TẠNG LUẬN
BỘ THÍCH KINH
SỐ 1506 - LUẬN TAM PHÁP ĐỘ
Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cù đàm-tăng-già-đề-bà nước Kế Tân dịch vào đời Đông Tấn
Biết sinh (chúng sinh) khổ vô lượng,
Thiện Tịch (Phật) hướng đến an
Tâm bi đối chúng sinh
Mà luân chuyển nhiều kiếp.
Vì diệu, thiện xả thân
Nói pháp cho hết thảy
Trí rộng diệt các nẻo
Cúi lạy Đấng Tối Giác (giác ngộ tối thượng)
Mở ba pháp môn này (là)
Nơi quy tụ công đức
An vui các chúng sinh lìa xa mọi khổ não
Trước lạy đấng Thiện Thệ
Pháp và chúng vô thượng
Nay nói pháp chơn đế
Ba (lần) ba như nghĩa ấy.
Lời nêu: Nay nói ba pháp môn.
Hỏi: Tôn giả nói ba pháp môn, ba pháp môn ấy có nghĩa gì?
Đáp: Kinh này là nguyên nhân của pháp nói ở đây. Chỉ có ba pháp nối tiếp nhau mà tuyển chọn ra. Ba pháp này là giả tưởng.
Hỏi: Tại sao gọi là chọn ba pháp?
Đáp: Kinh Phật nương vào vô lượng tưởng, chúng sinh bị cõi đời ác làm hư hỏng. Mạng sống do ăn mà sống. Muốn tìm ý nghĩa chân thật cho đời sống, nên phải mở bày tư tưởng cho họ, và để họ luôn thọ trì, nên lựa ra ba pháp. Hết thảy cõi đời này, đều nương vào giả tưởng và chân tưởng. Do mở tư tưởng, cho nên lựa ba pháp ấy.
Hỏi: Tôi muốn nghe ba pháp này?
Đáp: Giác ngộ được Đức, Ác và Y (chỗ nương tựa) là pháp thiện, thù thắng.
Hỏi: Nếu giác ngộ Đức, Ác và Y là pháp môn thiện, thù thắng thì ba pháp này ở Kinh vốn là ba pháp, mỗi pháp có ba phẩm, gọi là Chân độ, cũng có thể nói là ba phẩm. Tuy nhiên, nói như trên là có lời về thứ tự. Vì sao? Vì lẽ ra pháp, thiện, thù thắng phải sắp xếp nói trước, rồi sau mới nói: Đức, Ác và Y nêu giác ngộ?
Đáp: Cái mà người ta vốn đã ham thích hướng đến rồi, thì không cần nói. Khắp mọi người ở thế gian này đều ưa thích hướng đến điều thiện, thù thắng (tốt đẹp hôn), thậm chí côn trùng cũng ham thích hướng đến vui sướng (lạc). Vì sao vậy? Vì ăn cho nên có sự tìm cầu. Các thiện thù thắng là an vui là tuyệt diệu, là đáng yêu. Như vậy, so sánh nghĩa mà nói là thiện, thù thắng. Người thế gian phần nhiều ham thích hướng đến cầu vui (lạc) mà tạo nhân trái ngược với lạc. Lạc là đại Niết-bàn. Và không bệnh, là thứ người phần nhiều hướng cầu, mà lại tạo nhân trái ngược với nó. Khổ đã có thì hướng đến cái vui, cần gì phải nói. Như kẻ đi đường đến nơi nào, nếu đã rõ biết rồi thì đâu cần chỉ đường nữa. Đây cũng vậy, cho nên không có lỗi.
Hỏi: Thế nào giác ngộ Đức, Ác và Y này liền được, thiện thù thắng? Phải chăng thấy vàng là giác, thấy thuốc là hết bệnh? Cho nên không thể giác ngộ Đức, Ác và Y mà liền có thiện thù thắng? Đáp: Tuy có lời nói như vậy, nhưng nghĩa không hẳn thế. Nên chọn như thí dụ cây đèn: Thắp đèn thì bóng tối lui ngay. Nhưng không phải thắp đèn, rồi sau đó bóng tối mới tan. Như vậy, trí phát sinh thì liền có trí giác thiện thù thắng. Đó là một nghĩa.
Hỏi: Tên gọi Đức là gồm những gì? Là vì chúng sinh số, là vì sắc-vị-hương ví như để thâu giữ, để tranh luận hay để nhiếp phục chăng?
Đáp: Đó là tưởng về Ngã, Dục và chẳng vui mà tạo thành. Kinh nói: Mà trong đây, Đức là phước đức, căn và không ác. Phước đức, căn, không ác-ba thứ này là tưởng về đức. Pháp bạch tịnh, quả pháp và Ngã để làm tưởng về đức, mọi thứ đều gồm thâu trong ba thứ này. Nay lần lượt sẽ chỉ bày.
Hỏi: Đã nói phước đức, căn và không ác, những gì là phước (phước đức)?
Đáp: Phước là thí, giới, tu tập luôn luôn hành xử theo thiện, thù thắng gọi đó là Phước, cũng đề cao khử cái ác trong con người. Ba thứ tu, thí, giới ấy như đã nói gọi là Phước.
Hỏi: Đã nói tu, thí, giới là Phước, thế nào gì là thí?
Đáp: Là thâu gồm được người khác, bằng cách ban cho của cải với suy nghĩ, nguyện đầy đủ và không bám víu. Đó là ba thứ thí.
Hỏi: Điều ấy ra sao?
Đáp: Thí là pháp, Vô úy và tài tức Pháp thí, Vô úy thí và Tài thí. Pháp thí là nói Kinh để ra khỏi thế gian. Vô úy thí là Bát chủng (tám Chánh đạo), Tam quy làm đầu tiên, như Đức Thế Tôn nói: Quy y Phật, là vì vô lượng chúng sinh mà bố thí Vô úy, không kết thù gây ác, ai nấy đều làm như vậy.
Hỏi: Như Thọ tam quy, cũng sát sinh, sao nói Vô úy thí là đứng đầu?
Đáp: Không nói hết thảy chúng sinh, nhưng như tà kiến làm si mê sát sinh, ăn trộm của người khác làm mọi việc ác này, thì người thọ tam quy vốn không có làm, vì đã có chánh kiến. Nếu thọ Tam quy không có chánh kiến, thì không phải Tam quy. Thế nên, thí cho vô lượng chúng sinh thì Vô úy thí là đứng đầu. người không tiếc tiền của mà bố thí thì thí cho việc ăn uống là đứng đầu, vì muốn thâu phục người khác, nên bố thí. Cúng dường v.v… thì hương hoa là đứng đầu. tự mình làm, hoặc mình và người đều làm. Vì đức gồm cả hai nên đạt quả lớn. Đó là thí thanh tịnh, nên phân biệt rộng như điều đã nói.
Như gốc cây hữu dụng
Có khi cành hữu dụng
Hoặc gốc, cành hữu dụng
Sự ấy đời thường thấy
Phương tiện như vậy thành
Thí ấy được quả lớn
Có từ nhân duyên tịnh
Công đức chung (cả hai) cũng thế.
Hỏi: Thế nào là giới?
Đáp: Là giới của thân miệng thâu nhiếp người khác, không nhiễu hại người khác và làm lợi ích cho người khác. Ấy là có ba tướng từ thân miệng phát sinh.
Hỏi: Nghĩa là thế nào?
Đáp: Là thâu phục, không hại và làm lợi ích cho mọi người (nhiêu ích giới). Thâu phục người , là khi họ đói khổ, thiếu thốn, ta yêu mạng sống của họ mà thương cho, không làm tổn hại. Không ăn cắp, không phá hoại vợ người, tất cả đều như vậy, đó là giới thâu phục người. Từ bỏ nói hai lưỡi, lời ác, nói dối, nói thêu dệt; đó là giới không hại người. Lại nữa bảy chi không bức bách người khác; đó là giới không gây hại người. Bao kẻ bị khổ vây ngặt, không nơi nương tựa, mà mình cứu giúp, là giới thâu phục người. Thọ trì hai giới này nếu phước liên tục phát sinh, thì đó là giới làm lợi ích: Tiếp đến tự hứa: từ nay ta bỏ sát sinh, khi phát tâm thì giới làm lợi liền tăng trưởng. Như xuất ra tài vật mỗi ngày đều có lợi tức. Đã thọ giới, tâm sinh thiện, nối tiếp giữ. Như hạt giống thực chất đã mất mà có ích lợi cho mầm sinh. Nếu không bỏ thiện, liên tục giữ, cho đến giấc ngủ thì càng tăng ích phước đức. Đây gọi là Nhiêu ích giới.
Hỏi: Thế nào là tu?
Đáp: Là tu Thiền vô lượng, vô sắc. Ở đây là tu hạnh thiện. Thế nên giống như ướp hoa vào mê. Luyện tập tu ấy ở gần Vua. Như quen luyện tập gần vua, ắt có kết quả. Như vậy, luyện tập tu hành thì được quả bạch tịnh. Nói tu Thiền, là nói bốn nghĩa về niệm.
Hỏi: Là sao?
Đáp: Thiền là ly Dục, Quán, Hỷ và khổ lạc, đó là bốn Thiền. Sơ Thiền đã lìa pháp bất thiện ác, duyên vào thiện, cột tâm trụ vào đó gọi là ly dục. Thiện thứ hai là ly Quán. Quán là sự nhận biết còn rất ít, như tiếng vang của cái linh yếu dần; ở đây không có, gọi là ly Quán, do trước đã lìa dục rồi Thiền thứ ba là ly hỷ. Hỷ là tâm vui trào như sóng biển, trong đây không còn Hỷ và dục, Quán, nên gọi là ly Hỷ Thiền thứ tư là lìa Khổ lạc. Lạc là thân, tâm không bị bức bách; Khổ là bị bức bách, ở đây không có, kể cả dục, Quán, Hỷ; nên gọi là lìa Khổ lạc.
Hỏi: Vô lượng là sao?
Đáp: Vô lượng là gồm: Từ, Bi, Hy, Hộ (xả), Bốn thứ này giả tưởng làm vô lượng. Vì duyên với vô lượng chúng sinh, nên gọi là vô lượng. Công đức ấy không thể kể, nên cũng là vô lượng. Từ là thương xót tất cả chúng sinh; tâm hành đầu tiên của mình là làm cho tất cả chúng sinh được tươi vui. Bi là thương xót những chúng sinh khổ não; Ý niệm đầu tiên của mình là làm sao cho chúng sinh lìa bỏ ưu phiền, khổ não. Hỷ là tâm mình dâng trào niềm hoan hỷ khi thấy các chúng sinh được nhiều niềm vui (lạc). Hộ là không ai cầu xin mà không dõng mãnh tha thứ. Chúng sinh có lỗi, nếu làm ác thì chính không phải làm vì vui sướng, mà chính ngược lại quán chúng sinh là nghiệp của tự mình chịu. Tha lỗi như thé gọi là Hộ.
Hỏi: Đã nói vô lượng, thế nào là vô sắc?
Đáp: Vô sắc là không, thức, vô sở hữu, phi tưởng phi phi tưởng xứ. Xứ là chỗ nương tựa của bốn thứ. Không là trừ bỏ lỗi lầm của sắc kiến sắc, đó là ly dục, nhất tâm duyên Không, cột ý tưởng mình vào Không, gọi là Không xứ. Không chỉ dựa vào Không, mà có thức, duyên vào thức thì liền có thức xứ. Đó cũng còn nơi dựa, không có chỗ dựa mới hơn. Nếu không có gì cả ấy là vô sở hữu xứ. Đối với lỗi lầm của tưởng, kiến và diệt nỗi sợ hãi của tưởng kiến mà nhất tâm là phi tưởng phi phi tưởng xứ, là vô sắc đạo. Như vậy, Thí, Giới, Tu nói trên, hết thảy đều gọi là phước.
Hỏi: Căn là gì?
Đáp: Căn là không tham, không sân, không ngu si. Chẳng tham, chẳng sân, chẳng si là tướng của ba căn này. Không phải là gốc của Đức nói ở trước, mà là gốc của hết thảy pháp lành ở các cõi. Tùy theo nghĩa nào đó trội hơn, thì những cái khác cùng đi theo. Như không tham thì bố thí tăng. Không giận thì giới tăng theo. Không si thì tu hành tăng thêm.
Lại nữa, không tham thì tăng Tài thí, không giận dữ thì tăng vô úy thí, không ngu si thì tăng Pháp thí, nghĩa là cả ba thứ bố thí đều tăng. Lại nữa, không tham thì giới thâu phục người tăng. Không giận dữ thì giới không hại người tăng. Không ngu si thì giới làm lợi ích cho người tăng. Nghĩa là ba thứ giới đều tăng. Lại nữa, không tham thì tu thiền tăng, không giận dữ thì tu lượng tăng, không ngu si thì tu Vô sắc tăng. Đó là ba thứ tu đều tăng. Lại nữa, không tham thì tăng trưởng chẳng làm ác, không giận dữ thì tăng trưởng nhẫn nhục, không ngu si thì tăng trưởng đa văn. Như vậy, căn, lực là gốc của mọi hạnh lành. Không tham thì đối với mọi tư cụ vốn có Ý không ham lợi, không ham vướng mắc; Không giận, thì côn giận bị dập tắt; không ngu si, thì diệt ngu si, cho nên nói là Căn (gốc).
Hỏi: Thế nào là không ác (vô ác)?
Đáp: Không ác là nhẫn nhục, đa văn và không làm ác (bất ác). Không ác là Thế tục số, giả tưởng. Lại nữa, ác là chẳng ghét điều ác. Vì chẳng tăng điều ác nên nói không ác. Không ác ấy là nói nghĩa diệu, thiện. Tăng điều ác nói không Nhẫn nhục là chịu khổ, tự kiềm chế trước mọi thế lực sang, hèn, mạnh, yếu mà không giận. Tùy theo sự việc thuộc thế lực nào, cũng tự kiềm chế không giận, mà tha thứ. Bị khổ bứt ngặt không giận ấy là nghĩa nhẫn nại (chịu đựng). Bị thế lực sang bứt ngặt, tha thứ không trả báo, nhưng đối với người tệ ác khiến khởi giận, với thế lực rất mạnh bứt ngặt, mà cũng không giận, đó là Nhẫn nhục. Bị thế lực hèn yếu bứt ngặt càng gia tăng tha thứ, cho dù có thể trả báo mà không đáp trả. Như vậy, đó là lỗi chúng sinh; nghĩa nhẫn nại lỗi hành nay sẽ nói: Hành khổ đó là sự lao nhọc của nắng, gió, nóng, lạnh, đói, khát, bị khổ bức bách, nên tự mình kiềm chế khổ này. Từ hai sự gây khổ não, đối với thân “không giận, đối với vô tình mà giận, ấy là nói theo chúng sinh, nhân duyên, là do y cứ vào hại sự bức bách thân nên chịu đựng nhẫn nhục.
Hỏi: Đã nói nhẫn nhục; thế nào là đa văn?
Đáp: Đa văn là khả năng trừ dâm-nộ-si; học rộng về khế kinh, A-tì-đàm và Luật, ấy là đa văn; ngoài ra thì không phải đa văn. Khế kinh là thuộc những gì Tát-văn-nhã nói, và ấn khả; chỉ rõ phải nhiễm uế, bạch tịnh, bốn Thánh đế và lìa khỏi vô lượng ác. A-tì-đàm là phân biệt rõ hết những gì nói ở Khế Kinh. Luật là nói đến những oai nghi lễ tiết, khiến cho thanh tịnh. Đó là ba thứ đa văn. Trong ấy, Luật gọi là chế dục; A-tì-đàm phần nhiều chế ngự sân. A-tì-đàm vốn nói các tánh nghiệp, nhờ đó ngăn chặn sân; Do sân mà phạm giới; do phạm giới mà bị đọa địa ngục. Khế kinh phần nhiều chế ngự si. Vì Kinh nói đến mười hai nhân duyên.
Hỏi: Đã nói thế nào là chẳng làm ác (bất ác)?
Đáp: Bất ác là chân tri thức, chân ngự ý và chân do. Chân tri thức là từ, thiện, năng tri thức. Thầy, trò và đồng học thuộc ba loại này.
Hỏi: Có phải Thầy là từ, trò là thiện, đồng học là năng lực; nói như vậy chăng?
Đáp: Không phải. Vì sao? Vì không nói sai biệt như thế. Tự, thiện, năng lực là tướng của chân tri thức. Lấy đó quan sát Thầy, trò và đồng học. Trong đây tướng Từ mạnh nhất , tạo thành hai thứ còn lại. Hoặc có từ nhưng không thiện (giỏi) biết sự, cũng không có năng lực thuyết. Như cha tuổi già không có đức. Hoặc có năng lực mà không thiện, hoặc dù có từ nhưng không thiện nên dạy bảo điều ác, như bọn Lục sư… Nếu người thành tựu đầy đủ ba tướng này thì nên biết đó là chân tri thức. Hoặc Thầy có lỗi nên hư hoại, trò có lỗi và đồng học có lỗi, do đó đầy đủ thành tựu ba tướng, bậc chân tri thức ấy đáng nên tìm cầu.
Hỏi: Đáp là Chân tri thức; còn thế nào là chân chế ngự ý?
Đáp: Là tưởng về Chỉ, Cử và Hộ một cách dõng mãnh. Hướng tưởng về chỉ, Cử và Hộ đó là dõng mãnh. Chỉ là ngăn tâm ý buông lung, làm cho hạ xuống. Đây vì quán tướng trạng của nó nên nói là Chỉ: Cử là giúp cho ý nhu nhược thấp kém; trợ sức nó dấy lên cao. Đây cũng quán tướng trạng mà nói là Cử. Hộ là lấy ý bình đẳng tùy thuận theo mà hiện hành. Như người giỏi đánh xe, nếu xe chạy chậm, thì thúc cho nhanh; nếu xe chạy mau, thì kìm bớt lại. Giữ mực đi quân bình đó là Hộ; trong bốn Vô lượng tâm thì Hộ (xả) đối với chúng sinh không vừa ý, lấy Từ làm hộ đầu tiên; còn trong đây là Ý bình đẳng hộ.
Hỏi: Làm sao biết như Ý hạ thấp phải nâng lên, Ý đương cao phải kiềm chế, và Ý bình đẳng là hộ?
Đáp: Há không phải là tùy ý mình muốn là chân chế ngự Ý (chế ngự Ý thật sự) sao? Vì thế cho nên đây là tùy Ý mình muốn, tùy thời, tùy phương tiện. Nếu còn có cao, thấp thì không phải chân chế ngự ý.
Hỏi: Đó là chân chế ngự Ý; thế nào là chân do (nền tảng chân thật)?
Đáp: Chan do là Cụ, Phương tiện và Quả. Chân thật là nền tảng gọi là hướng đến kia, hoặc nói là tập luyện, tu tập. Chân do ấy là Cụ, Phương tiện là Quả.
Hỏi: Cụ thuộc cái gì?
Đáp: Trước đã nói đó là thiện và thù thắng.
Hỏi: Cụ là những thứ gì?
Đáp: Đó là thiện tổn, phục căn và Cận hành thiền. Chúng trợ giúp hạnh thiện, nên nói là Cụ. Ví như Hành cụ, Túc cụ (dụng cụ để đi, dụng cụ của chân). Cụ là nghĩa chi tiết. Cụ này gồm ba loại là thiện tổn, phục căn và cận hành Thiền.
Hỏi: Thế nào là thiện tổn, (khéo tổn hoại)?
Đáp: Đó là Y phẩn tảo, vô sự và khất thực. Tổn giảm trong các tụ thì gọi đó là khéo tổn hoại. Thiện tổn ấy chính là nghĩa làm cho thanh cao, đạm bạc. Như hai thợ làm tượng; một có tăng thêm, một có tổn giảm. Thợ mộc, thợ đá làm cho tổn giảm; thợ đắp bùn, thợ vẽ làm cho tăng đẹp mà không chịu được gió mưa. Cũng như vậy, hai loại người: tại gia và xuất gia. Người xuất gia Ý giải thoát hệ lụy gia đình, đã bỏ mọi thứ, lấy tổn giảm loài hạnh diệu (tốt). Người tại gia tăng thêm thân tộc vợ con, mọi sự được thành, tuy có mọi thứ là vị ngon ngọt nhưng tướng ái, biệt ly, sầu thương, tranh đấu v.v… là hổ phá hoại của gió mưa phi pháp, Ý không chịu nổi. Cũng như tượng vẽ, bị gió mưa làm hư. Không phải người xuất gia. Như đức Thế Tôn nói:
Như chim được vẽ
Cổ xanh sắc đẹp
Quyết không thể bằng,
Ngỗng, nhạn cùng bay,
Tại gia cũng vậy,
Không bằng Tỳ Kheo,
Vắng lặng, xa lìa,
Tọa thiền thanh vắng.
Đó gọi là thiện tổn. Mặc y phẩn tảo, khất thực và vô sự; ba công đức trong sạch này là căn bản của mười hai hạnh Đầu-đà, chín thứ còn lại là quyến thuộc. Nay sẽ nói chi tiết ba thứ này. Đức Thế Tôn muốn giúp cho Nan Đà hoan hỷ, nên Ngài nói ba điều ấy bằng kệ:
Nan Đà! Thầy thấy gì?
Vô sự, y phấn tảo,
Biết rồi, vui càng cao
Lìa bỏ, không nhiễm dục.
Vì thế cho nên biết, ba thứ này là căn bản. Lại do bốn thứ ái sinh đó là y phục, thức ăn, chỗ ngồi và hữu (thân). Vì yêu thích y phục nên nói mặc y phẩn tảo. Vì yêu thích ăn uống nên nói khất thực; vì yêu thích chỗ ngồi nên nói vô sự. Nếu thành tựu ba công đức này thì đó là phải diệt yêu thích hữu. Vì thiện tổn nên lại có hai loại phá trừ là chấp Ngã hành và Ngã sở tác. Do tham y phục, ăn uống, chỗ ngồi mà sinh ra chấp đó là do mình làm ra (Ngã sở tác), mà Ngã hành kia là do ba công đức thanh tịnh này ngăn chặn tà chấp. Nếu diệt một sự, là nhất định đoạn trừ được chấp Ngã, Thế nên nói là công đức thanh tịnh.
Hỏi : Thế nào là Y phẩn tảo ?
Đáp : Là ba y làm bằng vải sợi (chiên y) tùy ngồi. Y phẩn tảo này vốn đủ cả ba y làm bằng vải sợi tùy ngồi. Nếu kể y phẩn tảo chỉ có ha thì tương ưng có chín công đức thanh tịnh, như vậy là trái với Kinh nói : Ý phẩn tảo là Y cũ nát chắp vá từ những miếng vá từ những miếng vải lượm nơi nghĩa địa, ngõ hẻm. Còn ba y là Tăng-già-lê, Uất-đa-la-tăng và An-đà-hội ? Ấy là vì hoặc có người trì giữ ba y mà yêu thích y tốt, do đó gấp rút tìm cầu. Bởi yêu thích này gây nhiều phiền tối. Nếu không được nhiều thì ba y là tốt nhất. Yêu thích có hai loại : Yêu chất lượng tốt và yêu số lượng nhiều. Ví như tìm một người nữ tốt đẹp nhất và tìm cả ngàn người nữ không đoan chính. Như thế, yêu thích số nhiều, nên Phật chế ba y, lại phát sinh tâm yêu cái tốt đẹp. Do đó, Phật vì họ nói : Trì ba y có sáu loại như bằng vải thô, gai, dây ... trong đó được dùng một loại.
Sau khi chọn một loại cho là tốt, chấp loại ấy tốt gây lắm nhiễu phiền, nên Phật lại vì họ nói y làm bằng vân sợi (chiên y). Như thế, trì ba y này ở trong chúng, nơi giường tòa ở nhà bạc y, nếu thấy tòa nào tốt thì dời đến ngồi vì họ thuyết pháp. Tùy tòa ngồi rồi, không nên vì cái tốt hơn mà dời tòa, cho ta là lớn, bắt người khác đứng dậy. Đó là ý nghĩa tùy tòa mà ngồi. Như vậy, ba y đầy đủ đều là phẩn tảo.
Hỏi : Thế nào là Vô sự ?
Đáp : Là ở dưới gốc cây, đất trống và luôn chánh tọa (ngồi ngay thẳng). Thọ đầy đủ ba thứ này và vô sự tức bốn thứ đây trừ tâm yêu thích nơi chốn ở. Tịnh tấn trong bốn việc này, người tín thí bèn tạo nhà, bày tòa, giường lớn, mềm mại, khiến người giáo hóa sinh tâm đắm trước. Đức Thế Tôn vì các Tỳ Kheo mà nói : Các ngươi đã bỏ nhà mình, không nên tham đắm nhà người khác, nên bỏ tham đắm ấy mà vui với vô sự. Các đệ tử Phật đã thực hành hạnh vô sự rồi, lại tham đắm ở phòng, thất, lầu cao rộng. Đây cũng như vậy. Tuy trong vô sự mà còn vui thích phòng, thất, lầu cao, khác nào tuy cưỡi xe ngựa mà bị lừa kéo. Thế nên, Phật dạy phải ngồi dưới gốc cây. Lại đã ngồi dưới gốc cây rồi, còn chê cây xấu, thích cây tốt mà tìm đến những cây to, nhiều hoa quả. Thế nên, Phật dạy phải ngồi nơi đất trống. Thân này được thí chủ nuôi dưỡng, lại đâu phải chỉ vì việc này, mà nên lọc các vui của Thần tiên, không có nhà và ái ràng buộc. Lại đã ngồi ở chỗ trống trải rồi, suy nghĩ thế này : Ta đã thực hành những hạnh gian khó rồi, nên xả bỏ chánh tư duy, ngả người xuống nằm dài nghỉ ngôi cả ngày cho sướng. Do đó, đức Thế Tôn dạy, không thể cắt tai rồi lại làm đẹp cái đầu. Vì thế, các ngươi nên giữ gìn chánh tọa, trải cỏ mà ngồi kết già phu, quán sát thế gian như thật mà tạo sự nghiệp cho mình. Như thế là đầy đủ hạnh vô sự. Hỏi: Vô sự là vậy, thế nào là khất thực?
Đáp: Khất thực là ăn một bữa, quá ngọ không ăn uống chất đặc (cơm, cháo, bột.... chỉ uống chất lỏng). Người xuất gia sống nơi gò mả, có hai thứ ăn, ăn theo chúng Tăng và xin ăn. Ăn theo chúng Tăng là ăn đầy đủ, do tín thí cúng, hoặc để tín thí khỏi vất vả, họ làm phòng nấu ăn ngoài xa. Còn khất thực, thì đi xin thức ăn từng nhà, được rất ít, nên gọi là khất thực. Ngoài lối sống đó thì đều là tà mạng. Khi ăn theo chúng Tăng, dễ nghĩ như vầy: Ta có khả năng đến nhà thí chủ để ăn. Nghĩ vậy thì nổi lên kiêu mạn. Thế nên Đức Phật dạy là phải đi khất thực, khất thực rồi, cứ mãi lo ăn sẽ bỏ phế việc học, do vậy Đức Thế Tôn dạy chỉ ăn một bữa, như Ngài nói:
Người nên giữ ý niệm,
Mỗi khi ăn, biết đủ,
Tức là thọ dụng ít,
Dễ tiêu hóa, sống lâu.
Đã hành trì ăn một bữa, tâm vẫn đắm trước ở thức ăn, bèn nghĩ như vầy: Đức Thế Tôn chỉ cho phép uống những chất đặc (sau Ngọ). Do đó, đi tìm cầu những thức uống ngon, mà phế bỏ việc học ; Khát thì uống nước cũng hết khát. Cho nên, phải giữ gìn hạnh nhất thực, qua giữa trưa không nên ăn uống chất đặc. Đã thực hành hạnh ăn ít, biết đủ rồi, lại ưa thích tắm rữa thân thể, do đó Phật dạy : Đây cũng như tưởng ăn, khiến tăng thêm ngạo mạn. Vì sao ? Vì thân này do việc ăn mà sinh trưởng, dù có béo tốt cuối cùng cũng vứt ở nghĩa địa. Do đó phải biết vui sống thanh bần nơi gò mả, để có dịp tốt mà chiêm nghiệm chuyện của thế gian:
Từ hết thảy thức ăn, mà cuối cùng là thân rệu rã nơi gò mả, với sự phình trướng lên, máu mủ chảy lan ra. Thấy vậy, thì bao nhiêu cao ngạo tan biến hết. Như vậy, nói về khất thực đã xong. Đó gọi là thiện tổn.
Hỏi: Thế nào là phục căn?
Đáp: Là bất hại, thủ và hàng. Phục căn là khả năng chế ngự các căn, là ba loại : bất hại căn, thủ hộ căn và hàng phục căn.
Hỏi : Thế nào là bất hại ?
Đáp: Về căn thì trước đã nói. Làm hại căn là không có khả năng điều phục căn. Ví như ngựa dù không cho ăn uống nhưng không biết phương pháp, cũng không huấn luyện được. Cho ăn uống đầy đủ, và biết cách thì vẫn điều phục nó được. Như vậy, làm hại căn thì không điều phục được. Nhiếp giữ các căn có thể điều phục. Nếu làm hại căn mà gọi là điều phục, thì đó chỉ là kẻ ly dục mù lòa. Thế nên chớ có hại căn. Nhưng trực tiếp chế ngự cảnh giới của căn, lấy chánh tư duy nhiếp giữ chúng thì liền được thủ hộ căn. Như đã từng nói:
Các căn đến cảnh giới,
Nên xa lìa mọi tưởng,
Không gây hại cảnh giới,
Chỉ trừ chỗ tham đắm.
Hàng phục các căn, là như thấy một cô gái xinh đẹp thì nảy sinh ý tưởng đó là mẹ ta. Ba loại kể trên gọi là phục căn.
Cận hành thiền còn gọi là Nhẫn. Vì tưởng đến gần với tư duy nên gọi là Cận hành thiền.
Hỏi: Tiến gần đến điều gì ?
Đáp: Như trước đã nói đó là thiện và thù thắng. Hỏi: Như trước đã nói bốn Thiền rồi, sao đây còn lại lặp nữa?
Đáp: Trước nói, Thiền chủ yếu hướng đến sinh tử làm chính, còn đây ý nghĩa xuất khỏi sinh tử làm chính, thứ tự mà quán sát Chân đế. Như người lần đầu vượt qua quãng đồng rộng vắng vẻ, nhưng lại thấy mọi thứ hoa trái, hồ ao xinh xắn, với bao nhiêu dòng nước trong đang chảy, những vườn hoa trang trí đẹp đẽ; thấy vậy, người ấy liền biết đó không phải là đồng rộng vắng vẻ, mà nó nằm sát bên kinh thành. Như vậy, hành giả ở trong đồng hoang sinh tử, bị dâm, nộ, si làm cho mệt nhọc phiền lụy, rồi được chơn tri thức dạy bảo chánh tư duy, quán xét về ấm, giới, nhập, biết chúng là Khổ, Không, vô thường, vô ngã, lúc ấy như có dục lạc (ham muốn an lạc) trong quán tưởng này thì gọi là Nhẫn. Ý chánh tư duy không bị lay động, xem mọi thứ đều như chiêm bao, như bóng trong gương ; chịu khó quán tưởng như thế gọi là thế gan đệ nhất pháp. (Thế đệ nhất pháp). Do Đức Thế Tôn tưởng đó gọi là Cận hành thiền. Hành giả quán tưởng thứ tự biết rõ như giấc chiêm bao v.v... sau đó được quán Thánh đế.
(Phần chân độ thứ nhất, Cụ trong phẩm Đức đã nói xong)
Hỏi: Thế nào là phương tiện?
Đáp: Phương tiện là Giới, Thượng chỉ và trí Phương tiện là con đường, dẫn đến nẻo thiện thắng nên gọi là phương tiện. Đó là ba ấm : Giới, Thượng chỉ và Trí.
Hỏi: Phải chăng là nói lại Giới?
Đáp: Trước nói thiện thắng có hai thứ: Một thọ sinh, hai là ra khỏi sinh tử. Giới nói trước là về thọ sinh. Còn đây nói là giới về xuất ly sinh tử, có nghĩa là rèn luyện.
Hỏi: Việc này là sao?
Đáp: Giới là chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng. Ba thứ này gọi là giới. Chánh ngữ là từ bỏ nói hai lưỡi, lời ác, nói dối, nói thêu dệt. Chánh nghiệp là lìa sát-đạo-dâm. Chánh mạng là Tỳ Kheo tăng hành khất thực, y phục, dược cụ, đó là chánh mạng. Ngoài lối sống đó, đều là tà mạng. Người Ưu bà tắc từ bỏ năm nghề là: đao gậy, chất độc, rượu, ăn thịt chúng sinh. Đó là chánh mạng.
Hỏi: Thế nào là Thượng chỉ (hướng thượng mà dừng lại).
Đáp: Là Tấn-Niệm-Định. Thượng chỉ ấy là hoàn bị đủ ba thức này. Lại nữa, diệt trừ dâm-nộsi, gọi là thượng chỉ; hướng đến kia mà trọ nên gọi là Thượng chỉ. Ba thứ Tấn, Niệm, Định; thì tấn là Lực. Lại năng tác nên nói là Tấn. Tấn là hành là khả năng đi tới thiện và thù thắng. Cho nên gọi là Tấn.
Hỏi: Nó như thế nào?
Đáp: Là Tín, cần và Bất xả (Tin, siêng năng và không từ bỏ) mượn ba thứ này đặt tên gọi là tấn. Tại sao? Do lòng tin làm gia tăng hạnh lành. Nó đứng trước mọi điều lành, là bậc nhất trong mọi pháp; như thường nói:
Cởi mọi trói buộc.
Kẻ sĩ tin, hành,
Được Thánh khen ngợi.
Vui với vô vi,
Đó là ba thứ lòng tin.
Hỏi: Là ba thứ gì?
Đáp: Lòng tin là Tịnh-Dục và Giải. Trong ba thứ tin: Tịnh-Dục-Giải, thì tịnh là mọi ô trược, những điều ác trong con người. Giận dữ, kiêu ngạo, không biết hổ thẹn của con người, là những cặn đục, như dòng suối trong, bị voi, trâu lội, dẫm, nổi bùn đục ngầu, dừng lại thì lắng trong. Như vậy, giận dữ, kiêu ngạo, không biết hổ thẹn của con người là những ý nghĩ loạn đục, không loạn ý nữa thì trong. Dục là yêu thích sự tốt đẹp, như kẻ đang mắc bịnh ngặt, không ưa muốn nghe pháp bệnh khỏi rồi mới ham thích. Kẻ bị điều ác vây ngặt, không ưa muốn nghe pháp, được thiện tri thức dẫn dắt rồi, mới vui thích nơi pháp, kẻ ấy liền nghĩ: Pháp này vi diệu biết bao, đó gọi là dục.
Giải là nắm giữ chắc chắn. Như kẻ bị rắn độc cắn, khi thầy thuốc trị dùng chú đem nọc ra, thì người này chú ý hết sức, liền nghĩ: Thật là chú linh nghiệm nên được khỏi. Ý tin khả năng cứu khỏi ấy mới đi tìm thuốc. Như thế người bị rắn độc dâm nộ si cắn cũng vậy. Vì thương xót họ, nên Đức Thế Tôn giảng nói pháp. Nếu họ tin hiểu thì ý không có gì khác, chắc chắn dâm nộ si của họ được trừ hết. Còn những gì không trừ được là do không tin hiểu.
Hỏi: Tín là vậy, thế nào là Cần?
Đáp: Cần là khởi, tập và chuyển. Ba thứ khởi, tập, chuyên gọi là cần. Khởi là mới bắt đầu hành thiện, như khi muốn dùi lấy lửa phải tạo các dụng cụ tạo lửa. Tập là làm đi làm lại mãi. Chuyên là duyên vào một đối tượng, không buông lìa, không phân tán ý, như cứu lửa đang cháy đầu mình.
Hỏi: Thế nào là Bất xả?
Đáp: Là không ngừng, không chán, không lìa ra. Ba điều ấy gọi là Bất xả. Không ngừng là bất cứ khi nào cũng không tách xa với nó.
Không chán là bản thân tinh tấn hết mực, không phế bỏ, không lìa là một mực siêng năng bền bỉ, chịu mọi vất vả. Hoặc có kết quả hay không cũng không bao giờ rời buông. Tinh tấn không buông rời như vậy gọi là Bất xả. Có ba việc ấy, chắc chắn đạt kết quả, như kẻ đi đường vui thích nơi mình tới.
Hỏi: Đã nói về Tấn, còn Niệm là thế nào?
Đáp: Niệm là Thân, Thống, tâm pháp ở trong, ngoài và cả hai đều không quên. Ba, loại niệm: trong, ngoài và đều (câu) thì vì tự mình gọi là trong; ngoài khác là ngoài; cả hai gọi là đều. Lại nữa, bên trong là Thọ Ấm-Giới-Nhập, bên ngoài là thọ từ người khác và không thọ là đều. Lại nữa, ba phiền não ở trong, ngoài và cả hai đều có. Bên trong là Tham, bên ngoài là giận. Giận là vì người khác, không phải tự giận. Hoặc nghĩ như vậy; tham muốn cũng vì kẻ khác; thì điều này không đúng. Tại sao? Bên trong nhiễm, bên ngoài mới bị cái khác làm phát sinh ham muốn, là do bên trong đắm trước. Kinh nói: Ví như nhìn người nữ, thì nội căn, ngu si và cả hai đều hiện hành. Nếu diệt ba phiền não ấy, gọi là ba niệm. Thân và ba: Thống (thọ) tâm, pháp mỗi thứ có ba thành mười hai thứ niệm.
Hỏi: Đã nói Niệm, còn Định là thế nào?
Đáp: Là Không, Vô Nguyện, Vô Tướng, là ba thứ định. Vì sự rỗng không, nên gọi là Không.
Hỏi: Có nhiều thứ như: Không, làng xóm không, nhà cửa không, như vậy là nói đến cái Không nào, trong những thứ Không đó?
Đáp: “Không” là Ngã hành, Ngã tác và cả hai đều không thấy (chấp thấy), do vậy nên gọi là Không.
Hỏi: Sao có thể không thấy Ngã hành và Ngã tác? Như Đức Thế Tôn nói: Thuở ấy, Ta (Ngã) là Phạm chí tên Tùy lam. Lại nữa, như đã nói: Này Tỳ Kheo, tay Ta (Ngã) nắm lấy hư không là như vậy chăng?
Đáp: Không phải Ngã hiện hành, Ngã tạo tác như thế, mà chỉ là tạm mượn gọi Ngã (ta). Nhưng chỉ trong năm ấm chấp Ngã là Ngã hành, thì Đức Thế Tôn không chấp hành như vậy. Hoặc đối với cảnh giới, chấp trước Ngã cho đó là Ngã tác, thì Đức Thế Tôn cũng không có. Như Kinh Thánh Pháp Ấn nói: “Không” là quán thế gian rỗng không. Như vậy mà so sánh với Ngã, Ngã sở cũng đều được thành nghĩa không. Do đó nên nói Không chung thì không sai.
Hỏi: Vô Nguyện là gì?
Đáp: Là không ưa lập quá khứ, vị lai, hiện tại. Vô nguyện nghĩa là chẳng xác lập, đi vào quá khứ, vị lai, hiện tại, và là không lập nghĩa, vì hết thảy đều là pháp hữu vi. Như kinh Thuyết Xứ nói: Nếu nói Vô nguyện: là không thụ nhiếp ba thứ: Ý-Ngã và Niết-bàn, thì điều này không nên vậy. Vì sao? Vì một không có hai nghĩa. Niết Bàn là xa lìa thế gian, hoàn toàn không có duyên trong đó, không có Ý, Ngã là lìa khỏi ba đời, lại không có Niết bàn bất khả thuyết này. Đó là nghĩa không ưa xác lập của Vô nguyện.
Hỏi: Vô tướng là thế nào?
Đáp: Vô tướng là lìa tất cả sự tướng, tạo tác và cả hai. Lìa ba thứ này gọi là Vô tướng; lìa hết thảy hữu vi; hết thảy là sự và tạo tác. Cái được làm là sự, chủ thể tạo ra là tác. Như do Vô minh mà Phước, Phi phước, Bất động tạo ra Hành. Chúng duyên nối tiếp mà có sinh ra Thức tức là sự. Vô minh và Hành là sự. Vô minh và Hành là tác. Như vậy, nếu lìa tất cả hữu vi, thì gọi là Vô tướng.
Lại như Kinh Thánh Pháp Ấn nói: Vô tướng là không thấy sắc tướng. Như vậy, tất cả nói trong Kinh ấy cũng là nói ba nghĩa ở đây là: Lìa sự, tác và cả hai; nhưng cách nói có khác mà thôi. Ví như nói sông không có nước hoặc nói không thấy nước ở sông. Chỉ là một nghĩa. Không, Vô nguyện, Vô tướng cũng như vậy, đó gọi là Định.
Hỏi: Thế nào là Trí?
Đáp: Là sở hành của kiến địa, Tu địa và Vô lục địa. Trí chính là giác. Trong ba địa này, vì thấy cho nên gọi là Kiến địa.
Hỏi: Thế nào là thấy? Thấy những gì?
Đáp: Là thấy cái chưa từng thấy, là giác đạo chi Căn, Lực của Thánh địa và thật tu ấy là tu tập. Như dùng nước tro tốt, gặt áo, dù áo sạch mà không còn dơ nhưng vẫn còn mùi tro. Sau đó phải dùng nhiều thứ hoa hương xông ướp nó. Như vậy là kiến đạo. Các định Thiền, Vô lượng, Ý thanh tịnh đoạn trừ hết mọi kiết sử, hết mực huân tập, gọi là Tu địa Vô học địa là dâm-nộ-si bị diệt sạch, không còn sót chút nào. Đó gọi là Vô học.
Hỏi: Trí của Kiến địa là gì?
Đáp: Là Pháp, Quán và Vị tri trí. Tức là Pháp trí, Quán trí, và Vị tri trí. Đó là trí của Kiến địa. Pháp trí, nghĩa là hiện trí. Ví như thầy thuốc, biết ung nhọt đã chín mùi, liền lấy dao mổ nó, sau mới dùng ngón tay làm cho đường máu huyết lưu thông khiến không tổn thương gì đến mạch máu mà còn phá được ung nhọt. Người tu hành cũng như vậy. Khi chánh tư duy quán khổ nơi cõi dục, đoạn trừ hết phiền não thuộc về kiến khổ đã đoạn, phát sinh trí thứ hai, biết cõi dục là khổ, vô thường; ở cõi Sắc, Vô sắc cũng như vậy. Từ trí này so sánh (Tỉ trí) mà đoạn phiền não ở cõi Sắc, Vô sắc. Đó gọi là ba trí thuộc vè Kiến khổ. Ở cõi dục, ái là nhân của khổ; biết rõ nhân này là Pháp trí tức là Quán trí, như vậy biết cõi Sắc, Vô sắc là Vị tri trí. Đó là ba trí thuộc về kiến Tập. Đã diệt ở cõi dục là Pháp trí Đạo tức là quán trí; cõi Sắc, Vô sắc là Vị tri trí, đó gọi là kiến tận ba trí thuộc về Kiến tận (Diệt) Đạo con đường diệt khổ ở cõi dục, là Pháp trí tức Quán trí như vậy cõi Sắc, vô sắc là Vị tri trí. Đó gọi là ba trí Kiến đạo, phối với Khổ, Tập, Diệt, Đạo thành mười hai trí Kiến địa như đã nói rộng, nên biết.
Hỏi: Thế nào là Tu địa?
Đáp: Là Tướng tri, Hành tri và Chủng tri. (trí biết về tướng, hành và chủng).
Hỏi: Tướng là thế nào?
Đáp: Tướng là khởi, trụ và hoại. Khởi là sinh, trụ là thành, hoại là hư hoại.
Hỏi: Nói rộng về chúng sinh, Niết Bàn thì có nghi rằng chúng sinh và Niết bàn cũng có tướng này. Nếu có thì đó là một lỗi lớn, tức có là vô thường. Nếu không phải vậy, thì kinh này có lỗi, lẽ ra phải nói khởi, trụ, hoại là tướng hữu vi?
Đáp: Chúng sinh là đối với nói tướng thì đúng, ngoài ra “Không thể nói” Nếu khác đây tức có thường. Đó là hai lỗi. Niết bàn không thể nói (bất khả thuyết) cũng như vậy. Thế nên, phân biệt phải biết nói tướng ấy hoàn toàn là tướng hữu vi.
Hỏi: Nay nói về công đức, tướng này thế nào là công đức?
Đáp: Nay nói về trí, nếu trí trong ba tướng này tức là công đức không phải là tướng.
Hỏi: Hành là gì?
Đáp: Hành là vô thường, khổ, và Phi ngã kiến. Hành là biết hết nghĩa của hành. Tướng này, do hành ấy, biết nghĩa của hành ấy, là biết ấm thì vô thường. Do vô thường nên khổ, nếu đã khổ là không tự tại cho nên chẳng phải ngã. Vô thường là không dừng lại lâu, như bọt nước, khổ là sự bức bách, như tên cắm vào thân thể. Phi ngã (Vô ngã) là không tự tại, như mượn chuỗi ngọc đeo chơi thôi. Đó là hành.
Hỏi: Thế nào là Chủng?
Đáp: Chủng là, vị ngọt, hiểm họa và lìa. Chủng là vị ngọt, là hiểm họa, là lìa.
Hỏi: Là sao?
Đáp: Là hữu vi. Trong đó, vị ngọt là diệu. Hiểm họa là ác. Lìa là người đều ngừng lại. Cái vui thú của Trời người là vị, ba đường khổ là hiểm họa, ra khỏi tội phước là lìa. Quán như vậy là công đức của chánh kiến, tức được giải thoát, đó là chủng. Đây là trí của Tu địa?
Đáp: Là Đạt trí, Thông trí và Hữu biện trí. Ba trí này của Vô học địa.
Hỏi: Thế nào là Đạt trí?
Đáp: Là Túc mạng trí, sinh tử trí và Lậu tận trí. vì khả năng đạt đến của những trí này, nên gọi là Đạt, còn có nghĩa là Tri. Túc mạng trí nhớ biết mọi việc đã làm trong quá khứ; Sinh tử trí biết được nghiệp quả; Lậu tận trí sẽ nói ở phần sau. Lại nữa, phiền não có ba thứ, thuộc lãnh vực của quá khứ, vị lai, hiện tại. Quá khứ có mười tám kiến chấp. Vị lai có bốn mươi bốn kiến chấp. Hiện tại đấy là thân kiến. Do vậy mà sinh trong hiện tại. Ở trong sự phân biệt quá khứ, vị lai; nếu chứng đắc Túc mạng trí thì không bác bỏ quá khứ. Nếu chứng đắc sinh tử trí, thì không si mê. Nếu chứng đắc Lậu tận trí ở vị lai, là không đắm trước hiện tại.
Hỏi: Thế nào là Lậu tận trí?
Đáp: Lậu tận trí là Tận trí, Vô sanh trí và Nguyện trí. Quán Ngã, phiền não như vậy điều trừ hết là Tận trí. Không sanh trở lại là Vô sanh trí. Ví như Thầy thuốc chữa bệnh rắn cắn; biết bệnh trừ hết độc đó là Tận trí; không bị nọc độc làm nhiễm trở lại là Vô sanh trí. Nguyện trí là hành Thanh văn dùng Túc mạng trí tự nhớ sự sanh nối tiếp ấy không phải của người khác. Nguyện trí này do nguyện nhân cũng biết mọi người khác, đó gọi là Nguyện trí.
Hỏi: Thế nào là Thống trí?
Đáp: Là Như ý túc, Thiên nhĩ và Tha tâm trí. Như Ý túc sẽ nói ở phần sau. Thiên nó là do định lực ở trong một duyên mà tăng trưởng tứ đại tịnh. Thiên nhĩ này tùy theo lực có thể nghe tiếng từ cõi trời, người cho đến nẻo ác. Như mắt, hoặc thấy gần, thấy xa tùy thị lực của minh. Như vậy, tùy theo định lực mà chứng đắc Thiên nhĩ. Tha tâm trí là biết tâm niệm của chúng sinh như thế… giống như thấy nghe tiếng chúng sinh.
Hỏi: Thế nào là Như ý túc?
Đáp” Là tự tại đi lại trên không, tự tại biến hóa và Thánh tự tại. Đi lại trên không tự tại là lướt trên nước, đi trên hư không, có thể khuyên vào đất, đi qua vách đá, sờ chạm mặt trời, mặt trăng. Biến hóa tự tại là có thể hóa hiện làm người, voi, ngựa, xe, núi, rừng, thành, quách… Thánh tự tại là có thể hóa thành sống lâu, hóa nước làm sữa, hóa đất đá thành vàng. Ngoài ra, so sánh như vậy. Gọi là Như ý túc, là những phần tăng ích, trưởng dưỡng của hàng Thánh. Như ý túc, Thiên nhó, Tha tâm trí gọi là Thông trí, hợp với Túc mạng trí, sinh tử trí là Ngũ thông của phàm phu.
Hỏi: Thế nào là Biện trí?
Đáp” Là trí biết rõ về pháp, trí biết rõ về nghĩa, trí biết rõ về từ, và trí biết rõ thích ứng. Bốn loại biết rõ này gọi là Biện trí. Bết rõ về pháp là biết rõ danh, cú vị. Biết rõ về nghĩa là biết rõ tánh thật của pháp. Như lửa là danh, cái nóng của nó là nghĩa; không si mê mà biết rõ tánh của nó. Biết rõ về từ là biết rõ văn này, chi tiết thứ tự như vậy. Biết rõ thích ứng là không điên đảo nói về cú, văn, chi tiết; cũng không lầm lẫn. Đây trong phần nói trí của Học địa đã nói rộng rồi.
Hỏi: Như giới và định, trong Học, Vô lậu địa cũng có thể đạt được giới, định, sao không nói thành ba loại?
Đáp: Không có mỗi giới sai biệt, không phải là
Học thì lìa sát sinh, chúng sinh hết sức hộ trì còn Vô học thì không như thế. Nếu học không sát sinh thì cũng chính là Vô học như vậy, không có sai khác. Vì thế không nói ba loại. (Phần Chân độ thứ hai (phương tiện) trong phẩm Đức đã nói xong).
Hỏi: Trước nói Chân do là Cụ, Phương tiện và Quả, trong đó đã nói về Cụ và Phương tiện, vậy thế nào là Quả?
Đáp: Là Phật, Phật Bích chi, Thanh văn, đó là ba quả. Hỏi: Là quả thuộc cái gì?
Đáp: Là thuộc Giới, Thượng chỉ và Trí.
Hỏi: Nay nói chân do. Chân do chính là đạo, quả cũng là đạo chăng?
Đáp: Quả này nói là hữu dư, trước nói là vô dư, Vô dư Bát Niết-bàn, cho nên không có lỗi. Phật là người lìa hết thảy chướng ngại, đạt được mười Lực, bốn vô úy, đạt được hết thảy Phật pháp, không khác với giới-định-huệ của chư Phật. Phật Bích chi là tự giác ngộ, không nhờ ai. Thanh văn là do người khác giảng nói mà đạt được.
Lại nữa, giải thoát có đủ hai thứ: Tâm bi và chán. Nếu từ tâm bi đầy đủ đắc đạo là Phật. Chán có hai thứ, một là do mình có, hai là do người khác mà có. Tự mình có là Phật Bích chi. Do người khác mà có là Thanh văn. Lại nữa, biết hết, biết cùng khắp, đầy đủ công đức, xa lìa mọi điều ác là Phật. Tuy lìa ác, nhưng Phật Bích chi còn nhiều việc không bằng Phật. Thanh văn dựa vào người khác để lìa ác.
Hỏi: Thế nào biết chư Phật không khác nhau?
Thanh văn cũng lại như vậy sao?
Đáp: Thanh văn, thì ly dục, chưa ly dục, và A-la-hán có sự khác nhau là do phân biệt Căn. Tín đứng đầu trong năm Căn; do nương vào năm Căn có ba hạng: hạ; trung, thượng cho nên Thanh-văn có tất cả các địa sai khác.
Hỏi: Thế nào là ly dục?
Đáp: Dục là Tín giải, kiến đáo và Thân cứng. Lấy Tín là độ đừng đầu cho nên nói Tín giải thoát. Do huệ làm độ đầu tiên, cho nên nói là Kiến đáo. Đều có hai thứ này là Thân chứng. Vô lượng chủng ấy, nay chỉ nói Tín giải thoát là Thượng lưu, Hành, vô hành Bát Niết Bàn. Thượng lưu Bát Niết Bàn, Hành bát Niết Bàn, vô hành bát Niết Bàn, ba thứ này là Tín giải thoát. Thượng lưu (dòng trên) là yêu thích việc dẫn tới chỗ cao hơn, vả lại dòng là đạo, từ cõi dục dẫn lên trên nên gọi là Thượng lưu. Hành Bát Niết-bàn, thì hành là hữu vi, dùng nhiều phương tiện và đạo, duyên với hành đi tới vô vi, nên gọi là Hành Bát Niết Bàn. Vô hành Bát
Niết Bàn, thì vô hành là vô vi, ít dùng phương tiện và đạo, duyên nơi vô vi đi tới vô vi, gọi là vô hành Bát Niết Bàn. Đó là ba thứ Tín giải thoát.
Hỏi: Thế nào là Kiến đáo?
Đáp: Kiến đáo là Trung Sinh Bát Niết Bàn, cũng là thượng lưu, kiến đáo cũng có ba thứ: Trung Bát Niết Bàn, Sinh Bát Niết Bàn và Thượng lưu Bát Niết Bàn. Trung Bát Niết Bàn là thân này chết rồi, chưa sinh đời sống khác, khoảng giữa này đắc đạo rồi Bát Niết Bàn, như đóm lửa nhỏ, chưa rớt đã tắt. Nghĩa này cũng vậy, Sinh Bát Niết Bàn là như lửa chạm tới đất mới tắt. Như vậy là bắt đầu sanh, thứ tự đắc đạo rồi Bát Niết Bàn. Còn thượng lưu, như trên đã nói. Cõi Vô sắc cũng như vậy. Ba thứ này là Kiến đáo.
Hỏi: Thế nào là Thân chứng?
Đáp: Thân chứng là Hành, vô hành, Sinh Bát Niết Bàn. (Trước đã nói)
Hỏi: Không vì nói lại sao?
Đáp: Không. Khác cõi cho nên lìa cõi Dục và lìa cõi Sắc là trừ hết hai thứ trung ấm. Chẳng phải trung ấm có ở cõi vô sắc. Lại nữa, trước nói là không giải thoát, còn Thân chứng có giải thoát.
Giải thoát sẽ nói sau.
Hỏi: Ly dục, thế nào là chưa ly dục?
Đáp: Chưa ly dục là thứ tám, Tu-đà-hoàn và Bạc-địa, đó là ba bậc chưa ly dục.
Hỏi: Thế nào là thứ tám, nếu kể thì phải thứ nhất, không phải thứ tám. Ban đầu là Hướng (Hướng Tu-đà-hoàn) sau đến A-la-hán, phải chăng thứ tám nên là A-la-hán?
Đáp: Không phải quán như vậy, như người có tám người con, thì không gọi người con lớn nhất là thứ tám, mà gọi người con nhỏ là thứ tám. Như vậy, tám bậc công đức của đức Thế Tôn (công đức tử) lấy A-la-hán làm lớn, do các lậu đã hết; lấy tướng ban đầu làm nhỏ, nên gọi là thứ tám.
Hỏi: Thế là sao?
Đáp: Bực thứ tám là Tín, Tuệ và Câu giải thoát. Tộc tánh này bao gồm con người, khi ấy đầy đủ lòng tin và trí tuệ như vậy, hoặc lòng tin mạnh, trí tuệ tùy theo, hoặc trí tuệ mạnh, lòng tin tùy theo, hoặc cả hai đều mạnh đều tùy theo thì sinh Pháp trí. Đã tự tin mà hành là độn căn, từ pháp mà hành là trung căn, từ tin và pháp mà hành là lợi căn. Ba loại này gọi là thứ tám. Lại đã kiến đế nếu tin mạnh là trọn đủ bảy lần (cực thất); tuệ mạnh là trong; cả hai đều mạnh là Gia gia. Đây là kiến địa. Nếu vượt lên Tu địa là ở Bạc địa. Nếu tin mạnh thì một lần qua lại sinh tử. Tuệ mạnh là trung; cả hai đều mạnh là Nhất chủng. Nếu lìa dục của cõi Dục, mà tin mạnh là Tín giải thoát, Tuệ mạnh là Kiến đáo; cả hai đều mạnh là lìa sắc đắc thân chứng. Nếu tất cả lậu hết, tuệ mạnh là Tuệ giải thoát; tuệ mạnh là Câu giải thoát. Đầy đủ đắc giải thoát đều vượt trội cũng là câu giải thoát.
Lại nữa, tin mạnh là hàng độn căn; tuệ mạnh là trong căn; cả hai đều mạnh là lợi căn. Thứ tự như thế mà hướng lên.
Hỏi: Đã nói rộng về thứ tám, dần dần phát sinh rừng công đức, nhưng không biết gọi đó là gì?
Đáp: Gọi là người Tu-đà-hoàn. Đó là Cực thất (trọn đủ bảy lần sinh tử), Gia gia và Trung. Trụ Sơ quả cầu Tu-đà-hoàn thứ hai, đó là đạo. Hướng lên trên là đạo nên gọi là hoàn. Thân kiến, giới, đạo, nghi đoạn, hết đọa nẻo ác, hàng độn căn nhận diệu lạc trong trời người trọn đủ bảy lần rồi Bát Niết bàn. Gia gia cũng trụ ở Sơ quả, đã trừ hết ba Kiết, còn một ít thuộc Tư duy đoạn nên phát sinh ở giai đoạn này, từ gia đến gia mà Bát Niết bàn. Trung là khoảng giữa hai loại nói trên: Không một hướng từ gia đến gia mà bát Niết bàn, Không một hướng nhận đủ bảy lần sinh choán Trời người rồi Bát Niết bàn, mà ở trung gian này Bát Niết bàn.
Hỏi: Là Tu-đà-hoàn, còn thế nào là Bạc địa?
Đáp: Bạc địa là Nhất lai, Nhất chủng và Trung, Vì kiết của Dục giới trụ lại rất mỏng yếu nên gọi là Bạc địa. Nhất-lai là đây mạng chung sinh lên cõi Trời một lần thôi mà Niết Bàn. Nhất chủng là thọ một thân hữu, rồi vào Niết Bàn, do công đức đã thêm nhiều lên. Trung là đủ hai thứ này. Ba loại ấy gọi là chưa ly dục.
Hỏi: A La Hán là thế nào?
Đáp: A La Hán là lợi, độn, trung căn. A La Hán được gọi là cúng dường, là đủ khả năng nhận lãnh sự cúng dường.
Hỏi: Nhận lãnh ai?
Đáp: Là hết thảy chúng sinh. Nói A La Hán là có ba bực: Lợi căn, Độn căn, Trung căn.
Hỏi: Lợi căn là sao?
Đáp: Lợi căn là trụ pháp, Thăng tiến và Bất động. Thị pháp là lìa phương tiện trừ phiền não, nên nói là Trụ pháp. Thăng tiến là trừ phiền não, cầu khả năng chứng đắc cao hơn (thắng) đó là Đạt trí, Thông trí và Biện trí. Bất động pháp là đã đạt được quả cao, và biện tài không lay động trước mọi bàn luận.
Hỏi: Độn căn là sao?
Đáp: Độn căn là Thoái Niệm và Hộ. thoái pháp, Niệm pháp, Hộ pháp, ba thứ này là Độn căn. Thoái pháp là lui xuống, không phải Thánh đế, là thoái lui xuống ở Tu địa. Tu là tu tập. Không tu tập nên nói là thối. Như học kinh mà không luyện tập thường hay quên, không luyện tập như vậy là thối lui xuống Tu địa. Đó cũng là xét thấy bịnh nghiệp ham gây tranh, viễn hành, nên phải thoái lui, do vậy nên gọi là Tu địa. Niệm pháp là đã được A La Hán, nhưng hành yếu kém, và thân cũng yếu kém, mới nghĩ như vầy: Những gì cần làm ta đã làm rồi, ta sống (trụ) làm gì ? Như vậy, suy nghĩ đến nhiều việc, suy nghĩ đến của cải, như áo quần, trong suy nghĩ ấy mà bỏ thân mạng. Hộ là không thối lui, cũng không suy nghĩ cái gì khác, chỉ dùng phương tiện hết sức lớn mà hộ trì. Như người nghèo phải có nhiều phương tiện để giữ gìn của. Đó là độn căn.
Hỏi: Trung căn là sao?
Đáp: Trung căn là Huệ giải thoát, Cụ giải thoát và Bất cụ giải thoát. Tuệ giải thoát là thấp. Câu giải thoát có hai: Một là được Cụ giải thoát. Hai là Bất cụ giải thoát. Câu giải thoát là Tín và Huệ, nếu đã được hai thứ này thì gọi là thắng (vượt hơn).
Hỏi: Giải thoát là gì?
Đáp: Là Dục, Sắc và Diệt tận. Tức là giải thoát Dục giới, Sắc giới, diệt trụ thượng tâm, và ba cõi đều hết, đó là ba giải thoát. Ra khỏi phiền não cũng gọi là giải thoát.
Hỏi: Giải thoát dục là sao?
Đáp: Là giải thoát hết mọi ham muốn về nội sắc tưởng, vô sắc tưởng, bất tịnh và tịnh. Nội là bên trong chính mình, có hai thứ, hữu sắc tưởng và hoại sắc tưởng. Sắc ở bên trong hư hoại, như khi ngồi ở gò mả quán thấy thịt rã rời từng khúc, mắt lòi, bụng nước chảy rỉ, nơi đại tiểu tiện hiện ra những bất tịnh. Luôn thấy bao nhiêu là giòi bọ nhung nhúc ở đó, chim quạ tranh nhau ăn. Tay chân, đầu lâu, vung vãi mỗi nơi. Thấy vậy thì không còn ham muốn nữa, liền nghĩ như vầy: Thân như thế đó, mà chúng sinh dùng nó để giận dữ, tranh cãi, ganh đua, kiêu mạn, tạo ra vô lượng ác... Nhìn rõ như vậy rồi, giải thoát khỏi điều ác, ngừng tâm vào định. Đó gọi là nội sắc tưởng bất tịnh mà giải thoát. Nội thứ hai là hoại sắc tưởng, do định nên như là vô sắc, lập phép quán như vầy. Thân kẻ khác cũng thế mà thôi! Đó gọi là nội vô sắc tưởng từ bất tịnh mà giải thoát. Tịnh mà giải thoát là như khi nhìn thấy màu áo xanh, vàng, đỏ, trắng kia, liền phát ý tư duy, tâm trụ, không bị lay động, đó là tịnh giải thoát. Cả ba thứ này là giải thoát dục.
Hỏi: Giải thoát sắc là sao?
Đáp: Giải thoát khỏi sắc là không còn ham muốn, lìa sắc, vô sắc, trụ vào bốn thứ tâm, cũng còn hữu lậu; đó gọi là giải thoát sắc.
Hỏi: Thế nào là diệt tận giải thoát?
Đáp: Tâm và các tâm tương tương ưng điều diệt. Đó gọi là diệt tận giải thoát.
Hỏi: Đã nói rõ về phẩm Đức với ba chơn độ. Thế nào là ác?
Đáp: Ác là Ác hành, Ái và vô minh; ba thứ này là Ác. Ác làm nhơ bẩn hạnh lành, nên gọi là ác, như kẻ nhơ bẩn, gọi là kẻ nhơ bẩn, do ý ưa thích điều ác, như heo ưa thích chỗ dơ bẩn. Ban đầu là thân-miệng-ý làm ác, từ đó mọi điều ác tăng lên. Ác hành là toàn bộ những việc làm của người ác. Thân làm chuyện ác, gọi là ác hành của thân, (thân hành động ác) miệng và ý cũng vậy.
Hỏi: Thế nào là Ác hành của thân?
Đáp: Là giết, trộm cướp và dâm.
Hỏi: Giết là sao?
Đáp: Là nghĩ đến, là dạy người làm và tự làm (Niệm, Giáo và Tác) là ba thứ giết. Trộm cướp cũng thế. Tà dâm cũng vậy, đều có ba cách đó.
Hỏi: Đã biết trộm cướp, tà dâm cũng vậy, chưa biết Niệm, là thế nào?
Đáp: Niệm (nhớ nghĩ), là tâm ham muốn, muốn sai làm, và người khác làm mình vui theo.
Niệm gọi là suy nghĩ, có ba thứ:
Tâm muốn làm, sai kẻ khác làm, vui thấy người làm. Như ý muốn giết chúng sinh, đó là tâm muốn làm. Ý muốn sai người giết đó là tâm muốn sai người làm. Người khác giết rồi, mình vui, đó là vui thấy người làm.
Hỏi: Thế nào là Giáo ?
Đáp: Là khuyên bảo, ra lệnh, và cho phép làm. Khuyên là như ngoại đạo dạy giết heo, dê tế trời. Lệnh là n hư vua ra lịnh cho bề tôi: Ta có giặc thù, các khanh hãy ra đánh với chúng, đó là lịnh sai khiến. Cho phép là như có người nói: Tên kia là kẻ thù của ta, anh đến đó giết nó cho ta. Người này đáp: Xin vâng. Đó là cho phép làm. Như vậy ba thứ này gọi là Giáo.
Hỏi: Thế nào là Tác ?
Đáp: Tác là ý tưởng nghĩ tới chúng sinh, bỏ và đoạn mạng chúng sinh. Tác là thi hành sự việc. Nếu nói sát sinh, phải biết ba cách là khuyên giết, ra lệnh giết và cho phép được giết, thì ác hành của ý cũng như vậy. Trong đây, khi thi hành giết có đầy đủ cả ba là : Có ý tưởng chúng sinh khác, bỏ và đoạn mạng sống chúng sinh ấy.
Trường hợp thầy thuốc vì không hiểu mục nhọt nguy hiểm, phá nó nên làm chết người. Đó không phải thầy thuốc giết người, vì không có ý hại. Trường hợp này, không đủ ba yếu tố nên không gọi là sát sinh.
Hỏi: Thế nào là trộm cướp?
Đáp: Trộm cướp là tướng đến vật của người khác ý lén lấy cất giữ. Trộm cướp cũng đủ ba yếu tố. Tại sao ? Giả sử có vật của người khác, mình không có ý trộm mà giữ lấy vật, đó là do mình nhận giữ, hoặc lầm do vật tương tợ, thì không phải là trộm. Hoặc như vật của người khác không có ý lén lấy mà giữ thì giống như giữ mà biết rõ vật ấy không phải của mình. Hỏi: Thế nào là tà dâm?
Đáp: Tà dâm là phạm tha tho, hạm pháp thọ và phạm phi đạo. Ba loại này gọi là tà dâm.
Hỏi: Đã nói dâm là gốc, còn lý do nào nói tà dâm?
Đáp: Người có hai: Người xuất gia và người tại gia. Người xuất gia hành dâm, đó là ác hành. Người tại gia dâm không phải là ác hành mà xấu, tà dâm mới là ác hành. Nếu tại gia hành dâm bị coi là ác hành thì người Tu-đà-hoàn, hành dâm lẽ ra phải đọa địa ngục. Nếu không phải vậy, thì tà dâm chính là ác. Vì vậy kinh nói hai loại : dâm và tà dâm là không sai.
Hỏi: Thế nào là phạm tha thọ (người khác sở hữu thọ nhận) ?
Đó là vi phạm sở hữu thọ nhận của người khác có ba thứ : Sở hữu thọ nhận của Chủ sở hữu thọ nhận của thân nhân và sở hữu thọ nhận của vua. Sở hữu thọ nhận của chủ lại có hai thức : Người con gái lệ thuộc đến tuổi và còn nhỏ. Trường hợp tới tuổi, theo gia pháp của phương thổ, thì con gái là thuộc ông chủ, nếu dâm với con gái đó, là tà dâm. Trường hợp còn nhỏ là thuộc ông chủ, nếu người con gái đã nhận lễ vật từ người chủ, gần đến kỳ hạn, lại dâm với người con gái ấy, đó là tà dâm. Sở hữu thọ nhận của thân nhân : Than là cha mẹ, anh em, cậu v.v... và dưỡng nữ. Hoặc con gái bị bỏ mà lấy về nuôi đó là tà dâm. Sở hữu thọ nhận của vua : Đó là phạm dâm với người con gái không có thân nhân, không có chủ nhưng chịu sự quyết định của vua. Đó gọi là tà dâm.
Hỏi: Thế nào là pháp thọ (Đã thọ nhận theo pháp) ?
Đáp: Đó là phạm dâm với người nữ đã thọ nhận theo pháp, có ba thứ:
Đã thọ nhận theo pháp Học, đã thọ nhận theo pháp Trai và đã thọ nhận theo pháp của gia tộc. Đã thọ nhận theo pháp Học, ấy là chủ (chồng) người nữ trước đã chấp nhận cho học, rồi sau lại phạm dâm, đó gọi là tà dâm. Đã thọ nhận theo pháp Trai ấy là chủ người nữ trước đó đã chấp nhận cho người nữ thọ trai pháp, sau đó lại dâm, đó gọi là tà dâm. Đã thọ nhận theo pháp của gia tộc ấy là phần sở hữu thọ nhận của thân nhân như nói ở trên. Nhưng người soạn kinh muốn khiến cho đủ ba pháp nên nói nhấn mạnh lại phần đã thọ nhận theo pháp của gia tộc, đó là: Mẹ, chị em gái và những người nữ cùng họ, thảy đều không được phạm, nếu phạm là tà dâm.
Hỏi: Thế nào là hành động phi đạo?
Đáp: Đó là dâm với con gái, với phụ nữ mới sinh, và ái nam ái nữ. Đó gọi là hành phi đạo. Nếu người nữ mới sinh nở, sau đó phạm vào đường khác (không phải cơ quan sinh dục) gọi đó là hành phi đạo. Nếu cưỡng hiếp con gái chưa gả gọi là hành phi đạo. Nếu dâm với kẻ ái nam ái nữ gọi là hành phi đạo. Ba hành động này gọi là hành phi đạo.
Hỏi: Điều đó nói chưa đủ. Tại sao? Vì còn nhiều lối tà dâm khác, nhưng ở đây chưa gồm thâu vào để nói. Không gồm thâu nói thì chưa đủ phải không?
Đáp: Đây nói đủ rồi. Tại sao? Trước đã nói, Không phạm tà dâm với nữ, tức dã biết nói cả súc sinh. Lại đã nói không phạm dâm phụ nữ mới sinh, tức đã biết nói cả những cách dâm khác. Cho nên đây đã nói đủ.
Hỏi: Ác hành phi nghĩa này, phát sinh từ đâu?
Đáp: Thảy đều từ dâm-nộ-si sinh ra. Nên biết tất cả ác hành đều từ dâm, nộ, si sinh ra.
Hỏi: Thế nào hết thảy đều là sát đạo dâm sao?
Đáp: Không phải chỉ là vậy. Chỉ nói dâm, là do nó gồm thâu cả thảy. Cho nên chỉ đi tìm gốc là dâm thôi. Hết thảy những ác hành của thân, miệng, ý sẽ nói riêng.
Hỏi: Thế nào là sinh từ ba thứ ác, trong đấy có lỗi. Tại sao? Không phải do lạc thống, khổ thống (thọ lạc, khổ thọ) nhất thời sinh, cũng không do phải giận dữ, lạc thọ sai khiến. Dâm là do vui thích, hành tập nên ham muốn là dâm, vậy trong đó giận là sao?
Đáp: Chẳng phải là nói từ dâm mà sinh giận sao? Trong đây là nói ý muốn ban đầu. Như yêu thích hàm răng, bộ da cả súc vật... nên khởi lên giận mà giết. Như vậy, trước đã có ý nổi giận là nó xâm phạm vợ mình, mình báo thù; sau đó khởi lên yêu thích mà hành dâm. Nhưng ý muốn đầu tiên là từ giận mà sinh, ham muốn cũng từ đó sinh, nên nói không lỗi. Những chuyện khác cũng như vậy.
Hỏi: Trước nói hết thảy đều từ dâm-nộ-si sinh ra, trong đó đã nói ác hành của thân. Nhưng chưa biết ác hành của miệng là sao?
Đáp: Ác hành của miệng là nói không thật, không hư (Bất hư ngữ) và thêu dệt (Ỷ ngữ). Ác hành của miệng có bốn thứ, nhưng chỉ nói ba, cũng đủ chỉ rõ bốn thứ.
Hỏi: Thế nào là nói không thật?
Đáp: Nói không thật là vì lợi của mình, của người nên tránh nói thật. Ác hành của miệng không nói thật, là vì mình, vì người, vì lợi nên cố ý nói không thật. Tránh nói thật là cố ý che giấu, đó là ý biết, nhưng miệng lại nói khác đi. Vì mình là chính mạng mình, vì người là thân quen. Vì lợi là của tiền. Đó là ba thứ, khiến không nói thật. Còn như Đức Thế Tôn nói dối vì mình, vì người, vì lợi thì đại chúng, quyến thuộc đã biết, cho nên không gọi là vọng ngữ.
Hỏi: Đã nói ác hành của miệng nói không thật, thế nào là ác hành của miệng nói không hư ?
Nói không hư (Bất hư ngữ) là hành không yêu mến, hành biệt ly và câu hành. Hành có nghĩa là tạo ra lời nói. Hành không yêu mến tức nói lời độc ác (ác khẩu). Vì yêu mến mà nói lời giận dữ, đó không phải là ác khẩu. Nếu không như thế thì Đức Thế Tôn cũng nói lời ác, là do ngài thương xót ông Điều Đạt, mà nói lời giận dữ. Hành động nói mà không có lòng yêu mến mới là ác khẩu. Như kẻ mù giận dữ la lên là mù, tuy có nói thật nhưng cũng là ác ý, cho nên không yêu mến mà nói là ác hành. Hành (nói) biệt ly là, tuy có nói thật, nhưng nói làm cho chia lìa, nên cũng là nói hai lưỡi. Nếu nói không vì mục đích làm họ chia lìa mà họ vẫn chia lìa thì không phải là nói hai lưỡi. Nếu không vậy thì Đức Thế Tôn cũng nói hai lưỡi. Đức Thế Tôn vì xót thương kẻ dị học, tiến tới được độ cho làm đệ tử của Ngài, là do nói làm cho họ xa lìa. Câu hành là nói đủ cả hai loại vừa nêu : Nói lời không thật và không hư. Như vậy, ác khẩu là do nói lời ác độc, cũng gọi là nói hai lưỡi.
Hỏi: Thế nào là nói thêu dệt?
Đáp: Nói thêu dệt là nói không hợp thời, không thành thật và vô nghĩa. Ba thứ nói này là nói thêu dệt. Phân biệt thì có vô lượng. Nói không hợp thời, là đúng lúc nói, thì không nói, không đúng lúc lại nói. Như khi đi dự đám cưới, người kia ở nơi đám cưới lại nói chuyện hội họp đều tan rã hết, vạn vật đều vô thường, thạnh ắt có suy! Người kia nói lời ấy là chánh pháp mà Phật, Phật Bích chi, Thanh văn đã khen ngợi, nhưng vì nói không đúng lúc, cho nên đó là nói thêu dệt. Nói không thành thật là nghĩ thật, mà cố nói quẹo đi, ví như kẻ Dị học nói ta là Tát vân nhã. Người kia nghe nghĩ thật mà nói thêu dệt thêm. Tại sao? Vì Di học ấy không phải là Tát-vân-nhã, anh ta nghĩ vậy rồi vì kẻ khác nói đó là Phật, Bồ-tát là Tát-vân-nhã tức là nói dối. Tại sao? Vì vốn không phải Phật, Bồ-tát. Nói vô nghĩa là nói chuyện vui-buồn, ca-múa-hát-vui, làm hề. Ác hành của miệng là thực hiện những cách nói như đã nêu trên.
Hỏi: Thế nào là ác hành của ý?
Đáp: Ác hành của ý là ý tham lam sân nhuể và tà kiến. Vì hiện hành ác nên gọi là ác hành của ý.
Tham là mong muốn vật của người khác.
Hỏi: Nếu Tham là mong muốn vật của người khác, như vậy là nói trùng với phần nói về Niệm (trong phần nói về sát sinh ở trước) tức là nói: tâm tham muốn, muốn sai làm và người khác làm mình vui theo?
Đáp : Đây không nói trùng lặp mà là ý ham muốn như vậy.
Còn Niệm (nghĩ tưởng đến) là ý ham muốn như vậy, muốn hành động. Ở đây ý không ham muốn hành động mà muốn đoạt lấy vật của người khác. Vì tham nên muốn của cải kia về ta. Như vậy ý đã nhiễm vào của cải nơi người, mà tham ấy là hướng về đồ đạc người. Giận dữ là bức bách người ta với ý ác.
Hỏi: Tà kiến là gì?
Đáp: Tà kiến là kiến chấp trái ngược về nghiệp, kiến chấp trái ngược về quả và kiến chấp đều không. Ba kiến chấp này gọi là tà kiến, nếu phân biệt thì vô lượng. Như đây mà hiểu khác đi, cũng gọi là tà kiến.
Hỏi: Thế nào là kiến chấp trái ngược về Nghiệp?
Đáp: Đó là Ý chấp về tịnh và bất tịnh, ý chấp về bất tịnh và tịnh và ý chấp cả hai nêu rên làm một. Ý chấp tịnh và bất tịnh là cho rằng thân khẩu ý nghiệp thiện mà có quả bất thiện. Ý chấp bất tịnh và tịnh là cho rằng thân khẩu nghiệp bất thiện mà có quả thiện. Ý chấp cả hai làm một là thân khẩu ý nghiệp thiện, bất thiện có quả thiện, bất thiện. Kiến chấp trái ngược về quả, cũng giống như phân biệt Nghiệp vừa nêu. Như chấp trên Trời là khổ, Niết bàn là khổ ; như vậy mà so sánh quả tịnh là do ý bất tịnh. Nẻo ác là vui, sinh tử là vui ; như vậy mà so sánh quả bất tịnh. Nẻo ác là khổ, không khổ ; như vậy mà so sánh với ý chấp cả hai làm một.
Hỏi: Thế nào kiến chấp không ?
Đáp: Là chấp không có nghiệp, không có quả và không có chúng sinh. Ba thứ này là kiến chấp không. Không có nghiệp là không có bố thí, không có trai (giới), không có nói (pháp), không có phương tiện, không có làm nghiệp thiện và bất thiện. Không có quả là làm thiện, bất thực đều không quả báo, không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Không có chúng sinh là không cha mẹ, không có chúng sinh, không có sự sống trên đời, không có thật Sa-môn, Phạm chí. Đó gọi là vô lượng thứ tà kiến.
Đây là ba loại ý, ác hành thì có rất nhiều loại. Nó là nhân sở tác của hết thảy loại ác, là nhân sở tác trái nghịch hết thảy loại thiện, những tạo tác gây ra ấy như đã nói trong phần Giới ở trước. Đã nói xong chân độ thứ nhất (Ác hành) của phần Ác. Hỏi: Đã nói Ác hành, thế nào là Ái?
Đáp: Ái là Nhiễm, giận và mạn, là ba thứ ái. Ái là cầu tìm. Ba loại (Ái, Cầu, Nhiễm) nói chung là một.
Hỏi: Nhiễm là sao?
Đáp: Nhiễm là vướng mắc vào dục, hữu, phạm hạnh. Vướng mắc Dục, vướng mắc hữu, vướng mắc phạm hạnh, đó là ba thứ nhiễm. Trong đó, dục có năm: sắc, thanh, hương, vị, xúc. Nương vào ba nhiễm này, mỗi mỗi chúng sinh vướng vào mà ưa thích. Mọi việc khác thì không như vậy. Vướng mắc dục, đó là ham muốn nam, nữ, ái nam ái nữ. Nữ ham muốn nam, nam ham muốn nữ và ái nam ái nữ. Kẻ ái nam ái nữ ham muốn nữ, nam.
Hỏi: Trước nói vướng mắc vào dục có năm; nay nói nam, nữ, ái nam ái nữ, không phải là lỗi sao?
Đáp: Nam, nữ, ái nam ái nữ là những vướng mắc sâu nặng trong năm dục. Những thứ khác, thì không bằng. Như Đức Thế Tôn nói: Ta không thấy có sắc ái nào khác như, là sắc nam nữ yêu mến nhau như là cảnh giới năm dục. Cho nên không có gì vượt qua ái. Dục có ba thứ vi, trung, thượng. Vi (hạ phẩm) là nam ham muốn, trung là nữ ham muốn, thượng là ái nam ái nữ ham muốn. Đó gọi là sự vướng mắc của dục.
Hỏi: Thế nào là vướng mắc vào hữu?
Đáp: Vướng mắc vào hữu là vướng mắc vào Dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu. Đó là vướng mắc hữu.
Hỏi: Như ham muốn vướng mắc này thì như trước đã nói: nam, nữ, ái nam, ái nữ, nay tại sao nói trong phần vướng mắc hữu.
Đáp: Vướng mắc hữu là vì chúng sinh nên nói; còn vướng mắc dục là vì phiền não cho nên nói: Hết thảy pháp của cõi dục gọi là dục hữu. Nếu vướng mắc vào nó, thì gọi là vướng mắc dục hữu. Hết thảy pháp của cõi Sắc gọi là Sắc hữu. Nếu vướng mắc pháp ấy thì gọi là vướng mắc vào Sắc hữu. Hết thảy pháp của cõi Vô sắc gọi là Vô sắc hữu; Nếu vướng mắc pháp ấy thì gọi là vướng mắc vào Vô sắc hữu. Đó là nói riêng, nên không có lỗi. Hỏi: Thế nào là vướng mắc phạm hạnh?
Đáp: Vướng mắc ở phạm hạnh là ham muốn vướng mắc vào cái đã được, cái chưa được, và cái được rồi thì mất mà buồn rầu. Vướng mắc ở phạm hạnh đã được là chấp trước vào sở đắc; cái chưa được, cái chưa được thì mong cầu, nếu mất thì rất buồn rầu. Vì nghĩa đó, cũng tương ưng nói vướng mắc dục và hữu: Như vậy, vướng mắc dục, hữu và phạm hạnh, mỗi thứ có ba thành chín. Lại nữa, như kẻ được nữ nhân liền đắm say, chưa được thì mong cầu, được rồi bị mất thì buồn rầu. Nam và bất thành nam (ái nam ái nữ) ham muốn tham đắm, tương tự như vậy mà thành chín thứ. Như vậy cộng với vướng mắc ở phạm hạnh, và hữu, phải nói đến hai mươi bảy thứ.
Hỏi: Vướng mắc ở phạm hạnh mà được như vậy, có phải là phiền não?
Đáp: Có. Như Đức Thế Tôn nói, có ba thứ cầu: cầu dục, cầu hữu, cầu phạm hạnh. Cầu, ái, nhiễm giống như là một nghĩa. Vả lại, như đã nói, dục và phạm hạnh thường nghĩ là lìa ái.
Hỏi: Nếu vậy, thì phạm hạnh không thể thực hiện được. Tại sao? Vì vướng mắc vào hữu. Lại nữa, vướng mắc như đã nói, thì hết thảy phạm hạnh đều phải là vướng mắc hữu?
Đáp: Đó là phương tiện mà thực hành, như giòng họ Thích đã làm. Giòng họ Thích thực hành phạm hạnh, nhưng không vướng mắc vào phạm hạnh, họ vì lìa khỏi tội phước, mà hành đạo, không vì cầu quả. Người cầu quả chính là nói vướng mắc: Ta dùng giới này, khổ hạnh này, phạm hạnh này thì được sinh lên cõi Trời. Cho đến hành vướng mắc, ý nhiễm ô mong cầu như vậy: “Khi nào ta được phạm hạnh, để ta sinh vào cõi thiện”. Hoặc vướng mắc vào hành động ưa thích ở đời sau, yêu thích những hạnh đã trì giữ nếu làm phi phạm hạnh thì sinh hối hận: Ôi! ta đã thối tâm, rồi buồn rầu.
Đó gọi là vướng mắc ở phạm hạnh.
Hỏi: Thế nào là giận (sân khuể)?
Đáp: Giận là với chính mình, người thân, oán thù có sự phẫn nộ. Phẫn nộ với mình, với người thân, với người thù oán; là ba thứ giận dữ.
Hỏi: Thế nào lại nói giận trong phần Ái này?
Đáp: Giận dữ là tìm cái xấu, tìm cái chẳng yêu thích đó thôi. Vì bản thân mà hành xử trong bốn môn, (cách), vì người thân, kẻ oán thù mà cũng hành xử trong bốn môn.
Hỏi: Là thế nào?
Đáp: Là vì mình và người thân chưa được vui, thì tìm cầu, được rồi, thì khiến cho không mất. Đã chịu khổ thì cầu muốn bỏ, chưa gặp khổ thì không muốn khiến cho gặp khổ. Đó là bốn môn hành xử đối với mình và người thân. Đối với kẻ oán, thì họ chưa gặp khổ, muốn làm cho họ gặp khổ, họ đã gặp khổ, muốn cho họ không thể bỏ. Họ chưa được vui, muốn làm cho không được, đã được, muốn làm cho mau mất. Đó là vì oán tìm cái xấu, là giận dữ. Vì thế nói giận trong phần Ái này cũng không sao.
Hỏi: Thế nào là vì mình?
Đáp: Vì mình là có ba thời gian tìm cầu chẳng được lợi, là quá khứ, hiện tại, vị lai. Người kia vì mình đã tìm cầu chẳng được lợi, sẽ tìm cầu chẳng được lợi, và hiện tại tìm cầu chẳng được lợi, làm cho mình sinh giận. Đó là vì mình mà cả ba thời tìm cầu chẳng lợi cho mình, nên nổi giận.
Hỏi: Thế nào là vì người thân?
Đáp: Người thân cũng như vậy. Như vì mình mà ba thời tìm cầu đều chẳng được lợi, nên nổi giận. Như thế, vì người thân ba thời tìm cầu chẳng được lợi, nên nổi giận.
Hỏi: Là thế nào?
Đáp: Như đã nói, mình và người thân ái, đã tìm cầu mà chẳng được lợi, sẽ cầu, hiện cầu cũng chẳng được lợi, nên nổi giận. Đó gọi là vì người thân mà giận.
Hỏi: Thế nào là vì người oán?
Đáp: Khác với mình và người thân. Đối với kẻ oán thù thì ngược lại, thấy họ đã cầu được lợi, sẽ cầu được lợi, hiện đang cầu lợi cho họ, làm cho mình sinh giận tức. Mình, người thân, kẻ oán phối với ba thời gian thành chín loại giận.
Hỏi: Giận này và giận trong ác hành của ý, có khác nhau không?
Đáp: Đây dựa vào phương tiện mà sinh, còn ác hành giận, kia từ vô trí mà giận.
Hỏi: Hết thảy chúng sinh có chín thứ giận như nhau chăng?
Đáp: Giận này như vẽ trên nước, trên đất, trên đá. Giận là tùy chúng sinh. Có bao nhiêu chúng sinh thì giận cũng có ba hạng là hạ, trung, thượng. Như vẽ vào nước, liền mất ngay, vẽ lên đất, thì một chút mới tan biến, do gió mưa hay yếu tố khác, còn khắc vào đá thì nó sống với đá, không còn đá nó mới diệt. Như vậy, chúng sinh có bao nhiêu là thứ giận, hoặc khi giận vừa nổi lên, liền tự trách mình: Ta không phải là chúng sinh, thì pháp tự nhiên sẽ diệt, vô lượng khổ bức bách tự nhiên tiêu mất, ta không nở nào gây hại cho kẻ khác, cố nẩy ý ác. Khi quán như vậy, thì sự giận kia tự dứt, ví như vẽ trên nước. Hay khi nổi giận, mà không kiềm chế được, thì nhờ thầy, bạn lành thương xót quở trách, mới dừng được, ví như vẽ trên đất. Hoặc ý ác, không chánh tư duy mà nổi giận, thì Phật, Phật Bích chi, Thanh văn cũng không ngăn dừng được. Chỉ ôm theo mình cho đến khi diệt để nó cùng diệt, ví như khắc vào đá. Đó gọi là giận dữ.
Hỏi: Thế nào là mạn?
Đáp: Mạn là dấy khởi ý thấp, bằng và cao, dựa vào đó, nên gọi là mạn. Lại tự nâng mình lên so với kẻ kia, nên sinh mạn.
Đó là ba thứ: khởi ý ta hèn kém, khởi ý ta bằng và khởi ý ta cao hơn. Đối với người giàu có, dòng dõi tốt, thì nghĩ ta không bằng họ; đó gọi là khởi ý ta hèn kém. Nếu đối với kẻ giàu khác, khởi ý ta bằng họ, đó là khởi ý ta bằng. Nếu gặp người giàu có khác, nổi ý: Ta hơn họ, đó là khởi ý ta cao hơn. Hỏi: Đã nói tướng của ba thứ mạn là: Hèn kém, bằng, cao hôn.
Làm thế nào để biết đó là chơn độ? Phân biệt hết thảy loại mạn, thì có vô lượng thứ. Đây giống như chỉ mới nói phần thô tạp?
Đáp: Ty mạn (nghĩ mình thấp hèn) gồm có ba loại: Tà mạn, Bất như, mạn và Cực hạ mạn. Ba loại này thuộc Ty mạn. Tà mạn là khởi ý cao ngạo, ta đã tạo ác nghiệp hết sức rồi. Bất như mạn, là nhận lời khen tặng của người khác: “Tốt thay! Ông có đức lớn”. Ta nghe rồi trong lòng hoan hỷ, tự như: Há mình không được vậy sao? Cực hạ mạn là lười biếng nghĩ mọi người không thể vượt hơn đó.
Hỏi: Thế nào là Đẳng mạn (nghĩ mình bằng)?
Đáp: Cũng gồm ba thứ: Ngã mạn, Cống cao mạn và Bất kính mạn. Ngã mạn là kiến chấp năm ấm là Ngã, đã trong năm ấm ác ấy, cho là công đức. Cống cao mạn là nghĩ mình nhận mọi cung phụng của người khác. Bất kính mạn là không kính trọng sư trưởng.
Hỏi: Thế nào là Thượng mạn (nghĩ mình cao thượng)?
Đáp: Là Đại mạn, Mạn đại mạn và Tăng thượng mạn. Đại mạn là đối với người kém, bằng mình, sinh kiêu mạn là mình vượt hôn. Mạn đại mạn là đối với người hơn mình, sinh kiêu mạn là mình vượt hơn họ. Tăng thượng mạn là chưa được cho rằng mình được mà sinh kiêu mạn. (chân độ thứ hai (Ái) trong phẩm Ác đã nói xong) Hỏi: Đã nói Ái, thế nào là vô minh?
Đáp: Vô minh là, Phi trí, Hoặc trí, và Tà trí. Ba thứ này là vô minh. Vô minh là mượn si lập tên; là phân biệt chữ mà nói; tức là nói sự hủy báng chế nhạo của si mà đặt tên. Như người có con ác mà bảo là không có con. Như vậy, ở đây vô minh là minh ác, nên gọi là vô minh.
Hỏi: Là thế nào?
Đáp: Phi trí là không biết Hữu vi, không biết vô vi và không biết “Bất khả thuyết”. Ba thứ không biết này gọi là Phi trí.
Hỏi: Hai thứ: thọ và không thọ hữu vi trong đó, cái nào quyết định?
Đáp: Hữu vi chấp nhận thọ, không thọ và cả hai (thọ và không thọ). Nếu phi trí thì nên biết đó là thọ si, không thọ si và gồm cả hai đều si. Thọ si thì gồm hai loại: tự thọ, tha thọ, Ấm, Giới, Nhập. Không thọ si ấy là ví như cây, cỏ, tường vách. Ở giữa hoặc tha thọ, hoặc không thọ thì nên biết là không thọ. Trong đây đối với mỗi mỗi (Ấm, Giới, Nhập) đều si ám, gọi là Phi trí. Như đức Thế Tôn nói sáu Nhập, phi trí không thấy … Như thế, nói diễn rộng như trong kinh. Thọ là nghĩa Thủ (giữ lấy). Do nghiệp và phiền não si mê, ý cho Ngã là thuộc về mình, gọi đó là Thọ.
Hỏi: Vô vi là Niết Bàn, có một sao nói có ba?
Đáp: Vô vi là Hữu dư, vô dư và cả hai Tuy Niết Bàn là một vô vi, nhưng về sự thì nói có hai, Hữu dư-vô dư. Hữu dư là nghiệp và phiền não mà thân nầy nhận lấy, đó là Hữu dư. Khi đoạn hết phiền não chính mình chứng được thì gọi là Hữu dư. Vô dư là nếu như buông bỏ ấm thọ này, không còn tương tục như đèn tắt, thì Niết Bàn đó gọi là Vô dư. Ở trong đây, ngu si đối với Hữu dư, Vô dư và cả hai, gọi là không biết vô vi.
Hỏi: Thế nào là không biết “bất khả thuyết”?
Đáp: Cái “bất khả thuyết” (không thể diễn nói), ấy là sự thiết lập về Thọ, sự thiết lập về quá khứ, và sự thiết lập về Diệt. Nếu không biết ba thứ này, gọi là không biết” bất khả thuyết. Thiết lập về Thọ, là chúng sinh đã thọ Ấm, Giới, Nhập cho đó là một và khác. Thiết lập về quá khứ là nhân nơi Ấm giới nhập của quá khứ mà nói. Như nói: Ta thời đó, tên là Cù-tuần-đà. Thiết lập về Diệt là như đã diệt rồi, nhân nơi Thọ mà nói. Như nói: Đức Thế Tôn đả bát Niết bàn. Lại nữa, thiết lập quá khứ là ngăn chúng sinh chấp đoạn; thiết lập diệt là ngăn chấp có thường; thiết lập Thọ là ngăn chấp không. Thiếp lập không thọ là ngăn chấp có. Như vậy, đối với mỗi mỗi sự thiết lập đều không biết, đó gọi là vô trí “bất khả thuyết”.
Hỏi: Đã nói vô trí, thế nào là Tà trí?
Đáp: Tà trí là thân-biên-đạo kiến; là Thân kiến, Biên kiến, Đạo kiến. Đó là ba thứ tà trí. Tà là đảo ngược, đồng nghĩa với phi như bất chân.
Thân kiến là kiến chấp: Ngã nhất định phải vậy, thuộc về Ngã nhất định phải vậy và tự tại hất định phải vậy, Ngã nhất định phải vậy ấy là Ấm, huyễn hóa, đồng mộng, ngựa, tiếng vang, nước, trăng, hình thể tương tự năm Ấm mà chấp trước đó là Ngã. Thuộc về Ngã nhất định phải vậy là giả mượn, chuỗi anh lạc, cây, quả, oán thù tương tự năm ấm mà chấp trước là sở hữu của Ngã. Tự tại nhất định phải vậy là cây chuối, bọt nước,… tương tự cảnh giới năm dục mà chấp trước là tự tại giống như sắc trong không tụ (không thật). Đây cũng gọi là kiến chấp về Thân, Ngã và sở hữu.
Hỏi: Thế nào là Biên kiến?
Đáp: Biên kiến là kiến chấp-đoạn, thường và đủ cả đoạn-thường. Đủ ba thứ đó, gọi là biên kiến. Biên là không đúng với đạo lý, gọi là biên kiến (chấp một bên, hoặc đoạn, hay thường...) Đoạn, thường là chấp thế gian có thường, vô thường, chẳng có thường, chẳng phải vô thường; có biên, vô biên, chẳng phải có biên, chẳng phải vô biên; chúng sinh có chung, chúng sinh vô chung, chẳng phải có chung, chẳng phải vô chung. Thân này, mạng này so sánh như vậy. Gồm có cả hai là chấp có thường, vô thường, hữu biên, vô biên, có chung, vô chung. So sánh như vậy, gọi là ba thứ biên kiến. Hỏi: Thế nào là Đạo kiến?
Đáp: Đạo kiến là gồm Giới, Kiến và Y. Người kia kiến chấp trộm lấy từ ba thứ này mà sinh ra: Trong đây Giới đã nói trong Chân độ thứ nhất (Đức). Do giới này được thanh tịnh và thọ giới gọi đó là hai thứ trộm Giới. Đây mới là chơn thật, còn mọi thứ khác đều hư, không phải đó gọi là trộm Kiến. Chấp đó là chân, nhất định phải vậy, cũng nó đó là trộm Kiến. Thân bị trói buộc nương vào đó, (Y) nghĩa là nếu nương vào giới và kiến, thì năm ấm do đấy, hoặc là trộm Kiến, hoặc là trộm Giới. Cho năm ấm là tịnh, nên biết đó là trộm Giới; chấp năm ấm là tịnh. Trộm giới này mà chấp năm ấm là bậc nhất, không phải thứ khác, nên biết đó là trộm Kiến. Y là dựa vào hai thứ vừa nêu. Đó gọi là Đạo kiến.
Hỏi: Thế nào là Hoặc trí?
Đáp: Hoặc trí là không hiểu gì về Bảo (báu), Đế và Định. Không hiểu Bảo, không hiểu Đế, không hiểu Định. Không hiểu là không quyết định mà là nghi, cùng nghĩa với do dự.
Hỏi: Thế nào là Bảo?
Đáp: Bảo là Phật Pháp Tăng: Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo. Phật là trí biết khắp, thành tựu hết thảy công đức, lìa hết thảy ác.
Hỏi: Lý do nào gọi Phật là bảo?
Đáp: Do công đức này. Lại nữa, do đại từ, đại bi, không nói pháp trống rỗng, do thân cận vô sự (hạnh viễn ly), do khó ra đời, như hoa Ưu Đàm. Công đức như vậy không thể kể hết, tất cả đều thành tựu, nên gọi là bảo.
Pháp vừa là phương tiện và là quả của phương tiện như trong đây nói Niết Bàn là pháp bảo. Chỗ Phật ở trên hết thảy các pháp. Như kinh đã nói: Nếu có pháp Hữu vi, Vô vi, thì Vô vi Niết Bàn là bậc nhất. Bảo này không hư hoại, có khả năng dập tắt mọi khổ, cho đến cuối cùng được mát lạnh là pháp khó được, không thể nói hết. So sánh như vậy gọi là bảo.
Tăng, trong phần Thanh văn, trước đã nói. Còn Bảo ấy là do có phước đức rộng, do không sống trái với lời Đức Thế Tôn dạy, do có ruộng phước điền vô thượng, do được Đức Thế Tôn khen ngợi, do không thể tan hoại, do luôn hòa hợp không tranh giành, do như vậy …. So sánh với vô lượng công đức thành tựu, nên gọi là bảo.
Hỏi: Đã nói Bảo, thế nào là Đế?
Đáp: Đế là Đẳng, Tướng, Đệ nhứt nghĩa đế. Đẳng đế, Tướng đế, Đệ nhứt nghĩa đế, là ba thứ Đế. Đế là Thật hữu đế, là Chơn đế, là Bất hư đế, là Như đế nên gọi là Đế.
Đẳng đế là Phương tục cử Tộc cử và Học cử. Đó gọi là ba thứ Đẳng đế. Vì hiện hành các loại sự nên gọi là Đẳng đế. Hiện hành các loại sự ấy chính là nghĩa Trí. Phương tục cử (do tục lệ địa phương… ấn định) là nghĩa nhất định phải như vậy. Sự vật này là Ta chấp nhận sự vật này có tên gọi thế này… Như nước, nhất định phải ướt, thấm, chảy xuống… Như thế mà so sánh ấn định các sự vật khác. Đó gọi là Đăng đế. Tộc cử (do giòng tộc… ấn định) là như pháp tắc của gia đình mình ấn định. Học cử, là dùng oai nghi lễ tiết để hành động và hiểu ý kinh. Lại nữa, ngày ăn, không ăn đêm; không cắt cỏ, mùa Hạ không đi… So sánh như vậy mà hành gọi là Đẳng đế.
Hỏi: Thế nào là Tướng đế?
Đáp: Tướng đế là Khổ, Tập, Đạo. Khổ đế, Tập đế, Đạo đế, là ba thứ Tướng đế. Do lấy tướng của sự thật mà quán chiếu nên gọi là tướng đế. Tướng là nói sinh, lão, Vô thường. Tướng là nói tướng tiêu biểu nhất. Trong đó, tướng bức bách là Khổ đế thống chuyển thành là Tập đế. Tướng xuất yếu là Đạo đế. Tận là Vô tướng, sẽ nói riêng. Lại nữa, Khổ đế là ấm, giới, nhập. Tập đế là dâm-nộ-si. Đạo đế là giới-định-huệ. Gọi là Tướng đế.
Hỏi: Thế nào là đệ nhứt nghĩa đế?
Đáp: Đệ nhứt nghĩa đế, là Tác, Tự và Niệm đạt đến ngưng dứt hoàn toàn, gọi là Đệ nhất nghĩa đế. Tác là thân nghiệp. Tự Chánh tự) là khẩu nghiệp. Niệm là Ý nghiệp. Ba thứ này đạt đến ngưng dứt hoàn toàn gọi là đệ nhứt nghĩa đế, nghĩa là Niết Bàn.
Hỏi: Như Phật nói kệ:
Một đế hai, Vô, Hữu.
Nếu sinh, sinh nơi hoặc,
Nan-đà quán các đế,
Là Sa Môn không nói.
Như vậy là có bốn đế, tại sao nói là một?
Đáp: Vì là Đệ nhứt nghĩa đế. Nói hai Vô, Hữu là Niết Bàn, (Hữu dư, Vô dư) như kệ đã nói kệ: Nan đà quán các đế, Là Sa môn không nói.
Nửa bài kệ này tự hiểu, nói các đế khác, không có lỗi gì. Hỏi: Đã nói Đế, thế nào là Định?
Đáp: Định là định sắc, vô sắc, vô lậu. Định Sắc, định vô sắc, định vô lậu, gọi là định. Định là nghĩa tâm hành ở định. Định Sắc là: Thiền, Vô lượng, Trừ nhập của cõi sắc, giải thoát của Thiền thứ nhất, thứ hai, thứ ba và sơ nhập Nhất thiết nhập. Định Vô sắc là hai Nhất thiết nhập của bốn cõi Vô sắc. Định Vô lậu là Vô tướng, Vô nguyện, không. Thiền Vô lậu là vô lậu. Định Vô sắc là vô lậu. Năm tướng trước và định đoạn giới (cõi) hết thảy tướng này đã không quyết định mà còn nghi ngờ do dự, đó gọi là Hoặc trí. Đấy cũng là mê hoặc ở khổ phi khổ; Tập, Tận, Đạo phi Đạo, mê hoặc ở bốn đế như vậy, với ba cõi dục, sắc, vô sắc là mười hai thứ. Hoặc trí này như trong phần Ai đã nói Vô trí, cũng nói Tà trí, và Tà kiến, như trong phần ác hành của ý đã nói, trộm kiến cũng như vậy ; Thân kiến, biên kiến ở ba cõi khổ, trộm giới ở nẻo khổ và ba cõi. Lại, ái cũng thuộc Tư duy đoạn (Tu đạo) như thế mà phân biệt thành chín mươi tám kiết sử.
(chân độ thứ ba trong phẩm Ác đã nói xong).
Hỏi: Đã nói Đức và Ác. Thế nào là Y (Nương tựa)?
Đáp: Y (Nương tựa) là Ấm Giới Nhập, đó là ba chỗ nương tựa. Có thể nương tựa, nên mới nói là Y. Có thể nương tựa là nghĩa lập. Chúng sinh nương vào Ấm-Giới-Nhập mà sống, làm các việc Đức cũng như Ác, cho nên phải biết nó là chỗ dựa của Đức và Ác.
Hỏi: Thế nào là ấm?
Đáp: Ấm là Sắc, Hành và Tri. Ấm nghĩa là chứa nhóm, cột buộc. Sắc ấm là như màu xanh, vàng, đỏ, trắng, to, nhỏ, dài, ngắn, vuông, tròn. Sắc là bốn đại và những gì do bốn đại tạo ra, có thể thấy và không thể thấy. Đó là sắc ấm. Bốn đại và sự tạo sắc, hai thứ nầy là có thể thấy, không có thể thấy. Có thể thấy như những gì mắt thấy ; không thể thấy là thanh hương, vị, xúc, chúng đối với mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và bốn đại.
Hỏi: Nói sắc là bốn đại và những gì do bốn đại tạo ra, trong đó, bốn đại, chính nó cũng không biết, huống là những gì chúng tạo. Thế nào là bốn đại?
Đáp: Đại là Đất-Nước-Lửa-Gió. Chúng tạm được gọi là đại. Sắc do mỗi mỗi thứ họp lại, trong đó tướng cứng chắc là đất, tướng ẩm ướt là nước, tướng nóng là lửa, tướng động là gió. Chính chúng tạo sắc, đó là mây mù, là khói sương, là ánh sáng, là mặt trời, là bóng tối, năm sắc năm tình (căn) cứ như vậy mà so sánh.
Hỏi: Đã nói sắc ấm. Thế nào là hành?
Đáp: Hành là nương vào thân, miệng, tâm. Nương vào Thân-miệng-tâm mà hoạt động, tạo ra mọi hữu vi, nên gọi là hành. Kinh nói: Sắc là hành Hữu vi. Chúng lại tiếp tục làm nữa, giống như con lại sinh ra con. Giống như sắc, nên biết năm Ấm cũng như vậy, chúng được tập họp do vô lượng thứ gọi là năm ấm, như đống lúa. Hành gồm có phước, chẳng phải phước và bất động, đó là ba thứ Hành. Hỏi: Thế nào là Tri ?
Đáp: Tri là Thống (Thọ), Tưởng, và Thức. Ba thứ này gọi là Tri; cũng gọi là đạo pháp, vì đạo không lìa nhau. Như Đức Thế Tôn nói: Nếu đã Thống (Thọ) tức đã biết (Tri).
Hỏi: Thế nào là Thống (Thọ)?
Đáp: Thống (Thọ) là vui, khổ và không khổ không vui. (Lạc thống, khổ thấy và Bất khổ bất lạc thống) Tánh vốn là thống, nên nói là tống (thọ lãnh). Thống vốn không có y cứ vào gì (vật thể khác...) để thấy, mà thống tức là năng thống (chủ thể). Nếu thống có y cứ vật thể nào thì lẽ ra, nó khác với thân mạng. Nếu chính nó là năng thống, thì tức chính là thân mạng này, nhưng thống không phải là thân mạng. Do đó vì tánh thống nên nói thống, là phân biệt chữ nói ba loại thống này. Lạc thống, khổ thống và Bất khổ bất lạc thống, đều duyên với nhau. Như duyên với Lạc thống có khổ thống ; duyên với khổ thống có Lạc thống và duyên với cả hai có Bất khổ bất lạc thống. Như đức Thế Tôn nói : Lạc thống đối với khổ thống ; khổ thống đối với Lạc thống ; Lạc, khổ thống đối với Bất khổ, bất lạc thống. Đối là nghĩa oán thù.
Hỏi: Thế nào là Lạc thống ?
Đáp: Lạc là Dục, Bất ác và Vô Trước. Ba thứ này phát sinh ra Lạc. Dục phát sinh là hành năm dục sinh vui mừng. Bất ác phát sinh, Bất ác là nói nghĩa chẳng có xấu ghét. Tức là hành thiện, giới vô dục, đối với giới, ý không hối hận, do đây sinh vui mừng. Vô Trước là điều phục căn, xa lìa năm dục khi hành Thiền, Vô lượng ý không loạn động mà sinh vui mừng. Vô trước có nghĩa là không vướng lụy, ở nghĩa căn cũng nói là bất nhiễm.
Hỏi: Thế nào là Khổ thống ?
Đáp: Khổ là sinh, lão, tử; đó là ba khổ Thọ. Trong đó Sinh khổ như mới bị ung nhọt. Lão khổ như ung nhọt phát triển. Tử khổ như bịnh ấy đã ăn sâu vào xương tủy. Lại nữa, do sinh, nên có hết thảy khổ, nên nói sinh khổ. Như Đức Thế Tôn dạy: Sinh ra đã có đau đớn tay chân bị cắt, chặt. Lão khổ là sắc diện, sức khỏe suy sụp. Tử khổ là mọi yêu mến bấy lâu bị chia lìa. Đó là Khổ thống.
Hỏi: Thế nào là Bất khổ bất lạc thống ?
Đáp: Không khổ không vui là ở ba cõi. Không khổ không vui là chướng ngại đối với khổ vui. Ba cõi ấy phần sau sẽ nói. Nếu khiến cho không khổ không vui là ở ba cõi, ngăn những điều khổ vui đã nói ở trước thì nên biết đó chẳng phải khổ vui của ba cõi. Cõi dục có ba thứ thống. Cõi sắc có hai: Vui và không khổ không vui. Cõi vô sắc có một là không khổ không vui. Đó là thọ không khổ không vui trong ba cõi.
Hỏi: Thống ấy làm chỗ nương tựa cho cái gì ?
Đáp: Lạc là chỗ nương tựa của nhiều dục tham. Khổ là chỗ nương tựa của nhiều giận dữ. Không khổ không vui là nơi nương tựa của nhiều ngu si. Tại sao? Vì có Lạc thống thì vô dục, có khả năng trừ được dục, như trong ba thiền. Có Khổ thống thì vô sân có thể trừ sân. Như Đức Thế Tôn, dù đầu đau và bị thương ở chân, nhưng không khởi giận. Cảm giác không khổ không vui thì vô si của thiền thứ tư và bốn định vô sắc. Có khả năng trừ thống.
Như vậy, tùy nghĩa mà nói.
Hỏi: Chúng từ đâu mà sinh?
Đáp: Chúng từ Nghiệp, sự bức bách và Cõi mà sinh. Lạc thống và Bất khổ bất lạc thống, đều từ nghiệp sinh, từ sự bức bách sinh, từ cõi sinh, không phải tự nhiên hay tình cờ.
Hỏi: Nghiệp có vô lượng thứ, đây nói nghiệp nào?
Đáp: Nói Nghiệp sinh đó là phước, phi phước, bất động. Lạc thống, Khổ thống. Bất khổ bất lạc thống này, sinh từ ba nghiệp : phước, phi phước, bất động. Như nghĩa lạc thống là từ phước sinh. Khổ thống là từ tội sinh (Phi phước). Bất khổ bất lạc thống là từ bất động sinh. Trong đó, phước là khả năng trừ mọi ác hành, bốn thiền là cao nhất. Phi phước là ác hành. Bất động là thiền thứ tư và vô sắc.
Hỏi: Như trước đã nói, Phước là Thí, Giới, Tu. Tu tức là Thiền, vô lượng và vô sắc, nay tại sao nói riêng Lạc thống là từ Phước sinh?
Đáp: Nói riêng không có lỗi. Do có nhiều tụ, nên nói riêng, như đã nói về thiền. Hư cho Tỳ kheo này ba y, riêng cho Tỳ kheo khác Phật hộ (hình Phật) và bát không thể vì Phật hộ, nhưng cũng là Tỳ kheo cho nên cho ba y và bát. Mà Tỳ kheo khác có Phật hộ lẽ ra cùng giống Tỳ kheo, được cho y kia. Như vậy, Tu là Thiền, vô lượng và vô sắc ; Phước là ba thiền. Nếu không phân biệt ba thiền, thì đối với việc tu sẽ có lỗi, do có nhiều tụ.
Hỏi: Thế nào là từ Bức bách mà sinh?
Đáp: Bức bách sinh là mình, người và cả hai bị bức bách sinh ba thứ thống. Vì mình vì kẻ khác, vì cả hai. Bức bách có hai thứ: Vui và khổ. Khổ vì mình là như lấy dao tự đâm, rồi sau đó lấy thuốc bột chiên đàn chữa trị. Khổ vì người khác, như đánh người khác bể đầu rồi trị thuốc. Khổ vì cả hai, như sai người đánh bể đầu mình, rồi lại lấy thuốc trị. Hết thảy những việc như thế, gọi là Bức bách sinh.
Hỏi: Thế nào là Cõi sinh?
Đáp: Cõi sinh là Thời, Ác và Hoạn.
Hỏi: Cõi trước nói là cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc, tức là Cõi được nói ở đây chăng ?
Đáp: Đây không phải cõi như nói ở trước là lìa chúng sinh mà chính là ba loại tưởng về thời, ác và hoạn. Cõi nói ở đây là dựa vào tưởng. Trong đó, Thời là Hạ, Đông, Xuân, là ba thời gian. Mùa hạ đàm sinh trưởng, mùa đông tăng việc tiết nước dãi. Mùa xuân gió tăng trưởng. Như Y thuật có nói “Nhờ thời tiết nên có cảm nhận vui sướng”.
Hỏi: Thế nào là Ác. Đó là Ác hành, Ái vô minh chăng?
Đáp: Không hủy hoại pháp thân. Ở đây nói là hủy hoại thân tứ đại.
Hỏi: Thế nào là ác?
Đáp: Ác là gió, đàm, khạc nhổ. Gió, đàm, khạc nhổ này phá hoại thân tứ đại, do đó mà thống được sinh ra.
Hỏi: Hoạn là gì?
Đáp: Hoạn là chúng sinh nhân ở xa lìa. Hoạn nghĩa là khổ. Chúng sinh nhân ở xa lìa chúng mà sinh khổ. Ví như lìa tướng vách, cây, đá, núi. Nhân là nhân ở mình, người và cả hai. Đó gọi là thống.
Hỏi: Tưởng là gì?
Đáp: Tưởng là hữu tưởng, vô tưởng, vô sở tưởng, quán sai biệt. Tưởng là nhận lấy hình tướng khác nhau, trong đó Hữu tưởng, vô tưởng, vô sở tưởng, quán sai biệt là cùng một nghĩa. Hữu tưởng thì chỗ nương tựa chung, vô tưởng thì chỗ nương tựa không chung. Như nhiều bình, có người nói đây là bình mật, đây là bình sữa. Do đây tưởng nên tưởng hoặc không có mật, không có sữa đó là thọ trống không, tưởng trống không. Như vậy tiếng gọi (thanh) Tưởng ấy so với thọ có khác nhau. Nếu loại bỏ tiếng gọi Tưởng, so sánh như vậy là Thọ. Vô sở tưởng tức không có cái gì, là xả bỏ. Lại nữa do có ham muốn nên nói có sở hữu. Từ ham muốn này mà nói tới lãnh vực giải thoát, nên khi quán xét rồi thì thấy chẳng có gì. Lại nữa, hữu tưởng là quán thiện thức xứ. Vô tưởng là quán phi tưởng, phi phi tưởng xứ. Vô sở tưởng là quán vô sở hữu xứ.
Hỏi: Thức là gì?
Đáp: Thức là sinh, thành, bất thành nhập. Hành, Danh sắc và cả hai nương vào (câu y) làm duyên mà có Thức. Thức khác chủng trí, nên gọi là thức. Chủng chủng trí nên gọi là thức. Đó là ba thứ: Sinh, Thành nhập, Bất thành nhập. Nương hành, nương danh sắc và nương cả hai làm duyên (cây y duyên) mà được ba thứ. Đức Thế Tôn nói mười hai duyên khởi; trong đó nói hành duyên lấy thức. Lại nói danh sắc duyên với thức. Lại nói Mắt, sắc làm duyên sinh ra nhãn thức. Ở đó, đủ loại hành tạo tác, khi sinh vào thai mẹ hợp thành sinh Thức (câu sinh Thức). Đó là hành duyên sinh thức. Liền trong thai mẹ, dần dần phát khởi thành các Nhập củng với Thức đã sinh ấy gọi là danh sắc duyên thức. Lại nữa, khi thành nhập, nhập tranh không tranh, định bất nhập định, duyên với căn và nghĩa căn sinh thức. Đó là nương cả hai làm duyên. Duyên tức là nương tựa. Không thể không có chỗ nương tựa mà thức sinh được. Đó gọi là nương có hai làm duyên mới được sinh Thức.
Hỏi: Như trước đã nói giới định trí, sao đây lặp lại về thức?
Đáp: Dựa vào trí và nơi nương tựa là hai thứ. Đây là nương, kia là chỗ bị nương. Lại nữa, giới đã nói là có hai thứ, như vậy ở đây cũng nói hai thứ, không có lỗi gì.
Đã nói xong chơn độ thứ nhất. (Ấm) của phẩm
Y)
Hỏi: Đã nói Ấm, thế nào là Giới?
Đáp: Giới là cõi dục, sắc, vô sắc. Ba cõi ấy, duy trì nghiệp này, nên nói là cõi. Trong đó, nghiệp là gồm thâu tất cả chúng sinh, cho đến Niết Bàn vô dư.
Hỏi: Thế nào là cõi dục?
Đáp: Cõi dục là người, trời, nẻo ác, nói gọn là vậy. Do trụ nơi dục nên nói là cõi dục (ham muốn), vì giữ lấy dục nên nói là cõi dục.
Hỏi: Thế nào là cõi người?
Đáp: Người được xem là tướng trạng của nam căn, nữ căn, mạng căn nương dựa vào bốn châu. Nên biết hết thảy tướng này là người, cũng nương tựa vào bốn châu. Trong đó tướng nữ gọi là nữ, tướng nam gọi là nam.
Hỏi: Tướng được xem là mạng căn ấy là không phải nam nữ, hay để nói riêng về mạng căn ư?
Đáp: Tuy có tướng nam, nữ, nhưng tướng được xem là mạng căn trong đây nói riêng biệt. Kẻ ái nam ái nữ không có tướng được xem là nam, nữ nhưng có mạng căn. Tướng ấy trụ vào thai lớn dần thì có mạng căn, mà chưa thành bộ phận nam nữ.
Cho nên nói mạng căn là riêng biệt.
Hỏi: Bốn châu là những châu nào?
Đáp: Là những châu: Diêm-phù-đề, Phất-vuđãi, Cù-da-ni, Uất-đơn-việt. Đây vì xem xét tướng trong cõi Diêm-phù-đề. Cho nên nói Diêm-phùđề, là tùy phương sở mà xét tướng. Ba cõi: Cõi Phất-vu-đãi, Cù-da-ni, Uất-đơn-việt, thì mạng sống lâu tùy số. Vui cũng có khác, có hạn, dần dần chuyển lên tốt đẹp hơn.
Hỏi: Còn cõi Trời thì sao?
Đáp: Nói chung thì có hai thứ trời: Dục sinh và ly dục.
Hỏi: Ở đây nói trời nào?
Đáp: Trời Dục sinh là tiếp xúc, nói, nhìn dục sinh. Nói dục sinh là không nói ly dục. Trời dục sinh có ba thứ: Xúc dục sinh, Thuyết dục sinh, và Thị dục sinh. Thuyết dục sinh là trời Hóa Lạc. Ở đây, nếu tâm nhiễm ô, tâm nhiễm ấy đối với Thiên nữ mà cùng nói chuyện, thì ngay khi đó, họ sẽ thành dục. Nếu nhiễm ô ý chỉ ở một phía thì không thành dục, chỉ là cảm giác hoan lạc, giống như cõi người, khi cầm lấy tay nhau. Trời ấy cũng thế. Ý không nhiễm ô là như mẹ với con. Do tạo tác biến hóa làm cảnh tốt đẹp để thỏa lòng dục vui thích, nên gọi là trời Hóa Lạc. Thị dục sinh là cõi trời Tha Hóa Tự Tại. Ở đây, nếu Trời (nạn nhân), cùng với Thiên nữ cả hai nhìn nhau say đắm, khi đó trong họ dục sẽ thành. Nếu ý nhiễm chỉ ở một phía thì không thành dục, chỉ là cảm giác hoan lạc; giống như cõi người khi ôm nhau sinh khoái lạc. Còn Ý không nhiễm giống như thấy người khác. Bởi do người khác biến hóa thành tự tại, nên nói là trời Tha Hóa Tự Tại.
Hỏi: Đã nói trời Thị dục sinh, thế nào là xúc dục sinh?
Đáp: Xúc dục sinh là từng cặp, ôm nhau, nắm tay nhau. Trời Xúc dục sinh có ba loại: Từng cặp dục sinh, ôm nhau dục sinh, nắm tay dục sinh; từng cặp dục sinh sẽ nói sau. Ôm nhau dục sinh là trời Diệm Ma, mỗi người ý đều có đắm nhiễm, nên khi ôm nhau, liền thành dục, nhưng nếu chỉ một bên đắm nhiễm thì không thành dục. Cảm giác hoan lạc (ôm nhau), giống như cõi đời này, ôm nhau sinh vui thích. Ý không đắm nhiễm như ôm người khác. Do suốt đêm vui vẻ hoan lạc nên gọi là Diệm-ma.
Hỏi: Thế nào là nắm tay dục sinh?
Đáp: Nắm tay dục sinh là cõi trời Đâu suất đà (Tri túc). Ở đó, hai đều có ý đắm nhiễm, nắm tay nhau thì khi đó thành dục. Chỉ một bên đắm nhiễm thì không thành dục. Nhưng cảm giác hoan lạc này giống như cõi người khi ôm nhau mà sinh vui thích. Không nhiễm ô giống nắm tay người khác. Vì biết thỏa mãn đủ theo cảnh giới, vốn có của mình, nên gọi là Đâu suất đà.
Hỏi: Thế nào là Từng cặp dục sinh?
Đáp: Từng cặp dục sinh là ở ba mươi ba tầng Trời, Tứ Thiên vương và Địa Thiên. Vì từng cặp cùng hành sự nên nói là Từng cặp dục sinh, hết thảy mọi sự dục, giống như trước đã nói, nhưng muốn phân biệt nói “Từng cặp dục sinh” ấy là hành sư dục giống như cõi người. Như ba mươi ba tầng trời, ở đỉnh núi Tu di hành sự dục như người; Tứ Thiên Vương vừa giống người vừa giống Trời (xử trung); còn Địa Thiên thì nương vào đất đai, cây cối, núi non làm nơi ở, yêu thích cảnh giới vui sướng. Tất cả những thứ này gọi là Trời hành dục, giống như nhân gian không có bất tịnh mà có khí. Chỗ ở chuyển dần càng lên cao, ấy gọi là Trời cõi Dục.
Hỏi: Thế nào là nẻo ác (ác thú, ác đạo)?
Đáp: Nẻo ác là địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Đó là ba nẻo ác. Vì nơi đây xấu, ác nên gọi là nẻo ác.
Ác là không thể yêu thích, nên gọi là nẻo ác.
Hỏi: Địa ngục là sao?
Đáp: Địa ngục là gồm địa ngục lạnh, địa ngục nóng, địa ngục biên. Địa ngục có nghĩa là không thể vui.
Hỏi: Địa ngục lạnh là sao?
Đáp: Địa ngục lạnh là nơi kêu la to, không kêu la to, không kêu la. Đó là ba tướng nhìn thấy của địa ngục lạnh. Kêu la to, không kêu la to, không kêu la là do ở đó hết sức ác phải kêu la to lên, nên gọi là kêu la.
Hỏi: Thế nào là kêu la to?
Đáp: Kêu la to như các ngục A phù đà, Nê la phù đà, A ba bạt. A phù đà, Nê la phù đà, A ba bạt là ba ngục kêu la to. A phù đà là kể số lượng, như nước Ma Kiệt Đà này, cứ mười hạt cải là một thương. Mỗi ngục đó nhận hai mươi khư lê với đầy hạt cải như vậy. Giả sử có người, cứ trăm năm lấy một hạt, còn có thời hạn lấy hết hạt cải ấy, nhưng sự sống ở ngục A phù đà ấy là không cùng tận. Hai thăng là một a lặc, bốn a lặc là một độc lung na, mười sáu độc lung na là một khư lê, hai mươi khư lê là một thương, như vậy cho đến mười thương, nhưng sự sống nơi địa ngục A phù đà này còn chuyển gấp đôi số ấy! Lại nữa, A phù đà tợ như là ung thư. Trong địa ngục A phù đà này, do sức lạnh, nên thân nổi lên mụt, như ung thư.
Ngục Nê la phù đà thì không giống như ung thư. Chỉ cử động thân là gió thổi khiến thân phình to lên.
Ngục A ba bạt thì gió thổi hết sức lạnh, da toác ra, thịt rơi, rét căm căm. Đó là ba thứ ngục kêu la to.
Hỏi: Thế nào là không kêu la to?
Đáp: Không kêu la to là ngục A-trá-hưu, Trá Hưu, Ưu-bát-la. A-trá-hưu, Trá Hưu, Ưu-bát-la ba ngục này không kêu la to. Ở ngục A-trá-hưu, Trá Hưu thì gió thổ lạnh kinh hồn, da toác, thịt rơi, lạnh khổ chịu không nổi. Hoặc tìm cách kêu lên “A-trá-hưu”. Ngục Trá-hưu. Ưu-bát-la thì gió càng thổi lạnh dữ dội, toác da, thịt rơi. Do nghiệp tội, nên tự sinh ra từng lá sắt mỏng quấn quanh lấy thân, như hoa Ưu-bát-la. Tội này là do chê bai bậc Thánh nhơn, nên đọa vào ngục Ưu-bát-la, luôn chịu khổ như thế.
Hỏi: Thế nào là ngục không kêu la?
Đáp: Không kêu la là gồm bốn ngục: Câu mâu đà tu, Kiến đê già phần, Đà la già, Ba đàm ma. Ở đây, gió thổi lạnh dữ, thân phình to lên. Ở trong các ngục đó tội nhân chịu bao nhiêu khốn khổ, khiến thân đau đớn rên rỉ mãi. Tội này là do chê bai Thánh nhơn, nên bị đọa vào bốn ngục ấy, chịu vô lượng khổ sô. Đó là hết thảy những địa ngục băng giá. Chúng ở trong khoảng bốn châu, dưới đáy núi Thiết Vi, núi Đại Thiết Vi. Từ đấy, ngước lên nhìn thì toàn bóng tối. Gió lạnh thổi thốc vào thân, rồi còn bị lửa đốt cháy. Thân như rừng trúc cháy, nổ lốp bốp. Từ tiếng nổ sinh ra các tưởng, còn có những chúng sinh phải chịu khổ khác. Cả thảy đều là tội chê bai phỉ báng Thánh nhơn, nên bị khổ như vậy. Như kệ Đức Thế Tôn nói:
Nê la phù có trăm ngàn,
A phù đà ba mươi lăm,
Chê bai Thánh, đọa cõi ác,
Do miệng và ý nguyện ác.
Hỏi: Thế nào là địa ngục nóng?
Đáp: Địa ngục nóng bao gồm: Có chủ cai trị, ít chủ cai trị, không có chủ cai trị, đó là ba tướng nhìn thấy được của địa ngục nóng. Chủ trị là tra khảo, ở đó phần nhiều vì chúng sinh xử trị, ít vì chúng sinh xử trị, hoặc tự xử trị hoặc do tội tự sinh, hoặc lìa phương tiện chúng sinh mà thọ khổ.
Hỏi: Thế nào là có chủ trị?
Đáp: Có chủ trị là ở đó gồm ba địa ngục: Hoạt, Hàng, Hắc thằng, ở địa ngục Hoạt, là ngục tốt lấy dao búa bén chẻ xẻ chúng sinh có tội, như chẻ chặt đầu dê, lột da thịt vung vãi ra, tội nhơn vì nghiệp lực chưa hết nên do gió lạnh thổi mà liền da thịt lại. Thêm nữa, do tội đã làm trước kia mà móng tay tự nhiên mọc thành móng sắt nhọn, hình như bán nguyệt đầy oán hận, gặp nhau là thấy bức bách, bảo nó từng bức bách ta, nay ta trả thù nó, ai nấy đều nổi giận trong chỗ gặp nhau này, nên cào cấu lẫn nhau bằng những móng sắt đó. Ấy là do người ta vốn đã oán thù nhau trên đời, nên chết rồi đọa vào địa ngục ấy.
Địa ngục Hắc thằng là nơi tra tấn tội nhơn nằm dưới đất, lấy dây đen siết thân, đứt từng khúc. Ấy là những kẻ, khi sống trên đời này đã dùng dao chặt chém người, nên chết rồi sinh vào ngục ấy. Còn nữa, trong đó ngục tốt lấy lá đồng dát mỏng, nướng đỏ, quấn vào thân, máu tuôn lai láng, tủy xương chảy ra. Đó là những kẻ ở dương gian, từng lấy roi gậy đánh đập chúng sinh. Người xuất gia, không tinh tấn mà ham nhận của tín thí về y phục, nên sinh vào ngục tối kinh hãi này, lại bị khói xông ngột ngạt. Chân bị treo ngược tòn teng, hít lấy khói, đó là những kẻ ở dương gian đã dùng khói đun đốt chúng sinh.
Hàng địa ngục là chúng sinh tội nhơn bày thành hàng, như hàng thịt treo la liệt, bị cắt tay, chân, đầu, mũi. Đó là những kẻ ở dương gian làm nghề đồ tể, nay chịu quả báo. Bên trên thì vòng sắt nóng chảy, bên dưới thì ngồi vào xe lửa cháy lăn quay, ngục tốt thì la hét đuổi tội nhơn phải chạy mãi. Đó là những kẻ ở dương gian, cỡi voi ngựa, chạy đua nhau, thúc chúng chạy vất vả, nên nay sinh vào ngục ấy, chịu quả báo. Còn những kẻ từng xâm phạm vợ người thì bị đuổi vào khu rừng, với bao kiếm nhọn nóng buốt từ trên cao đâm ngay xuống một cách tự nhiên. Đó là địa ngục có chủ trị. Ngục tốt là những kẻ dựa vào nghiệp họ, nên chúng không bị lửa đốt. Báo phải trả là không thể nghĩ bàn.
Hỏi: Địa ngục ít chủ trị là sao?
Đáp: Địa ngục ít chủ trị gồm ba địa ngục: Chúng hợp, Đại khốc, Thiết hạm, đó là ba loại ngục ít chủ trị. Ở địa ngục Chúng hợp, tội nhơn sợ hãi ngục tốt, nên hàng trăm ngàn người, chạy trốn vào khe núi, khi đã vào rồi, tự nhiên trước sau lửa phát cháy bít các lối. Hai bên núi khe hẹp như bánh xe nghiền nát kẻ chạy vào, do vậy máu tuôn như sông, xương cốt rệu rã cả. Đó là những kẻ ở dương gian, vui chơi chà đạp chúng sinh. Lại có lửa đốt trong cối sắt to, rồi bị chày vồ giáng xuống liên tục hàng trăm năm. Tội nhơn này không chết, sống hoài để chịu tội. Đó là những kẻ ở trên đời, lấy cối giã chết côn trùng và tàn bạo giết hại chúng, nên nay chịu quả này.
Địa ngục Đại khốc là chỗ tội nhân bị nhốt trong núi sắt lớn, bị lửa đốt bốn phía, không có lối nào thoát được. Đám ngục tốt ác, không chút lòng thương xót, giận dữ hỏi: Chúng bây tính chạy đi đâu? Ai không có việc, chúng trao công việc, bằng những chày sắt để bổ vào đầu. Đó là những kẻ ở dương gian, bắt vạn dân làm xâu cực khổ vô hạn, nên nay bị quả báo ấy.
Địa ngục Thiết hạm: Lửa làm cháy sắt là nền đất, đám ngục tốt xua đuổi tội nhơn vào chỗ lửa cháy ấy. Xua vào hết rồi, chúng cho chó dữ nhảy đến ăn thịt. Ăn hết thịt, gió lạnh địa ngục thổi tới, tự nhiên thịt mọc ra như cũ, lại bị xua đuổi vào đó nữa. Đó là những kẻ ở dương gian nuôi tằm nấu tằm, nay sinh vào đây. Đó là ngục ít chủ trị.
Hỏi: Thế nào là địa ngục không có chủ trị?
Đáp: Không có chủ trị gồm địa ngục: Khóc, nướng, không thiếu: ba thứ nầy là địa ngục không có chủ trị.
Địa ngục khóc: Lửa đốt cháy hừng hực những cục sắt, giống như giáp rùa, rất chật hẹp, hết thảy tội nhơn đều nhốt ở giữa, dùng sắt che đậy lại, cam chịu khổ cùng cực như vậy. Tội nhơn này, lúc còn sống đã đốt cánh đồng rộng và xông đốt các hang ổ, nơi chúng sinh đang cư trú, nên sinh vào đây chịu báo.
Địa ngục nướng: Cả núi sắt lớn cháy, ngọn lửa táp vào nhau, tợ như cái nạo bằng sắt để gọt, nạo tội nhơn, khi nướng đã giáp vòng, một mặt vừa chín, cái nạo ấy tự nhiên chuyển biến trở qua, trở lại, trái ngược cho đều. Tội nhơn ở nơi ấy, là những kẻ lúc còn sống đã xỏ, đâm giết người, nên sinh trong địa ngục nầy chịu quả báo.
Địa ngục không thiếu: Mặt đất bằng sắt bao quanh, lửa đốt, ngang, rộng cả trăm do tuần. Bốn cổng như thành, dùng đồng dát mỏng che lên trên, ngọn lửa cứ nối tiếp nhau. Tội nhơn qua lại ở trong đó như củi, ngọn lửa không có gì trở ngại, đốt cháy khắp thân, chúng sinh thọ khổ không thiếu một chỗ nào. Chúng sinh chịu tội ở đây là do lúc còn sống đã giết cha, mẹ, người chơn thật, mang ý ác hướng đến Phật, khiến thân Phật chảy máu, tranh chấp gây xáo trộn chúng Tăng và vì tạo ra quá nhiều mười nghiệp ác, nên chịu quả báo trong địa ngục đó. Đấy là nói Địa ngục không có chủ trị.
Hỏi: Thế nào là Địa ngục biên?
Đáp: Địa ngục biên được đặt ở những nơi xa xôi hẻo lánh, như ở trong nước, ở trong núi, hay nơi đồng trống. Nơi ấy, độc nhất để cho tội nhân thọ nhận quả báo về nghiệp ác của mình, nên gọi là Địa ngục biên.
Hỏi: Đã thuyết minh về địa ngục, súc sinh là thế nào?
Đáp: Súc sinh là loài bôi trong nước, đi trên đất liền, bay trong không, tất cả loài không có chân, hai chân, hay nhiều chân, đi trên đất liền, ở dưới nước, bay trong không, ba loài nầy là súc sinh.
Loài đi trên đất liền: voi, ngựa, bò, dê, lừa, la, lạc đà, đứng hàng đầu.
Loài ở dưới nước: Cá Ma kiệt, Thất thâu ma lại, là hàng đầu. Bay trong không: Chim và muỗi, ruồi là hàng đầu.
Loài đi trên đất liền như:
Không có chân: Rắn đứng đầu. Hai chân: Chim đứng đầu.
Nhiều chân: Bò, ngựa, ong và có loại trăm chân làm hàng đầu. Tất cả những loài đó, vì hành nghiệp tội lớn, nên sinh trong loài súc sinh như vậy. Đây là nói về súc sinh.
Hỏi: Đã nói về súc sinh; còn ngạ quỷ thế nào?
Đáp: Ngạ quỷ gồm có loài vô tài, Thiểu tài, Đa tài. Tức có ba loại Ngạ quỷ: Ngạ quỷ vô tài, ngạ quỷ Thiểu tài, ngạ quỷ Đa tài.
Hỏi: Thế nào là Ngạ quỷ vô tài?
Đáp: Vô tài: Là đuốc, cây kim, hôi. Miệng như đuốc lửa, miệng nhỏ như lỗ kim, miệng hôi, là ba thứ Ngạ quỷ vô tài.
Miệng như đuốc lửa: Hễ ngậm miệng lại thì ngọn lửa mãnh liệt tự phát ra đốt, như lửa đốt nhiều cây đa la ở ngoài đồng. Tội nhơn ở trong đấy, phần nhiều do hành vi tham lam, keo kiệt, nên sinh trong ngạ quỷ kia cam chịu quả khổ sở như vậy.
Miệng như lỗ kim: Là bụng to như hang núi, cổ họng lại nhỏ như lỗ kim. Giả thiết có được thức ăn đầy đủ cũng không ăn được.
Miệng hôi, là miệng cháy sém, thối rữa, hôi hám, như phân xí, ợ lên hôi thối, không có bụng, không được ăn, cam chịu khổ lớn. Đấy gọi là những Ngạ quỷ vô tài.
Hỏi: Thiểu tài là sao?
Đáp: Ngạ quỷ Thiểu tài: Lông như cây kim, lông hôi, có bướu cổ, đó là ba thứ Ngạ quỷ thiểu tài. Loại Ngạ quỷ nầy ít khi được vật bất tịnh, nên cũng gọi là thiểu tài.
Lông như cây kim: lông rất cứng, dài, đầu bén như mũi kim, châm khắp mình, làm cho từng lóng đốt của thân thể như rời nhau, đi lại rất khó, lông lại tự đâm, như mũi tên bén bắn vào thân con nai, cam chịu khổ lớn như vậy. Đôi khi lại không được cái ăn.
Lông hôi: Lông rất hôi che khắp thân, lại tự đâm lẫn vào nhau. Thân hôi, gió phất ra, phiền não sinh giận dữ, tự nhổ lông, cam chịu nỗi khổ như vậy.
Bướu cổ: Do quả báo từ nghiệp tội của mình, sinh ra bướu ở cổ, rồi tự quyết định phá vỡ nó, để mủ, máu tuôn ra mà lấy ăn. Đấy là các loại ngạ quỷ Thiểu tài.
Hỏi: Thế nào là Ngạ quỷ Đa tài?
Đáp: Đa tài là gồm ba loại: vứt bỏ, mất, thế lực lớn. Vứt bỏ mất, thế lực lớn, ba thứ nầy gọi là Ngạ quỷ Đa tài.
Ngạ quỷ Vứt bỏ là đời trước có làm việc bố thí, nên đời nầy được của dư thừa. Ngạ quỷ nầy suốt đời được của cúng tế đó, do đấy nên được vui.
Ngạ quỷ Mất: Của cải bị bỏ sót, bị rơi rớt trong ngõ hẻm, ở ngã tư đường, loài ngạ quỷ nầy suốt đời được những của cải ấy. Do vậy, nên được vui.
Ngạ quỷ Thế lớn: Là Dạ Xoa, La Sát, Tỳ Xá Già, đó là ba loại ngạ quỷ thế lực lớn. Cảnh giới của chúng cũng như cõi trời. Chúng nhờ phước đức của thọ mạng đời trước nên khi được thức ăn ngon, ăn xong, thì có vô lượng ngạ quỷ vây quanh, thấy nhau như vậy nên sinh khổ. Như con người trông thấy người thân của mình ở ngục sinh khổ; ngạ quỷ kia cũng như thế, vây quanh sinh khổ. Do vì nỗi khổ nầy, nên thức ăn hóa thành mũ, cam chịu nỗi khổ như thế. Đấy là nói loại Ngạ quỷ thế lực lớn.
Những hình trời, người, và súc sinh kia, là hình của ngạ quỷ, biến hóa thành hình người, hình súc sinh, hình trời, do tùy thuộc vào nghiệp của chúng. Đấy là hết thảy những gì có ở cõi dục.
Hỏi: Đã thuyết minh về cõi dục, cõi sắc như thế nào?
Đáp: Cõi sắc là có Hỷ, không Hỷ và Hộ (xả). Cõi Sắc là nơi không có dục, chỉ có thiền, trừ giận dữ, nên được sắc tinh diệu, như luyện vàng ròng. Cõi nầy có hỷ, không hỷ, lìa khổ vui là Hộ. Vì hỷ câu hành với (cùng đồng thời có) lạc, nên nói có hỷ. Lìa hỷ, không có hỷ câu hành với lạc, nên nói là không hỷ. Đó là lìa khổ, ngừng vui, như ngựa dừng kéo xe.
Hỏi: Có Hỷ là sao?
Đáp: Có Hỷ, nghĩa là có giác, không có giác, ít quán. Vì câu hành với quán, nên nói là có giác; vì lìa giác nên nói là không có giác, vì có ít quán nên nói là ít quán. Lạc là cái phải lìa chính là nói thiền. Trong đó có giác, nghĩa là sơ thiền, không có giác là thiền thứ hai. Ít quán: Là bắt đầu phần trung gian. Tập thiền nầy sinh trong cõi Sắc. Nói chúng sinh là nói cảnh giới, nói cảnh giới là nói thiền.
Hỏi: Ai tu tập có giác, sinh thiền?
Đáp: Có giác là các cõi: Phạm Phú lâu, Phạm Ca di, Phạm Ba sản. Tập có giác, thiền sinh ở trong đó. Các cõi Phạm Phú lâu, Phạm Ca di, Phạm Ba sản: Ba cõi nầy là có giác. Phẩm hạ trung tùy theo sinh vào.
Đại phạm: Do ít quán sinh, nghĩa của giác quán thì trước đã thuyết minh.
Hỏi: Thế nào là không có giác?
Đáp: Không có giác, nghĩa là các cõi: Thiểu quang, Vô Lượng quang, Quang diệu. Theo giác, không có giác, hỷ lạc tương ưng với thiền, là sinh nơi ba cõi trời: Thiểu quang, Vô Lượng quang, Quang diệu. Tưởng nầy hoặc là giả tưởng, hoặc là nhân nơi tưởng. Thiểu quang là lúc nói năng, miệng phát ra ít hào quang, vì hào quang ít, nên gọi là Thiểu quang. Vì nhiều hào quang, nên nói là Vô Lượng quang. Vì hào quang tịnh vô biên, nên nói là Quang diệu.
Hỏi: Đã nói có Hỷ. Thế nào là không có hỷ?
Đáp: Không có Hỷ, nghĩa là các cõi Thiểu tịnh, Vô Lượng tịnh, Biến tịnh. Tập giác không có hỷ, lạc, tương ưng với thiền, là sinh nơi ba cõi trời ấy: Thiểu tịnh: là tên gọi của không nhiều, ở đây ít phương tiện tương ưng với thiền, sinh cõi trời Thiểu tịnh thọ hưởng lạc cũng ít phương tiện, trung bình thì sinh cõi trời Vô Lượng tịnh, nhiều hơn nữa thì sinh cõi trời Biến tịnh.
Hỏi: Đã nói không có hỷ, lạc. Vậy Hộ là sao? Đáp: Hộ tương ưng với ba cõi:
-Hữu tưởng-Vô tưởng-Giác Ý tưởng.
Hộ kia là gồm Quả thật, Vô tưởng, Tịnh cư. Tu tập hộ lạc tương ưng với thiền, sinh ở đó nên nói là Hộ. Có ba hạng: trời Quả thật, trời Vô tưởng, trời Tịnh cư, trong đó, Quả thật, là tu tập từ thấp, vừa đến cao mà sinh Quả thật của thiền thứ tư.
Vô tưởng: Vì diệt tưởng, nên sinh Vô tưởng. Diệt thọ, tưởng, thức kia, vì lẽ không có tưởng dục nên đều cùng diệt, chỉ có sắc ấm, hành ấm, ít nhập sinh tưởng, ấy là chết.
Hỏi: Tịnh cư là sao?
Đáp: Tịnh cư là gồm các cõi: Thiện hiện, Thiện kiến, Tịnh. Ba thứ nầy là Tịnh cư. Tịnh cư, nghĩa là chỗ hết các phiền não.
Hỏi: Có năm chỗ Tịnh cư, nay sao lại nói có ba?
Đáp: Tịnh là các cõi Vô Phiền, Vô Nhiệt và Sắc Cứu cánh, ba cõi nầy gọi là tịnh tưởng. Người biên chép kinh, ý muốn như vậy.
Hỏi: Đã nói về cõi sắc. Thế nào là cõi vô sắc?
Đáp: Vô sắc: Trong phần Tu ở trước đã nói. Người tu hành, trong thời gian, tu tập chánh thọ, sẽ sinh vào cõi vô sắc, đó là đạo và quả đều đã nói.
Chơn độ thứ hai của phẩm Y, đã nói xong.
Hỏi: Đã nói về Ấm, Giới, còn Nhập thì thế nào?
Đáp: Nhập nghĩa là Xúc, Độ, Giải thoát nhập. Xúc nhập, Độ nhập, Giải thoát nhập, ba thứ nầy là tướng của nhập. Nhập, nghĩa là nương tựa, như miếu là chỗ nương tựa của chư Thiên.
Hỏi: Nhập kia, vì cái gì mà nhập?
Đáp: Vì Đức, vì Ác mà nhập. Trong đó, Giải thoát nhập là đối tượng nương tựa của Đức. Độ nhập là chỗ nương tựa của Ác. Xúc nhập là chỗ nương tựa của cả hai. Ý ô nhiễm sinh Ác, ý tịnh sinh Đức.
Hỏi: Xúc nhập là sao?
Đáp: Xúc nhập, nghĩa là cảnh giới gần, cảnh giới không gần, và không có cảnh giới. Cảnh giới: Là chỗ duyên, tùy thuộc vào hành duyên của xúc, chính là cảnh giới của nó. Duyên gần là nói cảnh giới gần. Duyên không gần là nói cảnh giới không gần. Không có duyên là nói không có cảnh giới.
Hỏi: Cảnh giới gần là sao?
Đáp: Cảnh giới gần, nghĩa là nhập của tỷ, thiệt, thân. Tỷ, nhập, Thiệt nhập, Thân nhập là ba cảnh giới gần. Mùi hương đến mũi thì ngửi; không đến thì không ngửi. Dù có hoa rất xa, song hương rời hoa bay đến mũi ngửi. Hương là tánh của sắc, do vậy, nên nếu có gió bắc, thì hương đến hướng nam, mà không tỏa đến hướng bắc, là do hương rời hoa bay đến mũi, cho mũi ngửi. Vị cũng như thế. Dính lưỡi là biết vị, không từ đồ đựng, không từ tay. Xúc cũng như thế. Đối tượng nhận biết của thân căn có tám thứ: Cứng, mềm, nhẹ, nặng, thô, nhám, lạnh, nóng. Do những xúc kia mà sau đó có cảm giác, thế nên đó là ba cảnh giới gần.
Hỏi: Thế nào là cảnh giới không gần?
Đáp: Cảnh giới không gần, nghĩa là nhập của nhãn, nhĩ, ý. Nhãn nhập, Nhĩ nhập, Ý nhập, là ba cảnh giới không gần.
Hỏi: Mắt cũng thấy gần, một ít cảnh giới không ngăn cản. Tai cũng như thế, con muỗi ở trong lỗ tai cũng nghe tiếng. Ý là không có sắc, làm sao biết được cảnh giới không gần?
Đáp: Do đấy nên mới nói cảnh giới không gần, nếu không có ngăn cản thì tiếp nhận cảnh giới.
Hỏi: Phần giới hạn của cảnh giới không gần là bao nhiêu? ?
Đáp: Ở đây không có giới hạn. Hoặc có thể là bốn mươi ngàn do tuần, thấy được mặt trời, mặt trăng, hoặc không thấy được. Hoặc chỉ một do tuần là thấy sắc. Hoặc là mười dặm, tùy thuộc vào sức của căn mắt ở nơi người kia, do vậy, nên mới nói cảnh giới không gần, mà không nói là xa, nhưng không ngăn cản tiếp nhận cảnh giới, không phải dời vật thể đến chỗ thấy mới thấy, lìa rồi sau mới thấy. Tai cũng như thế, không phải vì bức thiết phải dần (tiếp cận), cho nên mới nghe được. Con muỗi dù ở trong lỗ tai nhưng không đến chỗ nghe, tai ở đây cũng tùy thuộc sức của căn để nghe tiếng. Ý, nghĩa là không có sắc, ý kia không có gần, xa, nên nói cảnh giới không gần mà không nói là xa.
Hỏi: Không có cảnh giới là sao?
Đáp: Không có cảnh giới, nghĩa là bên ngoài mình tiếp nhận, người khác tiếp nhận và không tiếp nhận. Ngoài nghĩa là không có cảnh giới, là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Trong pháp nầy, tạm gọi là ngoài, là mình tiếp nhận, người khác tiếp nhận và không tiếp nhận. Ở đây không có cảnh giới, nhưng là cảnh giới của người khác. Năm cảnh giới nầy, không có duyên mà là pháp sở duyên của người khác, nên phải phân biệt. Là cũng đa số vì không có cảnh giới, nên nói không có cảnh giới.
Hỏi: Đã nói Xúc nhập, Độ nhập là sao?
Đáp: Độ nhập, nghĩa là nói nhân một xứ, nhân bất chánh và không có nhân.
Nói đến nhân một xứ, nói đến nhân bất chánh, nói đến không có nhân; nghĩa của ba thứ này rất nhiều nhưng nói tóm lược ba Độ nhập. Trong đó, nhân một xứ nghĩa là nói, như lá cờ Nhân đà la được mọi người đem đến, có người nói là Điều Đạt đem đến. Mọi người kia cũng có ở ở đó, đâu phải một mình Điều Đạt làm việc này, lẽ ra phải nói là chúng, mà nói là một. Nói nhân một xứ cũng như thế. Ba sự mới hợp thành nghĩa: Hoặc nghiệp đời trước, hoặc hiện đã làm, hoặc do ân của người khác. Như vậy, ba sự hợp thành nghĩa chỉ nói một. Nói nhân bất chánh, nghĩa là nói: Như nói lá cờ Nhân đà la ấy. Có người nói không phải do một người đem đến, cũng không phải hai, trong đây dù có nhân, nhưng là không bất chánh (bất chánh nhân).
Nói không có nhân, nghĩa là nói: Như thế, lá cờ Nhân đà la không hề có nhân nào mà đến.(tự nhiên, ngẫu nhiên).
Hỏi: Nghĩa của Nhân một xứ là sao?
Đáp: Một xứ, nghĩa là nói do nghiệp, do công phu của mình, của người khác. Một, là nói việc đã làm ra gồm có hai thứ: Hoặc do đời trước đã tạo, hoặc do hiện đang tạo. Trong đó, nếu do đời trước tạo thì đấy gọi là Nghiệp.
Hoặc lại có thuyết nói: “Trời tạo ra. Ba thứ như thế thành nghĩa, như trước đã nói. Như vậy là ba thứ nghĩa: hoặc nói nghiệp, hoặc nói công phu, hoặc nói ân của người khác. Một xứ là chỉ nói nghiệp, người ấy sẽ phụ bạc công phu của người khác, không biết ôn nghĩa, không thể cùng tùng sự. Như ta vốn đã tạo ra, thì mong cầu hoặc do không mong cầu, cuối cùng cũng tự được. Nói một xứ có lỗi như thế.
Hỏi: Nhân bất chánh là sao?
Đáp: Nói nhân bất chánh là nói vọng tưởng chúng sinh, pháp và cả hai và nhân tố chính (căn nhân). Mọi sự tốt xấu đều từ chúng sinh tạo. Hoặc lại cho là từ pháp tạo, hoặc lại cho là chúng sinh và pháp đã tạo. Đó là ba loại nói nhân bất chánh. Nhưng chẳng phải do chúng sinh tạo, chẳng phải do pháp tạo, cũng chẳng phải do cả hai cùng tạo.
Hỏi: Tưởng nhân tố chính của chúng sinh là thế nào?
Đáp: Chúng sinh là nói Phạm, Y nhiếp-phi-la, và Vị-sử-nậu. Do hai thứ này tạo thành thế gian. Là nói chúng sinh hành tác ở thế gian là do Phạm là chủ tạo hóa, do Y-nhiếp-phi-da là chủ tạo hóa, do Vị-sử-nậu là chủ tạo hóa. Người không trí tuệ cho là như thế.
Nói Phạm tạo hóa nghĩa là nói Phạm thiên tạo ra hư không, hư không tạo ra gió, gió tạo ra nước, đất. Nước, đất tạo ra gò, núi, cỏ, cây, như thế là có thế gian hết thảy đều có lỗi. Vì sao? Vì nếu Phạm thiên tạo ra hư không và đất ấy, thì Phạm thiên kia trụ ở chỗ nào để sáng tạo ra không và đất nầy? Tức phải ở giữa để tạo ra, thì nghĩa nầy không như vậy, vì thế là có lỗi. Như Nhiếp phi la và Vị-sử-nậu cũng như thế.
Hỏi: Trưởng nhân tố chính của pháp là thế nào?
Đáp: Pháp, nghĩa là thời, khí, tự nhiên tác tức Thời tác, Khí tác, Tự nhiên tác, ba thứ nầy nói là nhân tố chính của pháp. Trong đó nói về Thời nghĩa là:
“Thời tiết sinh tất cả
Thời tiết thuần tất cả
Thời tiết hoại tất cả
Thời tạo cả thế gian”.
Thuyết nầy có lỗi như trong phần “Một xứ” trước đã nói. Cái đáng được cầu thì không cầu được, cái không cần cầu thì cầu được, ấy chính là Thời tác động vận hành chứ không phải tạo tác thành. Chớ nói là nhân tố chính mà có lỗi. Vì sao? Vì Thời nghĩa là không như hư không mà nghĩa tạo vật (là có) thì không hợp lý. Như thế đều có lỗi.
“Khí cũng không thể tạo
Khí là không hữu tình
Gọi là sự vô sự
Khí không có mạng nầy
Tự nhiên cũng như thế
Tự nhiên nếu sinh
Chẳng phải nghĩa tự nhiên”.
Nếu không có tức chẳng phải là nhân, nếu do không có nhân sinh thì tất cả sinh cũng như thế, đâu khác gì tự nhiên? Như có thường, thì thường kia nào có lỗi? Chẳng phải có thường mà tan rã hư hoại, lỗi so sánh như thế, đừng nói như vậy mà có lỗi.
Hỏi: Thế nào là không có nhân?
Đáp: Không có nhân nghĩa là tánh, ngẫu nhiên, không có. Nói không nhân là có ba thuyết về: Tánh, ngẫu nhiên, và không.
Tánh là nói trong tánh của vạn vật sinh, không phải nhân nơi người khác. Vì sao? Vì như gai góc bén nhọn, không có người làm cho bén nhọn. Tất cả đều như vậy.
Nói ngẫu nhiên, là nói vạn vật ngẫu nhiên sinh, như nguồn suối nước lớn, cỏ rơi xuống giữa dòng, tập trung một chỗ kết thành bè. Nói ngẫu nhiên là như thế. Ở chỗ kia, gió ngẫu nhiên thổi ập đến, hoặc thổi từ đông, tây, nam, bắc. Sự sinh của vạn vật cũng như thế.
Thuyết không có: Nói thẩm tra như thế nầy: Trong tất cả thứ này không có gì là có, làm thế nào sinh? Do đâu sinh? Sinh ở chỗ nào? Sự sinh nầy chẳng phải là có sở hữu, thành thử tất cả thuyết kia đều có lỗi. Vì sao thế? Vì nếu tánh của vạn vật thích ứng sinh thì lúc sinh mầm mộng, đã không cần đến nghề nghiệp làm ruộng? Cung chẳng cần tưới tiêu? Tuy nhiên, nếu không có công tác cần thiết nầy, tất nhiên mầm mộng cuối cùng cũng không sinh. Do đó, vạn vật không phải tánh sinh.
Như thế, mỗi mỗi nên chấm dứt, không biện luận nữa!
Hỏi: Đã thuyết minh về Độ nhập, còn Giải thoát nhập thì sao?
Đáp: Giải thoát nhập, nghĩa là tưởng, thiền, nghe rộng, ba pháp nầy là Giải thoát nhập. Giải thoát, nghĩa là diệt ác, nơi giải thoát nhập kia. Ba nhập nầy, dựa vào đấy mà được giải thoát. Tưởng là nghĩa duyên. Nương tựa Phật, Phật Bích chi, Thanh văn, mà được giải thoát.
Thiền: Như đã nói trong phẩm thứ nhứt. Tương đương nghĩa nầy, cũng nương tựa Thiền mà được giải thoát.
Hỏi: Nghe rộng là sao?
Đáp: Nghe rộng, nghĩa là nói, nghe, tụng. Nói như những gì đã nghe, nghe như những gì đã nói, tụng là tụng như những gì đã nghe.
Hỏi: Nghe rộng, trước đã nói đa văn là học rộng Khế Kinh, A Tỳ Đàm. Luật, ở đây nghe rộng này có gì khác biệt mà lại nói là nói, nghe, tụng?
Đáp: Trước nói đó là ba loại đa văn, đây nói nghe rộng là ba loại tiếp nhận: tiếp nhận khi nói, tiếp nhận khi nghe, tiếp nhận khi tụng.
Đệ tử Thế Tôn có bốn loại: Có loại từ Chân đế mà được thành tựu, có loại từ Thí xứ, hoặc từ Chỉ xứ, hoặc từ Tuệ xứ. Đó đều là phương tiện để thành tựu giải thoát. Vì nghe Chân đế nên được giải thoát. Nghe nói đạt được Thí xứ từ Chỉ, đạt được Chỉ xứ tứ Thiền, đạt được Tuệ xứ từ tụng. Đó gọi là Giải thoát xứ.
Ba pháp độ nầy, là chánh quán không có gì ngăn ngại, với ý muốn là làm sao thấy được Chân đế, để dần dần theo trình tự mà được giải thoát. Vì được giải thoát, nên người huệ mới học pháp của Đức Thế Tôn.
Chơn độ thứ ba, phẩm Y, đã nói xong.