TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG LUẬN
BỘ THÍCH KINH

SỐ 1505 - TỨ A HÀM MỘ SAO GIẢI

MỤC LỤC

TỰA TỨ A-HÀM-MỘ SAO

QUYỂN THƯỢNG

THỨ NHẤT

THỨ HAI

THỨ BA

THỨ TƯ

QUYỂN HẠ

THỨ NĂM

THỨ SÁU

THỨ BẢY

THỨ TÁM

THỨ CHÍN


TỰA TỨ A-HÀM-MỘ SAO

A-hàm-mộ (Āgama) đời Tần gọi là Thú Vô. Kinh này, Tôn giả A-nan rút từ mười hai bộ kinh, thâu tóm các pháp yếu trong kinh. Bộ Tứ A-hàmmộ cùng với A-tỳ-đàm và Luật là ba Tạng.

Riêng tôi là thân học sĩ, một lòng vì công đức cao tột, không muốn các pháp ấy rơi rụng. May mắn lại có vị A-la-hán tên là Bà-tố-bạt-đà, chọn lấy những điều hay của Pháp làm thành một bộ, gồm chín phẩm bốn mươi sáu trang, bỏ đi nhưng chỗ trùng lặp, văn gọn, nghĩa phong phú, đúng là tràng chuỗi ngọc của kinh, với trăm điều hay đẹp, biện bạch chỗ phải trái, ghi chép đủ cả. Những điều hay, chỗ sâu kín đều khéo nghiên cứu kỹ.

Có vị Sa-môn ngoại quốc, tên Nhân Đề Lệ, là người trước tiên mang bộ kinh này đến, nhưng vì bí mật của nước, nên vị ấy luôn mang theo bên mình, không đem chỉ dạy cho ai. Ông Vương Di Đệ tìm đọc được, nên kinh mới được truyền bá rộng.

Vào tháng tám năm Nhâm Ngọ (382), tôi ở chùa của Tiên sư nơi Đông tỉnh, đến chùa nơi đất Nghiệp, giao bản văn chữ Phạn cho Cưu-ma-laphật-đề cất giữ, Sa-môn Phật Niệm và Phật Hộ mới dịch ra, Tăng Đạo xét duyệt, Tăng Duệ bút thọ (chép ra văn tự), đến mùa đông, tháng mười một năm ấy thì xong. Cùng năm này, mùa hè thì dịch A-hàm-mộ, mùa đông thì dịch xong kinh trên. Như vậy, trong một năm mà đủ hai tạng. Tôi thầm cho là, mình được may mắn, nhưng có điều buồn, là đến bảy mươi hai tuổi, mới được gặp kinh ấy! Chỉ e, sự biên chép chưa xong, sự nghiệp chưa tròn! Nếu như có thêm vài năm nữa, thì không mắc lỗi lớn đó.

Điều gần hơn hết, là bảo người dịch, cứ chuyển thẳng từ Phạn ra Hán văn, mong hiểu được phương ngôn mà thôi, còn nghĩa lý của kinh văn thì không dám thay đổi. Những chỗ chưa thông, việc chưa rõ, thì đều hỏi vị dịch, mà làm ghi chú bên dưới. Khi ấy, lại lấy cái hiểu của mình vì chương đoạn mà chú thích. Chỗ có đề chữ “Tu-đố-lộ” (trong Hán Tạng) đó là người chú giải dẫn nguyên bản kinh, đó chỉ nói thẳng trong nội dung kinh, dẫn kinh làm chứng chư không phải chú thích diễn giải rộng.

SỐ 1505

Tác giả: A-la-hán Bà-tố-bạt-đà.

Hán dịch: Đời Phù Tần, Sa Môn Cưu Ma La Phật Đề.

QUYỂN THƯỢNG

THỨ NHẤT

A-hàm-mộ, (đời Tần gọi là Thú vô).

Trước kính lạy Đấng Thiện Thệ, chúng Pháp, chúng loại trừ ác “hữu”; (lễ ba chúng tôn kính có thể trừ kiết sử) sẽ nói đến ý muốn sơ lược nhanh gọn các nghĩa. Cho nên sẽ nói đến ba pháp.

Đệ tử hỏi: Nói là có ba pháp, nói ba pháp ấy nghĩa là gì?

Thầy đáp: Pháp dựa vào ba môn (ba phương diện, ba phương hướng). Câu kết: “Là thứ tự làm ra”. Thế cho nên phải tưởng biết đến ba pháp.

Hỏi: Nghĩa thứ tự của ba pháp như thế nào?

Đáp: Thế cho nên phải tưởng biết đến ba pháp.

Hỏi: Nghĩa tứ tự của ba pháp như thế nào?

Đáp: Trong nhiều kinh Phật có nói đến vô số các tưởng. Như là vị dâm, giận và hoại, là tinh tấn, nhân duyên, thực và trì (giận là vị là vị giận. Buộc vào gọi là Trì-Thực là vị).

Chúng sinh ít trí tuệ muốn cầu nghe Thánh đế. Tưởng đến những hạng người này phải hiểu rõ nghĩa, mau chóng hiểu nghĩa mà tưởng ba pháp này làm phương tiện. Phân biệt thứ tự ấy, thì tất cả đều tưởng đến những gì chúng sinh hiện có, cuối cùng tùy theo hô mong muốn tưởng biết nghĩa, mà làm ra ba pháp.

Hỏi: Có phải dùng tưởng phương tiện này mà nói ba pháp chăng?

Đáp: Ba pháp là sự giác ngộ, giải thoát của Đức, Ác và Y (kinh gọi: một là công đức, hai là ác, ba là nương tựa). Ba pháp đó là ba câu căn bản, mỗi thứ có ba độ, ba phần.

Hỏi: Trong ba câu ấy, trước là nói về tư duy giải thoát. Giải thoát nghĩa là gì? Kia giải thoát Công đức, Ác và Y mà có giác ngộ tương ưng?

Đáp: Đã hội nhập, thì không phải nói. Là giải thoát sự sống của thế gian…. Cả đến loài trùng, kiến cũng mong muốn, ưa thích sự sống… Nghĩa lạc, không biết Thực vị (cái ăn) mà đi tới giải thoát. Lạc thống (Lạc thọ) chỉ có một nghĩa, mà thế gian ít tương ưng với lạc, ít nhân duyên lạc, không biết giống… lạc (vui) Đạo, lạc Niết-bàn, lạc không bệnh… vì không biết ưng với lạc nên không mong muốn, do đó vì nói; nếu mong muốn thì không vì nói. Bởi đã vào đạo thì không vì nói như trẻ nhỏ.

Hỏi: Tại sao mắt tự biết phạm vi hoạt động của nó?

Đáp: Tự biết thì không cần. Vì nói như thế, mọi mong muốn an vui (lạc) thế gian là mong muốn là cái ham muốn của đạo; do vậy, nói ý nghĩa của đạo là không làm điều ác.

Hỏi: Giác ngộ công đức là có an lạc giải thoát, nếu vậy, thì không thể thấy vàng, thấy là được giàu sang! Có bệnh không thể nói nghe uống thuốc là hết bệnh. Cho nên không thể giác ngộ là giải thoát? Đáp: Như đèn sáng đưa vào thì bóng tối tan biến ngay, không thể đèn sáng sau đó bóng tối mới diệt. Chính trí huệ phát sinh giải thoát. Nó đồng nghĩa với trí giác.

Hỏi: Công đức là pháp gì? Là vì chúng sinh nhiễm si, là vì sắc-hương-vị, vì thọ, không thọ, đã thọ?

Đáp: Ngoài những ý tưởng đó ra, thì Kinh nói công đức là Phước đức, Căn và Vô ác. Ba công đức này là tưởng về công đức của pháp thanh tịnh, quả và Ngã. Tất cả đều trong ba thứ này. Nay sẽ nói tóm lược.

Hỏi: Đã nói phước đức, văn, vô ác, thì đó là pháp gì?

Đáp: Phước đức, gồm Thí, Giới, Phân biệt luôn hành sự thiện, khiến người ta không còn ác. Cho nên phước là ba hành: Thí, Giới, Phân Biệt Bậc Tiên sư nói như thế này:

Thường luôn làm phước đức như hành Thí.
Vì mạng chúng sinh, mạng ấy qua nhanh
Nếu thường luôn hành động diệt thói ác
Thì gọi phước đức như thí dụ đây.

(Tám chữ gọi là Thủ lô. Kệ Thủ lô gồm ba mươi hai chữ).

Hỏi: Đã nói Phước đức là Thí, Giới, Phân biệt, thế nào là Thí?

Đáp: Của cải mình dùng cũng như kẻ khác dùng. Của ban cho và ý niệm ban cho đều chấm dứt, cứ vậy mà bố thí. Đó là ba hạnh thí. Cho ăn, cho pháp, cho vô úy. Kinh nói là pháp thí, thực thí, vô úy thí. Đó là nói ba cách thí. Thí cho thế gian chương thuyết của xuất thế gian là Pháp thí. Vô úy thí là Bát hành (Bát chánh đạo), Tạm quy mạng rồi đến Ngũ giới. Đức Thế Tôn nói quy y Phật rồi, vô lượng chúng sinh không còn sợ hãi, không ganh tị, không giận dữ, không sát hại. Quy y Pháp, Tăng cũng như vậy.

Hỏi: Như quy y rồi, thấy có giết trùng, Pháp nào là Vô úy bảo hộ?

Đáp: Tôi không nói hết thảy chúng sinh. Do tà kiến ngu si, giết hại trùng, làm hại tiền tài của kẻ khác, mà quy Tam bảo rồi, thì không thấy có ở thế gian. Nếu quy y rồi, thì không có làm những việc tà kiến đó. Thấy có ở thế gian đó không phải là quy y. Thế nên bố thí vô lượng về thức ăn, thì thí thực là đứng đầu. Các loại bố thí cho người khác, và bố thí tháp là đứng đầu. Cúng dường thí thì bố thí hương là đứng đầu. bản thân mình thọ, và người khác, hoặc cả hai đều thọ trì hành thì, thì hai công đức đầy đủ, được quả báo rất lớn. Đó là bố thí tịnh, Tiên sư của tôi nói như vậy: Có ý nghĩ về tiền tài của cải do mình làm ra, hay kẻ khác làm, thì nên coi chúng là phương tiện tốt trong đời thôi, nên có khi cho ít mà có quả lớn. Có khi nhân duyên trong sạch ít, mà được phước đức đầy đủ.

Hỏi: Giới là thế nào?

Đáp: Là giữ cho thân miệng để người khác tiếp nhận, người khác và không tăng tổn hại người khác. Ba tướng ấy cùng khởi lên tương ưng với thân miệng.

Hỏi: Làm thế nào?

Đáp: Để người khác nhận lãnh, không phá hoại người khác và không làm tăng tổn hoại người khác. Để người khai nhận lãnh là biết họ ốm đó giống như mình ốm đói, nên không gây phiền nhiễu đến sự nhận lãnh của người khác. Chúng sinh đều tự biết họ như mình thì chúng sinh không gây hại (sát sinh). Như vậy, không ham mê chiếm lấy của cải người khác, vợ của người khác. Như vậy, cũng không để người khác tiếp nhận lời nói dối, lời nói hai lưỡi, lời nói ác, lời nói không cần thiết. Nếu bảy chi (ba điều của thân, bốn điều của miệng). Không gây hại người khác tiếp nhận, thì đối với những cảnh nghèo cùng mà trợ lực cho họ được tiếp nhận sự cứu giúp. Đã làm cho họ nhận lãnh, đã không gây hại cho họ, cả hai giới tướng cùng tưởng thì phước sẽ tăng liên tục. Như phát nguyện, từ ngày nay không nảy sinh ý định sát sinh, thì trong thời gian này sẽ tăng nhiều thứ tương ưng. Đó gọi là không tăng tổn hoại người khác (nhiêu ích hữu tình giới). Ví như, xuất tiền của có lãi đáp trả; ý thiện sinh Giác thọ; như trồng lúa cành lá tăng trưởng cho đến khi được quả. Như thế, liên tục giữ giới cả trong giấc ngủ, thì phước đức càng tăng trưởng là giới.

Hỏi: Phân biệt là pháp gì?

Đáp: Phân biệt là Thiền Vô lượng và Vô sắc. Kinh nói phân biệt là hành thiện. Cho nên phân biệt giống như hoa ướp nhà mè hợp lại mà làm. Phân biệt giống như Vua cầu, giống như những gì mình cầu, vua được quả thì mình cũng được. Có mong cầu thực hành thì có quả tịnh tương ưng. Phân biệt là nghĩa tư duy của thiền, đó là bốn hạnh. Hỏi: Đó là pháp gì?

Đáp: Thiền là chấm dứt Dâm, chấm dứt Hành, chấm dứt Ái, và chấm dứt Lạc thống khổ thống. Kinh gọi là Tứ thiền: Ở sơ thiền, dâm là hạnh bất thiện. Nói nó là nhân duyên ngăn cản thiện, nên buột ý trụ vào, xa lìa dâm dục. Thiền thứ hai là chấm dứt tự hành, tự tỉnh biết, như tiếng chuông nhỏ dần rồi hết. Cho nên nói vô hành, là chính mình phải ngưng dứt tâm dâm như đã nói. Thiền thứ ba là chấm dứt ái, nghĩa là tâm hoan hỉ vì đã chấm dứt dâm và tự hành như suối phun lên, phải chấm dứt tâm hoan hỷ ấy. Thiền thứ tư là chấm dứt Lạc thống khổ (Lạc thọ, Khổ lạc). Lạc thống ấy là vui thầy ý không còn bị bức bách, ngoài ra không còn dâm, hành và ái. Chấm dứt mọi lạc thống khổ thống này gọi là Thiền thứ tư.

Hỏi: Vô lượng là pháp gì?

Đáp: Vô lượng là Từ, Bi, Hỉ, Hộ (Xả) kinh gọi là Tứ Vô lượng tưởng. Chúng sinh vô lượng, thì nhân duyên tiếp nhận họ cũng vô lượng, lại không thể nào lường nổi, cho nên nói là vô lượng. Từ là tâm yêu thương tất cả chúng sinh, ý nghĩ cho vui đến họ, như nghĩ đến thân mình. Bị là tâm xót tương chúng sinh khổ não ý xót thương cứu khổ họ như cứu khổ bảo thân mình. Hỷ là ý vui mừng cho vui nghĩ đến chúng sinh sẽ cùng vui với mình. Hộ là không có hành động gì, luôn nhẫn chịu đối với mọi phi pháp, người khác và chúng sinh đã đối xử với mình. Nếu chúng sinh có đối xử tệ ác với mình, thì quán xét ngược lại đó là nhân duyên mình phải khắc phục, chứ không đáp trả (báo thù).

Hỏi: Thế nào là Vô sắc?

Đáp: Vô sắc là Hư không, Thức, Vô sở hữu và Hữu tưởng vô tưởng xứ. Bởi hư không là trợ duyên của sắc, trợ duyên của sắc ác và kiến nên ý chúng sinh không nhiễm. Ý nhất định chỉ duyên vào hư không, buộc tưởng cùng hư không, gọi đó là Hư không xứ. Như thế nào chỗ dựa là hư không mà có Thức. Do duyên vào Thức mà có hành Thức xứ. Đó cũng còn chỗ nương tựa; không có chỗ nương tựa (vô y) mới được giải thoát, nghĩa là không có mọi hành động (của ý), đó gọi là Vô sở hữu xứ. Do thấy tưởng ác, ý nhất tâm diệt sự sợ hãi của thân tưởng kia, gọi là Hữu tưởng Vô tưởng xứ. Bốn loại nói trên là Vô sắc giới. Đã nói quán không, đã nói Vô sắc đó gọi là Phân biệt. cho nên Thí, Giới, Phân biệt là nói Phước đức vậy.

Hỏi: Thế nào là Căn?

Đáp: Căn là không tham lam, không giận và không si. Ba thứ đó là tướng của Căn.

Hỏi: Là gốc của cái gì?

Đáp: Không phải công đức đã nói ở trước. Cho nên nó là pháp di vào tất cả giải thoát. Căn ấy giống như nói tương ưng, sẽ khiến cho tương ưng. Nghĩa là một tứ mạnh lớn thì hai thứ kia tương ưng theo (si mạnh, thì giận va tham tiếc tương ưng hòa vào thao). Lại như không sẻn tiếc thì tương ưng với Thí; không giận thì tương ưng với Giới và không si thì tương ưng với Phân biệt. lại tương ưng với ba Thí: Không sẻn tiếc tương ưng với Thực thí, không giận tương ưng với Vô úy thí, không si tương ưng với Pháp thí. Lại tương ưng với ba Giới: Không sẻn tiếc, không giận thì không tổn hại người khác; không si thì làm tăng trưởng ích lợi cho người khác (nhiêu ích hữu tình giới). Lại tương ưng với ba Phân biệt: Không sẻn tiếc tương ưng với Thiền, không giận tương ưng với Vô lượng và không si tương ưng với Vô sắc. Lại nữa, không sẻn tiếc thì hành sự Thánh, không giận thì nhẫn nhục, không si thì đa văn, ba thứ này là gốc của Vô ác. Như vậy Căn là gốc của tất cả hạnh thiện. Như vậy, không sẻn tiếc (tham tiếc) thì không chấp giữ hành động, suy nghĩ, không làm vì chúng; không giận thì giúp cho diệt trừ giận, không si thì giúp cho diệt trừ vô minh, vô trí. Thế cho nên gọi là Căn.

Hỏi: Thế nào là Vô ác?

Đáp: Là Nhẫn, Văn (đa văn) và Thánh phần. (Kinh nói: Nhẫn, Văn, Thánh phần). Ba thứ này là nói Vô ác. Vô ác theo nghĩa tục số, tùy ý tưởng mà nói là Vô ác. Hoặc Ác là chẳng ghê sợ việc ác. Đức Thế Tôn đã từng nói Vô ác là hạnh tột cùng là nghĩa đó vậy. Nhẫn là chịu khổ trước thế lực mạnh, thế lực ác, tự kiềm chế mình không giận. (Kinh nói: Nhẫn nại chịu khổ trước thế lực mạnh (tăng), thế lực ác).

Như thường chịu đựng trước thế lực mạnh, thì gọi là Vô ác. Trước thế lực ác tự mình kiềm chế, đây là nghĩa nhẫn chịu khổ, chán ghét. Đối với thế lực mạnh thì dễ gia tăng Vô ác, nhưng thế lực không mạnh, mình có thể báo thù, không thể vì nói (tâm như tro lạnh, bỏ ngoài việc ác) thì chỉ nên sợ hãi phát khởi ác đối với chúng sinh. Đây gọi là gia tăng Vô ác là nghĩa Nhẫn. Tiểu nhân (người yếu hơn mình) hại mình, mình càng gia tăng tự kiềm chế; đủ khả năng đáp trả, mà không làm, xem đó chính là lỗi của tự mình chứ không phải của chúng sinh. Tiếp sẽ nói đến nghĩa phải nhẫn chịu những lỗi của hành. Đó là chịu đựng những khổ về: nóng, lạnh, đói, khát, gió bức bách dấy khởi hiện hành. (Kinh nói: khổ đó gọi là giống như sự việc tăng trưởng). Hai sự ấy nổi lên, làm thân khổ, không phải bởi ý của chúng sinh, hay do những điều kiện ác của chúng sinh. Vì vậy, hai thứ khổ trong ngoài bức bách thân ấy, phải nhẫn phải chịu như thế.

Hỏi: Đã nói nhẫn, còn Văn (đa văn) là sao?

Đáp: Là học rộng về Kinh (A-hàm), A-tì-đàm và Tì-nại-da, (ba Tạng). Đa văn có khả năng trừ hết Dâm-Nộ-Si, Học rộng về Kinh đó là học những gì của bậc Nhất thiết trí nói, những gì đã ấn khả, đó là chấp trước, là phải đoạn trừ, là hiện Tứ Thánh đế, là hiện sáng tỏ, là không trong, không ngoài, là giải thoát. Học rộng về A-tì-đàm đã hiển thị tương ưng những gì kinh vốn có. Học rộng về

Tì-nại-da là học những gì nói là vô hành, vô mạng, thanh tịnh. Học ba tạng này gọi là đa văn. Trong đó, học rộng Tì-nại-da tăng sức đình chỉ tham dâm; học rộng A-tì-đàm tăng sức đình chỉ sân. Atì-đàm vốn nói về sự biết rõ các hành sở túc, cho nên làm cho sân mỏng yếu. Do sân dấy khởi mà phạm giới đọa địa ngục. Học rộng Kinh, các thuyết Nhân duyên… là gia tăng đình chỉ si. Nghĩa đa văn, tất cả là như vậy.

Hỏi: Thế nào là Thánh phần?

Đáp: Là Thiện tri thức Tư duy và Đắc. Không dám nói nghĩa ác là nghĩa Thánh phần. Mong muốn Thiện tri thức ấy là Thầy, trì, bạn trong ba điều kiện Trợ (giúp sức), Thiện (tài giỏi) và lực (năng lực). (Kinh nói: mong muốn Trợ, Thiện và Lực là nói Thiện tri thức, vừa là Thầy, là trò, là bạn).

Hỏi: Thế nào nói Thầy giúp sức, trò tài giỏi, bạn năng lực, như thường hay nói?

Đáp: Nói như vậy là đã biết sự sai biệt. trợ, Thiện và Lực đều là tướng của Thiện tri thức. Thầy, trò và ban hội đủ ba tướng này. “Biết” nói là mạnh nhất, còn hài cho Trợ và Thiện là tùy, thuộc theo. Hoặc có tướng trợ giúp mà bất thiện, hoặc có trợ giúp, có thức tỉnh mà không có lực nói. Như cha không đủ tuổi làm cha già của con. Hoặc có sức nói mà niệm bất thiện. Hoặc mong muốn trợ giúp và thiện, hoặc mong muốn không trợ giúp, không thiện. Như Mạt-ca-lan, Phú-lam (hai trong sáu sư ngoại đạo). Hoặc muốn không cả trợ giúp, thiện và lực, như tất cả thấy thuốc giỏi (minh tri), bởi trước có oán thù nên biết bệnh mà không cứu. Nếu đủ cả ba tướng vừa nêu, mới là Thiện tri thức. Hoặc thấy có lỗi, trò có lỗi, bạn có lỗi đều không được gọi là Thiện tri thức. Thế nên, ba tướng ấy phải tương ưng mới được là Thiện tri thức.

Hỏi: Tư duy là pháp gì?

Đáp: Là tưởng về sự chấm dứt, sự tỉnh thức tinh tấn và sự hộ trì (Kinh nói: Chấm dứt, tỉnh thức tinh tấn và hộ trì tưởng). Vì biểu hiện bên ngoài là không có tạo tác, người kia dứt trừ danh, ý loạn làm cho định; tướng kia giống như tỉnh thức thì làm cho tịnh tấn lên những ý nghĩ biếng nhác. Giữ gìn không loạn tức hộ trì, mà đạt được những thứ tương ưng. Như người phu xe, ngựa chạy chậm thì thúc, bò ruổi nhanh thì Kiềm hãm lại. Những sở hành như thế gọi là hộ trì. Nên quán xét ý như vậy. Vào một pháp nào trong Vô lượng (Từ, bi, hỷ, xả) thì hộ trì một pháp ấy, đều duyên với chúng sinh. Ý tương ưng trước chúng sinh đều bình đẳng gọi là được hộ trì.

Hỏi: Lý do nào nói nếu ý có hộ trì, ý có hộ trì, thì khi nó dong ruổi, tự biết kìm lại, như ý trì trệ thì hãy dựng nó dậy, và bình đẳng là được hộ trì?

Đáp: Trước tôi há không nói tư duy bình đẳng sao? Như bình đẳng tư duy; ví như khi lo sợ thì hành số tương ưng, nếu khác thì không có bình đẳng tư duy. Thế cho nên gọi là tư duy.

Hỏi: Thế nào là đắc?

Đáp: Là đạt được Cụ, Phương tiện và Quả Kinh gọi là phương tiện định nhập, là vô ngoại và cúng dường. Đó là tương ưng nhập với đẳng Cụ, Phương tiện và Quả.

Hỏi: Cụ thuộc những gì?

Đáp: Như nói đó là giải thoát.

Hỏi: Tên gọi đẳng cụ gồm những gì?

Đáp: Là đẳng Cụ, đẳng Thư, (Đẳng Thư, vì sách chứa đựng nhiều văn tự nên gọi đẳng Thư. Đẳng cụ, vì Sa-môn đủ mười hai pháp nên gọi là đẳng Cụ), Căn đoạn và Cận Thiền). Kinh nói những tụ này là hạnh thiện). Thế nên đẳng cụ giống như nghĩa những loại dụng cụ, đó tức là nghĩa chi tiết. Đầy đủ ba hành là Thư (kinh sách), Căn đoạn và Cận Thiền, gọi đó là Cụ.

Hỏi: Đẳng Thư là những pháp gì?

Đáp: Là pháp Ngũ nạp, A-lan-nhã và hạnh Tỳ-kheo. Đầy đủ những pháp này gọi là đẳng Thư; với ý nghĩa là tăng trưởng. Như hai thư làm tượng một người là thợ vẽ giỏi, một người là thợ đục, khắc đá, gỗ, bằng sự cắt xén, gọt giũa làm tượng. Cả hai đều làm trâu qua thời gian, với hai cách thực hiện: Vẽ tô đắp thêm và đục tổn giảm đi để thành hình tượng. Tượng do thợ đục, khắc có thể chịu đựng gió mưa, còn tượng của thợ vẽ làm thì không chịu đựng được gió mưa. Cũng vậy, hai người, một là xuất gia (đạo nhân) một là tại gia (bạch y); người đạo nhân suy nghĩ từ bỏ quyến thuộc, hành động bỏ ấy giống như người thợ đục, cắt bỏ, gọt giũa… còn người tại gia kia không bỏ vợ, nô tì… giống như hành động tô, vẽ bồi đắp của người thợ vẽ. Người tại gia kia lần lượt yêu thích, từ yêu sinh biệt ly, ưu sầu, mừng vui, lo sợ, đấu tranh làm chính mà phi pháp phá hoại. Cũng như người vẽ tượng kia tuy có tượng mà không bền chắc, không phải như đạo nhân. Đức Thế Tôn nói, hạng ấy như chim công, đẹp nhờ cổ có màu xanh, nhưng bay thì không bằng một bước của hạc nơi đồng nội. Do vậy, người thế tục không bằng được thầy Tỳ kheo, sống vắng lặng, ngồi thiền nơi đồng vắng, đó gọi là Thư. Ngũ nạp, A-lan-nhã và hạnh Tỳ-kheo , ba thứ này là căn bản của mười hai công đức hạnh Đầu đà, chín loại còn lại là phụ thuộc, mỗi thứ sẽ nói riêng.

Khi ở chỗ Toan Đà Lê, đức Thế Tôn nói cho Nan Đà ba thứ công đức:

“Này Nan-đà! Khi nào ta thấy ông
Vô sự mà mặc y ngũ nạp thô
Không đắm nhiễm với của tín thí cho
Xa lìa hạnh dục, luôn ở nơi vắng”.

Thế nên biết ba công đức đây là căn bản. Ngoài ra ức bốn việc lợi, đó là lợi của việc đắp y, khất thực, giường nằm và thân hữu. Vì lợi của việc đắp y, nên nói trì y ngũ nạp. Vì lợi của ăn uống nên nói trì khất thực. Vì lợi của giống nằm nên nói hạnh A-lan-nhã. Những công đức này đầy đủ, làm tổn loại thân thể hữu này, gọi là đẳng Thư; Hoặc để trừ hai hành nhập là cống cao nhập và tự thán nhập (tự khen mình), do lợi của việc khất thực, đắp y ngũ nạp, hạnh A-lan-nhã, mà dẹp bỏ tất cả sự cống cao ngã mạn. Chính vì được an lạc mà Phật nói công đức của hạnh Đầu-đà.

Hỏi: Thế nào là y ngữ nạp?

Đáp: Là được giữ ba y. (Kinh nói là không lựa chọn xấu hay tốt).

Ngũ nạp vì thường có trong đời sống, nên gọi ngũ nạp phần là ngũ nạy. Ngũ nạp này có ba chi, vốn có, đầy đủ thì có ba y, là đầu tiên, nghĩa này do Kinh nói.

Hỏi: Nếu Ngũ nạp y có ba sự, và công đức của chín Đầu-đà cũng có như thế thì trái với nghĩa Kinh nói: Y ngũ nạp ( phẩn tảo) là y cũ nát chắp vá từ những mảnh vải nhặt ở nghĩa địa, ven đường… Còn mặc ba y đó là y Tăng-già-lê, y Uấtđát-la-tăng và y An-đà-la-bà-tế?

Đáp: Hoặc Tỳ kheo đã có trì bay bên mình rồi, cho dù chấp nhận không giữ nhiều y, nhưng lại ưa thích y đẹp tốt, nên phá hoại đạo nghiệp. Tức do ham lợi mà rối loạn tìm cầu. Lại ưa thích cầu lợi có hai: Đó là cầu cái tốt nhất, và cầu số lượng nhiều; như người cầu cô gái đẹp nhất, và người cầu hàng ngàn cô gái không đẹp (số lượng nhiều). Bởi cầu lợi nhiều, nên Phật chế định trì giữ ba y. bởi cầu cái đẹp tốt nên Phật chế định, ba y giữ gìn bên mình phải bằng từng mảnh vài cắt, ghét lại trong sáu loại chất liệu như vải thô, gai, dây… được xử dụng một. Vì nghĩa đó gọi là không làm y tốt đẹp nhất. Tỳ kheo trì ba y như vậy gọi là không mong cầu y tốt. Hoặc trong chúng cho phép, hoặc nhà bạch y, mình mặc ba y tùy thấy giường tòa nào tốt mà ngồi vì thuyết pháp. Như ngồi chỗ ấy nhân duyên đã tốt thì ngồi. Nếu Thượng tọa sai bảo thì tùy thuận ngồi. Như thế gọi là đầy đủ y ngũ nạp.

Hỏi: Thế nào là pháp A-luyện-nhã (A-lan-nhã)?

Đáp: Thường ngồi nơi gốc cây chỗ trống trải, luôn an tọa.

Ba thứ: Ta thường ngồi dưới gốc cây, thường ngồi nơi trống trải, và ta thường ngồi đó là hạnh A-lan-nhã đầy đủ cùng với phần A-lan-nhã tức là bốn thứ. Để hổ trợ lợi lạc của giường tòa, tín thí hoan hỷ tạo dựng giảng đường, đêm ngồi mềm mại, đức Thế Tôn biết việc như thế mà Phân biệt nói”: Đức Thế Tôn nói: Ta thì không phải như vậy. Từ bỏ nhà cửa, bỏ mọi ràng buộc, bỏ luôn cả giảng đường, chỉ giữ hạnh A-lan-nhã. Đó mới là hành A-lan-nhã. Còn như muốn làm phòng rộng, muốn ở nơi cao khuất, thì Thế Tôn nói: Ta bảo đó không phải là hạnh A-lan-nhã. Làm việc ấy, khác gì bỏ ngựa cỡi lừa. Thế nên phải ngồi nơi gốc cây. Có người lại bỏ cây xấu ưa thích ngồi ở cây tốt, ưa thích cây lê có trái đẹp. Thế Tôn dạy cho những người ấy, là phải ngồi nơi đồng trống, lộ thiên. Cây có trái, là nơi nam nữ ham muốn, Bà-la-môn ưa thích. Ngồi nơi trống trải ấy rồi, không phát sinh điều lợi gì bèn nghĩ: ngồi nơi chỗ trống trải là khổ hạnh, nên lấy đó làm chỗ nằm tốt, đến sáng mới thôi. Luôn suy nghĩ việc ngủ nghỉ. Do vậy, đức Thế Tôn mới nói những người ấy là không thanh tịnh. Làm như vậy, khác gì cắt lỗ tai mà còn ham đeo bông. Cho nên phải thường ngồi trên nệm cỏ, kiết già phu quán sát thế gian hiện hữu mà tự hành đạo nghiệp. Làm như vậy, gọi là đầy đủ hạnh A-lan-nhã.

Hỏi: Thế nào gọi là pháp khất thực (hạnh Tỳ kheo)?

Đáp: Khất thực có nghĩa là ngồi ăn một lần, sau đó, không ăn nữa, (không để dành). Kinh nói: Ở nơi gò mả, vị Tăng họ đạo có hai hạnh ăn: ở trụ xứ được ăn và khất thực. Ở trụ xứ được ăn đó là gia chủ tín thí ngày ngày đem đầy đủ thức ăn đến cho đủ. Hoặc sợ phải tới lui vất vả, nên mới lập Tăng viên, trai đường. nơi ấy chuẩn bị thức ăn xong thì trưa đem cúng thí. Còn như đi khất thực, thì dù ít hay nhiều, đều khất thực khắp mọi nhà. Trái ngược với pháp khất thực, là muốn được ăn mãi ở một nơi, như bảo nhà đàn-việt là mình sẽ tới ăn. Đó là có ý tham đắm vào chỗ ăn. Đức Thế Tôn nêu dạy: Hành khất thực không được chỉ mong đúng giờ, đến nơi cố định ấy. Do vậy, để không nghĩ đến điều đó, đức Thế Tôn mới chế ra pháp ăn một lần và nói kệ rằng: “Như có người thường nghĩ: Tỉnh thức trong uống ăn, biết tiết độ uống ăn, thì tự giữ tỉnh thức”. Lại, đã giữ được pháp một lần ăn rồi. Phật chế sau Ngọ không được ăn, mà được uống, nhưng thức uống có nhiều loại, làm không thể tư duy về đạo. Thế nên, đức Thế Tôn dạy: Ta dùng nước cũng có thể trừ được khát nước. Do đó, cấm chỉ sau Ngọ không được ăn ống chất đặc. Lại đã giữ ăn một bữa, sau Ngọ uống nước lỏng nhưng hạn thích tắm gội trau dồi thân thể; đức Thế Tôn bèn dạy: Đây cũng như tưởng ăn, tạo nên cống cao, là chỗ mâu chốt của sự cung dưỡng tăng trưởng thân thể, mà cuối cùng cũng bị vất ra nghĩa địa. Do đó, Phật dạy nên, ở nơi nghĩa địa, nhìn thấy những biết đổi của thức ăn trong thân mình ở nơi nghĩa địa. Nơi gò mả ấy, loài trùng ăn hết một nửa các thây ma, các thây ma sình trương máu chảy, cốt tủy rệu rã, cả ngàn thân lộn lạo bừa bãi, thấy vậy thì hết kiêu mạn. Như vậy, Tỳ kheo tu hành đầy đủ viên mãn những thứ nêu trên gọi là đẳng Thư.

Hỏi: Thế nào là Căn đoạn?

Đáp: Căn đoạn là không thể đoạn căn, là cưỡng ép, là đình chỉ tự biết kiềm chế, không cho nhiễm hữu.

Hỏi: Thế nào là không thể đoạn căn (bất khả), là cưỡng ép, là đình chỉ?

Đáp: Khi căn môn dấy khởi, không có khả năng làm cho dừng lại, căn không thể dừng lại mà đoạn căn, thì giống như không cho ngựa ăn lúa, uống nước, cũng như không hộ trì được căn. Không thể cắt việc cho ngựa ăn no đủ để không thể đi. nếu không tùy thời để không đoạn căn, và cưỡng ép, đình chỉ căn thì người mù cũng sẽ lìa được dâm!

Thế nên không đoạn căn cưỡng ép-đình chỉ biết cảnh giới hiện hanh của căn, không nhận mà tư duy về chúng là có khả năng hộ trì căn. Hoặc Tiên sư dạy: Phải biết trừ bỏ mọi tưởng về căn giới, dứt bỏ sự thọ nhận, không có khả năng tới lãnh vực đó. Nghĩa là sự thọ nhận, tự mình vứt bỏ, không nên đến gần, ví như thấy hình người nữ đẹp, thì coi đó như thấy cảm thấy mẹ mình. Ba thứ ấy gọi là Căn đoạn.

Hỏi: Cận Thiền là pháp nào?

Đáp: Là cận Thiền, Nhẫn, Vô Tưởng. Kinh gọi là đẳng cận tư duy.

Do vậy, ở trước có nói cận thiền là giải thoát.

Hỏi: Như trước nói là Tứ thiền, sao nay nói lại?

Đáp: Trước nói giải thoát thế gian nay nói giải thoát của xuất thế gian, hễ làm được như vậy, nhất định là giải thoát. Trong giai đoạn này, hành già sẽ chứng được Tứ đế. Như người đi cánh đồng bao la, bắt gặp vườn nhà cây trái hoa quả, lòng họ không còn nghĩ tới đói khát nữa, vì họ đã sắp đến thành quách. Đồng rộng bao la kia là Dâm-Nộ-Si, nhờ thiện tri thức khổ công dẫn dắt, suy tư, mà mau bước khỏi ấm giới xứ, quán biết hết thảy là vô thường, vô ngã, khổ. Nếu giữ mãi dục lạc này thì có Nhẫn phát sinh (ba Nhẫn). Lại tăng trưởng tư duy, không bị lay động, quán mọi thứ như chiêm bao thấy điều vui, như thấy bóng hình, luôn thời chịu khó thấy tướng như thế, ấy là sức tưởng nghĩ gia tăng, là đạt pháp tốt nhất của thế gian (Thế đệ nhất pháp), là tưởng của Đức Đức Thế Tôn. Như vậy, đó là thiền hành trong ấy, biết rõ, thấy rõ mà được hỷ, là thời điểm thấy Thánh đế.

(Bà-tố-bạt-đà nói xong phần đầu của Đắc-phần thứ chín trong Pháp độ Công đức).

THỨ HAI

(Đây là phần thứ hai của Đắc phần thứ chín trong Pháp độ Công đức)

Hỏi: Pháp nào gọi là Phương tiện?

Đáp: Phương tiện là Giới, Tức (Ưu-bá-si) và Trí. Kinh nói, phương tiện nghĩa là đạo, nghĩa là giải thoát lấy làm đầu. Phương tiện là Ba-kiền-độ Giới. Tức (dứt) và Trí.

Hỏi: Tại sao lại nói kỹ về giới?

Đáp: Trước há không nói giới có hai: thế gian và xuất thế gian. Trước nói giới thế gian, đây là nói ý nghĩa về hành giới xuất thế gian.

Hỏi: Là pháp nào?

Đáp: Giới là hoạt động của thân, miệng và mạng. Kinh nói: Đẳng khẩu, đẳng hành, đẳng mạng” đó là ba kiền độ về giới. Đẳng khẩu là hành của miệng xa lìa lối nói dối, nói hai lưỡi, nói lời thô ác, nói lời không cần thiết và những lời khác. Đẳng hành là hành của thân xa lìa hành động sátđạo-dâm, và nhiều việc khác. Đẳng mạng là hành

Tỳ kheo khất thực, sống vừa đủ với những y phục, sàng tọa, thuốc men mà tự mình đã nhận, ngoài đây ra là tà mạng cả. Ưu-bà-tắc xa lìa năm việc: Buôn bán đao gậy, chất độc, rượu, thịt, chúng sinh, gọi là đẳng mạng (chánh mạng).

Hỏi: Thế nào là Tức (dứt trừ)?

Đáp: Phải tinh tấn niệm và định. Kinh nói: đầy đủ ba thứ này gọi là Diệt tức (chấm dứt). Như đối với dâm nộ si trước tiên là đình chỉ chúng, tiếp an trụ trong sự đình chỉ ấy, tức đầy ba thứ: Tinh tấn, niệm, định. Tinh tấn là sức siêng năng, nghĩa tinh tấn là vậy. Vì khả năng đi đến giải thoát. Nên gọi là tinh tấn.

Hỏi: Nó là những pháp nào?

Đáp: Là Tín, Hành và Bất xả. Kinh nói ba tinh tấn là tin, thường hành, không buông bỏ. Nó cung cấp hết thảy mọi hạnh thiện, cho nên tin. Là nghĩa thế nào? Vì được thực hành đầu tiên trong tất cả pháp thiện, là đứng đầu trong tất cả pháp thiện. Như có kệ nói: “Người tin và hành”. Kệ này nói Tín cũng có ba.

Hỏi: Là pháp nào?

Đáp: Là tin tôn kính (Kính tín), tin hoan hỷ được hành và tin được giải thoát. Kinh nói: Tin, Kính, Hành thì được giải thoát. Kính có nghĩa là từ bỏ cặn đục. Người cặn đục, mắc lỗi lầm của giận dữ, lỗi lầm của không biết xấu hổ, như nước tù đọng của bò heo, giẫm đục suối nước. Đục như vậy, nhưng biết trừ bỏ cặn đục nhơ thì nước trong lại. Ý xấu loạn đục, nhưng biết lắng trừ thì nó trong lại. Đó gọi là Tín kính. Tin hoan hỷ được hành, ưa thích giải thoát là như khi thân mang bệnh, thì không ưa ăn, dù món ngon, hết bệnh, thì mới muốn ăn. Khi bám theo giận dữ, thì không ưa nghe pháp, khi được thiện tri thức chỉ bảo, liền ưa theo. Sau đó tự nghĩ thế này: Pháp này rất là hay đẹp. Thiện tri thức kia lại vì nói cho. Đó gọi là tin hoan hỷ thực hành, ưa thích giải thoát. Tin được giải thoát là tin khả năng trì giữ. Như người bị rắn cắn, nhớ công đức phân biệt Y thuật, lời chú, ý tập trung lắng nghe của họ, tin lời chúc như thế có thể trị lành. Tin được chưa khỏi mà tìm lấy thuốc có lợi tốt lành. Như thế, người bị rắn độc tham dâm cắn, vì thương xót họ, Phật Thế Tôn nói pháp, vô hành. Người ấy tin pháp này có thẻ cứu chữa, không thuốc nào khác, thì tâm dâm liền chấm dứt. Đo gọi là tin được giải thoát.

Hỏi: Thế nào là Hành?

Đáp: Hành là siêng năng, dấy khởi, thường niệm. Kinh nói siêng năng, dấy khởi, thường niệm là ba hành. Dậy khởi là làm thiện, như dùi cây lấy lửa, rồi gom phân bò cây khô mà nhóm lửa, và phải làm liên tục không nghỉ. Thường một lòng suy niệm như vậy, tâm ý tương ưng không nghĩ cái gì khác. Như lửa kia phựt cháy nơi tóc, mũ, thì chỉ còn cách lấy tay dập tắt mới thôi. Ba hạnh ấy là Hành.

Hỏi: Bất xả là pháp nào?

Đáp: Không buông bỏ là không lìa, không chán, không chuyển dời. Ba thứ này là Bất xả. Không lìa là không tính kể hết, tinh tấn làm mãi. Không chán là hành trì lâu dài, trong khi thực hành, không có ý mong chờ kết quả, nên không chán. Không đổi dời là không mong quả, dù được hay không được quả; nếu mong thì có lúc sẽ không thích làm, sẽ là tinh tấn gắng gượng! Cần phải buông bỏ ba trạng thái đó, cần phải nhắm tới kết quả theo đúng như đạo dạy.

Hỏi: Đã nói hành Tinh tấn, còn Niệm là pháp gì?

Đáp: Là nhớ nghĩ đến thân, thống (thọ), ý và pháp ở trong, ngoài và cả hai không quên. Kinh nói: Trong ngoài và cả hai trong ngoài. Nói không quên là nói Ý niệm trải qua. Nghĩ đến trong là nghĩ thân mình đã thọ nhận ấm-xứ-giới. Ngoài là những thọ nhận của người khác, và thọ, không thọ cả hai. Hoặc ba kiệt ở trong là chính, ở ngoài là chính, và trong ngoài là chính. Bên trong dâm là chính, bên ngoài giận là chính. Vì giận người khác chứ không tự giận. Hoặc có người cho rằng cảm giác dâm cũng do người khác làm, thì điều này không đúng nghĩa. Bởi bên trong nhiễm mới phát sinh cảm giác dâm với người khác, đó là do bên trong vốn đã chấp trước. Như Đức Thế Tôn nói: Thấy người nữ là do bên trong (lòng tham của minh) và nhãn căn. Chính là Kinh nói phế bỏ hai thứ. Tương ưng với ba kiệt, trợ giúp diệt ba kiết ấy là niệm nghĩ đến thân có ba thứ (trong, ngoài và cả hai) như trên nói. Như vậy, nói tương tự thống, ý và pháp, gộp thành mười hai niệm.

Hỏi: Tam muội (Định) là pháp gì?

Đáp: Là định Không, Vô tưởng, Vô nguyện.

Đó là ba Tam muội.

Không là sở hữu rỗng không.

Hỏi: Có nhiều loại không như thành ấp không, nhà cửa không, đây nói không nào?

Đáp: “Không” là Ngã tác, sở hữu tác và cả hai đều không thể thấy. Kinh nói: Ngã tạo tác, sở hữu tạo tác, và cả hai đều không thể thấy, nên gọi là không.

Hỏi: Pháp nào là Ngã tác, sở hữu tạo tác mà không thể thấy? Như Đức Thế Tôn nói: “Ta khi xưa là Bà la môn tên Chỉ-la-mạt (Ngã tác). Lại nái: “Này Tỳ kheo! Thấy tay Ta nắm hư không” (sở hữu tác). Đây phả chăng là không thể thấy?

Đáp: Đó không phải Ngã tác, sở hữu tác mà là Thế tục số. (giả hạnh). Nói Ngã ấm, giác là Ngã tác thì đức Thế Tôn cũng không can dự vào; nói cảnh giới thiện là sở hữu tác thì đức Thế Tôn cũng không có nói. Mà nói rằng Pháp ấn không, là thương hành quán thế gian này là rỗng không, lấy đó so sánh với cái tôi, cái Ngã sở hữu thì biết được cả ha đều không. Cho nên nói không thấy là không. Hỏi: Vô nguyện là pháp gì?

Đáp: Vô nguyện tương ưng với vô tác ở quá khứ, vị lai. Kinh nói vô nguyện, là nghĩa không lập, là không trụ ý vào quá khứ, hiện tại, vị lai, vì đó hết thảy đều là pháp hữu vi. Kinh Thuyết Xứ nói: quá khứ … Kinh lại nói: Vô nguyện là không có giác, thân minh và Niết-bàn không có ba nghĩa này. Tại sao là một nghĩa, nhiều nghĩa? Niết-bàn bỏ thân thì không có nhân duyên, giác tương ưng thì tất cả tư duy đã diệt, Niết-bàn tương ưng với vô tận giác, thì thân mình còn, không còn không nói.

Thế nên không nói ấy là Vô nguyện.

Hỏi: Vô tưởng là pháp gì?

Đáp: Là lìa tất cả hành, tác và cả hai. Lìa bỏ tất cả hữu vi là lìa tất cả hành tác. Nói tác là hành; nói hành là tác. Như bước vào vô minh thì phước, vô phước, A-ni-xà là nhân hành tác, mà có tiến gần đến Thức phát sinh, đó là hành; còn vô minh và hành tức là tác. Bỏ tất cả hữu vi là nói Vô tướng. Như Kinh Pháp Ấn nói: Sắc, tưởng không thể đạt được; ấy chính là nói tất cả hành tác và cả hai đều bỏ: Nên biết Không, Vô nguyện, Vô tướng như vừa nói, ấy là Định.

Hỏi: Trí là pháp gì?

Đáp: Là trí tương ưng với Kiến địa, phân biệt địa (Tu địa) và Vô học địa. Trí là trí giác, nghĩa là trí tuệ giác ngộ ở ba địa: Kiến, Tu và Vô học. Hiện ra tức là thấy (Kiến).

Hỏi: Cái gì hiện ra?

Đáp: Là các hành phân biệt Thánh địa, Căn, Lực, Giác báu, trước chưa từng thấy, nay luận ra. Ví như áo được giặt rất sạch, mà mùi thơm cũ của áo vẫn còn, sau đó dùng hương hoa rất thơm xông ướp. Như vậy gọi là Kiến địa. Ý tịnh, Thiền, Vô lượng, ngăn dứt cảm thọ, tăng nhân duyên lìa bỏ như xông hương thơm nhất, đó là Phân biệt địa. Vô học địa là dâm nộ si chấm dứt không còn nhân duyên nữa.

Hỏi: Trí của kiến địa là gì?

Đáp: Là Pháp trí, Quán trí và Vị tri trí. Nghĩa Pháp trí, Quán trí giống như người Thầy thuốc biết mụt nhọt kia non hay già mà dùng dao mổ ra. Sau đó dùng ngón tay xoa nắn huyết mạch lưu thông, không làm tổn tương gì rồi mổ mụt nhọt rộng ra. Người tu hành cũng vậy, biết hành dâm là khổ, vô thường… Hành vô thường khi đi vào Kiến địa thấy khổ liền đoạn, kiết sử liền bỏ, đều là do hai trí đoạn sao có thể chưa đoạn được! Hành như thế, phát khởi tư duy (Vị tri trí), biết cỏi Sắc, Vô sắc cũng vô thường giống như cõi Dục. Như thế là kiến khổ.

Biết lợi của hành dâm là cảnh giới của khổ, đó là Pháp trí. Như vậy tương tự Quán trí, vị tri trí đối với cõi Sắc, Vô sắc. Đó là ba trí của kiến Tập. Tương tự như vậy, ba trí phối với Tứ đế thành mười hai trí của kiến địa diễn rộng nên biết.

Hỏi: Phân biệt địa (Tu địa) có bao nhiêu trí?

Đáp: Tướng Trí biết về tướng, trí biết về hành và trí biết về chủng. Kinh nói: Tướng trí, hành trí, chủng trí, là ba trí của Phân biệt địa như đã nói ở trên.

Hỏi: Tướng là pháp nào?

Đáp: Là tướng sinh-trụ-hoại. Kinh nói: Tướng gọi là sinh, trụ, hoại. Sự sinh tương ưng với trụ, rồi lần lượt hư hoại vỡ nát.

Hỏi: Sẽ không ích lợi gì khi nói chúng sinh và Niết-bàn đều cho là có tướng (sinh, trụ, hoại). Bởi nói như vậy, thì Niết-bàn rơi vào Vô thường số, là lỗi rất lớn, nếu không như vậy thì Kinh nói sai sót lẽ ra chỉ nên nói hữu vi mới là tướng sinh, trụ, hoại? Vả lại nếu cho rằng nói như vậy là tăng công đức, thì thế nào là tướng công đức?

Đáp: Nếu nói Niết-bàn là tướng Ngã, thì có khác Ngã và không khác Ngã, thật ra Niết-bàn, không thể nói (bất khả thuyết). Bởi nếu nói khác thì Niết-bàn là có thường, nếu nói không khác thì Niết-bàn là vô thường, cả hai đều có lỗi. Do đó Niết-bàn là vô tướng không thể nói. Cho nên biết nói như vậy là có ích lợi, biết đó là tướng của pháp hữu vi. hơn nữa, nói như vậy thì tăng công đức, bởi trí biết rõ ba tướng như vậy mà tăng công đức tu hành.

Hỏi: Thế nào là hành?

Đáp: Là hành vô thường, khổ, vô ngã, kiến. Kinh nói: Hành là biết khắp về nghĩa, về tướng là hành. Biết nghĩa nầy là vô thường, thì biết Ấm vô thường, cho nên khổ; nói rằng khổ cho nên sẽ tương ưng với vô ngã, đó là biết về hành. Mọi pháp vô thường không tồn tại lâu dài, như bọt nước. Khổ vây ngặt, như là mũi nhọn đâm vào thân. Vô ngã, là do không có tự tại, như mượn thân thể để hoạt động. Đó là biết về hành.

Hỏi: Chủng là gì?

Đáp: Đó là khí vị (mùi vị ngon), tai họa và được lìa bỏ.

Hỏi: Là thuộc cái gì?

Đáp: Là hữu vi. Khí vi là nhiễm trước; tai họa là ác và được lìa bỏ là lìa bỏ nhiễm trước và ác. Dục lạc ở cõi Trời là khí vị. Địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ đau khổ là tai họa. Lìa bỏ Phật và ác vừa nêu là được lìa bỏ. Chánh kiến như vậy về công đức của chúng, thì ác kiến được cởi bỏ. Đó gọi là trí biết về chủng của Phân biệt địa.

Hỏi: Thế nào là trí của Vô học địa?

Đáp: Đó là Tì-xà-trí, thần thông trí và Biệt trí (Kinh nói Tứ biện tài). Tức là Minh đạt trí, Thần thông trí và Biện trí. Ba trí này của Vô học địa.

Hỏi: Minh đạt (thấu suốt) Pháp gì?

Đáp: Là trí thấu suốt sự việc đời trước, nơi sinh và lậu tận. Kinh nói: “Tiền thế niệm trí, Sinh xứ trí và Lậu tận trí”. Vì khả năng thấu suốt hữu làm chính nên Minh đạt còn có nghĩa là Tri (biết rõ). Tiền thế niệm trí là trí nhớ mọi sở hành của kiếp trước. Sinh xứ trí là trí nhớ hành quả đã được nhận. Lậu tận trí thì sẽ nói ở phần sau. Như ba kiết ở ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại thì quá khứ với mọi sở tác của mười tám kiến, vị lai bốn mươi bốn kiến, hiện tại thân kiến, trí đều biết rõ. Cho nên, Tiền thế niệm trí, Sinh xứ trí thấy rõ (giác) mọi hành nơi hiện tại, quá khứ, vị lai. Tiền thế niệm trí biết rõ đời trước, Sinh xứ trí biết rõ chỗ sinh đời trước, đời sau không quên.

Lại nói tiết Vô lậu trí (Lậu tận trí) đó là Tận trí, Vô sở sanh trí và Nguyện trí. Kinh nói: Moi kiết sử của ta đã chấm dứt hết, đó là Tận trí; sự sinh của ta không còn nữa, đó là Vô sở sanh trí (Vô sanh trí). Ví như Thầy thuốc trị bệnh nhân bị rắn cắn, đã hút hết chất độc, gọi đó là Tận trí. Nọc không còn phát bệnh lại nữa thì gọi là Vô sở sanh trí. Còn Nguyện trí tức là Thanh văn nhớ lại đời trước của mình, không nghĩ đến người khác. Vì thế trí trước nguyện cho người khác, nên cũng biết được đời trước của người khác, gọi đó là nguyện trí.

Hỏi: Thần thông trí là thế nào?

Đáp: Thần thông trí là Năng lực bay lên.-Nghe thấu suốt-Biết bay xa và thần thông biết tâm ý người khác. Năng lực bay … là nghĩa tự tại. Lục thông là ba trí nói trước cộng với năng lực baynghe-biết tâm ý người khác. Năng lực bay… sẽ nói ở phần sau.

Nói về nghe thấu suốt là do trước thực hành định, trong một nhân duyên nào đó rồi tăng trưởng phần đại địa ấy mà đạt được năng lực nghe. Vì thế có thể nghe tiếng Trời, Người tùy lực. Như thấy xa, thấy gần, tùy thị lực, giống như tùy định mà được như thế. Trí bết tâm ý người khác là như gặp chúng sinh nghe tiếng chúng sinh thì biết được ý nghĩa của họ.

Nói tiếp về Năng lực bay ( Như ý túc) đó là ba năng lực: bay lên không tự tại biến hóa tự tại và Thánh tự tại. Bay lên hư không tự tại là có thể vào trong nước, trong đất, ẩn hiện, xuyên tường nhà núi không ngăn ngại; tay chạm mặt trời mặt Trăng. Biến hóa tự tại là biến thành xe, người, núi, cây, thành, vườn, sông, nước. Thánh tự tại là khả năng trụ giữ, khiến hóa nước thành sữa, giữa chân mày phóng ánh sáng… như thế mà so sánh những thứ khác … Tóm lại ba loại của thần thông tín cộng với Thế niệm trí, Sinh diệt trí nói ở trên, gọi là Ngũ thông của người phàm phu.

Hỏi: Biện trí là thế nào?

Đáp: Là phương tiện biết rõ (giác) pháp, nghĩa, ứng và phân biệt. kinh. Kinh nói: Giác pháp phương tiện, Giác nghĩa phương tiện, Ứng phương tiện, Phân biệt phương tiện gọi là Tứ biện tài. Trong đây, Giác pháp là biết rõ về danh cú của các pháp, giác nghĩa là biết rõ nghĩa vốn có của danh cú ấy. Như biết lửa là danh (tên gọi), sự đốt nóng là nghĩa của danh ấy. Ứng với danh như vậy, hợp với sắc là nghĩa, cùng biết rõ phân biệt, không quên. Với danh như vậy, tùy thích ứng như vậy, báo quả như vậy không tà vạy, điên đảo mà biết. Các biện tài này là trí của Vô học địa.

Hỏi: Tư duy về Giới, Định trong Học, Vô lậu, vì sao không nói thành ba loại?

Đáp: Không có giới riêng tăng ích cho Học lìa bỏ sát sinh, chúng sinh hộ trì, mà A-la-hán thì không. Cho nên không phiền nói Học. Biết ý như thế, không cần nói nhiều, tức biết cũng có ba loại thôi.

Như vậy, trong ba pháp của Bà-tố-bạt-đà nói, hai giải thoát độ lần lượt (Cụ và Phương tiện đã nói xong).

THỨ BA

Hỏi: Trước đã nói Cụ Phương tiện, tiếp đây nói Quả, Quả là những gì?

Đáp: Thanh văn, Phật Bích chi, Phật, đó là ba quả.

Hỏi: Quả thuộc cái gì?

Đáp: Quả thuộc Giới, Tức và Trí.

Hỏi: Nói đầy đủ (Giới, Tức, Trí) là nói thuộc Quả hoặc Đạo?

Đáp: Đạo, đây nói Hữu dư là Quả dục, ngoài đó ra không còn sót gì, nghĩa ấy đức Thế Tôn đã nói là Vô dư Niết-bàn (Kinh nói). Thế cho nên, nói là: Vô ác. Đức Phật gọi là bậc đã giải thoát tất cả kiến sử, có Thập lực, bốn Vô úy, tự mình hờ tất cả Phật pháp mà chứng đắc, cùng các Đức Phật không hề khác, nên Giới, Định, Tuệ không có sai khác. Bích-chi-Phật gọi là nương tựa chính mình, thời ấy không có nghĩa Giới Định Tuệ khác, mà do chứng đắc không thì người khác nói; còn Thanh văn thì từ người khác nói. Hoặc giải thoát có đủ hai loại: Gia tăng lòng thương xót, gia tăng lòng chán ngán. Nếu gia tăng lòng thương xót mà đắc đạo, ấy là lúc chứng quả Tam-da-tam-bồ (Phật). Nếu chán ngán thì có hai: Do tự minh sinh và nhờ người khác. Do tự mình sinh ấy là Bích-chi-Phật; nhờ người khác đó là Thanh văn. Hoặc cho rằng bậc tát văn nhã đầy đủ công đức, lìa tất cả ác thành quả Đẳng chánh giác. Bích-chi-Phật tuy có bỏ tất cả ác, nhưng công đức còn ít. Thanh văn thì nhờ người khác dạy bỏ mà lìa ác.

Hỏi: Thế nào Phật Phật như nhau không có trung gian sai biệt, thì cho đến Thanh văn cũng như vậy?

Đáp: Thanh văn có ba loại: Lìa bỏ kiết, không lìa và A-la-hán. (Kinh nói là Thanh văn có trung gian căn sai biệt. căn nhân duyên với Tín căn làm đầu, được tăng trưởng thành ba hạng hạ, trung, thượng. Dựa vào cơ sở này mà có các loại Thanh văn, tất cả các địa.

Hỏi: Pháp nào gọi là lìa bỏ kiết?

Đáp: Là Tín giải thoát, kiến đắc và Thân chứng. Kinh nói: Tín làm chủ lực vượt qua đến bờ giác ngộ kia gọi là Tín giải thoát, lấy tư duy làm chủ lực giải thoát gọi là Kiến đắc. Giải thoát cả hai loại vừa nêu gọi là Thân chứng. Vô lượng hành này, nay sẽ diễn bày.

Tín giải thoát là ba loại: Thương đạo Niết-bàn, Hành Niết-bàn và Vô hành bát Niết-bàn (Kinh nói:

Thượng đạo đạo là tích (dấu vết). Ba loại Niết-bàn này là Tín giải thoát. Thượng đạo là lợi ích cho hành giả đạt đến phần đạo cao hơn. Hoặc dấu vết là đạo, người ấy hành bát Niết-bàn gọi là thực hành nhân duyên với đạo, nghỉ ngơi rồi tiến đến Vô hành bát Niết-bàn. Gọi là không nhanh chóng nhập Niết-bàn, nhờ duyên với đạo mà bát Niết-bàn. Ba loại này là Tín giải thoát.

Hỏi: Pháp nào là kiến đắc?

Đáp: Là trung gian bát Nết-bàn, sanh bát Niếtbàn và Thánh đạo bát Niết-bàn đã nói ở trên, Trung gian bát Niết-bàn, là giữa thời gian chết ở cõi này, chưa sinh đời sống khác mà nhập bát Niết-bàn. Như đốm lửa nhỏ chưa rơi xuống đất đã vụt tắt. Sanh bát Niết-bàn là đã sanh đời sống khác, đắc đạo rồi nhập Niết-bàn. Như đốm lửa lớn rớt xuống đất mới tắt. Thượng đạo thì như trước đã nói. Nên biết kiến đắc là ở cõi Vô sắc.

Hỏi: Thế nào là Thân chứng?

Đáp: Đó là Hành, Vô hành và Sinh bát Niết-bàn đã nói ở trước. Hỏi: Sao nói lặp lại?

Đáp: Không nói lại, mà vì nhân duyên khác cõi. Giải thoát cỏi Sắc, cả hai đều ở trung gian bát Niết-bàn, không là trung gian hữu (trung hữu), của cõi Vô sắc. Vả lại hai loại trước không là quả báo giải thoát, chỉ thân chứng mới là quả báo giải thoát. Ý nghĩa giải thoát sẽ nói ở phần sau.

Hỏi: Thế nào là không lìa bỏ kiết?

Đáp: Là thứ tám, Tu-đà-hàm, bạc địa. Ba loại này gọi là chưa lìa bỏ kiết.

Hỏi: Sao gọi là thứ tám, theo số đếm phải là thứ nhất chứ không là thứ tám. Sinh trước rồi sau làn lượt đến A-la-hán, thì A-la-hán phải là thứ tám chứ?

Đáp: Như người sinh tám người con, người con lớn không thể gọi là thứ tám, mà người sau cùng mới là thứ tám. Đức Phật muốn nói đến công đức của bậc A-la-hán là thứ nhất, lớn nhất không còn các Kiết sử, do đó công đức hỏi trước tương ưng gọi là thứ tám. Hoặc tùy theo sách phân định là thứ tám.

Hỏi: Thứ tám là thế nào?

Đáp: Là Tín, Tư duy và cả hai đều tăng trưởng. Bao gồm người, thần, những họ tộc này vốn đầy đủ tin và tư duy. Hoặc từ tin mà trí tuệ phát triển theo, hoặc trí tuệ mạnh, có đức tin phát triển theo. Hoặc cả hai đều mạnh có phát khởi Pháp trí. Từ tin kiên cố mà hành là hạ căn, từ tư duy kiên cố mà tin sau là trung căn. Cả hai đều kiên cố là lợi căn. Ba loại này gọi là thứ tám. Lại do thấy đế, lòng tin tăng trưởng thì nhận đủ bảy lần sinh tử, có trí tuệ tăng trưởng thì trụ ở trung gian, có cả hai tăng trưởng thì nương vào Gia gia. Như vậy gọi là Kiến địa. Tiếp đến Phân biệt địa dần dần tiến lên Bạc địa. Lại an trụ ở đức tin mạnh là Tư-đà-hàm có trí tuệ gia tăng là trụ ở trung gian, có cả hai gia tăng là chỉ nhận một làn sinh tử (Nhất lai). Lại chấm dứt nhân duyên hành dâm, tin tăng trưởng gọi la Tín giải thoát, tuệ tăng trưởng là Kiến đắc: cả hai đều tăng trưởng là đắc thân chứng lìa cõi Sắc. Chấm dứt nhân duyên không còn, mà tin mạnh đó là hạ căn; tuệ mạnh là trung căn, cả hai đều mạnh là thượng căn. Như thế mà hướng lên cõi trên như, mặt trời ló dạng từ từ dâng cao.

Hỏi: Đã nói thứ tám, phân biệt dần dần sinh thành mạng lưới công đức, không biết sẽ nói đó là gì?

Đáp: Là Tu-đà-hoàn. Đó là trọn đủ bảy lần sinh tử, Gia địa và trụ ở trung gian. Kinh nói: Tu-đàhoàn là trụ ở Sơ quả thứ hai (Tu-đà-hoàn hướng, Tu-đà-hoàn quả). Cầu dấu vết đạo thứ hai, vì nói sự vận chuyển ấy nên gọi là Tu-đà-hoàn. Với thân kiến, nghi, hoặc, dứt đọa nẻo ác là hạ căn, nhận đủ bảy lần sinh tử Trời, người hưởng lạc rồi bát Niếtbàn. Gia gia là lợi căn trụ ở Sơ quả. Chấm dứt những nhân duyên do Phân biệt địa đoạn, kiên cố mà thực hành, tư gia đến mà bát Niết-bàn. Trung gian trụ là không hẳn nhận đủ bảy lần sinh tử, không hẳn trụ ở Gia gia, mà giữa khoảng này bất cứ lúc nào có thể nhập Niết-bàn.

Hỏi: Đã nói Tu-đà-hoàn, thế nào gọi là Bạc địa?

Đáp: Là Tư-đà-hàm Nhất tử, Nhất sanh và trung gian trụ. (Kinh nói: Nhân duyên hành dâm mỏng yếu, nên gọi đây là Bạc địa). Đây nói Nhất tử là cõi này mạng chung sinh lên cõi Trời. Nhất sinh là quay trở lại nhập Niết-bàn. Mọi nhân duyên phần trên mỏng dần, đó là Ngũ dục cõi Sắc, cõi Vô sắc, kiêu mạn, Úc-đạt-trá (thuần thí), Vô minh một lần sinh, một lần hữu trở lại thì bát Niết-bàn; tăng trưởng sự chấm dứt các nhân duyên ấy. Trung gian trụ là gồm đủ hai loại vừa nêu. Đó gọi là Thanh văn không lìa bỏ kiết.

Hỏi: Thế nào là pháp của Thanh văn A-la-hán? Đáp: Là ba hạng hạ, trung, thượng căn A-lahán. (Kinh nói: A-la-hán là nghĩa cúng dường).

Nghĩa tương tự chính là nghĩa A-la-hán.

Hỏi: Chỗ nào cúng dường?

Đáp: Hết thảy chúng sinh cúng dường ba loại hạ, trung, thượng căn A-la-hán.

Hỏi: Thế nào là A-la-hán lợi căn?

Đáp: Là A-la-hán trụ kiếp tận, năng hoại hữu và Vô nghi. Biết đời sống này đã chấm dứt, phân biệt kiết đã hết, đã vượt qua mà an trụ, nên gọi là A-la-hán trụ kiếp tận. Lại tất cả kiết diệt tận càng tăng, cầu khả năng vượt qua, cho nên gọi là A-lahán năng hoại hữu. Với đủ mọi tăng trưởng, thấu suốt thần thông, biện tài, không còn nghi hoặc pháp gì nữa, đều hoàn thành không ngăn ngại, đó là A-la-hán vô nghi.

Hỏi: A-la-hán độn căn thì thế nào?

Đáp: Là ba hạng A-la-hán: Giảm pháp, Niệm và Hộ.

Giảm pháp đó là tăng thượng rồi thoái lui, cho nên ý nguyện giảm sút, giảm sút tu đạo. Đây là giảm sút pháp tu, không là giảm sút thành chúng sinh, mà chính là giảm xuống Phân biệt địa (Tu địa) để tu hành. Như nói Kinh điển không tụng thì sẽ quên mất, hành giả tăng trưởng tụ hành nên rớt xuống Phân biệt địa. Niệm là hành giả tư duy là đã được quả A-la-hán rồi, nhưng dụng hành yếu kém, trụ lại những gì đã làm, vì nghĩ rằng: Người thế gian phần nhiều hành sự theo đủ mọi ý, như đức Thế Tôn nói đó là y phục, trao nhận … (luôn nghĩ đến không lìa bỏ). Vì thế mà bản thân nghĩ đến hoại bỏ thân mạng này. Đó gọi là hạng A-la-hán Niệm. A-la-hán là không muốn giảm sút, không suy nghĩ phải loại bỏ thân mạng này, mà thường ra sức hộ trì, như người nghèo được của mà giữ gìn. Ba hạng ưa nói, gọi là nhân duyên của loại A-la-hán độn căn.

Hỏi: Đã nói về độn căn, thế nào là hạng A-lahán trung căn?

Đáp: Là Tuệ giải thoát, tận giải thoát và Bất tận giải thoát báo. (Kinh nói: Tuệ giải thoát và Câu phần giải thoát). Câu phần giải thoát có hai: Tận giải thoát, và Bất tận giải thoát báo, đó gọi là Câu phần giải thoát. Tức là giải thoát đều đã tăng trưởng rồi.

Hỏi: Thế nào gọi là giải thoát?

Đáp: Là giải thoát Dâm, Sắc và hỗ trợ Dâm, Sắc, tất cả đều diệt trừ. (Kinh nói: Dục giới, Sắc giới và cả hai hổ trợ địa trên mà trụ. Tâm giới đều diệt trừ), gọi là ba hành giải thoát. Vì giải thoát kiết sử nên gọi là giải thoát.

Hỏi: Thế nào gọi là hổ trợ dâm?

Đáp: Là đối với có sắc, không sắc ở bên trong (trung gian) tưởng bất tịnh và tịnh. (Kinh nói: Đã tăng trưởng ham muốn bên trong thân mình, thì ham muốn thân mình cũng tăng). Nghĩa này gồm có hai: tưởng sắc và tưởng chẳng hoại sắc mà sắc bên trong không phân biệt. tưởng sắc hai có hai: Nghĩa là quán sắc ở gò mả, nghĩa địa với thịt thoái rửa, mắt mổ ra, ruột bụng chảy rỉ nước bất tịnh, chỗ tiểu tiện, hàng trăm côn trùng cắn xé, chim quạ tranh nhau ăn, tay chân đầu lâu phân lìa vung vải mỗi nơi. Thấy như vậy liền phát khởi ý nghĩa giải thoát khỏi điều ác, ý vào định. Đó là bên trong có sắc tưởng bất tịnh (bên ngoài) mà giải thoát. Tiếp đến đã phân biệt sắc trong nội thân của chính mình, do đó định trụ ở không có sắc bên trong tâm, như vậy mà nghĩ đến thân người khác. Đó gọi là bên trong lìa dâm tưởng bất tịnh mà giải thoát. Tưởng chẳng hoại sắc là tưởng tịnh mà giải thoát. Tưởng các nhân duyên như y phục, hoa… là màu xanh, đỏ, vàng, trắng, phát ý niệm an trụ không lay động.

Đó gọi là tưởng tịnh mà giải thoát.

Hỏi: Thế nào là trợ sắc?

Đáp: Là nói cõi Vô sắc, do bỏ sắc kiết sử nên phát khởi trụ vào bốn ý, vẫn là hữu lậu là phước hỗ trợ sắc kia. Ý nói đều bỏ.

Hỏi: Thế nào là diệt?

Đáp: Thức là chính và các tâm tương ưng đều diệt, hướng đến vô lậu chánh thọ A-la-hán cả hai đều bỏ.

(Bà-tố-bạt-đà đã nói xong phần thứ ba (Đắc) trong pháp độ đầu (Đức).

THỨ TƯ

(Ba pháp của công đức đầu đã nói xong; tiếp nói phần đầu của pháp độ thứ hai: Ác)

Hỏi: Đã nói rộng về công đức tức công đức trong ba pháp độ gọi là Ác?

Đáp: Là khổ hành, ái và vô minh. Kinh nói: Khổ hành, ái và vô minh, là nói sơ lược, vè Ác nên biết. Tạp ác làm bổn hạnh thiện gọi là tạp ác. Như người ngu luôn nghĩ về tạp ác, như heo ưa thích chỗ bất tịnh.

Những khổ hành trong đời này là thân, khẩu, ý khổ hành. Kinh nói đó là Ác số. (Tâm sở ác). Đầu tiên là ba loại: Thân khổ hành (ác hành), khẩu khổ hành và ý khổ hành. Khổ hành là hành động ác đối với chúng sinh, là hành động và ý niệm ác.

Hỏi: Thế nào gọi là thân khổ hành?

Đáp: Thân khổ hành là giết-trộm-dâm. Kinh nói: Hành động ác (khổ hành) của thân Giết-TrộmDâm, nên biết là hành động của kẻ ngu.

Hỏi: Tôi biết thân khổ hành này có ba, sao gọi là giết?

Đáp: Là Niệm, Giáo và Hành (nghĩ đến dạy bảo người khác và tự mình hành động giết). Ngoài ra, không cho mà lấy và nhân duyên hành dâm ngu si, cũng giống hư giết, nghĩa là phân biệt làm ba: Niệm, Giáo, và Hành.

Hỏi: Đã biết trộm và dâm cũng phân biệt làm ba như giết, không biết thế nào là Niệm?

Đáp: Đó là ý nghĩ đến ham muốn, muốn hành động, và người khác làm thì mình vui. Kinh nói: Niệm là suy nghĩ để ý đến ham muốn làm, dạy người khác làm, và người khác làm mình vui theo. Như giết côn trùng, muốn giết bèn bảo đầy tớ giết, họ giết rồi, mình khen ngợi vui mừng, đó gọi là Niệm giết.

Hỏi: Pháp gì gọi là Giáo.

Đáp: Là dạy bảo, sai làm và cho phép làm. Ba thứ này tùy chỗ mà gọi là Giáo. Như có người hỏi: Bà-la-môn coi dê là con vật hàng đầu? Kẻ nhà giàu kia định ăn thịt nên y nói dối, là giết để chúng tế. Đó là dạy người ta giết. Sai lệnh làm như lệnh vua sai giết bọn ấy, giết không còn sót. Nghe cho làm là như sai người, đến đó và nói: Ta có kẻ oán, họ phiền nhiễm, ta sẽ báo oán. Người kia vì quý mình nên trả lời: Vâng! Tôi sẽ làm. Đó gọi là nghe cho làm.

Hỏi: Thế nào là Hành giết?

Đáp: Là hành động giết đối với chúng sinh tưởng đến xả bỏ, đoạn mạng chúng sinh ấy.

Kinh nói: Giết chính là nghĩa đó. Người giết nhận biết phân biệt được và cho phép thì miệng-ý hành ác nên biết cũng vậy. Tưởng chúng sinh kia, bỏ và đoạn mạng sống là ba lối giết. Đầy đủ ba thứ này có nghĩa gì? Thầy thuốc giỏi, biết chứng bệnh phù thũng, nên ông mổ trị, nhưng đang khi mổ thì bệnh nhân bỏ mạng. Như vậy, không phải thầy thuốc có ý giết họ. Người bệnh kia cũng không hề có một chút ý niệm là mình bị giết, bỏ mạng, do đó đối với ông thầy thuốc, đấy không phải là tội giết. Ở đây không có ý nghĩa của sát sinh. Cả ba đều không gọi là hành động vực giết.

Hỏi: Không cho mà lấy là sao?

Đáp: Không cho mà lấy là có ý tưởng nghĩ đến vật của người khác, biết rõ của người khác mà lén trộm lấy. Kinh nói: Đó là của tiền của kẻ khác, người kia biết đó là của người khác mà giữ lấy. Như vậy, ba động tác tương ưng nhau. Không cho mà lấy còn có nghĩa gì? (Một là của người ta, hai là biết của người ta, ba là giữ lấy). Của người ta mình giữ mà bị mất, thì không phải là trộm, vì ăn trộm biết rõ mình là kẻ trộm (nếu biết rõ lý: Của người ta như của mình, thì không còn tâm ăn trộm), người này dường như biết mất nhưng không phải là kẻ trộm. Lại nữa, nếu lấy của người khác, mà không có tâm ăn trộm, thì không có lỗi. Ví như người hái lấy hoa quả nơi ruộng quen, để cứu lấy sự mất giống trái mùa.

Hỏi: Thế nào là hành động dâm ngu?

Đáp: Là phạm dâm tha thọ, pháp thọ và cách dâm. (Kinh nói hành dâm ngu tóm lược có ba loại đó là phạm tha thọ, pháp thọ và cách dâm (phạm dâm với vợ chồng người khác, phạm dâm phi pháp và phạm dâm phi đạo).

Hỏi: Kinh nói dâm là gốc, tại sao còn nói hành dâm ngu (tà dâm)?

Đáp: Là phân biệt giữa đạo nhân và bạch y (Xuất gia và tại gia). Người xuất gia ý tuyệt đối nói là không dâm, đó là ác hành. Còn người tại gia nói ác hành tức là không cưỡng ép người để hành dâm, chứ không đoạn dâm. Nếu cưỡng ép người hành dâm tức gọi là ác hành. Nếu tại gia hành dâm đều xem là phạm ác hành, thì Tu-đà-hoàn cũng phạm ác hành. Đã không như vậy, thì biết tùy theo loại người mà nói. Do đó, hành ngu dâm còn có nghĩa là bất tịnh hạnh. Do đó, phân ra hái là dâm và tà dâm cho hai loại người là xuất gia và tại gia, đoạn và không đoạn dâm.

Hỏi: Thế nào là phạm dâm tha thọ?

Đáp: Đó là phạm dâm với vợ chồng của người khác, với đối tượng vốn của bà con, với đối tượng thuộc quyền sở hữu của vua. Lấy vợ (hoặc chồng) của người khác, tức người khác đã là chủ nhân, có hai loại: người con gái đến tuổi và còn nhỏ.

Trường hợp đến tuổi, theo gia pháp của phương thổ, người con gái kia là thuộc ông chủ, nếu phạm dâm với người con gái ấy, tức là tà dâm. Trường hợp còn nhỏ, chưa bị quản thúc (buông thả), nhưng bắt đầu đã nhận lễ vật, cho đến chưa tới kỳ hẹn lấy chồng, nếu phạm với người con gái ấy, thì gọi là tà dâm. Lấy vợ là của thân nhân, tức đã biết người con gái ấy thuộc bà con dòng họ bên cha, mẹ, dì …. Hoặc là gái nhỏ không chồng lấy về nuôi dưỡng (con nuôi) rồi sau đó phạm dâm, đều gọi là tà dâm. Lấy vợ là sở hữu của vua, là người con gái ấy không chồng, không bà con nhưng thuộc quyền của vua, nếu phạm dâm với người con gái kia, đều gọi là tà dâm.

Hỏi: Thế nào là phạm pháp thọ?

Đáp: Là phạm dâm với nữ nhân đang thọ Học, thọ Trai pháp và thọ gia pháp. Nghĩa là người chồng trước đã cho người nữ (vợ) thọ pháp Học, sau đó lại phạm dâm; hoặc thọ pháp Trai (Bát quan Trai), sau lại phạm dâm. Còn phạm gia pháp là phạm dâm với bà con như đã nói trên.

Hỏi: Thế nào là cách dâm (dâm phi đạo)?

Đáp: Là hành dâm vào chỗ khác, không phải đường sinh nở của phụ nữ, như chỗ sơn trì (hậu môn) của người nam. Hoặc cưỡng dâm, hoặc dâm vợ người đồng tình (nam) đều gọi là cách dâm (tà dâm phi đạo).

Hỏi: Còn có nhiều nhân duyên, là kiết hành của dâm, không thể nói hết. Nếu không nói thì không đủ?

Đáp: Nói như vậy là đã đầy đủ. Như nói dâm ở chỗ không phải đường sinh nở của nữ nhân, là đã biết nói đến súc sinh, và những cách tà dâm khác…. Thế cho nên nói như vậy đã đủ.

Hỏi: Từ đâu dấy khởi hành động phòng nghĩa ấy?

Đáp: Nên biết tất cả từ tham dâm, sân khuể và ngu si mà dấy hởi ra.

Hỏi: Nói tất cả, thì thế nào nói là sát, đạo, dâm?

Đáp: Không nói là tất cả. Nếu nói tất cả thì không thể kinh nói dâm là hành tạo tác thành hữu, là căn bản của tất cả thọ. Cho nên biết thân, khẩu khổ hành còn ý khổ hành sẽ nói riêng.

Hỏi: Pháp nào hiển hiện trong ba sự trái nghịch. Tại sao? Vì không có nghĩa lạc thống (cảm giác vui) nhất thời có giận, có khổ thống (cảm giác khổ) ham muốn dâm? Lạc thống mới nói hành dâm là kiết, thế pháp gì gọi là giận?

Đáp: Tôi không nói tham dâm, sân khuể, ngu si mà nói đó là do ý mong muốn trước. Nghĩa là có ý muốn lấy tiền của trước, nên khởi lên giận mà giết. Như vậy ăn trộm do ý khởi giận trước. Như thế, dâm với em gái, ta sẽ báo thù, sau đó khởi lên đắm trước mà hành dâm. Như vậy, giận là ý muốn trước khi hành dâm. Do đó nói đằng khởi (nhất thời cùng khởi) cũng không sai.

Hỏi: Đã nói khổ hành của thân đều từ tham dâm, sân khuể, ngu si sinh ra, thế nào là khổ hành của miệng?

Đáp” là nói lời bất như, vô như và bất yếu. Tuy khổ hành của miệng có bốn, nhưng nói ba loại gồm đủ cả bốn.

Hỏi: Thế nào là nói lời bất như?

Đáp: Là nói lời không thật, không giống như mình hiểu biết, vì tưởng đến lợi sở hữu của mình mà nói với người nghĩa khác đi. có ba ngã dẫn đến nói không thật, đó là vì mình vì người và vì lợi. Vì bản thân mình là biết sở hữu của mình, tự mình che giấu ý nói khác đi. vì bản thân là vì mạng sống của mình. Vì người khác là vì người thân, vì lợi (nghĩa) là những thứ được làm ra (của cải). Đức Thế Tôn cũng nói vì mình, vì người, vì lợi ăn uống, tiền của nhưng ở chúng, quyến thuộc đã biết rồi (không che giấu nói khác), cho nên không phải là vọng ngôn.

Hỏi: Thế nào là nói lời vô như?

Đáp: Là nói lời không có ái niệm tương ưng, không có nhân duyên niệm tương ưng và không có cả hai tương ưng. Không có ái niệm tương ưng mà nói ra, đó là lời nói thô ác. Nghĩa là không có ý niệm yêu thích, giận dữ mà nói. Nếu vậy, không có lời thô ác là vì nghĩ đến mình mà dấy khởi khổ hành (ác hành) của miệng, và đức Thế Tôn cũng sẽ có lời nói thô ác? Không phải vậy, đức Thế Tôn vì yêu mến, mong muốn độ cho Điều Đạt mà giận dữ nói, cho nên không gọi là nói lời thô ác. Còn trường hợp vì nghĩ đến mình, như người mù hận bản thân mù mà thốt ra lời nói ác, giận dữ nói, thì đó là lời nói thô ác, do không có ái niệm tương ưng.

Nói lời tương ưng với nhân duyên niệm, tức nói lời chân thật, chính xác có ý nghĩa nhân duyên. Ngược lại không có nghĩ đến nhân duyên mà nói ra, thì đó là lời nói lưỡng thiệt (lưỡi đôi chiều). Nếu với ý niệm làm tăng trưởng tương trợ đời sống này thì không phải lưỡng thiệt. Nếu không như vậy, thì đức Thế Tôn cũng nói lưỡng thiệt. Như đức Thế Tôn với mục đích học đạo làm chính, muốn bọn ngoại đạo lợi ích rồi tự họ tu hành mà nói làm họ chia lia với đạo cũ, đây không phải là lưỡng thiệt. Do đó với ý niệm ác làm người khác chia lìa mà nói, đó mới là nói lời lưỡng thiệt.

Lời nói không có cả hai tương ưng là không có ái niệm, không có nhân duyên niệm tương ưng. Tức vọng ngôn, thô ngôn, không vọng ngôn, lưỡng thiệt.

Hỏi: Thế nào là nói lời bất yếu?

Đáp: là nói lời không cần thiết ở phi thời, phi đế, phi nghĩa. Ba thứ này tóm lược tiếng Phạm gọi là A-bạt-độ-lô-chá-na (Trung Hoa dịch là Bất yếunghĩa là không cần thiết). Nói Phi thời là lời nói không đúng thời. Như thời tương ưng sinh ly thì nói nhân duyên tụ họp, thời tương ưng tử biệt thì lại nói cảnh làm lễ cưới hỏi trao tay nhau.. mọi sự cát tường tùy theo ý muốn … Hoặc gặp cảnh hiện hữu thay vì chúc mừng ông, lại nói nhân duyên vô thường, các pháp hư hoại, hễ có hiện hữu ắt sẽ suy tàn, chia lìa sự dâm dục ấy. Như vậy, mặc dù người kia nó đúng theo nghĩa mà Phật, Bích-chi-Phật, Bồ tát đã nói, nhưng do nói không hợp thời, cho nên gọi là lời nói không cần thiết.

Nói lời phi đế là nói lời không đúng sự thật, tưởng là thật mà nói không thật. Như bọn Ni-kiềntử nói (nghĩ lời thầy nói là Chân đế, mà thực sự là tà đạo). Thầy của ta là Tát-vân-nhã. Người kia tưởng như thế tức là nói lời bất yếu. Vì sao? Vì nghĩa thật sự Thầy ta không phải là Tát-vân-nhã mà nói là Tát-vân-nhã, vì muốn tăng phẩm giả của Thầy mà tưởng nói như vậy. Đây cũng là vọng ngôn. Vì sao? Vì nghĩa thật sự Thầy ta không là tát-vân-nhã mà nói Là tát-vân-nhã.

Nói lời phi nghĩa (vô ngã), như lời nói cười đùa, ca hát, buồn rầu… tất cả những điều nói ở trên gọi là khổ hành của miệng.

Hỏi: Thế nào là khổ hành của ý?

Đáp: Đó là ý tham, sân và tà kiến.

(Kinh nói: Ý nghĩ hành sự ác).

Tham là mong muốn được sở hữu của người khác.

Hỏi: Nếu tham là muốn được vật sở hữu của người khác, thì có lỗi nói trùng lặp phần nói về Niệm (trong phần nói về Niệm (trong phần sát sinh) ở trước tức là ý nghĩ muốn, tự làm, người khác làm mình hoan hỷ?

Đáp: Không có lỗi nói trùng lặp. Bởi Niệm nói trước là ý muốn được, ý muốn được mà muốn hành động, còn đây là ý muốn, mà không muốn hành động. Nghĩa là muốn vật sở hữu của người khác là của mình, ý tham đắm vào vật của người khác làm chính.

Sản là tương ưng với ý niệm nhiễu hại người khác.

Hỏi: Thế nào là Tà kiến?

Đáp: Là kiến chấp trái ngược về hành, kiến chấp trái ngược về quả và kiến chấp không có gì cả.

Tóm lược có ba loại này, phân biệt thì rất nhiều. Chấp lấy những thứ kỳ dị khác với mọi người cũng gọi là tà kiến.

Hỏi: Thế nào là kiến chấp trái ngược về hành?

Đáp: là hiểu biết bất tịnh và tịnh, hiểu biết tịnh và bất tịnh, hiểu biết cả hai là một, hoàn toàn trái ngược. Như tịnh thì hiểu là bất tịnh, bất tịnh thì cho rằng là tịnh, hoặc hiểu cả hai đều là một. Như đắm trước thân khẩu ý hành tác bất ái (bất thiện) thì thấy là ái (thiện), bất tịnh thấy là tịnh và thấy cả hai đều là một loại.

Hỏi: Thế nào là kiến chấp trái ngược về quả?

Đáp: Là chấp trái ngược trên Trời là khổ, Niếtbàn là khổ. Như vậy mà chấp quả tịnh là do ý bất tịnh, các nẻo là vui thế gian là vui, như vậy mà chấp quả bất tịnh là do ý tịnh. Hoặc các nẻo khổ, như vậy mà chấp đều có tịnh và bất tịnh.

Hỏi: Thế nào là kiến chấp không có gì cả?

Đáp: Là kiến chấp không có hành tác, không có quả, không có chúng sinh… Ba thứ này là kiến chấp không có gì cả. Kiến chấp không có gì là hành tức là không có bố thí, không có ái quả, không có hành tác thiện, bất thiện. Kiến chấp không có quả là không có quả báo do cực lực làm, không cực lực làm, không có cõi địa ngục, súc sinh ngạ quỷ. Kiến chấp không có chúng sinh, là chấp không có cha mẹ, không có chúng sinh, hóa sinh, thế gian, Sa-môn, Bà-la-môn…

Như thế, phân biệt tà kiến thì rất nhiều. Tóm lại ba thứ nói trên (tham, sân, tà kiến) gọi là khổ hành của ý. Nó là nhân sở tác của vô thiện (ác) làm điên đảo thiện là căn bản mà giới phải trừ bỏ. (Bàtố-bạt-đà đã nói xong phần đầu (khổ hành) trong pháp độ thứ hai (Ác).

QUYỂN HẠ

THỨ NĂM

(Phần hai của pháp độ thứ hai: Ác) Đã nói ác hành (khổ hành), thế nào gọi là Ái?

Đáp: Đó là Dục, khuể và tật đố (Kinh nói: Tật đố tức kiêu mạn. Người kiêu mạn do bởi tật đố). Ba thứ này gọi là Ái, khát ái. Chúng là ba thứ tương tợ, có vô số hiện hành.

Hỏi: Là thế nào?

Đáp: Dục là đắm trước ở Dâm, đắm trước ở Hữu và đắm trước Phạm hạnh. Đó là ba thứ Dục. Trong đây đắm trước ở Dâm là tham đắm năm cảnh giới dục: sắc, thanh, hương, vị, xúc trơn láng.

Dựa vào đây, chúng sinh thường nhiễm trước, mà không nhiễm trước nhiều ở vật khác. Đắm trước ở Dâm đó là tham đắm vào con trai, con gái, và ái nam ái nữ. (Kinh nói: nam tưởng dâm đối với nữ, nữ tưởng dâm đối với nam. Nam, nữ đều tưởng dâm đối với ái nam ái nữ).

Hỏi: Mặc dù Sư nói tham đắm trong sắc, nhưng nay lại nói tham đắm ở con trai, con gái và ái nam ái nữ. Vì sao nói như vậy, vì sao không có lỗi nói lặp lại?

Đáp: Tham đắm con trai, con gái, ái nam, ái nữ đều nhân nơi sắc làm gốc, mỗi mỗi tham đắm đều có sai biệt, không có tham đắm vật khác nhiều hơn sắc… này. Đức Thế Tôn cũng nói: Ta thấy khắp nơi (mười phương đại thiên thế giới) không từng có đắm trước trong một sắc nào bằng là đắm trước trong một sắc nào bằng là đắm trước sắc nam, nữ, ái nam nữ. Vì thế nói tham đắm sắc trong cảnh giới ngũ dục, cũng không sai. Lại tham đắm có ba hạng: nhỏ, vừa và lớn. Nhỏ là nam tham muốn, vừa là nữ tham muốn, lớn là tham muốn của ái nam ái nữ. Thế cho nên gọi là dâm dục.

Hỏi: Thế nào là đắm trước Hữu?

Đáp: Là đắm trước (dâm) ở Dục hữu, Sắc hữu và Vô sắc hữu.( Kinh nói tham đắm ở cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, gọi là đắm trước Hữu).

Hỏi: Như đắm trước ở Dâm trước đã nói riêng là tham đắm con trai, con gái, ái nam ái nữ, nay vì sao lại nói đắm trước hữu?

Đáp: Do kiết sử nên nói đắm trước ở Dâm, dựa vào chúng sinh nên nói đắm trước ở hữu. Tất cả pháp hành dâm gọi đó là Dâm hữu (Dục hữu). Đắm trước Dâm hữu này gọi là tham đắm Dục hữu. Tất cả pháp hành sắc gọi là Sắc hữu. Đắm trước pháp sắc này gọi là tham đắm Sắc hữu. Tất cả pháp hành vô sắc, gọi là Vô sắc hữu. Đắm trước pháp Vô sắc này gọi là tham đắm Vô sắc hữu. Thế nên nói riêng không có lỗi.

Hỏi: Sao gọi là đắm trước phạm hạnh?

Đáp: Đó là tham đắm ở ngôi vị đã được, chưa được và được rồi mà mất, hy vọng muốn được. (Kinh nói: Nhiễm, trước phạm hạnh, là tham đắm ở ngôi vị đã được; hy vọng vị chưa được muốn làm cho được, và buồn rầu khi ngôi vị bị mất. Dùng nghĩa câu này cũng có thể áp dụng tương tợ với đắm trước ở Dâm, ở Hữu đã nói bên trên, như vậy mỗi mỗi đắm trước phân thành ba mà có chín thứ cho mỗi loại. Như đắm trước vào con gái đã được, hy vọng muốn được con gái mà mình được ấy, và buồn rầu khi mất người con gái ấy. Tương tự, đối với con trai, với ái nam ái nữ cũng vậy. Cộng chung ba tham đắm Dâm, Hữu, Phạm, hạnh, phải thành hai mươi bảy thứ.

Hỏi: Nói như vậy, thì tham đắm phạm hạnh, không chấp nhận là Kiết sử chăng?

Đáp: Tôi đã nói quả A-na-hàm (Trước đã nói Bất hoàn có kiết sử, sao nói phạm hạnh không có kiết sử!). Đức Thế Tôn cũng nói ba thứ cầu: mong cầu danh, mong cầu hữu và mong cầu phạm hạnh. Mong cầu, ái và dục đều là một nghĩa đắm trước. Lại nói trong phạm hạnh thường yêu thích nghĩ đến lìa bỏ dâm.

Hỏi: Giả sử như vậy, thì không cách nào phạm hạnh không chấp trước. Làm như vậy thì tất cả tự nhiêu hợp với phạm hạnh chăng?

Đáp: Nên thực hành từ từ, thực hành tự mình kiềm sốt. Hành phạm hạnh không chấp trước là phạm hạnh bình đẳng vượt qua mọi phước, ác mà cầu Bát-đề-ba-đà; đối với khổ vui, Đàn độ, thần thông (trì ngôn phụng pháp là thứ tư) đều không cầu quả. Cầu quả đó là chấp trước ta do tinh tấn phạm hạnh này sẽ đạt được quả Thiên trung Thiên. Đã thực hành như đây, thì có chấp trước tức có hy vọng; Làm thế nào đạt được phạm hạnh để được nơi an lạc. Hoặc là muốn được đời sau an lạc, mà mong muốn hy vọng phạm hạnh. Nay do ái mà an lạc, do ái lay động mà hành phi phạm hạnh dẫn đến rầu rỉ: Ôi! Ta đã đọa lạc giới, tự trách mình mà buồn rầu. Thế cho nên gọi là đắm trước phạm hạnh.

(Đã nói xong phần Dụ của Ái).

Hỏi: Thế nào là Khuể (sân)?

Đáp: Vì tưởng đến bản thân, người thân, kẻ oán mà giận. (Kinh nói: tưởng về minh, về người thân, về kẻ oán, ba tưởng ấy sinh giận).

Hỏi: Tại sao nói chung Ái và Giận, hai thứ đó không hòa hợp được.

Đáp: Cũng từ ý tưởng ham muốn, mà nổi lên giận dữ, lại cũng từ ý tưởng mà nổi lên yêu mến. Ý tưởng đối với mình có bốn thứ, ý tưởng đối với người thân, kẻ oán cũng có bốn thứ (bốn cách).

Hỏi: Là sao?

Đáp: Chính mình chưa được vui thì nên mong được; khi được vui rồi, lại sợ mất (đó là hai). Khi được khổ muốn làm cho mất (ba); chưa được khổ thì không muốn được (bốn). Như vậy tưởng đến chính mình và người thân mỗi thứ đều có bốn. Còn oán thù thì cũng có bốn cách thức trái nhau. Tại sao? Và kẻ oán chưa gặp khổ, muốn khiến cho gặp; kẻ thù gặp khổ rồi muốn khổ ấy không mất. Kẻ thù chưa được vui thì muốn không được vui, kẻ thù đã gặp vui rồi thì muốn cho tiêu mất. Vì thế nói giận trong phần Ái này.

Hỏi: Nếu vậy, nay muốn nghe trình bày rộng về giận vì mình?

Đáp: Tưởng về mình mà sinh giận là tưởng những gì mình đã lo sợ, đánh mất trong ba thời: quá khứ, vị lai, hiện tại. Như giận mình đã đánh mất vật gì trong quá khứ, thì tương lai, hiện tại, cũng dấy khởi giận. Đó là giận vì mình lo sợ, đánh mất trong ba thời.

Hỏi: Thế nào là giận vì người thân?

Đáp: Vì xem người thân như chính mình, nên giận vì mình đánh mất, lo sợ trong ba thời, thì giận vì người thân lo sợ, đánh mất trong ba thời cũng vậy.

Hỏi: Là thế nào?

Đáp: Vì người thân mà mình yêu mến, họ bị đánh mất vật gì đó, giống như chính mình bị mất.

Thế cho nên khởi giận trong ba thời như mình.

Hỏi: Thế nào là giận vì kẻ oán?

Đáp: Đối với kẻ oán làm mình khởi giận, thì trái ngược vì mình và người thân. Nghĩa là thấy kẻ đến của mình được vui thì mình lại giận, như vậy trong ba thời mà biết khởi giận như vậy. Giận vì mình, vì người thân, vì kẻ oán phối với ba thời mà thành chín loại giận.

Hỏi: Giận này và giận trong khổ hành (ác hàn) của ý (tham, sân, si) có gì khác nhau?

Đáp: Giận này dựa vào nhân duyên mà hiện hữu, cũng dựa vào mười ác, còn giận kia là từ vô trí mà sinh.

Hỏi: Hết thảy chúng sinh đều bình đẳng có chín thứ giận này không?

Đáp: Do chúng sinh khác nhau, nên tuy có chín thứ giận mà có ba hạng khác nhau: hạng giận như vẽ trên nước, hạng giận như vẽ trên đất và hạng giận như vẽ (khắc) trên đá. Vẽ trên nước thì liền mất ngay, vẽ trên đất thì thời gian ngắn, bị mưa gió xóa đi; vẽ trên đá thì chỉ đá mất, vết vẽ mới không còn. Do đó, chúng sinh ôm lòng giận dữ khác nhau. Hoặc khởi lên ý giận, lòng liền ăn năn: Ôi! Ta là trượng phu, tánh hạnh trượng phu, sao lại khởi lên ý hoại pháp, gây mọi điều khổ …” Khởi lên tâm thầm trách ấy, thì giận tự nhiên tan biến. Đó là giận như vẽ trên nước. Vẽ trên đất cũng vậy. Như khi nổi giận, tự mình không thể trừ giận, nhờ có Thầy, bạn, thân trí thức thức tỉnh cho, mà giận tự tiêu tan. Hạng thứ ba thì cực ác, không biết suy nghĩ, ý hiện hành giận bốc lên sung mãn thân thể, cho đến Phật Bích-chi-Phật cũng không thể ngăn được, thì giận ấy chỉ tiêu tan khi thân này hoại diệt mà thôi, như vẽ trên đá.

Hỏi: Thế nào là tật đố?

Đáp: Tật đố (mạn) là khởi ý cho mình là thấp, là bằng, là hơn. (Kinh nói: tướng của tật đố là cống cao). Hoặc lại so bình đây, kia, gọi là tật đố. Đó là ba thứ: ngu hạ thấp mình, ngu tưởng mình bằng, ngu tưởng mình hơn mọi người. Đối với vật chắt, sắc đẹp, kỹ thuận, giàu có, họ hơn mình, mình không thể hơn họ gọi là ngu đánh giá mình thấp. Người ta vốn dĩ hơn mình, lại ngu cho rằng bằng mình đó là ngu tưởng mình bằng. Còn lại, cho rằng ta vượt trội hơn họ, đó gọi là ngu cho mình hơn.

Hỏi: Đã nói ba tướng của tật đố là thấp, bằng và hơn, sao không nói tất cả loại ngu, như đã nói về sân?

Đáp: Ngu cho mình thấp (Ty mạn) gồm có ba loại: Vọng ngữ, khinh hủy và Mạn đãi. (Kinh nói: Tật đố hạ thấp mình có ba: Tật đố vọng ngữ, tật đố khinh hủy và tật đố mạn đãi (lười biếng, buông lung). Tật đố vọng ngữ là tự nghĩ mình đã làm ác quá mức rồi, tự vui trong sự thấp hèn của mình. Tật đố khinh hủy là nhận lời khen ngợi của người khác: “Lành thay! Ông có đầy đủ công đức”. Người kia nghe vậy, trong lòng hoan hỷ, bên ngoài giả bộ nói “Tôi không có đức ấy”. Tật đố đãi mạn là một ngày đêm ngủ vùi, nghĩ việc ấy không thể do thân con người mà vượt qua. Đó gọi là tật đố đãi mạn. Ba thứ vừa nêu gọi là Ngu cho mình thấp (Tỵ mạn).

Hỏi: Tức nào là ngu cho mình bằng (Đẳng mạn)?

Đáp: Cũng có ba thứ: Tật đố bản thân (Ngã mạn), Tật đố kiêu ngạo (Kiêu mạn) và tật đố bất kính. Tật đó bản thân là chấp ngã được thọ ấm, người kia thọ ấm tốt, xấu. Tật đố kiêu ngạo, là nghĩ mình nhận được sự cúng dường đủ các loại. Tật đố bất kính, là không kính lễ Sư trưởng.

Hỏi: Thế nào là ngu cho mình hơn ( Tăng thượng mạn)?

Đáp: Đó là thậm tật đố, tật đố trung tật đố và vô hạn tật đố. (Khi nói: Tăng nói: Tăng thượng tật đố là thậm tật đố, tật đố trung tật đố và vô hạn tật đố). Thậm tật đố là đối với người kém, bằng mình, nghĩ rằng mình vượt hôn. Tật đố trung tật đó là đối với người hay giỏi, tốt hơn mình rất nhiều, cho rằng mình vượt hôn. Vô hạn tật đố là mình chưa được giải thoát, cho rằng mình đã được giải thoát. Như vậy, có chín ý nghĩa về tật đố.

Tất cả mọi tật đố đều từ khát ái sinh, từ đó tạo ra các hữu (ba cõi hữu). Thế cho nên Tật đố được nói trong phần Ái.

(Đã nói xong phần thứ hai trong chân độ Ác).

THỨ SÁU

(Phần ba của Pháp độ thứ hai: Ác) Hỏi: Đã nói về Ái, thế nào là Vô minh?

Đáp: Vô minh là vô trí, tà trí và nghi trí. Kinh nói: Vô trí, tà trí, nghi ngờ trí đó là ba trí vô minh. Do miệng hiển bày thế nào, thì hiểu văn tự cũng vậy. Như miệng ác (xấu) tức là không có miệng. Lại Vô trí ví như nói Ác tử (con ác) tức là Phi tử (không có con), hoặc như Ác bằng (bạn ác) tức là Phi bằng (không phải bạn). Như vậy, Vô trí cũng tức là Phi trí. Đây nói vô trí tức là không biết hữu vi, không biết vô vi, không biết cái “bất khả thuyết”. Đó gọi là vô trí.

Hỏi: Hữu vi có hai: Nội, thọ, ngoại thọ, quyết định thọ nào?

Đáp: Nội thọ, ngoại thọ, và cả hai thọ này trọng hữu vi đều vô trí. Kinh gọi là ngu si đối với nội thọ, ngoại thọ và cả hai thọ trọng hữu vi. Nội thọ là thọ, Ấm, Giới, Xứ, mỗi mỗi có hai hành là mình thọ và người khác thọ, Ngoại thọ là cỏ cây tường vách. Ngu si tạp loạn nội, ngoại thọ đó là vô trí.

Đức Thế Tôn cũng nói sáu Nhập xứ, vô trí không thể thấy biết. Tu đôi lộ (Kinh) nói thọ tức nghĩa nội thọ, là nghĩa hành kiết sử nhân duyên ngu tình, chấp ngã sở gọi là nội thọ.

Hỏi: Thế nào vô vi với Niết-bàn là một nghĩa, không nghĩa nào khác, sao nói có ba?

Đáp: Vô vi là hữu dư, vô dư và cả hai (tính là ba). Cho dù Niết-bàn Vô vi là một, nhưng dựa vào hành mà nói có hai. Đây chấp nhận Hữu dư là do hành kết được thọ làm nghĩa, thân ấy là hữu dư. Khi tất cả kiết diệt trừ, thân tác chứng đã tận trừ hết phiền não thì gọi là hữu dư. Khi thọ ấm này đã bỏ, không còn thọ lại thân nữa, như đèn đã lịm tắt, gọi là Vô dư. Đây ngu si mê hoặc hữu dư, vô dư và cả hai gọi là vô trí ở vô dư.

Hỏi: Thế nào là không biết “bất khả thuyết”?

Đáp: Cái “bất khả thuyết” (không thể nói) là sự chỉ dạy về thọ, sự chỉ dạy về phương tiện, sự chỉ dạy về diệt.

Nghĩa là ngu si đối với Thọ, phương tiện và diệt; gọi là vô trí đối với pháp “Bất khả thuyết”. Chỉ dạy về thọ là chúng sinh hiện tại đã thọ nhận Ấm, giới, nhập tức là nội mạng pháp thọ, do hành kết sử; không là nội mạng pháp thọ của quá khứ vị lai. Chỉ dạy thọ này không phải một, không phải ngàn mà được hợp lại thành mạng thành thân. Nếu là một thì không thường là khổ; nếu là khác thì thương là khổ. Nếu chấp thường thì không hành phạm hạnh; nếu chấp không thường (đoạn) thì không cần quả phạm hạnh, nhận cho đều vô nghĩa. Vô thường là nghĩa chấp không, trong phương tiện khắp cả đều đoạn, không có pháp khổ, pháp lành. Chỉ dạy về phương tiện là chỉ dạy về hành phương tiện tương ưng ba thời: quá khứ, vị lai, hiện tại. Như nói: Ta thời đó là Vua Cù Hiệt ( Cù-hiệt là âm Phạm, có mười tên; Dê, Mắt, Đất, Trời, Lửa, Nói, Phương, Kim-cang, Ánh sáng, Tên bắn. Có mười tên như vậy, mà người đó không biết mười tên ấy là gì). Vị lai sẽ có tên gọi là Vô Thắng. Hiện tại chính là Công sư thông suốt về chú thuật. Các thương nhân là chưa thọ hoặc đã thọ. Vì Tục số nên chỉ dạy phương tiện để phá chấp Thường chấp Đoạn. Nếu đúng là Cù-hiệt diệt mất, sao nói “Ta là Cù-hiệt”. Nếu Cù-hiệt không diệt sao nói” thời ấy Ta là Cù-hiệt. Dùng nghĩa thế tục, để chỉ dạy phương tiện này.

Hỏi: Thế nào là chỉ dạy Diệt?

Đáp: Thọ hết, không thọ nữa, chấm dứt không còn, gọi là chỉ dạy về Diệt. (Kinh nói: Thọ như đã nói ở trên). Đời sống kia đã hết, không thọ, không bị xâm hại nữa, việc của mình và người đã chấm dứt không còn sót, đã vượt qua bờ này đến bờ kia đó gọi là chỉ dạy về Diệt. Việc trừ chấp Đoạn, Thường chuyển biến hoàn diệt, như vậy mỗi mỗi ngăn chận. Như dùng thọ làm gốc mà chỉ dạy về Bát Niết-bàn (Diệt), cũng là pháp “bất khả thuyết”. Nếu khác đây là không bát Niết-bàn, hoặc không khác đây là không bát Niết-bàn, thì như vậy thấy sinh khổ rồi không nói, không nói rồi lẽ ra bát Niết-bàn, như đèn tắt, và mỗi mỗi nội thọ hoặc không chỉ dạy về thọ. Chỉ dạy phương tiện là dựa vào Ấm giới xứ quá khứ làm gốc mà nói. Như nói “Ta thuở ấy là Vua tên Cù-hiệt”. Cứ như vậy, cho đến đời vị lại… còn chỉ dạy Diệt là lấy Thọ làm chính mà nói. Như nói “Đức Thế Tôn bát Niếtbàn. Như chỉ dạy phương tiện là phá chấp mạng này đoạn tuyệt chỉ dạy về Diệt là phá chấp mạng này thường còn. Chỉ dạy về thọ là phá chấp mạng này là có là không. Vô trí không thể hiểu những pháp “bất khả thuyết” này. Đã nói xong Vô trí.

Hỏi: Thế nào là Tà trí?

Đáp: Là kiến chấp về thân mình thọ nhận, kiến chấp về nội thọ, kiến chấp về thọ nhận kiến giải mô phỏng (bắt chước). Ba thứ chấp này gọi là Tà trí. Chữ tà là nghĩa trái nghịch, không phải bậc Hiền Thánh, cũng đồng nghĩa với Xiểm nịch. Kiến chấp về thân mình là chấp Nhập ấy là tôi, Nhập là của Ngã, Nhập là của Tự tại tương ưng. Nhập ấy là tôi, tức chấp mọi huyễn hóa, thành trì, đồng ruộng, ngựa tiếng vang, hình bóng trong gương, những chỗ tương tợ,… chấp có những thứ ấy là Nhập của tôi. Chấp Nhập là của Ngã, tức chấp những vật dụng mượn trang sức, cây, quả, tương tợ người thân, năm ấm… chấp có những thứ ấy là của Ngã (Ngã sở). Chấp Nhập là của Tự tại tương ưng là chấp mọi pháp hoại, cây chuối, hình vẽ, bọt trên nước, vật dụng không thành thục, cảnh giới tương tợ xương cốt trắng; ta giàu có, như sắc ở hư không… Mọi thứ đều do Tự tại sai khiến làm chủ. Đây cũng là kiến chấp về Ngã về thân về Ngã là than mình mà chấp bám vào.

Hỏi: Thế nào là kiến chấp về Nội thọ?

Đáp: Là tư duy chấp Nội thọ là đoạn là thường là cả đoạn cả thường (câu). (Kinh nói: Tư duy vè đoạn, tư duy về thường, và tư duy cả hai đoạn, thường). Nội thọ gọi là thọ vô phương tiện là chấp không có phương tiện nghĩa (không hợp lý). Kiến chấp bên ngoài thấy đoạn thì chấp thế gian là vô thường. Kiến chấp bên ngoài là có thì chấp thế gian không là vô thường. Kiến chấp mạng này là bên ngoài không phải có, không phải không có, hoặc bên ngoài chấp mạng này, thân này là không có, chẳng phải có, chẳng phải không có. Tư duy chấp cả hai là chấp thường bên ngoài là có, chấp đoạn bên ngoài là không có, chấp bên ngoài là chẳng không chẳng có. Những kiến chấp này gọi là kiến chấp Nội thọ (Biên kiến).

Hỏi: Thế nào là kiến chấp thọ nhận mô phỏng? Đáp: Là kiến chấp vè Giới mô phỏng, kiến giải mô phỏng và chỗ nương tựa của Giới Kiến. (Kinh nói: Kiến chấp tiếp nhận mô phỏng là ba sự. Do hai thứ Giới, Kiến sinh ra Y (nương tựa). Giới trong pháp độ đầu đó là giới tịnh; còn đây nói giới đó là hai kiến chấp thọ giới mô phỏng, và thọ kiến giới mô phỏng. Cho rằng giới, kiến này là chân thật, ngoài ra đều là ngu si. Đó gọi là chấp trước vào cho là chân thật, trói buộc thân cũng nói là chân thật. Y là chỗ nương tựa của giới và kiến, đại khái là chấp thân năm ấm, hoặc giới, hoặc kiến, hoặc hành ấm đều tịnh. Đây gọi là thọ giới mô phỏng biết ấm này là tốt đẹp, ngoài ra đều không tốt đẹp. Tương tợ, dựa vào Kiến giải mô phỏng cũng vậy.

Hỏi: Thế nào là Nghi trí?

Đáp: Là nghi ngờ về thứ quý báu về Đế và Chánh thọ.

Kinh nói: Nghi ngờ pháp quý báu, nghi ngờ pháp Đế và nghi ngờ pháp Chánh thọ (định).

Không thể duy trì, mê hoặc do dự là nghi ngờ.

Hỏi: Thế nào là pháp quý báu?

Đáp: Là Phật, Pháp và Chúng (Tăng).

Kinh nói: Phật, Pháp, Tăng chúng là châu báu. Như trước đã nói, Phật, là bậc Nhất thiết trí, đầy đủ hết thảy công đức, bỏ hết thảy ác, giải thoát.

Hỏi: Do đâu gọi là quý báu?

Đáp: Ba công đức trên là Phật bảo. Vì lòng thương chúng sinh, ngài nói pháp không dối, không đặt điều kiện nào để làm thiện tri thức. Phật ra đời là khó gặp, pháp Ngài nói là không thể nghĩ bàn, không thể so sánh. Đầy đủ công đức như vậy, mới thành Phật. Pháp quý báu ngài giảng nói là phương tiện, là phương tiện trao truyền quả Niếtbàn. Do vậy, nên hết thảy pháp của Thế Tôn là tối thượng. Nó là con đường tốt nhất để chấm dứt mọi pháp hữu vi, vô vi ấy. Kinh nói: Nó thật quý báu, vì không phải được làm ra. Nó làm tắt hết thảy khổ, đưa đến chỗ cuối cùng của mát mẻ. Nó khó thực hiện, khó hư hoại, không thể nói hết. Đầy đủ những công đức như thế, mới thành là Pháp quý báu. Về nghĩa của Tăng, đã nói rồi. Cho đến Thanh văn, hết thảy Tăng đều là quý báu, cúng thí họ thì được phước báo rộng lớn, vì họ ứng dụng lời Thế Tôn dạy, mà Thế Tôn là vô thượng phước điền. Họ được Đức Thế Tôn khen ngợi, không ai có thể phá hoại, không tranh giành trái nghịch. Bởi có công đức như vậy, mới thành Tăng quý báu. Nghi ngờ những thứ quý báu ấy gọi là Nghi trí.

Hỏi : Thế nào là nghi ngờ về Đế (sự thật)?

Đáp: Là nghi ngờ về Tục số đế, Tướng đế và Đệ nhất nghĩa đế (Kinh nói: Nghi ngờ trong tục số đế, Tướng đế và Đệ nhất nghĩa đế, gọi là Nghi trí) (trong đây nói nghi tức không có giải thoát, không có chánh thọ).

Nghi ngờ về Chánh thọ là nghi ngờ về bốn giải thoát, hai quán xứ ( quán đất, nước; bốn quán định cỏi Sắc, bốn quán định cõi ô sắc) hai trực, vô lậu, năm tưởng trước (chấp giữ năm loại trước của mười định hữu lậu), giải thoát thứ hai, giải thoát thứ tám. Biết cảnh giới này là Chánh thọ, mà cho rằng trì đây không có công đức. Nghi ngờ ấy là khổ khổ (khổ chồng chất khổ mà không biết), như vậy, đối với Tập, Tận, Đạo đế đều nghi ngờ điên đảo, phối với cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc thành mười hai hành điên đảo.

Giống như Nghi trí, trong nghĩa Ái nói Tà kiến cũng thế. Tức Tà kiến có nghĩa vô trí, tà trí nhưng nói theo khổ hành (ác hành) riêng biệt; còn kiến chấp về kiến giải mô phỏng, về thân mình về nội thọ là Kiến khổ đoạn. Lại ác cũng thuộc Tư duy đoạn, như thế mà phân biệt trong ba cõi thành chín mươi tám kiết sử.

(Đã nói xong phần thứ ba trong Pháp độ thứ hai: Ác).

THỨ BẢY

(Phần đầu của pháp độ thứ ba: Y)

Hỏi: Đã nói Công đức, cũng nói Ác rồi, thế nào gọi là Y?

Đáp: Là chỗ nương tựa: Ấm, Giới, Xứ. Kinh nói: Ấm, Xứ, Giới là nơi nương tựa. Tướng này do là nương tựa, nên nói là Y, cũng có nghĩa là trụ lập. Chúng sinh nương vào Ấm, Giới, Xứ ba thứ đó mà làm công đức cũng như tạo điều ác. Do đấy, biết nó là chỗ dựa của công đức và ác.

Hỏi: Thế nào gọi là Ấm?

Đáp: Ấm là Sắc-Hành-Trí. Kinh nói: SắcHành-Trí là Ấm. Ấm nghĩa là chứa nhóm, dồn đống, thắt buộc. Nghĩa trước hết của Sắc ấm tức là màu vàng, xanh, trắng, đỏ, dài, ngắn, to, nhỏ, vuông, tròn, bốn hướng. Nghĩa tiếp theo của Sắc ấm là cả thảy mọi vật sinh ra, tính chất của nó. Biết sắc ấy là có sự cảm thọ. Hai nghĩa Sắc ấm ấy gồm có thể thấy và không thể thấy. Có thể thấy là những gì thuộc mắt thấy, còn khác đi là không thể thấy, như thanh, hương, vị, xúc, gió,…

Hỏi: Đã nói Đại, sắc thọ nhận Đại, chưa biết thế nào là Sắc thọ?

Đáp: Các đại là Địa-Thủy-Hỏa-Phong. Kinh nói: Đất là tướng đứng đầu trong bốn đại. Với sắc, mỗi mỗi đều nhờ đất cứng, nước ướt, lửa nóng, gió lay động. Sắc tiếp nhận các đại mà có khói, mây mù, ánh sáng, bóng trong gương, năm căn sạch.

Hỏi: Đã nói Sắc ấm, Hành là gì?

Đáp: Là sự nương vào thân khẩu ý. Kinh nói: Thân là chỗ nương tựa, nên nương tựa vào thân; miệng là chỉ nương tựa nên nương tựa vào miệng; ý là chỗ nương tựa nên nương tựa vào ý. Nương vào thân-khẩu-ý mà hành động, những hoạt động nầy tạo pháp hữu vi. Hành động này, theo như Kinh nói: Sắc là hành hữu vi, lại hành hữu vi tạo thành sắc nữa. Như hạt lúa thành lúa, lúa sinh ra hạt lúa. Như thế, mà biết năm Ấm cũng vậy. Chúng có vô số hành tập họp gọi là Ấm, như đống củi, đống lúa.

Hành này gồm có ba: Phước, Vô phước và Bất thuần thục.

Hỏi: Thế nào gọi là Trí?

Đáp: Trí là Thọ, Tưởng, Thức. Kinh nói: Thống (Thọ) Tưởng và Thức là ba phẩm pháp của Đạo, không bị cõi khác gom lấy (không bị sáu đường dẫn). Đức Thế Tôn cũng nói: Nhẫn thì tưởng biết, nghĩa là khi tưởng biết thì đó là trí (nhịn chịu là biết Thống, (thọ), biết Thống là trí biết) Kinh nói: Các hiện tượng đó hỗn tạp.

Hỏi: Thế nào gọi là Thống? (Thọ)

Đáp: Thống là khổ, vui, không khổ, không vui. Kinh nói: Thống sở dĩ gọi là Thống vì Thống này không tương ưng với mộng khác (Thống không có hình. Nếu Thống này cảm thọ, thì tương ưng với mạng của Thống này cho nên nói là Thống. Chữ Thống cũng vậy. Thống có ba thứ: Khổ thống, Lạc thống và Bất khổ bất lạc thống; mỗi mỗi sinh khổ nhân nơi lạc, sinh lạc nhân nơi khổ, sinh cả hai khổ, lạc nhân nơi bất khổ, bất lạc.

Đức Thế Tôn cũng nói: Lạc thống có phần khổ, khổ thống có phần lạc, Bất khổ bất lạc thống có phần khổ lạc. Nghĩa mỗi thứ đối nhau.

Hỏi: Thế nào gọi là Lạc thống?

Đáp: Lạc thống là sự sinh khởi từ dâm, từ bất ác và từ chỉ. lạc thống sinh khởi từ dâm là từ cảnh giới năm dục, cảnh giới dâm ái, cho đến sinh khởi hoan hỷ. lạc thống sinh khởi từ bất ác. Bất ác là nghĩa chẳng bị chê bai, đây là nói nghĩa người xuất gia hành thiện. Cảm nhận Lạc thống (vui an lạc) phát sinh khi người kia giữ giới, tướng về giới không biến đổi, không hối hận mà yêu thích giới này làm cho sinh khởi niềm vui chẳng làm ác. (Bất ác) Lạc thống sinh khởi từ chỉ, là từ sự định chỉ năm cái, điều phục căn, đắc giải thoát ý không loạn niệm khi hành Thiền… Do tưởng hành niệm này phát sinh hoan hỷ. đó gọi là Lạc thống sinh khởi từ chỉ. chỉ còn có nghĩa không tham, đắm, căn không não nhiệt. Đây là ba thứ lạc thống.

Hỏi: Thế nào gọi là Khổ không?

Đáp: Là ba thứ cảm thọ về khổ của sanh, lão và tử. Ba thứ khổ này gọi là Khổ thống. Sanh khổ, như mụt nhọt mới sanh; Lão khổ như mụt nhọt sưng chín; Tử khổ như mụt nhọt hành đau đớn bên trong chảy rỉ máu mủ vào các chi thân. Hoặc sinh đã có tất cả khổ, gọi là Sinh khổ? Đức Thế Tôn cũng nói: Sinh ra đã có đau khổ như tay chân bị cắt, Lão khổ về sắc diện biến hoại, sức lực tiêu hao (như ép dầu gần hết); Tử khổ là khổ phải xa lìa tất cả tài, vật mình yêu thích. Cho nên gọi là Khổ thống.

Hỏi: Thế nào gọi là Bất khổ bất lạc thống?

Đáp: Là cảm thọ không khổ không vui. (Kinh nói: Bất khổ bất lạc thống ở trong ba cõi). Nên biết ba thứ khổ, lạc, bất khổ bất lạc đối nhau trong ba cõi. Về ba cõi (Tam giới) sẽ nói ở phần sau, nay nói về phần khổ, lạc, bất khổ bất lạc trước. Ở cõi Dục có đủ ba thứ thống: Khổ, lạc, bất khổ bất lạc; cõi Sắc có hai thống: lạc và bất khổ bất lạc thống; cõi Vô sắc có một là bất khổ bất lạc thống. Thế cho nên ba thống này tương ưng với cả ba cõi.

Hỏi: Cái gì làm chỗ nương tựa của thống?

Đáp: Chỗ nương tựa của lạc thống lấy dục làm hơn, chỗ nương tựa của Khổ thống lấy giận làm hôn; chỗ nương tựa của Bất khổ bất lạc thống lấy si làm hơn. Vì sao? Vì có lạc thống thì lấy vô dục mà trừ, thì dục hết, như Tam thiền. Hoặc khổ thống như đức Thế Tôn đau đần, bị giáo đâm chân, nhưng không khởi giận, tức lấy vô sân mà trừ sân thì hết khổ thống. Còn bất khổ, bất lạc thống tức dùng vô si của Thiền thứ tư và bốn định Vô sắc mà trừ si hết. Như vậy tương ưng mà nói mỗi loại thống.

Hỏi: Thống dấy khởi từ đâu?

Đáp: Chúng sinh khởi từ Hành, Nhân duyên và Giới (Kinh nói: Khổ, lạc, Bất khổ bất lạc thống từ Hành sinh, từ Nhân duyên sinh, từ giới sinh). Như vậy phối thành chín thứ giống như cảm thọ ngẫu nhiên nhưng không phải.

Hỏi: Nhân duyên có vô số, không thể nói hết, nay nói nhân duyên nào vậy?

Đáp: Đây nói Nhân duyên sinh có ba thứ là Phước, Vô phước và Vô dư, tùy theo danh số ấy mà nói, tương ưng. (Kinh nói: Khổ, lạc, bất khổ bất lạc thống từ nhân duyên sinh). Nói Phước tương ưng với Lạc thống, Vô phước (Bất phước) tương ưng với khổ thống; Vô dư tương ưng với Bất khổ bất lạc thống. Trong đó Phước là đối nghịch với khổ hành, tức Tam thiền; Vô phước tức là khổ hành; Vô dư là Thiền thứ tư và Vô sắc.

Hỏi: Như Sư trước nói Phước và Thí, Giới, Phân biệt; Phân biệt tức là tu Thiền… Vô sắc , nay sao hoàn toàn nó Lạc thống của Phước?

Đáp: Cách nói đây và kia không tổn hại nhau. (Phước ở đây thọ nhân Tam thiền). Như cho Tỳ kheo ba y, bình bát, cho hình Phật, quỷ La Sát hay không cho hình Phật, quỷ La Sát, không cho Tỳ kheo ba y, chỉ cho bình bát thôi. Nếu có Tỳ kheo nào hơn hình Phật, quỷ La sát, do thầy đó có ba y. Như vậy Phân biệt là Thiền, Vô sắc; còn phước là của Tam thiền. Thọ phước nơi Tam thiền, thọ phước nơi Phân biệt, là do chỗ cho khác nhau thôi. Do đó không có tổn hại gì khi nói Phước từ lạc thống.

Hỏi: Thế nào là Thống sinh khởi từ Hành?

Đáp: Là từ hành động của mình, của người khác và cả hai mà sinh cảm thọ (thống). Lại hành động có hai: Vui và khổ. Khổ vì hành động của mình như lấy dao tự cắt thân mình; Vui vì hành động của mình như sau đó lấy bột chiên đàn xoa lên. Khổ vì hành động của người như đánh vào đầu người khác; vui vì hành động của người khác là sau đó xức thuốc, khổ vì cả hai là sai người đánh đầu mình; vui vì cả hai là sau đó chữa trị… Hỏi: Thế nào là Thống sinh từ Giới?

Đáp: Từ giới sinh khởi cảm thọ là từ Thời, Hoạn và Tốt ngộ. Đó là Kinh nói.

Hỏi: Nói giới là khác với cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc ư?

Đáp: Đây không phải nói cõi, tách lìa chúng sinh mà là nói nhân duyên. Tưởng về thời tiết, hoạn nạn và tốt ngộ (bất chợt gặp) là tưởng về giới (giới hạn).

Từ giới hạn của thời tiết sinh ra các cảm thọ như ba mùa Hạ, Đông, Xuân, mà mùa Hạ đàm tu, khạc nhổ nhiều. Mùa Đông khạc nhổ tu thì gió nhiều đàm dứt. Mùa Xuân gió tụ nhiều đàm khạc nhổ dứt. Như Y thuật nói: Do tưởng về thời tiết, mà có cảm nhận khổ, vui hiện hữu.

Hỏi: Thế nào là Hoạn? Nó như Khổ hành.

Đáp: Không phải. Pháp này đối với thân thôi, đây là nói Hoạn làm thân tứ đại đối khác. Hoạn là gió, đàm, khạc nhổ. Ba thứ này làm thân tứ đại cảm thọ phát sinh hiện hành. Hỏi: Thế nào là Tốt ngộ?

Đáp: Là nhân tố trừ chúng sinh (phi chúng sinh số, vô tình). Nó là năng nhân, phát sinh ra khổ thống… như là tường vách cây núi sạt lở… còn sở nhân là chúng sinh. Mình, người cả hai đều hòa nhập vào trong nhân tố này. Sự cảm thọ này có ý nghĩa thuộc về trí.

Hỏi: Thế nào gọi là Tưởng?

Đáp: Là Hữu, tưởng, Vô tưởng, Vô sở hữu tưởng (Kinh nói: Vì tưởng làm tăng ích tướng). Trong đây tương tợ nói tùy thuận theo kinh, lấy tưởng làm chính, lấy tăng ích tướng làm nghĩa. Nói hữu tưởng là tưởng về có, thì có chỗ nương vào. Vô tưởng thì không có chỗ nương vào. Như nhiều cái bình, nếu tưởng có thì nói bình đựng bánh khô, bình đựng sữa. Do tưởng này được phân biệt. trong các bình có bình không có bánh, bình không có sữa… trống rỗng, đó là tưởng về không tức Vô tưởng, thọ. Như vậy tiếng lấy tưởng làm chính, tiếng thọ lấy tăng ích làm chính, đó là sự khác tức Vô tưởng thọ. Vô sở hữu tưởng là Phi sở hữu tưởng. Tướng như vậy là do tham muốn (dục) làm chính mà nói có sở hữu. Người kia lìa dục, muốn giải thoát, biết tướng ấy không có gì cả. Biết tướng ấy như Hư không, Thức xứ đã cảm thọ; còn Vô tưởng, Hữu tưởng là Vô tưởng xứ xen tạp có tưởng; Vô sở hữu là tướng trí vô sở hữu xứ.

Hỏi: Thế nào là Thức?

Đáp: Là hành môn dục khởi, thành và chưa thành (Kinh nói: Vô sắc, cây y nhân duyên có thể được thức). Các loại thức là Thức, mỗi loại có hai thức (tâm thức và căn thức. Sáu thức đều như vậy). Đây là ba thứ: khởi lên thức, đã thành thức và chưa thành thức. Hành y, câu y, nhân duyên có thể được thức, tức ba thứ này làm nhân duyên khởi lên Thức. Như đức Thế Tôn đã trình bày: Hành làm nhân sinh Thức; danh sắc làm nhân sinh Thức; lại mắt, sắc làm nhân duyên khởi lên Nhãn thức. Đây là ba thứ sở tác của Hành. Thế cho nên Hành kia dấy khởi hợp với tinh Cha huyết Mẹ, mà ở trong thai Mẹ sinh khởi Thức. Đây là Hành làm nhân sinh Thức. Trong thai Mẹ lớn dần, khối chuyển dần dần ngưng tụ (như nước đọng trên lá); đó gọi là chưa thành môn căn mà sinh Thức, tức Danh sắc làm nhân. Nếu thành hình chưa diệt mất, hoặc là nhân của Chánh thọ, thì từ nghĩa căn mà sinh Thức. Đây là cả hai nương tựa (câu nhân duyên, nghĩa nương tựa chỉ một không khác, dựa vào mà được sinh Thức.

Hỏi: Sao nói lặp lại Trí, đây là phần Ý, sao nói lại Trí?

Đáp: Ý là sở bố ý (chỗ nương tựa khắp). Trí là sở bố y trí (trí của chỗ nương tựa khắp) là hai mục. Trong đây nói trí là chỗ nương tựa, trước nói là dựa vào trí. Như giới cũng phân làm hai mà nói. Nên không có phương hại gì.

(Bà-tố-bạt-đà nói xong phần đầu của pháp độ thứ ba: Y).

THỨ TÁM

(Phần hai của pháp độ thứ ba: Y) Hỏi: Đã nói về Ấm, thế nào là Giới?

Đáp: Giới là Dục, Sắc, vô Sắc. Kinh nói: Cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc. Đó là ba cõi duy trì các hành của chúng sinh, nên gọi là giới. Đó là nơi tất cả chúng sinh thọ nhân, cho đến không thọ nhận đó là Niết-bàn vô dư.

Hỏi: Thế nào gọi là cõi Dục?

Đáp: Đó là cõi của Nhân thú, Tiên thú và Ác thú (loài Người, loài Trời và các nẻo Ác). Các chúng sinh này giữ lấy, cần đến Dục của cõi Dục và chấp nhận duy trì Dục ấy, cho nên gọi là cõi Dục. Hoặc cùng an trụ với dục, nên gọi là cõi Dục. Hỏi: Thế nào là Nhân thú?

Đáp: Loài người gồm có các tướng trạng như: tướng nữ căn, tướng nam căn và tướng mạng căn, họ nương nhờ sống ở bốn phương (bốn châu). (Kinh nói: Tướng nữ căn, tướng nam căn, tướng mạng căn; tất cả tướng này biểu hiện loài người.

Họ nương sống ở bốn phương).

Nữ thì có tướng nữ căn, nam thì có tướng nam căn vậy.

Hỏi: Còn tướng mạng căn là không phải nam, không phải nữ ư? Mà sao noi riêng tướng mạng căn?

Đáp: Tuy nói tướng nữ căn, tướng nam căn, nhưng ngoài ra cũng có tướng ái nam ái nữ. Nghĩa là không thành nam, không có tướng nam căn; nữ không thành nữ, không có tướng nữ căn. Đây nói riêng tướng mạng căn đó là tướng trạng phôi thai di tinh cha huyết mẹ kết hợp đã ngưng tụ và phát triển cứng chắc dần, lúc ấy chưa hình thành tướng nam căn, tướng nữ căn. Do đó nói riêng.

Hỏi: Thế nào là phương?

Đáp: Phương là châu Diêm-phù-đề, châu Phấtbà-tỳ-đề, châu Cù-đà-ni, và châu Cưu-la-bà. Các châu này chiếm một phương hướng. Châu Phấtbà-tì-đề phương Đông, châu Cù-đà-ni phương Tây, châu Cưu-la-bà phương Bắc và châu Diêmphù-đề phương Nam. Mỗi châu theo số tuổi thọ mà hưởng vui, đầy đủ mọi thứ và có hạn. Có khác là chuyển dần lên chỗ thượng diệu.

Hỏi: Trời có hai loại: hiện hành dâm và trừ Kiết sử, trong đây nói loại Trời nào?

Đáp: Đây nói Trời hiện hành dâm, gồm có ba loại: Nắm tay là hành dâm, miệng nói chuyện với nhau là hành dâm và mắt nhìn nhau là hành dâm.

Trời này thọ ba loại hành dâm, tức Trời trừ bỏ kiết sử thì không còn hành dâm như vậy nữa. Miệng nói chuyện với nhau là nghĩa hành dâm, tức ý nhiễm trước chuyển thành hoạn lạc, người nữ (nam) kia cũng nhiễm trước, cùng nhau nói chuyện trong một khoảnh khắc, thì dục liễu sinh. Nếu chỉ một phía nhiễm trước thì không thành dâm. Như ở cõi này (người) trai gái nắm tay, ôm nhau mà không ái nhiễm, như mẹ, chị, em gái… Do người khác biến hóa, người con trai mà mình yêu thích, cả hai đồng hoan lạc. Thế cho nên gọi là Hóa nhiễm (năm Trời đều có hiện hành dâm. Nam nữ đồng ham muốn liền hóa thành hoan lạc. Đã khiến cho người trước vui thích, mà cùng nhau nói chuyện thì thành hiện hành dâm). Mắt nhìn nhau là hành dâm tức tương ưng cõi Trời Tha hóa tự tại. Như lần lữa nhiễm nhau, nghĩ về nhau, nhìn nhau, cứ như vậy mà dâm sinh khởi. Có khi nhìn không nhiễm, như mình và người biến hóa tự tại mà tương ưng. (Cõi trời thứ sáu thấy biến hóa là thành dâm, cõi trời thứ năm thì tự biến hóa mà thành dâm).

Hỏi: Đã trình bày nói chuyện với nhau, nhìn nhau là hiện hành dâm mà không nói nắm tay nhau là hiện hành dâm?

Đáp: Nắm tay là hiện hành dâm gồm có ba loại: Hai người hành sự dâm với nhau, ôm nhau và nắm tay nhau. Loại hai người hành sự dâm với nhau sẽ nói phần sau. Nay nói tướng trạng ôm nhau là hành dâm, tức là cõi Trời Diêm-ma. Họ lần lữa đã có ý nhiễm đắm lẫn nhau, như ôm con gái, tìm kiếm con gái mà dâm sinh. Nếu chỉ một mình tâm ý nhiễm đắm (đơn phương), thì giống như người cõi này ôm nhau vui vẻ, vì đối tượng kia không chút nhiễm ý. Như người suốt đêm dấy khởi ý hoan lạc. Cho nên gọi là Diệm ma.

Hỏi: Thế nào gọi là nắm tay là hiện hành dâm? Đáp: Đó là nói cõi Trời Đâu-suất-đà lần lữa phát sinh dâm. Như cùng nắm tay với người nữ, cả hai cùng nhiễm đắm thì hiện hành dâm. Nếu chỉ một mình tâm ý nhiễm đắm thì không thành dâm, giống như nói ở phần trước: Ví như, người tự vui vẻ với người hầu của mình là đủ. Cho nên gọi là Đâu suất đà (tri túc).

Hỏi thế nào là cả hai cùng hành sự dâm?

Đáp: Là cõi Trời Ba mươi ba, Tứ đại Thiên vương và Địa Thiên. Vì có hai cùng nhiễm trước có hai cùng dâm, tất cả cùng hành dâm. Đây là Ý Sư nói giống như hành dâm ở cõi Người. Cõi Trời Ba mươi ba ở đỉnh Tu di, hành dâm giống như người. Tứ đại Thiên nương đi lên trên Càn-đà-la hành sự dâm cũng giống như người. Địa Thiên là Trời này ở trong cây, đất, sông, núi, yêu thích, cảnh giới ham muốn mà có dâm. Tất cả Trời này như đã nói đều có hiện hành dâm. Giống như tuy không có đại tiểu tiện mà có hạ phong. Càng lên cao thì chuyển tin vui càng nhiều. Đó gọi là Trời trụ ở cõi Dục.

Hỏi: Các nẻo là gì?

Đáp: Các nẻo là Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh. Kinh nói: Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh là ba đường không có điều lành, nên gọi là nẻo ác (ác thứ). Địa ngục gồm có địa ngục lạnh, địa ngục nóng, địa ngục nhân duyên. Kinh nói: Địa ngục lạnh, Địa ngục nóng. Địa ngục tưởng nhân duyên. Địa ngục có nghĩa là nơi khổ cùng cực. Không có gì đáng vui. Địa ngục có nhiều thứ. Địa ngục lạnh là nơi có thể nói được, không nói rõ, và không nói. Kinh nói: Đó là ba tướng nói. Địa ngục lạnh là nơi có thể nói được, không nói rõ và không nói. Rất nhiều chúng sinh trong ngục nói, có thể nói tức có thể hiểu rõ lời nói.

Hỏi: Thế nào là có thể nói?

Đáp: Địa ngục nói được là: Địa ngục Át-phùđà, Ni-lại-phù-đà, (Tần dị châm là Bất Tốt khởi), A-ba-ba (Tần dị châm là Chiên-tu-đố-lộ). Tốt khởi Át-phù-đà là như người nước Ma-kiệt-đà mỗi người đếm mười tiếng. Hồ ma một gánh có hai mươi đống. Cứ nhớ đến trăm năm là lấy một hạt hồ ma, cho đến bao giờ hết, cứ mỗi trăm năm như vậy. mạng sống chúng sinh nơi địa ngục Tốt khởi sống lâu cũng cỡ vậy. Bốn bụm thành một thăng, thì bốn thăng thành một độc lung, mười sáu độc lung thành một khư, hai mươi khư thành một gánh. Mạng sống còn lâu gấp mười lần như vậy, thì thành ngục Bất-tốt-khởi (Ni-lại-phù-đà). Cứ gấp mười lần hơn như thế, nên biết. Bất-tốt-khởi thì thân thể lạnh, phát sinh một thứ ghẻ, rồi sinh nhiễm vào đó. Cho nên nơi ngục Bất-tốt-khởi, ghẻ mọc khắp thân. Ngục Chiến-tu-đố-lộ còn gọi là ngục Hàn nhục. Tức thịt ung nhọt rồi như lá tùng rụng, chúng sinh trong ngục kêu lên A-ba-ba.

Hỏi: Thế nào là nơi không nói rõ?

Đáp: Nơi không nói rõ là các ngục A-trá, Hưutrá, Ưu-bát. Kinh nói: Ba địa ngục không nói rõ nầy, thống khổ vây ngặt, chịu không nổi, là địa ngục A-trá, Hưu-trá, Ưu-bát, ở đây không biết sao mà da mình rơi rụng như hoa Ưu-bát. (chỉ còn lại thịt). Nhân duyên hợp với ngục này là da rụng như hoa Ưu-bát, chia cắt thân cũng như vậy. Đó là hậu quả của việc phỉ báng Thánh nhơn, nên chịu tội trong ngục Ưu-bát ấy.

Hỏi: Thế nào là nơi không nói?

Đáp: Đó là ở ngục Tu-kiền-đề (là đầy hương hoa) Câu-vật-độ (đầy hoa trắng) Phân-đà-lê, Bát mộ. Đó là bốn địa ngục không thể nói. Chỉ có gió thổi thốc lạnh run, thân nằm rạp mãi. Miệng thều thào, run lạnh, sợ hãi. Ai chê bai Thánh hiền thì bị tội trong ngục Tu-kiền-đề, chịu cho đến hết mười kiếp. Địa ngục băng giá này vẫn còn tiếp tục với mười lần hơn. Ở đó, người ta bám dính vào những bánh xe to như núi, bên trên thì hẹp, che phủ lấy con người. Tối tăm lạnh cắt thân, như lửa to đang cháy, khói mịt mù. Thân kêu lên “trá trá”, như trái cây nóng tách nứt ra, rồi dần dần tướng căn sinh trưởng, lại chịu khổ tiếp. Đó là tội khổ của kẻ chê bai Thánh Hiền. Đức Thế Tôn cũng nói: Những ai chê bai hiền Thánh, đọa vào địa ngục Tốt khởi trăm ngàn năm vì tâm nguyện họ đều ác. Đó là các địa ngục lạnh .

Hỏi: Địa ngục nóng thì sao?

Đáp: Đó là nơi tra khảo nơi ít tra khảo, nơi không tra khảo. Kinh nói: Có ba hai Địa ngục nóng là: Nơi tra khảo? Nơi ít tra khảo và nơi không tra khảo. Chúng sinh trong đó bị sai khiến. Ít bị sai khiến, hoặc tự mình làm khổ mình, tùy theo các hành tạo (nghiệp) ở quá khứ mà tính ở đây chịu khổ. Nơi tra khảo, gồm ba ngục là ngục Hoàn hoạt, ngục Thị và ngục Hắc-diên. Ngục Hoàn-hoạt là ngục chết đi, sống lại, đem treo lủng lẳng, dộng đầu xuống, như treo đầu dê lấy búa chẻ đầu tội nhân ra. Đám ngục tốt lóc hết thịt. Rồi gió lạnh thổi tới, nhân duyên thích hợp khiến da thịt lại mọc ra. Có những cây búa lớn hình bán nguyệt, tội nhân trong đó ai cũng phát bịnh. Đây vốn bức ngặt thân ta, ta sẽ đem bứt ngặt người khác; như dùng búa chém người như lưỡi hái chẻ tre ý oán thù, chết rồi sinh lại.

Trong địa ngục Hắc diên, tội nhơn bị trói chặt, đến nỗi thân bị đứt thành nhiều khúc; ngục tốt lấy dao cắt thân, chúng sinh, dùng nhiều lát đồng dát mỏng nóng bức, bao sát vào thân, máu thịt rệu rã trôi chảy. Đây là ở dương gian tội nhân này từng lấy roi quất lên đầu chúng sinh và những kẻ xuất gia dối trá, trì giới dối trá để nhận của đàn việt cúng thí. Trong ngục tối mịt này khói ác xông phủ thân hình treo ngược, hít khói sặc sục. Đó lá do ở dương gian, tội nhân hun khói hãm hại chúng sinh nên phải chịu khổ này.

Ở ngục Đại thị, tay chân, mũi, đầu tội nhơn bị cắt ra cả. Đó là tội của những kẻ đồ tể ở chợ trên đời này. Những hòn sắt nóng, bánh xe sắt nóng, đám ngục tốt trợn mắt đuổi rượt chạy, đó là ở dương gian thúc giục trâu ngựa chạy khổ sở. Còn dương gian bắt giữ, thông dâm với vợ người thì bị kiếm trên cây phóng xuống đầu, hết sức tự nhiên chịu khổ. Đây gọi là nơi bị tra khảo trong địa ngục nóng. Trong đây, ở nhân duyên nên ngục tốt không bị đốt, mà tội nhân lại bị đốt. Các hành quả báo không thể nghĩ bèn vậy.

Hỏi: Thế nào là ngục trả khảo ít?

Đáp: là ba ngục: ngục Tu tập, ngục Đại đề khóc ( kêu khóc to) à ngục bị viêm (bị đốt). Kinh nói ba ngục này gọi là nơi tra khảo ít. Ngục Tụ tập là ở đấy vô số đám ngục tốt tụ tập, trông rất sợ hãi. Chúng lùa cả trăm ngàn người vào núi, ai đi trước tự nhiên gặp lửa, vừa tính tháo lại thì bị ngục tốt rượt tới nữa. Đường chật, hai bên núi ép sát như hai thớt cối đá, khiến tội nhơn bị xay đau đớn. Bánh xe ép thịt rơi hết, hoặc bị giã trong cối sắt nóng. Năm trăm năm bị giã, mạng sống cứ kéo dài như vậy mà chịu tội. Từng chặp một chày cứ bổ xuống, ngục đầy tiếng kêu vang. Ngục Đại đề khốc, cũng giống như ngục trước, nhưng giáp vòng là núi bao vây, lở sụp. Đám ngục tốt vô sự nổi giận, la mắng, tại sao không chạy, không kêu la. Chúng cứ làm như vậy, rồi lấy chùy sắt nóng đập lên đầu. Đấy là nơi chịu tội của những kẻ vốn từng tra khảo kẻ khác trên đời. Ngục Bị viêm là bị nướng như trong nhà tắm. Lửa cột đồng cháy đỏ, tội nhân bị lùa vào đó cho cháy thân thể. Rồi từng con chó to nhảy ra ăn thịt. Chúng ăn hết thịt, gió thổi đến lại tự nhiên thịt sinh ra. Rồi lại bị xua đuổi vào bầy chó. Đó là do ở dương gian nuôi tằm, nấu nướng chúng sinh còn sống mà phải sinh vào ngục này chịu khổ.

Hỏi: Thế nào là nơi không tra khảo?

Đáp: Là ba địa ngục: Ngục Đề khốc, ngục Bị viêm và ngục Vô phần lai. Kinh nói ba ngục này là nơi không tra khảo. Ngục Đề-khốc (khóc lớn) thì lửa cháy đốt hừng hực giống như mai rùa rất chật hẹp, tội nhân bị chèn ép trong cảnh chật chội này kêu khóc vang lên. Bên trên lấy nắp đậy lại, khiến càng thêm khổ. Đây là do ở dương gian, bít các hang ổ, xông khói các chúng sinh trong ấy mà nay phải chịu khổ báo như vậy. Địa ngục bị viêm (nướng đốt) là cả núi sắt lớn bao quanh như cái muỗng bén xúc, lấy chúng sinh đốt nướng một bên chín rồi lại chuyển sang bên kia. Đây là do ở dương gian xỏ, đâm giết, bẻ cánh, đầu… mà phải chịu khổ báo như vậy.

Ngục Vô phần lai. Lửa cháy mạnh, thân thể tan mau, đau nhức không còn sót chỗ nào. Đó là nơi chịu tội của những kẻ giết cha, giết mẹ, giết A-lahán, khởi ý ác đối với Tăng chúng của Như Lai. Ai tạo mười nghiệp ác, thì nghiệp cũng dắt tới đó. Đó là ba nơi không tra khảo.

Địa ngục tưởng nhân duyên là ở nơi hẻo lánh, sông khúc khuỷu hoặc ở trong núi đá, giữa khoảng trống, đầm lầy, một mình chịu đựng đủ mọi thứ khổ. Đó là Địa ngục nhân duyên (Biên địa ngục).

Hỏi: Thế nào là súc sinh?

Đáp: Là loài đi trên đất, đi dưới nước, bay trên không. Kinh nói: Hết thảy loài không có chân, hai chân, nhiều chân, chúng sống trên đất, trên nước, bay lên trời. Giống sống trên đất, trước hết là bò, lừa, lạc đà. Dưới nước thì có cá Ma kiệt, cá Thấtthu-ma lại là giống to lớn. Trên trời, có chim và chim nhỏ, trùng bay. Loại không chân hay nhiều chân, không chân như rắn, hai chân như chim, nhiều chân như sâu, ong. Những kẻ làm mọi chuyện ác, lại thêm ngu, nên sinh vào loài súc sinh. Hỏi: Thế nào là ngạ quỷ?

Đáp: Ngạ quỷ có loài thiếu ăn, có loài không được ăn, có loài ăn nhiều. Kinh nói: Đó là nói gọn có ba thứ. Còn biết bao loài quỷ đói khác nữa.

Hỏi: Loài Ngạ quỷ không được ăn là sao?

Đáp: La ba loài quỷ: miệng như đuốc lửa, miệng như cây kim và miệng hôi thối. Miệng như đuốc lửa là lửa trong miệng, nên khí nóng bên trong trở lại đốt mặt chúng. Chúng như cây cột lửa. Những kẻ bỏn xẻn, tham lam, mắc quả báo đó. Miệng nhỏ như kim, bụng to như núi. Miệng như lỗ kim, nên dù thấy bao nhiêu đồ ăn uống, cũng không ăn uống gì được. Miệng hôi hám, thối hơn cả mùi xú uế bốc lên khi thiêu xác chết. Mùi hôi thối trong miệng xông vào ngũ tạng, làm cho bụng chúng phình lên, rồi phun ra, bụng lại xẹp xuống. Hễ nghĩ đến bao nhiêu thứ thức ăn thì khổ bấy nhiêu! Do vậy, nên chúng không ăn được.

Hỏi: Thế nào la loại Ngạ quỷ ăn ít?

Đáp: Là loại quỷ lông hôi thoái, lông như kim và có bướu cổ. Đó là ba loại ngạ quỷ ăn ít. Hoặc ít được thức ăn bất tịnh nên gọi là ăn ít. Lông nhỏ như kim, là không dài cứng, đầu lông bén nhọn phủ cả thân mình, các đốt rời nhau, khi di chuyển lông trở lại đâm vào thân thể, như tên cắm vào da, gặp cái gì chúng liền cắn nuốt. Quỷ lông hôi là lông hôi hám cùng cực. Lông che khắp mình, gió thổi xông mùi hôi thối ra. Khí đó bốc lên mũi, chúng nổi giận, tự nhổ lấy lông mình càng thêm khổ sở. Loại quỷ bướu cổ, do nhân duyên nghiệp sinh ra bướu cổ, lại tự phá vở bướu khiến máu mủ chảy ra, mà tự ăn những máu mủ ấy.

Hỏi: Thế nào là loại Ngạ quỷ ăn nhiều?

Đáp: Là loại ăn thức ăn bị vứt bỏ (nôn mửa), ăn thức ăn thừa, và loại có năng lực bay. Loại thứ nhất do đời trước có bố thí, khi chết được thân tộc cúng tế mà được hưởng loại thứ hai, là những thức ăn không cố tình cúng cho hưởng, mà vứt bỏ rơi rãi ở đầu đường ngã tư. Loại thứ nhất như được thỉnh mời đến ăn, hưởng những vật cúng Trời… Loại thứ hai nhân nơi kiếp trước cho rồi đoạt lại, mà phải chịu thân ngạ quỷ ăn trước ăn thức ăn thừa vứt đi. loại ngạ quỷ biết bay là như Dạ xoa, La sát, quỷ yếm, hiện hình làm súc sinh, Trời, người, Loại ngạ quỷ này có năng lực bay, hình dáng như Trời, tự nhiên an trụ. Do Nhân duyên đời trước, mà có được thức ăn, y phục, tốt đẹp nhưng không hưởng được. Do có các thức ăn ngon, áo quần đẹp, thì chúng ngạ quỷ khác không được ăn bèn bâu lại, nhìn thấy thế mà sinh khổ tâm, khiến các vật ngon tột kia bỗng hóa trở lại thành máu mủ, bất tịnh. Ví như, rớt xuống địa ngục thấy các người thân chịu khổ, lòng sầu khổ lo lắng. Hoặc với hình tướng là súc sinh, Trời, người, nhưng vốn lại là ngạ quỷ.

Tất cả mọi hành trạng nêu trên là thuộc cõi Dục. Hỏi: Trong cõi Sắc thì sao?

Đáp: Trong cõi Sắc các chúng sinh duy trì hành trạng niệm, không niệm và hộ. Kinh nói: Cõi Sắc gọi là cõi không có dục, chỉ nhờ thiền làm cho an nhiên, trừ bỏ giận dữ, được sắc nhu nhuyến, sạch như vàng luyện. Trong cõi này niệm là lạc, trừ niệm là không niệm, khổ lạc dứt là hộ. Quán nhanh chóng chuyển lên cao mà giải thoát như dừng cương thì xe ngựa đều dừng.

Hỏi: Thế nào là cập niệm?

Đáp: Cập niệm là có ý niệm, là tự giác, vô giác và tự hành. Kinh nói: Có tự giác là tự giác, trừ tự giác là vô giác. Lạc như thế biết Thiền này là nói tự giác chính là Sơ thiền; Vô giác là thành thiện thứ hai; bắt đầu phần trung gian của hai thiện này là tự hành. Hành thiền này sinh từ cõi sắc, tùy chúng sinh mà nói thiền.

Hỏi: Thế nào tự giác sinh?

Đáp: Tự giác là chúng sinh ở các Trời Phạmphú-toan (Tịnh sư), Phạm ca di (Tịnh thân), Phạm ba lê sa (Quyến thuộc). Kinh nói: Tự giác hành thiền phát sinh trong đó. Tịnh sư, Tịnh thân, Tịnh quyến thuộc phát sinh. Tùy đó mà vui theo bực thượng trung hạ. Đại-phạm sinh từ không giác, nên có nghĩa là không giác không hành.

Hỏi: Thế nào là không hành?

Đáp: Không hành là Ba-lật-a-bà (Thiểu quang), A-ba-ma-na-a-bà (Vô lượng quang), Abà-tối-la-già (Quang âm). Kinh nói: Không hành là niệm vui sinh ở các trời: Thiểu quang, Vô lượng quang, Quang âm, ở đấy tùy theo ý muốn hoặc tạp tưởng, mà miệng nói thì ánh sáng tuôn ra ít, đó là Thiểu quang. Miệng nói, tuôn nhiều ánh sáng, là Vô lượng quang. Thanh tịnh vô lượng, nên gọi là Quang âm.

Hỏi: Đã nói có niệm (cập niệm). Thế nào là không niệm?

Đáp: Không niệm là Ba-lật-đa-thủ-ba (Thiểu tịnh), A-ba-la-ma-na (Vô lượng tịnh), Thủ-ba-thủba-ngật-lật-na (Biến tịnh). Kinh nói: Không niệm. Đắc lạc thiền, sinh lên ba cõi Trời. Có tịnh ít, nên gọi theo nghĩa thứ nhất. Do ít công tu tập, đắc lạc Thiền còn ít, tức Thiền thứ ba sinh về Thiểu tịnh, cũng thọ quả báo lạc ít. Loại trung thì sinh về Vô lượng tịnh, loại thượng thì sinh về Biến tịnh.

Hỏi: Thế nào là hành Hộ?

Đáp: Là tự giữ lạc, Vô tưởng, thủ Đà bạt bà (Tịnh cư) Kinh nói: Chứng đắc Hộ có ba hành: có tưởng, tưởng diệt, cùng tương ưng với giác. Tự giữ lạc là Tỳ-nghi-ha-phá-la tưởng thiên (Quả thật thiên), Thủ-a-bạt-sa và Tri-a-tiên-như-tát-đỏa. Do hộ lạc sinh tuần tự theo thứ hạng hạ, trung, (hạ là sinh vào trời Vô quả, trung là sinh vào Phước quang, thượng là sinh vào trời Quả thật). Do những tưởng đều diệt, nên sinh vào trời Vô tưởng. Đó là chỗ mà Bà-la-môn gọi là Niết-bàn. Vì niệm, tưởng, thức đều diệt nên kiết sử cũng hết, không còn nhô bẩn trở lại nữa. Chỉ còn sắc thân sống một nơi, ở đó chết thì khởi lên ý tưởng sanh trở lại.

Hỏi: Thế nào là Tịnh cư?

Đáp: Tịnh cư là Tu-đề-xá (Thiện kiến thiên), Tu-đề-xá-na (Thiện hảo kiến), Tì-thủ-đà (Thanh tịnh thiên, thượng trung hạ). Kinh nói: Tịnh cư là hết sạch kiết sử, được công đức mà gọi tên như vậy.

Hỏi: Ngũ Tịnh cư địa, sao nói có ba?

Đáp: Thanh tịnh A-tỳ-lệ-xá, A-đáp-ba-a-ca-nịtra (ở bậc thượng thì sinh nơi cõi trời Cứu cánh. Trung, hạ thì sinh vào không định. A Na-hàm sinh vào ba bực trời thượng trung hạ và tám trời). Kinh nói: Không có gì tiếp xúc, không nhiệt, và một trời Cứu cánh. Biết đó là ba thanh tịnh, phân chia thanh tịnh làm ba. Có năm sắc thì đã gọi là cõi sắc.

Hỏi: Thế nào là cõi Vô sắc?

Đáp: Cõi Vô sắc thì trong phần Phân biệt (Tu) trước đã nói. Tức tu tập đến sinh ở Vô sắc giới. Trong thời gian tu tập chánh thọ về sau mới sinh lên đó, lúc ấy là đã hoàn tất đạo quả. Như lúa gieo đã thu gặt được.

THỨ CHÍN

(Phần ba của pháp độ thứ ba: Y) Hỏi: Đã nói Ấm, Giới, thế nào là Xứ?

Đáp: Xứ là Cánh lạc xứ, Dị học xứ và giải thoát xứ. (Kinh nói: Cánh lạc xứ (xúc xứ) Dị học xứ và giải thoát xứ), xứ là nghĩa nương tựa. Ví như chỗ nương tựa của Trời. Đó là cái mà người xuất gia chứng đắc thấy rõ, qua tâm và sợ hãi. Thế cho nên gọi là Xứ.

Hỏi: Là xứ của cái gì?

Đáp: Là xứ của Công đức, Ác và cả hai. (Kinh nói: Xứ giải thoát là Công đức, xứ Dị học là Ác và xứ Cánh lạc gồm cả hai). Ý nhiễm trước mà hành ác; ý thanh tịnh thì phát khởi hành công đức.

Hỏi: Thế nào là ánh lạc xứ?

Đáp: Là Xúc xứ. Cảnh giới được tiếp xúc gồm cả ba loại: Cảnh giới tiếp xúc gần, cảnh giới tiếp xúc không gần và không hiện hành cảnh giới. Nghĩa này trong đây nói theo nhân duyên tương ưng, tức là hiện hành đến gần mà nắm bắt; thế cho nên gọi là hành đến gần tiếp xúc. Như vậy, hành không đến gần mà tiếp xúc cũng biết tương ưng như trên.

Hỏi: Thế nào là hành đến gần tiếp xúc?

Đáp: là những cảnh giới của Mũi, Lưỡi và Thân tiếp xúc (Tị nhập, Thiệt nhập, Thân nhập). Đây là cảnh giới hiện hành đến gần mà tiếp xúc. Ví như mùi hương đi vào mũi, thì căn trong của mũi cảm nhận mùi hương; hương là cảnh giới hiện hành của mũi. Mặc dù hoa ở xa, nhưng mùi hương của hoa vẫn vào mũi, và mũi cảm nhận được mùi hương ấy, hương cũng là sắc chất. Như gió phương Bắc thổi hương đến phương Nam, không trở lại phương Bắc; do đó hương kia vào mũi và có cảm nhận. Vị cũng như thế, lưỡi nắm bắt vị rồi mà cảm nhận vị, không thể nắm bắt vị ở trong vật chứa. Tiếp xúc gần là như thế. Lại như thân căn cũng là tám hoạt động: trơn, láng, nặng, nhẹ, mềm, cứng, bằng phẳng, không bằng phẳng, nóng lạnh. Do đây, do thân căn hiện hành nắm bắt mà cảm thọ. Cho nên gọi là cảnh giới hiện hành đến gần mà tiếp xúc. Hỏi: Thế nào là cảnh giới hiện hành không đến gần mà tiếp xúc?

Đáp: Là cảnh giới thuộc về Mắt, tai, Ý tiếp xúc (Nhãn nhập, Nhĩ nhập, Ý nhập). Ba thứ này không hiện hành đến gần mà tiếp xúc.

Hỏi: Mắt cũng phần nào có đến gần nắm bắt cảnh giới mà tiếp nhận; tai cũng như vậy, con muỗi vo ve trong tai, mà nghe được tiếng; ý thì cảnh giới là vô sắc ( không có sắc) sao biết đó là cảnh giới không đến gần để mà tiếp xúc?

Đáp: Bởi vì cảnh không đến gần cho nên nói thế. Đó gọi là tiếp nhận cảnh giới không đến gần để nắm bắt.

Hỏi: Giới hạn của cảnh không đến gần để nắm bắt?

Đáp: Không có giới hạn cố định. Như từ đây tới mặt trăng, là bốn mươi ngàn do tuần, mà vẫn thấy trăng hay đứng xa hơn năm dặm cũng vẫn thấy, tùy sức thấy của mắt mà thôi. Cho nên, cảnh giới hiện hành gần, hiện hành không gần mà nắm bắt, chỉ giới hạn ở sức cảm nhận của mắt thấy; cũng không phải xa, rồi dời vật thể đến gần mới thấy, hoặc tách ly cảnh rồi mới thấy. Đối với tai cũng vậy, tách rời căn tai mới nghe, không phải ép đến gần căn tai (màng nhó), môi cảm nhận được tiếng. Đó chỉ tùy theo lực của căn nghe thôi. Cảnh giới thuộc về Ý tiếp xúc không hình sắc, nên không có xa gần. Cho nên nói đó là cảnh giới hiện hành không gần mà nắm bắt.

Hỏi: Thế nào là vô hành (không có cảnh giới hiện hành)?

Đáp: Vô hành là cảnh giới của mình và người, nhận lãnh và không nhận lãnh. Kinh nói: Mình, người nhận và không nhận gọi là vô hành). Cảnh mình nhận lãnh, thì sắc là trước tiên. Cảnh người nhận lãnh cũng không ngoài sắc, thanh, hương, vị, xúc. Không nhận lãnh là tường ngăn, tiếng tù và, mùi hương hoa Ưu Bát là đầu. Những thứ ấy, không có hiện hành nên gọi là vô hành. Đây là những thứ hiện hành bên ngoài mình và người, không có nhân duyên; đây là năm cảnh giới không có nhân duyên, chỉ là pháp nhân duyên của người khác. Vì nghĩa đa số nên nói Vô hành.

Hỏi: Đã nói Vô hành, cách lạc xứ, vậy thế nào là Dị học xứ?

Đáp: Dị học xứ là chỗ nương tựa của Dị học (những học thuật kỳ dị, khác lạ). Đó là những Luận nghĩa về Một xứ, Hiểm ngụy và Vô (không có gì). Tóm lại đó là ba chỗ dựa của Dị học. Luận nghĩa một xứ là ví như cây tràng phan Nhân đế tám người mang đến. Trong đây hoặc có người nói do Đề-bà-đạt-đề mang đến, hoặc nói Trời cho. Sự thật, không thể một mình nhấc mang đến, phải nhiều người, không thể là một người, nhưng không được nói đó là do nhiều người mang đến, mà nói chỉ là một. Đó gọi là Luận nghĩa Một xứ. Vì cớ sao? Vì ba nghĩa hợp thành một như con người do quả báo của nhân duyên đời trước, do nghiệp sở tạo hiện tại, hoặc do người khác vui thích cho tiền của … Trong đây từ nhân duyên dẫn đến hiện tại này chỉ nói do một, gọi là Luận nghĩa Một xứ.

Luận nghĩa Hiểm ngụy là như cây tràng phan Nhân-đề, hoặc nói không phải do người mang đến mà gọi là nguyên nhân đều cùng (do một, do nhiều…). Đây gọi là Luận nghĩa Hiểm ngụy. (không là nhân chính).

Luận nghĩa Vô là luận nghĩa không có nguyên nhân. Như nói cây tràng phan Nhân-đề không phải do người mang đến.

Hỏi: Nghĩa của Luận nghĩa Một xứ thế nào?

Đáp: Là Luận nghĩa do mình, người tạo ra và do thế lực khác. Mình, người tạo ra có hai loại: Do đời trước, do nhân duyên đã gây tạo. Đời nay đã tạo và đời trước đã tạo, nên biết là do nhân duyên. Thọ quả báo tưởng là Trời cho. Như thế có ba nghĩa như nói ở trước. Người kia chỉ nói một, tức hoặc do nhân duyên tạo, do người tạo, do người khác thích ban cho. Hạng chấp do nhân duyên tạo thì cho không có người tạo, không có báo đáp, không đáng tin lũ người này, không đủ quá lại (trả báo). Nếu duyên với sở tác (hàng động) là đủ, tất cả không cần làm gì. Nói như thế là có lỗi ác.

Hỏi: Nghĩa của Luận nghĩa Hiểm ngụy thế nào?

Đáp: Là vọng tưởng về nghĩa chúng sinh, pháp và cả hai là gốc. Tức luận cứ về chúng sinh, về pháp về cả hai cho đó là căn bản mọi sự tịnh, bất tịnh đều do chúng sinh tạo, hoặc một ít do chúng sinh và pháp đã tạo. Đây gọi là Luận nghĩa Hiểm ngụy. Nhưng chẳng phải do chúng sinh tạo, chẳng phải do pháp tạo, chẳng phải do chúng sinh và pháp tạo.

Hỏi: Thế nào là tưởng chúng sinh làm gốc?

Đáp: Chúng sinh là nói Phạm mạ, Vị thứ-bà-lê và Tần-nhu. Mọi hành động của chúng sinh giống như Phạm-ma đã làm, Vị-thứ-bà-lô đã làm, Tầnnhu đã làm. Không biết quán xét Phạm-ma tạo thành hư không, hư không tạo thành gió, gió tạo thành nước, nước tạo thành đất, đất tạo thành cây cỏ. Như thế mà luận chúng sinh là do Phạm-ma trước đây tạo thành. Tất cả luận cứ này đều có lỗi. Nếu nói Phạm-ma tạo thành hư không đất thì đứng (trụ) ở chỗ nào để tạo hư không, đất, lần lượt như vậy đối với Vị-thứ-bà-lô và tần-nhu mà luận thì đều trái ngược như trước vừa nói.

Hỏi: Thế nào là vọng tưởng về nghĩa pháp?

Đáp: Là Luận cứ do Thời làm, do Vi làm (khí tạo tác) do tánh làm. Ba thứ này là luận nghĩa pháp. Luận Thời, là nói “Tất cả đều do thời tiết sinh, thời tiết làm thành thục, thời tiết làm thiếu mất, thời tiết tạo hết thảy” (“…” là kệ). Bài kệ này với nội dung hư ngụy, (giả dối) không tương ưng, như trong phần nghĩa “Một xứ” đã nói. Vì không đủ qua lại… (Bốn sự đã nói ở trên). Hoặc sinh ý có cái này, thì thời tiết cũng không tương ưng tạo ra. Vì sao? Vì như hư không, không có gì cả thì thời tiết tự nó cũng không, thì làm sao có chỉ bảo người khác tạo tác. Do đó có lỗi sai trái.

Nói do Vi tạo tác cũng không hợp, vì Vi (khí) không có niệm, việc này không tương ưng với tánh. Do tánh làm cũng như vậy, nếu có khởi thì không phải tánh sự (sự tự nhiên); nếu không có thì vô nghĩa, nếu vô nghĩa mà có chỗ khởi, thì cùng với tất cả hiện hữu như vậy, tánh đâu có gì sai khác!? Nếu sanh ý này, tánh có thường thì điều này không tương ưng, và vô thường là bất biến. Như vậy, có lỗi sai trái. (Tánh là thường như vậy. Nếu thường như vậy thì không có như vậy, chẳng thể như vậy, tức là chẳng thay đổi).

Hỏi: Nghĩa của Luận nghĩa Vô thế nào?

Đáp: Nghĩa Vô là tự nhiên, ép buộc, không có gì hết. Kinh nói: Luận về nghĩa Vô có ba: Luận tự nhiên, luận ép buộc, luận không có gì hết. Luận tự nhiên cho: Tự nhiên mà sinh, không có ý tưởng gì khác. Như gai góc bén nhọn, không có người làm cho bén nhọn.

Luận cưỡng ép là tùy vật mà muốn sinh, như nước lớn, nước nguồn cây-cỏ-lá-cành rơi xuống giữa tụ thành một khối, đây gọi là cưỡng ép (ngẫu nhiên). Hoặc theo côn gió thổi tới, nó thổi về hướng bắc, hoặc thổi qua đông, tây làm mọi thứ theo ý muốn sinh ra.

Luận không có gì cho là rỗng rang, hết thảy không có gì. Có cái gì tương ưng, thì cái tương ưng ấy cũng không hề có. Nhóm người này cho hết thảy không hề có thì có lỗi. Vì sao? Nếu tự nhiên mà có thì cuối cùng không có sinh. Do lấy nước tưới ruộng xem thời tiết là chính thì hạt mầm mới sinh. Nếu mọi cái đều không có thì cuối cùng mầm chẳng được sinh ra. Vì vậy cho nên không có cái gì tự nhiên mà có, mọi cái làm ra dẫn đến kết quả mà thôi.

Hỏi: Đã nói Dị học xứ, thế nào là Giải thoát xứ?

Đáp: Muốn có Giải thoát xứ thì phải Trưởng, Thiền và Tụng.

Ba thứ này là chỗ dựa của giải thoát. Giải thoát nghĩa là diệt hết mọi ác. Tưởng nhân duyên giải thoát, đó là tưởng nương tựa vào Phật, Bích-chiPhật, Thanh văn mà được giải thoát. Thiền như trong phẩm ở trước đã nói.

Hỏi: Thế nào là Tụng?

Đáp: Tụng gồm ba thứ: nói, nghe và phúng tụng (Kinh nói: Nói, Nghe, Phúng tụng). Nói theo những pháp đã được nghe, thọ những pháp đã được nghe, phúng tụng những chương đã được nghe, rồi chuyển tụng.

Hỏi: Trên đã nói đa văn là học rộng về Tu-đốlộ, A-tì-đàm, Tì-nại-da, nay nói phúng tụng có phải là nói trùng lặp?

Đáp: Đây cũng phân làm ba loại phúng tụng, ba sự được quả, đó là khi nói, khi nghe, khi tụng.

Đệ tử Phật có bốn loại: hoặc từ tiếp nhận Đế sinh giải thoát (Giới độ), hoặc từ tiếp nhận Thí mà đều có giải thoát (Thí độ); hoặc từ tiếp nhận Diệt mà đều có giải thoát (Thiền độ); hoặc từ tiếp nhận Tuệ mà đều có giải thoát (trí độ). Đây tương ưng như vậy; tức từ nghe Đế được giải thoát; từ nói Thí được giải thoát, từ tọa thiền được giải thoát, từ phúng tụng được giải thoát. Cho nên gọi là nghĩa Giải thoát xứ.

Tóm lại, như vậy ba pháp độ (Đức, Ác, Y) tương ưng, nên quán sát không rối loạn ý; mong muốn cầu Vô vi, lần lượt được giải thoát. Do nghĩa giải thoát nên trí tuệ sanh khởi, Thế Tôn mới hiện hữu thế gian.

(Bà-tố-bạt-đà nói ba pháp, tiếp ba tụng. Tóm lại, ba Pháp độ đã nói xong. Lời Ký nói: Lắng nghe Tôi nói kệ, một ngàn hai trăm kệ).


[Đầu trang][Mục lục bộ thích kinh][Mục lục tổng quát]