tai, chặt chân, niền đầu, chặt cổ, máu chảy ra vô lượng vô số... Lại thọ thân bò ngựa, la, lạc đà, heo gà chó lợn... các loại cầm thú. Như thọ thân gà, bị chặt cánh nhổ lông, chặt đầu chân, nên thân chảy máu. Các thân cầm thú như vậy đều bị chặt cắt, số máu chảy ra không thể lường được. Này các Tỳ-kheo, sắc là thường hay vô thường?

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, sắc là vô thường.

Phật lại hỏi:

–Nếu sắc vô thường, vậy là khổ hay không khổ?

Tỳ-kheo đáp:

–Vô thường nên khổ!

Phật lại dạy:

–Nếu vô thường khổ là pháp hư hoại, ở trong pháp ấy vị Thánh đệ tử suy tính có ngã hay ngã sở không? Tỳ-kheo đáp:

–Bạch Thế Tôn, không.

Phật lại dạy:

–Thọ, tưởng, hành, thức là thường hay vô thường?

Tỳ-kheo đáp:

–Đều là vô thường!

Phật lại hỏi:

–Nếu là vô thường có khổ hay không?

Đáp:

–Vô thường là khổ.

Phật lại hỏi:

–Nếu vô thường khổ là pháp hư hoại, vị Hiền thánh đệ tử có cho trong đó có ngã hay ngã sở không? Tỳ-kheo thưa: –Bạch Thế Tôn, không. Phật bảo Tỳ-kheo:

–Lành thay! Lành thay! Sắc là vô thường; vô thường là vô ngã; không có ngã thì không có ngã sở. Như vậy quán sát sắc với chánh trí tuệ thấy biết như thật; thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Thế nên, này các Tỳ-kheo, có sắc nào trong thời gian ngắn, hoặc quá khứ, vị lai, hiện tại, trong ngoài gần xa đều thấy không có ngã và ngã sở. Đây là sự thấy với chánh kiến đúng sự thật. Thọ, tưởng, hành, thức nào nhiều ít trong ngoài gần xa, quá khứ vị lai hiện tại, đều không có ngã, cũng không có ngã sở; đây là thấy biết như thật. Vị Hiền thánh đệ tử với thấy biết như vậy, gọi là đa văn, nhàm chán sắc, nhàm chán thọ, tưởng, hành, thức. Do nhàm chán nên ly dục, được ly dục nên giải thoát, được giải thoát nên giải thoát tri kiến. Ai được giải thoát tri kiến thì biết đây là đời sống cuối cùng của ta, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn thọ thân đời sau.

Khi Phật giảng dạy, bốn mươi Tỳ-kheo Ba-lịxà-ca chứng quả Vô sanh, tâm đắc giải thoát. Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

331. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Các thầy nên biết, sanh tử lâu dài không có biên giới, không ai biết được nguồn gốc của nó. Tất cả chúng sanh đều bị vô minh che lấp, bị phiền não trói buộc, trôi lăn trong sanh tử lâu dài vô cùng nơi quá khứ, không ai có thể nhớ hết được. Này các Tỳ-kheo, như sông Hằng chảy về bốn biển lớn, với sự thọ thân trong sanh tử lâu dài từ quá khứ đến nay, nước mắt chảy ra do buồn khổ khóc lóc thì nhiều, hay nước sông Hằng nhiều?

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, như con hiểu ý nghĩa của lời Phật dạy, sanh tử lâu dài, nước mắt chảy ra nhiều hơn nước sông Hằng, còn hơn nước bốn biển. Phật dạy Tỳ-kheo:

–Lành thay! Lành thay! Đúng như lời ông nói, gom nước mắt lại thật nhiều hơn bốn biển. Từ quá khứ đến nay, với sự xa lìa cha mẹ, từ giã bác, chú, anh, chị, em, con cháu thân thuộc qua đời, và bị mất tiền tài voi, ngựa, bò, dê hoặc bị đánh đập, bị gây thương tích, hủy hại thân thể, cho đến trói nhốt, những đau khổ sầu não ấy làm rơi nước mắt không thể kể số. Ví như dòng nước dữ lôi kéo cây cỏ tụ tập lại làm nghẽn đường sá, tham ái tụ tập làm ngăn trở đường Hiền thánh. Số lượng thọ thân địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và các nẻo ác khác nhiều như giọt máu trong thân. Phật hỏi các Tỳ-kheo:

–Sắc là thường hay vô thường?

Tỳ-kheo đáp:

–Sắc là vô thường.

Phật lại hỏi:

–Sắc là thường vậy khổ hay không khổ?

Tỳ-kheo đáp: –Vô thường là khổ. Phật bảo Tỳ-kheo:

–Vô thường khổ là pháp hư hoại, đối với trong pháp ấy, vị Hiền thánh đệ tử thấy có ngã và ngã sở không?

Tỳ-kheo đáp:

–Bạch Thế Tôn, không!

Phật lại hỏi:

–Thọ, tưởng, hành, thức là thường hay vô thường?

Tỳ-kheo đáp:

–Chúng đều là vô thường!

Phật lại hỏi:

–Vô thường là khổ hay không khổ?

Tỳ-kheo đáp:

–Vô thường là khổ.

Hỏi:

–Vô thường, khổ là pháp hư hoại, vị Hiền thánh đệ tử thấy trong đó có ngã, ngã sở không?

Tỳ-kheo đáp:

–Bạch Thế Tôn, không. Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Lành thay! Lành thay! Sắc là vô thường, vô thường nên khổ, khổ thì vô ngã, nếu vô ngã thì không có ngã sở. Như thế quán sát với chánh tuệ để thấy biết như thật; thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Thế nên Tỳ-kheo, cho đến một chút sắc nào ở quá khứ, vị lai, hiện tại, trong ngoài gần xa, đều vô ngã, vô ngã sở. Sự thấy biết như vậy thật đúng với chánh kiến. Thọ, tưởng, hành, thức dù ít hay nhiều ở trong ngoài gần xa, quá khứ, hiện tại, vị lai đều thấy biết như thật không có ngã hay ngã sở. Vị Hiền thánh đệ tử thấy biết như vậy rồi, gọi là đa văn, được giải thoát khỏi sắc, giải thoát khỏi thọ, tưởng, hành, thức, giải thoát khỏi tất cả ưu, bi, khổ não.

Phật thuyết như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

332. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Sanh tử lâu dài không có biên giới, không thể biết được nguồn gốc của nó. Tất cả chúng sanh đều bị vô minh che phủ, tham ái trói buộc, trôi lăn trong sanh tử không cùng tận, không thể nhớ hết cái khổ trong quá khứ. Này các Tỳ-kheo, như nước sông Hằng chảy về bốn biển, trong sanh tử lâu dài ở quá khứ, sữa mẹ đã uống so với nước sông Hằng có nhiều hơn không?

Tỳ-kheo bạch Phật:

–Theo con hiểu ý nghĩa của lời Phật dạy, sữa mẹ đã uống trong quá khứ lâu xa nhiều hơn nước sông Hằng và bốn biển.

Thọ thân hình đến nay vô lượng vô biên, hoặc thọ thân voi, ngựa, lạc đà, bò, dê, nai... Các loại súc sanh, đã uống vô số sữa mẹ không thể tính hết.

Ví như dòng nước dữ cuốn cây cỏ tụ hợp thành đống lớn che lấp cả đường đi, tập hợp tham ái cũng như vậy ngăn che Thánh đạo... (phần còn lại như bài kinh trên).

333. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Sanh tử lâu dài không có biên giới, không thể biết nguồn gốc của nó. Tất cả chúng sanh đều bị vô minh che phủ, tham ái trói buộc, trôi lăn trong sanh tử không có cùng tận, không thể nhớ hết cái khổ trong quá khứ. Giả sử có người chặt hết cây cỏ trên mặt đất đem chẻ làm thẻ, đếm hết thẻ này để tính những người mẹ đã sanh ta ra trong quá khứ, cũng không thể hết được. Giả sử chặt hết cây cỏ trên mặt đất chẻ làm thẻ dài bốn đốt ngón tay, để đếm những người mẹ đã sanh ta ra trong quá khứ, cũng không thể biết hết được. Này các Tỳ-kheo, sanh tử lâu dài không thể biết hết...

(Như kinh trên).

Này các Tỳ-kheo, cần phải học như vầy, đoạn trừ sanh tử, đoạn trừ các nghiệp không còn thọ đời sau nữa.

Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy đều hoan hỷ phụng hành.

334. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Sanh tử lâu dài không có biên giới, không thể biết được nguồn gốc của nó. Tất cả chúng sanh đều bị vô minh che phủ, tham ái trói buộc, trôi lăn trong sanh tử không có cùng tận, không thể nhớ biết hết tất cả đau khổ đã chịu trong vô số kiếp trong quá khứ. Này các Tỳ-kheo, giả sử có người đem hết đất trên địa cầu vo từng viên như hạt đậu, đem số hạt đậu này để đếm thân làm mẹ thì hết cả địa cầu này cũng không đếm hết... ngoài ra như ở trên. Thế nên các thầy cần phải học, học đoạn trừ nẻo sanh tử nối tiếp, tinh tấn tìm phương pháp đoạn trừ nẻo sanh tử nối tiếp. Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

335. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Sanh tử lâu dài không có biên giới, không thể biết hết nguồn gốc của nó. Tất cả chúng sanh đều bị vô minh che phủ, tham ái trói buộc, trôi lăn trong sanh tử không có cùng tận, không thể nhớ biết hết tất cả đau khổ đã chịu trong quá khứ. Này các Tỳ-kheo, các thầy hãy quán sát những kẻ sung sướng trong thế gian đang hưởng thọ hỷ lạc tối thượng. Các thầy phải suy nghĩ chắc chắn rằng: “Ta từ quá khứ đến nay đã hưởng thọ hỷ lạc như thế này, những hỷ lạc đã thọ cũng đã tan rã. Sanh tử như vậy lâu dài...

(Như nói trên)”. Này các Tỳ-kheo, cần phải học như vậy, tinh tấn cầu phương tiện đoạn trừ nẻo sanh tử nối tiếp.

Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

336. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Sanh tử lâu dài...

như nói ở trên, nếu thấy chúng sanh chịu cực nhọc đau khổ tàn độc, ưu buồn áo não, nên nghĩ thế này: “Ta từ vô số kiếp đến nay, cũng chịu khổ não như vậy vô lượng trong sanh tử lâu dài…

như nói ở trên.” Này các Tỳ-kheo, nên học như thế, tinh tấn tìm phương pháp đoạn trừ nẻo sanh tử nối tiếp, đừng tạo nhân duyên phát sanh sanh tử nữa.

Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

337. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Sanh tử lâu dài ... như trên. Này các Tỳ-kheo, nếu thấy ai có tâm sợ hãi lông toàn thân đứng lên, nên biết đời trước từng gây oán hại. Thế nên sanh tử lâu dài ... như trên. Này các Tỳ-kheo, nên học tập thế này, tinh tấn tìm phương pháp đoạn trừ nẻo sanh tử nối tiếp.

Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

338. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Sanh tử lâu dài ... như trên. Ai thấy chúng sanh tự nhiên yêu thích, phát sanh tâm dục, tâm rất thân ái. Các thầy nên biết thân đời trước chắc là cha mẹ, anh em, vợ con, hoặc là Hòa thượng, A-xà-lê, Sư trưởng tôn thân với nhau. Thế nên các thầy phải biết sanh tử lâu dài ... như trên. Này các Tỳ-kheo, cần phải học tập, siêng tu tập phương pháp đoạn trừ nẻo sanh tử nối tiếp, không gây nhân duyên phát sanh ra sanh tử nữa.

Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

339. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Có một Bà-la-môn đến gặp Phật, sau khi chào hỏi, ngồi qua một bên, bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn, trong thời vị lai có bao nhiêu Đức Phật, Thế Tôn ra đời?

Đức Phật đáp: –Trong thời vị lai, có hằng hà sa số chư Phật xuất hiện ở đời.

Bà-la-môn nghe lời Phật nói, suy nghĩ: “Ta sẽ tu tập phạm hạnh với Phật ở thời vị lai.”

Đi về không xa, ông ta lại suy nghĩ: “Ta đã không hỏi trong quá khứ có bao nhiêu Phật ra đời.” Sau khi suy nghĩ, ông ta trở lại gặp Phật và bạch:

–Thưa Thế Tôn, trong đời quá khứ có bao nhiêu Phật ra đời?

Đức Phật đáp: –Trong quá khứ đã có vô lượng hằng hà sa số chư Phật ra đời.

Khi ấy Bà-la-môn suy nghĩ: “Chư Phật ra đời trong quá khứ, vị lai, ta không được gặp, hiện tại đã được gặp Phật, tại sao lại bỏ qua?! Ta phải xuất gia học đạo trong giáo pháp của Phật.”

Ông ta liền đứng dậy chắp tay bạch Phật:

–Thế Tôn, cầu xin Ngài từ bi thương xót cho con được xuất gia, tu tập phạm hạnh trong Phật pháp.

Đức Phật chấp thuận, ông ta được xuất gia, sau khi xuất gia, riêng nơi thanh vắng, tinh tấn tu tập đoạn trừ sanh tử, chứng A-la-hán. Đức Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

340. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại chân núi Tỳ-phú-la, thuộc thành Vương xá.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Một người nào luân hồi thọ sanh trong một kiếp, gom xương cốt của họ không cho tản mát lại thành một đống thì lớn như núi Tỳ-phú-la. Vị Hiền thánh đệ tử tùy thời nghe pháp, như thật tri về Khổ Thánh đế, như thật tri về Khổ tập, như thật tri về Khổ diệt, như thật tri về con đường tu tập Diệt khổ. Với tri kiến như vậy, đã đoạn trừ ba kết sử là: Thân kiến, giới cấm thủ và nghi, gọi là Tu-đàhoàn, không còn bị đọa vào cõi ác, chắc chắn giác ngộ đến Niết-bàn, tối đa bảy lần sanh tử nữa là thoát khổ.

Phật dạy như vậy và nói kệ:

Một người trong một kiếp
Luân hồi sanh và tử
Gom hết cốt họ lại
Thành đống tại một nơi
Không để cho tản mát
Thì như Tỳ-phú-la
Ai quán bốn Thánh đế
Thật tri bằng chánh trí
Thấy Khổ đế, Khổ tập
Khổ diệt, tám Thánh đạo
An ổn đến Niết-bàn
Chỉ còn trong sanh tử
Tối đa là bảy lần
Giải thoát cảnh giới khổ.

Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành, đảnh lễ từ giã.

Kệ tóm tắt:

Máu, lệ và sữa mẹ
Vo đất như hạt đậu
Sợ hãi và yêu mến
Hằng sa và đống cốt.

341. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Sanh tử lâu dài ... như trên.

Khi ấy trong chúng có một Tỳ-kheo rời chỗ ngồi, đứng dậy, sửa lại y phục, chắp tay bạch Phật:

–Thế Tôn, kiếp dài hay ngắn? Phật bảo vị Tỳ-kheo:

–Ta có thể giảng giải cho ông, nhưng sợ ông không hiểu.

Vị Tỳ-kheo bạch phật:

–Ngài có thể ví dụ không?

Phật dạy:

–Ví dụ như dùng sắt làm thành quách dài rộng cao đều một do-tuần và đổ hạt cải đầy trong thành ấy. Giả sử có người cứ một trăm năm lấy ra một hạt cải, thì hạt cải trong thành có thể hết sạch, nhưng thời gian một kiếp không thể biết được. Này các Tỳ-kheo, thời gian lâu dài của một kiếp có thể ví dụ như vậy. Kiếp dài trăm ngàn vạn ức như thế cho đến trăm ngàn ức vạn với khổ não vô lượng vô biên, bạo ác đau khổ không vừa ý; thọ thân nhiều như đống bọt giọt mưa, ở địa ngục ngạ quỷ, súc sanh, trong các cảnh ác nơi cõi người. Thế nên các thầy phải đoạn trừ nẻo sanh tử nối tiếp, nên tìm phương pháp xa lìa nẻo sanh tử. Này các Tỳ-kheo, cần phải học như vậy.

Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

342. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Sanh tử lâu dài ... như trên.

Khi ấy, trong chúng có một Tỳ-kheo rời chỗ ngồi, đứng dậy, sửa lại y phục, chắp tay bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, kiếp dài hay ngắn? Phật bảo vị Tỳ-kheo:

–Ta có thể giảng giải cho ông, nhưng sợ ông không hiểu.

Vị Tỳ-kheo bạch phật:

–Ngài có thể ví dụ không?

Phật dạy:

–Có thể ví dụ, này Tỳ-kheo, như có một khối đá cứng rắn, không có lỗ trống, đặc một khối đồng thể, dài rộng cao đều là một do-tuần. Giả sử có người cầm tấm vải hay tấm lụa rất mịn, cứ một trăm năm quét lên khối đá ấy một lần cho đến khi đá tan mất, nhưng chưa hết một kiếp. Thế nên Ta nói thời gian lâu xa của một kiếp khó biết được; ví dụ về lâu dài của một kiếp là như vậy. Với số lượng trăm ngàn vạn ức kiếp như thế, chúng sanh trong vô số kiếp ấy chịu nhiều khổ não, đau đớn, không vừa ý, thọ thân ở địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, trong các cõi ác nhiều như đống bọt giọt mưa. Thế nên các ông nên đoạn trừ nẻo sanh tử nối tiếp, chuyên cần hành đạo xa lìa các nguyên nhân tạo ra sanh tử, nên học như vậy.

Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

343. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Khi ấy, trong chúng có một Tỳ-kheo rời chỗ ngồi, đứng dậy, sửa lại y phục, chắp tay bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, từ xưa đến nay đã trải qua bao nhiêu kiếp?

Phật bảo vị Tỳ-kheo:

–Ta có thể giảng giải cho ông, nhưng sợ ông không hiểu.

Tỳ-kheo bạch Phật:

–Ngài có thể ví dụ không?

Phật dạy:

–Có thể ví dụ. Giả sử có người sống đến một trăm tuổi, vào sáng sớm, trưa và chiều tối, trong ba thời gian này đều nghĩ đến trăm ngàn kiếp. Hằng ngày suy nghĩ như vậy cho tới một trăm năm cũng không thể đếm hết được số kiếp trong quá khứ, đã thọ các khổ não, đau đớn, không vừa ý trong các cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Thế nên, này Tỳ-kheo, nên đoạn trừ nẻo sanh tử nối tiếp, chuyên cần tu tập các phương tiện đoạn tuyệt các nhân tạo ra sanh tử. Này các Tỳ-kheo, cần phải học như vậy.

Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

344. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Sanh tử lâu dài ... như trên, không thể nào biết được vô số ức kiếp trong quá khứ. Trên đại địa này, không có nơi nào mà thân các ông chưa từng sanh tử ở đó. Này các Tỳ-kheo, sanh tử lâu dài khó biết được. Thế nên, này các Tỳ-kheo, phải siêng tu tập phương pháp đoạn tuyệt các nhân tạo ra sanh tử.

Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

345. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Sanh tử lâu dài…

như nói ở trên.

Này các Tỳ-kheo, trong thế gian này không có một người nào đã không từng là cha mẹ, anh chị em, vợ con, quyến thuộc, Hòa thượng, A-xà-lê của các ông. Trong thế gian này, không có một chúng sanh nào đã không từng giết hại ông, gây thù oán với ông; cũng không có một chúng sanh nào đã không từng ăn thịt ông. Như vậy sanh tử từ vô thỉ...

như nói trên. Này các Tỳ-kheo, phải siêng tu tập phương pháp đoạn trừ các nhân tạo ra sanh tử; nên học như vậy.

Phật dạy như vậy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

346.

(Không tìm thấy số 346 trong LSPBDTK bản pdf).

347. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Sanh tử dài lâu ... như trên.

Này các Tỳ-kheo, trời mưa lớn dày kín như buộc chổi quét, Đông, Tây, Nam, Bắc bốn hướng không chừa nơi nào cả. Phương Đông có vô lượng thế giới với chúng sanh đông đúc an lạc, nhiều như hạt mưa, rồi vô lượng thế giới ấy đều bị tan hoại. Vô lượng thế giới đầy cả chúng sanh, rồi vô lượng thế giới ấy đều trống rỗng, không còn có chúng sanh nào ở trong đó; bốn phương, bốn hướng cũng như vậy. Sanh tử từ vô thỉ,...

như nói trên. Thế nên, Tỳ-kheo nên cầu phương tiện đoạn trừ các nhân tạo ra sanh tử, nên học như vậy.

Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

348. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Sanh tử dài lâu...

như nói trên, cho đến... Sanh tử từ vô thỉ ... như trên. Này các Tỳ-kheo, ví như ném cây gậy xuống đất, hoặc gốc xuống trước, hoặc ngọn xuống trước, hoặc rơi vào nơi bất tịnh xấu ác, hoặc rơi vào nơi thanh tịnh. Tất cả chúng sanh cũng như vậy, bị vô minh che phủ, hoặc sanh lên thiên giới hoặc sanh vào cõi người, hay bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, hoặc A-tu-la; vì vậy sanh tử lâu dài nói rộng như trên. Thế nên, này các Tỳ-kheo, phải đoạn trừ nẻo sanh tử nối tiếp, nên học như vậy.

Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

349. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Như có người mạnh khỏe quay bánh xe năm căm chạy rất nhanh. Tất cả chúng sanh cũng như vậy, bị vô minh che phủ, luân chuyển trong năm đường là trời, người, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, sanh tử như thế từ vô thỉ. Thế nên, này các Tỳ-kheo, phải đoạn các nhân tạo ra sanh tử, bằng cách tu tập pháp thiện.

Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

350. Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại chân núi Tỳ-phú-la, thuộc thành Vương xá.

Khi ấy Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

–Các hành vô thường là pháp sanh diệt, không lúc nào đứng yên, không bảo đảm tin tưởng được, là pháp hư hoại. Vì vậy, này các Tỳ-kheo, đối với các hành phải biết tri túc, sanh tâm nhàm chán, xa lìa ái dục cầu giải thoát. Này các Tỳ-kheo, núi Tỳphú-la này xưa kia có tên là Bà-kỳ-bán-xà. Khi ấy thành này tên là Đế-di-la. Dân chúng thời ấy sống tám vạn tuổi. Người dân muốn leo lên núi này, phải đi hết bốn ngày mới đến được đỉnh. Thời ấy có Phật hiệu Ca-tôn Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật. Thế Tôn giảng dạy giáo pháp cho các đệ tử trước sau đều toàn thiện, với ý nghĩa sâu xa, ngôn từ khéo léo, thuần nhất không tạp, đầy đủ hình tướng phạm hạnh thanh bạch. Tỳ-kheo nên biết, hình tướng khi ấy của núi Bà-kỳ-bán-xà nay đã không còn; dân chúng đã chết hết; Đức Phật Thế Tôn ấy đã nhập Niết-bàn; sau đó tuổi thọ của loài người giảm dần. Vì ý nghĩa này, các hành vô thường, là pháp sanh diệt, không đứng yên, không thể tin tưởng, là pháp hư hoại. Thế nên, này các Tỳ-kheo, đối với các hành nên tri túc, sanh tâm nhàm chán, xa lìa ái dục cầu giải thoát.

Này các Tỳ-kheo, vào thời xưa, núi này có tên là Bằng-ca; thành này có tên là A-tỳ-ca. Dân chúng thời ấy sống ba vạn tuổi, người dân muốn leo lên núi, phải trãi qua ba ngày mới đến đỉnh rồi trở xuống được. Khi ấy có Phật Thế Tôn hiệu Cana-hàm Mâu-ni Như Lai, Ứng Cúng ... như trên. Đức Như Lai vì đại chúng giảng thuyết giáo pháp toàn thiện trước sau như nhau, với ý nghĩa sâu xa, ngôn từ thiện xảo, đầy đủ thanh tịnh, hiển lộ hình tướng phạm hạnh. Tỳ-kheo nên biết, sau khi Đức Phật Thế Tôn ấy nhập Niết-bàn, tuổi thọ của dân chúng giảm dần; hình tướng của núi khi ấy đến nay đã mất, người dân không còn nữa. Thế nên, này các Tỳ-kheo, các hành vô thường, là pháp thay đổi, không thể ỷ lại, đều quy về tan hoại. Các ông đối với các hành phải tri túc, sanh tâm nhàm chán, xa lìa ái dục cầu giải thoát.

Này các Tỳ-kheo, ngày xưa núi này có tên là Thiện biên; quốc gia lúc ấy tên Xích mã, dân chúng sống hai vạn tuổi. Khi ấy có Phật ra đời hiệu Ca-diếp Như Lai... đủ mười hiệu như trên, giảng thuyết rộng giáo pháp cao siêu, toàn thiện, trước sau đều có ý nghĩa sâu xa, ngôn từ vi diệu thuần nhất không tạp, đầy đủ hình tướng thanh tịnh của phạm hạnh. Tỳ-kheo nên biết, tên núi Thiện biên đến nay không còn, dân chúng thời ấy nay đã chết hết; Phật Thế Tôn ấy đã nhập Niết-bàn, tuổi thọ của người dân giảm dần. Vì vậy, các hành vô thường là pháp thay đổi, không đứng yên, không thể ỷ vào được. Thế nên, đối với các hành nên tri túc, sanh tâm nhàm chán, xa lìa ái dục, cầu giải thoát.

Hiện nay, núi này tên là Tỳ-phú-la và nước này tên Ma-kiệt-đà, tuổi thọ của dân chúng trong nước trên dưới một trăm. Những người dân muốn lên đỉnh núi, trong thời gian ngắn có thể trở xuống. Ta, Thích-ca Văn xuất hiện trong thế gian, đầy đủ mười hiệu, giảng thuyết cho mọi người vô lượng kinh điển, với giáo pháp toàn thiện, trước sau như một, với ý nghĩa sâu xa, ngôn từ vi diệu, thuần nhất không tạp, đầy đủ tướng phạm hạnh thanh tịnh. Này các Tỳ-kheo, núi này và tên cùng đất nước, dân chúng, không bao lâu nữa cũng sẽ diệt tận. Không bao lâu nữa, Ta cũng nhập Niết-bàn. Vì vậy, các hành vô thường là pháp thay đổi, không đứng yên và không thể ỷ lại, đều quy về tan hoại.

Thế nên, này các Tỳ-kheo, đối với các hành cần phải chí tâm, tri túc, sanh tâm nhàm chán, xa lìa ái dục, cầu giải thoát.

Thế Tôn nói kệ:

Bà-kỳ-bán-xà, Đế-di-la
A-tỳ-ca-la, Bằng-già-ca
Núi tên Thiện biên, nước Xích mã
Núi Tỳ-phù-la, Ma-kiệt-đề
Tên núi không còn, người cũng hết
Phật nhập Niết-bàn, thọ mạng diệt.

Vì ý nghĩa này:

Các hành vô thường
Là pháp sanh diệt
Diệt hết sanh diệt
Tịch diệt là vui.

Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

Kệ tóm lược:

Thành, núi, quá khứ
Không có nơi nào
Chúng sanh không là
Nhiều như giọt mưa
Như bó chổi quét
Ném gậy, xe quay
Núi Tỳ-phú-la.

351.

Bấy giờ, có nhiều Tỳ-kheo an cư vào mùa hạ ở tại rừng trúc, vườn Câu-tát-la.

Trong khu rừng này có Thiên thần ở. Có Thiên thần buồn rầu suy nghĩ bày tỏ:

–Hôm nay là ngày mười lăm, chúng Tăng sẽ tự tứ, sau đó họ sẽ ra đi!

Có Thiên thần hỏi:

–Vì sao bạn ưu sầu đến như vậy?

Và nói kệ:

Này bạn Thiên thần ơi!
Vì sao buồn rầu vậy?
Các Tỳ-kheo giới tịnh
Hôm nay sẽ tự tứ
Được gặp việc như thế
Phải nên tự vui mừng.

Thiên thần trong rừng nói kệ đáp:

Ta biết các vị ấy
Hôm nay sẽ tự tứ
Chẳng phải như ngoại đạo
Không hổ thẹn tội lỗi
Các vị đều tinh tấn
Biết đầy đủ hổ thẹn
Xếp đặt y bát xong
Sau tự tứ, ra đi
Tỳ-kheo ra đi rồi
Rừng này vắng không người
Không còn được thấy nghe
Thế nên tôi buồn khổ.

Sau khi tự tứ xong, các Tỳ-kheo đều ra khỏi rừng, trở về trú xứ của mình. Thấy họ đi tứ tán, Thiên thần cùng buồn rầu áo não, nói kệ:

Các Tỳ-kheo đi rồi
Chỉ còn thấy chỗ ở
Các đệ tử Mâu-ni
Đa văn có tri kiến
Khéo phân biệt đầy đủ
Giảng các pháp thanh tịnh
Bậc trì pháp như vậy
Đang đến ở nơi nào?

Thiên thần khác nói kệ:

Những vị Tỳ-kheo này
Tản mát không đi chung
Người đến Ma-kiệt-đề
Có người về Bạt-kỳ
Lại có vị đang đi
Về nước Tỳ-xá-ly
Nơi A-lan-nhã này
Các Tỳ-kheo tập hợp
Như chim nai hoang dã
Đậu ở không cố định.
Các vị Tỳ-kheo ấy
Xả ly các duyên sự
Thường cầu nơi thanh vắng
Tịnh tọa được an lạc.

352.

Có một Tỳ-kheo đi từ nước Câu-tát-la đến rừng Câu-tát-la, vào ban ngày, ngủ trong rừng ấy. Trong rừng, có vị thần suy nghĩ: “Vị Tỳ-kheo ấy đang ngủ ngày trong rừng, thật không đúng với pháp Sa-môn, làm ô nhục rừng này. Ta nên cảnh tỉnh vị ấy”. Sau khi suy nghĩ, Thiên thần đến chỗ vị Tỳ-kheo, tằng hắng rồi búng ngón tay, nói kệ:

Này Tỳ-kheo hãy dậy
Không nên ham ngủ nghỉ
Người ngủ nghỉ như vậy
Cuối cùng có lợi gì
Thân đang mang bệnh nặng
Tại sao yên tâm ngủ?
Tên độc trong tâm thầy
Cầu nhổ, tại sao ngủ?
Thầy đã được xuất gia
Từ bỏ các duyên sự
Hãy hoàn thành ý nguyện
Đừng để ngủ bao phủ
Mê mờ không tỉnh thức
Mất chí nguyện ban đầu
Bản chất dục vô thường
Thay đổi không đứng yên
Chớp mắt hơi thở đứt
Phàm phu ngu nên đắm
Nay thầy đã xuất gia
Thoát dây trói tại gia
Tại sao thoát trói rồi
Lại còn tham ngủ nghỉ?
Ai chưa đoạn ái dục
Tâm ý chưa giải thoát
Chưa đắc trí tối thượng
Chưa đủ quả chứng này
Không gọi là xuất gia
Vậy tại sao ham ngủ?
Muốn xứng pháp xuất gia
Cần phải siêng tinh tấn
Ngày đêm không biếng nhác
Kiên cố cầu Niết-bàn
Chưa đạt được chí nguyện
Xuất gia để ngủ sao?
Trí tuệ phá vô minh
Diệt sạch các kết lậu
Khéo điều tâm và hạnh
Chứng đạt thân tối hậu
Ai thành tựu như trên
Mới được an tâm ngủ.

353.

Có một Tỳ-kheo ở trong rừng Câu-tát-la, ban ngày ngồi trong phòng phát khởi cảm nghĩ xấu và tham đắm vào đó. Khi ấy vị Thiên thần trong rừng suy nghĩ: “Vị Tỳ-kheo này phát khởi cảm nghĩ xấu và tham đắm vào đấy, thật không xứng với pháp xuất gia; ở trong rừng này mà phát sanh như thế là việc bất thiện. Ta nên cảnh tỉnh vị ấy.”

Sau khi suy nghĩ, Thiên thần đến chỗ vị Tỳ-kheo, nói kệ:

Tỳ-kheo sợ dục ác
Thế nên đến rừng này
Thân tuy ngồi trong rừng
Tâm ý ra khỏi rừng
Chạy theo trần bên ngoài
Phát sanh cảm nghĩ xấu
Ai diệt được tham dục
Sau đó được giải thoát
Đã chứng giải thoát rổi
Mới biết an lạc thật
Thầy nên bỏ giác ác
An tâm tu chánh pháp
Tôi xin cảnh tỉnh thầy
Để thầy chánh niệm lại
Dục như núi ác cháy
Nung khô các pháp thiện
Ác đốt không biết chán
Không bỏ sót chút gì
Đừng tham đắm dục lạc
Bụi dục nhiễm tâm tịnh
Hãy như chim dính bụi
Vỗ cánh rũ bụi nhơ
Tỳ-kheo cũng như vậy
Thiền quán diệt phiền não
Trần cấu đến nhiễm tâm
Chánh niệm trừ diệt được
Ái dục là bụi bặm
Chẳng phải bụi bên ngoài
Dục giác và sân si
Gọi là những bụi trần
Bậc nhiếp tâm có trí
Mới trừ bỏ được chúng.

354.

Có một Tỳ-kheo cũng ở trong rừng Câutát-la, ban ngày ngồi trong phòng, phát sanh tưởng về dục cho là thanh tịnh. Vị Thiên thần biết ý niệm của thầy, vì muốn thầy tỉnh giác, nên nói kệ:

Thầy nghĩ tưởng dục tịnh
Dục giác nuốt trọn thầy
Bỏ tâm dục bất tịnh
Vọng tưởng dục thanh tịnh
Tỳ-kheo thầy đang ngồi
Một mình trong rừng vắng
Phải niệm Phật, Pháp, Tăng
Và giới pháp đã thọ
Tâm được nhiều hoan hỷ
Biết rõ cảnh giới khổ.

355.

Có một Tỳ-kheo du hành đến Câu-tát-la, nghỉ lại trong rừng. Khi ấy giữa trưa, trời nóng bức, nên sanh bực bội.

Tỳ-kheo nói kệ:

Giữa trưa trời nắng gắt
Rừng cây đầy hơi nóng
Muôn chim vì nóng bức
Tự trú ẩn không bay
Trong rừng vang tiếng động
Ta nghe sanh kinh sợ.

Thiên thần trong nghe kệ, nên nói kệ:

Khi giữa trưa nắng gắt
Chim chóc đều đứng yên
Trong rừng vang tiếng động
Thầy nghe nên vui vẻ
Không nên sanh kinh sợ
Nơi này mà sợ gì!

356.

Khi ấy Tôn giả A-na-luật du hóa nơi nước Câu-tát-la, ở trong một khu rừng. Người vợ cũ của A-na-luật, khi còn ở trên trời, đến rừng này, lạy sát chân Tôn giả, ngồi qua một bên, nói kệ:

Xưa, khi còn ở trên trời

Ông chơi giỏi âm nhạc
Lại ca hay múa đẹp
Tùy ý hưởng an lạc
Ông nên phát tâm nguyện
Về Thiên cung của mình
Ở trời Tam thập tam
Cõi này dục phong phú
Thiên nữ luôn vây quanh
Đầy hoan lạc vui thích.

Tôn giả A-na-luật nói kệ đáp:

Thiên nữ thật là khổ
Sống dựa vào thân kiến
Những người ưa sanh thiên
Tất cả đều đau khổ
Ta không còn nẻo hậu hữu

Không sanh trời ấy nữa
Thiên nữ, cô nên biết
Ta không còn tử sanh.

357.

Có một Tỳ-kheo ở trong rừng thuộc nước Câu-tát-la, ngày đêm tụng kinh tinh tấn tu tập chứng quả A-la-hán. Sau khi chứng quả, vị này không tụng niệm tu tập nữa. Thiên thần ở đó nói kệ:

Thầy thường tụng pháp cú
Tinh tấn không bỏ phế
Nay vì sao im lặng
Không tụng niệm gì cả?

Tỳ-kheo nói kệ đáp:

Trước ta tụng Pháp cú
Vì chưa chứng ly dục
Nay ta đã ly dục
Thành tựu nghĩa Pháp cú
Nay ta đã thấy biết
Không còn đọa cảnh giới
Đã giải thoát hẳn rồi
Dùng văn tự làm gì?
Trong thế gian tất cả
Hiểu biết thuộc thấy nghe
Giải thoát, dứt tất cả
Không còn thọ thân sau.

358.

Có một Tỳ-kheo ở trong rừng thuộc nước Câu-tát-la, bị bệnh mắt thấy không rõ, mời thầy thuốc xem bệnh. Thầy thuốc bảo:

–Này Tỳ-kheo, nếu thầy có thể ngửi hương hoa sen thì mắt được sáng trở lại.

Vị Tỳ-kheo tin lời thầy thuốc, nói:

–Tôi lấy hoa sen ở đâu?

Thầy thuốc bảo:

–Nếu thầy muốn có hương hoa sen, nên đến chỗ ao sen.

Vị Tỳ-kheo làm theo lời chỉ dẫn, đến hồ sen kia ngồi ngửi hương.

Thiên thần thấy như vậy nói kệ:

Trong hồ, hoa sen nở
Hương thơm thật ngào ngạt
Thầy không gặp người chủ
Vì sao trộm hương hoa
Như vậy, hiện nay thầy
Thật đáng gọi là trộm
Này Đại Tiên vì sao
Ngửi trộm mùi hương sen.

Tỳ-kheo nói kệ đáp:

Này Thiên thần biết cho
Hoa sen mọc trong hồ
Ta không bẻ phá cành
Và cũng không lấy trộm
Chỉ ngửi hương từ xa
Như vậy thì tại sao
Gọi ta là trộm hương
Ta không nhận lời ấy.

Thiên thần nói kệ:

Trong hồ có hương hoa
Tự ngửi không hỏi chủ
Chưa được người cho phép
Thế nhân gọi là trộm
Đại Tiên, ngài trộm hương
Như vậy đã phạm tội.

Khi ấy có một người đến hồ này, dùng liềm cắt hoa và củ mang đi. Tỳ-kheo nói kệ:

Người kia vào trong ao
Nhổ củ bẻ hoa trái
Giày xéo đạp bừa bãi
Vác bó to trở về
Vì sao không ngăn họ
Nói họ là kẻ trộm?

Thiên thần nói kệ:

Người kia đi vào hồ
Thường làm những nghiệp ác
Người mẹ cho trẻ bú
Mặc y phục màu đen
Tuy có dãi sữa chảy
Nhưng không thấy nhơ bẩn
Thầy như áo trắng sạch
Dễ thấy dính vết dơ
Thế nên tôi ngăn thầy
Mà không thèm ngăn họ
Người ác như áo đen
Làm ác đời không chê
Áo trắng sạch có điểm
Nhỏ như vết chân ruồi
Người đời đều thấy rõ
Như những người hiền trí
Có lỗi rất vi tế
Như vết trên vải trắng
Vết đen trên ngọc kha
Từ xa cũng thấy rõ
Người nào đoạn kết sử
Các nghiệp đều thanh tịnh
Có chút lỗi tí ti
Người xem như gò núi.

Tỳ-kheo nói kệ:

Thiên thần giúp ích tôi
Vì muốn trừ tội lỗi
Theo hiểu biết của tôi
Nhiều cách làm giác ngộ.

Thiên thần nói kệ đáp:

Thầy không thể dùng tiền
Mà mua chuộc được tôi
Không thể phá chỗ tôi
Không thể bắt buộc tôi
Lợi, hại do thầy biết
Ai làm thầy giác ngộ?
Nay thầy nên tự nghĩ
Những việc lợi hay hại.

359.

Một thời Tôn giả Thập Lực Ca-diếp ở trong hang Thê-nê, thuộc nước Câu-tát-la. Có một thợ săn tên Liên-ca giăng bẫy nai cách Tôn giả không xa. Tôn giả vì lòng từ bi nên thuyết pháp cho thợ săn, nhưng người ấy không hiểu pháp. Đầu ngón tay cái của Tôn giả Ca-diếp hiện hào quang, thợ săn tuy thấy nhưng không từ bỏ việc ác ấy, chỉ lo suy nghĩ: “Nai lọt vào lưới này, hay không vào lưới này!”.

Khi đó, vị thần ở hang Thê-nê, nói kệ:

Thợ săn ở rừng sâu
Thiếu trí mắt mù tối
Thuyết pháp chẳng đúng thời
Thật uổng cho lời nói
Dù mười ngón tay thầy
Đồng thời hiện hào quang
Cũng không thể khiến họ
Thấy được Tứ diệu đế
Họ hoàn toàn không trí
Hành động các pháp sai
Không an lạc, thùy miên
Chán ghét, đảo tịnh tưởng
Ca-diếp hãy tu tập
An trụ Xà-lợi-na.

360.

Khi ấy Tôn giả Bạt Kỳ Tử, du hành đến nước Câu-tát-la, trú trong rừng kia.

Khi ấy tất cả dân chúng trong nước đó đều tổ chức đại hội cúng tế sao Câu-vật-đề trong bảy ngày bảy đêm.

Tôn giả Bạt-kỳ Tử thấy như vậy, tâm hơi buồn bã, nói kệ:

Ta ở trong rừng cây
Cũng như cây bị vứt
Ta như cây bỏ đi
Một mình ở góc rừng
Nay đến ngày trăng tròn
Ai chịu khó đến ta?

Thiên thần biết ý niệm của vị ấy, nên nói kệ hỏi:

Thầy đang ở trong rừng
Sao xem như cây bỏ?
Địa ngục tham Đao-lợi
Ham trời, thấy cũng vậy!

361.

Có một Tỳ-kheo du hành đến Câu-tát-la, trú ngụ trong rừng, tu trì cấm giới, cho là đã thỏa mãn, không cầu tiến nữa.

Thiên thần nói kệ:

Không nên với trì giới
Đa văn và thiền định
Sống ở nơi thanh vắng
Nhưng chưa hết các lậu
Vậy không được tự mãn.
Dùng trí làm tổn giảm
Xa lánh pháp phàm phu
Đạt Bồ-đề an lạc.

362.

Tại nước Câu-tát-la, có một Tỳ-kheo tên là Long Dữ trú trong rừng kia, ưa thích pháp thế tục, sáng sớm đi vào làng, chiều tối mới về.

Thiên thần tự nghĩ: “Tỳ-kheo trẻ tuổi này, thích gần gũi với sự ồn ào, sáng đi chiều tối mới về. Ta nên cảnh tỉnh vị ấy”, liền nói kệ:

Vì sao đi quá sớm
Trời sập tối mới về
Xem hình dung tướng mạo
Giống như người tại gia
Thường đi đi về về
Khổ vui như thế tục
Long Dữ, thầy nên biết
Cần phải chánh tư duy
Chớ tham nhà thế tục
Làm hại hạnh thanh tịnh
Hành động hãy cẩn thận
Không bị phóng dật lôi.

363.

Khi ấy có rất nhiều Tỳ-kheo, ở trong rừng thuộc nước Câu-tát-la. Nhiều Tỳ-kheo luôn dao động phóng dật, ít hổ thẹn, thô tháo ngang ngược, không chánh niệm, tâm ý lo lắng, các căn tán loạn.

Thiên thần suy nghĩ: “Pháp của Tỳ-kheo không nên như vậy, đây thật là bất thiện, ta sẽ vì họ nói kệ cảnh tỉnh”.

Thiên thần nói kệ:

Các đệ tử Cù-đàm
Sinh hoạt bằng chánh mạng
Khi khất thực, an trú
Luôn nghĩ đến vô thường
Khi đi, đứng, ngồi, nằm
Cũng nghĩ đến vô thường
Nay tự khó nuôi dưỡng
Bạo ngược tâm loạn động
Cũng như người thế tục
Khất thực cũng ham ngủ
Không chịu ở nhà mình
Thân cận nhà người khác
Như bị người bắt buộc
Cưỡng bức làm Sa-môn
Thật không có tín tâm
Cũng không cầu xuất gia
Giả mặc Tăng-già-lê
Như trâu già mang cày.

Khi ấy các Tỳ-kheo đáp:

–Ông muốn chê bai chúng tôi phải không?

Thiên thần nói kệ đáp:

Ta không nêu dòng họ
Cũng không nói tên họ
Tôi thật kính Tăng bảo
Chỉ chê kẻ có lỗi
Nếu ai sống tinh tấn
Tôi xin lạy sát chân.

364.

Tại nước Câu-tát-la có một Tỳ-kheo sống trong rừng, làm bạn thân với một Trưởng giả.

Bấy giờ Trưởng giả có một người vợ trẻ đẹp. Tỳ-kheo đôi khi cùng cô ta nói ít chuyện. Mọi người đều chê bai cho là phi pháp. Khi Tỳ-kheo nghe như vậy, trong lòng buồn bã, muốn đi vào rừng để tự hoạn.

Thiên thần suy nghĩ: “Tỳ-kheo ấy thật không có lỗi, mà vào rừng này tự hoạn thật là phi lý. Ta nên giúp cho ông ta giác ngộ”.

Thiên thần này hóa ra thiếu phụ kia, đến gặp Tỳ-kheo.

Vị Tỳ-kheo thấy thiếu phụ giả, nói với cô ta bằng kệ:

Như chợ giữa ngã tư
Thật là nơi rộng rãi
Chỉ có lời ô nhiễm.
Giữa nhóm ba bốn người
Tụ tập sanh hủy báng.
Cô biết việc này rồi
Hãy mau đi nơi khác
Chớ nên đứng ở đây.

Thiên thần giả thiếu phụ nói kệ:

Xuất gia nên nhẫn thọ
Lời chê bai hủy báng
Lời phỉ báng không thật
Chẳng nên sanh sầu não
Lời trống chẳng vướng ta
Chỉ là lời hư vọng
Tự tỉnh không lỗi lầm
Không nên sanh khổ não
Nghe chê mà sợ hãi
Làm sao sống trong rừng?
Như con nai hoang kia
Trọn đời chạy không dừng.
Nhẫn được tiếng khen chê
Thiện ác thượng trung hạ
Hành giả có trí thức
Thành tựu đủ chánh hạnh
Không vì lời của người
Thành Mâu-ni hay giặc
Thầy hãy tự xét mình
Đã không có lỗi lầm
Hiền thánh và chư Thiên
Đều biết thầy không lỗi.

Thiên thần nói kệ xong, liền biến mất tại chỗ. Khi ấy Tỳ-kheo ngày đêm tinh tấn tâm không nghỉ ngơi, đoạn trừ phiền não, chứng quả La-hán.



[1] Thiếu một chi tín; xem Tạp 89-A.8.55


[Đầu trang][Mục lục bộ A-hàm][Mục lục tổng quát]