TẠNG LUẬN
BỘ THÍCH KINH
SỐ: 1507 - LUẬN PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC
Hán dịch: Mất tên người dịch dựa theo sự sao chép đời Hậu Hán
Trong bài kệ lập ra đầu tiên, có nói: “Ca-diếp tư duy về gốc của chánh pháp”, nghĩa là tư duy rất nhiều về kinh, pháp ngôn, giáo. Vì sao biết? Vì Cadiếp luôn dùng sự so sánh để nói lên sự ít nhiều kinh pháp kia. Phương pháp so sánh là đầu tiên từ mười con lừa, nêu: Sức của mười con lừa, không bằng sức của một lạc đà thường. Sức của mười lạc đà thường không bằng sức của một voi thường. Sức của mười voi thường không bằng sức của con voi chân nhỏ. Mười voi chân nhỏ, không bằng sức của một con voi trộm thức ăn. Mười voi trộm thức ăn, không bằng sức của một voi Liên hoa. Mười con voi Liên hoa, không, bằng sức của một con voi hoa sen xanh. Mười voi hoa sen xanh, không bằng sức của một con voi hoa sen hồng. Mười voi hoa sen hồng, không bằng sức của một con voi hoa sen trắng. Mười voi hoa sen trắng, không bằng sức của một con voi núi Tuyết. Mười voi núi Tuyết, không bằng sức của một Hương Tượng.
Từ lừa đến Hương Tượng chỉ là một phần. Như thế, tám vạn bốn ngàn Hương Tượng, đem so sánh với da lừa trong ngoài, chép đầy kinh, Hương Tượng nầy với số như thế, là so sánh về sự chuyên chở.
Tôn giả A-nan đã nghe, đã biết các việc. Lấy khối to lớn ấy so sánh sẽ biết được số lớn. Muốn mỗi mỗi nói ra văn tự của kinh pháp ấy, thì trọn đời cũng không thể nói hết.
Tư duy về pháp Kinh rất là to lớn, làm sao có thể khiến chúng được truyền bá khắp trong thiên hạ, để cho hàng ngàn năm, chúng sinh vẫn được nhờ ơn pháp thấm nhuần.
Ơn sâu thật chí lý. Nhưng ai có khả năng tuyển chọn pháp? Chỉ có Tôn giả A-nan mới có thể kết tập mà thôi.
Ca-diếp tức thì đánh kiền chùy tập họp chúng. Bấy giờ, có tám vạn bốn ngàn A-la-hán v.v.. vâng mệnh đến tập họp. Các vị vô lậu ấy, đều là những vị Câu giải thoát.
Sở dĩ mời các vị Hiền, Thánh nầy là vì các vị ấy đều có thể nhập định Diệt tận. Các vị nhập định Diệt tận ấy, có khả năng khiến chúng sinh đời nầy được phước, cứu giúp khổ ách của chúng sinh. Các bậc Vô trước v.v.. của đại thiên thế giới, số ấy khó tính kể, trừ ba đạo, còn lại mỗi mỗi đều gấp đôi.
Nay, chỉ ghi chép các vị Câu giải thoát lợi căn có khả năng dùng định Diệt tận mà độ thoát chúng sinh. Thế nên, mới khen đó là phước điền.
Lấy gì để chứng minh sự kiện đó?
Ngày xưa, Thiên Đế Thích, phước hết, mạng chung. Bấy giờ, năm điềm ứng đến, lòng rất lo sợ, muốn cầu được cứu hộ, đang muốn đến chỗ Phật để cầu cứu giúp, nhớ nghĩ đến ơn Phật rộng lớn, sợ không giải cứu mạng khẩn cấp. Nghĩ đến Xálợi-phất, Mục-kiền-liên v.v.. cũng e không thể cứu giúp mạng, chỉ có Đại Ca-diếp, dùng sức của định Diệt tận mới có thể cứu giúp côn nguy cấp, liền đến chỗ Ca-diếp. Khi đó, Tôn giả Ca-diếp chuẩn bị đến độ phước cho một nhà nghèo. Thiên Đế Thích bèn nghĩ: Muốn hiện ra thân trời, nhưng e Ca-diếp sẽ không nhận thí của mình bèn hóa ra túp lều tranh nơi giữa đường, có bệnh nhân đau ốm ở đó. Ca-diếp tới khất thực, bệnh nhân vội vói tay ra thí cho thức ăn, Ca-diếp đưa bát nhận, thức ăn biến thành cam lộ, Đế Thích liền hiện trở lại thân trời, đứng giữa hư không. Ca-diếp nói: “Vì sao nói dối, đánh lừa ta ư?” Đế Thích đáp: Không nói dối, Tôi chí thành thí cho. Tôi là Thiên đế, vì năm điềm ứng hiện sắp mạng chung, nên đến đây, để cầu nguyện, xin cứu giúp mạng tôi.
Ca-diếp liền mặc nhiên chấp nhận. Đế Thích đến chỗ Phật nghe pháp, ít phút sau là ngủ, ngủ rồi thức dậy. Đức Phật nói với Đế Thích: “Trước đây, ông đã chết. Nay ông đã sống lại. Sẽ không mạng chung nữa, trở lại thân cũ”.
Đấy là Đế Thích đã cảm được sức của định Diệt tận ở nơi Ca-diếp. Sở dĩ Ca-diếp dùng sức của định Diệt tận tối thắng, vì lẽ Ca-diếp vốn là Bíchchi-Phật. Luận về pháp, thì Bích-chi-Phật, không thuyết pháp, không giáo hóa, chuyên dùng thần túc cảm động, dùng tam muội biến hiện. Đại Ca-diếp, tuy lại là A-la-hán thủ chứng, nhưng gốc của thức vẫn tồn tại. Trước kia đã ghi chép tám vạn bốn ngàn các công đức, chủ thể, đối tượng đức và cảm, ngang bằng với Ca-diếp.
Vấn nạn: “Vì Ca-diếp vốn là Bích-chi-Phật, nên khen định Diệt tận kia là hơn cả. Vậy các A-la-hán nầy, lại là Bích-chi-Phật ư ?”
Đáp: “Mặc dù không phải là Bích-chi-Phật, nhưng luôn tập định Diệt tận, nên uy lực của họ là đồng. Chính vì thế, nên nói: “Ca-diếp là ruộng phước của chúng tăng, chúng sinh”. Kệ: “Trọn đắc A-la-hán, tâm giải thoát”, là Câu giải thoát”. Kệ: “Đã cởi mở chỗ trói buộc vướng mắc, là ruộng phước” nghĩa là Ca-diếp đã tập hợp tám vạn bốn ngàn chúng, đều đắc Câu giải thoát, vì định Diệt tận có khả năng khiến cho chúng sinh, đời nầy thoát khổ, về sau, giúp chứng được Niết-bàn, nên nói là chỗ ruộng phước”.
Kệ nói: “Kiết tập bốn bộ”, là nói sơ lược. Về lý, lẽ ra bốn bộ, biểu hiện lại có tám bộ: Người, Trời, Sát Đế Lợi, Bà-la-môn, Trưởng giả, Sa-môn, bốn Thiên vương, trời Ba mươi ba, Ma vương, Phạm vương, đấy là tám bộ. Gồm có mười hai bộ, nói bốn bộ, nghĩa là chỉ đơn cử chủ yếu của các bộ đó.
“Các pháp rất thâm diệu”: Như nghĩa của mười hai nhân duyên. Đức Phật vì Tôn giả A-nan, nói mười hai nhân duyên vi diệu sâu xa. A-nan nói:
“Nhân duyên nầy có sâu xa, vi diệu gì đâu?” Đức Phật nói với Tôn giả A-nan:
-Chớ nói không sâu xa, vi diệu! Đời trước của ông, lúc ấy, cũng nói không sâu xa. Xưa, có A Tu Luân Vương, thân dài tám vạn do tuần, tướng môi trên, dưới cách nhau ngàn do tuần. Vua có đứa con nhỏ, thương yêu đứa con nầy, ôm đặt lên đầu gối. Biển sâu ba trăm ba mươi sáu vạn dặm. A Tu Luân đứng ở giữa, chỉ ngang bằng với rún, bụng, đứa con thấy cha như vậy cho là, biển cạn, muốn được lội xuống nước. Người cha nói không thể, vì biển sâu, sẽ nhận chìm mất con, nếu con muốn được vào, cha sẽ thả con xuống! Đứa con bị chìm tận đáy biển, hoảng sợ, than thở, người cha vội duỗi tay nắm con lại, đưa lên khỏi mặt nước và nói: “Ta đã nói, là con không thể, mà con không tin! Hôm nay chuyện ấy giống ai? Vị vua bấy giờ, chính là thân ta, còn đứa con bé nhỏ kia là ông. Ngày xưa, ông không tin biển sâu; nay lại cố không tin. Ông chỉ tư duy Vô minh duyên Hành, hãy còn không thể hiểu rõ, huống chi là hiểu rõ ba mươi bảy phẩm?
Đức Như Lai đã nói đến bốn điều không thể nghĩ bàn. Những gì là bốn? Chúng Sinh là không thể nghĩ bàn, thế giới là không thể nghĩ bàn, Rồng không thể nghĩ bàn; Phật không thể nghĩ bàn.
Sở dĩ thế giới không thể nghĩ bàn, là vì khi xưa, Mãn Nguyện Tử cùng bàn luận chung với Phạm chí. Phạm chí tự nói: “Tôi đã từng đến trên mặt nước ao để tư duy, thấy có bốn thứ chúng binh chủng tới, rồi vào trong lỗ hoa sen, tôi lấy làm kinh ngạc, không biết do bị hoa mắt hay là có thật. Tôi đem chuyện này kể cho người khác nghe, họ đều không tin, ta bèn đến chỗ Phật thuật lại những gì mình đã trông thấy. Đức Phật nói như vầy: “Đấy là sự thật, không phải giả dối. Vì A Tu Luân khởi bốn binh chủng chiến đấu với chư thiên. A Tu Luân đấu không lại, rút lui vào trong lỗ hoa sen để ẩn núp. Đấy chẳng phải là việc tư duy mà đạt tới được. Vì vậy nên nói thế giới là không thể nghĩ bàn.
Hoặc nói thế giới là do Phạm Thiên tạo ra, hoặc nói do sáu trời tạo ra. Phạm chí lại nói: “Phạm Thiên do ai tạo ra? Hoặc nói: “Phạm Thiên có cha”, hoặc nói: “Tự tạo”.
Nói: Có cha, cha tức hoa sen. Có người nói: “Hoa sen từ đâu ra?”.
Đáp: “Từ trong rốn của Ưu-đà-diên phát ra”.
- Ưu-đà-diên từ đâu ra?
- Từ Tán Ta Vương ra. Lại nói:
- Tán Ta Vương ra, mang họ gì?
- Dòng Sát Đế Lợi. Lại nói:
- Phạm Thiên là dòng Bà-la-môn, nay lại nói do Sát Đế Lợi sinh ra, là nói gì vậy? Lại nói:
- Thời kỳ kiếp bị đốt, phần thô có thể được riêng.
- Vì sao nói thế?
Đáp: Kiếp, khi bị đốt, từ mé đất trở lên, đến mười lăm trời, đều cháy rụi hết, tương tự có thể biết như vậy. Tuy nhiên, từ trời mười sáu lên đến trời Ba mươi ba thì tồn tại. Trong đấy dù bị đốt, thế giới khác vẫn tồn tại. Đem sự kiện nầy để nói, mà lại không thể biết hết là vì thế giới là không thể nghĩ bàn.
Vì sao cho chúng sinh là không thể nghĩ bàn? Hoặc nói: “Sau kiếp bị đốt, nước bổ sung chỗ lửa, theo gió thổi, tạo ra cung điện xong. Ở phía dưới có đất phì nhiêu, là trời Quang Âm, phía trên là chúng chư Thiên, dạo chơi trên đất, dần dần mến vị phì nhiêu của đất, ấy là thân trở nên nặng nề, không thể quay trở lại. Vì ăn nhiều hóa làm người nữ. Chuyển biến giảm đến mức phải ăn bánh mỏng, gạo hẩm, mất hào quang sáng, thần túc, lại trở lại làm người, làm việc thiện, sinh lên trời, làm điều ác, thì bị đọa vào ba nẻo khổ, lưu chuyển trong năm đường, không nhất định. Giả sử muốn tra cứu cho tường tận gốc rễ của một con người do đâu có, hãy còn là điều khó có thể biết được, huống chi lại là tất cả chúng sinh, mà có thể tư duy lường tính! Chúng sinh không thể nghĩ bàn là vậy.
Rồng không thể nghĩ bàn là sao?
Phàm khởi mây, gây ra mưa, đều do ở Rồng làm. Mưa, từ mắt, tai, mũi, miệng Rồng phát ra, hay là từ thân phát ra? Hay từ tâm phát ra?
Dựa vào núi Tu Di, chỉ có năm hạng trời, cũng có thể làm mưa, vậy lấy gì để phân biệt là rồng mưa, trời mưa?
Trời mưa thì sương mù mỏng ít xuống thấp là trời mưa, sương mù dày thô xuống thấp là rồng mưa.
Năm hạng trời đó là:
1. Khúc Cước thiên
2. Đảnh Thượng thiên
3. Phóng Dật thiên
4. Nhiêu Lực thiên
5. Tứ Vương thiên
Lúc A Tu Luân kéo binh lên trời chiến đấu, trước hết là chiến đấu với Khúc Cước thiên, được thắng, sau đó, đến Đảnh Thượng thiên, tiếp đến là
Phóng Dật thiên và với Tứ Vương thiên, cho đến trời Ba mươi ba. Bốn trời dưới, khi muốn chiến đấu, chỉ dùng mưa để chống địch, lại không có binh và gậy.
Có hai thứ mưa: Mưa hoan hỷ, mưa giận dữ. Mưa xuống điều hòa là mưa hoan hỷ. Sấm chớp, sét đánh thình lình là mưa giận dữ.
A Tu Luân cũng mưa, Trời cũng mưa, Rồng cũng mưa. Vì mỗi bên đều gây mưa, về lý không thể phân định, nên nói Rồng mưa không thể nghĩ bàn là vậy.
Phật không thể nghĩ bàn: “Khi xưa, Đức Phật ở tĩnh thất, các Phạm thiên nhiều như số cát sông Hằng, đến chỗ Phật, muốn biết đức Phật đang ở trong Tam muội nào, thế mà không thể biết là đang ở nơi tam muội trong định nào? Như thế, việc biến hiện bí mật của thần túc, mà hàng Nhị thừa đã không thể nghĩ bàn, huống chi là phàm phu! A-nan suy tôn Ca-diếp trước, rồi nói: “Trưởng lão là bậc Kỳ niên nên chịu trách nhiệm vì chúng mà diễn nói pháp. Vì sao? Vì cái học của Tôn trưởng đạt đến chỗ cao tột, nhiều nhận thức, đã được Đức Thế Tôn ủy thác, vì chúng sinh trong đời vị lai, muốn cho chánh pháp được tồn tại lâu ở đời, vả lại có lần Như Lai nhường nửa tòa ngồi và nói: “Nhân tôn đã là Thượng tọa của chúng Tăng. Hơn nữa, trí huệ rộng rãi, bao quát, mong Nhân tôn luôn rủ lòng xót thương tuyên nói pháp báu!”
Sư nước ngoài nói: “Tôn giả Ca-diếp sở dĩ không thuyết pháp, là vì ở trong bốn biện tài, đã không có Từ biện”. Lại có người nói: “Ca-diếp vốn là Bích-chi-Phật, chỉ dùng thần túc hóa hiện, nên đầu tiên là không diễn nói pháp”.
Ca-diếp khiêm nhường đáp: “Ta già cả, lòng tối tăm, phần nhiều hay quên”.
Đáp: “Pháp chơn bốn đế, há có thể suy kém, quên mất ư ? Nó ví như Kim cương, không thể hao hụt, chỉ bốn đại sinh, tử là có tăng, giảm thôi”.
Luận gia Tát-bà-đa-gia lại nói: “Chín hạng La Hán có thối chuyển. Do mấy việc thối? Có bốn việc: Tuổi già sức yếu, bệnh khổ bức bách; ưa đi dạo xa; uống thuốc không thuận. Vì bốn việc nầy, mới có lầm lẫn, quên mất mà thôi. Diệu huệ chơn đế, há có thể quên ư ?”
Ca-diếp khuyên A-nan: “Hiện nay, với tuổi tác ông đang ở vào thời kỳ thịnh vượng, thêm vào đó, còn có văn, trí, đẳng trí, tổng trì mãnh mẽ mọi thứ ghi nhận. Mỗi lần Phật nói kinh, thường căn dặn nhiều ở ông. Vì thế, nên ông phải tuyên bố kinh pháp”.
Vì sao biết A-nan có đẳng trí?
Xưa, phía đông thành Xá Vệ, có cây to Ni Câu Loại, tàng cây che mát năm trăm cổ xe. Trong thành, có một Phạm chí, giỏi về thuật bói toán, là đệ nhứt trong chín lăm thứ (ngoại đạo). Một hôm, ông ta gặp Tôn giả A-nan ở dưới tàng cây nầy, nói với A-nan: “Đệ tử của Cù Đàm trí huệ là bực nhứt.
Việc nầy có thật không?” Đáp: “Có biết một ít thôi!”.
Phạm chí nói:
- Tôi muốn hỏi một việc: “Cộng, lóng, cành, lá của đại thọ này, có bao nhiêu cái?”. A-nan ngẩng đầu lên nhìn cây, bèn đáp: “Cọng, lóng, cành, lá của cây nầy, đều có ngần ấy. Nói rồi liền bỏ đi. Sau đó, Phạm chí có cảm nghĩ: “Sa-môn nầy chắc chắn không biết về số, chỉ thấy rồi đáp mà thôi. Nay ta sẽ thử nghiệm lần nữa, liền đến mỗi chỗ, nhặt lấy sáu mươi chiếc, đem chôn giấu trong đất. Khi A-nan đi khất thực rồi trở lại; ông ta lại hỏi: “Trước đây, tôi quên mất số, vậy ông hãy nói cho tôi?”
A-nan ngẩng đầu lên nhìn cây, lại nhìn khắp, rồi đáp:
- “Vì sao lá cây nầy lại ít ?”-Phạm chí nói:
- Ít là bao nhiêu chiếc?
- Đáp:
- Ít sáu mươi chiếc.
Phạm chí vội vòng tay cảm tạ:
- Thật chưa từng có!
- Lại hỏi:
- Ông là La Hán ư ?
- Không phải!
- Là A-na-hàm, Tư-đà-hàm ư ?
- Chẳng phải!
- Là Tu-đà-hoàn ư ?
- Vì sao lại hỏi?
- Có thầy ư ?
- Có. Vương tử Chơn Tịnh, xuất gia, được thành Phật, tức là thầy ta. Phạm chí cảm nghĩ: “Trí của sư giả nầy, không phải là sở tri của mình. Tức thì đi theo đến chỗ Phật để mong cầu làm Sa-môn, liền được A-la-hán.
Do vậy mà biết được Tôn giả A-nan có đẳng trí.
Sở dĩ A-nan suy tôn Ca-diếp trước, là vì Cadiếp đã là Thượng tọa, lại là bực được Tôn quý. Xưa, đã năm trăm đời, Ca-diếp thường làm cha của A-nan. Nhận thức được đời trước, A-nan tôn kính, ngưỡng mộ, nhờ dựa vào tình thâm.
Sở dĩ Ca-diếp ân cần đối với A-nan, là vì xưa kia, Ca-diếp đã chứa duyên thuần hậu, để lại ôn kế thừa cuối cùng. Thêm vào đó, lại là người học rộng, đẳng trí, ghi nhớ mạnh mẽ trên hết trong đại chúng, người mà lần đầu đã kiết tập để lại tám vạn sách. Hai người rất cần nhau, cũng như người mù, què nhờ vả nhau, làm lợi lẫn nhau. Nếu hai người cùng chung sức sẽ như khối vàng ngàn cân khó đoạn, có muốn chia cắt, sức không có chỗ hơn, có muốn phân biệt cũng khó thêm công sức vào. Ở đây, cả hai cùng hợp tác sẽ gom về sức mạnh giữ gìn, đạt được công dụng to lớn. Có thể nói rằng cả hai trí tuệ Ca-diếp, A-nan, đúng như dụ kia, hai người nhứt tề kết hợp thì pháp báu chắc chắn trường tồn.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan nói vô lượng kinh. Ai có khả năng kiết tập đầy đủ sẽ thành một tụ, nên nói là mười sự. Hoặc nói mười sự, lại biện luận là hai sự. Hoặc nói là ba sự, lại bàn luận mười một sự, trên dưới không có trình tự, không được làm một tụ.
Hoặc có thuyết nói: “Như Lai nói pháp hoặc nói giáo giới, hoặc nói đoạn trừ kiết sử, hoặc nói về sự sinh trong cõi người, Trời. Do lại không được làm một tu, nên A-nan suy nghĩ: Một là từ một. Hai là từ hai. Ba bốn năm sáu cho đến mười, mỗi tụ cứ như vậy khiến cho loại sự vướng mắc nhau”.
Hoặc có thuyết nói: “Về lý, không thể như thế, vì xét lời Phật nói, không thể có trình tự so sánh. A-nan lại suy nghĩ Kinh pháp rộng lớn, nên chia ra làm ba tụ. Với lại, A-nan, một mình nẩy sinh ý niệm: “Thủ Đà Hội thiên đã mật bảo với A-nan: “Đúng là nên tạo ba phần”. Ví như trời đã mách bảo, liền quyết tạo ra ba phần:
1-Phần Khế Kinh
2- Phần Tỳ Ni
3- Phần A Tỳ Đàm
Khế kinh: Là những Pháp đức Phật đã giảng nói, hoặc cho hàng chư Thiên, đế vương, hoặc cho những kẻ dị học ngoại đạo, tùy thuộc vào sự việc mà phân biệt, ai cũng đều được mở mang chỗ thấy hiểu cho mình.
Khế: Cũng như sợi chỉ xâu liên tục những nghĩa lý, khiến cho thành pháp để hành, nên nói là Khế.
Tỳ Ni: Là Luật cấm. Vì hai bộ tăng, Phật nói ra là để kiểm điểm xấu ác, tra xét sai quấy, hoặc hai trăm năm mươi hoặc năm trăm điều, chỉ dẫn pháp, đề phòng gian, cũng như kho tàng bí mật của nhà vua, không phải sở ty của các quan bên ngoài, nên nói là tàng nội. Tạng giới luật nầy, cũng như thế, chẳng phải Sa Di, thanh tín sĩ, nữ có thể nghe, thấy được, nên nói là Luật tạng.
A Tỳ Đàm: Nghĩa là pháp lớn. Sở dĩ nói lớn, là vì có trí tuệ lớn của Tứ đế, là cờ hiệu nối liền các pháp, đoạn trừ ngu si to lớn là các tà kiến, vô minh nên nói là pháp lớn, cũng gọi là pháp Vô Tỷ. Tám trí, mười huệ, chánh kiến, vô lậu, vượt ngoài ba cõi, ngăn chận không có gì bằng, nên nói là pháp không thể so sánh (vô tỷ).
Ca Chiên Diên Tử soạn, tập các kinh, sao chép những phần chính yếu, trình Phật đồng ý, nên gọi đại pháp tạng.
A-nan lại suy nghĩ: “Nghĩa của ba tạng nầy tương ưng với ba giải thoát. Khế kinh là gì mà sao lý diệu huệ hợp với không?” Luật cấm ngăn được ác, sự huyền diệu ngang bằng vô tướng. Chánh kiến của pháp lớn lại giống với vô nguyện. Cho nên mới nói: “Ba tạng, ba thoát là dấu vết ngầm khế hợp sâu xa”. A-nan lại suy nghĩ: “Nghĩa gốc của khế kinh đã được chia làm bốn đoạn. Vì sao nghĩa, văn vẫn lẫn lộn? Cần phải dùng sự, lý phù hợp với lớn nhỏ để có trình tự phù hợp. Thứ nhất là Tăng nhứt; tiếp theo gọi là Trung, thứ ba, gọi là Trường, thứ tư gọi là Tạp. Lấy nhứt làm gốc, theo trình tự đến mười. Vì một hai ba tùy vào sự tăng thượng, nên gọi là Tăng nhứt.
Trung là Không lớn, không nhỏ, không dài, không ngắn, sự việc vừa phải, nên nói là trung.
Trường là thuyết minh về sự lâu xa; trải qua nhiều kiếp, không đứt mất nguyên do gốc, ngọn của các sự, lại trải qua bảy vị Phật, Thánh vương, bảy báu; nên nói là trường.
Tạp là các kinh đoạn trừ kiết, khó tụng, khó ghi nhớ. Về sự, thì phần nhiều xen tạp sự vui vẻ, vụn vặt, khiến người ta hay quên, nên nói là Tạp.
A-nan soạn ba tạng, ghi chép mười kinh làm một kệ. Vì sao thế? Vì sợ người tụng tập trong vị lai quên, hiểu lầm nên làm kệ nhớ đến gốc, suy nghĩ, tự mình tỏ ngộ, nên dùng mười kinh làm một kệ.
Gọi là tạp tạng ấy, chẳng phải là một người nói, hoặc Phật đã nói, hoặc đệ tử đã nói, hoặc lời tụng ca của chư thiên, hoặc nói về nơi giáng sinh của Bồ Tát trong ba A-tăng-kỳ của duyên đời trước, và vì nghĩa văn không phải là một mà có nhiều trong ba tạng, nên nói là tạp tạng.
Khi Phật còn tại thế, vua A Xà Thế hỏi Phật về sự nghiệp tu hành của Bồ Tát, đức Như Lai đã vì vua mà nói pháp cụ thể. Giả sử nhà vua hỏi Phật:
- Sao nói là pháp? Phật đáp:
- Pháp tức là Bồ Tát tạng. Các chánh kinh phương đẳng, đều là sự trong Bồ Tát tạng. Trước kia, khi Phật còn tại thế, cũng đã gọi là Bồ Tát tạng, người soạn thuật là Tôn giả A-nan, tức bốn tạng hiện nay, nói tổng hợp, là năm tạng.
Hoặc có nghĩa của một pháp, cũng sâu xa, khó trì, khó đọc tụng, không thể ghi nhớ, (Một pháp, tức là pháp không, không hình, không tượng, không thể hộ trì), vẳng lặng, không có tiếng, không âm vang, không có tâm, không có niệm, lắng bặt, không có tưởng, là Tối đệ nhất không, không có nghĩa thứ hai. Không đong không lường nên khó hộ trì. Không có ngôn từ để diễn giải nên khó đọc tụng. Không có ý để có thể suy nghĩ, nên nói chẳng thể nhớ. Gọi là nghĩa thâm diệu của các sự là như vậy.
Lại nữa, một pháp, là gốc của các số. Số một là bắt đầu, số mười là sau cùng. Sau số mười, lại khởi từ số một là chính, cho đến ngàn vạn, thường bắt đầu ở con số một. Như thế, các con số một không thể tận cùng.
Trong các kinh, hoặc một nghĩa, một pháp, một hành, một sự, mỗi thứ đều theo nhau và không mất đi manh mối của chúng, nên nói: “Mỗi mỗi theo nhau, không mất manh mối”.
Hai pháp căn cứ ở hai. Hoặc nói thiện-ác, hoặc nói chỉ-quán, hoặc nói danh-sắc. Chỉ, nghĩa là hư, quán, nghĩa là thật. Chỉ, nghĩa là định tam muội, lắng bặt tưởng diệt, vì mờ mịt, mất ý như thế, nên nói là hư. Quán, sở dĩ nói là thật, là vì người kia phân biệt có hành, là không phải tốt, xấu, vì thức hiểu rõ sáng suốt riêng lẽ, ý không mê lầm, tán loạn, nên nói là thật.
Ba pháp căn cứ ở ba. Ba đó là bố thí, là công đức, là suy nghĩ. Ba pháp nầy là pháp tu hành của thế tục để sinh lên cõi Trời. Ba môn giải thoát mới là pháp tu hành đến Niết-bàn. Lại có nhiều Ba pháp: ba hạnh, ba phước, ba phần pháp thân, ba, ba theo nhau, dụ như liên châu.
Bốn pháp căn cứ bốn. Năm cũng như thế. Tiếp theo năm pháp là sáu, tiếp theo sáu là bảy. Nghĩa tám pháp rộng; mười là tiếp theo chín. Pháp từ mười đến mười một.
Các số như thế, đều giống với hai, ba loại việc theo nhau.
A-nan liền lên tòa ngồi. Tòa là tòa sư tử. Sở dĩ kinh dụ cho tòa sư tử, vì sư tử là vua trong muôn thú, thường xuyên cư trú ở chỗ đất cao ráo, không ở nơi thấp trũng, nên dụ tòa cao. Vả lại, được nhận lấy vô úy của Phật, A-nan lại học rộng vô lượng, trong hàng Thanh văn, một mình bước lên chẳng sợ hãi gì nên nói là tòa vô úy (A-nan bước lên tòa cao như thế đấy). Đức Di Lặc khen: “Lành thay, vui thay! Thuyết minh (Di Lặc sở dĩ hạ mình là vì sợ A-nan hợp với pháp Bồ Tát ở ba tạng, đại, tiểu không riêng lẻ) như vàng đồng xỏ một dây. Với lòng ân cần, khuyến thỉnh phân chia bộ.
Xưa, Đại thiên Thánh Vương có đủ bốn Phạm đường, lần lượt nối nghiệp nhau, cho đến bốn vạn tám ngàn vị vua đều có Phạm đường, chỉ Đại thiên mới có một người là Bồ Tát. Ngoài ra, đều là tiết nhỏ. Do cách nói như vậy mà đại thừa khó biện biệt, vì đa số hướng theo nẻo Thanh văn. Bồ Tát Di Lặc cũng biết, bộ của A-nan cũng phân ra ba tạng. Tuy nhiên, cũng còn sợ hậu học chỉ chuyên tập pháp không, đoạn trừ kiết, thủ chứng, dùng nó biểu dương sáng tỏ Đại thừa, nên phải chia làm tạng riêng. Vì vậy mới nói về hạnh của sáu độ là mục tiêu chính yếu của Bồ Tát.
Bố thí có hai thứ: Có tín thí, có khủng bố thí. Lập căn được nhẫn, thì nói là tín thí. Do oai lực bức bách, không do bổn tâm, thì gọi khủng bố thí. Tín thì thành độ. Sợ ắt cầu phước. Điểm khác biệt của đạo, tục không đợi nói mà tự biết khác. Người kia nói: “Thí cho đầu mắt, là Trụ thứ bảy trở lên, thí của vật, là Trụ thứ sáu trở xuống. Từ đây thối lui, không rơi vào vòng sinh tử, chủ yếu đến Niếtbàn”.
Lấy gì để minh chứng?
Trong Đại phẩm bổn vô, có nói: “Sáu mươi Bồ Tát được đạo La Hán”. Sự kiện nầy minh chứng điều đó.
Giới như Kim cương là giới đại thừa. Giới như bình sành, bình gỗ, là giới Tiểu thừa. Vậy là sao? Kim cương, nghĩa là không thể hủy hoại. Xưa, có vị Tỳ-kheo Bồ Tát đoan nghiêm không ai sánh bằng, ra đi để khất thực. Giữa đường, gặp một thiếu nữ đẹp đẽ. Thiếu nữ ngắm nhìn Bồ Tát ấy và khởi ý dục, muốn làm vợ chồng, tự suy nghĩ: “Đồng với người nầy, thì không thể được, chỉ ngồi chung thôi! Ấy là ta đã phát ý vô thượng!”
Biết được tâm thiếu nữ, Bồ Tát bèn ngồi trước thiếu nữ. Chỉ trong khoảnh khắc, thiếu nữ kéo Tỳ-kheo ngồi sát trước mình, Tỳ-kheo yên lặng không đáp. Thiếu nữ lại càng ngồi sát vào người Tỳ-kheo, nhưng cố giữ cho yên lặng. Vị Tỳ-kheo liền thuyết giảng cho thiếu nữa về pháp không.
Mắt ta vốn từ đâu đến? Sẽ đi đến chỗ nào? Muốn nói từ cha, mẹ đến ư ? Lúc chưa gặp nhau, cũng không có đôi mắt ấy; đến sau nầy, khi mắt đã hủy nát, lại đến nơi nào? Do đấy mà nói, mắt không có sở hữu, năm tình (căn) cũng như thế. Thiếu nữ bỗng thông suốt hiểu rõ Không, chứng đắc Tu-đà-hoàn. Lẽ ra phải thuyết giảng cho thiếu nữ về Hữu, lại nói về pháp không, pháp Bồ Tát phải nhập Hữu mà nói không, là do không hoàn toàn là bản ý.
Lúc đó, A-nan trông thấy vị Tỳ-kheo nầy ngồi với thiếu nữ, là vi phạm oai nghi của Tỳ-kheo, liền trở lại bạch Phật: Con vừa mới trông thấy Tỳ-kheo ngồi chung với thiếu nữ. Do đã biết trước việc nầy, nên Đức Phật vẫn yên lặng. Vị Tỳ-kheo nọ cũng biết A-nan đã bạch với Đức Thế Tôn nên thưa: “Con nghĩ, đúng ra, không qua đó, e, người ta sẽ chê bai, phạm tội đọa, chính là con định biến hiện, nhưng Phật đã không cho, nên con bay thẳng đến chỗ Phật”. Phật nói với A-nan:
-“Như ông thấy Tỳ-kheo phạm luật, nay chính là Tỳ kheo vừa bay đến đây. Ông có khi nào thấy người phạm dục, có thể bay được không? Vị Tỳ-kheo nầy, trước đó, đã ngồi chung với người nữ, là lúc ấy, vì người thiếu nữ tâm niệm: Vị Tỳ-kheo ấy ngồi chung với ta, ta phải phát ý Vô thượng! Vị
Tỳ-kheo, biết được ý của người thiếu nữ, liền cho ngồi chung, rồi còn thuyết giảng cho thiếu nữ về pháp không, phân biệt đôi mắt không, năm tình (căn) cũng như thế. Thiếu nữ vội e sợ, đó là đã được dấu ấn Đạo. Do tâm e sợ ấy, nên nẩy sinh ý sợ sinh, tử, tức đạt được tiểu thừa. Nếu vị Tỳ-kheo nầy, trước đó, giảng nói cho thiếu nữ về hành Hữu thì sẽ trở lại bổn tâm, và sẽ biết Bồ Tát ấy, chưa thành bất thoái, đối với quán tâm người chưa thật khéo léo. Cho nên, Bồ tát giữ giới đó được gọi là giới Kim cương ».
Gọi là nhẫn độ: Thấy mắng, thấy chê bai, vẫn yên lặng tiếp nhận, không đáp trả, Bồ Tát thực hành nhẫn, thường dùng lòng từ bình đẳng như nhau đối với người kia và ta. Người kia, và ta đã ngang bằng nhau, đối với oán, thân, không oán không thân, nên kinh nói: “Lòng từ của Tiểu thừa, cũng như bên ngoài da lòng từ của Bồ Tát thấu suốt xương tủy”.
Lấy gì để chứng minh sự kiện đó?
Nếu người cắt đứt tay chân của Bồ Tát, thì sẽ biến thành sữa. Tức là chứng minh về tâm từ. Tỳ-kheo nhẫn nhục là người đã thực hiện được sự việc đó. Dụ như người mẹ sinh con, ấy là có sữa chảy ra. Ý niệm về lòng từ nầy đã có sự cảm nhận, tự nhiên biến thành. Bồ Tát như thế, vì nhập Tâm từ tam muội , nên có công năng chiêu cảm sữa, đó là hành từ bi đến nơi đến chốn, nên mặc dù tay cầm cung, tên, nhưng trái lại chúng sinh đến nương tựa mình! Hành từ không triệt để, dù không cầm gậy, nhưng hễ chúng sinh trông thấy đều bỏ chạy.
Do chứng cớ nầy, nên điểm khác biệt của Đại thừa, Tiểu thừa cũng tự nhiên phân có thôi.
Người tạo ra hành vi thiện, nếu thực hành tinh tấn thì sẽ tạo ra các công đức thiện. Kẻ hành động ác: Cũng như xưa, Đồng tử Hỏa Mạn chê bai Phật Ca-diếp: “Sa-môn đầu trọc có đạo gì? Đạo khó được, mới có thể được đạo”. Do đấy, mà về sau phải chịu, khổ nhọc suốt sáu năm mới có thể đắc đạo. Trong pháp di chúc, các Tỳ-kheo thường tranh luận về giai thoại nầy: “Cũng như quả báo của miệng không đáng nói, mà nói sáu năm khổ hạnh, nghĩa là quả báo không đáng tu hành mà tu hành. Đây là hành vi ác nơi thân, miệng của Bồ Tát”.
Thiền định, nhập tịch, lặng bặt, không lay động. Trí huệ nhận biết số vi trần và số cát sông Hằng, hồi ức về năm tháng không thể tính kể, huệ sáng suốt đã hiểu rõ là không thể cùng tận. Sáu độ này là sự vô cực, hết thảy đều ở tạng Bồ Tát, không hợp với ba tạng. Tôn giả A-nan muốn cho nhân duyên đặc thù của Đại, Tiểu thừa, mà họ cũng không cùng biết nhau, Lý là tự không, khó có thể hiểu rõ một cách sáng suốt. Bồ Tát nghi không ấy, vì không thủ chứng, nên nói là hồ nghi.
“Bồ Tát Di Lặc khen rằng tốt”: Vì đã kiết tập pháp lớn sáu độ ấy làm một phần, đấy tức là Bồ Tát tạng.
Đoạn kiết: Nghĩa là đoạn trừ các kiết sử vọng kiến. Sự việc thành đạo quả Đại thừa là Nhất thiết trí. Tôn giả A-nan chỉ nói nghe, không nói thấy, chả lẽ không thấy Như Lai thuyết pháp sao? Sở dĩ nói thấy là vì chẳng phải vậy, là vì bốn bộ trong vị lai mà không được nói thấy. Giả thiết nói là thấy, thì bốn bộ chúng sau nầy, lại vâng theo A-nan, nói thấy thì là giả dối. Do vậy, nên chỉ nói là nghe mà không nói thấy là như thế.
Đầu tiên, Phật thuyết pháp, hóa độ năm người như A Nhã Câu Lân v.v.. Ở nước Ma-kiệt-đà, thu phục ba anh em Ca-diếp. Thích Sí tức Ca Tỳ La Vệ. Nếu không được nêu nơi chốn nói kinh, chỉ xưng tại Xá vệ vì Phật ở Xá Vệ trải hơn hai lăm năm. So sánh với các nước, thì Phật ở đấy rất lâu. Sở dĩ ở lâu, là vì nước ấy tươi đẹp, với nhiều loại châu báu, dân chúng đông đúc thịnh vượng, rất có nghĩa lý.
Tinh Xá Kỳ Thọ, có thần nghiệm khác thường. Ngay khi chúng Tăng đang tụ tập ở giảng đường, các khỉ vượn, có đến vài ngàn con tụ tập ở bên trái, phải để xem, nghe. Cảnh trí tịch mịch, không có tiếng động, các loài chim khắp mọi nơi đều tụ tập về đây. Đúng giờ nghỉ, chúng Tăng đều trở lại chỗ nghỉ của mình, khi có tiếng kiền chùy thì lại đến tập họp.
Ở đây, do đất nước có nhiều người nhân từ, nên đủ các loài đến nương tựa Phật, hoặc là nơi tạm đừng để thọ thỉnh, hoặc là chỗ ở gốc, để từ đấy dùng thần lực đến các nơi khác hóa độ, rồi có chỗ trở về. Do vậy chỉ xưng Xá Vệ, là đủ biết sự quan trọng của chỗ nầy. Tại trú xứ này có tên của hai người: Kỳ Hoàn, Cô Độc, được gọi rất riêng biệt vì hai người ấy, nay đang ở trên cõi Trời; trước khi mất cũng tập họp chư Thiên, thuyết pháp, giáo hóa. Bấy giờ, có tâm niệm: “Chúng ta vốn là đàn việt đầu tiên của chúng Tăng, tên gọi của chúng ta há không được khen ngợi ư? Vì muốn thích hợp với tâm niệm kia, nên mới gọi riêng tên hai người.
“Nói sẽ tu một pháp...”. Nghĩa là cũng chẳng phải thuyết pháp theo trình tự. Xét về việc Phật thuyết pháp, khi đầu tiên thành đạo, phải từ vườn Lộc Dã, ở thành Ba La Nại, nói bốn đế là bắt đầu. Tiếp theo, đến Ma Kiệt, thâu phục ba anh em Cadiếp, nhân đó mà gọi tên của chủ Tinh xá kia. Lại nữa « nói sẽ tu một pháp », nghĩa là dùng một pháp nầy cùng với bốn pháp, thì nghĩa vị ấy cũng không khác, vì một pháp cũng đoạn kiết, bốn pháp cũng đoạn kiết, tất cả đều cùng tiến đến Niết-bàn, nẻo đường thì khác mà vẫn quy về một chỗ.
Tổng số kiết là hai mốt, diễn nói thành ba sáu, về số dù có đầy, vơi, nhưng đều là kiết. Thông thường thì sự có một trăm, một khi mở ra, lại là tám vạn bốn ngàn, là vì một pháp thì dù với ngàn, vạn cũng đều thẳng tiến tới đạo mà thôi; cũng như sư tử giết voi, voi giết thỏ, đều cùng là cái chết. Do nghĩa lý không khác biệt, cho nên đều khởi đầu từ một pháp. Không phóng dật, là tôn chỉ của một pháp.
Hoặc có ý hỏi: “Giới lẽ ra phải ở trước, vì trước hết là phải vâng giữ giới, sau đó mới nhớ nghĩ đến ba Tôn”?
Hoặc có ý nói: “Đấy chỉ là người mới học; trước nghĩ đến ba ngôi, tức ba tự quy, vận dụng ý ở Phật, Pháp, Chúng, để tiếp theo, thọ giới, do đấy mà nói đến giới. Giới nên ở sau dứt niệm thứ tư, giải thích: “Nghĩ đến nỗi khổ của thân nhàn tĩnh, nghĩa là quán thân với ba mươi sáu vật bất tịnh mà phát lồ việc xấu ác của mình, để tự giác ngộ, có thể nhờ vậy mà thành đạo”.
Lấy gì để chứng minh?
Xưa, có Tỳ-kheo ở A-luyện-nhã, đi khất thực, gặp con gái của một trưởng giả cùng khất thực. Người nữ và Tỳ-kheo, thảy đều đoan nghiêm. Người con gái khi thấy Tỳ-kheo, bèn khởi tưởng dục. Tỳ-kheo trông thấy cô gái, cũng khởi ý dục, ý động, tay run, nên trút cơm vào bát, làm rơi vãi xuống đất, cô gái tự cười tinh quái. Tỳ-kheo thấy răng cô gái trắng quá, liền tự giác ngộ: “Trong miệng cô gái chỉ là xương thô xấu, như lời Phật đã nói: “Trong thân người có ba trăm hai mươi xương, có sáu trăm lóng, bảy mươi vạn mạch, chín mươi vạn lỗ lông, một lỗ vào, chín lỗ xuất, tiết ra những thứ nhô, không có một thứ nào đáng tham. Quán sát kỹ thật đúng thân cô gái có ba sáu vật thảm thương mà rùng mình, chuyển sự suy xét nầy tự biết thân không, liền được đạo Tu-đà-hoàn”. Lại tự cảm thấy: “Ta nhân có cô gái mà thấy pháp, như vậy cô gái là thiện tri thức của ta. Nay ta phải trả ôn. Liền vì cô gái mà giải thích quán pháp trong thân. Tâm cô gái lập tức được mở và cũng được đạo Tu-đà-hoàn. Do đấy, mới nói niệm thân là thù thắng ”.
Niệm tử, là nghĩ đến con người khi phước đã hết, mạng chung, thấy điềm địa ngục, kinh sợ quá, té phân. Hoặc thấy ngạ quỷ, hoặc thấy súc sinh, tùy những chỗ bị đọa hiện hành mà thấy, đều sợ hãi, với ý muốn bỏ đi. Hoặc bị các cảnh lôi kéo, hoặc sẽ sinh trong cõi người, duyên vào sự giao hợp của cha mẹ. Nếu thọ thai nam, thì sẽ yêu người nữ kia, nếu thọ thai nữ, thì sẽ yêu người nam kia, trừ người nữ kia bệnh, ba việc khó không sai khác, ấy là được vào thai. Đã thọ thai, lại nhìn nhận cho là cái mình có. Cứ bảy ngày, một lần chuyển đổi tinh xảo hôn, gió cắt từng khắc, đến ba mười tám tuần, thai mới thành hình đầy đủ.
Nếu sinh cõi Trời, thì có nhạc Trời đến đón, vui mừng khôn xiết, đến nỗi tiểu tiện ra ngoài. Điềm báo của năm đạo nầy đều có cảnh hiện thấy. Cái chết nầy ứng với người tu hành, dùng nó như sự răn dạy sáng suốt, sâu xa, chỉ sự vô thường, mạng chuyển mau chóng như ánh chớp, như vầng mây bay qua nóc nhà. Lão, bệnh, tử đến, đều không tránh khỏi. Thường xuyên nghĩ đến trạng thái biến đổi nầy để tự giác ngộ, nên nói là nghĩ đến cái chết. Mười niệm trước, đức Phật tự nói, vì chưa có người nào hỏi, nên Phật không giải thích. Mười niệm sau, Tỳ-kheo hỏi, Phật lại vì họ mà diễn nói, mỗi mỗi đều giải thích rõ ràng.
“Đệ tử của Thế Tôn”, nghĩa là năm trăm A-lahán, mỗi vị đều có phương tiện, hoặc trí huệ Câuluật-đà, hoặc thần túc, hoặc biện tài, hoặc phước đức, hoặc giữ giới, hoặc tri túc, hoặc thuyết pháp, ấy là căn cứ vào hạnh nổi trội nhất của mỗi vị.
Muốn luận bàn trước là anh, sau là em, thì Anhã-Câu-lân, lớn hơn hết, còn Tu Bạt là nhỏ nhứt. Đây dựa ở giáo vị trong Phật pháp làm chính. Nếu dựa vào thông minh, hiền trí, rộng suốt, để làm bực đứng đầu, thì đấy chính là pháp của Bà-la-môn.
Nói “Một ngàn hai trăm năm mươi người”, là đơn cử con số những người thường xuyên theo hầu Phật. Hoặc nói: “Năm trăm người”, ấy là khi đức Phật tiếp nhận lời thỉnh cầu của A Nậu Đạt, thì tìm chọn lấy năm trăm người có thể cùng đi theo Phật đến cung Long Vương”. Vì sao? Vì suối A Nậu Đạt nầy chẳng phải mang hình dáng kẻ hữu lậu mà có thể vượt qua an toàn.
Khi A-nan xuất kinh, đã tập họp tám vạn bốn ngàn La Hán. Do đấy, nói không thể kể đếm là vậy. Kinh nầy, lúc mới xuất, có một trăm người, đứng đầu về sự thông suốt bốn bộ. Mỗi vị đứng đầu lại có hai trăm hai mươi vị. Ngoài ra, há có thể kể?! Có người lại nói: “Kinh nầy vốn có trăm sự, A-nan phó chúc cho Ưu-đa-la. Sau mười hai năm, kinh Tăng Nhứt A-hàm xuất hiện, thì A-nan đã bát Niết-bàn. Các Tỳ-kheo đều lo tập ngồi thiền, không tụng, tập. Lại còn nói: Phật có ba nghiệp mà tọa thiền là thứ nhất, thế là các Tỳ-kheo đều bỏ dở đọc tụng kinh suốt mười hai năm”.
Tỳ-kheo Ưu-đà-la lại bát Niết-bàn. Đó là lý do kinh nầy mất đi chín mươi sự.
Pháp sư nước ngoài, thầy trò truyền nhau chỉ bằng cách truyền khẩu, không cho biên chép thành văn. Bấy giờ, họ đã truyền khẩu đến mười một sự mà thôi, và kể từ thời điểm ấy, các sư chính thức lần lượt kế thừa nhau, nên mới có văn hiện nay. Tuy nhiên, Kinh của Tát-bà-đa-bộ không có tựa. Sau này, mười một sự, được lưu truyền rộng rãi, thời gian lâu, thiếu sót càng thêm nhiều. Sở dĩ Anan riêng phó chúc Kinh Tăng nhất cho đệ tử Ưuđa-la, đó là vì người này từ thời theo bảy vị Phật đến nay đã từng tu tập tất cả trong Tăng Nhứt Ahàm. Các vị Thánh trước cũng đã phó chúc đến kinh nầy, thời kỳ đấng Năng Nhân chuyển pháp luân, cũng thường khuyến khích đề cập đến Tỳ-kheo ấy.
Bấy giờ, đệ tử của Ưu-đa-la tên là Thiện Giác, theo thầy thọ lãnh, tụng Tăng Nhứt, đúng là có mười một sự. Sau đó, Ưu-đa-la bát Niết-bàn.
Các luận sư nước ngoài đều cho, ba tạng hiện nay, đều được truyền thừa do Thiện Giác, và thầy trò đã truyền trao nhau cho đến nay, không thay đổi. Thế cho nên, Ca-diếp thường gọi A-nan là « Cậu bé » (tiểu nhi) ấy là cố ý dùng gia pháp nhiều đời theo như ý cha mà truyền tiếp, để huấn thị Anan. Lúc ấy, em gái của A-nan là Tỳ-kheo ni, nghe Tôn giả Ca-diếp nói lời như vậy, nên tỏ vẻ hờn dỗi không thích, nói: “A-nan, anh tôi rất thông minh, hoạt bát, thông đạt, mọi người ai cũng ngưỡng mộ, trọng vọng, mà Tôn giả lại cho là trẻ con!?”
Tôn giả Ca-diếp nói với Tỳ-kheo ni: “Em cả à! A-nan có hai việc đáng xấu hổ, sao em lại hờn dỗi?
Chánh tọa A-nan khuyên Phật độ cho người mẹ, đã khiến cho Phật pháp bị giảm đi ngàn năm, là một. A-nan có tất cả sáu mươi đệ tử. Ngày gần đây, có ba mươi Tỳ-kheo trở lại đời sống thế tục, Phật dạy pháp độ đệ tử, nếu là người tại gia thì phải có niềm tin tự tìm đến cầu đạo, phải thử thách bảy ngày; còn nếu là người ngoại học đến cầu đạo, cần trải qua bốn tháng thử thách. Vì sao không bằng nhau? Vì nhà ngoại đạo, hoặc do lòng dạ xấu ác, muốn tìm tòi sở trường, sở đoản. Chính vì lẽ đó, nên trước hết phải thử thách xem để biết là họ có chí thành hay không? Tuy nhiên, A-nan lại tùy tiện, hễ có ai đến cầu đạo, ấy là độ ngay, là hai việc đáng xấu hổ.
Ba mươi Tỳ-kheo nầy, sở dĩ hoàn tục, là vì nghe nói trong chín mươi sáu đạo, A-nan là Đẳng trí bậc nhất, nên theo A-nan là để cầu độ, nghĩa là muốn thỉnh thọ Đẳng trí, nhưng A-nan không nói cho Đẳng trí, vì không hợp với bổn tâm. Đấy là lý do khiến họ trở lại thế tục. Đã trở lại, tất nhiên, họ chê bai A-nan, cho A-nan không có Đẳng trí. Độ đệ tử, ví như cá đẻ con, hằng ngàn, ức, vạn, nếu để tâm giáo hóa nối nghiệp thì sẽ thành tựu, ngược lại nếu không để tâm, tức sẽ thoái lùi. Vụ việc nầy há không phải đáng xấu hổ ư ?!
Tỳ-kheo ni nầy, vì do tâm giận dữ hướng về Ca-diếp, tức thì hiện thân vào địa ngục, còn A-nan do có khuyết điểm ấy, nên Ca-diếp mới gọi “Cậu bé”.
A-nan lại dẫn chuyện xa xưa. Đó là Chuyển Luân Thánh vương, tên là Trường Thọ. Tiếp nhận giáo huấn để lại của Đại Vương cha, lên ngôi cai trị, giáo hóa. Khi sắp xuất gia, lại căn dặn và ủy thác cho thái tử Thiện Quán, phải dùng chánh pháp trị nước, sự trị nước lần lượt truyền trao cho nhau, chưa từng cho ai tạm thay thế. Xưa, do cha con nối tiếp nhau, nay do thầy trò truyền thừa nhau. Xưa, còn không mất giáo hữu lậu, huống chi ngày nay, há phải mất đi diệu pháp chí chơn hay sao? Nên dẫn để chứng minh, nhằm chứng tỏ Thiện Quán kia, ắt có khả năng tiếp nhận được ý nghĩa của sự di chúc.
“Đối với pháp, phải nghĩ nhớ và cung kính”. Nghĩa là trong kệ trên, đã phán quyết Tứ A-hàm là của ba tạng. Trong trường hàng, lại nói: “Trong một kệ là có thể đủ các pháp của ba tạng, huống chi là Tăng Nhứt, mà không hội đủ các pháp ư ?
Sở dĩ như vậy là có một đoạn kệ nói: Trong tâm các thiên tử, sinh ý nghĩ: A-nan không có khả năng tác kệ nói pháp. Vậy sao lại tạo ra sự lừa dối làm gì?!
A-nan biết cảm nghĩ trong tâm của các thiên tử, nên nói với các thiên tử: “Giả sử kinh mà tám vạn bốn ngàn con voi đã chở đó, đều là kệ, tụng, thì ta cũng có đủ khả năng trong số kệ tụng như vậy, huống chi với một ít pháp nầy, mà A-nan lại không có khả năng sáng tác hay sao?
Vì muốn làm vừa ý chư thiên, nên A-nan lại dùng kệ tụng các pháp, để khuyến dụ chư thiên và những chúng sinh lợi căn, nên nghe kệ để được giải thoát!
Pháp, tức chương trên:
“Chớ làm các việc ác
Nên vâng làm các thiện
Ý của mình trong sạch
Là giáo pháp chư Phật”.
Nói đó là pháp, do nó có công năng hoàn thành ba thừa, dứt trừ ba nẻo ác, đủ các thật quả, tiếp nhận quả báo của hai đời, rồi tùy của tài có hơn, kém, mà thiết lập sự khuyến dụ tu hành tinh tấn.
Tụng nói:
“Trên, duy trì ba tạng
Tiếp theo, bốn A-hàm
Hoặc thường thọ Luật tạng
Tức báu của Như Lai”.
Sở dĩ nói báu, ấy là thí dụ: Như vua có kho báu thì không thể cho người ngoài biết được, chỉ có nội thần người đồng tâm với vua, mới cho nắm giữ nó mà thôi. Giới, luật cũng như thế. Nếu người nào có khả năng gìn giữ hai trăm năm mươi giới cùng với năm trăm sự, thì mới truyền trao cho người đó, không thể để cho người bộ ngoài, thanh-tín-nữ-sĩ có thể xem chơi. Cho nên mới ví dụ là báu của vua. Giả sử sức không thể hiểu hai tạng, nhưng gìn giữ theo A Tỳ Đàm thì cũng có thể hàng phục chín sáu lối hẹp của ngoại đạo. Lối vào thì cũng trở về gốc. Vì sao? Vì diệu huệ không có sự so sánh này, có khả năng quyết định sự trì trệ vi tế nói trên, khiến cho thông suốt như thế, ngang bằng Chân đế. Tuy họ có năm thông trụ kiếp, nhưng chưa thoát khỏi bị chế phục bởi bốn ngựa chạy nhanh (sinh, lão, bệnh, tử). Thế nên, ngoại học chẳng dám dòm ngó. A-nan, người khuyến dụ hay, đã xướng lên mười kệ ấy, đúng là vì ba vạn Trời, người nầy.
Khi xưa, lúc Phật mới thành đạo, ở vườn Lộc dã, thuộc thành Ba La Nại, vì năm người A Nhã Câu Lân v.v.., chuyển xe pháp bốn đế. Đức Phật nói: “Câu Lân phải biết! Khổ đế, khổ tập đế, khổ tận đế, khổ xuất yếu đế.
Trực tiếp nói về bốn đế nầy, Câu Lân do trở ngại ở Hữu đã lâu nên nghe nói trí tuệ mà ý vẫn không giác ngộ, bèn Phật lại vì giảng nói về Không : Câu Lân phải biết ! Lại trở ngại bốn tuệ ấy, tất cả đều không, cũng lại vô thường, ví như trò ảo thuật biến hóa, không phải thật, không phải có.
Câu Lân liền hiểu và được dấu ấn Kiến đạo. Còn bốn người chưa hiểu, Như Lai lại quán bổn tâm của họ có hai người bệnh vướng mắc ở tưởng, lại ưa suy tư nhớ nghĩ gia đình, buông lung năm dục, tham luyến, mãi không bỏ. Có bệnh nào phải dùng thuốc nấy, nên Phật giảng cho tam muội vô tướng : Cái mà các ông tưởng, tham luyến đều sẽ trở về diệt mất; cố vì cái tâm rong ruổi ấy, buông bỏ những gì ưa thích, thì mọi suy tưởng kia tức liền cởi bỏ ». Phật nói xong hai người kia đạt được dấu ấn vào đạo. Còn tâm của hai người còn lại, thường nguyện được sinh vào trời Phạm ; ở trời Phạm làm vua. Vướng lụy vào ham muốn này không thoát ra được, chồng chất càng thêm. Như Lai thấy được tâm họ như vậy, liền giảng nói vô nguyện: “Vì sở nguyện của ông các là mong cầu được làm Phạm thiên vương, không lấy việc ra khỏi ba cõi làm chính (xuất yếu) các mong cầu kia dù toại nguyện nhưng đều sẽ trở về với bào môn, hủy diệt, vô thường. Cái đang tồn tại còn phải xả bỏ, cái mong cầu nên lấy xuất yếu làm trước tiên ». phật nói xong, hai người còn lại liền hiểu và được dấu ấn vào Đạo.
Năm người đều có những ràng buộc khác nhau, nên cách cởi bỏ cũng khác.
Đó gọi là ba chuyển bốn đế. Nghĩa là trong Không, Vô Tướng, Vô Nguyện, đều có bốn đế. Đế tức là quán ; định tức là chỉ. Thật hành song song chỉ, quán, nhằm đối trị chứng bệnh si ái trong ấm trì nhập.
Mười hai, nghĩa là phá mười hai nhân duyên.
Xưa, khi Đức Phật còn tại thế, Ngài đã vì bốn bộ thuyết pháp. Hoặc nói về bốn đế, hoặc thuyết giảng về sáu độ, tùy thuận chúng sinh thích hợp nghe, Ngài đều vì họ diễn nói rộng ra, không có lượng thường định. Hoặc Quốc vương, Trưởng giả, Phạm chí, Cư sĩ; đến thỉnh cúng dường, hoặc đến thỉnh hỏi, họ đều đáng được Phật nói pháp. Anan hỏi: “Sao gọi là phải nói, nghe ư ? Phải nói thấy ư ?
Phật bảo A-nan: “Ở vị lai về sau, khi bốn bộ nói pháp, phải nói là nghe, không được nói là thấy. Nếu nói thấy, tức là giả dối. Vì sao? Vì nghe đã là quá khứ, thấy, nghĩa là hiện tại. Như bảy Phật ở quá khứ, đúng phải nói là nghe, không được nói thấy. Ông đối với vị lai, cũng lại như thế, nên nói: “Nghe như vậy”. Ta sở dĩ ân cần căn dặn A-nan nhiều, là vì chư Phật quá khứ dù có người hầu cận, nhưng không có ai bằng A-nan biết rõ ý Phật. Từ nhiều kiếp xa xưa, A-nan đã từng cúng dường hai mươi ức Phật, thường xuyên làm người hầu, không cầu dứt hết lậu, thường xuyên nguyện được Đẳng trí, biết được ý nghĩ sâu xa của Phật, do vậy, nên nay được quả báo đạt Đẳng trí. Mắt xem, ý vận dụng, không mất quy tắc thích nghi, tinh tấn dõng mãnh ở trong chư Phật. “Không có vị Phật nào vượt qua Thích Ca văn”: Trong anh em, Di Lặc lẽ ra phải ở trước. Nay trái lại ở sau là sao?
Thuở xa xưa, trước đây ba mươi kiếp, có ba Bồ Tát ở chung trên núi. Khi đi dạo, trông thấy có con cọp đói muốn ăn thịt con mình, một người có cảm nghĩ: “Con cọp nầy, đã là súc sinh, lại ăn thịt con của nó, khi chết, sẽ chịu mọi thống khổ, vì làm mẹ lại không có lòng lành. Thân hiện nay của ta, do bốn đại hợp thành. Sự hội họp rồi cũng sẽ trở về với cái chết, ta phải dùng thân để cứu mạng cọp con kia. Người thứ hai không chịu vậy, mới định đến chợ mua thịt, dùng thay cho mạng cọp con. Người kia lại nghĩ: “Nếu người nầy đi mua rồi trở lại, thì mạng cọp con sẽ không bảo toàn. Vả lại, cũng phải gieo mình từ núi xuống, mới cứu vớt được mạng cọp con kia, liền từ núi gieo mình xuống dưới, đúng ngay miệng cọp mẹ. Thân được yên ổn, vì cọp mẹ không dám ăn. Lý do vì sao? Vì phàm người nhập tam muội Từ, thì thú vật, khó có thể làm hại, nên người ấy phải dùng thanh tre đâm mình chảy máu, khiến cho cọp ăn được”.
Do sự dũng mãnh nầy, tức đã vượt qua tới chín kiếp. Nay, Ta ở trước Bồ Tát Di Lặc là vậy. Đã nói là đạo thì không có trước, sau, ý quyết định làm trước, thế nên, nay ta thành Phật trước. Vì thế, ta để lại những sách nầy, ủy thác cho A-nan: “Ở đương lai, ông sẽ nói là: Nghe như vậy:”.
Vì sao lại nói một thuở nọ? Vì là số mặt trời, mặt trăng, hay vì là tên người?
-Cũng là số thời tiết, cũng là ở tên con người.
Hoặc nói: “Lại có hai danh; hoặc Sát Đế Lợi; hoặc Bà-la-môn”. Lại có hai danh: Hoặc dòng Trưởng giả; hoặc dòng cư sĩ. Hoặc ở trên cõi Trời, hoặc ở trong cõi người. Như thế, phần nhiều, hoặc chẳng phải là một xứ, nên nói là một thuở nọ.
Bà Già Phạm, là danh xưng của Thế Tôn. Kiết sử đều tận, không ai có thể vượt qua, nên xưng là Tôn. Chư Thiên ba cõi đều quay về kính ngưỡng, tám bộ quỷ thần cũng đều tôn kính, hàng phục các ma, nên gọi Thế Tôn. Danh xưng như thế, không thể tính đếm, đo lường, nên có hiệu Thế Tôn.
Kỳ thọ, vườn Cấp Cô Độc: Thái tử Kỳ Đà là con người vợ cả của vua Ba Tư Nặc, có tám mươi thửa vườn, ruộng, đất bằng phẳng, cây cỏ tốt tươi, có đủ các loài cầm thú, ban ngày chúng thường cùng nhau đến tụ tập.
Tâm của Kỳ chỉ có mỗi hình bóng Phật, luôn có ý định xây cất tinh xá cho Phật trên khắp thửa ruộng ấy. Trưởng giả Tu Đạt lại đến xin mua. Kỳ ít thân thiện với Trưởng giả, mỗi khi vui đùa, hay nói chơi là bằng lòng bán.
Tu Đạt được ý quyết định của Kỳ, nên rất hài lòng, hớn hở, lập tức nói với người hầu cận: “Ngươi hãy nhanh chóng trang bị cỗ xe voi, để ta chở vàng ròng đến trải dưới đất; tức thì vác vàng ra, tập họp trải trên mặt đất, chỉ trong khoảng chốc lát, vàng ròng đã được lót đầy bốn mươi thửa”. Kỳ lại nói: “Thôi thôi! Ta nói chơi với nhau thế, đừng trải vàng khắp nữa! Lập tức Tu Đạt với Thái tử cùng đến chỗ vua, tâu lên ý nầy. Vua nói: “Pháp không có hai lời nói. Đã hứa quyết tâm rồi, thì nhứt định về lý, không chấp nhận có sự ăn năn!” Kỳ nói: “Ta nhận lấy phần cây, còn khanh lấy đất. Hai người hợp tác, có thể lập chung tinh xá, gồm có bảy hai giảng đường, một ngàn hai trăm năm mươi phòng nhà, trong đó, đất bằng phẳng, với rừng cây ăn quả xum xuê, tươi tốt, suối chảy; ao tắm, điều hòa lạnh, ấm, bốn phía trong sạch, sáng sủa, mùa đông, mùa hạ không thay đổi”.
Trang nghiêm xong, cùng cung thỉnh Đức Thế Tôn đến xem. Đức Thế Tôn cùng với một ngàn hai trăm năm năm Tỳ-kheo đi dạo và nghỉ ngơi trong khu vườn đó. Đàn việt cúng dường bốn thứ cần dùng không thiếu. Các phủ của vương hầu, các quan cựu trào, cao niên, được nhường ở trước. Thế nên, các kinh thường xưng Kỳ là người đứng hàng đầu, vì lẽ công đức liên tục nhau, cho nên tên gọi cũng không được rời nhau, phải thường xuyên kết hợp dùng làm danh xưng.
Phật bảo các Tỳ-kheo: “Vì sao không bảo thanh tín sĩ nữ, mà chỉ bảo với Tỳ-kheo? Vì lẽ chúng Tỳ-kheo ở bốn bộ đều là người đứng đầu. Hơn nữa, lại là chủ phá ác, dùng pháp vô lậu để đoạn trừ các hữu lậu. Vì lý do nầy, nên trước hết, bảo Tỳ-kheo, cũng gọi Sa-môn. Sa-môn, tâm được thôi dứt, chấm dứt sự dời đổi, dục cũng lặng bặt, không có vướng mắc, cũng gọi là Trừ cận. Người đời đói khát về sắc dục, người Tỳ-kheo loại trừ tưởng đói của sự đói khát về ái ấy”.
Đức Thế Tôn thuyết pháp, Tỳ-kheo có khả năng tiếp nhận, đoạn trừ sinh tử, tiến đến cổng Niết-bàn, thế nên, Phật bảo Tỳ-kheo mà thôi.
Phải tu hành một pháp. Nghĩa là niệm Phật. Niệm sự nào của Phật? Thân kim cang của Phật, không có các lậu. Nếu bước đi, chân Phật rời khỏi mặt đất bốn tấc, dấu vết về tướng hoa văn như ngàn căm xe hiện trên mặt đất. Các trùng, kiến dưới chân Phật đều được yên ổn suốt bảy ngày, nếu đến lúc mạng chung, đều được sinh lên cõi Trời.
Xưa, có một Tỳ-kheo ác, vốn là ngoại đạo, muốn giả trang phục để chê bai, đuổi theo Như Lai đang đi, giết nhiều trùng bay, đem nhét dính chỗ dấu chân Phật, rồi nói là Đức Phật đạp, sát hại trùng. Nhưng dù trùng đã chết mà gặp ngay chỗ dấu chân Phật, lập tức được sống lại. Nếu Như Lai đi vào thành, ấp, chân đạp lên ngưỡng cửa, là trời đất sẽ chấn động, hằng trăm thứ nhạc cụ không vỗ đánh mà tự kêu, các người mù, khiếm thính, câm, ngọng, lưng gù, tàn tật, một trăm bệnh tật đều tự nhiên khỏi hẳn.
Với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Phật, nếu có người nào trông thấy, rồi đi theo, đều được Phật độ, công đức của Như Lai đã cứu giúp, thật sự không thể tính kể. Huệ sáng suốt của Phật đã soi rọi, há có thể chê bai được ư ?!
Phật, chủ của các pháp, đều hội đủ vạn hạnh, lấy sự hóa độ làm ưu tiên. Gọi là niệm Phật, nghĩa ấy là như vậy. Còn niệm Pháp là thế nào?
- Pháp, nghĩa là gồm pháp vô lậu, pháp không có dục, pháp đạo, pháp vô vi, từ dục cho đến không có dục.
Phật là chủ của các pháp. Pháp là chủ của kết, sử. Hoặc có người hỏi: “Phật ở trước hay pháp ở trước?”
Đáp: Pháp ở trước.
Vì sao biết thế?
- Vì kinh nói: “Pháp sinh ra chư Phật, pháp sinh đạo Phật. Do đây mà nói, thì pháp ở trước. Lại nói: “Nếu như vậy thì vì lẽ gì không niệm Pháp trước, mà niệm Phật trước?”
Đáp: “Pháp dù vi diệu không người có khả năng biết, cũng như ngọc báu chôn giấu trong đất, không có chỗ nào không có, mà người nghèo thì vẫn khốn khổ, thiếu thốn về vật dụng, tiền của, phải nhờ người có thần thông, chỉ cho họ biết chỗ chôn giấu của báu, để họ được dùng, để tự họ cung cấp, hoặc để cứu giúp kẻ nghèo thiếu”.
Hoặc hỏi: “Vậy quý báu là trội hơn hay con người là trội hơn ư?:.
- Đáp: “Con người vượt trội hơn”. Vì lẽ gì, nói trội hơn?
- Vật quý báu chôn giấu dù có nhiều, nhưng nếu không phải người có thần thông thì sẽ không xem thấy. Chỉ con người mới cần tiền của làm vật riêng tư. Chả lẽ kho báu tự nó quý ở trong đất ư ? Pháp cũng như thế.
- Về lý, Pháp dù huyền diệu, nhưng không phải Như Lai thì không có biện minh, không phải Đức Thế Tôn thì không có sự thông suốt; vì thế, nên niệm Phật ở trước, lấy Pháp làm thứ yếu.
Niệm Tăng là sao?
Tăng, nghĩa là Bốn hướng, Bốn quả, Mười hai Hiền sĩ, từ bỏ thói tham lam, thói tranh chấp của đời, triển khai phước làm con đường đầu, đi suốt qua con đường Trời, người, là ruộng phước tốt quý của chúng sinh.
Lấy gì chứng minh Tăng là ruộng phước tốt quý?
- Xưa, có Tỳ-kheo phước mỏng, tên là Phạm Ma Đạt, ở trong chúng gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị, khiến cho chúng Tăng không được ăn, mà chẳng biết là lỗi của ai? Do vậy, Đức Phật bèn chia ra hai bộ. Trong một bộ, lại khiến một bộ không được ăn. Lại chia một bộ nầy làm nửa bộ; lại khiến phân nửa bộ nầy không được ăn.
Như thế, lần lượt phân nửa, cho đến hai người, cũng không được ăn, bèn đến độc thân, mới biết là mình không có phước. Đi khất thực tại chỗ, tuần tự đến ở bát, tự nhiên tiêu hóa. Đức Phật thương xót tai ách của họ, nên tự tay trao thức ăn ngay trong bát. Vì bị thần lực ngăn, nên lại không tiêu hóa được, Phật muốn khiến thân nầy được phước, nên cho hai Tỳ-kheo diệt tận đứng ở bên trái, phải, dùng thức ăn thí cho hai Tỳ-kheo diệt tận ấy.
Thông thường, hành tam muội diệt tận, tức thì được phước. Tiếp theo, lại khiến nhập tam muội từ, Tỳ-kheo ở bên trái, phải. Tiếp theo, dùng hai bi, tiếp theo, dùng hai hỷ, tiếp theo dùng hai hộ (xả), mỗi pháp đều thay thế khắp, khiến tu được bốn đẳng.
Bấy giờ, Vua Ba Tư Nặc nghe nói Phật xót thương cho Tỳ-kheo phước mỏng về cái ăn, liền nói: “Nay, trẫm cũng vì lập phước, sẽ phân phát sai sứ đem gạo đến cung cấp. Lúc ấy, có một con chim bay tới ngậm một hạt gạo bay đi. Sứ nhơn quở: “Vua vì Phạm Ma Đạt mà thiết lập phước, sao ngươi lấy đem đi? Con chim vội vàng đem hạt gạo trả lại chỗ cũ”.
Vì sao thế?
-Vì Tỳ-kheo nầy, nhờ sức phước của chúng Tăng, cho nên chim, thú đã không thể xâm hại. Dùng minh chứng này, nên biết được chúng Tăng là ruộng phước tốt quý.
Đã độ mình, lại có khả năng độ người, tiến đến đạo ba thừa. Pháp niệm Chúng, nghĩa ấy là như vậy.
Tiếp theo, niệm Giới, “Nghĩa ấy là thế nào?”
Từ Năm giới, Mười giới, Hai trăm năm mươi giới, đến năm trăm giới, đều dùng để cấm, để chế phục thân, miệng, chế phục những nguy hiểm tà quấy. Chế ngự những nguy hiểm của sáu tình (căn), dứt trừ các niệm dục, trong ngoài thanh-tịnh là hợp với tánh giới.
Xưa, có hai Tỳ-kheo, cùng đi đến chỗ Phật. Con đường đi nằm vắt qua đầm rộng, thiếu nước uống. Lúc ấy, có nước uống nơi ao nhỏ, các trùng đầy dẫy trong đó. Một Tỳ-kheo suy nghĩ kỹ về luật cấm, quyết không vi phạm làm hàng đầu. Nếu uống nước nầy, thì sát sinh rất nhiều, thà ta vâng giữ giới hoàn toàn dù mất mạng, chớ không để phải ân hận. Ở đấy mạng chung, người nầy liền sinh lên cõi Trời.
Một Tỳ-kheo tự suy nghĩ: “Cần phải uống nước để bảo toàn mạng sống, mới có thể đến chỗ Phật, đâu biết sau khi chết, sẽ sinh cõi nào? Liền uống nước, tức đã sát hại rất nhiều trùng và đã đến chỗ Phật. Mặc dù được thấy Phật, nhưng lại cách rất xa lời chỉ dạy, khóc lóc hướng về Đức Phật tự nói: “Đồng bạn mạng chung”. Phật liền chỉ lên trời nói: “Ông có biết vị trời nầy không? Đây là bạn ông, do công đức giữ giới hoàn toàn, liền sinh lên cõi Trời, nay đến ở đây. Dù ông thấy ta, nhưng cách ta rất xa, còn người kia dù mất mạng, nhưng vẫn thường xuyên ở chỗ ta. Nay ông đến thấy ta, chỉ có thể xem là đã thấy hình sắc của ta thôi, há nhận thức được giới chí chơn cao đẹp?” Do đấy mà nói, vâng giữ giới không vi phạm, thì mong muốn là được.
Trong mười niệm, Giới ở trước, trong sáu độ thì Thí ở trước. Sở dĩ trước, không bằng nhau là vì Giới trong mười niệm, là giới của nhà Thanh-văn. Đối với đệ tử, trước tiên là dùng pháp kiểm sốt thân, cho nên nói ở trước. Pháp của Bồ Tát lấy huệ thí làm trọng. Vì sao? Luận về Bồ Tát, đã sinh trong Trời, người, thì tâm luôn giúp ích. Cốt yếu của sự giúp ích không phải chỉ cho mà không cứu. Luận về chúng sinh, thì thân mạng, hiện có phải dùng áo, cơm, cho nên dùng Tài thí, trước nhằm cứu giúp hình hài chúng, sau đó, đem pháp để gom thu, chế ngự tâm thức họ, cho nên Bồ Tát dùng thí làm trước.
Luận về giới, có hai: Có giới thế tục, giới của đạo. Năm giới, Mười thiện là giới thế tục, Ba tam muội là giới đạo. Hai trăm năm mươi đến năm trăm giới, cũng là giới thế tục, diệu huệ bốn đế là giới đạo. Chỉ thực hành giới an, không ra khỏi ba cõi, dùng huệ chế ngự giới, sao cho trở thành vô lậu, mới là hợp với giới đạo. Giới của nhà Thanhvăn, ví như đóa hoa trên đầu gối, hễ cử động thì hoa rã rời tan tát. Giới của Bồ Tát, ví như đóa hoa cài trên đầu, đi, đứng không lay động. Nghĩa là sao? Tiểu thừa kiểm sốt hình, hễ lay động thì vượt oai nghi. Bồ Tát lãnh hội tâm, không câu nệ phép tắc bên ngoài. Về mô phạm dù lớn nhỏ, Bồ Tát, Tiểu thừa đều khác nhau, hình, tâm là điểm khác biệt, trong, ngoài dù đặc thù, nhưng cũng đều cùng tiến đến Niết-bàn, cho nên nói là là niệm Giới.
Niệm Thí sở dĩ được đến Niết-bàn, là vì Thí có Tài thí, Pháp thí. Có thể từ nhân thí của cải mà đạt được thí pháp, để trở thành bố thí Ba-la-mật, được đến Niết-bàn.
Niệm Thiên, là từ cõi dục, cõi sắc, đến trời cõi vô sắc. Trời có hai hạng: Có trời thọ hưởng phước, có trời đạo đức. Các trời Tu-đà-hoàn ở cõi Dục, ly khai vĩnh viễn ba nẻo ác, tiến lên nhà đạo. Cõi sắc, cõi không, có tám Tịnh cư thiên, tăng thêm việc tu chỉ, quán, tiến lên thành vô lậu, tức Niết-bàn, không trở lại thế gian.
Trời phàm phu: Nghĩa là tu hành Mười thiện, Bốn thiền, Bốn không, sẽ được sinh vào cõi Trời nầy thọ hưởng phước, khi phước hết, sẽ đọa trở lại, lưu chuyển không dứt.
Sở dĩ gọi niệm Thiên, vì những điều đó đều đắc đạo. Họ chuyên tâm, không buông thả, mến mộ những việc mình làm, ý không phân tán, dong ruổi, vì cũng đến Niết-bàn, nên nói là Niệm Thiên.
Niệm thôi dứt: (Hưu tức) Nghĩa là tâm, ý, tưởng dứt, năm dục không khởi, vắng bặt, định vĩnh viễn, nên nói là thôi dứt.
Thông thường dứt cũng có hai thứ: Ngoại đạo, Phạm chí ép xác (khổ hạnh) để cầu phước, cũng nói là dứt. Bốn quả Sa-môn, tiêu diệt vĩnh viễn các kiết, mới chính là dứt đúng nghĩa.
Do đâu biết như thế?
Xưa, có Tỳ-kheo tên là Tu-la-đà, đến thành Xá Vệ, đi giáo hóa khắp nơi. Lúc ấy, ở phía Tây thành này, có xứ Ương Quật Ma, là chỗ có thể giết người. Đất ở đó bằng phẳng, rộng, có nhiều cây cối. Khi đó, có một Phạm chí đang ngồi thiền dưới tàng cây, ông ta không ăn năm thứ lúa thóc; chỉ ăn quả của loài cỏ, nếu không có quả, thì ăn rau, cỏ, để nối tiếp tinh khí. Thân mặc áo bằng lá cây, hình thể ốm yếu, đi phải chống gậy.
Bấy giờ, Tu-la-đà đi từ xa đã trông thấy, cho là đạo sĩ, liền ngồi thiền xem thử tâm người kia để biết là có định hay không? Nhận thấy tâm người ấy, vốn có mưu cầu lên làm vua nước này, nên suy nghĩ: “Người ấy chính là giặc lớn đấy! Lúc đầu ý định bỏ đi, nhưng sợ về sau, sẽ đọa vào tội, đồng thời cũng muốn giáo hóa, tất nhiên, ông ta sẽ không theo lời ta nói. Cần phải tìm phương tiện để độ ông ta mà thôi”. Tính toán rồi, liền đến bên một gốc cây, ngồi thiền, cách chỗ người đó không xa. Trải qua bảy ngày không lay động. Sau bảy ngày, đứng dậy, Tu-la-đà đến trước vị Phạm chí ấy, gảy ngón tay cho biết và nói: “Trong cơ thể ông bạn như thế nào?”. Một hồi lâu, Phạm chí thong thả ngẩng đầu, đáp: “Tôi nghèo, tằn tiện cũng không lấy gì để lại cho nhau, thì làm sao?”.
Tỳ-kheo lại nói:
- Nay ta sẽ để lại cho ông một vật.
Tức thì hóa ra một con gà, và nói: “Ông có thể giết con gà nầy để ăn”. Tỏ vẻ sợ hãi, Phạm chí nói:
- Ta còn không giết kiến, rận, huống chi là giết gà? Tỳ-kheo nói:
- Bổn tâm ông là muốn giết vô số người. Nay giết con gà nầy, đâu đủ để nói.
Phạm chí lại nói:
- Thế nào là giết vô số người? Tỳ-kheo bảo:
- Ông vốn ngồi thiền ở đây, chính vì mưu cầu được làm vua nước nầy. Vua trị vì, giáo hóa một ngày, có thể giết mấy người? Mà nói không giết? Con gà nầy tức là “con gà thức” trong tâm ông, là có thể được đạo vô vi, đâu dùng đến Quốc vương làm gì?.
Phạm chí kia liền suy nghĩ: “Tỳ-kheo nầy đã biết rõ ý nghĩ trong tâm ta, tất nhiên là Thánh nhơn? Vậy ta phải theo lời giáo hóa của người ấy”.
Tỳ-kheo Tu-la-đà lại vì ông ta mà thuyết pháp, làm cho Phạm chí kia được dấu ấn đạo.
Thân hình Phạm chí nầy dù tĩnh lặng, nhưng vì tâm không thôi dứt; tự mình giết được “con gà thức” rồi, mới có thể gọi là thôi dứt. Cho nên sau đó giải thích đó là thôi dứt Tâm-ý-tưởng-kiến.
Niệm Thân: Quán ba mươi sáu vật xấu, biểu lộ sự bất tịnh của thân, nhớ nghĩ chắc chắn, không tán loạn, cũng được Niết-bàn.
Do đâu biết được?
Xưa có Tỳ-kheo ở A-luyện-nhã, thường đi khất thực, ăn bên bờ sông, ăn xong, rửa bát. Lúc ấy, tại gò mả bên bờ sông ở thượng lưu, có thi thể của người nữ mới chết. Gió thổi, tóc thiếu nữ bỗng nhiên rớt ngay vào trong bát. Tỳ-kheo, tay cầm mớ tóc nầy, nhìn kỹ thấy rất tốt đẹp, liền tâm nghĩ miệng nói: Không thể là đuôi ngựa, tóc nầy lại rất nhuyễn, không thể là tóc của con trai, vì rất mềm, buộc lại, không thể tách ra, tất nhiên là tóc của thiếu nữ, đúng là trói buộc lại, không thể tách rời ra; bèn nảy sinh ý nghĩ: “Người như thế, với tóc nầy tất nhiên là tuyệt đẹp, gương mặt như sắc hoa đào; mắt như minh châu, mũi như ống trúc cắt; miệng như hoa hàm-đan (ngậm sen), mày như nét ngài, tác ý phân biệt như thế xong, liền khởi tâm dục, xuôi theo dòng nước, tìm kiếm cái nhan sắc mà mình tưởng tượng ra đó, đeo đuổi, tìm kiếm mãi không thôi. Chợt thấy một người nữ bị chồn, sói ăn thịt đã hết một nửa, thân hình thối rửa, nhưng tóc cô ta vẫn còn. Tỳ-kheo cầm mớ tóc so sánh, giống nhau về dài, ngắn. Từ đó, ý tưởng dục tự nhiên được giải. Lại quán lại, để phân biệt, suy nghĩ về người nữ nầy, lúc còn sống, chắc chắn vóc dáng, dung mạo xinh đẹp, nay hư hoại, khiến người ta được chứng kiến. Trước đây đã khởi tưởng dục chỉ vì thân tham ái dục, nên mới nẩy sinh ý nghĩ như thế. Thân người nữ kia đã như vậy, thì thân ta cũng đâu có khác gì!? Như thế chắc chắn thân ta là do bốn đại hợp thành, khi phước hết, duyên lìa, tự nhiên giải tán. Quán xét tâm biến động xong, tức thì đạt được dấu ấn đạo. Vì thế nên nói Niệm Thân, là được quả Sa-môn.
Niệm tử. Nghĩa là nghĩ đến người đang sống, thọ mạng không ngừng, mất đi các căn tan rã, như cây hư mục, cho đến khi mạng căn đoạn tuyệt. Phải luôn nhớ nghĩ chẳng có gì là thường còn, để tự giác ngộ.
Xưa, có Tỳ-kheo tên Bà-kiết-lê, ngồi thiền, hành đạo, trải qua nhiều năm, mà hữu lậu không dứt trừ, bệnh hoạn đến với thân mình làm lụy hại thêm lớn, thường nghĩ tới việc tự sát. Sở dĩ con người không được chí đạo, là vì hình dáng có ngồi ngay thẳng, nhưng thân nầy lưu chuyển triền miên, biết đến lúc nào mới có thể dứt, chỉ có thể dùng tay cầm dao tự sát cho xong. Nhưng suy nghĩ lại, nhớ Đức Thế Tôn có răn dạy: Các đệ tử không được tự hại. Mặc dù như thế, nhưng nay ta muốn cầu Niết-bàn, trong Niết-bàn đâu cần có thân, thế nên trước hết ta trừ bỏ thân, để nhận lấy chánh vô vi. Liền cầm dao tự hại. Đầu vừa rơi, tâm cũng liền thấu suốt, tức được A-la-hán.
Đức Phật biết là đã được đạo, bèn ra lệnh cho các Tỳ-kheo Xà-duy (thiêu đốt) thi thể ấy. Thế nên, niệm Tử cũng được Niết-bàn là vậy.
Mười niệm trước là Phật nói tổng quát, vì chúng sinh căn nhạy bén, về sau Phật nói lại, là vì chúng sinh căn chậm lụt, phải phân tích, giải thích nghĩa ấy.
Danh dư: Về sau, được Chuyển Luân Thánh Vương. Được quả báo lớn, nghĩa là về sau sẽ được Thiên Đế Thích.
Các điều thiện khắp đến. Nghĩa là về sau, sẽ thu được quả báo ở cõi Phạm Thiên.
Được vị cam lộ: Nghĩa là về sau, sẽ được Bíchchi-Phật. Đến xứ vô vi. Nghĩa là về sau, thu được quả A-la-hán.
Mười niệm nói ở trên, không có năm luận chứng (câu) nầy. Nay, sở dĩ vì lợi ích của quả báo, vì muốn chứng minh về nghĩa của niệm Phật, mà lý ấy thì rất thâm diệu.
Phật nói: “Các đệ tử bát Niết-bàn, đều dùng duyên đời trước, đền bù đối với nhân thọ nhận Niết-bàn...
Năm trăm đệ tử như thế, mỗi vị đều dùng duyên đời trước, nhận lấy sự diệt độ, chỉ có A-nan là rất khéo trong việc thọ nhận Niết-bàn: Khi sắp muốn Niết-bàn, trước hết thể hiện điềm lành ánh sáng.
Có Phạm chí theo A-nan để học về thuật toán số, thấy sắc diện của A-nan phát sáng, liền báo với nhà vua: “Sắc diện của Tôn giả A-nan trông có vẻ khác thường, sắp muốn thọ nhận Niết-bàn. Nhà vua vội sai người tìm và theo dõi A-nan.
A-nan đem theo năm trăm đệ tử, đến giữa đường, trên bờ sông Hằng, đang muốn vượt qua, vừa ra tới giữa sông thì Vua cũng đã đến tới bờ. Tỳ-xá-ly vâng mạng A-nan đến, cũng sai năm trăm đồng tử đón tiếp, vì muốn vừa ý của hai nước, nên dùng thần lực ngăn chận chiếc thuyền, khiến cho thuyền dừng lại ngay chính giữa dòng.
Bấy giờ, A-nan độ đệ tử; một là Ma-thiền-đề, hai là Ma-thân-đề; rồi bảo Ma-thiền-đề: “Ông hãy đến Yết Tân, để chấn hưng Phật pháp, vì ở cõi nước đó chưa có Phật, pháp, nên truyền bá cho tốt!”. Bảo Ma-thân-đề: “Ông hãy đến nước Sư Tử để chấn hưng Phật pháp, sao cho thịnh vượng”.
Phó chúc xong, tạo ra mười tám biến hóa, phát lửa đốt thân. Phân nửa ngọc xá lợi để cho hai nhà, mỗi nhà đều được cúng dường. Đây là do sức của niệm Phật, nên được tự tại.
Phật bảo các Tỳ-kheo: “Với lòng đại từ của Phật, mong muốn sao cho đệ tử, biết đầy đủ về nghĩa niệm Phật, cũng như người cha, đặt ra điều ước răn bảo con cháu, muốn cho chúng được thành tựu, không có không được. Để chuyên cần, tinh tấn niệm Phật, nên quán Như Lai, sao cho hình thể và mắt mình chưa từng xa rời, như A-nan quán Phật không biết nhàm chán, tâm niệm không bao giờ hết.”
Bấy giờ, trên lưng A-nan nổi lên mụt nhọt sưng đỏ. Đức Phật sai Kỳ Bà chữa trị cho A-nan. Kỳ Bà bạch Phật: “Con không dám dùng tay tiếp cận lưng A-nan”. Phật bảo Kỳ Bà:
-Chỉ chữa trị, chớ hoài nghi! Ta sẽ thuyết pháp cho A-nan nghe, để cho A-nan không có cảm giác đau nhức.
Như Lai bảo A-nan, hãy nhìn cho thật kỹ tướng tốt của Phật. Phật vì A-nan nói: “Thân Như Lai là vô số Kim cương, không thể hư hoại, vì được hình thành do ba ngàn hai trăm công đức phước”.
A-nan chăm chú nhìn ngắm đức Phật, không mỏi, tai nghe Phật thuyết pháp không chán, với tâm niệm không phân tán. Lúc ấy, mụt nhọt trên lưng A-nan vỡ mủ ra, Kỳ Bà dùng cao thoa xức.
Phật hỏi A-nan: “Ông có cảm giác đau nhức trên lưng không? A-nan đáp:
- Bạch Thế Tôn! Không có cảm giác.
- Phật nói: Không có cảm giác đau nhức, ấy là do niệm Phật, mà Bốn vô sở úy và Mười lực được thành.
Xưa có Trưởng giả, dẫn đứa ở đến lễ Thâu Bà và nói: “Nam mô Thập Lực Thế Tôn, đứa tớ đứng sau lễ nói: “Nam mô Thập Nhứt Lực Như Lai”. Trưởng giả nói:
- Đức Như Lai có mười lực, sao lại có mười một lực?
Đứa tớ thưa: “Nói mười một lực đâu có sao, đừng nói chín lực là được. Nói mười một lực, lại có thêm một lực, nào có lỗi lầm gì?” Đại gia yên lặng ra về.
Hỏi: Các Pháp sư: “Như Lai có bao nhiêu lực?” Đáp: “Hoặc có ba lực, hoặc có mười lực, hoặc nói có vô số. Nếu vậy, nói là lực thì không giới hạn ở số mười sao?”
Trưởng giả liền xuất gia học đạo, miễn tôi tớ. Vì chủ nhà nói bốn chẳng phải là không đủ, nói vô số chẳng phải là có thừa; vào thời điểm thích hợp, ứng vật sẽ không có lượng thường.
Niệm Pháp. Nghĩa là từ dục cho đến không dục, từ dục cho đến đạo, từ lậu đến vô lậu, từ hữu vi đến vô vi…
-Vì sao biết như thế?
Xưa, Đức Thế Tôn thuyết pháp, giáo hóa tại nước của vua Ưu Điền. Đức Phật đã nói như thế nầy: Khi còn ở cõi Trời Ba mươi ba, Phật vì mẹ Ma Da thuyết pháp, ròng rã chín mươi ngày, rồi mới trở lại.
Lúc ấy, ở dưới phía bắc thành Ca Thi, có Tỳ-kheo ni Ưu Bát Liên Hoa, với tâm niệm chỉ muốn một mình gặp Phật trước tiên.
Bấy giờ, các quốc vương cũng không thấy Phật đã ngót chín mươi ngày, nên đều có tâm tình khao khát, ngưỡng mộ, đều tập họp đến để gặp.
Phật suy nghĩ: “Ta sẽ vì Tỳ-kheo ni, không nên ở trong chúng đông đảo nầy, mà sẽ tạo phương tiện để cho Tỳ-kheo ni ấy được ở trước”, tức thì Phật hóa Tỳ-kheo ni làm Chuyển Luân Thánh Vương. Theo như pháp của Thánh Vương, các tiểu quốc vương vừa trông thấy vua Thánh, đều tự giải tán để nhường chỗ. Tỳ-kheo ni liền trở lại hình cũ, đến gặp Phật, lễ bái, hỏi han. Các quốc vương tiếp tục đến yết kiến Phật, không còn thấy Thánh Vương nữa, mới biết vua Thánh vừa rồi là do Tỳ-kheo ni hóa ra, bèn nói với Tỳ-kheo ni: “Chỗ thấy vừa rồi là dối gạt như thế sao?
Khi đó, Ưu Bát Liên Hoa với tâm niệm tự cho mình là người được thấy Phật trước hết! Phật bảo Ưu Bát Liên Hoa: “Cô tự cho mình là yết kiến Phật trước hết, trong khi lại có người trước cả cô, sao không xem kỹ là ai? Phật nói: “Chính là Tu Bồ Đề ở trong núi phía đông thành La Duyệt đang ở đó vá y.” Vị Trời nói: “Phật đã về cõi dưới rồi!”
Tu Bồ Đề bảo: Tôi là đệ tử theo pháp phải qua đó lễ Phật và hỏi han; nhưng suy nghĩ kỹ lại Phật đang ở đấy, hoặc sắc vàng ròng là Phật ư ?. Vàng ròng mà lại có giới hạn?
Phật nói: “Tất cả các pháp là không, không hề có. Nếu hiểu mười hai nhân duyên là Không, thì hiểu các pháp chẳng phải tạo ra, chẳng phải làm ra, chẳng phải người, chẳng phải sĩ phu, không thọ mạng, chẳng phải thọ mạng, tức là thấy pháp. Thấy pháp không thọ mạng, còn thấy chẳng phải thọ mạng là thấy Ngã”.
Nói rồi liền chấp tay xướng lớn: “Cung kính đảnh lễ, đúng vậy”. Rồi trở lại vá y. Do vậy, mới nói Tu Bồ Đề là người thấy Phật trước nhất!”.
Phật là chủ của các pháp. Hiểu rõ pháp Không, tức là niệm Pháp.
Niệm Chúng, nghĩa là chúng Hiền, Thánh. Thông thường, chúng có nhiều thứ hạng. Ngoại đạo thì có chín lăm loại, mỗi loại đều có chúng.
Hoặc đó là những người hòa hợp, hoặc cũng có thể không đồng, cũng dùng giới luật, tự đề phòng, cũng thực hành thiền định, hoặc lấy vô tưởng làm cái đẹp tận cùng, đều tin ở việc mình làm tự cho là chơn chánh, chỉ không được tám phẩm Thánh đạo chân thật, chính vì thế, nên không thể đến Niếtbàn! Mặc dù có Năm thông trụ nơi sự sống lâu và vô tưởng kéo dài kiếp, nhưng đều không tránh khỏi sinh tử. Chỉ có người thuộc Bốn hướng, Bốn quả là Thánh chúng của Như Lai, mới không bị bốn ngựa chạy nhanh làm cho trôi nổi, bị tan tác vì Chín chỉ. Nên kinh nói: “Chín mươi sáu thứ Tăng, Tăng của Phật là chơn chánh hơn hết. Bốn bộ chúng của Như Lai đều đồng là dòng họ Thích, ví như nước của bốn sông Hằng, dù mỗi sông đều có riêng năm trăm nhánh, nhưng cùng hợp vào biển cả, và đồng một vị. Chúng cũng như thế, hoặc có dòng Sát-đế-lợi, hoặc dòng Bà-la-môn, hoặc dòng Trưởng giả, hoặc dòng Cư sĩ. Trong bốn dòng đó, đã là người học xuất gia thì đều là dòng họ Thích, không còn ngần ấy tên riêng, vì đã được chung gộp lại nên nghĩa ấy càng sâu.
Chúng Tăng: Là hợp lại tiếp nhận nơi ba thừa. La Hán tăng cũng xuất hiện ở đấy, Duyên nhất Giác, cũng xuất hiện ở đó. Đại thừa Tăng cũng ở trong ấy; thế nên gọi là ruộng phước tốt quý; giúp ích cho chúng sinh trong ba cõi, không có ai vượt qua được địa vị tốt đẹp nầy. Như Lai dù đã thành chánh giác, thường trở lại hướng đến chúng Tăng. Sám hối: Nghĩa là do đức (địa) tăng sâu dày, ba đời chư Phật, Thanh văn duyên giác, đều do tăng mà được diệt độ, cũng như Tỳ-kheo Phạm Ma Đạt, nương tựa Thánh chúng mà được cứu giúp toàn vẹn.
Niệm Giới: Nghĩa là thực hành giới thanh tịnh, đủ các luật nghi, cũng như thợ gốm điều chỉnh, sữa chữa đất thô, làm ra các đồ đựng theo yêu cầu lớn, nhỏ, vuông, tròn, mỗi vật dụng đều vừa ý mình mong muốn. Giới cũng như thế, nếu người giữ giới thanh tịnh, mong muốn sinh lên cõi Trời, để thọ hưởng phước ba cõi, hoặc có người muốn dứt trừ kết sử để cầu đạo, thì mọi nguyện cầu sẽ được vừa ý. Cũng như chiếc bình đẹp đẽ, tùy thuộc ý muốn người làm ra, tức sẽ được ngay. Vì giới là gốc, kiêm thực hành Ba mươi bảy phẩm và các Định, Tam muội, dứt trừ Bảy sử, Chín kiết, tiến tới thành trì Niết-bàn, ví như đất thô đã thành đồ đựng, không còn vụn nát nữa.
Niệm Thí: Nghĩa là thí có hai sự: hoặc thí có chủ, hoặc thí không có chủ. Lại có hai cách thí:
1. Gọi là cho
2. Gọi là bỏ
Lại có hai loại thí:
1. Thí của.
2. Thí pháp.
Cho tức thí có chủ. Bỏ tức thí không có chủ. Bỏ, thì bỏ kiết. Cho, tức trước kia người đã thọ lãnh của và pháp. Sở dĩ thí đến Niết-bàn là vì: Nếu khi cho người của cải và pháp mà tâm không mong cầu được đền trả, không chấp của, không chấp pháp kia, ba sự không có trở ngại, tức đồng với vô vi. Nếu có khả năng bỏ kiết, cũng là Niết-bàn. Bỏ hay cho đều cùng đến Niết-bàn, cũng như voi chạy theo tráng sĩ trẻ, thoái lui thì bị làm thịt. Nếu tiến thì sẽ phá tan quân, còn lui tức tự bỏ mạng cho thịt để ăn là lẽ tất nhiên.
Niệm Thiên. Có ba hạng trời: Có Trời đề cử, có Trời được sinh, có Trời thanh tịnh.
- Trời đề cử là sao?
Đó là Chuyển luân Thánh vương, được mọi người đã đề cử. Sở dĩ gọi là Trời, vì Thánh vương có mười việc thiện giáo hóa đời, khiến cho người đời đều sinh lên cõi Trời, và vì ở trên con người, nên gọi là Trời.
Hoặc có thuyết nói: “Thánh vương hơn Phật”.
- Vì sao nói thế?.
- Vì Thánh vương trị người đời, làm cho con người không còn đọa vào ba đường ác. Thời kỳ Phật ra đời, ba ác không đoạn, do đấy nên hôn.
Hoặc có thuyết nói: “Đức Phật hơn Thánh vương. Sở dĩ nói hôn, là vì Thánh vương dùng mười điều thiện giáo hóa đời, nhưng không vượt qua cõi người, Trời, Phật xuất hiện giáo hóa người đời, khiến họ được đến Niết-bàn, do đấy mà hơn”. Trời được sinh là sao?
Từ bốn Thiên vương, cho đến hai mươi tám cõi Trời, các người thọ hưởng phước, thảy đều Trời được sinh. Sở dĩ nói Trời được sinh, là vì còn lưu chuyển không dừng nghỉ, không lìa sinh tử, nên nói là Trời được sinh.
Thế nào là Trời thanh tịnh? Nghĩa là ba loại người: Phật, Duyên giác, Thanh-văn, đều dứt hết kiết, sử, ra khỏi ba cõi, thanh tịnh không dục, nên nói là Trời thanh tịnh.
Tám Trời Tịnh Cư: Thì vượt qua hai loại Trời đề cử, Trời được sinh vì là xứ thanh tịnh. Trong tám trời đó, là chỗ mà người niệm Thiên rất hâm mộ, Nhân niệm về Trời đề cử, Trời được sinh mà cũng có lý để đến Niết-bàn.
- Làm sao biết được như thế?
- Trong thành Xá vệ, có vợ chồng người thanh tín sĩ (Ưu bà tắc). Hai người không có con cháu, đều tinh tấn, tâm luôn có Tam bảo. Bấy giờ, người vợ mất sớm, được sinh lên cõi Trời Ba mươi ba làm Thiên nữ, đoan nghiêm vô song, trong cõi Trời ít ai sánh bằng. Thiên nữ tự nghĩ: “Ai gánh vác cho chồng ta?” Nên dùng thiên nhãn quan sát thế gian, thấy chồng của mình nay đã xuất gia học đạo, đã cao tuổi, lại tối tăm, kém cỏi, chỉ chuyên tin tưởng mà thôi, thường quét dọn sạch sẽ tháp, miếu, làm công hạnh. Thấy ông ta tinh tấn, siêng năng, về lý, lẽ ra được sinh lên cõi Trời, tất nhiên sẽ trở lại làm chồng mình. Lúc đó, ở trong tĩnh thất, đêm ngồi tư duy, đột nhiên thấy ánh sáng, ông ta ngạc nhiên vì có điều gì lạ, bèn ngẩng đầu ngước nhìn, thấy có thiên nữ, bèn hỏi nguyên do từ đâu đến đây? Thiên nữ đáp:
- Tôi từ trên cõi Trời Ba mươi ba đến. Tôi vốn là vợ ông, nay đã làm Thiên nữ trên trời, vì thấy không ai gánh vác cho chồng mình, nay xem ra ông đã tinh tấn, đúng ra phải trở lại làm chồng tôi. Chính vì lẽ đó, nên tôi đến đây để nói rõ ý muốn của mình! Nói xong, bỗng nhiên không thấy nữa! Vì đã trở về trời.
Lúc ấy, Tỳ-kheo cao tuổi, từ đấy về sau, gia công tinh tấn gấp bội, lại càng siêng năng tu bổ, sửa sang tháp miếu cũ, sớm chiều không lười biếng, tích lũy công phu, được nhiều phước đức, chuyển biến vượt trội hơn, bèn ứng sinh ở cõi Trời Đâu-suất thứ tư.
Thiên nữ lại dùng thiên nhãn quan sát, thấy Tỳ-kheo già kia lại ứng sinh lên cõi Trời thứ tư, lại đến nói: “Ông đã chứa góp tinh tấn nhiều, nên đã vượt qua cõi của tôi, do vậy, tôi lại không được ông làm chồng!”. Nói xong, quay đi.
Tỳ-kheo lại tỏ ra tinh tấn gấp bội, vượt trội hơn khi trước nhiều. Ban đêm thì kinh hành, ngày lại tư duy thiền, tâm ý chuyển biến sáng suốt, nghĩ suy Bốn đế. Như thế, không bao lâu, bèn chứng được quả vị A-la-hán. Đó gọi là nhân của niệm Thiên, đạt được đến Niết-bàn là vậy.
Niệm Thôi dứt: Nghĩa là được định. Sự thôi dứt có hai: Có thôi dứt tục, có thôi dứt đạo.
Sự thôi dứt tục: Nghĩa là thực hành, làm việc quên mệt mỏi, rất ít dừng nghỉ, lười biếng, nên gọi là thôi dứt tục.
Sự thôi dứt đạo: Nghĩa là người của định.
- Lấy gì để biết như thế?
- Xưa có Tỳ-kheo tên Đẳng Hội, ngồi thiền ý định gần bên đường cái. Lúc đó có năm trăm cổ xe chạy qua, tiếng động vang dội ầm ầm, Tỳ-kheo vẫn yên lặng không nghe. Lúc ấy, trời nổi sấm chớp, sét đánh thình lình, trong khoảnh khắc, đại địa lại chấn động, vẫn không nghe thấy gì. Những người đi qua, lại, làm bụi, đất bay tấp vào áo Tỳ-kheo. Lúc đó, có một người đến gần, thấy vị Tỳ-kheo nầy đang ngồi ngay ngắn, không lay động, mà bụi đất bám đầy áo, chẳng hay biết gì. Rồi Tỳ-kheo định giác, phủi bụi, đất, đứng dậy. Người kia hỏi:
- “Từ trước đến giờ, Thầy ngủ ư ?”.
Đáp: “Không!” Lại hỏi:
- Nếu không ngủ, thì vừa rồi, có đoàn xe chạy qua, và sấm sét, đất rung động, sao vẫn yên lặng, không kinh hãi? Do đâu mà được như đây?.
Đáp:
- Lúc tôi nhập tam muội thôi dứt, thì hoàn toàn không còn nghe thấy gì cả như thế.
Do vậy, nói là người được định thôi dứt, thì dù trời đất che lấp, rơi rớt, cũng không thay đổi chí mình, nên mới gọi định thôi dứt.
Niệm an ban (Niệm sổ tức): Nghĩa là thôi dứt các cử chỉ ngồi, dong ruổi. Lối đi đến đạo chẳng phải chỉ một cách được tỏ ngộ mà có nhiều cách, mỗi cách đều có tác dụng.
Do đâu biết được như thế?.
Xưa, Thân Tử đã từng cúng dường mười bốn ức Đức Phật, theo Phật nghe pháp, chưa từng tổng tập sổ tức; đến đời Phật Thích Ca Văn, từ Tỳ-kheo Mã Sư bắt đầu đạt được pháp không, tức có dấu ấn Kiến đạo. Đức Phật mới diễn đủ về Tuệ, Lậu dứt, Kiết hết. Nay là trí tuệ bậc nhất, không do quán sổ tức mà được Niết-bàn.
Mục-kiền-liên, xưa đã cúng dường chư Phật suốt trong ba mươi kiếp, tu hạnh đại thừa, mà sau cùng cũng không xong, gặp Đức Thế tôn, lui nhận Lậu tận, từ xưa đến nay, chưa từng tập sổ tức. Tỳ-kheo Ca-diếp, thuở xưa, cũng đã từng cúng dường ba vạn Như Lai, cũng chưa từng tập sổ tức, đã nên được Bích-chi-Phật, nay lui làm La-hán. Tỳ-kheo Mã Sư, ngày xưa cũng đã từng cúng dường bảy vị Phật, cũng không tập sổ tức, nay cũng Lậu tận. Xưa, A-nan đã từng cúng dường hai vạn Như Lai, đã từng theo chư Phật thăm hỏi, thọ nhận giáo pháp, cũng không tập sổ tức. Chỉ có La Vân Ma Kha Kiếp Thất La, từ nhiều kiếp xa xưa đến nay, đã thường tập an ban (sổ tức), nay cũng đến với đạo. Do đấy, nói lối đến đạo, chẳng phải chỉ một cách.
An ban (sổ tức): Nghĩa là biết hơi thở dài, ngắn, lạnh, nóng, chậm, nhanh, từ thô đến tế, dần dần chế ngự được tưởng tán loạn, tức là đạt được sự vi diệu. Hoặc nhờ vào hơi thở để giác ngộ. Hoặc phân biệt để hiểu rõ. Hoặc hành đầu đà thủ tiết. Hoặc nghe nhiều, ghi rộng. Hoặc thần túc hiện bày nhận thức vi tế. Hoặc tự làm thanh tịnh, hoặc giáo huấn để giác ngộ. Những thứ đó gọi là lối tuy khác nhau mà vẫn đồng trở về một chốn.
Niệm Thân. Nghĩa là phân biệt bốn đại, nhận hiểu rõ năm ấm, giống như trò ảo thuật, như chiêm bao.
Do đâu biết được niệm thân sẽ được đến Niếtbàn?.
Xưa, sau khi Phật nhập diệt khoảng một trăm năm, có vua A Dục, làm chủ cõi Diêm-phù-đề, quần thần, phu nhân, voi, ngựa, mỗi thứ đều có tám vạn bốn ngàn. Bấy giờ, vua hay đi tuần tra khắp nước, gặp vua Diêm La, có mười tám địa ngục, cũng có quan lại tra hỏi tù tội. Vua hỏi các quan tả hữu:
- “Đây là những người nào?” Đáp:
- Người nầy là vua của người chết; chủ phân biệt việc thiện, ác”. Vua nói:
- Vua của người chết mà còn có thể tạo ra địa ngục để trừng trị tội nhơn, ta là vua của người sống mà không thể tạo ra địa ngục ư ?.
Hỏi: Ai có thể tạo ra địa ngục? Các quan tâu:
- Muôn tâu! Chỉ có người ác cùng cực, mới có khả năng tạo ra địa ngục mà thôi.
Vua hạ lệnh cho các quan hỏi han, tìm kiếm người ác. Các quan vội đi tìm kiếm, thấy một người đang ngồi dưới đất, dệt bông, bên cạnh có cung, tên, kiếm, có cần câu để câu cá. Lại, dùng thuốc độc trộn cơm làm thức ăn cho chim sẻ. Quan trở lại, đem trường hợp nầy tâu với vua, có người ác như thế. Vua nói:
- Người ấy rất ác, tất nhiên hắn ta có khả năng làm được các việc ở địa ngục. Vua sai người gọi: “Nhà vua muốn gặp ông”. Người ác nói:
- Ta là tiểu nhơn, không có hiểu biết chi, vua dùng ta làm gì? Vị quan nói:
- Chính nhà vua muốn được ông cai trị việc địa ngục! Người ác kia, lập tức đi về nhà. Ở nhà có mẹ già, bèn nói với mẹ: “Nhà vua cho gọi con, mẹ ạ!”. Người mẹ nói: “Vua gọi con làm gì?”. Người con nói:
- Vua muốn sai con cai trị việc địa ngục.
Người mẹ nói:
- Con đi, mẹ làm sao sống? Người mẹ liền ôm chặt chân con, không buông ra. Ý người con quyết đi, liền rút dao chém mẹ. Giết mẹ xong, rồi đi đến chỗ vua. Vua hỏi:
- Mẹ không buông thả, do đâu ngươi đến đây được?. Hắn ta đáp:
- Tôi giết mẹ mà đến! Vua nói:
- Thật là người ác, tất nhiên có khả năng lo các vụ việc địa ngục. Vua liền ủy thác người nầy tạo dựng địa ngục. Thiết lập vạc nước sôi, cây rừng gươm, vua liền phong người nầy làm vua địa ngục, cho lập quan phụ tá, tất cả đều có sổ sách, như vua Diêm La. Vua hạ lịnh: “Nếu có người nào vào thành nầy, thì bất luận sang, hèn, đều sẽ bị trị tội. Vua nói: “Giả sử, chính ta mà bị vào trong nầy, cũng chớ cho đi ra”.
Lúc ấy, có vị Tỳ-kheo già tên là Thiện Giác, thường đi khất thực, khi đến bên ngoài cổng thành nầy, thấy có hương hoa đẹp, nghĩ bên trong chắc có người, tức thì vào thành, nhưng chỉ thấy cảnh trị phạt tội nhơn. Tỳ-kheo quá kinh hãi muốn ra trở lại, nhưng lính ngục không cho, và muốn dẫn đến vạt nước sôi. Vì Tỳ-kheo khẩn cầu:
- Hãy rộng lượng một chút cho tôi, để đến giữa trưa.
Trong khoảnh khắc có đôi nam nữ phạm tội dâm, được đem đến ngồi đó để chờ trị tội, cai ngục đặt cối giã gạo, để giã hai tội nhơn nầy thành đống nước bọt”.
Vị Đạo nhơn nhìn thấy thảm trạng nầy xong, bắt đầu nghĩ đến lời Phật dạy: “Thân người như bọt nước tụ họp, chí lý thay, lời nói ấy! Thế là trong khoảnh khắc, nhóm bọt nầy, lại biến đổi thành màu trắng. Vị đạo nhơn lại nghĩ đến câu: “Thân người như đống tro tàn, đổi thay, xê dịch không nhứt định, như trò ảo thuật, như biến hóa”.
Rõ ràng đấy chẳng có gì chắc chắn cả! Tức thì ý tỏ ngộ, Lậu tận, kiết sử đều được giải trừ. Bấy giờ, ngục tốt đẩy Thiện Giác vào vạc nước sôi, Tỳ-kheo cười! Lính ngục nổi cơn giận dữ, sai bốn người xốc hai nách, đặt lộn ngược vào trong vạc, tức thì nước nóng hóa ra mát lạnh. Tỳ-kheo liền biến hóa thành ngàn lá sen, và ngồi kiết già ở trong hoa sen”. Lính ngục ngạc nhiên sợ hãi, tâu với vua A Dục: “Trong ngục hôm nay, có sự kiện quái lạ, xin đại vương tạm rút lại lịnh để đến xem!”. Vua A Dục phán:
- “Trước kia, ta đã có một yêu cầu thích đáng là: Nếu ta vào trong ngục cũng không cho ra. Nay ta lại vào đó ư?” Quan lại tâu vua:
- Đại vương chỉ vào không sao cả.
Vua liền vào theo. Nhìn thấy Đạo nhơn đang ngồi trên hoa sen; liền hỏi:
- Ngươi là người nào ?. Đạo nhơn đáp:
- Ta là Đạo nhơn.
Đạo nhơn nói với vua:
- Ông là người ngu si!
Vua nói:
- Vì lẽ gì ngươi gọi ta là người ngu si ?. Đạo nhơn đáp:
- Ông khi xưa, khi còn là đồng tử, đã dùng một nắm đất dâng lên Đức Phật. Phật tiếp nhận và chú nguyện: “Về sau, ông sẽ là vị vua của cõi Diêmphù-đề, lên ngôi làm vua Thiết Luân, danh hiệu A Dục. Trong một ngày, ông sẽ khởi công thiết lập tám vạn vạn ngàn tháp Phật. Và ngục nầy là tháp Phật ư ?”.
Ý vua tức thì tỏ ngộ, bèn ăn năn hối lỗi, lạy Thiện Giác làm thầy, và từ đấy vua hạ lịnh bãi bỏ ngục, chấn hưng việc phước, cho xây cất tám vạn bốn ngàn tháp miếu. Do đấy, mới nói: “Niệm thân được Niết-bàn, là nghĩa đó”.
Thế nào là niệm Tử, được đến Niết-bàn?.
Xưa, vua A Dục phụng sự pháp Phật rất tinh tấn: thường xuyên cúng dường năm trăm chúng Tăng, bốn sự cúng dường không thiếu, cả bên ngoài, cũng cung cấp cho năm trăm người ở Aluyện-nhã khất thực. Lại còn thiết đãi cả năm trăm người để thực hiện pháp cúng dường.
Lại cung cấp của cho các người nghèo thiếu ở khắp trong thành. Việc bố thí kéo dài thời gian rất lâu, nên của báu trong kho, ngày càng giảm dần. Bấy giờ, em vua, tên là Tu Già Đố Lộ, không tin vào Tam bảo. Đại thần Da Xá, cùng phu nhơn là Thiện Dung, cũng không tin. Ba người đồng tâm lo cho vua, thường can gián: “Cúng dường Đạo sĩ, sẽ làm cạn kiệt, rỗng không tài sản của nước, đâu dùng những đạo sĩ nầy làm gì?”.
Vua A Dục nói:
- Ông nên giữ mồm giữ miệng cho tốt. Phàm phu, kẻ sĩ ở đời, sở dĩ bị chém thân, là do lời nói ác. Tu Già Đố Lộ lại tâu với vua:
- Các Đạo sĩ nầy đều là những người trẻ tuổi, miệng tha hồ nhấm nháp thức ăn ngon, độ tuổi mà dục tình đang sung mãn, nếu để ở hậu cung lâu với phụ nữ, há có thể tin được ư ?
Vua đáp:
- Đạo sĩ chế ra luật hình phạt, dùng pháp tự đề phòng, tiết thân, giữ gìn giới cấm, không bị khuất phục do sắc dục đâu!
Về sau, Tu Già Đố Lộ ra ngoài đi săn, trông thấy một người lẫn lộn trong đàn nai, liền ra lệnh bao vây bắt được người ấy, rồi hỏi:
Ông là ai? Người nầy đáp:
- Lúc lên tám tuổi, cha mẹ tôi đã ở trong núi nầy, tôi được uống sữa nai, nên mới sống cho đến hôm nay.
Lại hỏi:
- Lúc nai không có sữa thì cha mẹ ông ăn những gì? Người ấy đáp:
- Lúc đó tôi đi theo nai, ăn cỏ, lá để tự cứu mạng mình. Lại hỏi:
- Và như vậy có ý dục không? Đáp:
- Có!,
Tu Già Đố Lộ bèn dẫn người ấy về cung, đem chuyện nầy thưa với vua:
- Đây là người ăn cỏ, với thân hình ốm yếu, mà vẫn có tình dục, huống chi các Đạo sĩ, miệng tự tại uống ăn, thân thể khỏe mạnh, mập mạp, há không có tình dục ư ?. Nhà vua liền tâm niệm: “Phải tìm cách nào để hóa độ đứa em nầy?”. Liền bày mưu giả bộ muốn ra ngoài đi dạo, binh sĩ tập họp, nghiêm chỉnh chuẩn bị ra ngoài. Sau đó, Vua lén trở lại trong cung ẩn náu, không xuất hiện. Trước đó, vua đã bàn với các quan: “Nếu sau khi ta đi rồi, thì các khanh sẽ đề cử người làm vua. Các quan liền khuyên người em thử mặc vương phục. Người em giả vờ như không chịu.
Các quan lại nói :
- Chúng tôi sẽ lo hết, Hoàng đệ chỉ đội mão trời, mặc vương phục, để được tung hô! Sẽ có các quan đứng hầu bên trái, phải, như pháp của Thánh Vương.
Vua A Dục thấy em mình đã quyết định, bèn từ ngoài đi vào và nói:
- Như thế nào là đại vương? Người em tỏ ra rất xấu hổ khi thấy vua, xin vua ân xá, biết như vậy là tội lớn. Vua A Dục nói:
- Trẫm mới ra ngoài đi dạo, Khanh v.v.. tại sao liền làm việc nầy? Thiết luân của trẫm không tồn tại ư ?. Sao lại ngang ngược như thế được!?. Ta giết ông, điều nầy ông phải chấp nhận thôi. Vua liền sai các quan bắt giam, đồng thời bí mật sai người đưa tin cho Đạo nhân hay, rồi khéo nói lên ý mình như vầy: “Đương lai, ta sẽ giết ông, nhưng nghĩ đến ông mới làm vua chưa đầy ngày, ý chưa được thỏa thích. Nay tạm nhờ ông làm vua bảy ngày, cứ như pháp vua của Trẫm: Cũng có các quan theo hầu, cũng đủ cung nhơn, kỹ nữ, uống ăn tiến ngự đầy đủ. Sau bảy ngày, sẽ căn cứ nơi pháp, tích cực như giáo mà thi hành”. Mặc dù đầy đủ bảy ngày, nhưng tự trong tâm người em không có chút sướng vui nào!”.
Lúc này, Đạo nhơn lại đến, mang bát, cầm tích trượng tới thẳng trước cửa cung vua. Vua hỏi:
- Đạo nhơn muốn gì ? Đạo nhơn đáp:
- Muốn xin người chết! Vua nói:
Tội nhơn nầy phải chết, Đạo nhơn không xin được đâu!. Đạo nhơn lại nói:
- Chỉ xin để làm Đạo nhơn, sẽ khiến cho học đạo. Vua nói:
- Thử hỏi xem người nầy có khả năng học đạo được hay không?
Đạo nhơn liền hỏi:
- Nay ta xin ông để làm Sa-di. Ông đồng ý không? Đáp:
- Thành thật mà nói, nếu có sai khiến làm tôi tớ, tôi cũng sẽ không chối từ, huống chi lại được làm Sa-di?
Vua nói:
- Làm Đạo nhơn khó, phải thẩm tra xem có thể làm được không? Pháp của Đạo nhơn là phải mặc áo xấu, ăn dở, một lòng đem hình, mạng, hướng đến việc hành đạo mà thôi. Ông đã quen với thú vui riêng, có khả năng cam chịu khổ hạnh nầy không?.
Đáp: So với phải chết, khổ hạnh nầy không kham nổi sao?. Vua bảo:
- Nếu kham nổi ấy là đã hiểu ra, vậy phải khất thực bảy ngày.
Vua hạ lịnh cho nội cung, lúc Tu Già Đố Lộ đến khất thực, phải cho thức ăn rất dở.
Liền khiến mặc áo cũ xấu, tạo ra các phòng khất thực, chỗ nào cũng cho đồ ăn dở, Tu Già Đố Lộ cảm nhận tình sâu về tội miễn chết, nên cam tâm ăn thức ăn dở. Đủ bảy ngày, vua thấy tấm lòng của Tu Già Đố Lộ vẫn không có gì thay đổi, vẫn vững tâm, liền cho làm đạo, bảo:
- Ông thường nói: “Đạo nhơn nhàn nhã, nhiều tình, khó tin”. Vì ông khất thực nên mới cho ở trong cung của ta, cũng còn có chút tử tế, đạo nhơn khất thực, còn tệ hơn như thế, lẽ nào có thể có dục tình ư?. Liền giao phó Thiện Giác làm Sa-môn. Vua sai đến thành Thạch Thất. Trong thành ấy thực hành các thiền quán, hoặc ở nơi gò mả, hoặc ở bên cội cây. Bấy giờ, Sa-môn Thiện Giác đang ở trong chốn gò mả để quán tử thi. Ban đêm, trông thấy có ngạ quỷ đánh một tử thi, Đạo nhơn liền hỏi:
- Vì lý do gì đánh tử thi nầy? Ngạ quỷ nói:
- Ta ngồi ở đây, tử thi làm khổ ta như thế, do đấy ta mới đánh. Đạo nhơn nói:
- Vì sao không đánh tâm ông? Đánh tử thi nầy phỏng có ích gì? Trong khoảnh khắc, lại có vị Trời dùng hoa trời Văn-đà-la rải lên trên tử thi.
Đạo nhơn lại hỏi:
- Vì lẽ gì rải hoa trên tử thi hôi thối nầy?.
Đáp:-Ta do tử thi nầy mà được sinh lên cõi Trời. Tử thi ấy là bạn lành nên ta đến rải hoa để đền đáp lại ơn xưa!
Đạo nhơn nói:
Vì lẽ gì không rải hoa trong tâm ông, lại rải hoa trên tử thi hôi thúi ấy?.
Phàm gốc của thiện, ác đều do tâm tạo ra. Các ông sao lại bỏ gốc lấy ngọn kia?.
Lúc ấy, Tu Già Đố Lộ tự nghĩ: “Ta từ chết mà được sống, lại do nhân duyên nầy sẽ được giải thoát. Bèn quán thân niệm tử, suy nghĩ phân biệt, hiểu rõ lẽ vô thường, khổ, không, vô ngã, liền đạt được A-la-hán. Do đấy, mới nói: “Người niệm Tử, cũng đạt đến Niết-bàn là vậy”.
Sở dĩ Như Lai nói rộng về bốn bộ, mỗi bộ đều nói là thứ nhất, là vì trong các pháp để lại cho mạt thế ở vị lai, hoặc có Phạm chí ngoại đạo bốn họ và bốn bộ đệ tử, cùng tranh luận phải trái, tự xưng mình là tôn quý còn người khác là thấp hèn… Những bọn như thế, không thể kể hết, nên vì dự phòng việc đó khi chưa xảy ra, nên mới mở ra con đường tự túc.
Nay gọi Câu Lân là người thứ nhất, vì đó là người hào quý của dòng họ Thích. Cũng như Vua lựa chọn người tùy tùng phải là người chịu bỏ công khó nhọc nên phải chọn họ là thứ nhất.
Lại nữa, thọ nhận pháp giáo hóa đầu tiên, không có ai có khả năng thọ nhận trước mình, nên cũng gọi là thứ nhất. Khéo léo có thể khuyến dụ, dẫn dắt, tương lai nuôi dưỡng Thánh chúng, thọ danh xưng Thiện Lai, trước tiên, nên cũng được gọi là thứ nhất. Như được quy ngưỡng trong cõi Người thì Già-ca-việt là hơn hết; trong các ánh sáng, mặt trời là hơn hết; trong các tinh tú, mặt trăng là hơn hết; trong vạn sông, biển là hơn hết; trong Tứ Thiên Vương, Đề Đầu Lại Trá là hơn hết; trong trời Ba mươi ba, Thích Đề Hoàn là hơn hết; trong sáu trời cõi Dục, Ba Tuần được cho là hơn hết; trong mười tám trời cõi Sắc, Tịnh Cư là hơn hết ; Trong chín sáu bộ tăng, Thích Tăng là hơn hết; trong chín mươi sáu thứ đạo, Phật đạo là trên hết; trong năm người Tỳ-kheo v.v., Câu Lân là hơn hết.
Do đấy mà nói Câu Lân là thứ nhất.
Tỳ-kheo Ưu-đà-di là người khuyến dụ, dẫn dắt hơn hết. Tỳ-kheo hành khuyến dụ, dẫn đạo, sở dĩ gọi hơn hết là vì Đức Phật sắp trở lại độ bổn quốc, trước hết là thể hiện thần biến, nhằm đối đáp với nhà vua nên mỗi mỗi đều được giải thích. Số người được hóa độ không thể kể hết, nên nói khuyến dụ, dẫn đạo là hơn hết.
Tỳ-kheo Ma Ha Đàm, thì căn nhạy bén, mẫn tiệp còn Tỳ-kheo khác đều Lậu tận, thành tựu thần thông. Tỳ-kheo nầy, lậu chưa tận mà đã thành tựu thần thông nên xưng là Câu-luật-đà.
Thông thương người cỡi hư không đều dùng thần túc, còn Tỳ-kheo nầy có thể đi trên không như bước đi trên đất liền, đó là khả năng có được của Tỳ-kheo Thiện Trửu, nên gọi là Câu-luật-đà.
Thần túc của Mục Liên, là lặng lẽ đi qua cõi nước khác. Thần túc của Tỳ-kheo Bà Phá, lấn vào hư không, tiếng chấn động gần xa, vì có năng lực thâu phục ngoại đạo, nên gọi là Câu-luật-đà.
Tỳ-kheo Ngưu Cước, do hai sự nên không được ở thế gian. Hai sự đó là gì? Chân của Tỳ-kheo nầy trông giống như chân bò và ăn no thì nhai lại. Do hai việc nầy, nên không được ở thế gian. Nếu, Phạm chí ngoại đạo, thấy Tỳ-kheo kia nhai lại, thì cho Sa-môn ăn không phi thời, sinh tâm chê bai. Do đấy, Đức Phật khiến lên cõi Trời; ở nơi giảng đường Thiện Pháp ngồi thiền, định ý. Tỳ-kheo Thiện Giác thường vì chúng Tăng nên cũng lại đến cõi Trời.
Sau khi Phật nhập Niết-bàn, Tôn giả Ca-diếp đánh kiền chùy, tập họp chúng Tăng rộng rãi, lệnh cho A-na-luật quán sát khắp thế giới, để xem ai không đến họp. A-na-luật, liền quán sát hết thế giới, chỉ có Tỳ-kheo Kiều Tu Hoàn, hiện nay đang ở trên trời, liền sai Thiện Giác, lệnh cho mời đến. Thiện Giác đến cõi Trời Ba mươi ba, thấy Tỳ-kheo nầy đang nhập định Diệt tận tại giảng đường Thiện pháp, ông liền khảy móng tay đánh thức và nói: Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn đã mười bốn ngày. Ca-diếp tập họp chúng, sai tôi lệnh cho ông nên xuống thế gian, đến chỗ chúng tập họp.
Kiều Tu Hoàn đáp:
- Thế gian đã không, tôi đi làm gì? Tôi không chịu trở lại đời, mà muốn nhận lấy Niết-bàn. Liền đem y, bát phó thác cho Thiện Giác trở lại với chúng Tăng, mà thủ chứng Niết-bàn. Do nhân duyên nầy, khéo ở nơi cõi Trời; nên gọi là Câuluật-đà.
Tỳ-kheo Thiện Thắng, vốn là con của quý tộc, lúc mới sinh ra, đã có giày vàng tự nhiên mang vào chân, cha mẹ rất quý trọng, nên xây cất cung điện ba thời, kỹ nữ vui vẻ, luôn ở bên cạnh. Lúc đó, vợ đang nằm ngủ, nhìn răng trắng của nàng, thân hình dù đẹp, nhưng chỉ là xương thôi. Quán khắp thân, thấy toàn xấu xa, đáng sợ, bất giác rùng mình. Ngoảnh lại nhìn nhà cửa, cũng giống như mồ mả, quá sợ hãi, bỏ chạy ra cửa, được hai vị thần đón tiếp, bèn hỏi hai vị thần:
- Hiện nay, ách nạn chồng chất, ai có khả năng cứu? Hai vị thần đáp:
- Chỉ có Đức Thế Tôn là khéo có khả năng cứu vớt tai ách.
- Hỏi: Nay Đức Thế Tôn ở đâu?
- Đáp: Ở gần Kỳ Hoàn. Có thể đến thưa thỉnh.
Tức theo ánh sáng mà đến chỗ Phật, đến nơi đầu, mặt lễ sát chân Phật. Phật dựa vào bổn tâm để giảng nói diệu pháp, tức thì tâm mở mang, Lậu tận, kiết dứt hết. Do nhân duyên nầy, Tỳ-kheo Thiện Thắng, quán xét điều xấu ác phơi bày là Câu-luậtđà.
Ưu Lưu Tỳ Ca-diếp, sở dĩ gọi là thư nhất, là vì từ đời trước đến nay, anh em có ba người, thường có ngàn đệ tử theo nhau, nay gặp Phật Thích Ca Văn ra đời, Phật dùng mười tám pháp biến đổi, độ cho ngàn người của Ca-diếp, chúng của Phật được thành, bốn sự cúng dường cũng từ đây mà hưng thịnh. Do đấy mới nói Ưu Lưu Tỳ Ca-diếp có khả năng bảo vệ Thánh chúng, cúng dường là Câuluật-đà.
Giang Ca-diếp, sở dĩ gọi là thứ nhất, vì khi Phật thuyết pháp, đều nhất tâm nghe nhận, nghĩa lý tinh túy vào sâu trong thần thức, các kiết tiêu tận, bên trong đầy đủ thật đức, thấu đến xương tủy, khiến tủy mỡ hiện ra ngoài, hình trạng giống như mồ hôi. Do đấy mới nói là tâm ý lặng yên, có khả năng hàng phục các kiết, nên gọi là Câu-luật-đà.
Tỳ-kheo Mã Sư theo Phật thọ học, vừa trải qua bảy ngày, đã gồm đủ oai nghi, vào thành Tỳ Xá Ly khất thực. Khi đến trước cổng thành, từ xa, Ưu-bađể-xá thống thấy Mã Sư, oai nghi đĩnh đạc, pháp phục chỉnh tề, trong lòng hết sức vui vẻ, gặp nhau, liền hỏi:
Hỏi:-Ông là ai?.
Đáp:-Tôi là Sa-môn.
Hỏi: Ông tự mình biết hay là có Tông sư?
Đáp: Có thầy.
Hỏi: Thầy là ai? Thuyết pháp như thế nào?.
Đáp: Thầy tôi danh hiệu Thích Ca Văn, là Trời trong các cõi Trời, là bậc chí tôn trong ba cõi. Lời dạy bảo của ngài là dùng “không”, “vô vi” làm chủ, vì dứt tâm, đạt bổn, nên hiệu là Sa-môn.
Ưu-ba-để-xá nghe diệu ngữ nầy, liền đạt được dấu ấn Đạo (Tu-đà-hoàn). Đồng học của Để-xá, hai người xưa có lời thề ước: Người nào được cam lộ trước, người đó phải báo cho biết ; do đó Để-xá liền từ giã Mã Sư, tới chỗ Câu-luật-đà. Thấy Đểxá đến với vẻ mặt khác thường, ngờ là đã được cam lộ, bèn hỏi:
- Ông đã được cam lộ ư ?.
- Đáp:-Đã được.
- Vậy, cam lộ ra sao?.
- Cam lộ, nghĩa là đã hiểu rõ các pháp là không là vô vi.
- Câu-luật-đà liền suy nghĩ và đạt được dấu ấn Đạo.
Sở dĩ Mã Sư đạt oai nghi bậc nhất, là vì đời trước đã từng làm khỉ vượn trong năm trăm năm. Nay được làm người, tánh cũng còn vội vã, quấy nhiễu. Xuất gia bảy ngày, tức thì đổi thay ngay dấu vết cũ. Học dù đầu tiên còn nông cạn, nhưng khéo tuyên nói giáo pháp, khiến cho người xem thấy được dung mạo vui vẻ, mà thông đạt giáo nghĩa, vì do oai nghi khiến cho cảm ngộ, nên gọi là Câuluật-đà.
Thân tử sở dĩ xưng là trí huệ thứ nhất, là vì đức Thế Tôn có nói: “Muốn biết Thân Tử là người có trí huệ ít hay nhiều, thì hãy dùng núi Tu-di làm nghiên, lấy nước nơi bốn biển lớn làm mực để viết, lấy gỗ tre trong bốn cõi thiên hạ làm bút, người đều đầy tràn làm, thầy dạy chữ muốn chép trí huệ của Thân Tử hãy còn không thể chép hết, huống chi là hạng phàm phu năm thông mà có thể lường tính được ư ? Vì thế, nên gọi là trí huệ Câu-luậtđà”.
Mục-kiền-liên sở dĩ gọi thần túc Câu-luật-đà, là vì Đức Thế Tôn cũng thuyết minh có chứng cứ: “Ngày xưa, vào thời kỳ ba tai họa lưu hành, dân chúng bị đói khổ, Tôn giả Mục-kiền-liên tâm niệm: “Lớp dưới của đất nầy đã cũ, vì có nhiều ngày, lớp đất phì nhiêu, màu mỡ ở giữa. Nay, dân chúng đói khổ, muốn lật trái lớp đất nầy để lấy lớp đất dưới phì nhiêu, hầu cung cấp cho sự sống của dân chúng”. Nghĩ như thế xong, bạch Phật: “Nay con muốn dùng bốn thần túc, lật trái mặt đất, lấy lớp đất phì nhiêu, để đem lại sự sống cho người dân, như thế có thể được chăng? Đức Phật nói:
- Thôi đi Mục Liên! Thần túc của ông, tuy có năng lực lật lớp đất nầy là không khó, nhưng chúng sinh ở trong đấy đâu có thể dùng một tay nắm bắt côn trùng, một tay lật mặt đất. Phật nói không thể. Vì sao thế? Vì Tỳ-kheo của những đời sau, phần nhiều không có thần túc. Giả như đời vị lai, khi có nạn đói lan tràn, quốc vương, quan, dân ra lệnh cho Sa-môn cuốc lật đất lên, nếu không làm được, thì chẳng phải là Sa-môn. Vì lấy thần túc nầy để chứng minh, nên gọi Mục Liên là Câu-luậtđà.
Tỳ-kheo Nhi Thập Ức Nhó sở dĩ xưng là khổ hạnh thứ nhất, vì thuở trước, ở nước Chiêm Ba có vị đại trưởng giả, sinh một đứa con đoan nghiêm, đẹp đẽ, dưới bàn chân mọc ra sợi lông dài khoảng bốn tấc, vì chưa từng bước xuống đất, nên phía dưới bàn chân mọc lông.
Xưa, thời Phật Ca-diếp, làm đại trưởng giả, có của báu vô tận, vì chúng Tăng xây cất tinh xá, giảng đường xong, dùng thảm lông cừu trắng trải dưới đất, để chúng Tăng giẫm đạp lên. Do nhân duyên nầy, nên được sợi lông mọc ra dưới bàn chân.
Sở dĩ có tên Nhi Thập Ức Nhĩ là vì lúc sinh, tự nhiên trong lỗ tai sinh ra ngọc báu, trị giá hai mươi ức, tức dùng điều ấy làm tên gọi.
Bấy giờ, vua Bình Sa nghe chuyện lạ kỳ ấy, muốn được thấy tận mắt, nên hạ lịnh khiến người đó đến. Tính dặm đường, phải mất mười lăm ngày đi xe mới tới. Sắp xuống xe, liền cho trải thảm lông cừu trên đất, sau mới đi trên đấy.
Nhi Thập Ức Nhĩ đã đến chỗ vua, vua bảo ngồi. Sau khi hỏi qua sức khỏe xong, nghe đồn người ấy có thể đánh đàn cầm, tức thì vua lịnh cho chơi đàn cầm. Vui vẻ với nhau xong, cùng đi đến chỗ Phật. Bấy giờ, đức Phật đang thuyết giảng rộng rãi diệu pháp cho đại chúng. Người ấy trông thấy Phật, hoan hỷ, đầu mặt lễ sát chân Phật, Phật cho phép ngồi, nghe pháp, lòng hết sức vui vẻ, cầu xin xuất gia, liền cho làm Sa-môn.
Sa-môn nầy rất tinh tấn, dũng mãnh kinh hành không trễ nải. Vì da thịt mềm mại, nên dưới bàn chân bị rách nát, chỗ kinh hành máu tụ thành bùn đất. Rất lâu mà lậu chưa dứt trừ. Quá mệt mỏi và thấy có phần trễ nai, nên tâm ông ta nảy sinh ý định muốn trở lại thế tục: “Nhà ta của tiền dồi dào tự ý tiêu dùng, rộng làm việc phước đức, cũng tránh khỏi được ba cõi ác. Đức Phật biết ý nghĩ của Samôn, nên hốt nhiên, ở trước mặt Tỳ-kheo, từ dưới đất, vọt lên, hỏi:
- Ông vốn biết đánh đờn cầm, nếu mọi dây đàn căng thì có trở thành khúc nhạc hay không?.
Đáp: Không thành!
- Nếu mọi dây đàn đều chùng, thì có thành không?.
Đáp: Không thành! Bạch Thế Tôn!
- Nếu thong thả, không gấp, thì dây đàn và cây đàn sẽ tương ưng, có thành âm thinh hay đẹp không?.
Đáp:-Bạch Thế Tôn, được thành!
Phật nói:-“Việc tu hành cũng như thế. Không gấp vội, không quá thong thả, trung bình, thích hợp, điều hòa thì mới có thể thành đạo”.
Tỳ-kheo suy nghĩ lời Phật nói, tâm mở ra sáng suốt, ý thông tỏ, bèn thành A-la-hán. Do nhân duyên nầy, nên gọi là khổ hạnh Câu-luật-đà. A-na-luật sở dĩ gọi thiên nhãn Câu-luật-đà, là vì trong khi Đức Phật vì đại hội thuyết pháp, thì A-na-luật ngủ ngồi trên tòa. Đức Phật thấy A-na-luật ngủ, bèn nói:
- “Nay Như Lai thuyết pháp, vì lẽ gì ông lại ngủ? Hễ ngủ thì tâm ý bế tắc, đâu có khác gì người chết?”.
A-na-luật cảm thấy hổ thẹn, khắc ghi vào tâm và tự phát lời thệ: “Từ nay về sau, không dám ngủ nữa!”. Vì không ngủ quá lâu, nên đôi mắt phải mất đi ánh sáng. Vì sao? Vì thông thường trong sáu cái ăn, mắt có hai cái:
1. Nhìn sắc
2. Ngủ nghỉ
Năm tình (căn) mỗi cái cũng đều có hai cái ăn: Người được ăn, sáu căn đều trọn vẹn. Vì do mắt mất ngủ, mất ăn, nên mất đi nhãn căn. Phật sai Kỳ Vức chữa trị cho A-na-luật. Kỳ Vức nói:
- Không ngủ thì không thể chữa trị. Đã mất nhục nhãn thì không có cách gì nhìn thấy lại.
Năm trăm đệ tử của A-na-luật đều phân tán bỏ đi. Người giúp việc xỏ kim, giặt giũ, may vá y cũng bỏ đi. Chỉ hết, lại xỏ kim, không người có thể nhờ cậy, giúp đỡ, ông la lớn: “Ai là người muốn cầu phước, hãy xỏ kim giùm cho tôi!”. Bỗng nhiên, Đức Thế Tôn bước đến trước mặt Na-luật, lấy kim chỉ rồi nói:
- “Có ta xỏ kim cho ông”. Hỏi: Là ai?.
Đáp: “Ta là Phật”. Na-luật nói:
- Đức Phật đã có đủ phước, sao còn muốn cầu phước?. Phật đáp:-Phước đức có thêm là nhàm chán ư?
A-na-luật ngẫm nghĩ:
-“Phật còn cầu phước, huống chi là với phàm phu?”.
Cảm kích trong tâm, một lòng hướng về Phật, nhìn thật kỹ. Vì tâm chí thành, nên bỗng nhiên được thiên nhãn. Do được thiên nhãn, nên A-na-luật suy nghĩ trở lại, liền đắc A-la-hán. Thông thường La Hán đều có ba nhãn: Nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn. A-na-luật đúng là chỉ có hai nhãn: Tuệ nhãn, Thiên nhãn. Cho ba nhãn cùng nhìn là loạn nhãn nhục và thiên nhãn tranh công. Vì quan sát thô tế lẫn lộn, nên gọi là loạn. Na-luật tập trung sử dụng thiên nhãn, quán sát đại thiên thế giới, tinh hay thô đều ngắm nhìn trong hình chất riêng biệt, có thức, vô thức, đều biết rất rõ ràng.
Chỗ thấy của trời, người, có tịnh, bất tịnh, người quán tịnh cùng cực, thấy các thứ có hình loại trong thế giới vô thức, hữu thức, thảy đều lay động, nghi cho là trùng mà không phải trùng”.
Người quán bất tịnh, thấy hột cơm động đậy đều cho là trùng. Sự hơn, kém khác nhau do từ đấy mà có. Vì vậy, nói là thiên nhãn Câu-luật-đà.
Tỳ-kheo Ly Việt ngồi thiền, nhập định, sở dĩ gọi Câu-luật-đà, là vì:
Xưa, vua Ba Tư Nặc ra lệnh thỉnh Tỳ-kheo Ly Việt đang ngồi thiền ở dưới một tàn cây vào cung dự bữa ăn. Trải qua sáu năm, không giao tiếp với người nào, chính vì muốn di chuyển đến nơi cây khác, nhưng thần cây không cho. Lấy gì làm chứng?.
Vì khi sắp dời đổi chỗ ở, thì thần cây rải hoa cúng dường, lấy đấy làm chứng, biết là thần cây kia không cho.
Lấy gì để biết ý thần cây kia, không nghĩ đến người khác?.
Lúc ấy, Câu Hi La đến chỗ Tỳ-kheo Ly Việt, nói: Sao không ngồi dưới tàn cây xanh tốt, ngồi ở tàn cây khô nầy làm gì?.
Đáp: Gọi là bậc nhân, thì bốn biện tài là thứ nhất, có khả năng phân biệt nghĩa pháp, kể cả sự ứng từ. Không thẩm tra, phân biệt cây khô là ở trong biện nào? Tôi đã tự ngồi ở đây ngót sáu năm về trước, đâu có phân biệt tươi, khô. Nhân giả mới đến mà đã phân biệt rồi sao?.
Tỳ-kheo Ly Việt được nhà vua thỉnh vào cung, ngày ngày cúng dường, khiến các phu nhơn đều tự phải ngay thẳng. Sáu năm do bố thí phân phát đầy đủ, thời gian ấy chẳng cần biết danh tánh thí chủ. Vua nói: “Sáu năm thọ thỉnh mà không biết tên người, thí chủ sao phải nhứt định như thế?”
Đáp: “Tôi ngồi dưới tàng cây, còn không biết cây khô, cây sống, huống chi là nhận thức danh tánh người nào? Phước cúng dường thiền, công đức ấy đạt được chí thuần, thì tùy thuận theo sở nguyện của vua, và có thể tiến đến Niết-bàn. Là ruộng phước tốt, nên gọi là ưa vui thiền Câu-luậtđà”.
Tỳ-kheo Tha La Bà Ma, khuyên tuân theo cách thức thí, lập trai giảng. Phật giao tăng sự cho Tỳ-kheo, này phân công thích nghi trong bộ chúng. Nào cần Khế kinh thì giao Khế kinh, cần Tỳ-ni thì giao Tỳ-ni, cần đại pháp thì giao đại pháp, cần ngồi thiền thì giao ngồi thiền, cần tòa cao thì giao tòa cao ; người nào cần khất thực thì giao khất thực, cần giáo hóa thì giáo hóa, tùy từng việc, từng phần mà đều tùng thuận.
Nếu có đàn việt đến thỉnh, thì theo thứ tự mà sai đi, bất luận cao thấp. Nếu có thỉnh riêng, thì không có thể lệ nầy.
Bấy giờ, đàn việt thỉnh hết, nhóm Lục quần Tỳ-kheo cũng theo thứ lớp, nhưng gặp nhà nghèo, ôm hận trở lại, hướng về Đức Phật, oán trách: “Ma La thấy rõ là đã lừa dối, tự mình tiếp nhận chỗ tốt, đem nhà nghèo phân phát, như vậy là bình đẳng sao?”. Phật hỏi Ma La:
-Ông có thật sự như thế không?. Đáp:-Không, bạch Thế Tôn!
Thế là đến giờ, Ma La không có ăn, giờ ngọ sắp trôi qua, bèn dùng phân bò hòa với nước uống để đúng trai. Nghe nhóm Lục quần nói, Ma La không có lý do để tự biện minh, liền đến trước Phật, mửa ra nước phân nầy. Lục quần hổ thẹn, hai người cảm kích khiến kiết Lậu tận, hai người trở lại làm bạch y, hai người thì từ lỗ chân lông trên mặt chảy ra máu sôi, mạng chung, đọa ngục A Tỳ.
Trai giảng: Chúng bộ tập họp cả lại, để thọ trai, tập học chung; vì khéo có khả năng khuyến thỉnh thành tựu, nên gọi là bậc nhất.
Tiểu Đà-la-bà là chủ xây dựng phòng nhà cho tăng bốn phương.
Công sức của họ được thành tựu chung, nên không gọi riêng.
Tỳ-kheo Lại Trá-bà-la, sở dĩ được gọi hào quý, là vì thuộc dòng dõi vua, là người thông tuệ hiểu rộng, ít ưa theo đuổi việc học. Nghe Phật xuất thế, khai hóa những kẻ ngu si mê tối, liền đến Tinh xá
Kỳ Hoàn, nghe thâu nhập lời pháp, nghe lời dạy mà nhập thần, suy nghĩ rồi muốn xuất gia, quay về thưa với cha mẹ, cha mẹ không cho. Tâm tự suy nghĩ: “Tất cả chúng sinh đều là cha mẹ mình, há riêng chỉ hai người là cha mẹ hay sao?”. Nghĩ như thế xong, bèn đến chỗ Phật, xin được làm Sa-môn. Phật hỏi:
- Cha mẹ ông có cho phép hay không?
Bà La bạch:
- Không cho! Bạch Thế Tôn.
Anh của ông ấy là quốc vương. Bà La lại đều tâu vua, xin cầu đạo, Vua cũng không cho bèn suy nghĩ phải bày phương tiện để xuất gia vì đạo. Chính vì cha mẹ chỉ có một con, nên không muốn lìa xa nửa bước!
Trong khoảng thời gian cần thiết nầy, Bà La chỉ xin một mình được ngồi trên chiếc giường hẹp, dài trước cha mẹ, không uống, không ăn. Trải qua sáu ngày, cha mẹ hoảng sợ, vì e con mình sẽ chết mất. Nếu đứa con nầy chết đi thì còn ai thay thế nó? Bà la thưa cha mẹ xin cho con một yêu cầu: “Nay, xin cha mẹ cho con vì đạo, con sẽ thường xuyên trở về nhà thăm.
Cha mẹ đã đồng ý, Bà La liền đến chỗ Phật. Đức Phật hỏi:
- Cha mẹ đã cho ông xuất gia rồi ư ?.
- Dạ đã cho, bạch Thế Tôn!. Phật bèn dạy:
- “Thiện lai Tỳ-kheo! Ngài dùng tay xoa đầu
Bà La, râu tóc tự rụng, sạch như mới cạo được bảy ngày, ca sa đắp vào thân, trở thành Sa-môn. Phật thuyết giảng bốn đế, Bà la nghe pháp chứng đắc La Hán”.
Do yêu cầu từ trước, nên Bà La được trở về nhà, đắp y, bưng bình bát đứng trước cổng. Lúc ấy, người giúp việc đem thức ăn ra cúng dường. Bà La giở nắp bát xin nước uống, sắp đổ nước vào, người giúp việc ngẩng đầu lên nhìn, biết là đại gia, bèn vào thưa: “Công tử đang ở bên ngoài. Cha, mẹ nghe nói đều mừng vui chính xác là người con cha mẹ đã đồng ý cho làm người Hiền, liền bước ra đón vào nhà, cùng lo sửa soạn các thức ăn ngon”.
Bà La thưa: “Ngày giờ đã qua, đúng pháp nên con không ăn”. Cha mẹ nói:
- Ngày nay đã như thế, ngày mai con hãy đến sớm! Bà La vội trở lại chỗ đã nghỉ.
Sau khi Bà La trở về, ở nhà cha mẹ căn dặn các phụ nữ hãy nhớ: “Ngày mai con ta sẽ đến, các ngươi phải tự trang điểm, ăn mặc cho thật đẹp, khả dĩ khiến con ta trở lại làm bạch y, đó là điều tốt nhất cho các ngươi”. Lại lịnh cho quan lại giữ kho báu xuất các ngọc báu, vàng, bạc, mỗi thứ đều để từng nhóm riêng, với ý mong muốn con sẽ bị xao động, để rồi nhiễm tục mà trở lại gia đình.
Sáng hôm sau, đến giờ ăn, Bà La bưng bát trở lại nhà mình; đến tòa ngồi xong, các phụ nữ, kẻ hầu với dáng vẻ thùy mị, hoặc rải hoa, hương; hoặc phủi y, dũ nệm cỏ, cử chỉ luôn dịu dàng khả ái.
Bà La nói:
- Các em đâu phải phiền hà khổ nhọc như vậy! Các phụ nữ có cảm nghĩ:
- “Giữ lấy chúng em làm em gái, sẽ không có lý để trở lại làm Sa môn”.
Bà La nói với cha mẹ:
- Cha mẹ dùng vật báu này làm gì? Những thứ ấy chỉ mê hoặc con người chúng sẽ gây ra nhiều tai họa, sao không vứt chúng xuống đầm lầy, dưới chân núi cho rồi!?.
Cha mẹ can gián:
- Đạo đức ở tâm, đâu cần phải xuất gia. Trưởng giả Chất Đa, cũng tại gia mà đắc đạo!
Bà La nói:
- Thưa cha mẹ! Con chưa nghe người tại gia nào mà được dứt hết các lậu. Trưởng giả Chất Đa đắc đạo, vẫn còn có phần của một đời còn lại, đâu đủ là cao quý? Dù là dòng dõi hào tộc, cành vàng lá ngọc, nhưng đều vứt bỏ để đi xuất gia. Cho nên gọi Ngài là xuất gia bật nhất.
Tôn giả Ca Chiên Diên, sở dĩ được xưng là người giỏi phân biệt nghĩa, là vì sắp nêu bày giáo pháp, trong tâm Tôn giả thường suy nghĩ: “Nhơn gian luôn ồn tạp, huyên náo như thế thì, tư duy tinh tấn sẽ không chuyên nhứt, nên phải ẩn náu trong vùng tĩnh bảy ngày để, soạn tập đại pháp, xong rồi đệ trình lên Phật. Phật khen:
- Lành thay!
Thánh đã chấp thuận dùng làm một tạng, nghĩa nầy vi diệu, hàng phục được ngoại đạo. Cho nên gọi Ngài là giỏi phân biệt bậc nhất.
Lại nữa, gọi là thứ nhất, vì đức Thế Tôn đến nước Thích Sí, ngồi bên một cội cây, tay cầm cây gậy. Dòng họ Thích đều đến xem Phật, có người nói:
- Trước đây đã từng lìa bỏ con gái tôi, vốn rất xinh đẹp hơn hết. Ý hiện nay ra sao?.
Đáp: “Về ý, nghĩa là không vướng mắc thế gian, không nhiễm nơi đời”.
Phạm chí nói: “Lành thay! Nhận hiểu, rồi lại bỏ đi!”
Về sau, các Tỳ-kheo không hiểu lời nói này, hỏi Tôn giả Ca Chiên Diên: Phật khen Nhân giả là biện tài, phân tích lý, hiểu nghĩa bậc nhất, vậy Đức Thế Tôn trả lời: Phạm chí không nhiễm, không vướng mắc, nghĩa ấy thế nào?.
Bấy giờ, Tôn giả Ca Chiên Diên liền giải thích: Tỳ-kheo nên biết: Mắt duyên sắc khởi thọ, duyên thọ khởi tưởng, duyên tưởng qua lại; sinh Thức phân biệt, khởi tâm vướng mắc. Đối với sự vướng mắc Phật đã vĩnh viễn lìa bỏ. Các Tỳ-kheo nghe nói lời nói nầy, ý cảm thấy khoan khoái.
Tôn giả Ca Chiên Diên quán sát ý của các Tỳ-kheo, biết không hiểu rõ, liền dẫn dụ: “Có người đối với vấn đề nầy, muốn cầu vật bền chắc, mà lại bỏ gốc rễ, lấy cành lá, thử hỏi có được vững chắc không?”.
Đáp:-Không được.
Các ông v.v.. cũng như vậy. Đức Phật ở gần nơi đây mà lại chẳng thấy nghe, há không phải là bỏ gốc, lấy ngọn đó sao?.
Các Tỳ-kheo liền đến thưa hỏi Phật: “Điều Tôn giả Ca Chiên Diên đã giải thích, mà không xét kỹ về lý, như thế có đúng không?”.
Phật đáp:
-Như pháp Ca Chiên Diên đã giảng nói, là như nhau, không có khác.
Do nhân duyên này nên gọi Ngài là hiểu nghĩa. Quân Đầu Ba Thán sở dĩ gọi hành trù ( người phát thẻ) Câu-luật-đà, là vì thông thường, người phát thẻ phải ghi chép số người để biết là có thành thật hay không? Nếu thành thật thì sẽ nhận lãnh phước. Người tiếp nhận giả dối thì tội chồng chất ngày càng lớn.
Hán gọi là Trù (thẻ), Thiên trúc gọi là Xá La. Xá La cũng gọi là hoại tận: Có phước thì tội tận, có tội thì phước tận.
Do đâu mà biết được như thế?.
Xưa, con gái của A-nan Bân Kỳ, ở nước Nikiền là họ ngoại hỏi Phật:
- Có thể như thế để gặp Phật không? Đức Phật bảo:
- Nên biết đến đúng lúc, tất nhiên có ích.
Cô gái đã đến, từ xa thỉnh đức Thế Tôn. Phật biết ý cô gái, liền mặc nhiên thọ thỉnh, bảo Tôn giả A-nan:
- Ngày mai sẽ thọ thỉnh của Thích Ma Nam. Tôn giả A-nan bèn đánh kiền chùy tập họp chúng vận hành thần thông. Khi đưa thẻ, Thượng tọa, Quân Đầu Ba Thán chưa được thần thông. Nghe người phát thẻ thỉnh, tự thẹn mình thấp kém chưa được thần thông, nhìn lại mình đứng đầu trong chúng chỉ là hình bóng, do bởi tuổi già như con chồn hoang ở núi Tử Kim (vàng tía). Suy đi nghĩ lại nữa muốn nhận thẻ không theo thông lệ, nửa muốn không nhận cương vị Thượng tọa. Lại nghĩ Sa di tám tuổi hãy còn được thần thông, huống chi là công sức bỏ ra nhiều năm mà không đạt được gì, tính kể chỉ như thế, thì tồn tại làm gì! Trong lúc tình cảm giằng co giữa nhận thẻ hay trao lại thì bỗng nhiên Lậu tận. Nếu giả dối để nhận lãnh thẻ, thì thân người có chín mươi vạn lỗ chân lông, lấy đấy làm số, tức số thân người như vậy cũng không được tiếp nhận. Nếu là người chân thành tiếp nhận thẻ thì có thể chứng được Lậu tận. Lấy việc Thượng tọa nầy, có thể minh chứng. Vả lại, sở dĩ làm Thượng tọa, là vì thường giỏi thuyết pháp thích hợp với mọi người, và được chúng đề cử làm Thượng tọa. Do nhân duyên nầy, nên gọi là Thượng tọa tiếp nhận thẻ Câu-luật-đà.
Sở dĩ gọi Tân Đầu Lô có khả năng hàng phục ngoại đạo, là vì:
Xưa, trong thành Tỳ-xá-ly có Trưởng giả Chất Đa, thường gặp phải tình huống Lục sư ngoại đạo cao ngạo tự đại, nói:
- Sa Môn Cù Đàm tự xưng là tôn quý, ta sẽ so tài với ông ấy. Nếu ông ta hiện một, ta sẽ hiện hai. Cứ như thế, chuyển biến gấp bội đến ba mươi hai.
Bấy giờ, Trưởng giả thỉnh khắp chư tăng trong, ngoài cúng dường, xong, bèn dựng một trụ cờ lớn, cao bốn trượng chín thước, đặt chiếc bát Chiên Đàn ở trên, rồi xướng: “Ai có thể đưa tay lấy chiếc bát nầy thì người ấy sẽ được tôn là đệ nhứt!”.
Khi ấy, Tân Đầu Lô, trong lòng tự nghĩ: “Nay ta nên thể hiện thần túc, để cho lục sư ngoại đạo v.v. đều mặc nhiên hàng phục. Rồi lại nghĩ: “Đức Thế Tôn thường khuyên các đệ tử không được hiện bày thần túc. Nếu hôm nay ta không thể hiện thì sợ họ sẽ vĩnh viễn đắc tội, còn nếu như ta hiện, thì sợ trái với lời giáo huấn của Đức Thế Tôn. Chần chừ, đắn đo mãi không thôi, bèn hiện thần túc, duỗi tay lấy chiếc bát chiên đàn ấy, rồi bay lên hư không, đi nhiễu quanh thành bảy vòng, đoạn trở xuống, ngồi trên tòa, nói với các Phạm chí:
- “Các ông lại hiện thành hai đi!”. Lục sư yên lặng. Lúc đó, Đại quỷ tướng quân tên là Bán Sư nói với Lục sư: “Mu hiện thành hai đi !”. Bấy giờ, Lục sư và đệ tử chẳng biết bát ở đâu mà nhặt về để hiện. Do đấy, nói Tân Đầu Lô hàng phục ngoại đạo thuộc Câu-luật-đà là vậy.
Sở dĩ gọi Tỳ-kheo chăm sóc xem bệnh là bậc nhất, là vì:
Lúc ấy, ở Tinh-xá Kỳ-đà, có một Tỳ-kheo bệnh nặng, khốn khổ, nằm liệt lâu ngày trên giường trùng bò ra dưới xương sống, rên rỉ suốt ngày. Đức Phật và các Tỳ-kheo đi xem xét khắp phòng nhà, thấy Tỳ-kheo nầy bị bệnh nặng khốn khổ như thế, mới hỏi:
- Có người nào chăm sóc ông không?
Tỳ-kheo đáp:
- Không, bạch Thế Tôn! Phật nói:
- Trước kia ông đã từng chăm sóc người khác bệnh không?
Đáp: Không.
Lại hỏi:
- Ông không chăm sóc người khác bệnh, làm sao trông mong người khác chăm sóc bệnh cho ông?
Nói rồi Như Lai vén y Tăng Già Lê, tự tay xoa nơi thân người bệnh, gột rửa cho Tỳ-kheo. Khi đó, Trời Đế-thích cũng hiện đến trợ giúp Đức Thế Tôn chăm sóc bệnh nhơn. Tỳ-kheo bị bệnh ấy nhờ ơn đức của Thế Tôn, tức thì được lành hẳn.
Phật bảo các Tỳ-kheo: “Kể từ nay về sau, nếu ai có bệnh, đại chúng phải săn sóc cho nhau’.
Đức Thế Tôn còn chiếu cố, nói thêm: “Này các Tỳ-kheo! Ai có khả năng biết xem coi người bệnh? Chỉ có Tỳ-kheo Sấm mà thôi. Tỳ-kheo Sấm thường dùng năm sự để người bệnh. Năm sự đó là:
1. Phân biệt thuốc hay.
2. Không hề lười biếng, dậy trước, ngủ sau.
3. Luôn nói năng vui vẻ, rất ít ngủ nghỉ.
4. Dùng pháp cúng dường, không tham ăn uống.
5. Lãnh trách nhiệm cho bệnh nhân và nói pháp.
Đây là năm pháp mà Tỳ-kheo Sấm đã sử dụng để chăm sóc người bệnh mà chưa từng có ai không lành bệnh. Vì sao? Vì Tỳ-kheo nầy chính là người nơi các đời trước, đã từng trải qua năm trăm đời, làm Thầy thuốc khéo hiểu biết tường tận các phương thuốc. Nghe tiếng nói, xem xét sắc mặt là biết căn nguyên bệnh, đồng thời dùng bốn sự để chăm sóc người bệnh.
Do nhân duyên nầy, nên gọi Tỳ-kheo Sấm chăm sóc bệnh Câu-luật-đà.
Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Bằng Kỳ Xa có khả năng tạo ra kệ tụng, là vì Tỳ-kheo nầy, lúc trước làm con của Trưởng giả, là người thiên tài bẩm sinh, thông minh, xúc cảnh xuất liền tán tụng (thơ ca).
Lúc ấy, con của Trưởng giả ra ngoài đi dạo, gặp một cô gái thuộc gia đình có tài nghệ, hình dung đoan chính, hiếm có ở trong đời. Vừa ngắm nhìn, lòng cảm thấy hớn hở, bèn muốn cưới làm vợ.
Về nhà, thưa với cha mẹ về chuyện mình đã gặp cô gái ấy, và xin song thân đem sính lễ, hỏi cưới cho mình được chăng?.
Cha mẹ không hài lòng, vì dòng họ của con làm sao sửa đổi việc giá thú, hủy hoại phong tục của tiên nhơn! Người con ý quyết mãnh liệt, lại thưa:
- Nếu cha mẹ không vì con mà cưới nàng, thì con không thể nào sống trên cõi đời nầy!
Thấy con nói như vậy, cha mẹ không nhẫn tâm quở mắng, ngăn cấm, bèn nói: “Thôi được, tùy ở con, đó không phải là điều cha mẹ mong muốn. Tức thì sai người đến đàng gái bày tỏ việc xin hỏi cưới cho con.
Nhà gái nói:
- Gia nữ là dòng giống tài nghệ, chỉ lấy tài nghệ làm đầu, bèn đáp lời sứ giả:
- Không tham của cải của ông, chỉ cần có đầy đủ tài nghệ, ấy là chỗ trao gởi cho nhau.
Bằng Kỳ Xa nghe qua, liền đến những vị thợ có tài nghệ để học về các kỹ năng. Không đầy vài tuần, mọi kỹ năng, tài nghệ đều lãnh hội đủ. Lại sai người đưa tin: việc học tài nghệ đã mãn, vậy có thể gặp gỡ được chưa?
Chủ nhơn đáp:
- Nếu người hội đủ tài nghệ, thì phải đến chỗ vua để khảo thí. Bấy giờ là tiết tháng giêng, nhà vua ra lệnh tập họp mọi người có tài nghệ khắp mọi nơi đến để tỉ thí. Nếu người nào hơn hết, sẽ được vua ban cho ngàn lượng vàng. Nhà vua cũng nghe việc tỉ thí có liên hệ với người nữ xinh đẹp, nên muốn thu nạp về trong cung cho mình.
Pháp tỉ thí về tài nghệ: dựa vào trụ cao làm chuẩn: Trụ được dựng đứng, cao bốn trượng chín thước, phía dưới đặt đầy gươm đao, mũi nhọn đều hướng lên trên khoảng cách chỉ đủ chân đi. Bấy giờ Bằng Kỳ xa dựa theo trụ nhảy vụt lên hư không xoay quanh bảy vòng, rồi nhào xuống trên khoảng đất trống.
Nhà vua sợ mất cô gái, giả vờ nói không nhìn thấy. Mọi người đều nói giỏi. Vua thì nói: “Trẫm không thấy!”, vì nếu xác nhận là giỏi, thì phải nhận Bằng Kỳ thắng.
Bằng Kỳ suy nghĩ: “Nếu không thuận theo lời của vua, tất nhiên sẽ mất cô gái kia, vì quy định quả nhất mới được tính. Bằng Kỳ bèn liều chết, leo lên đầu trụ, ngoái nhìn tận mặt cô gái, trong lòng tự nghĩ: “Sao người ấy điềm nhiên tọa thị nhìn mình nguy khốn, thậm chí lòng sợ sệt, hình run rẩy, khó bảo toàn tánh mạng. Người con gái giả dối kia, lấy làm gì? Run rẩy, e không tự bảo toàn!”. Đức Phật biết người nầy chắc chắn có thể cứu độ. Nếu không cứu, người ấy sẽ bị đọa nơi ba đường dữ, Phật liền bảo Tôn giả Mục Liên:
- Ông hãy dùng thần túc, để cứu giúp người kia đang bị nguy ách! Mục Liên vâng lời Phật dạy, tức thì biến hiện đến chỗ cây trụ, ngồi kiết già giữa hư không, lại hiện ra bậc thang bảy báu ở phía dưới cây trụ, người khác không trông thấy, chỉ riêng Bằng Kỳ được thấy, nên từ từ xoay bảy vòng trong thềm thang rồi xuống. Thần lực đã được giao tiếp bình an, trong ngoài hết nguy hiểm.
Vua và mọi người rất lấy làm lạ. Vua tự tay dẫn người con gái đẹp đến giao cho Bằng Kỳ.
Bằng Kỳ nói: “Tôi không dùng vật xảo trá, hư giả này. Nó lừa dối mê hoặc người đời, tạo sự lầm lạc cho người thanh tịnh chơn chánh, khiến nước mất, nhà tan. Lập tức, Bằng Kỳ theo Tôn giả Mục Liên về chỗ đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn bảo: “Thiện lai Tỳ-kheo, (tức) thành Sa-môn”. Phật giảng nói Tứ đế, liền đạt được Ứng Chơn (A-lahán). Bằng kỳ lòng phát khởi vui mừng, xuất thành lời kệ tụng ca ngợi Đức Thế Tôn:
“Ngày mười lăm thanh tịnh
Năm trăm Tỳ-kheo họp
Đã đoạn các kiết, sử
Người tiên không thọ tập
Cũng như Chuyển Luân vương
Các quan vây quanh khắp
Bốn biển và đất liền.
Sử sách không
Hàng phục người như thế
Đạo sư không ai hơn
Cũng giúp các Thanh văn
Ba minh trừ tánh kiết
Tất cả con Thế Tôn
Không có bụi cấu uế
Đã diệt lưới ái dục
Nay lễ trăng trong sao”.
Do nhân duyên nầy, nên gọi Bằng-kỳ-xa có thể tạo kệ tụng, ca ngợi công đức của Như Lai là Câuluật-đà.
Sở dĩ gọi Câu-hi-la có bốn biện tài bậc nhất, là vì: Thông thường, hàng Thanh-văn bốn biện không hẳn phải đầy đủ. Hoặc có Pháp biện mà không có Nghĩa biện. Hoặc có nghĩa biện mà không có Pháp biện. Hoặc có Ứng biện mà không có Từ biện. Hoặc có Từ biện mà không có Ứng biện.
Câu Hi La đủ hết bốn biện này. Các Tôn giả
Xá-lợi-phất, Ca Chiên Diên cũng có đủ bốn biện, sở dĩ không gọi là bậc nhất, vì Thân tử tự lấy trí tuệ làm chủ. Ca Chiên Diên tự dùng việc soạn tập làm chủ, nên đều không gọi là bậc nhất về bốn biện. Hoặc dù có đủ bốn biện, nhưng cũng không theo kịp Câu Hi La. Câu Hi La chỉ biện minh về ý nghĩa của một câu bảy ngày không hết, huống chi là bốn biện, làm sao có thể tính kể lường xét?.
Do việc nầy, nên gọi là Câu-luật-đà trong bốn biện.
Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Nan-đề khất thực Câu-luậtđà, là vì các Tỳ-kheo khác cũng khất thực, nhưng hoặc giới không đủ, hoặc có tâm tham, hoặc ngoái nhìn trái, phải, tâm không chuyên nhứt, hoặc tránh xa mùa lạnh, mùa nắng. Còn khi Tỳ-kheo ấy khất thực thì không có những việc như vậy.
Việc khất thực đã tinh tế, người thí sẽ được nhiều phước. Vì thế, nên nay dẫn dụ để so sánh cái lớn, nhỏ:
Có người hỏi về phương pháp bắn: “Một người bắn sợi lông treo lơ lửng cách trăm bước, với một người bắn bụi đất bay ra, người nào là khó?”.
Đáp: Sợi lông treo lô lửng là khó. Vì cho dù bắn mà không rơi xuống đất, thì không thể nào nói đủ là bao nhiêu lần bắn (rất nhiều).
Nếu bố thí cho người khất thực, hoặc bố thí cho chúng Tăng, thì bố thí nào là lớn là chơn A-luyệnnhã?.
Trong dụ sợi lông treo lô lửng thì thí không được chân là dụ cho người bắn lên hư không. Việc ấy dù khó, nhưng có trúng có trật. Mũi tên dính đất, là dụ cho việc bố thí chúng Tăng. Bắn rơi sợi lông là tinh xảo nhưng bắn trật thì nhiều. Bắn bụi đất dù dễ, nhưng chưa từng mất đất. vì chúng Tăng là ruộng phước rất dày, nên không có thêm, bớt, còn A-luyện-nhã tinh, thô, nên có được, mất. Vì Nan-đề đạt được sự tinh tế trong khất thực nên gọi là khất thực.
Sở dĩ gọi Thí La là ngồi một chỗ, ăn một bữa, đó là một hạnh Đầu đà.
Phàm nói pháp A-luyện-nhã thì hoặc khất thực, hoặc ngồi dưới gốc cây; hoặc ở chỗ thanh vắng riêng một mình. Nay ở đây nói người ngồi một chỗ, ăn một bữa, nghĩa là sáng sớm, thức dậy cho đến giữa trưa, nếu đàn việt cho thức ăn, bất luận ít nhiều, chỉ một lần ngồi ăn mà thôi. Nếu ăn chưa no, vần ngồi chưa đứng dậy thì có thể được ăn tiếp, còn nếu đã đứng dậy thì không được ăn nữa. Thường ăn một lần mà không lìa bỏ hạnh ấy, thì Thí La là Câu-luật-đà.
Sở dĩ nói Tỳ-kheo Kim Tỳ La thường đi bảy nhà để khất thực, không được quá bảy. Vì sao thế? Vì đã lập lời thề có giới hạn là bảy. Khi khất thực, muốn chúc phước cho chúng sinh, thì phải chuyên tâm nghĩ đến đạo, không có tưởng tham. Nếu được thức ăn ngon, dở, cũng không viện cớ mà thêm, bớt. Tùy thuận lần lượt khất thực, không lựa chọn nhà nghèo, giàu. Nếu mới đi một hay hai nhà mà được thức ăn, lại có người bố thí nữa, đủ rồi thì thôi, không đủ thì nhận tiếp. Nếu trong trường hợp đã đến bảy nhà mà vẫn không được thức ăn, thì sẽ trở lại Tinh xá nghỉ ngôi, suy nghĩ, hành đạo, không nghĩ là ngày mai, mình sẽ đến nhà đó hay không đến nhà đó nữa, đều không có tưởng phân biệt. Do vậy nên gọi là Sa-môn Bảy nhà. Khất thực xong, trở về Tinh xá tĩnh tọa, buộc tâm ở đạo, nên nói Tỳ-kheo Kim Tỳ La khất thực nơi bảy nhà là Câu-luật-đà.
Tỳ-kheo kiên lao: Giữ hạnh thường xuyên ở những nơi như núi, đầm, nơi vắng vẻ, tĩnh lặng.
Tỳ-kheo Nan-đề, giữ hạnh khất thực, nhẫn nại chịu cực. Tỳ-kheo Kim Tỳ La, giữ hạnh khất thực bảy nhà.
Thí La, giữ hạnh một lần ngồi ăn.
Trong mười hai hạnh Đầu đà, mỗi vị giữ một hạnh. Tỳ-kheo Phù-di gìn giữ ba y không rời khi ăn, khi nghỉ ngôi. Hoặc nói: “Tạo ba y, như là dùng ba lượt chuyển pháp luân”. Hoặc nói: “Vì ba đời. Hoặc nói: “Vì ba mùa nên đặt ra ba y: Mùa đông thì mặc y dày; mùa hạ thì mặc y mỏng, mùa xuân, thu mặc y vừa phải. Vì ba mùa như vậy nên phải đủ ba y. Dày thì năm điều, vừa thì bảy điều, mỏng thì mười lăm điều. Nếu là mùa rất lạnh thì mặc ba y, có thể ngăn được giá buốt. Hoặc nói: “Cũng vì muỗi, nhặng, ễnh ương, nên lập ra ba y. Vì duyên cớ ấy, nên thường giữ ba y không quên. Do đó nói Ngài giữ hạnh này bậc nhất”.
Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Bà Sai, là ngồi nơi trống trải bậc nhất, vì xưa kia khi còn tại gia, thường cho nhà cửa là tai họa; khi xuất gia cầu đạo, thường ngồi ở chỗ trống trải. Nếu vào phòng nhà thương bị ngộp hơi, giống như bịt miệng lại. Chính vì thế, nên Tỳ-kheo Bà Sai thường tìm nơi trống trải để ngồi, tư duy, hành đạo, nhân đó, thân thể điều hòa, hơi thở thông suốt, sảng khoái, tu hành đạo nghiệp không bị trở ngại. Do nhân duyên nầy, nên gọi Bà-sai là ngồi nơi chỗ trống trải bậc nhất.
Sở dĩ gọi Hồ Nghi Ly Việt, thường xuyên ở dưới gốc cây, là vì từ địa vị phàm phu muốn cầu Thiền định, tất nhiên phải ở dưới gốc cây để nương tựa thâu giữ tâm ý, loại trừ kết trói buộc. Các Tỳ-kheo khác cũng ngồi thiền dưới gốc cây, nhưng không được xưng là bậc nhất, vì các Tỳ-kheo ấy không có khả năng chỉ một lần nghe thì tự chuyên nhứt tư duy, còn Tỳ-kheo nầy một khi được nghe lời Phật dạy, là lập tức có khả năng thực hành sự tập trung tâm ý, không bỏ. Sáu năm là dứt hết Kiết. Trước kia, Ly Việt vui thích nhập thiền định, hành chỉ không khác, nhưng ưa tu tập sự việc có khác, nên mọi người xưng Ngài là Câu-luật-đà.
Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Đà-đa-sách vui thích không, là vì Tỳ-kheo nầy vào nhà là hiểu nội không, ra khỏi nhà là hiểu ngoại không. Nội không dụ cho thức, ngoại không dụ cho thân. Vào nhà, là thấu đạt thức không, ra khỏi nhà là hiểu thân không. Đã thấu đạt trong, ngoài không, thì các pháp cũng như thế.
Tỳ-kheo nầy, nghe thuyết minh về giáo không thì thâu giữ ở tâm nên vào nhà là nhận thấy không, tức đạt thân thức. Tỳ-kheo khác phải dứt hết kiết, sau đó mới đạt không. Tâm khó thu giữ không, quý ở chỗ Tỳ-kheo kia đã đạt được trước, nên gọi là Câu-luật-đà.
Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Ni-bà mặc y ngũ nạp trên hết, là vì Tỳ-kheo nầy quán thân thấy rõ ba mươi sáu vật đều là cấu uế, chẳng có gì đáng tham, đáng quý! Chán cái thân hèn kém này nên phải dùng vật hèn kém che thân.
Hoặc có thuyết nói: “Luận về y phục, có y người đáng gần gũi, có người không đáng gần gũi”.
Đáng gần gũi là sao?.
Mặc y phục xấu, khiến người ta xấu hổ, tự thẹn, đó là người đáng gần gũi. Mặc y phục tốt đẹp, khiến người ta tự thêu dệt cho mình là lớn, đó là người không đáng gần gũi. Mặc y phục xấu, hỗ trợ hạnh, đó là mặc y Ngũ nạp. Tỳ-kheo nầy, vì khéo có thể so sánh tướng trong, ngoài, nên gọi là Câuluật-đà.
Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Ưu-đa-la thường ưa thích ở nơi chốn gò mả, vì Tỳ-kheo nầy là đệ tử của Tôn giả A-nan. Trước kia Thầy đắc đạo, tâm tự nhớ nghĩ: “Thân nầy lưu chuyển, không chỗ nào là không trải qua: Lúc ở trên cõi Trời thì ăn, mặc, sai bảo tự nhiên, nay, đều từ bỏ hết. Nếu ở trong loài người, làm Chuyển Luân Vương, bảy báu luôn theo, cũng đã qua rồi. Hoặc ở loài súc sinh, luôn ăn cỏ gai, thì đấy cũng là quá khứ. Nếu ở cõi ngạ quỷ thì lấy đồng nung chảy làm thức ăn. Hoặc ở địa ngục, thì bị đao, gươm xử trị. Các hình tội nầy cũng đều là quá khứ”.
“Nay được thân người, hoàn toàn đủ các phần, những gì của xưa để lại nay đều là vật cần dứt bỏ. Hình, sắc như trò ảo thuật, không có gì là đáng tham, tất cả đều sẽ từ bỏ nên dừng lại trong chốn gò mả nầy.
Lại suy niệm: “Chính vì có ý muốn ở nơi cội cây, trong đầm, núi, đều là nơi người dân tham thích, chỉ có ở chốn gò mả là nơi con người không ưa thích, vì nơi đây chỉ thuộc về quỷ và các loài chồn, sói, diều, quạ”…
Nay, Tỳ-kheo Ưu-đa-la sẽ nhập tam muội từ, để cứu giúp các loài ấy nên ở nơi gò mả. Do nhân duyên thường ưa thích ở chốn gò mả, không thích ở trong loài người, nên được gọi là Câu-luật-đà.
Sở dĩ Tỳ-kheo Lô Hê Vinh luôn ngồi trên nệm cỏ là Câu-luật-đà, vì Tỳ-kheo này nhằm trừ bỏ tâm ái. Trừ bỏ tâm ái là sao? Cho dù giường vàng, gối ngọc đi nữa, cũng đều không có tham ái vướng chấp. Hoặc lại thuyết minh: “Nếu có người thí cho tòa ngồi tuyệt đẹp thì cũng như thí cho tòa ngồi bằng cỏ, có gì khác! Khi tâm ái đã hết, các kiết cũng dứt, ấy là lúc tay cầm nắm cỏ hướng về đám cỏ làm lễ. Thấy cử chỉ kỳ lạ, có người hỏi”:
- Vì sao hướng về đám cỏ làm lễ? Tỳ-kheo đáp:
- Ta nhờ đám cỏ nầy mà những trang sức hiển vinh trong tâm ta đã hết và đắc đạo cũng do nó, nó tức là thầy ta, nên ta hướng về đám cỏ để làm lễ.
Năm trăm khỉ vượn được sinh trên cõi Trời, cũng do dùng hoa Thiên Văn Đà La tung rải nơi tử thi cũ, vì do tử thi nên được sinh lên cõi Trời, vì thế chư Thiên mới đến rải hoa! Luận về sự sang, ắt phải dùng nghèo hèn làm gốc, vì nhân duyên nầy, nên gọi ngồi nơi nệm cỏ là Câu-luật-đà.
Sở dĩ khen Tỳ-kheo Ưu Kiềm Ma không nói chuyện với người, chỉ nhìn xuống đất mà đi là Câu-luật-đà, vì Tỳ-kheo nầy, thường lo sợ lỗi lầm ở miệng, nên mỗi khi sắp sửa đổi lời nói, trước hết phải tự suy nghĩ: chính từ nơi miệng này mà sinh trong cõi Trời, người, hoặc nơi ba đường dữ thì địa ngục có mọi thứ, rên rỉ, kêu la, gào thét nhân đủ cho năm đường, lại càng khổ đau vô lượng.
Nay ta phải như Thái tử Mộ Phách, kết lời thề không nói năng. Bốn lỗi ba tai họa do đâu mà sinh? Đã không nói thì cứ nhìn thẳng phía trước mà đi.
Đức Phật cũng lấy làm lạ về khả năng ấy.
Bấy giờ, đức Phật thường hướng về các Tỳ-kheo ca ngợi đức của Kiềm Ma, nói với Tôn giả A-nan: “Như Tỳ-kheo nầy, nên biết mà ghi chép lại, để làm gương cho kẻ hậu học nói theo. Do nhân duyên ấy, gọi Tỳ-kheo Ưu Kiềm Ma là Câuluật-đà”.
Sở dĩ khen Tỳ-kheo Nhứt Tâm là hành trì tam muội Câu-luật-đà, vì Tỳ-kheo này, khi xưa đã từng tập định, cứu xét từ thô, đến tế. Nay, công sức của định đã vững, nên khi hành trì như đi dạo chốn trần gian; khi ngồi thì tự quên tưởng, quên tưởng mà lý đủ. Dụ đó như thế nào? Cũng như có người ăn trăm vị thức ăn, ý do đã no đầy nên không còn tưởng về ăn. Tuy cũng đi đứng tới lui nhưng vượt ngoài cảm xúc, rồi sau mới đối đáp, mới động thế thôi. Căn cứ ở định vững vàng mà đặt tên nên nói: Ngồi, đứng dậy, bước đi vào tam muội bậc nhất.
Sở dĩ khen Đàm Ma Lưu Chi vui thích đi xa là Câu-luật-đà, vì sự ấy có nguyên do.
Lúc Phật tại thế, có một Trưởng giả, tự là Đàm
Ma Lưu Chi, đi đến chỗ Phật, đảnh lễ Phật và hỏi han xong, Phật nói:
- Đàm Ma Lưu Chi! Từ ngày tạm biệt đến nay đã lâu lắm, chúng ta mới được gặp lại nhau.
Có người hỏi Phật:
- Phật không xét kỹ, sao lại nói: “Tạm biệt đến nay rất lâu?” đức Thế Tôn đáp:
- Ông muốn biết điều ấy chăng? Thưa: Muốn biết. Phật lại nói:
- Ở A-tăng-kỳ-kiếp xa xưa, bấy giờ, có vị Phật hiệu là Định Quang, khi ấy, ta làm Phạm chí, tự là Siêu thuật.
Lúc này, Phật Định Quang vừa mới vào thành, ta liền gặp ở giữa đường. Thấy tướng hào quang của Phật rực rỡ, chiếu sáng khắp nơi, ta liền khen: “Tướng hào quang của đức Thế Tôn sáng rực, vượt hơn mặt trời, mặt trăng, uy đức của đức Thế Tôn dày hơn hai nghi. Tâm nhân từ của đức Thế Tôn, vượt quá từ mẫu, ngoái nhìn bản thân mình, không có gì để cúng dường Thế Tôn. Nay chính là thời điểm gặp ruộng phước tốt quý, có thể gieo trồng căn lành”.
Nhận thấy đất có một ít bùn, e làm nhơ chân Phật, ta liền xõa tóc trải lên trên bùn để Phật đạp mà đi qua. Phật liền thọ ký cho ta: “Ông thật dũng mãnh, mới làm được như thế. Vào A-tăng-kỳ kiếp sau, ông sẽ làm Phật, tự là Thích Ca Văn. Lúc ấy, gần bên đường cũng có một Phạm chí, khởi tâm giận dữ, nói: “Người nầy với súc sinh không khác, mới đạp lên trên tóc nơi đầu người ta mà đi qua!” Từ đấy về sau, Phạm chí ấy, trong A-tăng-kỳ kiếp, thường bị đọa trong hàng súc sinh, làm cá Ma Kiệt ở biển cả, thân dài bảy ngàn do diên. Bấy giờ, có năm trăm khách buôn, chèo thuyền vào biển tìm châu báu, gặp cá lớn nầy, nên bị nuốt cả Thuyền và người sắp chui vào miệng cá, năm trăm người vô cùng hoảng sợ. Lúc ấy, chủ khách buôn mới nói với mọi người: “Đời nay, có Phật hiệu là Thích Ca Văn, luôn cứu giúp con người trong cơn ách nạn, hiểm nguy, không gì vượt hơn ngài. Chúng ta hãy đồng thanh xưng niệm danh hiệu Phật Thích Ca, mong nhờ được cứu thoát!” Tức thì năm trăm người đồng thanh niệm danh hiệu Phật. Cá Ma Kiệt nghe danh hiệu Phật, bổn thức vẫn còn, liền tự nghĩ: “Phật Thích Ca Văn đã xuất hiện ở thế gian, vì lẽ gì thân ta vẫn còn ở trong loài cá?”, bèn lặn trở lại xuống nước.
Năm trăm khách buôn được yên ổn trở về. Khi đó, con cá liền nằm bày phân nửa mình trên bãi cát ven biển, không uống, không ăn, trải qua hai tuần lễ thì chết, sinh làm con của nhà Trưởng giả, tự Đàm Ma Lưu Chi, nay, mới được đến gặp ta. Đấy là lý do ta gọi lâu xa.
Lưu Chi nghe Phật kể gốc ngọn của sự việc ấy, liền hướng đến ven biển để tìm tử thi cũ, thấy bên bờ biển có xương của cá lớn, da thịt đã hết, liền bước đi trên xương hông của cá, suy nghĩ: “Đây là tử thi cũ của ta”. Rồi dùng hoa rải lên trên tử thi ấy, tìm tòi, suy nghĩ những việc đã qua bỗng nhiên chứng đạo”.
Do nhân duyên nầy, nên gọi Ngài là bậc nhất đi xa..
Sở dĩ khen Tỳ-kheo Ca-cừ tập họp chúng thuyết pháp là Câu-luật-đà, vì âm, từ của Tỳ-kheo nầy trong sáng, thấu suốt, tiếng chấn động gần, xa. Người nghe âm thinh của Tỳ-kheo Ca Cừ, sẽ tập họp đông vô số, Tỳ-kheo liền vì họ diễn nói về nghiệp tốt đẹp sâu rộng của pháp. Các người phải biết, Đức Như Lai xuất thế, khó có thể gặp được, cam lộ Bốn đế cũng không dễ gì được nghe. Các người phải luôn tư duy chơn đế, nhằm trừ bỏ sự ràng buộc của mười hai thứ lôi kéo liên tục; thì có thể đạt được Niết-bàn. Tỳ-kheo nầy luôn hỗ trợ Đức Phật, hoằng dương hóa độ, thường dùng âm từ này giáo hóa, chưa từng sai sót. Vì nhân duyên ấy, nên gọi Ngài là tập họp chúng thuyết pháp, với âm thinh Câu-luật-đà.
Sở dĩ khen Bà Câu La có mạng sống lâu dài, là vì từ nhiều kiếp xa xưa, Bà Câu La đã từng cúng dường sáu vạn Phật. Ở chỗ chư Phật, ông thường tu tâm từ đối với các loại sâu bọ bay nhảy, cựa động, loài có hình, có mạng, ông luôn gia tâm thương xót, không mảy may có ý tưởng sát hại. Do phước của lòng từ nầy, nên nay đã được quả báo tốt đẹp.
Phật bảo Tôn giả A-nan: Như ta ngày nay, da, thân thanh tịnh, không có ai vượt hơn ta, cũng như hoa sen không dính nước bùn, đang sống tuổi tám mươi, nhưng không bằng Bà Câu La thọ tới một trăm sáu mươi tuổi. Như Lai tùy thuận đời, muốn thích hợp với chúng sinh, không hiện bày chỗ dị biệt kia, nên chỉ sống tám mươi. Bà Câu La nhờ tiếp nhận phước của tâm từ ở đời trước, nên được quả báo tuổi thọ gấp bội như thế. Hoặc có người hỏi:-Chỉ do tâm từ nên được thọ mạng như thế, hay lại còn có cái gì khác nữa? Đáp: Có.
Xưa, Như Lai Tỳ Bà Thi xuất thế, bấy giờ, có mười sáu vạn tám ngàn Tỳ-kheo đang du hành, giáo hóa. Lúc đó, có Trưởng giả, ở nơi chốn sáng suốt, giữ vững lòng tu hành bẩm tánh hiền lương, khiêm tốn, không thích uống rượu. Do lễ hội trong năm ít tổ chức nên khi gặp thường khuyên nhau gắng uống ít nhiều, khi ấy do sức mạnh của rượu, ông đi đến chỗ Đức Thế Tôn lễ bái, hỏi han, rồi thỉnh Phật và các đệ tử đến nhà để ông được cúng dường chín mươi ngày. Các Tỳ-kheo bệnh tật cũng đến nhà ông nhận lấy thuốc thang, cũng như những vật cần dùng hằng ngày.
Thỉnh xong, Trưởng giả trở về thôi thúc người nhà, bảo: “Ta đã thỉnh Phật và các đệ tử đến nhà, bốn việc cúng dường đều phải sắm sửa cho đầy đủ.
Ra lệnh xong, bèn đi ngủ, ngủ hồi lâu lại thức.
Vợ Trưởng giả thưa: “Mới đây, ông ra lệnh phải nghiêm túc sắm sửa phẩm vật để cúng dường mà nay, sao lại yên lặng, không thấy ông nói gì cả?”. Trưởng giả kinh hãi nói:
- Vừa qua ta đã nói năng gì sao?
Người vợ đáp:
- Lúc chưa ngủ ông không có nói gì sao?
Trưởng giả bảo:
-“Ta không nhớ là mình đã nói gì?”.
Người vợ nói: Trước hết, ông đã nói:
- “Ta đã thỉnh Phật và các đệ tử đến nhà trong chín mươi ngày để cúng dường và cung cấp những vật cần dùng. Ông không nói lời nầy sao?”
Trưởng giả suy nghĩ: “Con người vì rượu mà nhầm lẫn, nên mới xảy ra sự việc như vầy thật đáng hổ thẹn. Phải nên tức thì thỉnh lại! Ngày mai, sáng sớm, ở nhà đốt hương, từ xa thỉnh đức Thế Tôn”.
Có một Tỳ-kheo đến xin thuốc. Trưởng giả hỏi:
- Thầy có bệnh khổ gì? Tỳ-kheo đáp:
- Bệnh đau đầu.
Trưởng giả nói:
- Bệnh nầy, tất nhiên là bên trên màng cách có nước, khi ngẩng lên, công kích đầu mình làm cho đau, Trưởng giả liền cho Tỳ-kheo một quả Ha lê lặc, chỉ uống một vị thuốc nầy, là đủ để tiêu tan chứng bệnh ấy. Tỳ-kheo uống thuốc, bệnh đau đầu khỏi ngay! Do phước báo đó, mà suốt trong chín mươi mốt kiếp, chưa từng bệnh hoạn. Được sinh vào nhà Trưởng giả, đến năm tám mươi tuổi, xuất gia học đạo, trải qua tám mươi năm ở trong kỷ cương của đạo, hợp lại là một trăm sáu mươi năm. Lúc tại gia, từng đấu sức, do vậy mà đau đầu, giờ đây thì đã lành hẳn. Cứ như thế, tự thân không có bệnh gì khởi lên.
Vì lý do nầy, nên Bà Câu La sống lâu bậc nhất. Trong một trăm năm thọ mạng, có thêm sáu mươi năm nữa tức mạng sống rất lâu, người trong đời năm trước mà thọ mạng như vậy quả là đặc biệt. Thí dụ nầy cũng như ở trong bùn nhơ, mà sinh hoa sen.
Tôn giả A-nan hỏi: “Vì sao ông không vì người thuyết pháp? Vì không có bốn biện tài hay vì thiếu trí tuệ mà không thuyết pháp?”.
Đáp: Đối với bốn biện tài, trí đến rất nhanh chóng, không phải vì không đủ bốn biện tài, mà đúng ra là tự mình ưa tĩnh lặng, không thích ồn ào, nên không thuyết pháp.
Có vấn nạn: “Sự sống lâu dài của Bà Câu La, vì sao không sinh ba phương?”.
Đáp: “Sở dĩ chư Phật không sinh là vì người của các phương kia khó hóa độ. Chúng sinh nơi quốc độ nầy có căn nhạy bén, linh lợi, rất ác, nhưng dũng mãnh, nhận lấy đạo không khó. Thế nên, từ xa xưa, chư Phật đều sinh trong cõi nầy, không sinh ba phương khác”. Do đó, Bà-câu-la sinh ở phương này đó vậy.
Sở dĩ khen Mãn Nguyện Tử là thuyết pháp bậc nhất, vì có ba việc mà được gọi là Câu-luật-đà. Tỳ-kheo khác cũng thuyết pháp, nhưng vì không có ba việc có thể ghi nhận, nên không xưng là Câuluật-đà. Khi Mãn Nguyện Tử thuyết pháp, trước hết, dùng biện tài xướng phát diệu âm, khiến chúng sinh hoan hỷ, tập trung ngưỡng mộ.
Tiếp theo, dùng lời nói khổ sở để trách cứ tâm mình, khiến tâm ý càng xót xa, cung kính, sợ sệt, khởi lên tưởng khó gặp.
Sau cùng, dùng trí tuệ sáng suốt giảng giải về không, vô tướng, người nghe được kiết mở, khiến trí tỏ ngộ, cùng thêm lớn.
Đức Thế Tôn thuyết pháp đầu tiên, giữa, sau cuối, luôn là thiện. Mãn Nguyện Tử cũng thế, ba sự đều thiện. Ngoài Như Lai, thì không ai có thể thuyết pháp hơn Mãn Nguyệt Tử, Thân Tử tự thề: “Từ sáng đến trưa, phải độ một người, sao cho đạt được dấu ấn đạo”.
Tỳ-kheo Mục Liên cũng thề độ người, trong Bốn Hướng, phải tiến tới một bậc, sau đó, mới ăn. Ngoài ra, các Tỳ-kheo khác cũng đều độ người nhưng so với Mãn Nguyện Tử, thì một trăm phần không bằng một. Mãn Nguyện Tử từ thành đạo đến Niết-bàn, đã độ chín vạn chín ngàn người. Trong hành Thanh văn, Ngài là người độ chúng rất nhiều, nên gọi Ngài là thuyết pháp Câu-luật-đà.
Sở dĩ khen Ưu-ba-ly là trì luật Câu-luật-đà, vì:
Xưa, do nhận sự thỉnh cầu của phụ vương Đức Phật trở lại bổn quốc, các Tỳ-kheo cùng đi tuy tâm ý đều thanh tịnh, nhưng không biểu lộ được diện mạo của người tu hành giải thoát.
Bấy giờ, nhà vua muốn khuyến khích con em của dòng họ Thích cao sang hãy xuất gia làm Tỳ-kheo, theo hầu Đức Thế Tôn. Tức thì ra lệnh cho các nhà họ Thích, nhà nào có hai người anh em, đều phải có một người xuất gia vì đạo, nếu không theo lệnh, người đó sẽ bị phạt nặng. Lúc ấy, một người thuộc họ Thích, tên là Diện Vương, là người có vị trí lớn trong họ Thích, muốn xuống tóc trước tiên. Đức Phật bèn bảo Ưu-ba-ly vì những người ấy mà xuống tóc cho họ. Lại bảo: “Các người thuộc họ Thích nầy đều kiêu hãnh, ưa sự mềm mại, ông khéo léo nhẹ tay.
Ưu-ba-ly liền nhẹ tay, nhưng lại quá nhẹ nên không dính tóc. Khi đó, Ưu-ba-ly đổi ngược lưỡi dao, dùng sống dao để cạo. Đức Phật nói:
- Không thể dùng phần lưỡi dao sao?
Đáp:
- Không thể. Tức thì tóc theo dao cạo từ trên đỉnh đầu, tự nhiên được trừ bỏ hết. Năm trăm Thích tử đều như thế.
Đức Phật dạy Ưu-ba-ly: “Thiện lai Tỳ-kheo! Tức liền trở thành Sa-môn. Phật truyền trao giới, bèn chứng được A-la-hán. Tiếp theo, truyền trao giới cho năm trăm Thích tử, Ưu-ba-ly làm Thượng tọa, lấy tay xoa đầu năm trăm người làm đệ tử. Thọ giới xong, tiếp theo, sẽ lễ Ưu-ba-ly”.
Các Thích Tử trước kia, vốn kiêu hãnh, không hạ mình khuất phục, hơn nữa Ưu-ba-ly lại là con em thuộc người của mình, nên họ đều nói: “Người nầy là tôi tớ của nhà ta, duyên cớ gì phải lễ?
Phật dạy: “Không nên như thế, pháp không có sang, hèn, người đạt trước là anh, kẻ đạt sau là em, cao, thấp không thành vấn đề, ngăn giữ ý là lễ.
Tức thì trời đất chấn động lớn, chư Thiên ở trên cõi Trời ca ngợi: “Lành thay! Lành thay! Ngày nay, tánh kiêu mạn của các Thích tử đã được hàng phục. Vì điều nầy khó đạt được, nên đại địa chấn động. Khi năm trăm Thích Tử nầy hành đạo, cũng đã có chín vạn chín ngàn người xuất gia vì đạo”.
Ưu-ba-ly từ khi được Phật truyền trao giới đến nay, chưa từng vi phạm một mảy may. Do nhân duyên ấy, nên xưng là Câu-luật-đà. Chỉ là chuyện nầy, hay lại có sự khác?.
Ở phía Bắc Tinh xá Kỳ-viên, có một Tỳ-kheo bị bệnh đã hơn sáu năm, không khỏi. Lúc ấy, Ưuba-ly đi đến hỏi Tỳ-kheo nầy:
- Ông bị bệnh khổ gì? Ông cần gì, cứ nói.
Đáp: “Điều tôi cần thì không thể nói” Lại hỏi:
- Ông cần vật gì? Nếu ở đây không có vật ấy, thì phải đi khắp bốn phương để tìm; nếu ở thế gian không có, thì phải lên cõi Trời mà tìm?. Đáp: “Thứ tôi cần dùng ấy, ở trong thành Xá vệ có, vì trái với lời Phật dạy, nên không thể nói”.
Hỏi: “Chỉ nói ra thì không khổ”. Đáp: Vậy thì nói: “Tôi chỉ nghĩ đến rượu, được năm thăng rượu là bệnh sẽ khỏi”.
Ưu-ba-ly nói: “Được! Ông hãy ở đây, ta sẽ vì ông đi hỏi đức Phật, rồi sẽ trở lại”, liền đi hỏi Phật:
- Tỳ-kheo trị bệnh, phải cần rượu để làm thuốc, không cần xét có thể được uống thuốc có rượu đó không?
Đức Thế Tôn bảo:
- Pháp ta đã chế là để trừ bệnh.
Ưu-ba-ly liền trở lại, xin rượu để chữa bệnh, bệnh khỏi; lại còn thuyết pháp do đó bệnh nhân chứng được đạo A-la-hán”. Đức Phật khen Ưu-baly:
- Ông vừa mới hỏi Như Lai về việc nầy, đã khiến cho Tỳ-kheo kia bệnh được khỏi, lại còn khiến chứng đắc đạo. Vị Tỳ-kheo ấy, nếu không được độ, thì về sau sẽ bị đọa ba đường ác, không có kỳ hạn ra khỏi. Ông nên vì tương lai của Tỳ-kheo nầy, thiết lập pháp cấm, sao cho họ biết khinh, trọng, để còn được cứu giúp khỏi ách nguy hiểm. Ông thật có khả năng trì luật, ta sẽ đem Tạng Luật phó thác cho ông, đừng để rơi rớt mất. Tạng nầy là hơn hết trong các tạng, ở đó, không thể bảo cho Sa-di, kể cả người thế tục biết. Vì do duyên nầy, nên gọi là Câu-luật-đà.
Sở dĩ khen Tỳ-kheo Bà Ca Lợi được Tín giải thốt, là vì Tỳ-kheo nầy bị bệnh rất lâu, nằm mãi nơi giường suốt sáu năm. Các người chăm sóc, đều bỏ đi hết! Tỳ-kheo tự nghĩ: “Bệnh tật kéo dài quá lâu, người chăm sóc quá mỏi mệt, rất có thể chán ngán. Vả lại, không thấy Như Lai rủ lòng thương, ta nên tự hại, để loại trừ bệnh khổ. Bèn xin con dao, hướng vào dao, nói: “Chỉ nên giết ta, cũng là cách đoạn trừ Kiết chăng!”. Nói xong, dùng dao tự vẫn. Ngay khi Tỳ-kheo vừa đưa dao đến nửa cổ họng là đã được Lậu tận, tiếp tục chặt đứt đầu là đã thọ nhận Niết-bàn”.
Bấy giờ, đại địa chấn động, lan đến chỗ Ma Ba Tuần. Ma Ba Tuần nghĩ:
- Điềm gì mà đại địa chấn động như thế? Liền dùng thiên nhãn quán sát thấy Tỳ-kheo tự hại thân hình họ nhưng không thấy thần thức ở đâu! Quán sát khắp chư Thiên, không thấy thần của họ. Quán sát trong loài người cũng không thấy. Lại quán sát trong ba nẻo ác, cũng lại không thấy!
Lúc ấy, Phật cùng các Tỳ-kheo chuẩn bị thiêu đốt xác. Thấy lửa tử thi bốc lên, Ba Tuần phóng lửa để tìm kiếm thần thức của Tỳ-kheo, nhưng đều không biết ở đâu? Sở dĩ tìm kiếm vì muốn biết tiến tới cõi nào, sẽ phá hoại khiến cho không thành chăng? Các Tỳ-kheo đã thiêu đốt xác xong. Đức Phật khen Tỳ-kheo nầy đã đắc Tín giải thoát.
Hoặc nói: “Phàm là người hết mức tin, thì thường phó thác mạng cho tự nhiên, hãy còn không biết cầm gậy để tự đề phòng, huống chi lại tự hại?”.
Đáp: “Nói đến Tín, sở dĩ cầm đao là vì đao là gươm tuệ. Vì có ý định muốn dứt trừ các kết. Thân tức là gốc của kết, gốc dứt trừ, thì nhánh sẽ đoạn theo thân, tức kiết bị trừ. Vì lý do nầy, nên người cầm dao không bị trở ngại, vì cầm dao tín là để chặt đứt cây nghi. Câu dưới nói: “Ý không có do dự, từ tín giải thoát đến giải thoát không có nghi, tức chuyển biến từ độn căn trở thành lợi căn. Do nghĩa nầy, nên gọi Ngài là bậc nhất đã đắc Tín giải thoát”.
Sở dĩ Đức Phật khen Tỳ-kheo Nan-đà đoan nghiêm Câu-luật-đà, là vì các Tỳ-kheo mỗi vị đều có các tướng tốt: Thân tử có bảy, Mục Liên có năm, A-nan hai mươi, riêng Nan-đà có ba mươi tướng. Nan-đà sắc vàng ròng, A-nan sắc bạc, y phục bóng sáng, lấp lánh hào quang, giầy dép có viền chỉ tơ vàng, bưng bát lưu ly vào thành khất thực, ai thấy đều cảm thấy vui vẻ, hớn hở. Ngoại trừ Như Lai, các đệ tử khác đều không thể theo kịp, nên được Phật khen là đoan nghiêm Câu-luậtđà.
Cũng nên nói thêm, Nan-đà có các căn tĩnh lặng. Khi Đức Phật đem các đệ tử tới tinh xá Nại Nữ ở thành Tỳ-xá-ly, lúc ấy Nan-đà đang kinh hành ở bên ngoài, Nại Nữ nghe Đức Phật đến, hết sức vui mừng, tình cảm rộn lên trong lòng, muốn thiết lập sự cúng dường, liền đi thỉnh Phật. Trông ra bên ngoài, thấy Nan-đà đang kinh hành, vì sự yêu kính sâu đậm, nàng tiếp xúc chân Nan-đà làm lễ, dùng tay sờ nhẹ lên bàn chân. Mặc dù nhìn thấy dáng dấp xinh đẹp của Nại Nữ, nhưng Nan-đà vẫn không có tưởng tình, hình hình cảm nhau, bèn xuất bất tịnh, vị cam lộ thấm nhuần thân; mà nơi thân đầy thì tràn, tức tràn bất tịnh, há lại do tâm sao!
Nại Nữ không thấu hiểu nghi có tưởng dục.
Phật biết ý Nan-đà, bèn nói với Nại Nữ:
-“Cô chớ sinh lòng ngờ vực. Nan-đà sau bảy ngày, sẽ chứng được La Hán. Theo đấy mà nói nên biết tâm của Nan-đà không biến đổi”.
Sở dĩ Phật gọi Tỳ-kheo Bà-đà là người hiểu được tâm nghi ngại của người khác, là vì chư Phật ba đời đều cùng dùng tám vạn bốn ngàn thứ pháp hạnh. Chúng sinh được đạo, không nhất định phải hành khắp mọi hạnh, mà tùy thuộc vào hạnh đưa đến giác ngộ thì dùng làm tông chỉ.
Vì sao? Vì kết sử của chúng sinh không đồng bệnh có nhiều ít, cấu uế có dày, mỏng. Thế nên Như Lai dựng nên ngần ấy giáo pháp. Hoặc có một thứ thuốc chữa trị được nhiều chứng bệnh. Hoặc có nhiều thứ thuốc chỉ chữa trị một chứng bệnh, cũng như Sáu độ hợp lại với nhau, một hạnh làm chủ, mọi hạnh phải theo. Một hạnh nghĩa là không chuyên nơi thường gọi là tùy vào bệnh khởi, đối với thuốc nào thích ứng. Nếu khởi chấp thường thì dùng vô thường để đối trị. Nếu khởi tâm chấp có thì dùng tâm không để đối trị. Đang nhận lãnh hành vô thường, thì vạn hành đều vô thường. Cũng như thí cho để tạo nên tám vạn thì tám vạn đều là thí cho, đó gọi là nói đơn giản. Cũng như trong tám âm của Như Lai, một tâm gồm thâu cả tám tiếng vang, một tiếng vang lại tiếp nối cả trăm giáo pháp; một giáo pháp nối tiếp cả trăm nghĩa. Mỗi một tướng lại tiếp nối đến cả ngàn, vạn ức, một âm đáp trả vạn ức. Sự biến đổi của việc thí cho kia là như thế. Nói tóm lại, sự nối tiếp không dứt về hành, thì dụ kia cũng như thế. Tỳ-kheo nầy vì chuyên dùng cách nói giản đơn làm chủ, nên gọi là Câu-luật-đà.
Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Tư Ni có khả năng thuyết pháp rộng, là vì Tỳ-kheo ấy đã ở trong địa phàm phu ba mươi năm, vì hết thảy mọi người nói rộng các pháp, phân biệt các nghĩa, lý.
Nói rộng là sao?
Đáp: “Hoặc nhân một hạnh mà nuôi lớn nhiều hạnh. Chi nhánh đầy dẫy, cho đến vô số, cũng như bệnh có cùng nhân sinh ra, do đấy mà lập thành toa thuốc. Tỳ-kheo nầy chuyên dùng cách phân tích làm chủ, không lo dứt trừ lậu làm ưu tiên, do đấy phải trải qua ba mươi năm, mới nhận lấy sự chứng đạo mà lặng lẽ, quên lời. Do muốn lưu lại vết tích trước kia, ghi chép gốc tích cũ, nên gọi Ngài là bậc nhất nói rộng”.
Sở dĩ gọi Thiên Tu Bồ Đề đắp y tốt lành Câuluật-đà, là vì có hai Tu Bồ Đề trong năm trăm đệ tử của Phật: Một vị thuộc dòng Vương giả; một vị thuộc dòng Trưởng giả. Thiên Tu Bồ Đề vốn sinh từ dòng Vương giả. Sở dĩ nói Thiên, ấy là vì trong năm trăm đời, thường sinh trên cõi Trời Hóa ứng thinh, xuống dưới trần thì sinh nơi nhà Vương giả, nhận phước tự nhiên chưa từng thiếu thốn. Khi Đức Phật trở lại bổn quốc, vua Chơn Tịnh đã khuyên năm trăm người thuộc họ Thích xuất gia học đạo, theo hầu Đức Thế Tôn. Tỳ-kheo nầy là mẫu mực trong đợt xuất gia đó. Bấy giờ, Đức Phật răn dạy các Tỳ-kheo:
-“Luận về người vì đạo, đều phải tiết chế thân mình, quần áo thô sơ, uống ăn đạm bạc, dùng nệm cỏ làm giường, lấy đại, tiểu tiện làm thuốc.” Tỳ-kheo nầy nghe Đức Phật răn dạy như vậy; tâm tự suy nghĩ: “Ta sinh vào chốn cao sang hào quý, cơm áo tự nhiên có, cung điện thì nguy nga, nhà cửa chỗ nào cũng có chạm trổ, giường bằng vàng, bạc, đồ đựng thức ăn toàn bằng bảy báu, thân mặc toàn kim tuyến dệt thành vải, đủ thứ dép mỏng, giày đẹp, như thế còn không thỏa mãn hết ý của ta, sao lại phải mặc y phục Ngũ nạp? Rồi ta cũng sẽ trở lại nhà, ở đó mới hợp với bổn ý. Nghĩ như vậy xong, muốn trở lại”.
Bấy giờ, Đức Phật đang ở Tinh xá thuộc nước Xá Vệ, thọ thỉnh của vua Ba Tư Nặc. Tỳ-kheo nầy đi đến chỗ Phật, từ giã để trở lại nhà. Tôn giả Anan nói: “Ông hãy tạm nói ở lại một đêm!”.
Tu Bồ Đề nói:
- Nhà cửa, giường tòa ngồi chiếu của đạo nhơn đâu có gì, làm sao có thể nghỉ ngôi? Xin đến nhà bạch y, nhờ tá túc một đêm, ngày mai sẽ trở về. Tôn giả A-nan nói:
- Chỉ cần ở lại, sẽ có ngay những gì ông cần.
Nói rồi Tôn giả A Nan liền đến chỗ vua, dùng đủ thứ tọa cụ, phướn, lọng, hương, hoa, cùng bốn chiếc đèn dầu, mỗi việc đều nghiêm túc, đầy đủ. Tỳ-kheo nầy nghỉ ngôi qua đêm ở đó, để cho vừa bổn tâm, liền đạt được định, tư duy nơi Bốn đế, cho đến đêm hôm sau, tức chứng được A-la-hán, liền bay thẳng lên hư không.
Tôn giả A-nan tâm niệm: “Tỳ-kheo nầy chợt bỏ phòng ốc ra đi, đồ vật mượn của vua, e có người đem theo, mình thử qua đó xem sao?” Vào phòng không thấy ai cả, ngước nhìn giữa khoảng không thấy Tỳ-kheo đang bay ở đó. A-nan bạch Phật:
- “Thiên Tu Bồ Đề đã chứng được A-la-hán, nay đang bay trên hư không”, Phật nói với A-nan:
- Luận về y có hai thứ: Có thứ có thể gần gũi, có thứ không thể gần gũi.
Có thể gần gũi là sao?.
Khi mặc y tốt, sẽ tạo lợi ích cho tâm đạo, đây là thứ có thể gần gũi. Khi mặc y tốt, gây tổn hại tâm đạo, đây là thứ y không thể gần gũi. Thế nên, này A-nan! Hoặc từ y tốt được đạo, hoặc từ y xấu, Ngũ, năm nạp mà đắc đạo, giác ngộ là ở tâm, không câu nệ ở trang phục hình thức.
Do đấy, mà nói Thiên Tu Bồ Đề mặc y tốt là Câu-luật-đà.
Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Nan-đà-ca là người Giáo thọ (trao dạy giáo pháp) bậc nhất, là vì vốn Tôn giả Xá-lợi-phất cũng là Thầy Giáo thọ khắp cho bốn bộ đệ tử, từ sáng đến trưa, chủ yếu là khiến cho một người đạt đến dấu ấn đạo. Còn Tỳ-kheo nầy, chuyên giáo thọ Tỳ-kheo, khiến họ đạt được A-lahán. Ví như người bắn tên giỏi, chỉ bắn một phát, mũi tên vào giặc, tức trúng chỗ hiểm yếu, khiến cho giặc không thể đứng dậy, dụ cho Tỳ-kheo này khuyên dạy giỏi, chủ yếu là huệ, người nghe giáo huấn, kiết sử được trừ, thẳng đến Vô vi. Người bắn không giỏi, dù dùng nhiều mũi tên, chỉ trúng một phát, dụ cho Thân tử, diễn nói rộng về tuệ, sau cùng chỉ thành một bực. Sự hơn, kém, khác nhau như vậy, thấy dễ dàng! Vì thế, nên nói Ngài là Giáo thọ hậu học, là bậc nhất.
Sở dĩ Tỳ-kheo Tu-ma-na khéo dẫn dạy Tỳ-kheo Tăng Ni, là vì Tỳ-kheo nầy thường dùng lời tha thiết, thành thật dạy dỗ các Tăng Ni.
Phàm là nữ nhân, thì đa tình đa cảm, ủy mị, trưng diện, trang sức huyễn hoặc người đời. Thân hình như vậy, nhưng đầy cấu uế với chín lỗ bất tịnh, ba mươi sáu thứ trên người không thứ nào đáng tham. Sở dĩ gọi Tu Ma Na (là tên của hoa); vì lúc Tỳ-kheo nầy vừa sinh ra, trên tai tự nhiên đã có hoa ấy rồi, liền dùng hoa làm tên gọi.
Bấy giờ, vua Tần Bà Sa La đến chỗ Phật, thấy trên tai Tỳ-kheo nầy có hoa, lấy làm ngạc nhiên, hỏi Phật:
- Pháp Tỳ-kheo được đeo hoa ư ?
Phật bảo vua:
- Nhà Vua hãy vứt bỏ đi!
Nhà vua tức thì dùng tay nắm lấy hoa bỏ đi, nhưng liên tục hoa vẫn sinh như cũ. Cứ thế, không dừng lại, trở thành bụi hoa. Nhà vua càng vô cùng ngạc nhiên, hỏi Phật về lý do của sự việc.
Phật nói:
Xưa, vào thời kỳ Như Lai Tỳ Ba Thi ra đời, Tỳ-kheo nầy làm con của vị Trưởng giả. Lễ hội trong năm được tổ chức trưởng giả đánh đàn cầm, cùng xướng ca, vui đùa, xong lại đến chỗ Phật Trưởng giả nầy nhìn thấy Phật, lòng rất vui mừng, liền dùng hoa nơi tai mình đeo lên tai Phật. Đức Phật bèn dùng thần túc, hóa ra hoa nầy, ở trong hư không, biến thành đài có bốn cột, mà đóa hoa trên tai vẫn y như cũ.
Trưởng giả trông thấy Phật biến hóa, liền phát thệ nguyện: “Nguyện trong đời vị lai, đời đời cho con được gặp Phật thân tướng được đoan nghiêm, trên tai nảy sinh hoa”. Do nguyện của phước đời xưa, nay được báo của nguyện đó. Vua nghe Phật nói, tâm được khai mở, liền đảnh lễ sát chân Phật, lui ra và trở lại cung”.
Sở dĩ khéo dẫn dạy Tỳ-kheo ni, vì Tỳ-kheo ni v.v.., vốn là những người có nhiều tình cảm, trông thấy Tỳ-kheo nầy đoan nghiêm, trên tai lại luôn có hoa, nên tâm ý vui thích quý mến nhờ vào tình cảm nầy mà dẫn dạy bằng những lời khẩn thiết. Do lời lẽ tha thiết nầy mà những vướng mắc về ái dục, liền được cởi mở.
Thế nên nói Ngài khéo dẫn dạy giới cấm cho Tỳ-kheo Tăng Ni, là Câu-luật-đà.
Sở dĩ gọi phước đức của Tỳ-kheo Thi-bà-la là Câu-luật-đà; vì lúc Thi-bà-la mới sinh, trong tay cầm ngọc Ma-ni vô giá, té xuống đất, liền nói: Thế gian có bảy báu như vàng, bạc v.v.., có thể đem bố thí chăng? Nay ta muốn bố thí lớn!. Nói lời nầy xong, cha mẹ và cả nhà đều kinh sợ, vứt bỏ mọi thứ mà chạy, miệng kêu là quỷ la sát, hoặc cho là Thiên thần!
Phàm là con trẻ mới sinh, cần phải đầy đủ ngày tháng, thì mới nói được. Nay vừa té xuống đất, lại nói ngay, đúng là rất đáng kinh ngạc.
Tình mẹ không đành bỏ, trở lại xem kỹ. Đứa con bèn với mẹ: “Mẹ đừng sợ! Con không phải là quỷ, con chính là con của mẹ.
Cha của Thi-bà-la là Nguyệt Quang nói:
“Nay cha sẽ bồng con đến chỗ Ni-kiền-tử, để hỏi xem, cha mẹ sinh con là lành hay dữ?”. Tức thì cùng với vợ, ông bồng con đến chỗ Ni-kiền-tử, kể mọi hiện trạng đã xảy ra, Sư nói:
- Đứa trẻ nầy vô phước, về sau, nó sẽ gây nên tai họa! Trưởng giả nói:
- Trong tay đứa trẻ này lúc mới sinh có ngọc báu Ma-ni, vì lẽ gì ông nói là vô phước?
Ni-kiền bảo:
- Đến năm trẻ lên tám tuổi, bấy giờ, của báu nhà ông có bao nhiêu đều sẽ hết sạch. Sẽ do chính bàn tay của đứa trẻ nầy làm cho tiêu tan, do đó cả nhà sẽ chết đói.
Trưởng giả quá sợ hãi, nhưng cũng nghi hoặc. Nghe trên đời có bậc đại Sa-môn, có thể biết việc lành, dữ, ta sẽ đến chỗ ấy để hỏi xem việc nầy hư thực thế nào? Tức thì đi đến chỗ đức Thế Tôn, nửa đường lại nghĩ:
- “Đại Sa-môn là dòng Vương giả, sinh ra lớn lên ở cung sâu, lại không học vấn. Bà-la-môn v.v.., có học rộng dù là chút ít, nhưng cũng không thể biết lành, dữ thì Sa-môn há có thể biết chăng?”. Liền muốn trở lại nhà. Bỗng nhiên có Vị trên hư không bảo Trưởng giả:
- Chỉ nên tiến tới trước, sao lại quay về?. Như Lai Đại thánh không có gì là không thấu đạt. Ông cứ qua đó, ắt sẽ quyết đoán hoài nghi, là phải, là quấy. Hãy nhanh chóng đi đến đó!
Trưởng giả tức thì đến trước chỗ Phật, lễ bái, hỏi han xong, liền thưa:
- Theo như lời Ni-kiền-tử đã nói, không rõ là lành, dữ thế nào? Phật bảo Trưởng giả:
Lành đều là lợi, mới sinh được đứa con phước đức ấy. Đứa trẻ nầy, đến năm hai mươi tuổi, sẽ xuất gia vì đạo, thường xuyên có năm trăm đồng tử là bạn, đều cùng đạt quả A-la-hán, và sẽ trở lại độ cho cha mẹ!.
Nghe Đức Phật nói rõ xong, Trưởng giả cảm thấy hoan hỷ, phấn khởi, không thể tự kìm chế, liền trở về nhà, sắm sửa thức ăn thịnh soạn, thỉnh Phật đến cúng dường nguyện Đức Thế Tôn ban cho đứa trẻ nầy tên gọi. Phật bảo Trưởng giả:
- Chính vì muốn mang tên là trời, thì người không hiểu. Chính vì muốn mang tên Hiền, Thánh thì hàng phàm phu không hiểu. Thời Phật Ca-diếp gọi quỷ là Thi-bà-la. Nay đúng là nên đặt tên Thibà-la. Thi-bà-la nghĩa là khai thông âm thanh, ngôn ngữ của quỷ thần. Thế nên, đặt tên là Thi-bàla.
Khi Tôn giả A-nan sắp bát Niết-bàn, có độ hai đệ tử:
1. Tên Ma-thiền-đề
2. Tên Ma-thân-đề-lợi.
Ma-thân-đề-lợi, nghĩa là vua đất. Nếu không làm đạo nhơn, thì sẽ làm vua cõi Diêm Phù Đề này và ba cõi thiên hạ, nên gọi Ma-thân-đề-lợi. Tôn giả A-nan bảo đệ tử nầy:
-“Ông hãy đến nước Sư Tử chữ để chấn hưng Phật pháp. Người nước ấy cùng ở chung với La Sát, chủ yếu là cần văn tự để sau đó giao tiếp. Chợ giao dịch có sáu mươi thứ sách, trong số đó có sách quỷ gọi A Phù, sách người, đọc gọi là A La. Mathân-đề-lợi vâng mệnh, đến nước Sư Tử kia, nhằm hoằng dương Phật pháp”.
Từ dấu ấn của giáo pháp nầy, ngày nay vẫn còn. Thi-bà-la là khai thông quỷ thần, vụ việc kia cũng như thế, nên gọi là Thi-bà-la.
Sở dĩ gọi Thi-bà-la có phước đức là vì lúc mới sinh, trong hai tay, tự nhiên có ngọc báu Ma-ni xuất hiện. Đó là vào thời Như Lai Tỳ Bà Thi xa xưa, Tỳ-kheo nầy làm khách buôn, vào biển tìm châu báu, phải trải qua năm tai nạn nguy hiểm mới đến được chỗ đảo báu. Được một châu báu, trở lại dâng lên cho đức Phật giữ và nguyện nơi mình sinh ra cũng sẽ được quả báo tự nhiên. Do nhân duyên nầy mà khi sinh liền có điều kỳ lạ. Lúc mới sinh, tự nhiên có viên ngọc báu được đeo vào tai mà sinh trị giá hai mươi ức. Người cha triệu tập những người buôn lại, để hỏi giá trị của viên ngọc báu kia. Các người buôn cân nhắc nói: “Trị giá hai mươi ức.
Viên ngọc báu trong tay Thi-bà-la, không có hạn lượng, nên kể như là vô giá, kỳ thật báu ấy đã được thấm nhuần qua bảy đời, trong bảy đời đó không có nơi nào thiếu, khát, nên gọi là phước đức Câu-luật-đà.
Đến năm hai mươi tuổi, xuất gia học đạo, tới chỗ đức Thế Tôn, Phật dạy:
-“Thiện lai, tức thành Sa-môn, tư duy về bốn đế, liền chứng được A La Hán. Lúc ấy, có năm trăm đồng tử, cũng xuất gia vì đạo, thường theo hầu Thi-bà-la. Thi-bà-la cung cấp áo cơm cho năm trăm người nầy, y phục chỗ ở đều thích hợp, được cúng dường không thiếu, khắp chung quanh cũng đều cúng dường, cho đến tận thành La Duyệt Kỳ. Ở phía nam thành ấy có ngọn núi lớn; trong núi, các thứ trùng độc, hổ, sói, la sát rất nhiều. Thi-bàla liền tự tâm niệm: “Muốn ẩn náu trong núi một thời gian”.
Bấy giờ, Thiên Đế Thích, biết ý niệm của Thibà-la, tức thì tạo dựng năm trăm phòng và tăng già lam ở trong núi đó, với đầy đủ mọi thứ cúng dường.
Trải qua một mùa ngồi hạ đã xong, Thi-bà-la tâm niệm: “Xa cách không theo hầu đức Thế Tôn đã lâu, nên trở lại đảnh lễ hầu cận ngài. Khi đó trời rất nóng bức, có ý nghĩ muốn được mát mẻ, Thiên
Đế biết ý Thi-bà-la, liền hạ thấp mây, mưa một ít nước, nghĩ đó là nước uống, tức thành cam lộ rơi xuống. Ý nghĩ về điều mình muốn, ưng ý là liền có được, nên gọi là phước đức Câu-luật-đà”.
Thi-bà-la có người chú, thờ Phạm chí ngoại đạo, là người vốn keo kiệt, không ưa bố thí. Lúc ấy, có bạn thân khuyên chú ông hãy tạo nên tiền của cho đời sau, ông ta liền thỉnh vài ngàn Phạm chí, thí cho trăm ngàn lượng vàng. Thi-bà-la nghĩ: “Chú keo kiệt, tham lam, sống không tạo dựng phước, giả sử làm tuệ thí mà không gặp ruộng tốt nếu ta không độ thì vĩnh viễn ông sẽ bị vứt bỏ, nên liền đi qua nhà chú, bưng bát khất thực”. Người chú nói:
- Sao cháu đến muộn vậy! Ngày hôm qua, ta đã bố thí rất lớn, nếu hôm qua cháu đến, thì có thể được Tăng kiệt chi.
Nói: “Ta tự có Tăng kiệt chi”, đã không cần thì cháu đến đây làm gì?
Thi-bà-la đáp:
- Cháu muốn khất thực! Bấy giờ, người chú không cho.
Thi-bà-la liền hiện thân trong hư không, tạo nên mười tám thứ biến hóa: Thân xuất hiện trên nước, lửa…
Trưởng giả tâm niệm:
- “Đây tất nhiên là sự giận dữ, có thể đốt cháy nhà ta, liền gọi nên hạ xuống, mời ngồi nơi tòa.
Thi-bà-la ngồi, nói:
- Tôi muốn được ăn.
Người chú bèn cho thức ăn dở, thiu hôi. Thibà-la liền tiếp nhận, chú nguyện mà ăn. Thức ăn vào trong bát, được chiêu cảm do phước, đức, nên biến thành cam lộ. Có vị Trời trên hư không khen:
- “Lành thay, Trưởng giả! Đấy mới là thí vĩ đại, là thí phước đức.
Không gì có thể vượt qua”.
Trưởng giả tâm niệm: “Trước đây ta đã thí cho Phạm chí trăm ngàn lượng vàng, mà không khen ta. Nay chỉ thí cho một ít thức ăn dở, lại khen là thiện, như vậy không là nói dối sao?” Trời lại bảo:
- Của bố thí dù ít, nhưng đó là ruộng phước tốt, nên nói là thí vĩ đại.
Trưởng giả lại nghĩ: “Trời tất nhiên là chơn thật, lại đến hai lần bảo ta.
Tức dùng trăm ngàn lượng vàng thí cho Thibà-la.
Thi-bà-la nói:
- Theo pháp Tỳ-kheo của tôi, thì không nên nhận lấy vàng.
Liền đi đến chỗ Phật để hỏi rõ sự việc.
Phật dạy:
- “Có thể nhận lấy, tùy ý chuyển thí cho người khác.
Thi-bà-la bèn tiếp nhận số vàng nầy, rồi đem thí cho các đồng học.
Rồi vì người chú thuyết giảng pháp, tức được dấu ấn đạo.
Do có khả năng biến đổi thức ăn dở, hôi thành ra cam lộ, nên gọi là phước đức Câu-luật-đà”.
Từ khi sinh cho đến Niết-bàn, chưa từng có sự thiếu thốn. Khi bát Niết-bàn, trên thân mưa xuống vô số các thứ uống ăn ngọt ngon. Sở dĩ thân mình đã được đầy đủ lại vì muốn thấm nhuần cho chúng sinh. Chính vì lẽ nầy nên xưng là Câu-luật-đà.
Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Ưu Ba Tiên đầy đủ các hạnh là Câu-luật-đà, vì Tỳ-kheo nầy đức hạnh đầy đủ ở bên trong, hình dung đoan nghiêm ở bên ngoài. Ngoài, trong tương ưng nên chỗ thích hợp đều hài hòa.
Nan-đà ba mươi tướng, A-nan hai mươi tướng. Tướng biểu hiện dù nhiều, nhưng đối với oai nghi của Sa-môn, không thể cho là đầy đủ. Tướng của Tỳ-kheo nầy dù chỉ có mười một, nhưng về lễ nghi, thì luôn đầy đủ. Do đầy đủ nên tạo được sự thích hợp, đến đâu cũng tương ưng đúng lẽ, lớn nhỏ trông thấy không ai là không vui thích. Gọi là bên trong đầy đủ, như là bốn đế, như là tám chánh chơn diệu, là chốn linh thật sự luôn đầy, chưa từng bị hư hao, nên gọi đầy đủ pháp phẩm đạo của các hạnh là tối đệ nhứt.
Sở dĩ gọi chỗ giảng nói của Tỳ-kheo Bà Đà
Tiên là rất hòa vui, không làm thương tổn ý người vì Tỳ-kheo nầy thường thận trọng nơi miệng, không phạm bốn lỗi. Luận về kẻ sĩ xử thế, chiếc búa ở tai miệng mình sở dĩ chém thân là do lời nói ác.
Tỳ-kheo nầy, đối với các lời nói hung ác đều vĩnh viễn dứt trừ; thường xuyên lựa chọn lời, nói năng từ tốn, suy nghĩ trước sau, mới phát lộ thành câu, hợp với ý, tất nhiên sẽ khiến người nghe hoan hỷ. Nếu đối với hàng trưởng lão, trung niên hoặc tuổi trẻ, thì tùy theo đối tượng họ ưa thích, để có thể làm cho hài lòng.
Sở dĩ gọi Tỳ-kheo này hay khéo nói năng là vì: Có Tỳ-kheo đã chứng được La Hán, Lậu tận, nhưng vẫn còn có lỗi lầm của miệng. Như trường hợp Tỳ-kheo, nhân đi qua sông, nước sông cứ sâu dần, bèn phát ra lời nói xấu ác: “Giống vật nô tỳ dâm xấu xa!”. Bấy giờ, thần sông là nữ nghe lời nói ác ấy, tâm nghĩ: “Vị Tỳ-kheo nầy vừa thốt ra lời xấu ác như thế, chính là muốn đẩy ta ở mãi trong nước”. Đó là do Tỳ-kheo tạo ra. Phải đi hỏi Phật. Thần sông liền đi hỏi Phật:
- Có Tỳ-kheo qua sông, nước hơi sâu, lại mắng nhiếc: “Đồ giống nô tỳ dâm xấu xa”. Pháp của Tỳ-kheo có nên mắng nhiếc không?
Đức Phật liền sai một Tỳ-kheo gọi Tỳ-kheo mắng nhiếc kia đến.
Phật bảo Tỳ-kheo ấy:
- Ông là Sa-môn, vì lẽ gì mắng nhiếc sông nước? Tỳ-kheo đáp:
- Đệ tử không mắng, chỉ nói thẳng là giống dâm nô mà thôi. Nữ thần sông nói:
- Xem ra Tỳ-kheo nầy lại mắng nhiếc nữa! Xin Đức Thế Tôn thuyết giảng về gốc ngọn ấy. La Hán nên có sự giận dữ tồn tại như vậy chăng? Vì lẽ gì lại mắng? Phật nói:
- A La Hán không còn giận dữ; nói ngay như thế là vì quen miệng mà thôi! Tỳ-kheo này từng là Bà-la-môn. Pháp của Bà-la-môn khi vui mừng hay mắng nhiếc, nói:-“Tôi tớ trong thai” không hẳn là họ giận mà mắng. Lời nói thẳng là do tự quen miệng! Hơn nữa, năm trăm đời về trước, lúc Tỳ-kheo nầy là chồng của ngươi, thường hay mắng ngươi là nô tỳ, vì do thức của đời trước không loại trừ, nên lại mắng!
Nữ thần sông nói:
- Dù là A-la-hán, vẫn còn có lỗi của miệng. Con không cầu đạt A-la-hán. Con nguyện về sau sẽ cầu đạo chánh chơn vô thượng, độ thoát cho tất cả, như Phật không khác!
Phật nói với Tỳ-kheo:
- Ông hãy hướng về người nữ này xin sám hối! Tỳ-kheo liền sám hối. Người nữ nầy cũng nên hướng về Tỳ-kheo kia xin sám hối! Làm lễ xong, cả hai đều từ biệt ra đi.
Mặc dù là Lậu tận, cũng còn có lời nói thô, huống chi là đối với hàng phàm phu mà không thận trọng lời nói!
Do nhân duyên ấy nên biết Tỳ-kheo là người gìn giữ miệng Câu-luật-đà.
Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Ma-ha-ca-diên-na hành quán sổ tức là Câu-luật-đà, vì trong một ngàn hai trăm vị đệ tử, chỉ có Tỳ-kheo nầy và La Vân là có khả năng thật hành quán sổ tức Câu-luật-đà.
Lấy gì để biết được?
Xưa, La Vân theo Phật tu hành. Đức Phật vì phương tiện thiện xảo, lộ bày gót chân khiến cho La Vân thấy. La Vân thấy rồi, liền suy nghĩ:
- “Ông lão nầy luôn giữ lấy hình dạng như vậy. Từ bỏ ngôi vị Chuyển Luân Vương, mãi theo con đường hành khất ư ? Vì sao không thấy xấu hổ? Ta không thể nào lại làm kẻ hành khất, chắc phải trở về thôi! Vì tổ phụ ta là vua Chơn Tịnh hiện đang tại vị, ta đâu thể tạo ra sự cực khổ nầy làm gì?” Đức Phật biết rõ những nghĩ ngợi trong tâm La Vân. Ngài bảo La Vân:
- Con biết không? Trời đất hãy còn vô thường, huống chi là ngôi vị Chuyển Luân Thánh Vương của con, há có thể dừng lại lâu? Nên hiểu rõ về chẳng phải thường, có hình đều là khổ, thân chẳng có ngã, đều sẽ bị hoại diệt, không hề trụ lâu.
La Vân tư duy về bốn thứ vô thường, ý cũng chưa tỏ ngộ. Phật dạy phải thật hành pháp An ban thủ ý (Quán Sổ tức), để bảo vệ ý. An ban nghĩa là hơi thở ra vào. Hơi thở dài cũng biết, hơi thở ngắn cũng biết. Hôi thở ngắn nghĩa là từ tim trở lại. Hôi thở dài nghĩa là từ giữa gót chân trở lại. Lại biết lạnh, ấm: hơi thở vào là lạnh, hơi thở ra là ấm.
Sở dĩ cần biết dài, ngắn, lạnh, ấm là vì muốn phân biệt chỗ hướng đến của năm ấm là sâu hay cạn, tìm tòi gốc ngọn của hơi thở ra vào để biết nguyên do bệnh. Hoặc khi thở vào, không biết hơi thở từ đâu tới? Hoặc khi thở ra, không biết hôi thở đó sẽ đi đến chỗ nào? Hiểu rõ không có đến đi, bệnh cũng lại như thế.
Suy nghĩ như thế, bèn chứng được La Hán.
Ma-ha-ca-diên-na thực hành pháp quán sổ tức không giống như La Vân. Ông luôn tự tại về hơi thở, nếu muốn hơi thở xuất phát từ mắt, từ tai, đều tùy ý ra vào. Nếu nhắm mắt, bịt tai, mũi, miệng, thì hơi thở sẽ từ chín mươi vạn lỗ chân lông mà ra. Làm sao biết được từ các lỗ chân lông mà ra?
Vị Tỳ-kheo nầy vốn là dòng dõi vua, có hai anh em. Người em đoan nghiêm, đẹp đẽ. Bấy giờ, vua cha băng hà, người anh tức nên nối ngôi vua. Người em tự cho mình là hơn anh, ngầm mong được mọi người suy tôn, nhưng pháp của nước, không được vượt qua thứ bậc, liền đưa người anh lên làm vua. Người em tâm không phục, không chịu xưng quan, tự tìm cách ra nước ngoài, vua liền cho đi. Người em cầu xin quân binh, vua vui vẻ ban cho. Người em liền tuyển chọn tám vạn thớt voi, trang bị kiếm, áo giáp, chuẩn bị chu đáo xong, suy nghĩ: “Nước nào tốt hơn hết, ta muốn đánh chiếm? Nước Tỳ-xá-ly vượt trội hơn các nước khác, ta nên qua đó đánh lấy, cho là dụng ý của riêng mình, lập tức dẫn binh hướng đến. Đang đi được nửa đường, có năm trăm khách buôn vốn đi tìm của báu trở về, muốn đến nước Ma-kiệt-đà, gặp nhau, người em hỏi khách buôn: “Người trong thiên hạ, hình dung, dáng dấp có ai hơn ta không? Khách buôn liền cười. Hỏi:
- Vì sao cười?
Đáp:
- Tôi chỉ tự cười!
Lại hỏi:
- Cười, chủ yếu phải có dụng ý, vì sao không nói?.
Đáp:-Nếu không giận thì tôi sẽ nói rõ lý do.
- Ông cứ nói đi, ta quyết không giận ông đâu! Khách buôn nói:
- Tôi nghe nói có vương tử của vua Bạch Tịnh, danh hiệu Tất Đạt, thân cao lớn một trượng sáu, toàn sắc vàng ròng, có ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp.
Sau khi nghe khách buôn nói, Ca-chiên-diênna, trong lòng lo sợ, nếu Tất Đạt biết ta đến, ắt sẽ điều động quân chống trả, nên tức khắc cho dừng quân lại giữa đường, không dám tiến tới trước.
Bấy giờ, người nước Tỳ-xá-ly nghe nói Cachiên-diên-na khởi quân sắp kéo đến đánh, tự mình không thể làm gì được, vội đi hỏi Phật:
- Cầu tai ương được tiêu trừ phải như thế nào?
Phật nói:
- Không có khổ. Ta sẽ tự hóa giải tai ương ấy.
Ngay đêm hôm đó, Đức Thế Tôn đến chỗ Cachiên-diên-na, hiện biến hóa và ngồi kiết già giữa hư không, ánh sáng như núi vàng, tỏa chiếu khắp đại chúng.
Ca-chiên-diên-na ngẩng đầu lên nhìn, hỏi:
- Ngươi là người nào?.
Đáp: “Ta là người mà khách buôn đã nói”. Cachiên-diên-na liền bảo:
- Khách buôn! Ông đã lừa dối ta! Vừa rồi ông không nói là họ có thể bay cao nhưng hiện nay họ đang bay. Tròng lòng hoảng sợ sẽ bị Tất Đạt hại, nên vòng tay lại hỏi:
- Không rõ việc gì mà đến đây, xin được chỉ dạy? Đức Thế Tôn đáp:
- Chớ ôm lòng sợ sệt! Ta không hại ông. Ta tên là Phật, cứu độ tất cả, ta có pháp cam lộ vi diệu, ông muốn nghe không?.
Đáp: “Xin được nghe!
Đức Phật quán sát căn của Ca-chiên-diên-na, sẽ thích hợp từ pháp quán sổ tức mà được độ, liền vì ông ta giảng nói về việc giữ gìn hôi thở ra, vào, biết hơi thở dài, ngắn và biết lạnh, ấm.
Nghe Phật nói, tâm Ca-chiên-diên-na tức thì tỏ ngộ, được đạo Tu-đà-hoàn liền từ bỏ chúng quân, cầu làm người xuất gia. Phật liền tiếp nhận, nói:
- Thiện lai Tỳ-kheo! Ấy là thành Sa-môn.
Suy nghĩ về hơi thở ra vào, phân biệt bốn đại, với ba mươi sáu vật ác hiện rõ, đầy dẫy bất tịnh, liền đạt đến chỗ tốt đẹp, chứng đắc quả vô lậu, nên gọi hành quán sổ tức là Câu-luật-đà trong các Tỳ-kheo.
Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Ưu Đầu Bàn cho ngã là vô thường là Câu-luật-đà, vì hạnh nơi kiếp trước của Tỳ-kheo nầy là cung kính. Nếu thấy trưởng lão, thầy, cha, thì phụng sự thờ kính. Nếu thấy người trung niên thì kính trọng như anh. Người nhỏ hơn mình thì thương như em. Vì khiêm tốn, cung kính cùng cực, nên tiếp nhận quả báo thân tướng đẹp đẽ, to lớn, được làm Tỳ-kheo, hầu bên trái bên phải Phật. Dù có hình tướng cao lớn, nhưng thường không tự ỷ thị, luôn xem thân vô ngã, vô thường là chủ. Tuệ sáng hiểu thấu, tâm dứt mọi ưa phải trái nên hay bỏ hết các hình, trừ tan kiêu hãnh, lấy cử chỉ khiêm tốn làm đầu.
Do đâu biết được sự đẹp đẽ lớn lao của tướng hình?.
Sau khi thành đạo, Đức Phật độ ba anh em Cadiếp, có ngàn Tỳ-kheo. Du hóa đến nước Ma Kiệt, độ vua Bình Sa. Khi sắp trở lại bổn quốc, trước hết sai Ưu-đà-di báo cho vua Chơn Tịnh biết, bảy ngày sau sẽ đến nhập hóa.
Bấy giờ, vua Chơn Tịnh nghe tin nầy, khấp khởi vui mừng khôn xiết, liền ra lệnh trang hoàng nhà cửa, xe cộ, tu sửa đường sá sao cho bằng phẳng, quét dọn sạch sẽ, rưới nước, đốt hương, để tiếp đón Như Lai. Như Lai dẫn một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ-kheo đi đến nước Thích Sí. Như Lai tâm niệm: “Phụ vương, ắt phải đến đón rước, không thể vì sự tôn trọng mà để phụ vương phải cúi lễ. Phật bèn hiện thần túc, bay lên hư không mà đi, ngang bằng với đầu người, muốn cho tay của vua cha tiếp xúc với chân Như Lai mà thôi. Vì sao? Vì Đức Phật dù là bậc tôn đức nhưng không muốn để cho cha mẹ phải cúi lạy mình”.
Lúc ấy, Tỳ-kheo Ưu-đầu-bàn ở bên phải Như Lai, lực sĩ Mật Tích ở bên trái Như Lai. Thân Như Lai đứng thẳng đến vai Tỳ-kheo nầy. Vua hỏi:
- Những ai đứng bên trái, bên phải Phật mà cao lớn như vậy?
Đáp: Đứng bên phải Phật là Tỳ-kheo Ưu-đầubàn; còn người đứng hầu bên trái Phật, là lực sĩ Kim Cang thuộc quỷ Duyệt Xoa.
Lại hỏi: “Là những người của nước nào mà đẹp đẽ khác lạ như thế?”.
Đáp:-“Là người thuộc nước Ma Kiệt”.
Lại hỏi:
- Là thân thần túc hay là thân di thể?.
Đáp:-“Là thân di thể của cha, mẹ, không phải là thân thần túc.
Người trong họ Thích cảm nghĩ: “Đức thần của Như Lai là không thể nghĩ bàn, mới khiến cho người cao lớn cùng quỷ ác La sát đứng hầu ở bên trái, phải Phật. Do nhân duyên nầy, nên biết được thân Tỳ-kheo ấy là dài, ngắn cao thấp”.
Tỳ-kheo ấy đứng hầu bên trái, phải Phật, luôn muốn che mờ Như Lai. Chư thiên, người đời cho đấy là điều không hay:
Như Lai có hai thứ thân:
1. Pháp thân.
2. Nhục thân.
Tỳ-kheo nầy chỉ yêu nhục thân có sắc vàng ròng, không yêu thích pháp thân vô lậu. Pháp sẽ được phó chúc cho đệ tử thân cận. Nên để lại pháp thân vì sợ nơi đời vị lai sẽ thiếu.
Do hai việc trên, nên Như Lai phân ra, để Tỳ-kheo nầy theo kịp Tôn giả A-nan.
Sở dĩ gọi Câu-ma-la Ca-diếp có thể biện luận đủ loại, là vì Tỳ-kheo nầy, thường xuyên vì mọi người diễn nói rộng rãi về Bốn đế, đôi khi còn kiêm cả việc tán tụng, dẫn dụ để so sánh. Ví như nêu một đế, dùng một kệ để ca ngợi, dẫn dụ, cho đến Bốn đế cũng đều như thế, nên gọi biện luận đủ loại là Câu-luật-đà.
Câu-ma-la, nghĩa là đồng tử; Ca-diếp là họ, Câu-ma-la Ca-diếp tức là con của đồng nữ.
Vì sao biết như thế?.
Xưa, có Trưởng giả tên là Thiện Thí, cuộc sống giàu có vô lượng. Nhà có cô con gái chưa hề ra khỏi cổng, ở nhà trông vào lửa, hôi ấm xông vào thân, bèn có mang. Cha mẹ kinh ngạc, lấy làm lạ, gạn hỏi con gái mình do đâu có tình trạng ấy? Người con gái thật tình đáp:
- “Không biết vì lẽ gì như thế”. Cha mẹ lại gạn hỏi nữa, lần nầy, thì dùng cả roi gậy, lời khai của cô gái vẫn không thay đổi. Cha mẹ đành đem vụ việc nầy tâu lên nhà vua. Nhà vua lại gạn hỏi, trách cứ, lời khai vẫn không khác. Vua buộc cô gái phải thừa nhận để khỏi lấy cái chết. Cô gái liền kêu oan:
“Thiên hạ sao lại có ông vua vô đạo, giết oan người vô tội”. Vua nói:
“Nếu ta không tốt thì ngươi tự bảo đảm cho sự thử nghiệm?”. Nhận thấy việc oan uổng như thế, vua liền cho kiểm nghiệm một lần nữa, vẫn y như lời cô gái đã tâu, không thêm bớt gì khác. Vua liền nói với cha mẹ cô gái:
- Trẫm muốn cưới con gái.
Cha mẹ thưa:
- Tùy ý đại vương nhưng dùng đứa con gái hư hỏng nầy để làm gì?
Nhà vua liền hạ lịnh đưa cô gái vào cung, theo đó mà chăm sóc, nuôi nấng.
Ngày tháng trôi qua, đã tới kỳ, cô gái sinh được một trai, đẹp đẽ, đoan nghiêm. Đến tuổi trưởng thành, xuất gia học đạo, thông tuệ, hiểu biết sâu rộng, tinh tấn, không bao lâu được đạo A La Hán, trở lại độ cha mẹ.
Bấy giờ, có quốc vương, hiệu là Ba Tiết, tin vào tà kiến sai lạc, không biết có đời này, đời sau, không biết làm việc thiện thì được phước, tạo điều ác phải chịu tai tương, cho rằng khi chết, thần diệt, không thọ sinh lại, không tin có Phật, không biết Niết-bàn, dùng lá sắt ràng bụng lại, sợ trí sẽ tràn ra, khoe mình là duy nhất không ai sánh bằng.
Lúc này, Đồng Ca-diếp vừa đến cửa vua. Vua thấy Ca-diếp mặc y phục lạ thường, bước đi dịu dàng, khoan thai, oai nghi tề chỉnh, liền cho bàn luận. Vua hỏi đạo nhơn, đạo nhơn nói:
- “Làm điều thiện sẽ có phước, tạo việc ác sẽ chịu họa hại”. Vua nói:
- Tông gia của ta có một người làm việc thiện đến thuần thục. Khi sắp chết, ta đã cùng với nhiều người, đi đến nói với người ấy:
“Như điều ông đã làm, khi chết phải được sinh lên cõi Trời. Nếu có người trên cõi Trời đến thì trở lại nói cho ta hay. Từ khi chết đến nay, đã lâu, không thấy ai đến báo với ta, từ đó ta biết là làm điều thiện không có phước!” Đạo nhơn đáp với vua:
Luận về người trí, dùng thí dụ sẽ tự hiểu. Ví như có một người bị té ngã vào trong chuồng xí trăm ngăn. Có người kéo ra cho tắm gội sạch sẽ, mặc y phục đẹp, dùng hương xông khắp mình, ngồi trên giường cao. Có người lại nói với người nầy:
- Ông hãy đi trở lại vào chuồng xí! Người nầy có chịu vào không?
Vua nói:
- Không chịu.
Đạo nhơn nói:
- Người sinh lên cõi Trời, ví dụ nầy cũng vậy. Trên trời thì năm dục, diệu lạc, tự ý vui thích, dùng cam lộ làm thức ăn. thức ăn tự tiêu hóa, không lo tiện lợi, thân thể sạch sẽ; hơi miệng thơm tho.
Nhìn xuống thế gian, cũng như ở chồng heo. Giả sử muốn đến thế gian, nghe mùi hôi thối lập tức cũng thối lui. Do đấy, mới nói là không được báo trở lại là vậy! Với vài mươi điều thí dụ so sánh như thế, ý vua được mở rộng hiểu biết và tin tưởng về ba ngôi.
Do nhân duyên nầy, nên Đồng Ca Diếp được gọi là có khả năng biện luận đủ thứ vào Câu-luậtđà.
Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Diện Vương, mặc y phục xấu, rách, không lấy gì làm xấu hổ, có thể gọi là hành mười một hạnh đầu đà?. Hoặc nói là: “Không phải”. Vậy vì lẽ gì cho là Câu-luật-đà?.
- Tỳ-kheo mặc một thứ y, suốt đời không thay đổi.
- Vì lẽ gì biết được như thế?.
Vị Tỳ-kheo nầy vốn là dòng họ Thích. Lúc mới sinh, có đức thần lạ. Khi mẹ bắt đầu mang thai, đã rước Phạm chí đến, để đoán xem tướng mạo. Phạm chí đoán:
- Trên đầu đứa trẻ nầy có tướng mão của trời.
Người mẹ nghe qua, rất hoan hỷ, giả vờ không vui, suy nghĩ:
- Luận về mão trời, nghĩa là tướng của vua. Trong một nước không thể có hai vua, e sẽ bị vua hại. Vì thế, nên không vui. Sở dĩ trong lòng mừng rỡ vì lẽ nếu thật sự là vua, thì tự nhiên sẽ có người bảo vệ, lo gì không cứu giúp.
Đủ ngày tháng, người mẹ sinh một đứa con trai, trên đầu có bóng chiếc mão. Lại mời Phạm chí đặt tên cho. Phạm chí nói: “Trên đầu đứa trẻ có tướng vua”. Lại, không thể rời tướng nầy, nên phải gọi là Diện Vương, tức đặt tên là Diện Vương.
Vua Chơn Tịnh nghe chuyện ấy nên lo sầu. Đứa trẻ nầy có tướng vương giả, về sau sẽ đoạt lấy ngôi vị của ta. Vậy ta phải làm sao đây? Vua muốn giết nó ngay, nhưng vì sợ tội không dám giết. Đang muốn để nó ở lại, nhưng sợ sẽ cướp mất ngôi vua của mình. Vua càng lo lắng, áy náy, không thể tự yên ổn.
Đức Phật sau khi trở lại nước, vua cha bèn ban lệnh cho các họ Thích: “Nếu nhà nào có hai anh em thì sẽ cho một người xuất gia vì đạo, theo hầu đức Thế Tôn! Đứa trẻ này chỉ là một, nên không thể khiến xuất gia theo năm trăm người. Vậy là vua phải ôm lòng buồn lo, heo hắt thêm!
Bấy giờ, Diện Vương lên mười tuổi, tâm tự suy nghĩ: “Giả sử được ngôi Chuyển Luân Thánh Vương, cũng lại vô thường. Hơn nữa, không bằng các người họ Thích xuất gia. Thân người khó đạt, Đức Phật ra đời, không dễ gì được gặp. Còn thô ấu, được gặp Phật xuất thế, cần phải xuất gia.” Diện Vương liền thưa với mẹ mình”.
- Con muốn xuất gia học đạo! Người mẹ nói:
- Ta chỉ có một mình con, bỏ ta, ta sẽ phải chết! Diện Vương liền thưa với vua Chơn Tịnh:
- Tâu Vua! Con muốn xuất gia, vua có cho không? Vua Chơn Tịnh tỏ vẻ hoan hỷ nói:
- Rất nên như thế!
Diện Vương thưa:
- Thân con chỉ có một, không biết phó thác mẹ cho ai, đấy là nỗi lo của con. Vua nói:
- Nếu con có thể xuất gia, ta sẽ xem mẹ của con như là chị lấy phân nửa nước để chu cấp.
Diện Vương hoan hỷ, trở lại nhà, bày tỏ mọi chuyện và thưa với mẹ xin xuất gia, mẹ liền chấp thuận.
Khi sắp xuất gia, Diện Vương mặc áo lông cừu trắng rộng, đến chỗ Thế Tôn muốn cầu đạo. Đức Thế Tôn nói:
- Thiện lai Tỳ-kheo! Tức thì trở thành Samôn.
Phật dạy Tỳ-kheo có ba y, Tỳ-kheo Diện Vương nầy, trực tiếp nhuộm áo lông cừu trắng, để làm Ca-sa, chớ không dùng y nào khác. Diện Vương bạch Phật:
- Đệ tử, chính vì muốn trọn đời mặc một y nầy, xin đức Thế Tôn cho phép.
Đức Phật yên lặng là đồng ý cho, nên từ đấy trở đi, thường mặc một y ấy, Đức Thế Tôn nói:
- Người mặc y xấu, rách trong các đệ tử của ta, không có ai qua Tỳ-kheo Diện Vượng. Tỳ-kheo nầy, ở trong tám điều tâm niệm của bậc đại nhơn, là người thiểu dục, tri túc, Câu-luật-đà.
Sở dĩ gọi La Vân là giữ giới không hủy hoại.
Hoặc nói: “La Vân vui thích nói dối, sao lại nói là giữ giới? Hoặc nói: “La Vân không nói dối, chính là tự giận Phật”.
Vì lẽ gì giận Phật?.
- Vì lẽ Phật không làm Chuyển Luân Thánh Vương. Nếu làm Thánh vương, sẽ có tám vạn bốn ngàn đại thần, tám vạn bốn ngàn ngọc nữ, voi ngựa, xe tải, mỗi thứ đều có tám vạn bốn ngàn.
Từ bỏ ngôi vị như vậy mà làm Sa-môn, đi khất thực khắp đây đó, không đáng xấu hổ hay sao?.
Chấp vào quyền lợi của Thánh Vương, ngờ vực Như Lai, nên tạo ra sự nói dối mà thôi!.
Có người hỏi La Vân:
- Đức Như Lai ở đâu?.
Như Lai thật sự đang ở tinh xá Kỳ Thọ, mà lại đáp: “Ở khu vườn Trú ám. Sự thật Như Lai đang hiện diện tại vườn Trú ám, mà nói dối là đang ở tại vườn Kỳ Thọ. Thường hay nói dối để gạt người đến hỏi”. Tôn giả A-nan bèn bạch Phật:
- La Vân nói dối.
Đức Phật gọi La Vân đến hỏi:
- Ngươi thật sự có nói dối? La Vân đáp:
- Thật như vậy, bạch Thế Tôn!
Phật hỏi:
- La Vân, vì lẽ gì ngươi tạo ra sự nói dối?
Ta sở dĩ từ bỏ ngôi vị Thánh Vương là vì ngôi vị ấy không thể là nơi chốn trông cậy, nương tựa, đều trở về với vô thường, không tồn tại lâu dài. Ngay cả Đế Thích, Phạm Vương, cũng đều không thể bảo đảm, huống chi là Thánh Vương mà có thể trông cậy, nương dựa ư? Đức Phật nói:
- La Vân! Ta trước sau đều từ bỏ, sự việc nầy không thể gọi là chấp, sao ngươi lại hờn dỗi! Phật nói với La Vân:
- Ngươi múc nước đem đến đây cho ta. La Vân liền múc đầy bát nước đem đến. Như Lai cầm bát nước nói với La Vân:
- Ngươi có thấy nước nầy không? La vân đáp:
- Bạch Thế Tôn, con đã nhìn thấy.
Phật nói:
- Bát nước đầy nầy không lưng bớt chút nào, là dụ cho giữ giới đầy đủ hoàn toàn, không chỗ nào hao hụt, rơi rớt. Như Lai đổ bỏ một nửa; rồi nói với La Vân:
- Ông có thấy nước nầy không?
La Vân đáp:
- Dạ có thấy, bạch Thế Tôn!
Phật nói:
- Nước nầy vì mất hết một nửa, là dụ cho giới không đầy đủ. Lại đổ hết nước, khiến cho bát cạn, Phật lại bảo La Vân:
- Ngươi có thấy bát rỗng nầy không?
La Vân đáp:
- Đã thấy!
Phật nói:
- Phạm giới là đều hết sạch, ví như chiếc bát trống rỗng. Phật lại lấy bát úp xuống đất, rồi bảo cho La Vân:
- Ngươi có thấy không?
La Vân đáp:
- Dạ thấy, bạch Thế Tôn!
Phật nói:
- Đã phạm giới, đều sẽ bị đọa địa ngục, là dụ cho miệng bát hướng xuống đất.
La Vân từ khi được sự răn dạy tận tình của Phật về sau, chưa từng vi phạm lại cho dù một mảy may, nên gọi là người giữ giới Câu-luật-đà.
Hoặc nói: “Lại có sự việc: Thân Tử dẫn La Vân vào thành Xá-vệ khất thực. Bấy giờ, có vị Bà-lamôn thấy La Vân đi sau, liền khởi ý ác, đánh vào đầu La Vân, chảy máu làm nhơ cả mặt. La Vân lập tức nẩy sinh ý nghĩ ác: “Cần phải tìm phương tiện để trả oán nầy: Chỉ nói: “Hết thảy Bà-la-môn đều sẽ bị phá diệt, quyết không để họ yên!”.
Thân Tử biết được ý nghĩ trong tâm La Vân, vì bị Bà-la-môn kia đánh chảy máu; bèn nói với La Vân:
- Phải nhớ lại cha của ông, xưa kia khi làm vua Tu Niệm, có người đến xin đôi mắt, liền móc mắt cho ngay không hề hối hận. Lúc đang ngồi thiền ở nơi vườn, bị vua cắt xẻo tay, chân, cũng không hối hận. Hoặc khi làm voi đem ngà cho người, cũng không nhàm chán. Nay sao ông lại khởi lên niệm ác ấy? Nghe thầy nói, La Vân liền tự trách: “Nay sao ta lại dùng tâm ác nhắm vào người kia?”. Tức thì nhẫn nhục như đất, không khởi tâm hãm hại nữa, cho dù một sợi lông, cộng tóc cũng không đụng đến.
Người đánh vào đầu La Vân bị đọa trong địa ngục Vô trạch. Do nhân duyên nầy, nên biết La Vân giữ giới là Câu-luật-đà.
Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Ban Tha, có khả năng ẩn giấu hình không hiện, là vì Ban Tha, nghĩa là đường đi. Có trẻ song sinh bị vứt bỏ bên đường. Có người lượm đem về nuôi, đến khi khôn lớn, cả hai đều xuất gia vì đạo. Không có người nào cho tên, tức lấy tên là Đạo Sinh (sinh nơi đường). Tiếng Phạn gọi là Ban Tha.
Bấy giờ, ở nước Ma Kiệt, thường có sấm to, mưa dữ dội, năm thứ lúa thóc không mọc lên được, vua tên là Tần Đầu Đồ La, tổ của vua A Xà Thế, chiêu mộ người bốn phương xa gần, nói:
- Ai có năng lực đẩy lùi mưa lớn sẽ được ban cho nhiều của cải vật báu.
Lúc ấy, có Bà-la-môn, tên là Phạm chí, khéo biết về chú thuật, đến nơi chiêu mộ, nói:
- Tôi có năng lực đẩy lùi cơn mưa lớn!.
Vua liền cho phép ông ta hiện bày chú thuật và mưa dứt. Khi đó âm dương điều hòa, năm thứ lúa thóc được mùa. Phạm chí tâu lên vua xin trả công đã dứt được mưa. Mặc dù vua miệng đã hứa, nhưng cuối cùng không trả ôn cho. Các quan, dân chúng thấy vua không ban ôn cho, nên đều hứa sẽ cho.
Nhà Phạm chí rất khó khăn, thường theo xin trả công, các quan cũng không cho, đi đòi hỏi khắp cũng không được. Phạm chí cả giận, thề sẽ làm rồng độc, tiêu diệt người trồng trọt. Nếu có người gieo trồng ngũ cốc trở nên tươi tốt, ta sẽ tuôn mưa đá xuống, khiến cho rễ, cộng không đứng được, huống hồ là lá.
Thề xong, khi Phạm chí mạng chung, tức thì sinh trong loài rồng, tên là Vô Diệp.
Từ đấy, dân chúng nước Ma Kiệt, gieo trồng lúa thóc, lúa mạ vừa sinh, rồng liền làm mưa đá để hại.
Trải qua mấy năm như thế, dân chúng đói khổ khốn đốn, số người tử vong ngày càng đông.
Đức Phật vô cùng xót thương khi thấy muôn dân bị tổn hại, chết chóc; nên muốn hóa độ rồng nầy, liền dẫn Mật Tích, A-nan, Ban Tha đến, để cùng giữ nước, rồi tới thẳng chỗ rồng ở. Rồng vừa trông thấy Phật đang đi đến, lòng dạ ác độc nẩy sinh liền nói:
- Hôm nay ta sẽ làm mưa đá sát hại Sa-môn này. Lập tức mưa xuống đá núi. Phật quay về bên trái, nhìn Mật tích. Mật tích biết ý Phật, liền dùng chày kim cương với ý định làm cho núi đá lớn rơi xuống, lấp bít vực sâu của rồng. Rồng cả giận, lửa trong mắt phát ra. Phật nhìn về bên phải, Tỳ-kheo Ban Tha liền biết ý Phật muốn sai mình hàng phục rồng, tức thì dùng thần túc giấu hình, dùng nước dập tắt lửa trong mắt rồng. Rồng lại phát ra lửa ở tai, mũi, miệng, Ban Tha cũng dùng nước dập tắt cả. Tỳ-kheo lại dùng thần lực ra, vào, vào, ra nơi mắt, tai, mũi, miệng của rồng nhưng rồng không thấy, giấu hình ở trong, hiện tay ra ngoài. Rồng nhìn thấy sự biến hóa nầy, tức thì tâm phục Phật lại cùng với ba người ở trước qua lại kinh hành. Lúc nảy, trên tảng đá lớn có dấu chân của bốn người, nhưng mới có ba người xuất hiện. Rồng liền hỏi Phật:
- Còn một người nữa ở đâu?
Phật đáp:
- Là dấu chân thầy của ngươi. Rồng lại hỏi:
- Tên thầy là gì? Sao không hiện?. Đáp:
- Tên là Ban Tha.
Phật muốn hiện từ xa, Ban Tha biết ý Phật liền đi trăm bước, hiện hình từ xa, rồng trông thấy thầy, hoan hỷ làm lễ.
Đức Phật liền truyền trao pháp Bát quan trai. Từ đó trở đi gió, mưa điều hòa, năm thứ lúa thóc đơm đầy, chín tốt, muôn dân an ổn.
Do nhân duyên ấy, nên biết Ban Tha ẩn giấu hình là Câu-luật-đà.
Sở dĩ gọi Chúc Lợi Ban Tha, có khả năng biến hóa hình tướng, tạo ra ngần ấy biến hóa, là vì Chúc Lợi, nghĩa là rất tối tăm. Tinh thần của Tỳ-kheo nầy thua kém, chậm lụt. Phật dạy phải nhớ dùng chổi quét dọn; được chổi rồi, thì quên đi quét, đi quét, thì quên mang chổi.
Chuyên tâm tụng trong sáu năm, tâm ý mới được tỏ ngộ. Tự nghĩ: Trửu là cây chổi. Cây chổi là để quét dọn. Cây chổi: tức dụ cho tám chánh đạo. Phân là chất bẩn của ba độc. Dùng cây chổi Bát chánh đạo, quét sạch mọi cấu uế của ba độc, đó gọi là nghĩa quét dọn bằng chổi; đúng nghĩa là như vậy. Tư duy sâu xa về lý nầy, tâm liền tỏ biết, đạt được đạo A-la-hán. Gọi là hóa hiện hình thể, nghĩa là dùng diệu huệ của bốn đế, hóa ra hình của năm ấm, chính là có sự hóa nầy. Ngoài ra còn nói, có Bà-la-môn, tên là Phạm Thiên, cũng gọi Thế Điển. Sở dĩ gọi Thế Điển, là vì hiểu biết rộng rãi mọi thư tịch, họa đồ, sách bí mật, lời sấm truyền, thiên văn, địa lý, không gì là không để tâm tìm hiểu, nên gọi Thế Điển. Tự cho là đức mạng cao lớn, mà hành xử ai có khả năng bàn luận với ta?.
Nghe nói người thấp nhứt trong các Tỳ-kheo dòng họ Thích có Chúc Lợi Ban Tha. Người thấp nhứt trong các Ưu-bà-tắc có Cù-mật-đa-la, ta sẽ bàn luận chung với hai người nầy, tức đến chỗ của Ban Tha để cùng bàn luận, nói với Ban Tha:
- Có khả năng cùng ta biện luận không? Ban Tha nói:
- Ta hãy còn có khả năng cùng biện luận với Phạm Thiên là tổ phụ của ông, huống chi là ông, ngươi mù lòa, không có mắt ư?.
Phạm chí liền dựa vào lời nói, gạn hỏi:
- Mù với không có mắt, đâu khác gì nhau?
Ban Tha im lặng không đáp. Tâm suy nghĩ: “Không có gì để thù tạc nhau, nên phải dùng thần túc đáp nhau. Tức thì dùng thần túc, bay vọt lên hư không, cách mặt đất bốn trượng chín mét, rồi ngồi kiết già. Phạm chí ngửa xem, thấy thần biến của Ban Tha, trong tâm nẩy sinh sự kính nể, hiểu ra sự thù đáp thanh tịnh của Ban Tha”.
Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất đang kinh hành ở tinh xá Kỳ Hoàn, dùng thiên nhĩ nghe Phạm chí đang biện luận với Ban Tha. Biết lời lẽ của Ban Tha thiếu nên phải hiện tướng biến hóa để đáp. Xálợi-phất nghĩ:
- Nếu ta không qua đó, Tỳ-kheo ấy không làm cho khuất phục, thì Phạm chí sẽ không được độ; liền dùng thần túc hóa ra hình Ban Tha, khiến cho hình gốc của Ban Tha không hiện. Bằng hình hóa hiện. Xá-lợi-phất hỏi Phạm chí:
- Ông là Trời hay là người?.
Đáp:-“Là người.”
Ban Tha (hình hóa) lại hỏi:-Có phải người là con trai không?.
Đáp:-Đúng là con trai.
Lại hỏi:-Con trai và người có gì khác nhau không?
Đáp:-“Không khác”. Lại hỏi:
- Người, nghĩa là hợp lại, gọi người nam, là căn cứ ở hình tướng mà nói, không khác được sao? Trước kia, ta nói ngươi mù lòa, nghĩa là nói ngươi không thấy quả báo thiện, ác của đời nay, đời sau. Còn nói không có mắt, nghĩa là nói ngươi không có con mắt trí tuệ để đoạn trừ kiết, sử.
Tâm Phạm chí được cởi mở, liền đạt được pháp nhãn thanh tịnh.
Do nhân duyên nầy, nên biết Chúc Lợi Ban Tha biến hóa hình là bậc nhất.
Sở dĩ gọi Tỳ-kheo Thích Vương, thuộc dòng tộc hào phú cao sang, bẩm tánh nhu hòa, là vì thông thường có bốn họ: Sát Đế Lợi, Bà-la-môn, Trưởng giả, Cư sĩ. Sở dĩ nói sang trọng, là vì làm Sa-môn, cùng một họ Thích, do đấy mà gọi là sang trọng. Ví như nước của bốn nhánh sông Hằng: Mỏm bò, miệng sư tử, mỏm ngựa, miệng voi, đều có năm trăm chi, hợp vào biển cả, làm chung một thứ nước, vì không có ngần ấy vị, nên biển được xưng là lớn. Suy xét cho cùng, quý là ở trăm nhánh sông kia. Vì họ Thích cũng như thế, nên xưng là cao sang bậc nhất.
Vua Chơn Tịnh có ba người em: người em nhỏ nhứt tên Ngộ Tịnh, có con nhỏ, mới lên bốn tuổi. Lúc ấy, vua Chơn Tịnh đang ngự ở chánh điện, họp bàn với quần thần. Vua tự nghĩ: “Nếu con ta không xuất gia, ta phải là Thánh Vương. Con ta đã sinh, thì đáng lý ta phải làm Thánh Vương, nhưng con ta lại đi xuất gia. Vậy ta còn sử dụng mão trời nầy làm gì? Tức thì vua lột mão trời ném xuống đất: “Có ai nên làm, thì làm!” Các quan cảm thấy buồn rầu ái náy, đều mang tâm trạng không vui. Khi đó, con nhỏ của Thích Vương đang đi dạo phía trước cung điện, thấy chiếc mũ trời dưới đất, liền nhặt đội lên đầu, rồi ngồi xuống đất, lấy tay trái chống đỡ vai, tay phải sờ, vuốt râu tóc.
Vua và các quan vô cùng kinh hãi, cho là việc lạ, vì thế vua nói:
- “Đứa nhỏ nầy là thiên sứ, đúng như thế!” Hoặc do nó có năng lực làm Thánh Vương, hoặc có tướng mạo Thánh Vương của con trẫm, có nhiều hứa hẹn với đứa nhỏ nầy, nên khiến có điềm như vậy.
Các quan cùng nhau thưa:
- “Hoặc có thể như đại vương đã nói”. Nhà vua suy nghĩ: “Tất Đạt đã xuất gia, nếu lại trông thấy tướng mạo của đứa nhỏ nầy, cũng tự bỏ ngôi vua thôi! Trải qua tám năm, nghe Tất Đạt đã thành Phật, độ ba anh em Ca-diếp, đồ chúng được ngàn Tỳ-kheo cùng với Ưu-ba-đề Xá, Câu-luật-đà, thầy trò có hai trăm năm chục người, hợp lại gồm một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ-kheo, từ nước Makiệt-đà, muốn trở lại nhà Thích Sí. Đó là do Phật, trước đấy đã sai Ưu-đà-di báo cho vua cha biết tin tức.
Chơn Tịnh nghe qua, hết sức vui mừng, tức thì đội trở lại mão trời, lịnh cho sửa sang đường sá thật bằng phẳng, quét, rưới, rải hoa, đốt trầm hương ngạt ngào, để đón Như Lai.
Như Lai đã đến. Vua thấy các Tỳ-kheo, dù tâm tinh thuần, nhưng không biểu lộ ở dung mạo. Rồi vua tuyển chọn năm trăm người họ Thích với dáng dấp khả ái, xuất gia làm Sa-môn, để theo hầu Thế Tôn, Tỳ-kheo Thích Vương là người trước hết được chọn.
Bấy giờ, Đức Phật ngự ở tinh xá, đứng giữa đại chúng, Ngài bảo các Tỳ-kheo hãy bàn luận rộng rãi lý do cao sang của chủng tánh.
Lúc đó, vua Chơn Tịnh thân hành đến trong chúng, hướng về Tỳ-kheo Thích Vương làm lễ. Đại chúng đều lấy làm ngạc nhiên về cử chỉ nầy của vua, không hiểu vì lý do gì? Đức Phật biết ý nghĩ ấy của đại chúng, vì muốn giải tỏa nỗi hoài nghi, nên hỏi đại vương:
- Vì sao đại vương lễ Tỳ-kheo nầy? Đại Vương đáp:
- Sở dĩ ta lễ, là vì Tỳ-kheo nầy có hai việc vượt trội hơn ta: Luận về trời có ba:
1. Cử thiên.
2. Sinh thiên.
3. Thanh tịnh thiên.
Ta chỉ có Cử thiên. Tỳ-kheo nầy có cả Sinh thiên, và Thanh tịnh thiên. Sở dĩ nói Sinh thiên, là vì Tỳ-kheo nầy năm lên bốn tuổi, đã nhặt mão trời của ta đội lên đầu mình, tự nhiên nẩy sinh ý muốn ấy, không có ai cho, nên nói là Sinh thiên. Thanh tịnh thiên, nghĩa là hiện nay, Tỳ-kheo nầy, lậu đã tận, kiết đã dứt, không có cấu uế bụi bặm, nên nói là Thanh tịnh thiên. Vì do hai việc ấy vượt trội hơn ta, nên ta làm lễ!.
Do nhân duyên nầy, mà biết được Tỳ-kheo Thích Vương là dòng họ cao sang bật nhất.