TẠNG KINH
BỘ MẬT GIÁO (848 - 1420)
VỀ SỰ MỞ MANG CỦA MẬT GIÁO
Đại Thôn Tây Nhai-Nhật Bổn soạn.
Đức Thích Tôn bài xích chú thuật:
Đầu mối chú thuật xâm nhập Phật giáo.
Kinh Phương Đẳng xen tạp mật chú.
Thần vật ngoại đạo nhập vào Phật giáo.
Tượng Phật dần dần xuất hiện và phát triển:
Long thọ chẳng phải Tổ Mật giáo.
Huyền Ký của Kinh Lăng già và Ma-da.
Chú thuật ngoại đạo thâm nhập dần vào Phật giáo:
Phần Mật giáo thuộc Ấn Độ giáo, chứ không phải của Phật giáo.
Xưa, Đức Phật Tỳ-lô-giá-na đem giáo pháp tối Đại thừa là Du-già vô thượng bí mật truyền cho Kim cang tát-đỏa. Được vài trăm năm thì Kim cang tát-đỏa mới chọn được Long Mãnh để truyền thọ.
Lại vài trăm năm sau, Long Mãnh mới truyền cho A-xà-lê Long Trí, cũng được vài trăm năm, Long Trí lại truyền cho A-xà-lê Kim-cang trí. Đó là truyền thuyết về sự phó pháp của Phật giáo bí mật mà xưa nay vẫn được lưu hành rộng rãi trong đời.
Nhưng kiểm xét lại sự ghi chép của chính Kimcang-trí và đệ tử Bất Không của Ngài thì chưa từng thấy có sự truyền thừa nầy, mà sự kiện ấy phát xuất từ “Bất Không Hành Trạng” do đệ tử tục gia của “Bất Không là Triệu Thiện soạn cùng với Bất Không Ảnh Tán” và “Bi Minh Tự” (lời tự trên bia đá) do Nghiêm Dĩnh soạn, và Tam Thập Thất Tôn Xuất Sanh Nghĩa” đại khái giống nhau. “Xuất Sanh Nghĩa” tuy nói là Bất Không dịch nhưng phần bản văn cuối nói là dùng Thệ ước truyền cho A-xà-lê Bất Không Kim cang. Rồi sau, về khoản phó chúc thì không có người nào khác, há Bất Không đã tự ghi vào? Rõ ràng là đồ đệ của Bất Không đã biên thuật. Nhưng Không Hải căn cứ vào đây soạn “Thỉnh Lai Mục Lục, Phó Pháp Truyện và Ngự Di Cảo; Kinh Hải Vân Kim Cương Giới Đại Giáo Vương, Sư Tư Tưởng Thừa, Truyền Pháp Thứ Đệ Ký cũng vậy.
Từ đó đến nay, các sư của hai tông Thai mật và Đông mật y cứ theo thuyết nầy, ấn tín truyền thừa đều căn cứ vào đây. Đạo Thuyên cùng với các sư như Tông Duệ, Chân Ngôn, Nghi Mục … tranh luận, tuy bài xích nói là nó không đủ (yếu tố) để đặt niềm tin (Ngọc An sao, quyển 1), nhưng trải qua bao đời, các nhà tu Mật đã cố nổ lực biện chứng. Do tập quen lâu ngày nên trở thành thuyết thông dụng như thể không lay chuyển được.
Tuy nhiên, đâu phải như vậy! Vị mà được gọi là Tỳ-Lô giá-na đã dùng Phạm ngữ Thiên Trúc thuyết Kinh Đại Nhật Kim Cang Đảnh v.v… mà Mật giáo bắt đầu từ đó truyền bá ở đời, thì đó đâu phải là do bản địa pháp thân vô tướng nói, mà nó có dấu tích, đó là thân dùng Phạm ngữ! Nếu chẳng do Phật Thích-ca nói thì ai có thể nói! Cho nên, Viên Trân, trong bài “Một số nghi văn” viết: Văn tự chơn ngôn là ngôn từ của Phạm Vương, có thể gọi là văn tự tùy phương, còn Pháp thân thì vô ngôn, chỉ “quyền thác thị lý” (phương tiện gởi gắm, chỉ bày chơn lý) sao lại nói đạo lý tự nhiên thành ra văn tự! Vì vậy thân cách Giá-na tuy được ngụy biện bằng nhiều cách, nhưng đứng về mặt hình nhi thượng mà bàn luận và đứng trên sự hiểu biết về lịch sử-tức là sự thật có thể nói được, có thể chỉ ra được-thì không thể không quy về đức Thích Tôn. Cho nên Kinh Quán Phổ Hiền nói: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni gọi là Tỳ-lô giá-na, cùng khắp mọi nơi, trú xứ của Phật gọi là Thường tịch quang. Vị mà trong phẩm Bách Tự Sanh Kinh Đại Nhật (quyển sáu) gọi là Pháp Tự Tại Mâu-ni tức là chỉ cho Đức Thích Tôn. Nhất Hạnh sớ (quyển 18) giải thích: Pháp Tự Tại Mâu-ni, đây là tên hiệu khác của Tỳ-lô-giá-na. Kim Cang Giới Truyền Pháp Thứ Đệ ký cũng nói: Như Lai Tỳ-lô-giá-na tức là Như Lai Thích-ca, đây là Y cứ “thân pháp tánh” mà nói, Kim Cang Đảnh Kinh sớ của Viên Nhân (q3) ghi chép lời của A-xà-lê chùa Đại Hưng Thiện nói: Vị mà đã thành Phật lâu xa trong Kinh Pháp Hoa cũng là Phật Tỳ-lô-giá-na trong Kinh nầy, không thể hiểu khác đi được. Vì vậy, toàn bộ Thai mật cho là Đại Nhật và Thích-ca là đồng thể, chẳng qua là nội chứng, ngoại dụng của cùng một Đức Phật, là sự khác biệt của hai thân Pháp thân, Ứng thân. Tam Thập Thất Tôn, Xuất Sanh Nghĩa thì cho rằng đức Thích Sư Tử được Đại Nhật thọ ký là Kim cang tát-đỏa, hầu như muốn hội thông hai thuyết đồng thể và biệt thể. Nhưng “Biện Hiển Mật Nhị Giáo Luận” của Không Hải thì cho rằng Đại Nhật và ba thân của Thích Tôn khác biệt, nói: Phật Ứng, Hóa không nói cảnh giới của trí nội chứng (Q hạ) bởi vì họ muốn gấp rút dựng lập Mật giáo, nôn nóng tranh hơn thua rõ rệt với Hiển giáo, nên dùng lời lẽ như vậy. Từ trước đến nay, các sư Đông mật mặc dù luôn luôn chấp chặt ý kiến nầy. Nhưng nhận thức của họ về sự tồn tại của Như Lai Đại Nhật chỉ có ở trong tâm hành giả; trong cảnh sở quán của tam muội Mật chắc chắn là có, mà không thể lập chứng là ở ngoài đức Thích Tôn, có Như Lai Đại Nhật xuất thế thuyết pháp giáo hóa trên sự thật. Rốt cuộc, không vượt ra ngoài cách biện luận “thân cách dị đồng”.
Đức Thích Tôn có nói mật chú không? Trưng dẫn sự thật về các phép tụng chú, đốt hương, cúng tế như Mật giáo đã truyền thì đó nguyên là tục lệ xưa nay của bà la môn ở Ấn Độ. Trước đức Thích Tôn, chú thuật Phệ-đà đã thịnh hành ở đời. Đức Thích Tôn chưa từng hành chú thuật, trái lại luôn bài xích chúng . Kinh Trường A-hàm (Q 14) nói: “Như các Sa môn, Bà la môn khác ăn dùng của tín thí, làm những việc chướng ngại đạo pháp, sinh sống bằng nghề bất chánh, hoặc chú bệnh cho người, hoặc tụng ác chú, hoặc tụng thiện chú, hoặc làm nghề thuốc châm cứu …. chữa trị các bệnh. Sa môn Cù-đàm không làm những việc như vậy. Hoặc chú nước, lửa, hoặc chú quỷ thần, hoặc chú Sát lợi, hoặc chú voi, chú an thai, chú an nhà cửa, chú để giải trừ hỏa hoạn, chuột cắn. Hoặc tụng Kinh sách sanh tử, hoặc xem tay, mặt, hoặc đọc sách thiên văn, hoặc tụng sách tất cả âm thanh. Sa môn Cùđàm không làm những việc như thế”. Lại (quyển 16) Lõa hình Phạm chí nói: Tôi nghe Sa môn Cùđàm quở trách tất cả các pháp tế tự. Trong Kinh Ma-đăng-già, mẹ của cô gái Chiên-đà-la bình phẩm đức Thế tôn: “Sa môn Cù-đàm chắc chắn dùng oai lực hộ niệm, vì vậy có thể khiến cho thần chú của ta hoại diệt …. Sa môn Cù-đàm, phước đức sâu rộng, sức của ta chẳng thể sánh kịp. Giả sử khiến cho tất cả chúng sanh trong thế gian đều có chú thuật thì Sa môn Cù đàm vừa khởi niệm là tất cả đều hoại diệt, vĩnh viễn chẳng còn gì”.
Lại, đức Thích Tôn khi độ ba vị Ca-diếp thì Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp ném hết dụng cụ thờ lửa xuống sông Ni liên thiền không dùng nữa (Trích kinh Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả). Đó là sự thật khi đức Thích tôn còn tại thế. Rõ ràng đó là ý nghĩa xây dựng chánh pháp, bài xích chú thuật, dâm tự (thờ dâm) mà ta có thể thấy. Điều nầy cũng như đức Khổng Tử không nói đến năng lực quái lạ, loạn thần, cũng cùng ý nghĩa vậy. Cho nên trong Kinh Tăng nhất A-hàm (quyển 12). Đức Thích Tôn nói kệ:
Nữ nhân và chú thuật
Tà kiến nghiệp bất thiện
Ở đời ba việc nầy
Che giấu mà tối diệu.
Nhật nguyệt chiếu rộng khắp
Lời chánh pháp Như Lai
Ở đời ba việc nầy
Sáng tỏ đệ nhất diệu
Đó chẳng phải là Phật đem việc tụng thần chú so với nghiệp tà kiến bất thiện, trái ngược với việc thuyết giảng chánh pháp hay sao?! Chẳng những vậy, mà ngài còn chế giới luật để cấm tụng chú. Luật Tứ phần (quyển 27) ghi: Bấy giờ, đức Bà già phạm ở vườn Kỳ thọ-Cấp-Cô-độc tại thành Xá vệ, khi ấy có nhóm sáu Tỳ kheo ni tụng các loại chú thuật, tạp nhạp, hoặc chú an thai, hoặc chú Sát lợi, hoặc chú quỉ thần, chú Cát hung, hoặc tập giải biết âm thanh. Khi ấy, các Tỳ kheo ni khác nghe được; trong số đó, có người thiểu dục tri túc, hành hạnh đầu-đà ưa học giới, biết xấu hổ quở trách nhóm sáu Tỳ kheo ni kia, nói: “Vì sao các cô lại tập tụng các loại chú an thai …cho đến tập giải các âm thanh?” Quở trách rồi, đến thưa lại với các Tỳ kheo. Các Tỳ kheo đi đến bạch Phật. Phật nhân nhân duyên nầy tập hợp Tỳ kheo tăng, quở trách nhóm sáu Tỳ kheo ni: “Việc làm của các vị ấy là sai trái, chẳng phải oai nghi, chẳng phải pháp Sa môn, chẳng phải hạnh thanh tịnh, chẳng phải hạnh tùy thuận, việc ấy không nên làm. Tại sao lại tụng tập các loại chú thuật, cho đến … giải biết các âm thanh?” Quở trách rồi, ngài bảo các Tỳ kheo: Các Tỳ kheo ni nầy gieo trồng nhiều hữu lậu, là những người đầu tiên phạm giới. Từ nay về sau, kết giới cho các Tỳ kheo ni gồm mười cú nghĩa, cho đến chánh pháp trụ lâu. Người muốn thuyết giới nên nói thế nầy: “Nếu Tỳ-kheo-ni nào tụng tập chú thuật thế tục thì phạm Ba-dật-đề”. Tỳ-kheo-ni, nghĩa như trên. Chú thuật thế tục là, chú an thai cho đến giải biết âm thanh. “Nếu Tỳ kheo ni tụng tập chú thuật thế tục… cho đến…âm thanh, hoặc đọc thuộc, hoặc cầm văn tụng đọc rõ ràng thì phạm Ba-dật-đề, không rõ ràng thì phạm Đột-cát la. Còn Thức-xoama-na, Sa-di, Sa-di-ni đọc, phạm Đột-cát-la. Đó gọi là phạm. Không phạm là, nếu tụng chú để trị bệnh trùng ở nội tạng, hoặc tụng chú để trị ăn đêm không tiêu, hoặc học sách, hoặc tụng chú thế tục để hàng phục ngoại đạo, hoặc tụng chú để trị độc, để hộ thân thì không phạm. Lại nữa nếu Tỳ kheo ni dạy người tụng tập chú thuật thì phạm Ba-dậtđề”.
Luật Thập tụng (quyển 9) nói: Tỳ kheo đến nói với con người Bà la môn: “Ngươi là dòng giống Bà la môn xuất gia thọ giới làm gì! Ngươi nên học Kinh Vệ-đà, cũng dạy người khác học, tự làm lễ tế trời, cũng dạy người khác làm, học chú ẩm thực, chú rắn, chú đi nhanh, chú Cù-la, chú Kiện-đà-la. Ngươi nên học các chú Bà-la-môn như vậy”. Vì tâm chê bai nên mỗi mỗi lời đều phạm Đột-cát-la”. Như thế đủ để thấy rõ ý chính của Phật.
Trong Phật giáo có việc tụng chú, cúng tế v.v… chính là đều phát sinh sau khi đức Thích Tôn diệt độ. Nhưng (khi còn tại thế) đức Thích tôn cũng không cấm tự tụng chú để hộ thân, hơn nữa, luôn luôn tùy thuận thế tục nói cúng tế lửa là hơn hết (Tăng Nhất A-hàm Q.25). Lại nói: “Chú lửa là Trai tịnh đệ nhất” (Trung A-hàm quyển 41) Lại nói: “Trong pháp Bà la môn, thờ lửa là hơn hết (Kinh Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả). Mới biết khi Phật còn tại thế, chú thuật đã manh nha xâm nhập Phật giáo. Tuy nhiên, Phật đã chế giới cấm chú thuật, nên trong Kinh Tiểu thừa, thì sự xâm nhập rất ít. Đó chính là Phật giáo nguyên thủy mà phần nhiều do Thích Tôn trực tiếp nói. Vì vậy gọi là A-hàm không có Đà-la-ni.
Đến Bộ Đại Thừa Phương Đẳng như những lời luận thuyết chẳng phải Phật nói, đại thể thuộc về những trước thuật của đời sau. Phương đẳng còn gọi là Phương Quảng, nghĩa vốn diễn rộng rõ ràng chẳng phải là lời Phật trực tiếp nói. Vì vậy trong các Kinh điển ấy luôn luôn có mật chú, hễ niên đại càng về sau thì mật chú càng nhiều. Sau đó, không chỉ tụng chú mà còn có các pháp cúng dường, đốt lửa, lập đàn quán tưởng. Lần lượt đầy đủ sự tướng, Mật giáo, mà đạt đến mức hoàn chỉnh.
Rốt cuộc đến nỗi đối với Bà-la-môn giáo, Mật giáo hầu như về mặt hình thức không thể phân biệt được. Thế thì cần phải lần ra dấu vết, làm rõ manh mối. Sau Phật Niết bàn khoảng hai trăm năm, đã thấy có thần vật ngoại đạo xen tạp vào mỹ thuật Phật giáo. Đương thời, ở nước Yết-tuấn-già có vua Ái la (Ai ra) trị vì. Khảo xét về thời kỳ trị thế của vị vua nầy thì sau vua Nan-đà (đồng thời với vua Lịch sơn Hy lạp, nhằm năm cuối cùng của Hiển vương nhà chu) và trước vua A dục (lên ngôi năm thứ bốn mươi lăm đời Noãn Vương nhà chu, chết năm thứ mười bốn đời Tần thủy Hoàng đế). Vua từng là Phật tử, kiến tạo hang đá ở núi Khiếm đồ (Khan da-giri). Nhà điêu khắc của vua là A-nan-đa Tỳ-ha-la (A nan ta vihāra) có khắc tượng Cáttường Thiên từ biển sữa vọt lên. Cát-Tường Thiên là vợ vua Tỳ-nửu thiên thuộc Bà-la-môn giáo, chấp quản sự bình an phước lạc của nhân, Thiên. Tỳnửu, Phạm-thiên và Thấp-phược được gọi là ba ngôi tối thắng của ngoại đạo. Cát Tường Thiên vì phối ngẫu với họ nên cũng được tôn trọng. Truyền thuyết từ biển vọt lên, nguyên phát xuất từ ngoại điển Tỳ-nửu-bổ-la-noa (Visnupurana) v.v… Xưa, Đế thích cùng các thần bị A-tu-la làm khốn đốn, muốn được phước lành trở lại, theo lời chỉ bảo của Tỳ-nửu bỏ một trăm cộng cỏ vào biển sữa, nhổ núi Mạn-đà-la đến, dùng Long vương Hòa Tu Cát quậy phá, cùng A-tu-la ngụy hòa, rồi cùng dẫn rồng đi sách nhiễu, chuyển trục núi quậy phá Biển sữa. Tỳ-nửu. Na tự biến thân làm hình rùa lưng mang núi ấy, dùng làm trục tòa ngồi. Cát Tường Thiên ngồi trên hoa sen trắng, trang hoàng bằng ba mươi ba loại châu báu như cam lồ, tàn nguyệt, cây ba-lợi chất-đa, từ trong biển hiện ra. Voi trắng cõi trời, vòi quấn bình vàng, múc nước sông Hằng, thợ khéo Tỳ-thủ-yết-ma chỉnh trang y phục, rồi khiến trở về Tỳ-nửu thiên. Hình tượng được điêu khắc ở cửa hang núi Khiếm đồ tả hình trạng lúc thọ quán đảnh. Lan can tháp Phạt-cấp đổ điêu khắc hình tượng Dược xoa Câu-tỳ-la. Câu-tỳ-la, đời sau chuyên gọi là Tỳ-sa-môn Thiên, đây cũng là thần của ngoại đạo, bảo vệ phương Bắc thế giới, chưởng quản của báu trong đất, là thủ lãnh của Dược xoa. Dược xoa xâm nhập Phật giáo so với Cát Tường thiên lại lâu xa hơn… Khi Phật còn tại thế Trưởng giả Cấp-cô-độc tạo lập Tinh xá Kỳ-viên có xin Phật được họa vẽ để trang hoàng. Phật đồng ý. Theo họa pháp nói thì hai bên cửa nên vẽ Dược xoa cầm gậy; lại nói ở bên cửa điện Phật, vẽ Dược xoa cầm tràng hoa; ở chỗ nhà ăn, vẽ Dược xoa cầm bánh, ở bên nhà kho, vẽ Dược-xoa cầm châu báu (Tỳ-nai-da tạp sự Q.17). Dược-xoa cũng là thần vật mà dân thường Ấn độ, xưa nay bàn luận đều gọi là “Lương dân” (Punyajana). Dường như Đức Thích Tôn có công nhận sự tồn tại của vị thần nầy.
Bốn cửa của tháp Tam-chi (Sanchistupa) cũng có mười tượng thân Cát Tường thiên. Hai tháp được xây dựng dưới thời vua A dục, nhưng phù điêu trang hoàng trên lan can cửa lại trưng bày tên vương triều Án-đạt-la….
Bấy giờ, tín đồ theo Phật đã tiêm nhiễm thế tục, dần dần phát sinh phong trào sùng kính thần vật ngoại đạo. Nếu không như vậy thì đâu có sự trang hoàng bằng những phù điêu như đây!
Lại xem kỹ các bức họa trang hoàng khác thì vật lễ bái của đệ tử Phật chỉ có Tháp cây Bồ đề, Pháp luân, và các di vật của Phật mà thôi. Trong đồ tượng về truyện Phật, Phật ở chỗ nào thì chỉ căn cứ vào dấu vết bàn chân Phật làm tiêu biểu, chưa từng chạm khắc thành thân Phật. Như vậy, rõ ràng là chưa có tượng Phật. Khi Phật còn tại thế. Trưởng giả Cấp-cô-độc nói, không nên làm tượng thân Phật (Luật Thập tụng quyển 48). Bởi lẽ ấy, sau khi Phật diệt độ khá lâu vẫn không thấy có người tạo tượng thân Phật. Tín đồ theo Phật cho rằng tạo tượng Phật chẳng phải là việc làm kính Phật. Trong thời gian đó chỉ có vua Xuất Ái, vua Thắng Quân đã tạo hai tượng bằng vàng (Tăng nhất A-hàm Q.28) và Trưởng giả Cấp-cô-độc đặc biệt được Phật cho phép tạo ảnh tượng Phật bằng vàng (Tỳnại-da 28), còn cho đời sau khắp để lễ lạy, thì chủ ý lại là việc khác. Vả lại, chưa đến mức lưu hành rộng rãi ở đời. Tuy nhiên khi Phật tại thế, trong Bàla-môn giáo đã vốn có tượng thần có khả năng ban cho người mọi ước nguyện. Có một Cư sĩ cầu tượng thần ấy mà được toại nguyện rất làm hoan hỷ, nên dùng vải lụa trắng bộc thân tượng Thiên thần. Lại Tỳ-nại-da (quyển 41) ghi: “Tạo tượng các quỷ, thần… Nhân đây, thiết tưởng tượng thần ngoại đạo đầu tiên đã du nhập vào mỹ thuật Phật giáo, mà trong đồ tượng về truyện Phật mới bắt chước theo , cho đến điêu khắc tượng thân Phật. Từ đó về sau khắp nơi tạo tượng Phật để lễ bái, chính thật sự manh nha từ phong tục của Bà-lamôn giáo.
Học giả cận đại cho phong cách chế tác tượng đá xưa kia của Kiện-đà-la, có phần tương tự tượng thần của Hy-lạp là Mạn-Lôi, giống như người phương Tây nhìn nhận. Qua đó, cho nguyên nhân chế tác tượng Phật, bắt nguồn từ gốc ở Hy-lạp. Việc này có đúng như vậy không, chưa có thể vội vàng quyết đoán như thế! Từ thời đại vương Lịch sơn đông chinh, trở về sau đến thời hai vua: Chiênna-la-cấp đa (sinh năm 48 đời Hiển Vương nhà chu, mất năm 17 đời Noãn vương) và Tần-đầu-sala (sinh năm 18 đời Noãn vương nhà chu, mất năm 41 cùng đời, sứ thần Tây lý á trú lại nước Ma-yếtđà; vua A-dục cũng thông giao với nước Du-na, nhưng việc chế tác tượng Phật chưa phát triển. Đời vua Cảnh Đế-Tiền Hán vua nước Đại Hạ, Tất-lânđà dốc lòng phụng sự Phật pháp, tiền tệ lưu thông được đúc ra chỉ in hình pháp luân (bánh xe pháp) dùng chữ Hy-lạp đề nghĩa là “Pháp vương” mà chưa vẽ tượng Phật. Đó cũng là dùng hình tượng bánh xe pháp” tiêu biểu cho Phật, giống như ý nghĩa dấu vết bàn chân Phật làm tiêu biểu trước đây. Đến thời vua Hòa-Đế-Hậu Hán, Vua nước Nguyệt. Thị-là Ca Nhị-sắc-ca mới bắt đầu cho in tượng Phật lên bề mặt đồng tiền. Giả sử nói ảnh hưởng tượng Hy-lạp thì sao chậm thế! Đời Minh Đế sai sứ đến Nguyệt Thị mà cống phẩm chỉ có vẽ tranh tượng Phật trên nền lụa trắng. Đến đời Hoàn đế thì mới bắt đầu đúc tượng Phật. Thời Hiến Đế dung hợp tạo tượng tô bằng vàng ròng. Qua khảo sát này thì tượng Phật truyền vào Chấn-Đán (Trung-Hoa) là rất sớm, đâu phải là điều đáng kinh ngạc!
Chi-lâu-ca-sấm, người nước Nguyệt chi, chí hướng tuyên diễn Phật pháp mà du hóa đến LạcDương, từ năm Nguyên niên Kiến Hòa đến khoảng năm thứ ba Trung Binh theo sự nghiệp dịch kinh, sau không biết mất như thế nào (trích Xuất Tam tạng Ký Tập, quyển 13, Cao tăng truyện và Khai Nguyên Lục Quyển 1). Mồng 8 tháng 10 năm thứ hai Quang Hòa, ngài dịch Ban-chu Tam-muội kinh (một quyển. Phương đẳng lại có hai quyển kinh), nói để đạt được Tam-muội thì trong bốn sự là tạo hình tượng Phật. Vua Hoàn. Đế tạo tượng Phật, không phải không có nguyên do. Bởi trong kinh nói thường nghĩ tưởng thân tướng tốt đẹp, hào quang rực rỡ của Phật. Đây há chẳng phải khởi nguồn từ quán Phật tướng mà có tạo hình tượng Phật đó sao? Lại trong kinh Ban chu Tam muội thiết lập hướng Đông thấy Phật, đời sau Mật giáo, Mạn-trà-la phần nhiều lấy hướng Đông làm hướng chính mà chia ra Tây môn. Vị A-xà-lê hướng về Đông tụng chú, tức căn nguyên xuất phát từ kinh này. Chi-sấm còn dịch Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác kinh, A-súc Phật quốc kinh (năm nguyên niên Kiến-Hòa)… trong ấy nói có tám phương thượng hạ vô biên số Phật quốc. Đời sau Mật giáo kiến lập bốn phương bốn vị Phật, trong đó hai vị Phật là A-di-đà, A-súc bắt nguồn xuất xứ từ kinh này.
Long Mãnh ra đời vào thời Tam quốc: Đến đời Tây Tấn Tam quốc, Bồ-tát Long Mãnh ra đời ở Nam An độ. Niên đại ra đời của Ngài tuy còn là vấn đề tranh luận sôi nổi, nhưng nay tạm căn cứ vào bài tựa của Tăng Triệu ở Bách luận thì Đề Bà là đệ tử của Long Thọ ra đời khoảng tám trăm năm sau Phật nhập Niết bàn. Căn cứ vào truyện Ha-lêbạt-ma thì Bạt-ma ra đời khoảng chín trăm năm sau Phật nhập Niết bàn. Lại dựa theo Tây Vực Ký (Q12) thì thầy của Bạt ma là Cứu ma la đà đồng thời với Long Thọ. Vậy thì Long Thọ ra đời bảy tám trăm năm sau Phật nhập Niết bàn. Cho nên Kinh Ma ha ma da (quyển hạ) nói: “Sau (Niết bàn) bảy trăm năm có một Tỳ kheo tên là Long Thọ”. Lại truyện Bồ-tát Long Thọ của La Thập viết: “Từ thời đó đến nay, cách hơn một trăm năm”. Điều nầy rất đáng tin. La Thập trước dịch trong niên đại Hoằng Thỉ đời Diêu Tần. Mà trước đó một trăm năm tức là nhằm thời Vĩnh gia Thái An đời Tây Tấn. Nay lấy tuổi thọ của Long Mãnh giả sử là tám, chín mươi tuổi thì thời gian ngài ra đời phải là đời Tam quốc. Từ khi Phật diệt độ đến thời điểm này là hơn bảy trăm năm. Truyện nói Kim-cang Tátđỏa là một người bảo trì mạng sống có thể giữ gìn Mật giáo, đóng cửa ở trong tháp sắt thuộc Nam Thiên Trúc, đó là chuyện hoang đường, khỏi cần biện bác, Kim-cang Tát-đỏa cũng cùng là nhân vật thuộc loại giả thiết như Đại Nhật. Nếu lấy Đại Nhật Kim-cang Tát-đỏa, Long Mãnh, Long Trí, Kim Trí làm sự truyền thừa tiếp nối thì đó chỉ là hệ thống tư tưởng. Nếu dùng lý mà nói không dùng sự thì không nên nói là “Đích đích tương thừa, khẩu khẩu tương truyền” như thế. Nếu hư cấu về sự truyền thừa để muốn người sau kính tin thì sự nghi ngờ càng chồng chất đối với Mật giáo chẳng có lợi ích gì.
Đức Thích Tôn đã không nói Mật giáo, Đại Nhật, Kim Cang cũng là pháp nhân giả thiết thì không được dùng Long Mãnh làm khai tổ Mật giáo chăng? Tác giả hai bộ Đại Kinh gọi là truyền trì tám Tổ, vậy trừ Đại Nhật, Kim tát ra thì chính là ngài vậy. Tuy nhiên, xem kỹ truyện ký của Long Mãnh thì chưa từng thấy có sự tích Ngài làm khai tổ Mật giáo. Truyện Bồ-tát Long Thọ chép: Bồ-tát Long thọ ra đời ở Nam Thiên Trúc, dòng dõi Phạm chí, thiên tư thông tuệ, trí nhớ vô song. Trong thời kỳ còn bú mớm, nghe Phạm chí tụng bốn Kinh Vệ đà (mỗi Kinh có bốn vạn bài kệ, mỗi kệ có 32 chữ) liền đọc lại văn ấy, lãnh hội ý nghĩa. Lớn lên danh tiếng vang lừng, một mình chu du các nước, các ngành thiên văn, địa lý, đồ vĩ, bí sấm và các đạo thuật đều thông đạt…. Bấy giờ có Bà-la-môn giỏi biết chú thuật muốn dùng năng lực của mình tranh hơn với Long Thọ. Ông ta nói với Vua nước Thiên Trúc: “Tôi có thể chế phục Tỳ kheo nầy. Vua sẽ chứng biết”. Vua nói: “Ông thật là đại ngu si. Vị
Bồ-tát nầy thông minh tuyệt đỉnh, trí tuệ siêu quần. Sao ngươi không tránh đi, lại dám không tôn kính!” Bà-la-môn nói: “Vua là người trí, sao không dùng lý để chiêm nghiệm mà thấy đã chịu khuất phục”. Vua nghe có lý nên mời Long Thọ vào sáng sớm cùng ngồi trên chánh thính điện. Bà la môn đến sau, ở trước chính điện niệm chú tạo thành một ao lớn, dài rộng trong sạch, ở giữa ao có hoa sen nghìn cánh, tự ngồi trên hoa, chế nhạo Long Thọ: “Ngươi ngồi dưới đất chẳng khác loài súc sanh mà cũng muốn tranh luận với ta là bậc đại trí ngồi trên hoa thanh tịnh”. Bấy giờ Long Thọ cũng dùng chú thuật hóa làm voi trắng sáu ngà đi trên mặt nước ao, thẳng đến tòa hoa sen ấy, dùng vòi nhổ lên rồi đưa lên cao, ném xuống đất, Bà la môn bị thương nơi lưng, cung kính quy y Long Thọ. Truyện lại chép việc Long Thọ học thuật ẩn thân, lén vào cung vua, giống như lược truyện trong Nhân Duyên Phó Pháp Tạng. Tây vực ký (quyển 10) chép: Bồ-tát Long Mãnh thông thạo nghề thuốc, ăn bánh dưỡng sinh nên thọ đến một trăm tuổi mà tinh thần và diện mạo không suy. Dẫn Chánh vương đã được diệu được nên thọ cả trăm tuổi. Lại nói: Bồ-tát Long Mãnh dùng thuốc thần diệu nhỏ trên đá, đá biến thành vàng. Những ghi nhận như vậy đều chỉ là truyền tụng khả năng chú thuật của Ngài mà thôi, chứ chẳng chứng minh được Ngài là người khai sáng Mật giáo. Tây vực cầu pháp Cao Tăng truyện (quyển hạ), trong bài tựa Trì minh tạng có chép: Bồ-tát Long Thọ thông suốt cốt lõi của Tạng nầy. Đây chẳng qua là để có thể biết được năng lực tụng chú của Ngài, mà người kết tập Trì minh, tạng chính là Nan-đà đệ tử của Ngài.
Kinh Đại thừa nhập Lăng già, (sáu quyển) ngài Thật-xoa Nan-dà dịch vào đời Đường, chắc chắn thuộc loại thuật tác sau khi Long Mãnh tịch diệt. Kinh ấy nói “huyền ký việc trì nội chứng thừa”, thì đâu đủ để làm tín chứng! Cho đến nội dung huyền ký trong Kinh Ma-ha-Ma-da, không nói rõ pháp hành trì của ngài Long Mãnh tức là Mật giáo. Theo truyền thuyết Tây tạng, Thầy của Long Thọ là Tátla-ha (sasaha) lại chia quy tắc Kinh bí mật thành bốn loại: Tác, Tu, Du già, Vô thượng Du-già. (Kriyā, yoga, Yogānuttara). Lại nói hai Kinh Tác, Tu là do Kim-cang tát-đỏa thọ từ Đại Nhật rồi truyền cho Long Thọ, Long Thọ truyền trì bảy trăm năm, trao lại cho Long Trí. Đó là hệ thống truyền đăng của Lạt ma hữu tông (thuyết của Tuệ Hải ở Hà Khẩu). Nhưng trong những thuật tác của Long Thọ chưa hề thấy có nói đến Mật giáo, Luận Thích Ma-ha diễn, Sớ giải luận Khởi Tín chắc chắn chẳng phải là Mật giáo. Tuy nói là do Long Thọ làm. Tam tạng Phiệt-đề-ma-đa dịch, nhưng Đạm Hải chân nhân, Tam Thuyền Nguyên Khai và Tối Trừng sau nầy đều quyết đoán là ngụy tạo. Vì đó là do tăng sĩ Nguyệt Trung người Tân La soạn.
Tâm Bồ đề Luận cũng nói là Long Thọ tạo (biện thuyết về hai giáo Hiển, Mật), Bất Không dịch nhưng phần chú thích nghĩa dẫn trong các Kinh (Đại Nhật, Pháp Hoa, Quán Vô lượng thọ, Niết bàn v.v…), có phần nói thứ lớp cúng dường pháp trong Kinh Đại Nhật do Thiện Vô Úy soạn. Vậy đâu có chuyện Long Thọ dẫn lời của Thiện Vô Úy ở vào đời Đường được! Vả lại, đầu bộ luận ghi năm chữ: Đại A-xà-lê nói”, có một bản khác ghi là: “Đại quảng trí A-xà-lê nói”. Vì vậy, trong Giáo Thời Nghĩa của ngài An-Nhiên (quyển ba) có nói, hoặc Mục lục ghi: Bồ đề tâm luận, ngày Bất không soạn tập. Xét thấy sách này chính là đệ tử của bất không ghi chép lại lời Thầy mà thôi. Nếu nhìn nhận rõ vấn đề này, thì ai mà không xem thường, phá hoại? Do đó, ngài Viên Trân nói: Bồ đề tâm Luận hoặc nói Long Thọ tạo, hoặc nói Hưng Thiện Tam tạng (Bất Không) soạn tập, đều chưa quyết định rõ. Theo ý riêng thì thuyết sau là thỏa đáng. (Một số nghi văn).
Đến luận Bồ-đề Tư Lương và luận Đại Trí Độ thì đúng là Long Thọ tạo. Nhưng luận Tư Lương chỉ nói nên kính lễ Như Lai, tháp và hình tượng Phật, quét đất lau bụi, cúng dường hương hoa, đèn tràng hoa, phướn, lọng, trổi nhạc, chứ chưa thấy có sự tướng phát đạt của Mật giáo. Ngoài ra, các tác phẩm khác của Long Thọ có luận Thập Nhị Môn (La Thập dịch), luận Trung quán (4q La Thập dịch), luận Thập Bát Không (1q Trần Chơn Đế dịch). Luận Hồi Tránh (1q Tỳ Mục Trí Tiên, Cùđàm-lưu-chi cùng dịch), luận Nhất-thâu-lô-ca (1Q. Cù-đàm-lưu-chi dịch), Bát Nhã Đăng luận kệ,
Phân Biệt Ninh thích (15 q. Đường Ba pha dịch), Khuyến Phát Chư Vương yếu kệ (1q, Tống Tănggià-Bạt-ma dịch) v.v… hoàn toàn không có chút gì nói đến Mật giáo. Đại luận (quyển 10) tuy dẫn Kinh Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nhưng nói tam mật thân, khẩu, ý của Như Lai. Cái gọi là bí mật chính là tùy theo từng loại mà giải thích đó là hóa nghi bí mật mà thôi. A-Tỳ-đàm tạp tập luận của Vô Trước (quyển 6) nói bốn loại bí mật (khiến nhập, tướng, đối trị, chuyển biến), nghĩa là ở trong phần phương quảng, tất cả Như Lai vốn có phần bí mật, phải tùy theo đó mà quyết định hiểu rõ. Ý nghĩa này cũng tương đồng. Nếu Long Mãnh quả thật là khai tổ của hai bộ thuần mật thì cái gọi là hai mật đâu có hạn cuộc trong đó? Lại, Đại luận (quyển 8 nói: “Phật pháp có hai thứ: Một là bí mật hai là hiển thị”. Danh xưng của hai giáo bắt đầu từ đó. Nhưng cái mà đây gọi là bí Mật giáo vốn chỉ cho Bồ-tát thừa đối lại với hiển thị giáo là A-la-hán thừa, nó khác với ý nghĩa của Chơn ngôn mật giáo đời sau, mà ý nghĩa Bí Mật giáo ấy (Bồ tát thừa) rải rác thấy trong khế Kinh thì không phải ít vậy. Kinh Bảo Tích (quyển 8) nói: Mật của Bồ-tát; bí yếu của Như lai, yếu tạng của bí mật Như Lai; nghiệp bí mật của Như lai giáo pháp bí mật của Như Lai. Pháp Hoa nói: Tất cả tạng bí yếu của Như Lai (quyển 6). Sức thần thông bí mật của Như Lai (quyển 5). Kinh Phương Đẳng Vô Tưởng (quyển 3) nói: Tạng bí mật của Như Lai sâu xa như biển lớn. Kinh Niết bàn nói: Bí tạng của Như Lai (Bắc bản quyển .8), Kinh Đại bát (lược), vì vậy Kinh nầy gọi là Tạng Bí mật của Như Lai (Bắc bản quyển 18) Chẳng qua đó đều là lời trân trọng ái kính của các nhà kết tập Kinh. Bí Mật giáo của Long Mãnh cũng đâu có gì được tuyển chọn ở đây!
Thời ấy chưa có Mật giáo rõ ràng là như vậy, chỉ có chú thuật của ngoại đạo là thịnh hành. Thế lực của nó dần dần xâm nhập vào Phật giáo. Đại luận (quyển 9) nói: Có người ngoại đạo có khả năng dùng cây thuốc, chú thuật để trị bệnh cho người. Lại (quyển 57) nói: Như ngoại đạo thần tiên do sức chú thuật mà vào nước không chìm, vào lửa không cháy, trùng độc không cắn. Lại (quyển 8) nói: Các thánh ngoại đạo có các loại chú thuật làm lợi ích nhân dân. Tụng chú nầy, có thể tùy theo ý muốn sai khiến các quỷ thần. Các Tiên nhân vì có chú như thế nầy nên tiếng tăm vang dội nhân dân qui phục quý trọng chú thuật. Lại nói: Trước có Tiên nhân làm ra chú thuật đó là chú có thể biết tâm người, gọi là chú Ức xoa, chú có thể bay đi biến hóa gọi là chú Kiền-đà-lệ, chú có khả năng kéo dài tuổi thọ hơn ngàn vạn năm không có chú nào sánh bằng chú nầy. Đó là tình huống thật sự lưu hành của chú thuật Bà-la-môn. Lúc đầu Phật giáo bị ảnh hưởng bởi chú thuật đó, cũng là việc bất đắc dĩ mà thôi. Sau khi Như Lai diệt độ, trải qua nhiều năm, nhiều nơi chốn, ánh sáng của mặt trời, Phật bị che khuất, giới luật buông lỏng. Đệ tử Phật lại khen ngợi chú thuật ngoại đạo như trên đã nói. Ngoại đạo dương dương nói với đệ tử Phật: Nếu Phật không có chú thuật thì không gọi là có sức mạnh lớn (Đại Trang Nghiêm Kinh Luận). Vì vậy, đệ tử Phật, hoặc có người bài xích chú thuật hoặc có người chạy theo hành trì. Đại Trang Nghiêm Luận kinh của Mã-Minh quyển 1) nói: Than ôi! Chớ thốt ra lời ác, hủy báng nói Phật có chú thuật, đó là hủy báng bậc Tối Thắng, sau sẽ nhận quả báo khổ vô cùng. Lại nói, Như Lai thật có sức đại công đức vĩnh viễn dứt trừ gốc rễ chú thuật, như vậy là bài xích chú thuật. Đại luận (quyển 3) nói: Có người xuất gia học các loại chú thuật, bói toán cát hung. Làm các việc như vậy là sinh hoạt bất tịnh, hạng đệ tử nầy không ít! Lại (quyển 25) nói: Bồ-tát đạt trí vô ngại ấy khi chuyển thân thọ sanh thì tự nhiên biết hết tất cả Ngũ thông, kinh thư, chú thuật, trí tuệ, kỷ năng mà tiên nhân vốn có. Đó là bốn Vi Đà, sáu Ương-già chú thuật. Tưởng như thế thì quả thật Long Mãnh quá khoa trương! Cho nên Đại luận (quyển 57) đem Bát nhã so với minh chú. Để nói về công năng của chú ấy, còn nói: Huống là Bát-nhã Ba la mật là chú thuật mà mười phương chư Phật nhân đó được thành tựu.
Lại (quyển nói, Bát-nhã Ba-la-mật là minh chú lớn là minh chú vô thượng, là minh chú sáng không gì sánh bằng…. Chư Phật quá khứ nương minh chú nầy mà đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chư Phật đời vị lai chư Phật mười phương đời hiện tại cũng do minh chú ấy mà đắc Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác. Nhân minh chú nầy mà thế gian có Thập thiện đạo. Lại nói: trong các chú thuật, Bát-nhã-ba-la mật là chú thuật lớn. Đó là Đại thừa thừa nhận năng lực của thần chú. Sa môn Tiểu thừa cũng có người hành chú thuật, chẳng hạn như thầy của Duy-kỳ-nan. Nan là người Ấn độ, khi ở đời thờ phụng lửa, từng có một Sa môn học theo Tiểu thừa, hành nhiều đạo thuật đến nhà xin trú lại đêm. Vì thờ dị đạo Kỳ-nan kỵ Samôn Thích tử, nên bảo, cho vị sư ấy ngủ ở bãi đất trống bên ngoài cửa nhà. Đêm đến, Sa môn bí mật gia trì chú thuật làm tắt lửa chỗ thờ ở nhà Kỳ-nan. Bấy giờ, cả nhà hoảng sợ, cùng ra mời Sa môn vào nhà cúng dường. Sa môn liền niệm chú, lửa đỏ trở lại. Kỳ nan bèn xin làm đệ tử, phụng thờ Phật pháp, du hóa các nước, từ Tây vực đến Giang. Hữu, vào năm thứ ba Huỳnh Vũ đời Ngô Tôn Quyền, trú tại quận Vũ Xương dịch Kinh. (Khai Nguyên Lục quyển 2, Trinh Nguyên Lục quyển 3).
Như vậy có thể thấy, hai đạo nội, ngoại, hai phái Đại, Tiểu thừa có người sùng thượng chú thuật, lần lần thịnh hành. Tuy nhiên, những người theo Phật muốn khắc phục, duy trì chánh pháp thì xem chú thuật ngoại đạo chẳng qua chỉ là (mánh lới) kiếm sống bất chánh, huống gì đó là việc mà Phật đã cấm chế!
Vì vậy, thời kỳ Long Mãnh, chỉ có bốn tạng là Kinh, Luật, và Tạp (Đại luận 11) nhưng Kinh chú chưa xuất hiện, riêng có Đà-la-ni là đã hưng thịnh. Sự bộc phát của Đà-la-ni: Đà-la-ni, nghĩa là tổng trì, ngoại đạo vốn không có. Chú của ngoại đạo, tiếng Phạm gọi là Mạn-đát-la, lấy sự biểu hiện tư duy ngữ ngôn mà làm nghĩa. Minh, tiếng Phạm gọi là Tỳ-địa-da, dùng trí tuệ làm nghĩa, công dụng của nó hoàn toàn ở chỗ cầu đảo, trấn áp. Đà-la-ni chắc chắn không giống như vậy. Khởi đầu, không hẳn có ngôn ngữ miệng tụng, chỉ có thể là ghi nhớ gìn giữ danh tướng nghĩa lý của các pháp để không quên mất. Mỗi lần nhớ nghĩ phát khởi thì thuyết pháp được vô ngại tự tại đó gọi là Đà-la-ni. Vì thế cho nên nói là đắc Đà-la-ni hành Đà la ni mà không nói tụng Đà la ni. bởi vì trong tâm đã tổng thâu tất cả các pháp. Rõ ràng Đại luận giải thích Đại phẩm Bát-nhã, thì bản Đại phẩm tiếng Phạm tập thành trước Long Mãnh nhưng trong Đại luận có dẫn Kinh Mật tích Kim Cang Lực Sĩ, Kinh Pháp Hoa v.v… Như vậy, hai Kinh đó cũng tập thành trước Long Mãnh cũng quá rõ ràng.
Như kinh Pháp Hoa (phẩm Tựa) nói: Tám vạn vị Đại Bồ-tát đối với quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đều không thoái chuyển, đều đắc Đà-la-ni, nhạo thuyết biện tài, chuyển pháp luân bất thoái chuyển. Kinh Đại phẩm (Phẩm tựa) nói: Đại Bồ-tát đều đắc Đà-la-ni và các Tam muội, hành Không, Vô tướng, Vô tác, đã đắc Đẳng nhẫn, đắc Vô ngại đà-la-ni. Đại luận (quyển 5) giải thích: Đà-la-ni, tiếng Hoa đời Tần gọi là năng trì, hoặc năng giá. Năng trì là, tập hợp các loại thiện pháp có khả năng gìn giữ khiến không phân tán, không mất mát. Thí như vật đựng nguyên vẹn chứa đầy nước, nước không rỉ chảy. Năng giá là, tâm ác bất thiện sanh thì có khả năng ngăn chặn khiến cho không sanh. Nếu sắp tạo tội ác thì ngăn lại khiến cho không làm. Đó gọi là Đà-la-ni. Đà la ni ấy hoặc tương ứng với tâm, hoặc không tương ưng với tâm, hoặc hữu lậu hoặc vô lậu, vô sắc, không thể thấy, không đối đãi thuộc về một trì, một nhập, một ấm. (Pháp trì, Pháp nhập, Hành ấm).
Chín trí biết, (trừ tận trí); một thức biết; (Một ý thức). Theo pháp A Tỳ đàm thì nghĩa Đà-la-ni là như thế.
Lại nữa, Bồ-tát đắc Đà-la-ni, dùng niệm lực có thể giữ gìn không mất tất cả pháp được nghe. …
Phụ lục Tôi có một sư Đệ bên pháp pháp hiệu là Trí Siêu nghe Tây Tạng mật tông nói: “Một đời thành Phật” thì ham, liền vào Phật học viện tại miền Nam nước pháp học liền ba năm ra, tuyên bố không tuyên truyền Mật Tông Tạng vì những lý do sau:
Chắc có người thắc mắc tại sao tôi được tu học với các Lạt ma mà không truyền bá Kim Cang Thừa Tây Tạng? Xin trả lời có nhiều lý do:
Về phương diện thể xác, người Việt nam sống ở vùng nhiệt đới, thể chất gầy nhỏ, không giống người Tây Tạng do to lớn chịu nổi cái lạnh của núi Tuyết Sơn. Phật giáo Việt Nam có quan niệm ăn chay thì khó tập được những pháp môn bí truyền như Trulkor, Sáu pháp du già của Naropa (Naro du già lục pháp) và Mật giáo tối thượng. Nếu chỉ tu theo kinh giáo (Sutrayana) thì ăn chay không có vấn đề gì vì không cần vận dụng khí lực theo các đường kinh vi tế (channel, tsa). Và nếu chỉ tu theo Hiển Giáo thì đâu cần phải theo Tây Tạng vì Đại Thừa Việt Nam đã có nhiều Kinh điển rồi.
Về phương diện nghi lễ, Mật tông Tây Tạng có nhiều nghi lễ phúc tạp. Ở các chùa Việt Nam, những khóa lễ tụng kinh dài lắm chỉ hai, ba tiếng đồng hồ. Nếu lâu hơn thì Phật tử mệt mỏi không còn chú tâm nữa. Trong khi đó các buổi lễ Tây Tạng kéo dài từ sáu đến tám tiếng đồng hồ và kéo dài nhiều ngày, với nhiều khí cụ và lễ vật như toma, kapala, rượu, thị v.v… Những thứ này người Việt lấy đâu ra? Nếu muốn thì phải vào tu ở một tu viện Tây Tạng mới học được.
Truyền lễ quán đảnh (Wang, initiation). Muốn tu theo mật tông Tây Tạng thì phải thọ lễ quán đảnh. Nhưng ai là người có thể truyền lễ quán đảnh? Chỉ có Lạt Ma cao cấp, hoặc tu viện trưởng mới truyền được. Tuy được học và hành trì nhưng tôi không có tư cách để truyền lễ quán đảnh. Như vậy làm sao truyền bá Mật tông? Nếu chỉ truyền vào ba câu thần chú thì kinh sách mật tông Việt Nam đã có nhiều thần chú như Lăng Nghiêm, Đại Bi, thập chú, Chuẩn Đề, v.v…
Điều đặc biệt nhất của Mật giáo vô thượng du già (Anuttarayo-gatantra) là xử dụng năng lượng tính dục (énergie sexuelle) để khai mở luân xa, sạn đạo trong việc giác ngộ. Trong khi đó phong tục, tập quán của người Việt Nam xem sắc dục, tính dục là điều xấu xa, dâm đãng, không phải của người tu hành. Toàn bộ kinh điển Nam tông và Bắc tông đều lên án việc dâm dục. Tóm lại nếu theo Mật Giáo Tây Tạng mà chỉ tụng chú, học kinh điển hiển giáo, hoặc tụng chú, học kinh điển hiển giáo, hoặc các bộ luận của chư tổ Tây Tạng thì cũng tốt, nhưng những thứ này Đại Thừa đã có đầy đủ rồi.
Người ta thường đứng núi này trông núi nọ, chính tôi đã như vậy nên rất thông cảm cho những ai muốn sang núi bên kia. Hãy để cho họ đi rồi họ sẽ thấy có bên kia núi cũng không xanh hơn cỏ bên này. Phật giáo Tây Tạng đương nhiên có nhiều điều đặc biệt, nhưng ta phải xét lại tâm nguyện học đạo của mình. Học đạo để tu sửa, để tích tụ kiến thức, hay luyện thần thông bùa chú? Nếu để tu sửa thì Phật giáo Nguyên Thủy và Đại thừa đã dư đủ pháp môn cho ta rồi.
--------------------------------------
(Trích trong Hoa Vũ tập bốn của Đại Sư Ấn Thuận 1906-2005)
1. Vô thượng Du già, trong Bí mật Đại thừa, có nội dung hết sức phong phú, nhưng có đủ tính chất giống với Tính lực phái trong Ấn độ giáo. Đó là sự bí mật về nam nữ hòa hợp. Nó được chép vào sách “Thế giới Phật học danh trứ dịch tùng” (tập 97) và sách “Ấn độ tư tưởng dữ tôn giáo” (tập 40 trang 104, 105) có nói:
(Đời Đường ngài Huyền Trang đã thấy)“ Đa số khu vực Phật giáo ở phương Bắc và phương Nam đã suy lạc lắm rồi. Sự suy lạc này là do sự kết hợp bất hạnh mà tăng tốc của những ma thuật sùng bái tính lực, với chủ nghĩa bí mật hình thức “sắc tình trong Phật giáo”.
“Tôn giáo Ấn độ có một điểm duy nhất đặc biệt, dù khó thảo luận nhưng nó vẫn dắt người ta chú ý. Tôi chỉ ra đó chính là sự sùng bái lực lượng của Sinh thực, mà thường thấy … là sùng bái nữ thần, nó tồn tại trong nhiều quốc gia. Sùng bái nầy rất nổi trội ở các xứ Ba-tỉ-luân, Tiểu Á, Tế Á, và ở Ai cập dù không nổi trội lắm nhưng nó hiển nhiên vẫn tồn tại. Nghi thức cầu cúng thần linh nầy, tại nhiều quốc gia đều là vết tích ghi nhận trên lịch sử tùy theo văn hóa càng phát triển thì nó càng bị tiêu diệt dần. Chỉ tại Ấn độ và Tây tạng, vốn chịu ảnh hưởng của Ấn độ, bắt đầu từ một trình độ nào đó rồi lưu hành mãi cho tới hiện đại, họ không xem đó là việc xấu hổ! Tập tục ấy, chủ yếu thịnh hành ở Mạnh-gia-lạp và A-tát mẫu (Bengale, Assam) qua trung gian sự sùng bái tính lực. (khu vực này từ trước thịnh hành Vô thượng Du già) mà một ít giáo phái Tỳ-sắc-nữu (Visnu) cũng chấp nhận hành vi buông thả. Cả hai đều bị đại đa số tín đồ Ấn độ giáo có danh tiếng chỉ trích nhưng cũng là điều mà những người thực hành giáo dục có năng lực đã biện hộ.
Những tư liệu vừa dẫn trên, đều rút ra từ quyển sách Sử cương Ấn độ giáo Phật giáo do tác giả người Anh là ông Charles. N.E Eliot viết, ông Lý Vinh Hi dịch ra Trung văn. Từ việc sùng bái nữ thần mà dẫn đến những “ nghi thức tạp nhạp bẩn thỉu, hành vi phóng túng”. Có khi nó bị tiêu diệt bởi sự phát triển của văn hóa, nhưng sự lưu hành phái Tính lực ở Ấn độ, từ Ấn độ truyền vào Vô thượng Du già của Tây Tạng, lại tồn tại trong sự phát triển văn hóa, kết hợp cùng với những lý luận nào đó mà lưu truyền đến nay đều tin cho rằng “hợp nhất với thần”, “tức thân thành Phật”, là những hành vi của thần Thánh. Có người cho rằng tạp nhạp bẩn thỉu đáng xấu hổ, có người cho rằng đó là thần Thánh vô thượng. Hành vi mang tính chất thần bí lưu truyền cả trăm ngàn năm, tôi không muốn luận đoán nó là tốt hay xấu, mà chỉ thuật thêm những gì mình hiểu rõ thôi.
2. Tôn giáo sùng bái nữ thần và Tính lực thần bí là dấu vết sót lại của tín ngưỡng thần bí nguyên thủy trong thời ban sơ văn minh nhân loại đương nhiên nó có những diễn biến theo sự phát triển của văn hóa. Xã hội thị tộc nữ quyền nguyên thủy là người dân chỉ biết mẹ mà không biết có cha. Ai nấy đều được sanh ra từ sinh dục của người nữ, người nữ trở thành trung tâm của thị tộc, và đương nhiên người nữ cũng chính là lãnh tụ của thị tộc. Như sử tích họ Hạ lưu truyền trong thời cổ đại Trung quốc, đã biểu thị rõ ràng một sự thật đó.
Đời nhà Hạ đã bước vào thời người nam là trung tâm, thời đại của gia trưởng là cha, nhưng quân chủ hãy còn xưng là Hậu, như Hậu Vũ, Hậu Khải, Hậu Nghệ .v.v…. Trong văn giáp cốt thì chữ Hậu là hình tượng của người nữ sinh dục con gái. Gọi lãnh tụ là Hậu, thì tên gọi đã biểu thị thời đại nữ quyền. Trong quốc ngữ còn để lại danh từ Hậu Đế. Thời xã hội nguyên thủy, chính, giáo (chính trị, tông giáo) bất phân, Hậu đế trong xã hội nhơn gian cũng là một vị thần trong tín ngưỡng thần bí (tổ tiên thị tộc). Nữ thần trong Hạ tộc chính là Nữ Oa: “Bà Nữ Oa luyện đá ngũ sắc để vá trời xanh, chặt chân con ba ba để lập Tứ cực, giết con rồng đen để cứu vớt cửu châu, chứa tro sậy để ngăn nước chảy lan tràn, sau đó đất bằng phẳng, trời hình thành, không đổi vật cũ” (Lãm Minh trong sách Hoài Nam tử)
Bà Nữ Oa đã xây dựng lại trời đất sau khi nó bị phá hoại. Sách kinh Sơn Hải có nói: “Trong một ngày mà bà Nữ Oa có bảy mươi biến hóa”. Thời nhà Hán trong những phiến đá có khắc bà Nữ Oa và Phục hy (truyền thuyết là anh em gái), đó là hình con rắn và rồng quấn đuôi nhau. Đây là nữ thần được lưu truyền từ thời Trung quốc cổ đại (cũng là lãnh tụ thị tộc). Từ hình quấn đuôi được tạc vào đá ấy, có ý cho hiểu rằng đó là sự thần bí của sinh thực khí nữ tánh; từ trong đó những sinh mạng mới nối tiếp nhau, được đưa ra không dứt. Một cảm nhận thần bí (người xưa cho là thần bí) này khi văn hóa phát triển thì diễn hóa thành đạo học thâm huyền như Lão tử nói: “Hang thần bất tử, đó gọi là Huyền Tẫn. Cửa của Huyền Tẫn là gốc của trời đất”, Huyền Tẫn, Chu Hy giải thích rằng: Huyền là Diệu (hay tuyệt). Tẫn là nhận lấy cái gì đó sinh ra vật (Chu Tử toàn thư, Lão tử).
Nói thật chính xác thì chỉ là ý nghĩa hàm xúc thôi. Chữ Tẫn vốn là bộ Trủy bình thanh, là âm khí của nữ tính (sau này có người tạo thêm một nét là Trủy đồng âm với chữ Truy cũ). Trong động vật, thì đời xưa trâu cái được viết là Tẫn, ngựa cái viết là Truy, Nai mẹ viết là Li, nhưng đời sau viết chung là chữ Tẫn. Con người sơ khởi viết là Tỷ sau viết thành Tỷ trở thành danh từ chỉ Tổ mẫu (bà), mẹ. Thế nên, Huyền Tẫn là nữ âm thâm sâu bí hiểm vi diệu, hình dung bằng đại đạo sinh mãi mãi không dứt. Tẫn thì rỗng bộng bên trong nhưng sinh mãi mãi không thôi, cho nên gọi là “hang thần”. Sách Đại Đới Lễ, Dị Bản Mệnh nói:
“Gò đống là Mẫu (con đực) hang lạch là Tẫn (con cái). Hang là hang lạch, khe nước, bên trong trống rỗng nhưng nguồn nước chảy ra, không hết, nó đồng từ đồng nghĩa với hình tượng Tẫn. Hang thần là cái hang thần diệu, là vĩnh hằng (bất tử). Đó là Tẫn của sự thâm huyền không thể lường được. Nghĩa “hư tĩnh, thủ thư” của Lão Tử là đều căn cứ vào đây mà dẫn ra. Huyền Tẫn là đại đạo căn nguyên của vũ trụ (gốc của trời đất). Nhân loại tiến bộ đến việc thành lập gia đình, vợ chồng kết đôi, đã là thời đại nam tính làm trung tâm, thì lý u huyền cũng chính là “Một âm một dương gọi đấy là Đạo”. Văn hóa mỗi ngày mỗi phát triển mà sự kính sợ thần bí của nữ thần nữ âm nguyên thủy vẫn còn tiềm ẩn trong lòng người lan rộng đến sau. Cho đến tận bây giờ thì Vô cực Thánh mẫu, Vô sanh Lão mẫu” là đạo mà người ta sùng kính xuyên suốt, nó không phải là biến hình của tín ngưỡng nữ thần nguyên thủy.
Sự cảm nhận thần bí của con người thời Nguyên thủy đối với nữ âm vào thời đại người nam là gia trưởng thì đã diễn hóa thành cơ sở cho người nam (nam và nữ) nắm giữ được cái ý nghĩa thần bí của dục lạc. Lý tưởng của loại tôn giáo bí mật này đại loại cũng tức là: Tính lực phái của Ấn độ giáo với thần và người kết hợp làm một, Vô thượng Du già của Bí mật Đại thừa với “tức thân thành Phật” và thuật Phòng trung của Đạo gia ở Trung quốc với đắc đạo lên Tiên. Nghệ Văn Chí, Phương Kỹ Thiên-Hán Thư do ban Cố trước tác vào thế kỷ thứ nhất Tây lịch, nói thuật phòng trung gồm có tám nhà, có thể thấy đời Tây Hán ban đầu lấy tư tưởng Hoàng lão để trị nước, khi đó thuật phòng trung hết sức thịnh hành.
Thuật phòng trung không chỉ là tính giao thông thường mà nó còn là phương thuật riêng nữa. Tư tưởng Đạo gia của Trung quốc, biểu hiện căn bản trong Lão, Trang. Lão tử nói đến Huyền Tẫn là căn bản của trời đất là “gốc rễ sâu chắc bền vững, đạo trường sinh còn hoài”, Trang tử nói đến “Tọa vong” “Hư thất sinh bạch, cát tường chỉ chỉ” (nhà trống sinh trắng, cát tường ngưng và ngưng). Rõ ràng là nó chung với cảnh định (thiền) của thế gian. Năm cuối thời Chiến quốc, đạo Phương sĩ thịnh hành, có thể nói đó là tiếng nói trước tiên của Đạo giáo. Ngoài việc nhờ vào phù lục trị bệnh ra, Đạo giáo còn là một loại cao cấp, có thuốc tiên cầu trường sinh bất lão, chuyên nấu luyện linh đơn, vàng bạc, uống ăn mà cầu sống lâu. Đối với việc tu trị thân thể bản thân Trương Lương thời Hán sơ (thế kỷ II Tây lịch) đã hướng dẫn việc tu không ăn cơm gạo (Sử ký, Lưu hầu thế gia), và cầu Tiên thì hướng dẫn thuật hành khí (vận khí). Thời Hoàn đế Đông Hán, An Thế Cao đến Trung Hoa dịch kinh An Ban Thủ Ý. An ban (ānapana) có nghĩa là hít thở ra vào, là pháp môn dùng sự hít thở tu tập chỉ quán để đạt được định tuệ. Lúc này Đạo gia tu “thổ nạp” (tức hít thở) cũng rất lưu hành. Đời Đông Hán, Trương Hành trong Nhạc Phủ có nói: “Tố nữ là thầy ta, Thiên lão dạy Hiên Hoàng (Huỳnh đế). (Tố nữ là nữ thần tinh về âm nhạc cũng như tinh về thuật tính giao) Vương Sung, trong Luận Hành có nói: “Tố nữ đối với Huỳnh đế bày phép năm nữ”. Trong truyền thuyết của Đạo gia thì Tố nữ (Tiên nữ) đã dạy cho Huỳnh đế tu thuật phòng trung của nam nữ giao hợp. Nhờ vậy Huỳnh đế mới đắc đạo mà lên trời Đạo gia. “bày phép năm nữ” của Đạo gia thì trong Vô thượng Du già có thể nhiều đến chín người. Từ Lăng trong “Đáp Chu Xứ Sĩ Thư” nói “Nhàn tản cúi ngước hết mực kinh văn Tố nữ, thăng, giáng, doanh, hư, tận đồ lục Hiên Hoàng “Cái thăng, giáng, doanh, hư của Tố nữ thuật phòng trung ấy há không đúng là đề, giáng, thâu, phóng của Vô thượng Du già đó sao?
Sự thần bí của việc nam nữ giao hợp, nhất định phải tu gió là hít thở, vận khí thông mạch. Khi giao hợp có thể giỏi đề, giáng, thâu, phóng tinh dịch tự tại mới được. Một thứ tu luyện này của bọn Phương sĩ Trung quốc tồn tại ở đời sau gọi là “Thiên sư đạo mà khởi nguồn ở cuối đời Hán với ba ông Trương có khẩu hiệu Thái bình đạo hoặc đạo năm đấu gạo (Ngũ đẩu mễ đạo). Đầu thế kỷ thứ năm Tây lịch, Đạo sĩ Khấu Khiêm Chi thời Nguyên Ngụy truyền ra “Vân Trung Âm Tụng Tân Khoa Chi Giới” và bao gồm những sách biên vào “Đạo tạng” như Đổng Thần bộ, Giới luật loại, được gọi là Lão Quân Âm Tụng giới Kinh. Sách Ngụy Thư, Thích Lão Chí, có dẫn văn nói rằng:
“Giới Kinh này của Ta (Thái thượng lão quân tự xưng) từ khi trời đất được mở mang tới nay, không truyền ở đời. Nay vận số đã phát ra, ngươi hãy tuyên nói môn học mới của ta, để chỉnh đốn làm trong sạch lại Đạo giáo, xua trừ ngụy pháp của ba ông Trương, chủ trương thuế gạo tiền thuế và thuật nam nữ giao hợp. Đại đạo trong sáng, rỗng rang, há có chuyện như vậy sao? Phải chuyên đem lễ độ làm hàng đầu, rồi thêm vào bằng ăn uống bế luyện”.
Ba ông Trương là Trương (Đạo) Lăng, Trương Hành, Trương Lễ. Năm cuối đời Đông Hán, trào lưu Đạo giáo rất mực hưng thịnh. Như (giặc Huỳnh Cân), Thái bình đạo của Trương Giác, “Đạo năm đấu gạo” của Trương Tu đều cùng chung thanh khí với Trương Lỗ. Trương Lỗ là cháu của Trương Lăng, kế thừa phù lục (sách bói toán v.v…) của Trương Lăng, trị bịnh đuổi quỷ. Người tin theo Đạo giáo mỗi năm bắt nộp năm đấu gạo, gọi là gạo tế trời. Đó là điều mà Khấu Khiêm Chi đã nói: Ngụy pháp của ba Trương, thuế gạo thuế tiền. Nói thuật nam nữ hợp khí ấy chính là thuật phòng trung. Theo sách “Lão quân âm tụng giới kinh” nói, thì lúc ấy “Dâm phong đại hành, tổn nhục Đạo giáo”. Khấu Khiêm Chi phải quét trừ ngụy pháp của ba ông Trương mà thành lập Thiên Sư đạo mới với chủ trương: Đem lễ độ làm hàng đầu rồi thêm vào bằng ăn uống bế luyện. Lễ độ là lễ nghi pháp độ, cung kính làm theo lễ giáo của Nho gia. Ăn uống bế luyện là hướng dẫn, phục khí (điều trị khí), tịch cốc và thuật trường sanh nấu luyện tiên đơn. Từ các dẫn chứng đã nói, có thể thấy thuật nam nữ thần bí đã được lưu hành rất rộng trong Thiên sư đạo. Người theo Đạo giáo từ bấy lâu không hề bỏ một phương thuật nào mà chỉ là thêm ẩn mật một chút. Vào đời Đường (Đạo giáo)Nam tông trong thiên “Ngộ chân” cũng vẫn là nằm trong thuyết “Gốc tại nhà kia” chứ!
3/ Đức Thích-Ca Mâu-Ni khai sáng Phật pháp đầu tiên tại Ấn độ với mục đích cuối cùng là giải thoát. Về việc nam nữ của đệ tử tại gia thì sinh hoạt vợ chồng chánh đáng bình thường đều phải tuân theo phép nước cũng như luân lý xã hội đã chấp nhận; đệ tử xuất gia thì phạm hạnh ly dục, nghiêm trì giới hạnh không được phi phạm hạnh, (dâm dục). Người tại gia hay xuất gia đều có thể do tu hành mà được giải thoát. Nhưng vì sao tại gia sống đời có vợ chồng, còn xuất gia thì phải giữ giới không được phi phạm hạnh? Điều đó, sẽ được giải thích ở cuối thiên sách này.
“Ăn sắc là tính” , con người luân chuyển trong sanh tử, đúng là có bản năng và nhu cầu cần thiết ấy. Bởi có loại nhơn tính hướng hạ, (không hoàn thiện) nên Phật pháp trong thời kỳ phát triển lần hồi đều có loại tương tợ như Tính lực phái (Sakta) của Ấn độ, và thuật phòng trung của Đạo gia Trung quốc xuất hiện. Ban đầu lưu hành tiềm ẩn, hoặc biểu thị bằng thần bí ám muội, đến thế kỷ thứ tư , năm Tây lịch thì mới dần dần lưu hành công khai hẳn hoi. Trong đây, trước tiên nêu ra một Kinh, một Luận, một sự thật, một truyền thuyết, để thuyết minh vấn đề này.
Một Kinh đó chính là Kinh Bất khả tư nghì giải thoát, được biên vào phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm. Phẩm Nhập Pháp Giới được đưa vào Trung quốc rất sớm. Đại Trí độ Luận của Ngài Long Thọ thường dẫn dụng phẩm ấy, và nó được tập thành vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai Tây lịch. Phẩm Nhập Pháp Giới, thuật lại quá trình Thiện Tài (Sudhana) đồng tử tham phương cầu học với thiện tri thức. Trong số thiện tri thức đó có một vị là Bà-tu-mật-đa ( Vasumitra) là nữ Bồ tát xinh đẹp nhất. Công đức trang nghiêm của Bà-tu-mậtđa, có thể nói là dùng sắc tướng để độ chúng sanh , như phẩm Nhập Pháp Giới trong Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh (quyển 68) bản dịch đời Đường, nói: “Nếu trời thấy ta, thì ta là Thiên nữ hình mạo sáng rực tuyệt đẹp không ai sánh bằng. Như vậy, cho đến người, phi nhơn v.v… mà trông thấy ta thì ta bèn hiện thân người và phi nhơn nữ, tùy sự ước muốn của họ, ta đều giúp cho được trông thấy hết. Nếu có chúng sanh bị ý dục trói buộc đi đến chỗ ta thì ta sẽ nói pháp cho. Kẻ ấy nghe pháp xong, thì lìa được tham dục ngay”.
“Nếu có chúng sanh vừa thấy ta thì họ lìa tham dục, … vừa nói chuyện với ta … Hoặc có chúng sanh vừa nắm lấy tay ta thì lìa tham dục”.
“Nếu có chúng sanh vừa ngồi trên tòa (giường) của ta … vừa nhìn ta … thấy ta duỗi tay nhiều lần … thấy ta nháy mắt… ôm lấy ta… Nếu có chúng sanh hôn lên môi ta… thì họ lìa tham dục”.
“Hễ chúng sanh gần gũi bên ta, cả thảy đều được trụ vào bờ bến lìa tham, bước vào Nhất thiết trí địa của Bồ tát, hiện tiền đạt vô ngại giải thoát…” Căn cứ vào kinh văn nói thì đây là một cánh cửa phương tiện của đại Bồ tát hóa độ chúng sanh. Bà-tu-mật-đa là Thiên (thần) cũng là người (và phi nhơn) là nữ Bồ tát của Thần, người hợp nhất. Ngài vì nói pháp cho chúng sanh nam tính, giúp họ lìa bỏ tham dục, chẳng những nói pháp mà còn nắm lấy tay, ôm ấp, hôn môi v.v… để khiến chúng sanh nam kia lìa tham dục. Theo truyền thuyết Phật pháp, chúng sanh không cùng loại, có việc dâm cũng bất đồng, như hai hai giao hội, ôm nhau, nắm tay, ngó nhau mà cười, mắt chăm chú nhìn nhau v.v… đều có thể thỏa mãn việc dâm mà nhiệt não bèn dứt (Luận Du già sư địa quyển năm). Chúng sanh thông thường khi đã thỏa mãn việc dâm rồi, nhiệt não bèn dứt, nhưng không lâu lại có đòi hỏi dâm dục đốt nóng lên. Bà-tu-mật-đa có thể không đồng, từ ngó, nắm tay, ôm ấp, hôn v.v… nhờ vậy giúp chúng sanh vĩnh viễn lìa tham dục.
Đây rõ rằng là pháp môn “Lìa dục bằng dục” và Vô thượng Du già (anuttara-yoga) của bí mật Đại thừa khởi sau này dù hai bên không nhất trí hoàn toàn, nhưng đã truyền đạt tới cùng tin tức là từ trong dâm dục lìa dục. Đặc biệt ở đây có một vấn đề, Bà-tu-mật-đa là người “hiểm nạn” địa phương. Hiểm nạn tiếng Phạm là Durga-Đột-già chính là biệt danh của Ô ma (U mã), Thiên Hậu, Thấp-bà (Siva), Tự tại thiên trong Ấn độ giáo. Đột già vốn tồn tại trong Thần giáo Ấn độ rất sớm. Về sau từ phái Thấp-bà chia thành Tính lực phái, đó là coi Durga là thần chúa. Lại nữa, chữ “Bà-tu” của Bà-tu-mật-đa, hoặc dịch là Bà-tẩu, là tiếng chỉ chung một bộ phận Thiên thần của Ấn độ. Bà tẩu Thiên, Bà tẩu Thiên nữ, Bà tẩu đại tiên các tên gọi ấy thường gặp trong giáo điển của Bí mật Đại thừa. Bà tẩu là Thiên (thần). Mật-đa dịch là Hữu (bạn). Do vậy, Bà-tu-mật-đa có thể giải thích là bạn gái của thiên thần. Đột già và Bà-tu-mật-đa xuất hiện ở phẩm Nhập Pháp Giới trong pháp môn lấy dục lìa dục, quyết không phải là chuyện ngẫu nhiên, mà cùng với Vô thượng Du già và Tính lực khởi lên sau này, nó có một mạch tương thông quan hệ nhất định. Phẩm “Nhập pháp giới” viên dung vô ngại đã dung nhiếp một pháp môn bí mật này, nhưng ở người học Phật thông thường thì trong tâm, mắt họ có ít nhiều đúng, sai không thể phân minh, cảm giác chánh, tà khó nói thông.
Một luận là A-tỳ-đạt-ma-Tập luận do Bồ tát Vô Trước (Asanga) tạo ra vào thế kỷ thứ tư Tây lịch. Nơi tập luận quyển thứ bảy phẩm Luận Nghị trong phần Quyết trạch, luận đến “Bí mật quyết trạch”, dẫn kinh nói rằng:
“Lại khế kinh nói: Đại Bồ tát thành tựu năm pháp, gọi là người phạm hạnh thành tựu phạm hạnh thanh tịnh bậc nhất. Những gì là năm?
1/ Thường cầu lấy dục lìa dục.
2/ Bỏ đoạn trừ pháp dục.
3/ Tham dục sanh rồi, thì phải kiên trì. 4/ Sợ đối trị pháp dục.
5/ Hai hai thường gặp.
Hai hai thường gặp, nguyên văn, viết lầm thành “thường ăn”, căn cứ “Tạp Tập luận” quyển sáu, cải chính. Năm pháp mà kinh trên nói, nếu theo văn mà giải thích thì một là cầu pháp môn từ trong dâm dục lìa dục; hai là không dùng pháp môn đoạn dục thông thường; ba là như dục tham đã sinh khởi rồi phải một mực kiên trì bỏ; bốn là chán ghét pháp môn đối trị tham dục. Năm là nam nữ thường giao hợp. Phật pháp vốn là tu phạm hạnh ly dục, như vậy kinh dẫn ấy đúng là trái ngược nhau. Không dùng đoạn dục, trái lại còn xưng là phạm hạnh thanh tịnh bậc nhất. Loại nói này không hợp với ngữ ngôn của Phật pháp chánh đạo. Như nói “nghịch hại cha và mẹ, vua và hai đa văn, tru quốc và tùy hành, nói kẻ ấy thanh tịnh” (Tập luận quyển 7). Nên giải thích thế nào đây? Ngài Vô Trước trong Tập luận quyển sáu, lại gọi đó là sự chuyển biến bí mật (rinammanabhisamdhi) Có ý nói: Ngữ cú ẩn mật, không thể căn cứ văn nghĩa thông thường mà giải thích, phải chuyển biến ngược lại để giải thích, mới khỏi gây hiểu lầm. Như “hai hai thường gặp” thì trong A tỳ đạt-ma Tạp tập luận quyển mười sáu giải thích: “Đối với nhân, quả nhiễm tịnh khác nhau trong bốn Chân đế, lấy hai đạo thế, xuất thế, hai đạo Xa ma tha (chỉ) Tỳ bát xá na (quán) thường thường chứng hội”. Thời đại của Vô Trước, Thế Thân (Vasdlbandha), pháp môn lấy dục lìa dục đã bắt đầu lưu hành, đó chính là mật pháp về nam nữ hòa hợp của Vô Thượng Du già. Một pháp môn bí mật vô tình hé lộ rất sớm, và tồn tại đường hoàng trong Phật pháp nhưng vẫn không thể được dung nhận. Thế nên, Vô Trước đã làm luận quyết trạch thuyết bất liễu nghĩa của Bí mật đó.
Đời Đường, Ngài Bất Không đến Trung-Hoa năm 746 Tây lịch, dịch “ kinh Nhất Thiết Như Lai Chân Thật Nhiếp Đại Thừa Hiện Chứng Đại Giáo Vương”. Trong “Quảng bổn” một vài lần nói đến Liên hoa (hoa sen) cùng hợp với Kim cang chữ (chày Kim cang) đây nói đó là tối thượng lạc v.v…” Ngài Bất Không biết rõ, cho nên trong cuốn “Đại lạc Kim Cang Bất Không Chân Thật Tam muội-da kinh Bát-nhã Lý Thú Thích” quyển hạ, Ngài nói: “ Tưởng mười sáu vị đại Bồ tát, lấy kim cang của mình (nam căn)cùng hoa sen kia (nữ căn) hai thể hòa hợp, thành là định, tuệ. Thế nên, trong Quảng phẩm Du già, mật ý bảo hai căn giao hội, năm trần thành đại Phật sự”. Ngài Bất Không không nói thật thể của nam nữ hòa hợp mà nói quán tưởng nam nữ hòa hợp tu thành định tuệ tương ưng. Nói hai căn giao hợp là mật ý cùng với Vô Trước nói có phần tương đồng. Thật sự, vào thời đại Bất Không, Vô Thượng Du già của Ấn độ với pháp môn nam nữ hòa hợp tức thân thành Phật đã khá thịnh hành rồi. Ngài Bất Không giải thích như vậy, có lẽ cảm thấy không hợp với quan niệm luân lý của Trung Quốc, sợ đưa đến những chướng ngại nên cố ý nói như thế thôi!
Một sự thật: Theo sử Phật giáo Trung quốc, Ngài Đàm Vô Sấm là một Đại sư phiên dịch lỗi lạc.
Kinh Đại Bát Niết bàn bản do Ngài dịch, quyển bảy và quyển hai nói: “Phật pháp có ngã, ngã ấy là Phật tính, ngã tức là Như Lai tạng, hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đó là nghĩa ngã”. Vào thời đại Phật pháp Đại thừa hậu kỳ luận đề trọng yếu chính là Như Lai tạng, Ngã, Phật tánh mà trong những sách kinh Đàm Vô Sấm dịch đã nói rõ đầy đủ. Ngoài kinh Đại Niết bàn bản, bốn mươi quyển Ngài còn dịch Đại Phương Đẳng Đại Tập Kinh, Đại Phương Đẳng Đại vân Kinh, Kim quang Minh kinh, Bồ tát Địa Trì Kinh, Du Già Sư Địa luận, Bồ tát địa, cổ dịch, Ưu bà tắc giới kinh v.v… . Đại thừa hậu kỳ khai triển tại Trung quốc, thì Đàm Vô Sấm đã có nhiều cống hiến, Ngài dịch kinh ở Cô Tàng đời Bắc Lương, nhờ sự hộ trì của Thư Cừ Mông Tốn hộ trì. Căn cứ các ký, ghi nhận có thể thấy, niên đại dịch kinh của Ngài từ đời Bắc Lương, năm thứ ba niên hiệu Hoằng Thủy (414 Tây lịch) trải qua mười lăm năm mới thôi (426 TL) Đến năm thứ nhất niên hiệu Vĩnh Hòa (433) thì Đàm Vô Sấm chết, thọ bốn mươi chín tuổi. ĐàmVô-Sấm là người Trung Thiên Trúc, có người bảo là người Kế Tân.
Trong các Ký lục của Phật giáo thì Đàm-VôSấm là một vị thông hiểu về chú thuật, mọi việc nhắm làm đến đều có ứng nghiệm, Tây vực gọi Ngài là Đại chú sư ( Xuất Tam tạng Ký tập, quyển mười bốn Cao Tăng truyện, quyển hai). Trong Xuất Tam Tạng ký tập nói: Đàm Vô Sấm đi theo Quốc vương vào núi, Quốc vương khát nước, Đàm Vô Sấm trì chú, làm cho đá khô chảy nước ra; cố ý nói đó là do ân nhuần của Đại vương đã cảm ra như thế”. Dương nhiên Quốc vương hết sức mừng rỡ, cũng là tôn sùng Đàm Vô Sấm. Nhưng trải thời gian lâu, quốc vương bạc đãi Ngài, bởi thế Đàm Vô Sấm suy nghĩ đọc chú cho rồng vào bình, làm cho thiên hạ hạn hán, sau đó thả rồng tuôn mưa xuống thì liền được quốc vương ưu đãi trở lại. Sự việc ấy bị lộ ra ngoài, quốc vương muốn giết, Ngài bèn chạy trốn đến Tây vực (phần này tương đồng trong Cao Tăng truyện). Đàm Vô Sấm đã vì muốn có được sự ưu đãi, cúng dường sung túc của quốc vương mà, không tiếc thiên hạ bị đại hạn, hại khổ vô số người dân; từ lập trường Phật pháp tại nhơn gian mà nói thì hành vi và tâm thái của Đàm Vô Sấm là tà ác bỉ ổi biết bao! Cái thần nghiệm vô địch của một vị Đại chú sư không liên can gì tới Phật giáo thuần chánh! Thật ra, Đàm Vô Sấm với hành vi tà vạy ấy, còn vướng mắc nhiều đấy, như Ngụy Thư (q.99). Liệt Truyện (quyển 87) Thư Cừ Mông Tốn truyện thuyết:
“Bắt đầu, Sa môn nước Kế Tân là Đàm Vô Sấm từ Đông truyền vào nước Thiện Thiện, tự nói mình có thể sai quỷ, trị bệnh, làm cho người nữ có nhiều con. Sau, cùng em gái vua nước Thiện Thiên là Mạn đầu đà lâm tư thông, bị phát giác bèn trốn đến Lương Châu, Mông Tốn sủng ái, gọi Ngài là Thánh nhân. Đàm Vô Sấm dạy thuật nam nữ giao tiếp cho các phụ nữ, con gái của Mông Tốn cũng theo học pháp với Ngài.
Bắc sử (quyển 97) nói cũng vậy. Đàm Vô Sấm sai khiến quỷ thần, trị bệnh, là thường thôi, mà đặc biệt là thuật nam nữ giao tiếp, dạy cho phụ nữ có thể sinh con như ý muốn. Cái thuật nam nữ giao tiếp tức chính là sự nam nữ hòa hợp của Vô thượng Du già của “hai hai giao hội”. Nhưng trình độ của Đàm Vô Sấm tu đạt đến mức độ nào thì không thấy nói đến; ly kỳ nhất là chuyện con gái của Mông Tốn Thư Cừ, đều theo Ngài học tập.
Lại trong Bắc sử (quyển 97), Liệt Truyện (quyển 81), “Tiềm Ngụy Phụ Dong” nói: Mông Tốn bản tánh háo dâm, tàn nhẫn thích giết chóc , trong khuê đình không có kỷ cương phong cách. Sự dâm loạn, nghi kỵ, tàn khốc là tính cách của Mông Tốn. Thư Cừ là họ vốn người Hồ, trước làm quan Hung Nô, hiệu là Thư Cừ, nhân đó lấy làm họ. (Thông chí. Thị tộc lược). Dâm loạn, tàn nhẫn, không có lễ nghi phép tắc trong khuê đình đúng là giống với người Hồ của thời đại văn hóa thấp kém thô bạo. Trong khuê đình không có kỷ cương phong cách, đó chính là cảnh con gái, con dâu đều theo Đàm Vô Sấm học thuật “Nam nữ giao tiếp. Tính cách háo dâm của Mông Tốn tuy không có văn chứng minh nhưng e rằng cũng học từ Đàm Vô Sấm. Học tập và có bắt chước mới hết lòng sủng ái Đàm Vô Sấm mà tôn sùng gọi là Thánh nhân. Trước khi đến Lương Châu cũng chính bởi vì truyền bá học thuật ấy mà đã tư thông với em vua là Mạn-đầu-đà-lâm. Vua Thiện Thiên nữa tin nữa ngờ phân xử. Ngài mới chạy trốn đến Lương Châu. Danh từ “tư thông” ít nhiều xuất xứ từ quan niệm luân lý xã hội, nhưng nếu ở những khu vực có nền văn hóa thấp kém, lạc hậu, có tập quán thần bí tín ngưỡng thì việc làm của em vua kia, chính là cúng dường cho sự tu hành của thượng sư đấy chứ!
Đàm Vô Sấm bị giết chết, nguyên nhân cái chết, theo Cao Tăng truyện của Phật giáo nói: Đời Ngụy, Thái Võ Đế biết phép thuật của Đàm Vô Sấm nên nhiều lần phái người đến yêu cầu Thư Cừ Mông Tốn để Đàm Vô Sấm về Bắc Ngụy. Mông Tốn vừa sợ Đàm Vô Sấm dùng chú thuật giúp Bắc Ngụy thêm thế lực, phần sợ đắc tội với Thái Võ Đế. Đàm Vô Sấm hiểu rõ tình cảnh khó xử đó bèn lấy danh nghĩa đi Tây Vực cầu Kinh mà bỏ đi. Mông Tốn bèn phái người theo giết. Nhưng “Bắc sử” lại nói như vậy: “Thái Võ Đế nghe các người hành đạo ca ngợi pháp thuật của Đàm Vô Sấm, bèn mời đến. Mông Tốn không muốn cho đi bèn thổ lộ mọi chuyện của Ngài, mà truy cứu giết đi”. Mông Tốn quả thực là người dâm loạn, nghi kỵ, tàn ác, hiếu sát. Không muốn Đàm Vô Sấm đi, cũng không dám lưu giữ, trước tình hình khó xử bèn rêu rao Đàm Vô Sấm là ô uế nhiễu loạn cung đình mà bị tra khảo giết chết…..
Thuật nam nữ giao tiếp, thuật trị bịnh, sai khiến quỷ của Đàm Vô Sấm đúng là phong cách của bí mật Đại thừa.
Một truyền thuyết: Truyền thuyết diệt pháp ở thành (Kashmir) Ca-thấp-di-la – Kế Tân, truyền thuyết không giống nhau, nhưng cũng phải có sự thật. Vào năm thứ hai niên hiệu Diên Hưng đời Ngụy (472 TL). Phó pháp tạng Nhân duyên truyện của Cát-ca-dạ (kinkara) biên dịch (quyển 6) nói: “Có Tỳ kheo tên Sư Tử ở nước Kế Tân làm nhiều Phật sự. Bấy giờ thời vua Di-la-quật, sống với tà kiến lẫy lừng, tâm không kính tin, vua phá hư hỏng chùa tháp ở Kế Tân, giết hại chúng Tăng, lấy gươm bén chặt đầu Sư Tử luôn. Trong đầu không có máu, chỉ có sửa phún ra, cùng giao phó pháp cho người rồi chết”. Tỳ kheo Sư Tử (si nha) bị giết, theo “Phật tổ thống kỷ” (quyển 5) có nguyên nhân khác, đó là tôn giả Sư Tử hoằng hóa ở nước Kế Tân, tiếng tốt đồn xa. Có hai ngoại đạo là Ma-mục-đa và Bộ (hoặc Đô) lạc-giá, hai người trước học phép huyễn thuật bèn giả mạo hình thức Tăng, lẻn vào cung vua, dâm phạm với vợ vua. Còn nói: nếu việc không thành sẽ đổ tội cho Thích tử. Rồi chuyện bại lộ, vua nổi giận mới phá hủy chùa, giết Tăng, chặt đầu Sư Tử. “Phật tổ lịch đại thông tải” (quyển 5) cũng có chỗ ghi chép tương đồng. Như vậy, Tỳ kheo Sư Tử bị giết, Phật giáo Kế Tân bị phá hoại hoàn toàn ấy là do ngoại đạo giả mạo Thích tử, vào cung dâm loạn mà đưa đến hậu quả đó. Nhưng sách “Kế Tân chư vương sử” của Ca-nhĩ-ha-na-bát-đềđa (Kalhana pandita) soạn tập thì nói: Đời Na lạp(Nara) thứ nhất từng xây cất một ngôi già-lam, một vị hành giả Phật giáo sống trong già lam ấy, dùng ma lực chiêu dụ vợ vua, làm cho Na lạp (Nara) đời thứ nhất nổi giận mới đột cháy ngôi già lam ấy cùng hàng ngàn già lam sở thuộc. Về tên vua nói không giống nhau, còn chuyện dâm loạn với vợ vua thì giống nhau “Phật tổ thống kỷ nói ngoại đạo giả mạo làm Thích tử, e là có thể văn phô diễn thêm trong truyền thuyết của tín đồ Phật giáo mà thôi! Vào cung dâm loạn không phải là một việc tư thông bình thường mà chính là huyễn thuật, dùng ma lực dụ gạt. Huyễn thuật, ma lực là thuộc tôn giáo, thuật nam nữ giao tiếp thần bí là thuộc Tính lực phái trong Ấn độ giáo, là Vô thượng Du già của Bí mật Đại thừa. Theo sự ghi nhận của Huyền Trang thì Phật giáo Ca-thấp-di-la (Kashmir) đã chịu đựng bị hai lần phá hoại:
1) “Đại Đường Tây vực ký” (quyển hai) nói: (Sau khi vua Ca-nhị-sắc-ca (Kaniska) qua đời, người Thổ-trước-ngật-lợi-đa (Krita) giành lấy chính quyền, phá hoại Phật pháp. Sau đó nhờ lực lượng của vua Hê-ma-đát-la (Hematala) giúp đỡ Phật giáo mới phục hưng trở lại.
2) Cuối thế kỷ thứ năm Tây lịch vua của Đại tộc Yếm đạt là Ma-hê-la củ la (còn dịch là Mị-chicát-la-câu, Di-la-quật, Bà-hầu-la-câu-bà) xâm nhập Ấn độ. Phật giáo ở vùng Bắc Ấn độ bị tàn phá nghiêm trọng, như có nói trong sách “Phó pháp tạng Nhân duyên quyển năm”, “Đại Đường Tây vực ký quyển ba”. “Liên Hoa diện kinh quyển hạ”. Truyền thuyết vào cung dâm loạn với vợ vua, ma lực dụ gạt vợ vua, nhân sự dâm loạn thần bí mà đưa đến pháp bị diệt ở Kế Tân, đó là chuyện có trước sự phá hoại của Ma-hê-la-củ-la. Như sách “Đại Uy Đức Đà-la-ni kinh: (quyển 17) của Xà-na-quật đa (Jnanagupta) đời Tùy nói:
“Các thầy Tỳ kheo ấy đến nhà, trước dùng lời nhiếp hóa, sau dùng phương tiện khiến làm việc mình. Trong nhà ấy cùng nói chuyện với nhau xong, rồi ở lại đây, thị hiện thân ghẻ nhọt. Người tục bị nhiều thứ mê hoặc, mọi thứ chỉ dạy rằng: Bên ấy nên cho ta, Như Lai phó chúc cho ngươi, những cần thiết của người bệnh. Bên ấy đáp rằng: Ngày mai ông đến, như nhà của ông không khác… Ta sống ở đây mười năm cố gắng tìm cầu hãy còn chưa được các pháp nầy, như ngươi hôm nay, trong một đêm thôi mà được pháp nầy”.
Thường đến nhà người thế tục, tiếp nhận bạch y, đạo nhiễm ái cùng nhau, bỏ lìa giới hạnh. Do nhân duyên ấy mà diệt giáo pháp nầy. Lúc ấy, trong thành vua nghe việc đó, nổi cơn giận dữ, bắt lấy ba ngàn Tỳ kheo cùng lúc giết cả”. Sự thật nhân duyên diệt giáo pháp nầy như vậy rõ ràng, không chỉ là một người hành giả Phật giáo, ngoại đạo, mà là số nhiều Tỳ-kheo.
Kinh văn không nói rõ ở Kế-Tân, nhưng tiếp theo Kinh nói: Một số Tỳ kheo vượt sông đến thành Đa-sát-thi-la (Taksasila), đây có thể hiểu là Kế-Tân. Trong kinh còn nói các vùng biên địa, chỗ vua Bà-hầu-la-thư-bà đến, rất nhiều Tỳ-kheo đều trốn chạy, tự viện phương Bắc đều bị phóng hỏa đốt trụi. Trước khi đại tộc vương phá hoại, Phật giáo Kế Tân đã suy lạc quá rồi, bị quốc vương phá hoại giết hại, kinh văn ẩn ý ước định, thực tế là có quan hệ tới nam nữ. Nhưng, không phải tư thông mà là công khai bảo rằng: “ Bên ấy nên cho ta, Như Lai phó chúc cho ngươi”. Cốt yếu người nữ hiến dâng thể xác, vì đây là lời Phật nói. Dưới sự tín ngưỡng Phật giáo đầy nhiệt tình, đã vậy còn là lời Phật nói thì đại cúng dường công đức vô biên, bèn cùng bên ấy hòa hiệp, đó chính là dùng “phương tiện khiến làm chuyện riêng của mình”. “Như nhà mình không khác” là nghiễm nhiên giống như vợ chồng. Còn nói là ta cố gắng tìm cầu Phật pháp sau mười năm mới đạt được như ngươi hôm nay trong một đêm mà được pháp nầy”. Ngay một đêm học hiểu Phật pháp thì tức là pháp hoan hỷ, pháp hai thân hòa hợp của Vô thượng Du già. Sau này Thái tử của Nguyên Thuận Đế cũng nói: “Chư Tăng Tây phiên dạy ta kinh Phật, một đêm ta liền hiểu” (Nguyên quyền hành, Canh thân ngoại sử, quyển hạ).
Cái bí pháp, một đêm học hiểu , thời kỳ đầu lưu hành đã bị Phật pháp chánh thống chống cự cũng là điều mà xã hội không thể chấp nhận. Cho nên Phật giáo Kế Tân bị phá hoại nghiêm trọng. Nơi đây vốn là trọng trấn của thuyết Nhất thiết hữu bộ (Sarvastivadin), bị phá hoại rồi lại được khôi phục phẩm cách suy sút của Tăng đồ. Họ thọ trì “Căn bản thuyết Nhất thiết hữu bộ luật, nói rốt cùng là không có việc hủy phạm hoàn toàn bốn giới căn bản mà sám hối, còn được kể là Bí sô (theo quy tắc thường lệ, phạm một trong giới căn bản thì không còn là Tỳ kheo và bị đuổi khỏi Tăng đoàn). Do vậy đã bị Thế Thân (vasu-bandhu) trách mắng nghiêm khắc: Lời nói nầy hung ác lắm! Nếu người như vậy còn tính Tỳ kheo thì nên tự mình quy y lễ lạy loại Tỳ kheo như vậy” (A tỳ đạt ma Câu-xá-luận quyển 15). Gần đây hành giả bí mật là ông Trần Kiện Dân đã viết sách Thiền Hải đăng tháp (mười chương) trong ấy nói:
“Lúc này, nên lìa khỏi làng nước, đến những nơi đất hoang sơ xa xôi mà sống, giả vờ là kẻ đau thần kinh, hướng tới vùng biên địa không kính trọng lễ giáo như một dãy Tây khang, Tây tạng sẽ có thể có nhiều cơ hội, đã không bị hình phạt của nhà quan, cũng như không bị phê bình bởi tầng lớp sĩ, đại phu. Lúc này, đã sớm có thần thông, phụ nữ nơi dãy Khang, Tạng tự biết trước giờ đem thân cúng dường, nhân công phu nầy ắt sống lâu dài mãi”.
Theo ý ông Trần đây, tham thiền đến mức bừng ngộ rồi (tới nhà rồi) còn phải tiến lên một bậc nữa tức là công phu trên dưới với sự hòa hợp nam nữ. Ông ta không muốn nhận lễ giáo, không muốn bị gò bó trong xã hội văn minh, khen ngợi biên địa không biết trọng lễ giáo. Thật ra, khu vực Khang, Tạng đã được huân tập tín ngưỡng tôn giáo bí mật dục lạc từ cả trăm ngàn năm nay rồi; thêm vào đó chính, giáo hợp nhất, người nữ mới hiểu và tự động đến hiến dâng thân thể. Nếu không như vậy thì văn hóa lạc hậu nơi biên địa, không nhất định để hành giả bí mật xứng tâm như ý đâu! Mọi chuyện chẳng cần nói, chúng ta cũng có thể thấy Phật giáo Kế Tân bị ảnh hưởng bởi huyễn thuật, bởi ma lực, bởi “một đêm đã đạt được pháp nầy”, mà dẫn đến bị phá hoại, là một sự kiện bi thảm nhất của Phật giáo; đệ tử Phật chánh thuần phải luôn luôn nghĩ tưởng rõ về Phật giáo!
Ghi chú:
Vì những lý do trên, nên tôi cho dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh ra chữ việt bỏ phần Mật giáo. Nếu dịch phần Mật giáo ra chữ Việt phải tốn 16 tập. Xin quý đọc giả liễu tri.
Tỳ kheo Thích Tịnh Hạnh
[Mục lục bộ Mật giáo][Kinh thủ lăng nghiêm][Chú đại bi]