TẠNG KINH
SỐ 84 - PHẬT NÓI KINH PHÂN BIỆT BỐ THÍ
Hán dịch: Đời Tống Đại sư Thi Hộ.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở tại vườn cây Ni-câu-đà, thuộc thành Ca-tỳ-la-vệ, trú xứ của dòng họ Thích, cùng chúng đông đủ Bí-sô.
Bấy giờ, có một vị Bí-sô-ni tên là Ma-ha Baxà-ba-đề mang tấm y mới đi tới chỗ Đức Phật, đến nơi đảnh lễ dưới chân Phật rồi đứng qua một bên, thưa:
–Thưa Thế Tôn, cái y mới này được dệt bằng sợi kim tuyến, chính tay con may ra để dâng lên Đức Thế Tôn. Cúi mong Đức Thế Tôn thọ nhận để cho con mãi mãi được sự lợi lạc lớn.
Đức Phật nói với Ma-ha Ba-xà-ba-đề:
–Di mẫu có thể đem này dâng cúng đại chúng, sẽ được lợi lạc cũng như cúng dường cho Phật không khác.
Bí-sô-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề lại thưa:
–Con vốn phát tâm tạo ra y này là chỉ để cúng dường cho Đức Thế Tôn mà thôi. Cúi mong Đức Phật hãy nhân để con mãi mãi được lợi lạc lớn.
Bí-sô-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề ba lần ân cần thỉnh cầu như vậy, Đức Phật cũng ba lần đáp lại như vầy:
–Hãy nên bình đẳng mà bố thí dâng cúng cho đại chúng, sẽ đạt được sự lợi lạc không khác gì dâng cúng cho Phật.
Lúc ấy Tôn giả A-nan đang đứng hầu bên Đức Phật, thấy sự việc ấy, nên đến trước Phật, thưa:
–Thưa Thế Tôn, Bí-sô-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề này là người thân thuộc, có ân đức lớn đối với Phật. Cúi mong Đức Phật tự biết. Bà đã dâng cúng y, nay đã đúng lúc mong Phật thọ nhận để cho Ma-ha Ba-xà-ba-đề mãi mãi được lợi lạc lớn.
Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Đúng vậy, đúng vậy! Bí-sô-ni Ma-ha Ba-xàba-đề này là người thân thuộc, có ân đức lớn đối với Ta, Ta cũng tự biết như vậy. Chính tự tay bà đã tạo ra y này để dâng cúng cho Ta, đây là việc hết sức khó khăn. Vì sao vậy? A-nan nên biết, nếu có chúng sanh nào có thể khởi lên tín tâm thanh tịnh, quy y Phật, Pháp và Tăng, là điều rất khó.
Lại nữa, người ấy có thể giữ giới pháp của hàng cận sự như không giết hại, không trộm cắp, không dâm dục, không vọng ngữ, không uống rượu... như vậy chúng sanh ấy lại có thể làm được việc khó làm. Huống chi còn đối với Phật, Thế Tôn chắp tay cung kính, thực hành bố thí, đã bố thí rồi, hết lòng tín nơi Phật không chút hồ nghi, đối với Pháp, Tăng-già cũng không hề nghi ngờ, cho đến giáo pháp Tứ Thánh đế là Khổ, Tập, Diệt, Đạo đã vĩnh viễn đoạn trừ mọi nẻo nghi hoặc.
Này A-nan, nay Bí-sô-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề này có thể khởi lên tín tâm thanh tịnh, quy y Phật, Pháp và Tăng, thọ trì giới không giết hại, không trộm cắp, không dâm dục, không vọng ngữ, không uống rượu... tức các giới pháp của hàng Cận sự, rồi còn có thể đối với Phật, Pháp, Tăng cho đến giáo pháp Tứ thánh đế là Khổ, Tập, Diệt, Đạo cũng đoạn trừ mối nghi hoặc. Bí-sô-ni này, việc khó làm mà có thể làm được, Phật cũng tự biết như vậy.
Này A-nan, có mười bốn thứ để sánh so sánh lường tính với sự bố thí. Những gì là mười bốn?
Thực hành bố thí đối với người bệnh khổ. Thực hành bố thí đối với người phá giới.
Thực hành bố thí đối với người khác giới.
Thực hành bố thí đối với người lìa mọi cấu uế nhiễm.
Thực hành bố thí đối với bậc Tu-đà-hoàn hướng.
Thực hành bố thí đối với bậc Tu-đà-hoàn quả.
Thực hành bố thí đối với bậc Tư-đà-hàm hướng.
Thực hành bố thí đối với bậc Tư-đà-hàm quả.
Thực hành bố thí đối với bậc A-na-hàm hướng. Thực hành bố thí đối với bậc A-na-hàm quả.
Thực hành bố thí đối với bậc A-la-hán hướng.
Thực hành bố thí đối với bậc A-la-hán quả.
Thực hành bố thí đối với các vị Duyên giác.
Thực hành bố thí đối với Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác.
Này A-nan, Tôn giả nên biết, bố thí cho người bệnh khổ được phước gấp đôi, bố thí cho người phá giới được phước gấp trăm, bố thí cho người trì giới được phước gấp ngàn, bố thí cho người lìa mọi cấu nhiễm được phước gấp trăm ngàn. Bố thí cho vị Tu-đà-hoàn hướng được phước vô lượng, huống chi là bố thí cho vị Tư-đà-hàm quả. Bố thí cho vị A-na-hàm hướng được phước vô lượng, huống chi là bố thí cho vị A-na-hàm quả. Bố thí cho vị A-la-hán hướng được phước vô lượng, huống chi là bố thí cho vị A-la-hán quả. Bố thí cho vị Duyên giác được phước vô lượng, huống chi là bố thí cho Đức Như Lai, Ứng cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác. Như vậy gọi là so sánh lường tính về công đức của mười bốn thứ bố thí.
Lại nữa, này A-nan, nên biết bố thí cho đại chúng có bảy loại:
Bố thí cho các chúng Bí-sô khi Phật còn tại thế.
Bố thí cho các chúng Bí-sô sau khi Phật diệt độ.
Bố thí cho chúng Bí-sô-ni sau khi Phật diệt độ.
Bố thí cho hai chúng Bí-sô và Bí-sô-ni sau khi Phật diệt độ.
Bố thí cho các chúng Bí-sô đi đến các nơi hành hóa sau khi Phật diệt độ.
Bố thí cho chúng Bí-sô-ni đi đến các nơi hành hóa sau khi Phật diệt độ.
Bố thí cho hai chúng Bí-sô và Bí-sô-ni đi đến các nơi hành hóa sau khi Đức Ứng Cúng Thế Tôn Phật diệt độ.
Như vậy gọi là bảy loại đại chúng cần nên bố thí.
Lại nữa, này A-nan, nên biết có bốn loại bố thí thanh tịnh. Những gì là bốn?
Người bố thí thanh tịnh thì không thấy có người nhận.
Vật được thí thanh tịnh thì không thấy có người nhận.
Người thọ nhận thanh tịnh thì không thấy có người bố thí.
Vật được thọ nhận thanh tịnh thì không thấy có người bố thí.
Này A-nan, sao gọi là người bố thí thanh tịnh thì không thấy có người thọ nhận?
Đó là do người bố thí không chấp giữ nơi hình tướng, nên ba nghiệp nơi thân, khẩu, ý đều thanh tịnh, Chánh mạng thanh tịnh, cái thấy cũng thanh tịnh. Đầy đủ như vậy thì không có hình tướng bố thí, vì không có người thí cho nên cũng không thấy có người nhận. Nếu người bố thí có thấy về hình tướng thì ba nghiệp thân, khẩu, ý không thanh tịnh, mạng cũng không thanh tịnh, cái thấy cũng không thanh tịnh. Nếu xa lìa hình tướng này thì người bố thí và người nhận, cả hai đều thanh tịnh.
Lại nữa, tại sao gọi là vật được thí thanh tịnh thì không thấy có người nhận?
Nếu kẻ thọ nhận thân nghiệp không thanh tịnh, khẩu nghiệp không thanh tịnh, ý nghiệp không thanh tịnh, mạng không thanh tịnh, cái thấy không thanh tịnh, tức có sự chấp tướng nơi đối tượng được bố thí. Nếu người thọ nhận ba nghiệp thanh tịnh, mạng thanh tịnh, cái thấy cũng thanh tịnh, đầy đủ như vậy thì không có chấp tướng nơi đối tượng được bố thí. Do xa lìa hình tướng cho nên đối tượng được bố thí trở nên thanh tịnh.
Lại nữa, sao gọi là người thọ nhận thanh tịnh thì không thấy có người bố thí?
Nếu người thọ nhận mà ba nghiệp thân, khẩu, ý không thanh tịnh, mạng cũng không thanh tịnh, cái thấy cũng không thanh tịnh, thì liền có hình tướng của người thọ nhận. Nếu lìa hình tướng ấy thì không thấy có người bố thí.
Lại nữa, sao gọi là vật được thọ nhận thanh tịnh thì không thấy có người bố thí?
Đó là do người bố thí, ba nghiệp thân, khẩu, ý đều thanh tịnh, mạng thanh tịnh, cái thấy cũng thanh tịnh tức không có vật được thí. Do lìa chấp nơi người bố thí, nên không thấy có người được thọ nhận. Vì vậy đối tượng được thọ nhận thanh tịnh.
Này A-nan, nếu hay biết rõ như vậy, thì đạt được bốn loại bố thí thanh tịnh.
Bấy giờ Bí-sô-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề nghe Phật thuyết giảng rõ về những pháp bố thí rồi, liền đem cái y ấy dâng cúng cho đại chúng và được đại chúng thọ nhận.
Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Ở trong đời vị lai, nếu có các hàng thiện nam... tín tâm, có thể đối với đại chúng khởi tín tâm thanh tịnh làm việc bố thí, thì nên biết kẻ ấy sẽ đạt được phước vô lượng, huống chi ngay nơi hiện tại mà thực hành bố thí.
Tôn giả A-nan và Bí-sô-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề nghe Phật giảng nói như vậy thảy đều hoan hỷ, tín thọ phụng hành.