TẠNG LUẬN
BỘ THÍCH KINH
SỐ 1525 - LUẬN DI LẶC BỒ TÁT SỞ VẤN KINH
Hán dịch: Đời Nguyên Ngụy, Tam Tạng Pháp sư Bồ Đề Lưu Chi.
Lúc bấy giờ Đại Bồ-tát Di lặc bạch với Đức Phật rằng: Thưa Đức Thế Tôn! Đúng như vậy, con nguyện vui lòng mong muốn lắng nghe. Thưa Đức Thế Tôn! Các đại Bồ-tát cuối cùng thành tựu bao nhiêu pháp, không lui sụt đối với phần vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; ở trong pháp thắng tiến không lui sụt-không chuyển đổi, lúc thực hành hạnh Bồ-tát làm cho tất cả các ma oán đối địch phải hàng phục; biết đúng như thật về tướng tự Thể của tất cả các pháp, đối với thế gian tâm không hề mệt mỏi, bởi vì tâm không hề mệt mỏi cho nên không dựa vào trí của người khác, nhanh chóng thành tựu phần vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn bảo với đại Bồ-tát Di lặc rằng: lành thay lành thay! Này Di lặc! Nay ông mới có thể thưa hỏi Như lai về nghĩa sâu xa như vậy. Đức Phật lại bảo với đại Bồ-tát Di lặc rằng: Nay ông nên nhất tâm lắng nghe kỹ càng, Ta sẽ giải thích rõ ràng cho ông về nghĩa sâu xa như vậy.
Ngay lúc ấy Đại Bồ-tát Di lặc thưa với Đức Phật rằng: Thưa Đức Thế Tôn! Đúng như vậy, con nguyện vui lòng mong muốn được nghe!
Đức Phật lại bảo với Đại Bồ-tát Di lặc rằng: Này Di lặc! Nếu các đại Bồ-tát cuối cùng thành tựu tám pháp, không lui sụt đối với phần vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, ở trong pháp thắng tiến không lui sụt-không chuyển đổi, lúc thực hành hạnh Bồ-tát làm cho tất cả các ma oán đối địch phải hàng phục, biết đúng như thật về tướng tự Thể của tất cả các pháp, đối với các thế gian tâm không hề mệt mỏi, bởi vì tâm không hề mệt mỏi cho nên không dựa vào trí của người khác, nhanh chóng thành tựu phần vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Những gì là tám pháp? Này Di lặc! Đó là các Đại Bồ-tát thành tựu tâm sâu xa, thành tựu tâm thực hành, thành tựu tâm Bố thí, thành tựu tâm dễ dàng, biết rõ phương tiện hồi hướng, thành tựu tâm Đại Từ, thành tựu tâm Đại Bi, thành tựu phương tiện dễ dàng biết rõ, thành tựu Bát nhã Ba-la-mật. Này Di lặc! Thế nào là các Đại Bồ-tát thành tựu tâm sâu xa? Này Di lặc! Nếu các Đại Bồ-tát nghe ca ngợi Đức Phật và chê bai Đức Phật, thì tâm họ cuối cùng vẫn kiên cố bất động đối với phần vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nghe ca ngợi giáo pháp và chê bai giáo pháp, thì tâm họ cuối cùng vẫn kiên cố bất động đối với phần vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nghe ca ngợi Tăng và chê bai Tăng, thì tâm họ cuối cùng vẫn kiên cố bất động đối với phần vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này Di lặc! Như vậy các đại Bồ-tát cuối cùng được thành tựu tâm sâu xa.
Này Di lặc! Thế nào là các Đại Bồ-tát thành tựu tâm thực hành? Này Di lặc! Nếu các Đại Bồtát xa lìa sát sinh, xa lìa trộm cắp, xa lìa tà dâm, xa lìa nói dối, xa lìa nói hai lưỡi, xa lìa nói thô ác, xa lìa nói thêu dệt. Này Di lặc! Như vậy các Đại Bồtát cuối cùng được thành tựu tâm thực hành. Này
Di lặc! Thế nào là các Đại Bồ-tát thành tựu tâm Bố thí? Này Di lặc! Nếu các Đại Bồ-tát là người chủ luôn luôn xả bỏ, là người chủ luôn luôn Bố thí, Bố thí các Sa môn và bà-la-môn cùng những người nghèo khó xin ăn hèn hạ, cơm áo giường chiếu-tùy bệnh giúp cho thuốc thang chữa trị cho đến mọi vật cần thiết. Này Di lặc! Như vậy các Đại Bồ-tát cuối cùng thành tựu được tâm Bố thí.
Này Di lặc! Thế nào là các Đại Bồ-tát thành tựu tâm dễ dàng biết rõ phương tiện hồi hướng? Này Di lặc! Nếu các Đại Bồ-tát đã tu thiện căn, đó là nghiệp thân-khẩu-ý, thảy đều hồi hướng cho phần vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này Di lặc! Như vậy các đại Bồ-tát cuối cùng được thành tựu tâm dễ dàng biết rõ phương tiện hồi hướng.
Này Di lặc! Thế nào là các Đại Bồ-tát thành tựu tâm Đại Từ? Này Di lặc! Nếu các Đại Bồ-tát cuối cùng được thành tựu thân nghiệp Đại Từ, cuối cùng được thành tựu khẩu nghiệp Đại Từ, cuối cùng được thành tựu ý nghiệp Đại Từ. Này Di lặc! Như vậy các Đại Bồ-tát cuối cùng được thành tựu tâm Đại Từ.
Này Di lặc! Thế nào là các Đại Bồ-tát thành tựu tâm Đại Bi? Này Di lặc! Nếu các Đại Bồ-tát cuối cùng được thành tựu thân nghiệp không thể chê trách, cuối cùng được thành tựu khẩu nghiệp không thể chê trách, cuối cùng được thành tựu ý nghiệp không thể chê trách? Này Di lặc! Như vậy các Đại Bồ-tát cuối cùng được thành tâm Đại Bi.
Này Di lặc! Thế nào là các Đại Bồ-tát thành tựu phương tiện dễ dàng biết rõ? Này Di lặc! Nếu các Đại Bồ-tát dễ dàng biết rõ Thế đế, dễ dàng biết rõ Đệ nhất nghĩa đế, dễ dàng biết rõ Nhị đế. Này Di lặc! Như vậy các Đại Bồ-tát cuối cùng được thành tựu phương tiện dễ dàng biết rõ.
Này Di lặc! Thế nào là các Đại Bồ-tát thành tựu Bát nhã Ba-la-mật? Này Di lặc! Nếu các Đại Bồ-tát hiểu biết như vậy: Dựa vào pháp này mà có pháp này, dựa vào pháp này mà phát sinh pháp này, đó gọi là Vô minh duyên hành, Hành duyên thức, thức duyên Danh sắc, Danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên Lão tử sầu bi khổ não. Như vậy chỉ có nhiều đau khổ tụ tập. Này Di lặc! Pháp này không có cho nên pháp này không có, pháp này diệt di cho nên pháp này diệt di, đó gọi là Vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì Danh sắc diệt, Danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì Lão tử ưu bi khổ não diệt. như vậy chỉ có nhiều đau khổ tụ tập diệt đi. Này Di lặc! Như vậy các Đại Bồ-tát cuối cùng được thành tựu Bát nhã Ba-la-mật. Này Di lặc! Đó gọi là các Đại Bồ-tát cuối cùng thành tựu tám pháp, không lui sụt đối với phần vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, ở trong pháp thắng tiến không lui sụt-không chuyển đổi, lúc thực hành hạnh Bồ-tát làm cho tất cả các ma oán đối địch phải hành phục, biết đúng như thật về tướng tự Thể của tất cả các pháp, đối với các thế gian tâm không hề mệt mỏi, bởi vì tâm không hề mệt mỏi cho nên không dựa vào trí của người khác, nhanh chóng thành tựu phần vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Đức Phật thuyết kinh này xong, Đại Bồ-tát Di lặc, và các Đại Bồ-tát khác, cùng với Tỳ-kheo-Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, trời rồng-Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Mahầu-la Lão-người và loài phi nhân…, tất cả đại chúng nghe Đức Phật đã thuyết đều rất hoan hỷ, tin nhận vâng lời thực hành.”
Hỏi: Vì sao Đức Như lai thuyết kinh này?
Đáp: Bốn câu như xả thí… là nêu rõ ba loại công đức của tướng Bố thí-trì giới-tu hành, là pháp chung cho cả Bồ-tát, ngoại đạo, Thanh văn và Bích-chi-Phật. Bốn câu như tâm sâu xa… là nêu rõ ngay nơi bốn pháp ấy chỉ có hạnh Bồ-tát, không phải là hạnh chung cho ngoại đạo, Thanh văn và Bích-chi-Phật, vì vậy cho nên Đức Như lai thuyết kinh này. Bố thí là nêu rõ công đức Bố thí; xa lìa sát sinh… là nêu rõ công đức trì giới. Hai câu về Từ Bi… là nêu rõ công đức tu hành. Nghĩa này thế nào? Bởi vì những phàm phu ngoại đạo xa rời thiện tri thức, không nghe chánh pháp, không khéo tư duy, không thực hành đúng như lời Phật dạy, vọng chấp thường kiến… luôn luôn tích tập nghiệp nhân, các kiết sử cùng dựa vào nhau có sức mạnh tăng thêm nhân tố của thế gian. Bám chặt vào vọng chấp quyết định thành tựu nhân tố của thế gian, rời bỏ cách nhìn chân lý chính xác, cho nên không có tâm làm lợi ích cho người khác. Bởi vì tham đắm dục lạc của thế gian, cho nên những ngoại đạo kia tuy có chủng tử thiện căn Bố thí…. Nhưng bị nghi hối làm cho nước ái tưới thấm tâm thức, ở trong đất của năm thủ uẩn, bị đất Vô minh che phủ, thời tiết hòa hợp mầm thức được nảy sinh, theo thứ tự tăng trưởng trở thành quả báo thế gian. Còn người Thanh văn và Bích-chi-Phật, thân cận thiện tri thức, thuận theo người đã vượt qua biển sinh tử muốn vượt qua biển sinh tử, nhưng nghe nói đến lỗi lầm tai họa của thế gian, lại tự thấy mình non kém, nhàm chán khổ đau của thế gian, vui thích niềm vui của Niết-bàn, muốn rời bỏ thế gian mà chạy theo mong cầu đạo lý thoát ra, tuy không giữ lấy công đức của Bố thí…, mà cũng không rời bỏ công đức của Bố thí…, nhưng có thể điều phục phiền não đạt được pháp thù thắng trên cao. Vì ý nghĩ này, tuy là tu tập thiện pháp Bồ-tát…, nhưng bởi vì không có bốn pháp, cho nên không đạt được Đại Bồ-đề. Còn người Bồ-tát cuối cùng thành tựu đầy đủ tám pháp, kiến lập đại sự gánh vác trách nhiệm quan trọng, thân cận thiện tri thức chân thật, thấy sâu sắc những lỗi lầm tai họa của thế gian, biết Niết-bàn tịch tịnh, chỉ vì chúng sinh vốn không nhàm chán thế gian khổ đau. Bắt đầu phát tâm Bồ-đề không mất đi nhân tố, cho nên thành tựu tâm sâu xa, xả bỏ niềm vui của tự thân làm lợi ích cho chúng sinh. Công đức tu hành Bố thí đều hồi hướng quả vị Đại Bồ-đề, dựa vào sức mạnh phương tiện tăng trưởng công đức vi diệu của Bố thí…, luôn luôn bảo vệ tự thân không rơi vào phạm vi của Thanh văn và Bích-chi-Phật. Vì kết quả cuối cùng là thành tựu Bát nhã Ba-la-mật, luôn luôn làm công đức thanh tịnh như Bố thí…, khiến cho trú trong đạo Bồ-tát. Nêu rõ bốn câu như tâm sâu xa…, luôn luôn nhiếp thủ bốn câu như Bố thí…, là pháp không giống nhau của Bồ-tát có năng lực đạt được Nhất thiết chủng trí. Vì vậy cho nên Như lai thuyết về kinh này.
Hỏi: Như Lai giảng nói kinh này, ý nghĩa đó như thế nào?
Đáp: Vì ngăn ngừa kẻ cho là không có nhân, nhân điên đảo, để tùy thuận nhân quả chân chánh, cho nên Đức Như Lai giảng nói kinh này. Nghĩa này thế nào? Nói không lui sụt đối với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là do thành tựu tâm sâu xa. Đây gọi là nghĩa gì? Khi các Đại Bồ-tát nhận thấy pháp giới, tức là đã vĩnh viễn lìa chướng ngại tâm Bồ-đề, nghĩa là tất cả phiền não, như thân kiến vượt qua địa Thanh văn và Bích-chi-Phật, ngộ nhập phần vị Bồ-tát, phát tâm Bồ-đề ngay từ địa ban đầu để không mất nhân tốt lành.
Vì chứng ngộ được tâm sâu xa, cho nên gọi là không lui sụt đối với phần vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Nói không thay đổi là do chứng ngộ được pháp thù thắng. Đây trình bày nghĩa gì? Đã thành tựu hạnh bố thí. Đây còn có nghĩa gì? Phát sinh tâm không gây tổn hại, là nghiệp đạo căn bản, nhiếp thủ thắng hạnh cao nhất. Vì vậy không thay đổi hay từ bỏ nghiệp đạo căn bản là tu hành bố thí... hành bất cứ ở đâu đều không lui sụt. Chính vì nghĩa này, cho nên gọi là không thay đổi. Còn nói khi thực hành hạnh của Bồ-tát là hàng phục mọi ma oán, là do khéo biết phương tiện hồi hướng với tâm đã thành tựu. Đây trình bày về là nghĩa gì? Nói giản lược có bốn loại ma, là ma phiền não, ma ấm, ma chết và ma trời. Chỉ có ma phiền não là căn bản dựa vào ma phiền não mới có ba loại ma kia. Vì sao? Vì tâm niệm của các phàm phu đều bị ràng buộc do phiền não và tâm bị phiền não này trói buộc, vui sống ở thế gian mà mong cầu thú vui ở cõi khác, cho nên mới đem pháp bố thí... hồi hướng về cõi trời. Chính vì nghĩa đó mà ma trời, ma ấm, ma chết có chỗ ràng buộc làm cho lệ thuộc. Vì vậy, Bồ-tát đoạn tuyệt tất cả phiền não, như thân kiến... Lại còn có khả năng từ bỏ sự lo sợ không thể sinh sống nổi, sẵn sàng hy sinh mọi thú vui của mình để đem lại lợi ích cho chúng sinh. Tu tập Từ Bi bố thí thiện căn công đức gom góp được đều hồi hướng về Nhất thiết trí, xa lìa mọi ma và nẻo ác. Vì vậy gọi là lúc thực hành hạnh của Bồtát hàng phục mọi ma oán. Câu: “Tâm không cảm thấy mỏi mệt đối với các thế gian là vì tâm Đại Từ, Đại Bi đã thành tựu”. Đây là nói nghĩa gì? Chúng sinh trong kiếp người đều bị mũi tên ngu bắn vào tâm chịu biết bao nỗi khổ đau phiền não, cho nên Đại Bồ-tát đem tâm Đại Bi giúp họ. Chính vì thành tựu tâm Đại Bi cho nên thấy lợi ích của chúng sinh cũng chính là lợi ích của mình. Do đó Bồ-tát phát tâm Đại Từ Đại Bi, vì chỉ có tâm Đại Từ Bi mới có khả năng đem lại lợi ích cho chúng sinh. Vì vậy mới gọi là đối với các thế gian tâm không biết mỏi mệt. Lại nói: “Biết như thật về tướng tự Thể của mọi pháp, là vì phương tiện được thành tựu”. Câu này làm rõ nghĩa gì? Và câu biết rõ tự tướng đồng tướng của mọi pháp. Câu này có nghĩa gì? Khéo biết chân lý thế tục và khéo biết chân lý nghĩa bậc nhất đều là phương tiện, cho nên Bồ-tát không chấp vào hai bên có không. Câu này muốn nói nghĩa gì? Mặc dù đã thấy biết mọi sự của cảnh giới, nhưng trước đó Bồ-tát vẫn phải quán sát thức của cảnh giới. Vì sao? Vì mãi không từ bỏ chân lý nghĩa bậc nhất, bằng năng lực của tâm sâu xa, cho nên Bồ-tát không rơi vào bên chấp Có. Mặc dù luôn sống với chân lý nghĩa bậc nhất, nhưng Bồtát vẫn biết những sự việc của thế tục. Vì sao? Vì thường thấy rõ mọi hoạt động của hữu vi, cho nên biết là không rời bỏ tâm niệm và lời nói của thế gian, vì vậy không rơi vào bên chấp Không. Chính vì có khả năng khéo biết hai loại ý nghĩa đó, cho nên gọi là biết như thật về tướng tự Thể của tất cả pháp.
Câu: “Vì tâm không cảm thấy mỏi mệt cho nên không dựa vào trí của người khác mà nhanh chóng thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác” là vì thành tựu Bát-nhã Ba-la-mật. Đoạn này nói rõ nghĩa gì? Vì các Đại Bồ-tát đã dùng Bát-nhã quán sát pháp hữu vi. Câu này có ý nghĩa gì? Bồ-tát quán sát các hoạt động của hữu vi, thấy không có người, không có chúng sinh, không có chủ, không có Tự Tại, mà hữu vi tồn tại là do sức mạnh của nhân cùng làm tăng trưởng cho nhau. Từ nghiệp vốn có tạo ra mọi nghiệp, cũng như nhà ảo thuật tạo ra người ảo, với những kỹ thuật khéo léo làm cho người huyễn đi qua, đi lại, nhảy nhót không biết mỏi mệt. Vì vậy gọi là tâm không cảm thấy mệt mỏi. Lại nữa, tâm không cảm thấy mệt mỏi là vì đã từ bỏ tướng chúng sinh. Câu này có nghĩa gì? Tất cả các hoạt động của hữu vi đều không thật, chỉ có đủ các thứ nghiệp sai khiến phải nương tựa lẫn nhau và làm theo quyền lực của chúng. Do có khả năng thành tựu mọi hoạt động của hữu vi, cho nên Bồ-tát biết rõ hữu vi thật ra không có thần ngã, nhưng cũng không dựa vào trí của người khác, mà tùy theo những gì mình đã tu hành, dùng Tinh tiến Ba-la-mật gia tăng thành tựu biện tài để mau tới Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Vì các Đại Bồ-tát cầu Nhất thiết trí mới chỉ rõ sự xa lìa không có nhân, nhân điên đảo, mà tùy thuận với nhân quả chân chánh, cho nên Đức Như Lai giảng nói kinh này.
Hỏi: Có nghĩa nào khác khiến Đức Như Lai giảng nói Tu-la-la này không?
Đáp: Dựa vào bất định tụ, Bồ-tát cầu định tụ, thành tựu những hạnh gì để được tiến vào chánh định tụ? Đây là chỉ rõ Bồ-tát tiến vào chánh định tụ tu tập nhân hạnh chân chánh. Vì vậy Đức Như Lai giảng nói Tu-la-la này.
Nghĩa này là gì? Khi chưa chứng phần vị chính thức của địa bậc nhất, mặc dù đã gom góp các thiện căn trong Vô lượng kiếp, nhưng Bồ-tát vẫn chưa đạt tới vị trí không thối chuyển, chưa tới được phần vị cuối cùng không sợ hãi, tâm chưa được yên ổn, thường bị nỗi đau khổ phiền muộn của thế gian ép ngặt, chưa được năng lực của tâm Từ Bi là căn bản của tâm Bồ-đề chưa có được sức tăng thượng mạnh mẽ.
Dùng trí đạo thế gian quán sát mười hai nhân duyên, quán sát như thật mọi hoạt động của hữu vi, dựa vào đạo thế gian quán sát pháp giới vắng lặng yên tĩnh, mong cầu đại Niết-bàn. Nhưng vì không có trí phương tiện, cho nên rơi vào phần vị Thanh văn và Bích-chi-Phật.
Nếu Bồ-tát đã bị rơi vào phần vị Thanh văn và Bích-chi-Phật, thì bởi vì có ba điều sai lầm:
1. Bị lùi mất tất cả chủng tử thiện căn của Đại thừa.
2. Bị lùi mất cái nhân có khả năng ban cho chúng sinh mọi nguồn vui.
3. Lùi mất trí Nhất thiết trí.
Chính vì lẽ đó, cho nên Đức Như Lai đã nói trong kinh này:
Này Ca-diếp! Ví như hết thảy các trời người nơi thế gian, dù đã nhiều phen trau giồi, làm đẹp viên ngọc lưu ly giả, nhưng viện ngọc lưu ly giả tạo đó không thể nào trở thành ngọc báu lưu ly thật được.
Cũng vậy, này Ca-diếp! Tất cả Thanh văn tu giới-định-tuệ và tất cả công đức của hạnh đầu đà... nhưng rốt cuộc họ vẫn không thể nào được ngồi nơi đạo tràng mà thành tựu phần vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Này Ca-diếp! Ví như trau giồi sửa chữa viên Đại tỳ lưu ly thì tùy ý có thể nhận được Vô lượng trăm ngàn vạn ức châu báu. Cũng vậy, này Cadiếp! Nhờ tu hạnh Bồ-tát cho nên có thể sinh ra tất cả Thanh văn và Bích-chi-Phật... cùng tất cả trờingười.
Vì dựa vào nghĩa này, cho nên Đức Như Lai đã nói trong kinh Bảo Tích: “Có bốn hạng Bồ-tát không phải là thiện tri thức:
1. Hạng người chỉ mong mỏi ở Thanh văn, chỉ muốn tự độ mình.
2. Hạng người chỉ mong mỏi ở Duyên giác, chỉ vui mừng với việc nhỏ nhoi.
3. Hạng người chỉ ham đọc những kinh sách của ngoại đạo như Lộ-Lão-da...
4. Hạng người chỉ lo học tập, trau chuốt lời văn cho trang nhã hấp dẫn.
Hết thảy những ai thân cận với bốn hạng người này chỉ thêm lợi ích thế gian, chứ không thêm lợi ích về pháp.”
Lại có một đoạn trong kinh, Đại đức Ca-diếp bạch Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: Có hạng người ngũ nghịch có khả năng phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tu tập các công đức, chứng ngộ Đại Bồ-đề, mà A-la-hán thì không thể làm nổi. Ví như một người, các căn đều tàn phế cho nên đối với cảnh giới của năng dục họ không còn có năng lực làm được điều gì, cũng không thêm được gì cả. Cũng như vậy, hàng Thanh văn và Bích-chi-Phật đều là những người rời xa những kiết sử, nhưng đối với tất cả pháp Phật, họ không thể làm được việc gì, không thêm được gì cả, họ không có năng lực quán sát pháp Phật như vậy. Vì vậy, thưa Bồtát Văn-thù-sư-lợi! Tất cả phàm phu đền đáp công ơn của Như Lai chứ không phải là hàng Thanh văn? Vì sao? Vì hàng phàm phu nghe nói đến công đức của Phật, vì họ không đoạn tuyệt chủng tử của Tam bảo, họ có khả năng phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Còn hàng Thanh văn tuy suốt đời có nghe các pháp Phật như mười lực bốn pháp vô úy..., nhưng họ không có khả năng phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”.
Trong kinh Bát Nhã Ba La Mật nói: “Này các Thiên tử! Người chưa phát phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thì người đó sẽ phát tâm
Đại Bồ-đề, còn người nào đã vào phần vị của hàng Thanh văn,
Bích-chi-Phật thì không thể phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì sao? Vì tất cả Thanh văn, Bích-chi-Phật đều đã đoạn tuyệt dòng chảy sinh tử, cho nên không thể thọ sinh trong thế gian để phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Các Đại Bồ-tát vì đã nhận thấy được chân lý thật, cho nên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, và ngay trong địa bậc nhất, không mất nhân cho nên thâu nhiếp được tâm sâu xa, từ dùng Bát nhã Ba-la-mật đúng như thật mà thâu nhiếp tu các giới hành, không đắng theo thân mạng mà chỉ vì lợi ích cho chúng sinh. Cho nên biết, khi tập trung tu hành được như vậy, thì gọi là Bồ-tát không thối chuyển. Vì vậy trong kinh Như Lai Thập Địa nói: “Bồ-tát nảy sinh tâm niệm như vậy, ngay lập tức vượt địa phàm phu, bước vào địa Bồtát, sinh vào trong nhà Phật, là dòng tộc cao quý không thể chê trách. Đã vượt quá tất cả đạo thế gian, khéo an trú trong pháp Bồ-tát, khéo an trú vào chánh xứ Bồ-tát, bước vào trong pháp Chân như bình đẳng của ba đời, chủng tử Như Lai, chắc chắn cuối cùng đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”.
Bồ-tát an trú trong pháp như vậy, gọi là Bồ-tát trú địa Hoan hỷ. Dùng pháp không lay chuyển, cho nên Bồ-tát vượt qua được năm sự sợ hãi, đó là sợ không sống nổi, sợ tiếng xấu, sợ chết, sợ phải rơi vào đường dữ và sợ oai đức của đại chúng. Bồ-tát đều lìa khỏi những sự sợ hãi ấy. Vì sao? Vì các Bồ-tát này đã từ bỏ mọi tướng ngã. Vượt qua phần vị phàm phu thì sự vượt qua ấy có chín loại cho nên biết!
1. Bước vào phần vị Bồ-tát là đã vượt qua phần vị. Từ buổi đầu đã thành tựu tâm xuất thế gian, như bắt đầu trú trong thai giống như pháp.
2. Sinh ở nhà Phật là đã vượt qua gia tộc. Bởi vì đã dựa vào phương tiện Bát nhã mà sinh, sinh trong nhà giống như pháp.
3. Dòng họ tôn quý không thể chê trách là đã vượt qua được dòng họ, dùng hạnh của Đại thừa sinh con giống như pháp.
4. Vượt qua tất cả đạo thế gian là đã vượt qua và rời khỏi, vì đạo thế gian không có khả năng thâu nhiếp được đạo xuất thế gian mà sinh giống như pháp.
5. Vào đạo xuất thế gian là đã vượt qua và tiến vào, vì đạo xuất thế gian thâu nhiếp đưa vào đạo mà sinh giống như pháp.
Khéo an trú trong pháp Bồ-tát là vượt qua chính mình, lấy Đại Bi làm Thể, làm việc gì cho người chính là làm cho mình, Tự Thể của thân là giống như pháp. khéo an trú vào chánh xứ của Bồ-tát là vượt qua nơi chốn không từ bỏ thế gian mà Bồ-tát dùng phương tiện không nhiễm khéo léo an trú chính đáng, nơi sinh ra và an trú giống như pháp.
6. Bước vào trong pháp Chân như bình đẳng của ba đời là vượt qua nghiệp hành, vì Bồ-tát thuận với Không và trí Thánh, sinh mạng giống như pháp.
7. Chắc chắn cuối cùng đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là sự vượt qua cao nhất không đoạn mất chủng tử Phật, đạt đạo Niết-bàn cứu cánh thành tựu giống như pháp. Như vậy là đã chỉ rõ phàm phu sinh, và Bồ-tát ra vào thai không giống nhau, bởi vì một bên có nhiễm và một bên không nhiễm.
Như vậy, theo thứ tự: Về nhà ở không giống nhau, dòng họ không giống nhau, vượt ra không giống nhau, tiến vào không giống nhau, về thân tướng không giống nhau, chỗ cư trú không giống nhau, nghiệp sống không giống nhau, thành tựu không giống nhau.
Như vậy Tôn giả Bà-tẩu-bàn-đậu nói cuối cùng là thành tựu tâm. Trong khi đó, có luận sư khác lại đưa ra cách giải thích khác thông qua bài kệ:
Bồ-tát Ma-ha-tát,
Phát sinh những tâm nào;
Thấy thế gian hư vọng,
Phật nói là sơ tâm?
Bài kệ này nói rõ nghĩa gì? Thấy thế gian hư vọng, bởi vì hết thảy thế gian chỉ do nhân duyên sinh chứ không có thật thể. Như Bồ-tát Long Thọ nói trong bài kệ:
Nhân duyên hòa hợp sinh,
Pháp kia không thật thể,
Nếu đã không thật thể,
Làm sao gọi có pháp?.
Thánh giả Đại Bồ-tát Vô Tận Ý đã nói trong kinh Vô Tận Ý: Trí phương tiện quán sát nhân duyên, biết tất cả pháp đều dựa vào nhân, dựa vào duyên hòa hợp mà sinh. Nếu tất cả pháp dựa vào nhân duyên-hòa hợp sinh thì hết thảy pháp sẽ không dựa vào ngã-nhân-chúng sinh-thọ mạng lâu. Nếu pháp không phải ngã-không phải nhânkhông phải thọ mạng lâu, thì pháp đó không thể kể là thời quá khứ-hiện tại, hay vị lai. Nếu Bồ-tát có khả năng quán sát như vậy, thì gọi là Đại Bồ-tát có trí phương tiện quán sát nhân duyên hòa hợp.
Không dựa vào ngã là có nghĩa gì? Vì tất cả pháp dựa vào các loại nhân duyên mà phát sinh, không phải dựa vào ngã mà sinh ra, vì ngã không có thật thể. Như các duyên phát ra lửa, thể của lửa có sức nóng, mà sức nóng đó không có thật thể, nhưng nhân duyên hòa hợp gọi là lửa có sức nóng. Như vậy, không xa rời thân căn mà biết bên ngoài lại có ngã thật sự, bởi vì ngã vốn không có thật thể.
Không có thật thể vì giống với hư không, vì giống với pháp hữu vi. Nếu giống với hư không tức là không có vật gì hết, nếu giống với hữu vi tức là vô thường.
Ngã-nhân-chúng sinh-thọ mạng…, vì có thể giáo hóa chúng sinh mà dùng đủ loại danh từ giảng giải chứ không có ngã thật sự.
Lại như trong kinh, Bồ-tát Đại Hải Tuệ nói cho Thánh giả Đại Bi Tư Phạm về thành tựu tất cả pháp Phật, trong phẩm Vấn Đáp có bài kệ:
Các pháp nhân duyên sinh,
Pháp đó không thật thể,
Nếu pháp không thật thể,
Pháp đó thật không sinh.
Bồ-tát biết chúng sinh,
Đúng là không thật tế,
Dựa vào trí thật tế,
Biết các pháp giả thật.
Chính vì nghĩa này, Bồ-tát biết tất cả pháp đều do nhân duyên hòa hợp mà phát sinh. Chúng sinh không có thật thể. Nếu như vậy thì tất cả tâm thức của thế gian đều là sự phân biệt hư vọng. Tâm của Bồ-tát kia thật tế bình đẳng đối với tất cả pháp, hành của trí vô ngại tức là tâm ban đầu. Vì vậy gọi là ba đầu phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vì vậy bài kệ nói:
Không thấy phàm địa ấy,
Vì thể ấy vốn không,
Cho nên chư Phật nói,
Vượt qua địa phàm phu.
Xa lìa pháp Thánh nhân,
Nhiễm trước các thân kiến,
Ở trong cảnh năm dục,
Nên gọi người phàm phu.
Bài kệ này nói rõ về nghĩa gì? Địa là người phàm phu sinh ở nơi ấy, đó gọi là địa vị của phàm phu. Đây là nơi bị ràng buộc do phiền não trong ba cõi, nương vào phiền não mà sinh, cho nên gọi là địa vị của phàm phu. Vì vậy tâm ban đầu của Bồ-tát nhận thấy ba cõi đều Không, không khởi tướng với một pháp nào. Vì không khởi tướng với một pháp nào, cho nên Bồ-tát không mong muốn sinh ra tất cả mọi nơi, ngoại trừ tâm Từ Bi vì muốn giáo hóa các chúng sinh, nhưng vẫn thường quán sát tự Thể vắng lặng của pháp. Do nghĩa này cho nên nói Bồ-tát đã vượt qua địa vị của phàm phu, vì vậy có kệ nói:
Thể pháp không vốn không,
Không vốn không tạo tác,
Lìa tất cả các tướng,
Người trí không mong cầu.
Tiến vào phần vị Bồ tát, kệ nói:
Bồ-đề ngay nơi không,
Phật dạy bệnh phiền não,
Thuộc Bích chi-Phật địa,
Và lấy địa Thanh văn.
Bồ-đề ngay nơi không, hiểu biết đúng như thật về chúng sinh hư vọng thì gọi là Bồ-đề. Vì vậy Thánh giả Bồ-tát Vô Tận Ý, trong bốn niệm xứ đã nói: Các Đại Bồ-tát lúc tu tập quán sát về pháp nếu thấy tất cả pháp đều lìa Không-Vô tướng-Vô nguyện-Vô hành-Vô sinh-vô khởi và lìa mười hai nhân duyên, thì đó không gọi là hiểu như thật. Nếu không thấy một pháp nào rời xa Không-Vô tướngVô nguyện-Vô tác-Vô sinh-Vô khởi, và rời xa mười hai nhân duyên. Bồ-tát có khả năng hiểu biết như tất cả chúng sinh đều không có tự Thể chân thật, như vậy, thì đó gọi là hiểu đúng như thật. Vì vậy kệ nói: Bồ-đề ngay nơi không. Nếu Bồ-tát ở địa bậc nhất hiểu biết tất cả các chúng sinh đều Không, mà từ bỏ việc làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, vì vậy nhận lấy phần vị Thanh văn và Bíchchi-Phật, thì gọi là Bồ-tát địa bậc nhất, phải còn đối trị với phiền não. Vì vậy, bài kệ nói: Phật dạy bệnh phiền não, thuộc Bích-chi-Phật địa, và lấy địa Thanh văn. Lại có kệ nói:
Biết Không lìa hai bên,
Không hai nhiễm-Niết-bàn,
Vì không nhiễm-Niết-bàn,
Phật dạy Bồ-tát vị.
Biết Không, lìa hai bên, nghĩa này thế nào? Như trong kinh Pháp Ấn, Như Lai có nói:
- Này Xá-lợi-phất! Pháp không khác nhau, thì gọi là Không. Tôn giả Xá-lợi-phất nói:
- Bạch Thế Tôn! Nói Không ấy thì có nghĩa là gì? Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:
- Nói Không ấy, là chẳng phải có thể nói, chẳng phải không thể nói. Nếu chẳng phải có thể nói, chẳng phải không thể nói thì điều đó không thể làm rõ ra được. Nếu không thể làm rõ ra được thì điều đó chẳng phải thế gian, chẳng phải xuất thế gian. Vì chẳng phải thế gian, chẳng phải xuất thế gian cho nên mới gọi là Không. Người nào có khả năng hiểu rõ Không như vậy, thì gọi là lìa được hai bên. Bồ-tát nếu lìa được hai bên đó, thì không rơi vào phiền não, không chọn lấy hai loại Niết-bàn của hàng Thanh văn và Bích-chi-Phật.
Đức Phật nói chứng bệnh phiền não là vì giữ lấy tướng sai khác của địa. Giữ lấy tướng sai khác của địa nghĩa là giữ lấy tướng sai khác của các địa Thanh văn và Bích-chi-Phật, cũng gọi là từ bỏ việc làm lợi ích cho chúng sinh, vì chọn lấy niềm vui
Niết-bàn vô vi, đó là lý do gây trở ngại cho Bồ-đề Phật. Lại còn có nghĩa khác là không có bệnh phiền não, vì Bồ-tát đã lìa khỏi bệnh phiền não, vì Bồ-tát không chọn lấy Niết-bàn của Nhị thừa mà dựa vào năng lực của bản nguyện, cho nên Bồ-tát không từ bỏ việc làm lợi ích cho các chúng sinh. Nếu như vậy thì không còn chứng bệnh của Nhị thừa, không còn bệnh phiền não, như thật tu hành tất cả pháp Không, đó gọi là các Đại Bồ-tát bước vào phần vị Bồ-tát, vì có năng lực xa rời tất cả phiền não, lìa xa hết thảy các pháp đối trị.
Như vậy Bồ-tát vì không có hai hành và dựa vào sức mạnh của bản nguyện mà không từ bỏ việc đem lại lợi ích cho các chúng sinh, không rơi vào phần vị của Thanh văn và Bích-chi-Phật, không bị nhiễm vì phiền não của thế gian. Đây là việc khó làm và thù thắng nhất của Đại Bồ-tát, vì tuy không thấy tất cả chúng sinh mà vẫn vì chúng sinh tu hành các hạnh. Việc làm như vậy không thể nghĩ bàn, tất cả thế gian này không ai có thể hiểu biết, là việc làm hiếm có bậc nhất mà tất cả Thanh văn và Bích-chi-Phật không có khả năng nhận thấy.
Chính vì nghĩa này, mà Đại Bồ-tát Long Thọ trong luận Tập công đức Bồ đề nói kệ rằng:
Việc này hiếm có nhất,
Không nghĩ bàn bậc nhất,
Bồ-tát vì tu hành,
Mà không thấy chúng sinh.
Đức Như Lai cũng nói vì muốn khen ngợi công đức có đúng như thật của các Đại Bồ-tát, như trong kinh nói: “Đại Bồ-tát có bốn loại công đức chân thật. Những gì là bốn? Đó là:
1. Có khả năng tin tưởng-hiểu biết lý Không, cũng tin tưởng lý nhân quả.
2. Nhận biết tất cả các pháp đều không có Ngã, mà phát sinh tâm Đại Bi đối với chúng sinh.
3. Rất vui với Niết-bàn mà thường đi trong sinh tử.
4. Mọi việc làm bố thí đều vì chúng sinh, chứ không mong cầu được quả báo đáp. Nếu như vậy, thì Bồ-tát được sinh trong nhà Phật”. Vì vậy kệ nói:
Bồ-tát Ma-ha-tát,
Vì lìa mọi phiền não,
Thì chứng vị Bồ-tát,
Cho nên sinh nhà Phật.
Bài kệ này nói rõ nghĩa gì? Nhà Phật thì phải thực hành những pháp nào để được sinh vào nhà Như Lai? Nghĩa là xa lìa phiền não, hiểu và thực hành Không, biết rõ phần vị của mình, còn làm mọi lợi ích cho chúng sinh, không bị lầm lỗi mê hoặc trong việc làm. Làm được những pháp như vì vậy thì gọi là Đại Bồ-tát sinh trong nhà Phật. Điều này nói rõ nghĩa gì? Kệ nói:
Phật nói nhà Như Lai,
Là phương tiện-Bát nhã,
Bồ-tát sinh nhà này,
Cho nên không thể chê.
Nghĩa này thế nào? Nói phương tiện thì nói gọn là không rời bỏ tất cả chúng sinh. Nói Bát nhã là không giữ lấy tất cả các pháp. Hai pháp này là nhà của chư Phật. Vì vậy Đại Bồ-tát dựa vào phương tiện và Bát nhã mà sinh vào đó, vì nhà ấy được thâu nhiếp từ hai pháp là phương tiện và Bát nhã.
Vì muốn đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh mà Đại Bồ-tát mới sinh vào thế gian này, chứ thật ra không phải là nghiệp phiền não mà sinh.
Nếu như vậy thì Đại Bồ-tát không thể chê trách ngờ vực, tất cả các pháp đáng chỉ trích của hàng trời-người thảy đều xa lìa, mà sinh vào nhà cao cả của Phật. Vì nghĩa này, cho nên thuộc dòng họ tôn quý không thể chê trách ngờ vực. Vì vậy, trong Tu-la-la, Đức Như Lai vì Bà-la-môn mà nói kệ rằng:
Trời, người, Càn-thát-bà,
Rồng, Dạ-xoa, các chim,
Các nghiệp giống như vậy,
Thảy đều đã diệt hết.
Phiền não tan diệt hết,
Như hoa sen không nhiễm,
Nếu thường biết như vậy,
Không nhiễm trước các dục.
Đại Bồ-tát như vậy thì gọi là Phật tử chân chánh, không phải là đứa con khác lạ như trời... vì vậy kệ nói:
Bồ-tát biết thật tế,
Và tu Ba-la-mật,
Mà được đạo vô lậu,
Vượt ra ngoài thế gian.
Bồ-tát biết thật tế, câu này nói rõ về nghĩa gì? Nói rõ về tất cả các pháp đều vắng lặng, vì vậy Như Lai bèn nói kệ rằng:
Tất cả pháp vô thể,
Thật không có các sự,
Vì không sinh-không diệt,
Được gọi là thật tế.
Như vậy, với Bát nhã Ba-la-mật mà biết thật tế của tất cả các pháp là không có Thể chân thật. Dùng Bát nhã Ba-la-mật mà biết thực hành theo đạo lý đoạn trừ, năm Ba-la-mật còn lại thì biết đạo lý phương tiện công đức. Như vậy, Đại Bồ-tát dùng công đức trí tuệ này có năng lực thành tựu Bồ-đề của Phật có năng lực trừ hết những phiền não, có năng lực làm lợi ích cho chúng sinh.
Lại nữa, người tu tập các pháp Ba-la-mật cũng biết như thật tế. Biết thế nào? Bởi vì không thấy có ba pháp là người cho-người nhận và đồ vật bố thí. Tu hành thanh tịnh các Ba-la-mật, Bồ-tát tu hành thật tế như vậy, cho nên là vô lậu, chính vì vô lậu cho nên Bồ-tát đã vượt ra khỏi tất cả các đạo của thế gian. Vì vậy kệ nói:
Phân biệt hành thế gian,
Trong rừng rậm phiền não,
Lấy vị xuất thế gian,
Thì vào đạo xuất thế.
Phân biệt việc làm của thế gian, nói gọn có hai loại phân biệt:
1. Phân biệt thật, nghĩa là sắc, là tướng có thể thấy như vậy…
2. Phân biệt thắng, tức là trong màu sắc đó có màu xanh-vàng-đỏ-trắng…
Thế gian, là năm ấm phiền não. Rừng rậm là hang sâu hiểm trở, đen tối, với những cảnh đáng sợ, không thể quán sát, khó trông thấy và khó nhận biết.
Như vậy Đại Bồ-tát đã quan sát phân biệt tự
Thể, phân biệt thắng và phân biệt năm ấm, không vướng mắc trong sự việc như trước đây đã nói, dấy lên suy nghĩ như vậy: Mình nên làm sao khiến cho chúng sinh hiểu?
Vì vậy kệ nói:
Biết các pháp như thật,
Thật-thắng-ấm một hai,
Việc chúng sinh không thấy,
Làm sao hóa chúng sinh?
Bồ-tát Ma-ha-tát,
Tu hành trí vô lậu,
Cùng việc làm công đức,
Hướng đến đạo xuất thế.
Vì vậy Bồ-tát bước vào đạo xuất thế gian. Hỏi:
Khéo an trú trong pháp Bồ-tát là gì?
Đáp: Kệ nói:
Bồ-tát vào các địa,
A trú trong pháp mình,
Nương Thông và tự tại,
Giáo hóa mọi chúng sinh.
Bước vào các địa Bồ-tát, như cuối kinh nói: “Khéo biết địa thì việc làm trong mỗi địa được chuyển biến”.
Giáo hóa mọi chúng sinh, như cuối kinh nói: “Được một trăm Tam-muội cho đến Vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp không thể đếm biết được.”
Được tự tại, là như nói về các loại công đức với thời gian như thế nào, pháp như thế nào, Tự Tại như thế nào, thành tựu sự việc như thế nào, thực hành như thế nào? Những hành động nào? Được những Tự Tại thì chủng tử của hết thảy pháp Phật không thối chuyển, là nghĩa thành tựu tất cả pháp Phật. Đó là khéo an trú trong pháp của Bồ-tát.
Hỏi: Thế nào là khéo an trú trong chánh xứ của Bồ-tát? Đáp: Kệ nói:
Một lúc bên chư Phật,
Nghe giữ-nghĩ-tu tập,
Thành tựu nghĩa-hành-giải
Cúng dường ngôi Chánh giác,
Bồ-tát Ma-ha-tát,
Tu hành pháp như vậy,
Thì gọi là an trú,
Trong chánh xứ Bồ-tát.
Vì vậy kinh nói: “Khéo an trú trong chánh xứ của Bồ-tát”.
Hỏi: Thế nào là bước vào trong pháp Chân như bình đẳng ba đời?
Đáp: Kệ nói:
Biết Bồ-đề, chư Phật
Và hành Phật Bồ-tát,
Biết Phật ba đời Không
Gọi là ý khéo nhập.
Nghĩa này thế nào? Nghĩa là biết pháp thân của tất cả chư Phật ba đời đều bình đẳng. Lại còn có năng lực biết tất cả chư Phật đều dựa vào sắc thân, tu hành tất cả công hạnh của Phật và Bồ-tát và biết tất cả các pháp trong quá khứ-vị lai cùng hiện tại, tất cả đều từ nhân duyên hòa hợp mà sinh ra chứ không có Thể tánh chân thật.
Ý khéo nhập là như trước đây đã nói, các pháp trong ba đời đều bình đẳng không hai. Đúng như thật mà biết một vị, các vị khác nhau, không thể phá hoại sự hòa nhập. Vì vậy kinh nói: Nhập vào trong pháp Chân như bình đẳng của ba đời.”
Hỏi: Thế nào là trong chủng tử Như lai chắc chắn cuối cùng đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?
Đáp: Kệ nói:
Bồ-tát tịnh phiền não,
Và tịnh tâm chúng sinh,
Đầy đủ Đại Từ bi,
Chắc chắn thành Bồ-đề.
Bồ-tát tịnh phiền não là gì? Bởi vì lúc ở địa bậc nhất Bồ-tát đã sửa trị các phiền não như thân kiến, khi ở trong Kiến đạo thì thảy điều xa lìa. Việc này như vừa nói là thấy tất cả pháp trong ba đời đều bình đẳng, lời nói đó như thật. Thanh tịnh tâm chúng sinh, thì như đoạn kinh nói: Trong khoảng một niệm giáo hóa được trăm chúng sinh cho đến nếu dùng nguyện lực tự tại thù thắng nhất…”.
Dựa vào năng lực giáo hóa và thanh tịnh được mọi phiền não mà chứng ngộ, như đoạn kinh nói:
Vì vậy, trước hết mình phải an trú trong pháp thiện, cũng khiến cho người khác trú trong pháp thiện. Tại vì sao? Bởi vì nếu như người tự mình không làm điều thiện cũng không có đủ thiện hạnh, mà nói pháp cho người khác khiến họ trú trong thiện pháp, thì điều này không hề có”. Chính vì Bồ-tát đã thành tựu tâm Đại Từ, Đại Bi, cho nên trong đoạn kinh trước đã nói: Tâm này lấy Đại Bi làm hàng đầu. Cho nên,
Bồ-tát đã tự tịnh phiền não và tịnh cho tâm chúng sinh đầy đủ tâm Đại Từ Bi, gọi là cuối cùng đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bởi vì chắc chắn hướng đến Đại Bồ-đề, cho nên kệ nói:
Phật tử Kim Cang Tạng,
Nói mười pháp sơ tâm,
Thì gọi Bồ-đề Phật,
Cuối cùng thành Phật đạo.
Ý nghĩa của bài kệ này thế nào? Thánh giả, Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng nói mười pháp này là tâm Bồ-đề vô lậu của Bồ-tát ở địa bậc nhất. Chính vì mười loại tâm này mà gọi là Bồ-đề Phật. Nói cuối cùng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lại kệ nói:
Ví như chủng tử tốt,
Sẽ sinh ra cọng-lá…
Tâm Bồ-đề như vậy
Không khác pháp chư Phật.
Nghĩa của bài kệ này là gì? Vì tâm ban đầu mới chứng ngộ các pháp, đối với tất cả pháp của Phật đều cho là chủng tử, lấy pháp của địa bậc nhất và tất cả pháp Phật dùng để làm nhân. Lại kệ nói:
Tâm sơ địa tăng trưởng,
Phật nói là các địa,
Bồ-tát tuyệt vời nhất,
Dụ như trăng mới mọc.
Đại ý bài kệ này nói rõ về nghĩa gì? Như trong kinh Văn Thù Sư Lợi Vấn Bồ đề, nói kệ rằng:
Ví như trăng mới mọc,
Tăng trưởng thì trăng tròn,
Như vậy Hoan hỷ địa,
Tăng trưởng chính là Phật.
Nghĩa mười câu như vậy, luận sư khác giải thích không giống nhau, nên biết! Vì vậy Đức Như Lai bởi vì Bồ-tát bất định tụ cầu định tụ, cho nên thuyết về kinh này.
Hỏi: Không thối chuyển là sao? Đáp: Vì các Bồ-tát chứng được địa bậc nhất, đó là nhân chắc chắn, và mãi về sau cho đến khi chưa được thành Phật, thường dùng tâm sâu xa mà tu hành như thật, theo thứ tự tăng trưởng tâm Bồ-đề, vì pháp đã được đối trị không có thể gây chướng ngại, cho nên gọi là không thối chuyển.
Hỏi: Còn có nghĩa nào khác mà gọi là không thối chuyển Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không?
Đáp: Vì được thành tựu nhân không thối chuyển, nghĩa là có tám loại pháp như tâm sâu xa... vả lại, mọi pháp trái ngược với tâm không thối chuyển, là tất cả phiền não như thân kiến-tham... đều bị từ bỏ xa lìa do sức mạnh của Kiến đạo. Pháp chưa xa lìa được là tất cả phiền não như thân kiến…, từ vô thỉ đến nay, tùy theo vô trí sinh ra, không có khả năng xa lìa, giữ lấy nhân của niềm vui như ngã… mà lìa phương tiện Bát nhã, bị sự áp bức do phiền não và khổ của thế gian, từ bỏ việc làm lợi ích cho tất cả chúng sinh mà chọn lấy cảnh giới Niết-bàn.
Vì vậy, khi đã có được tâm Từ Bi sâu xa thì Bồ-tát lìa bỏ nhân tố chấp trước vào những niềm vui như ngã… Có Bát nhã làm phương tiện, tuy bị vây ngặt trong khổ não của thế gian, Bồ-tát vẫn không từ bỏ mọi việc làm lợi ích cho chúng sinh. Khi đoạn trừ những phiền não căn bản như thân kiến, lúc đó Bồ-tát đạt được không thối chuyển đối với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì vậy Thánh giả Vô Tận Ý mới nói: “Tâm Bồ-tát xa lìa tất cả những phiền não sinh ra…”.
Hỏi: Nếu xa lìa các phiền não như thân kiến... gọi là nhân không thối chuyển, thì Bồ-tát và Tuđà-hoàn đều xa lìa phiền não như thân kiến..., sao Bồ-tát không thối chuyển Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác mà Tu-đà-hoàn... lại thối chuyển?
Đáp: Vì tâm hành khác nhau. Câu này nói rõ về nghĩa gì? Bồ-tát và Thanh văn từ lúc phát tâm đến nay, các tướng của tâm hành sai biệt hoàn toàn. Sai biệt thế nào? Người Thanh văn không có khả năng tu học nhân tố làm lợi ích cho người khác, vì vậy rời bỏ việc làm lợi ích cho chúng sinh mà tự cầu Niết-bàn cho mình. Họ thấy chúng sinh luôn bị đốt cháy do ngọn lửa phiền não như tham... trong ba cõi và còn bị áp bức do sự vô thường, cho nên họ chán ngán, muốn xa lìa ba cõi, như phải cởi bỏ cái áo đang mặc bị đốt cháy. Quán sát các hành hữu vi của năm ấm như vô thường... cho đến xa lìa kiết sử của ba cõi. Sau đó mọi phiền não như tham lam còn lại dần dần ít đi thì mới ra khỏi ba cõi.
Trong khi đó Bồ-tát chứng ngộ được tâm sâu xa mà luôn vui vẻ, làm mọi lợi ích cho tất cả thế gian, vì các chúng sinh mà làm lợi ích. Mặc dù bị khổ não thế gian vây ngặt, nhưng do thành tựu được phương tiện và năng lực trí tuệ, tuy có thể tu hành như thật đạo của Thanh văn, mà không mong chứng đạo của Thanh văn, vì trước đó đã đoạn trừ mọi chướng ngại và mọi pháp giữ lấy phần vị Thanh văn.
Pháp giữ lấy phần vị Thanh văn là gì? Nghĩa là từ bỏ tâm Đại Bi, không có khả năng làm lớn mạnh các hành của tâm Đại Bi.
Nếu các Bồ-tát đã chứng ngộ được tâm sâu xa... và tu hành các pháp phụ thuộc... của tâm Bồđề, thì có khả năng làm thành nhân tố chứng được quả vị Bồ-đề. Lúc đó, nhờ thấy được tất cả các pháp, giúp cho Bồ-tát có khả năng làm lớn mạnh thêm tâm Bồ-đề, vận dụng phương tiện suy tìm việc làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Chính lúc đó, Bồ-tát nhận thấy đúng như thật về pháp giới. Thấy được pháp giới, cho nên lập tức xa lìa được mọi phiền não do Kiến đạo sửa trị, tức là chứng ngộ được tâm đại Bồ-đề rốt ráo. Như trong kinh Thập Địa có nói: “Đại Bồ-tát phát sinh tâm như vậy, tâm này lấy Đại Bi làm đầu”. Bồ-tát đó chứng được Kiến đạo như vậy rồi liền vận dụng phương tiện suy tìm cách làm lợi ích cho tất cả các chúng sinh, khéo học tập pháp Đại Bi với tâm sâu xa..., xa lìa chấp ngã và sự ham thích, cho nên không bị lửa phiền não đốt cháy. Đó là nhân không giống nhau của hai bên.
Đại Bồ-tát tu hành là muốn làm lợi ích cho mọi người, ngay khi Kiến đạo thì Bồ-tát đã đoạn trừ tất cả phiền não trong ba cõi, nhưng hàng Thanh văn thì trước không tu tập phương tiện Từ Bi, cho nên không có việc làm lợi ích cho mọi người. Họ chỉ đoạn trừ phiền não dần dần, đến sau này chứng được phần vị A-la-hán.
Chính vì nghĩa này, cho nên trong kinh Đại Hải Tuệ Bồ-Tát, có đoạn nói: “Trước hết Bồ-tát đã tu tập thiện căn tương ưng với phiền não, đó là Đại Bi Ba-la-mật... Các pháp thiện này gọi là phiền não, chứ không phải là phiền não nào khác. Dựa vào phiền não đó mà trú trong thế gian để giáo hóa chúng sinh, vì điều mong muốn cuối cùng của mình chưa được thỏa mãn.”
Do nghĩa này, tuy Bồ-tát còn phải xa lìa cùng một lúc tất cả phiền não như thân kiến... nhưng Bồtát vẫn không bao giờ lui bước đối với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thanh văn thì thối chuyển, như trong kinh A Nậu Đại Trì Thánh Giả Long Vương có đoạn nói: “Phật bảo Long vương: Phần vị mà Đại Bồ-tát đã chứng ngộ, là pháp xuất thế gian nhưng không xa lìa thế gian. Này Long vương! Có phương tiện Bát nhã Thánh trí Tammuội, đó gọi là phần vị xuất thế gian của Bồ-tát.
Này Long vương! Ví như Thanh văn chứng nhập phần vị Thanh văn, thì gọi là Tu-đà-hoàn, không rơi vào đường dữ. Này Long vương! Bồ-tát cũng vậy, ngộ nhập phần vị Bồ-tát gọi là không thối chuyển, không rơi vào đường ác. Này Long vương! Người Thanh văn không đoạn tuyệt phiền não, mà chọn lấy phần vị Thanh văn, và vì họ chưa thoát khỏi phiền não, cho nên chỉ chứng được phần vị ban đầu. Này Long vương! Đại Bồ-tát đã vượt lên trên phần vị Thanh văn mà chứng ngộ phần vị Bồ-tát, cho nên không chọn lấy phần vị nhỏ nhoi của Thanh văn, mà chọn lấy, phần vị đại Bồ-đề nơi đạo tràng. Vì nghĩa này, cho nên Thanh văn thì có hạn lượng, mà Bồ-tát thì không hạn lượng.
Này Long vương! Ví như có hai người đều từ trên núi cao rơi xuống, một người thì khỏe mạnh đầy sức lực, trước đó đã từng tập luyện học hỏi những kỹ năng dùng trí phương tiện trèo ngược lên đỉnh núi. Còn người kia thể lực yếu kém, trước đây không hề luyện tập, học hỏi những kỹ năng và không có trí phương tiện, khi rơi xuống chân núi không có khả năng trèo lên được.
Này Long vương! Như vậy Đại Bồ-tát quán sát tất cả các pháp đều là không-Vô tướng-Vô nguyện-Vô vi. Bồ-tát dựa vào năng lực Bát nhã để quán sát chúng sinh, và trú trên đỉnh núi Nhất thiết chủng trí”.
Lại có kinh nói: “Này Đại đức Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát đã đoạn tuyệt Vô lượng phiền não như thân kiến... nhưng không chọn lấy phần vị nhỏ bé của Thanh văn, mà chọn lấy phần vị đại Bồ-đề của chư Phật. Khi quán sát tất cả pháp Phật, Bồ-tát dùng tâm Đại Từ Bi thương xót tất cả chúng sinh, tu hành hạnh Bồ-tát, đoạn tuyệt tất cả phiền não như thân kiến... cho nên Bồ-tát không nhận lấy phần vị nhỏ nhoi của Thanh văn, mà chọn lấy phần vị đại Bồ-đề của chư Phật.
Tu-bồ-đề thưa với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Việc này hiếm có. Bồ-tát với Đại phương tiện này, mặc dù đã đoạn tuyệt tất cả phiền não như thân kiến... nhưng có thể không chọn lấy quả vị nhỏ bé của Thanh văn.
Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Này Đại đức Tu-bồđề! Đại Bồ-tát có đại phương tiện thâu nhiếp mọi trí tánh. Vì vậy Bồ-tát tuy biết như thật về tất cả phiền não như thân kiến... kia, nhưng Bồ-tát có thể không chọn lấy quả vị nhỏ bé của Thanh văn. Này Đại đức Tu-bồ-đề! Ví như một lực sĩ khổng lồ cầm dao bén chặt đứt cây Sa-la, thân cây Sa-la kia vẫn đứng yên không đổ. Đại đức Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, vì có trí tánh của Bát nhã phương tiện vĩ đại, cho nên Bồ-tát đã đoạn tuyệt được tất cả phiền não như thân kiến... mà có thể không chọn lấy quả vị nhỏ bé của Thanh văn. Này Đại đức Tu-bồ-đề! Vào một lúc khác, thân cây Sa-la lại gặp mưa thấm nhuần, tức thì trở lại sinh ra nhánh lá hoa quả trọn vẹn như cũ để cho chúng sinh có thể dùng. Này Đại đức Tu-bồ-đề! Đại Bồtát cũng lại như vậy, được thấm nhuần do nước mưa của tâm Đại Từ Bi, tuy đã đoạn tuyệt tất cả phiền não như thân kiến... nhưng vẫn còn vào lại ba cõi dùng phương tiện thị hiện sinh vào nhà thế gian tùy thuận mọi nhu cầu cần dùng cho chúng sinh. Này Đại đức Tu-bồ-đề! Vào một thời gian sau này, cây Sa-la kia bị trận gió to thổi vào lay động lập tức ngã trên mặt đất và không còn sống lại nữa.
Này Đại đức Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, sẽ có ngọn gió trí tuệ vĩ đại thổi mạnh làm cho Bồ-tát ở tại đạo tràng vĩnh viễn không sinh lại nữa”.
Vì vậy, Đại Bồ-tát từ khi phát tâm trở về sau, tất cả tâm hành đều khác với Thanh văn và Bíchchi-Phật, ấy là do các pháp hành và tâm của các Đại Bồ-tát xưa nay bất đồng. Nếu tất cả đều giống nhau thì Thanh văn làm Bồ-tát và Bồ-tát làm Thanh văn được sao!
Hỏi: Như người Thanh văn trước hết là đoạn trừ phiền não ở phần vị Kiến đạo, rồi sau đó tu tập dần mới đoạn tuyệt phiền não ở phần vị Tu đạo. Bồ-tát vì sao không giống như Thanh văn? Lại hỏi: Như Bồ-tát chọn lấy ở mãi trong vô lượng đời kiếp để tu tập vô lượng thiện căn, hàng Tu-đà-hoàn... vì sao không chọn lấy ở mãi trong vô lượng đời kiếp, cũng không tu tập vô lượng thiện căn?
Đáp: Tu-đà-hoàn... thường có tâm ưa đoạn trừ phiền não, dùng vô lậu đối trị cho sáng rõ lần hồi, họ sợ hãi đối với các thế gian. Sinh tâm như vậy, biết đến bao giờ mới lìa khỏi tất cả khổ đau để nhập Niết-bàn vô dư? Vì vậy phiền não còn sót lại trong phần vị Tu đạo sẽ hết dần theo tự nhiên. Chính vì nghĩa đó, cho nên Thanh văn không chọn lấy ở mãi trong vô lượng đời, cũng không tu tập vô lượng thiện căn.
Bồ-tát từ vô lượng kiếp đến nay, luôn làm lợi ích cho mọi chúng sinh. Vì tâm làm lợi ích cho mọi chúng sinh như vậy, cho nên Bồ-tát chứng được tâm niệm rốt ráo. Hơn nữa, nhờ thấy được pháp giới cam lộ Chân như, Bồ-tát quán sát thân của tất cả chúng sinh mà thật sự không khác với điều mình đã mong cầu. Vì vậy Bồ-tát nhận thấy tất cả phiền não trong Tu đạo, có thể gây chướng ngại việc làm lợi ích cho chúng sinh, lập tức đoạn tuyệt tất cả phiền não đó trong Kiến đạo. Lại nữa, khi quán sát lợi ích của tất cả chúng sinh thì niềm vui hơn hẳn niềm vui của Niết-bàn, vì vậy Bồ-tát chọn lấy ở mãi trong vô lượng đời kiếp tại thế gian mà tu tập tất cả các hạnh. Nghĩa là với trí Nhất thiết trí, Bồ-tát cảm thấy sáng suốt khi tu tập vô lượng thiện căn Bồ-đề, sẽ đạt được lợi ích của Đại Bồ-đề, cho nên Bồ-tát tu tập vô lượng thiện căn.
Hỏi: Bồ-tát nếu thấy phiền não trong Tu đạo có thể gây chướng ngại đến việc làm lợi ích cho của chúng sinh, bởi vì nghĩa này mà phải đoạn trừ chúng ngay trong Kiến đạo. Nghĩa này thế nào? Có phải là trong Kiến đạo không dùng trí thế gian điều phục phiền não của Tu đạo?
Đáp: Xa lìa mọi phiền não thì gọi là nhân không thối chuyển. Nếu xa lìa đạo vô lậu mà nhận thấy các pháp và xa lìa đạo vô lậu mà đoạn tuyệt được tất cả phiền não, thì đó là chuyện khó khăn. Tại sao đạo lý thế gian không điều phục được phiền não của Tu đạo, nếu giống với đạo thế gian thì không có sức như vậy. Vì vậy không có thể nói là không thối chuyển. Tuy nhiên, Bồ-tát này ngay lúc Kiến đạo đã vĩnh viễn đoạn tuyệt tất cả pháp đối trị, chứng được tâm Đại Bi bình đẳng, phát sinh tâm đại Bồ-đề rốt ráo, gọi là Bồ-tát không thối chuyển.
Nên biết vì vậy mà Bồ-tát đã thấy đúng như thật về pháp thành tựu mọi phương tiện, không nhận lấy quả vị của Thanh văn và Bích-chi-Phật. Bồ-tát thấy biết đúng như thật mọi lỗi lầm, tai họa của tất cả thế gian, vì muốn đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh mà làm mọi việc của thế gian, không từ bỏ thế gian, không hề bị hoen ố do lỗi lầm tai họa của thế gian, vì vậy Thánh giả Văn-thù-sư-lợi bảo với Thiên tử: Đại Bồ-tát không trú hữu vi, không trú vô vi, cho nên Bồ-tát được gọi là ruộng phước. Vì sao? Vì Bồ-tát xa lìa pháp hữu vi, không trú pháp vô vi. Vì biết hữu vi có lỗi, vô vi không có lỗi, vì biết tất cả lỗi lầm cho nên Bồ-tát không trú hữu vi, biết pháp vô vi, nhưng không trú vô vi. Này các Thiên tử! Ví như đại lực sĩ bắn tên vào hư không. Mũi tên không dính vào đâu nhưng không rơi xuống đất. Này các Thiên tử! Việc đó thật là khó nhưng vẫn còn cái khó hơn nữa.
Thiên tử thưa với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: Đúng là việc như vậy hiếm có và rất khó, lại không có cái khó hơn. Văn-thù-sư-lợi bảo Thiên tử: Mọi việc Đại Bồ-tát làm còn khó hơn mọi thứ đó. Vì Đại Bồ-tát không từ bỏ hữu vi mà chứng vô vi, không rơi vào hữu vi mà có thể giáo hóa kẻ bị rơi vào hữu vi.
Hỏi: Kinh Như Lai nói: Nếu người Thanh văn thuộc về định cuối cùng, xa lìa ba kiết, chứng Tuđà-hoàn, không rơi vào đường dữ, bảy lần trở lại cõi người-trời, vĩnh viễn xa lìa mọi thống khổ, thì cuối cùng chứng được đạo A-la-hán. Bồ-tát cũng đoạn trừ ba kiết như vậy, vì nghĩa gì không giống với Thanh văn, mà Bồ-tát trú Vô lượng đời?
Đáp: Nghĩa đó không đúng. Tại sao? Nói định cuối cùng là dựa vào kinh của hàng Thanh văn mà nói. Đại Bồ-tát dựa vào Vô lượng việc làm, dựa vào mong cầu Nhất thiết chủng trí, thanh tịnh đạo xuất thế gian có năng lực thanh tịnh được Nhất thiết trí. Trong kinh Đại thừa nói: Vì nghĩa đó cho nên Bồ-tát nhận ở lại trong Vô lượng đời kiếp.
Hỏi: Nghĩa này không đúng. Tại sao? Nếu ở địa bậc nhất, Đại Bồ-tát đã xa lìa hết mọi pháp đối trị, cuối cùng đạt được không thối chuyển đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bởi vì nghĩa gì mà trong kinh Văn Thù Sư Lợi Vấn Bồ Đề nói: Bồ-tát phát tâm lần đầu có thể vượt qua phần vị của Thanh văn. Phát tâm lần thứ hai có năng lực vượt qua phần vị của Bích-chi-Phật. Phát tâm lần thứ ba là không lui sụt mà vượt qua phần vị bất định. Phát tâm lần thứ tư là Nhất sinh bổ xứ an trú trong phần vị của định.
Đáp: Kinh ấy là dựa vào sự chứng được địa Thắng tiến, dựa trong xa lìa mà xa lìa mọi pháp đối trị, dựa vào địa của các địa trên mà nói là vượt qua phần vị bất định. Vì vậy, những gì đã nói ở kinh này không trái với kinh kia. Nghĩa này thế nào? Như pháp đối trị Sơ thiền, điều này trình bày về nghĩa gì? Như thiền vị lai của người Tiểu thừa là đoạn trừ nhân bất định và phiền não trong Tu đạo ở cõi Dục, cho đến thiền thứ tư cũng nói là đoạn tuyệt phiền não trong Tu đạo. Bởi vì pháp đối trị xa lìa trong xa lìa là hơn hết mà không trái ngược với nhau. Vì sao? Vì đối trị các nhân. Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, đoạn tuyệt hết thảy nhân lui sụt trái ngược với tâm Bồ-đề trong địa bậc nhất, nghĩa là đoạn tất cả phiền não như thân kiến... Vì tu hành mà thành tựu được tâm sâu xa, cuối cùng nhờ đó mà xa lìa nhân lui sụt của tâm Bồ-đề, cho đến địa thứ tám, pháp đối trị là được thắng tiến đến xa lìa hơn hết mọi xa lìa. Đó gọi là vượt qua phần vị bất định, an trú trong phần vị của định. Vì dùng các pháp đối trị, dùng nhân của định, cho nên nói nghĩa vượt qua phần vị bất định thì không trái ngược nhau.
Lại nữa, nói vượt qua phần vị bất định, vì tâm chưa đoạn tuyệt với mong cầu đại Niết-bàn Bồ-đề của Phật, mà phát khởi những hành động có công dụng làm cho mỏi mệt, thì gọi là nhân của bất định. Vì vậy từ địa thứ tám trở lên mới nói là vượt qua phần vị bất định. Nghĩa này thế nào? Như xứ sở kia đã vượt qua mọi đau khổ... Nói rõ về nghĩa gì? Như trong Tiểu thừa nhàm chán muốn vượt qua nỗi thống khổ của cõi Dục. Trong chán ngán muốn vượt qua khổ của cõi Dục nhưng phần vị Sơ thiền chưa vượt qua nhân khổ như thức..., vì chưa vượt qua những pháp đối trị, cho nên trong kinh Như Lai nói: Vượt qua nỗi khổ trong thiền thứ hai. Như trong kinh nói: Cội rễ đau buồn diệt ở nơi nào? Đức Phật nói: Diệt trong sơ thiền. Lại hỏi: Cội rễ khổ đau diệt ở nơi nào? Phật nói: Diệt trong thiền thứ hai. Lại hỏi: Cội rễ vui mừng diệt ở nơi nào? Phật nói: Diệt trong thiền thứ ba. Lại hỏi: Cội rễ vui mừng diệt ở nơi nào? Phật nói: Diệt trong thiền thứ tư”. Như vậy vượt qua mọi cội rễ của sắc... Lúc nhàm chán sơ thiền, thì vượt qua mọi tướng của tất cả sắc, nhưng nhàm chán là nhân vượt qua trong thiền thứ tư, cho nên nói vượt qua thiền thứ tư. Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, ở trong địa bậc nhất đã vượt qua phần vị bất định. Từ địa thứ hai trở lên, cho đến bảy địa về sau, tâm mong cầu đại Niết-bàn Bồ-đề Phật chưa đoạn tuyệt, mà phát khởi nhân dụng công mỏi mệt trong việc làm, gọi là bất định địa. Vì vậy tâm của Thanh văn kia chưa đầy đủ nhân bất định.
Nói vượt qua phần vị bất định trong tám địa thì không hề trái ngược nhau. Lại nữa, cuối cùng được tâm Bồ-đề, là vì nhân duyên được hòa hợp đầy đủ. Nói Bồ-tát mới phát tâm là đã vượt qua phần vị Thanh văn, thì Đức Như Lai cũng đã giảng nói trong kinh Pháp Ấn: “Này Di-lặc! Phát tâm Bồ-đề có bảy loại nhân. Những gì là bảy? Đó là:
1. Do chư Phật giáo hóa mà phát tâm Bồ-đề.
2. Thấy chánh pháp sắp diệt mà phát tâm Bồđề.
3. Đối với các chúng sinh phát khởi Đại Từ Bi mà phát tâm Bồ-đề.
4. Do Bồ-tát giáo hóa mà phát tâm Bồ-đề.
5. Nhờ vào bố thí mà phát tâm Bồ-đề.
6. Nhờ học hỏi với người khác mà phát tâm Bồ-đề.
7. Nghe người ta nói đến ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp của Như Lai, mà phát tâm Bồ-đề.
Này Di-lặc! Do chư Phật giáo hóa mà phát tâm Bồ-đề, thấy chánh pháp sắp diệt mà phát tâm Bồđề, đối với các chúng sinh phát khởi Đại Từ Bi mà phát tâm Bồ-đề, ba cách phát tâm này có thể bảo vệ chánh pháp, nhanh chóng thành tựu phần vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bốn cách phát tâm còn lại không phải là những cách phát tâm chân thật của Bồ-tát không thể bảo vệ, duy trì chánh pháp của chư Phật và sớm thành tựu phần vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Điều này nói rõ nghĩa gì? Nếu Bồ-tát đã thành tựu tâm sâu xa, thì cuối cùng không lui sụt, có được tâm Đại Bi và năng lực đại dũng mãnh. Vì tất cả chúng sinh trong các thế gian đều bị mũi tên ngu si bắn trúng, mà Bồ-tát quan sát được rồi phát tâm Đại Từ Bi, thâu nhiếp các thiện căn, tích tụ lại và làm cho thiện căn phát triển lớn mạnh, cho nên nói Bồ-tát mới phát tâm là đã vượt qua phần vị Thanh văn. Phát tâm lần thứ hai là vượt lên trên phần vị Bíchchi-Phật. Người Bích-chi-Phật hơn hẳn người Thanh văn, hoàn toàn không vì người khác mà hoàn toàn vì mình cầu mong tịch diệt Niết-bàn. Nếu Bồ-tát mới quán sát pháp tánh cho đến khi quán sát pháp Nhẫn vô sinh, thì chưa vượt lên trên đạo bất định, mà vốn có phát sinh tâm niệm thảy đều có khả năng vượt qua phần vị của Thanh văn và Bích-chi-Phật.
Nói Bồ-tát phát tâm lần thứ hai thì vượt lên trên phần vị Bích-chi-Phật, và phát tâm lần thứ ba thì vượt lên trên phần vị bất định. Vì ở trong địa bậc nhất xa rời nhân của bất định và đạt được nhân của định. Vì hết thảy sự phát tâm đều vượt lên trên phần vị bất định.
Nói Bồ-tát phát tâm lần thứ ba thì vượt lên trên phần vị bất định và phát tâm lần thứ tư thì an trú trong phần vị của định. Từ địa thứ hai trở lên xa lìa hết thảy pháp đối trị, cho nên cuối cùng an trú trong phần vị của định. Nói Bồ-tát phát tâm lần thứ tư an trú trong phần vị của định là vậy.
Không thối chuyển đối với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nghĩa là Bồ-tát xa lìa được các pháp trái ngược khi phát tâm Bồ-đề, gọi là Bồ-tát không thối chuyển. Như trong kinh Bảo Nữ nói: Này Bảo Nữ! Đại Bồ-tát có ba mươi hai con đường hầm hố trở ngại, là pháp trái ngược đối với việc phát tâm Bồ-đề. Ba mươi hai pháp đó là:
1. Mong cầu Thanh văn thừa.
2. Mong cầu Bích-chi-Phật thừa.
3. Mong cầu xứ sở của Đế thích, Phạm thiên.
4. Dựa vào những nơi sinh thanh tịnh mới có thể tu tập phạm hạnh.
5. Chú trọng vào một đức hạnh vốn có mà nói là của mình.
6. Nếu được tài sản quý giá thì sinh tâm keo kiệt, tham lam, luyến tiếc.
7. Dùng tâm đối đãi thiên vị mà bố thí cho chúng sinh.
8. Khinh dễ lời răn cấm.
9. Thực hành tinh chuyên mà tâm không nghĩ đến đạo.
10. Sự việc nóng giận cho là danh tiếng
11. Tâm niệm buông lung.
12. Dong ruổi, phiêu bạt.
13. Không mong cầu hiểu biết rộng.
14. Không xét việc mình làm.
15. Tự cao, tự đại.
16. Hành động của thân-miệng-tâm không có thể làm cho thanh tịnh.
17. Không bảo vệ chánh pháp.
18. Phản bội công ơn của thầy.
19. Không rời bỏ điều ác.
20. Rời xa pháp quan trọng kiên cố.
21. Học theo những bạn bè xấu ác.
22. Thuận theo các loại ấm.
23. Không chịu khó giúp đạo.
24. Ý niệm không có căn bản của thiện.
25. Đã phát ý đạo nhưng không có phương tiện quyền biến.
26. Không dùng tâm ân cần mà hỏi han than vãn Tam bảo. 27. Oán ghét các Bồ-tát.
28. Đối với pháp chưa được nghe mà nghe rồi thì phỉ báng. 29. Không hiểu rõ sự việc.
30. Luyện tập thực hành theo sách vở thế gian.
31. Không bằng lòng khuyên bảo giáo hóa các loài chúng sinh.
32. Chán ngán đối với sinh tử.”
Lại nữa, sở dĩ không thụt lùi-không thay đổi, là vì các Bồ-tát hoàn toàn thọ trì pháp không thối chuyển. Như trong kinh Sa Lão La Long Vương có nói: “Này Long vương! Đại Bồ-tát đã thành tựu rốt ráo tám loại pháp, được gọi là hàng Bồ-tát không thụt lùikhông thay đổi. Những gì là tám? Đó là tu hành đúng như pháp:
1. Suy xét lỗi mình, không suy xét lỗi người.
2. Thậm chí không vì thân mạng của mình mà gây ra điều tai hại đối với người khác.
3. Nếu có được lợi dưỡng thì tâm không tự cao. Nếu bị mất lợi dưỡng thì tâm cũng không mặc cảm tự ti.
4. Đối với mọi chúng sinh, phát sinh ý tưởng mình là ruộng phước, không nảy sinh tâm niệm xấu ác.
5. Tài sản vật dụng vốn có đều giúp cho tất cả chúng sinh cùng sử dụng.
6. Ở trong các pháp không muốn riêng mình hiểu biết khiến cho người khác không biết.
7. Thấy người khác có được niềm vui thì tâm cảm thấy hoan hỷ, chứ không vì niềm vui của mình mà sinh tâm hoan hỷ.
Tâm luôn bình đẳng với điều đáng mến và không đáng mến. Đủ tám pháp này, thì Bồ-tát không lui sụt, không đổi thay đối với
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Hỏi: Cho nên nói về tướng không thay đổi. Thế nào là tướng không thay đổi?
Đáp: Đúng là điều mà tôi định nói thì ông lại hỏi. Bồ-tát thành tựu tướng không thay đổi, thì Như lai nói nhiều trong tất cả các kinh, nên biết! Như trong kinh Trí Ấn Tam Muội có đoạn nói: “Này Di-lặc! Có năm pháp gọi là tướng của Bồ-tát hoàn toàn không thay đổi đối với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đó là:
1. Khởi tâm bình đẳng đối với mọi chúng sinh
2. Không sinh tâm ganh ghét đối với lợi dưỡng của người khác.
3. Cho dù đụng đến mạng sống của mình, vẫn không nói mọi lỗi lầm xấu xa của Pháp sư Tỳ-kheo.
4. Suốt đời không tham đắm mọi điều như cúng dường-cung kính-khen ngợi...
5. Cuối cùng đạt được pháp sâu xa và trí nhẫn nhục.
Này Di-lặc! Lại có năm pháp gọi là Bồ-tát không thay đổi.
Đó là:
1. Không thấy thân mạng mình
2. Không thấy thân mạng người khác
3. Tâm không phân biệt nói sai lạc về pháp giới.
4. Không chấp Bồ-đề.
5. Không dùng tướng để thấy Như Lai.
Vả lại, trong kinh Bát Nhã Ba-la-mật nói nhiều về tướng không thay đổi, như kinh ấy nói nên biết! Hỏi: Thế nào là được pháp khác với tâm Bồđề? Nhân không thối chuyển tâm Bồ-đề khác với Bồ-đề Phật, mà gọi là tâm không thối chuyển đối với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?
Đáp: Vì có được nhân quyết định. Ở đây nói rõ nghĩa gì? Vì Bồ-tát ở địa bậc nhất đã thành tựu nhân cuối cùng. Vì dựa vào nhân cuối cùng này mà chứng đại Bồ-đề, cho nên gọi là nhất định không thối chuyển Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Nói Vô thượng là bởi vì hơn hẳn tất cả pháp hữu vi.
Nói Chánh đẳng Chánh giác là vì xa lìa tất cả tập khí phiền não và các pháp bất thiện ở khắp mọi nơi, nó không có gì chướng ngại. Vì nhận biết đúng như thật về tất cả chủng loại của tất cả pháp, cho nên nói là Chánh đẳng Chánh giác.
Hỏi: Nên nói về công đức không lui sụt, không thay đổi. Thế nào là công đức không lui sụt, không thay đổi?
Đáp: Về công đức không lui sụt, không chuyển đổi, Đức Như Lai đã giảng nói rộng ở mọi nơi trong kinh, cho nên biết. Như trong kinh Thập Địa nói: Này các Phật tử! Nếu có chúng sinh tích tập thiện căn sâu dày, khéo tích tập những thiện hạnh khéo tích tập những hành công đức, khéo cúng dường chư Phật, khéo tích tập những pháp thiện, khéo bảo vệ hàng thiện trí thức, khéo làm cho tâm thanh tịnh, tiến vào tâm sâu rộng, tuyệt đối tin tưởng và vui với pháp Đại thừa, hiện rõ tâm Đại Từ Bi. Chúng sinh như vậy mới có thể phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”
Tích tập thiện căn sâu dày là từ khi mới phát tâm cho đến sau này, Bồ-tát có thể vượt lên trên tánh của Thanh văn và Bích-chi-Phật. Vì vậy có thể dùng làm chủng tử cho phần vị Bồ-tát không lui sụt, không thay đổi.
Thiện căn như tham... không phải là chủng tử chân chánh mà là do từ lâu đã tu tập vô lượng những việc làm công đức, cho nên nói là tích tập thiện căn sâu dày. Khéo tích tập những thiện hạnh, là nói Bồ-tát đã tu các hạnh chân chánh, gọi là tu những thiện hạnh, hạnh và tu sinh khởi khác nhau về tên gọi những nghĩa thì như nhau.
Lại nói hành, là thanh tịnh nghiệp thân-miệngý, tự sinh sống với đời sống chân chánh, vì các Bồtát đều xa rời tâm gây tổn hại, mà thành tựu mọi việc làm, đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh. Tất cả Thanh văn và Bích-chi-Phật... đều không thể vượt qua được biển cả trí tuệ, mà Bồ-tát thì có năng lực vượt qua được, cho nên nói Bồ-tát khéo tích tập những thiện hạnh. Khéo tích tập những hành công đức, là dùng các hạnh bố thí-nhẫn nhụckhông phóng túng... bốn nhiếp pháp-bốn Vô lượng làm nhân giáo hóa chúng sinh, chủng tử các pháp đã tăng trưởng, đã được tích tập đúng đắn, cho nên nói là khéo tích tập những hành công đức.
Khéo cúng dường chư Phật, nghĩa là Bồ-tát dùng sức của nhân làm tăng trưởng lợi ích cho người khác, cũng chính là sự nghiệp của mình, Bồtát cảm thấy hân hoan Vô lượng mỗi khi cúng dường, mỗi khi cung kính, hay khi nghe chánh pháp... từ đời này sang đời khác, Bồ-tát luôn cúng dường cung kính chư Phật, cho nên nói là khéo cúng dường chư Phật.
Khéo tích tập những pháp thiện, là vì các Bồtát có Vô lượng môn, tích tập các việc làm như bố thí... tu tập các pháp thiện, nhận lấy Bồ-đề vĩ đại, thành tựu tâm một vị hồi hướng chân chánh, có thể thành tựu pháp không thối chuyển, cho nên nói là khéo tích tập những pháp thiện.
Thiện tri thức khéo gia hộ, nghĩa là Phật, Như Lai chính là bậc thiện tri thức, luôn luôn gia hộ Bồtát, giúp cho sự phát tâm được tăng trưởng, an trú không lui sụt, không thay đổi trong chánh pháp, cho nên nói là thiện tri thức khéo gia hộ.
Khéo làm cho tâm thanh tịnh, là vì Bồ-tát không mong cầu niềm vui cho mình, chỉ chuyên tâm một vị đem lại lợi ích cho người khác. Mãi mãi Bồ-tát không bị hoen ố do các thứ phiền não như tự ái... cho nên mới nói là khéo làm cho tâm thanh tịnh.
Tiến vào tâm sâu rộng là tập trung nhớ nghĩ rộng rãi, tốt đẹp trong pháp Đại thừa mà thành tựu nhân cuối cùng, cho nên nói là tiến vào tâm sâu rộng.
Tuyệt đối tin tưởng và vui với pháp Đại thừa, là khi phát tâm Đại thừa mà không khiếp nhược, không sợ hãi tất cả mọi nỗi thống khổ của thế gian. Thấy các chúng sinh mong cầu Tiểu thừa, Bồ-tát phát sinh tâm Đại Từ Bi, muốn ban niềm vui cho tất cả chúng sinh, biết nơi chốn của Nhất thiết chủng trí, Bồ-tát dùng năng lực phương tiện giúp chúng sinh đạt được, cho nên nói là tuyệt đối tin tưởng và vui với pháp Đại thừa. Bồ-tát hiện rõ tâm Đại Từ Bi là vì nhận thấy chúng sinh bị áp bức do mọi đau khổ của sự sống chết, không nhà-không bến và không ai cứu độ..., Bồ-tát phá tan mọi khổ đau phiền não đó giúp họ, thực hành bố thí, bố thí rộng lớn và bố thí cả những gì khó bố thí nhất. Dùng sức mạnh của phương tiện, Bồ-tát đi vào những nơi khổ để thể hiện lòng Từ Bi. Nói lòng từ là vì Bồ-tát mới phát tâm, năng lực còn kém, chỉ nguyện thương xót tất cả chúng sinh cho nên gọi là từ.
Còn lòng Bi là Bồ-tát tu hành vì tất cả chúng sinh. Chỉ cho chúng sinh tu hành như Bồ-tát để thoát khỏi khổ nạn. Ở trong pháp thù thắng mà phát tâm tối thượng như vậy, cho nên gọi là bi, nói là hiện rõ tâm Đại Từ Bi đối với tất cả chúng sinh. Lại nói không thối chuyển, Đại Bồ-tát có tám pháp, có khả năng thành tựu phần vị không thối chuyển. Đó là:
1. Tâm Đại Bi.
2. Tâm an trú.
3. Trí tuệ
4. Phương tiện.
5. Không buông lung.
6. Phát tâm tinh tiến.
7. Khéo trú niệm.
8. Gặp thiện tri thức.
Bồ-tát mới phát tâm cần phải nhanh chóng tu hành tám pháp này, như cứu lửa cháy trên đầu, rồi sau đó mới tu tập các hạnh khác. Ngoài các pháp không thối chuyển, Bồ-tát cũng dựa theo tám pháp này mà tu tập. Ngoài ra, còn có tất cả công đức không lui sụt không thay đổi. Tất cả các công đức không thối chuyển đó đã được nói rộng rãi khắp các kinh, cho nên biết.
Hỏi: Chỉ nói không lui sụt đối với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là đủ, sao lại còn nói không chuyển đổi? Vì đã có thể không lui sụt, tức là không thay đổi rồi?
Đáp: Vì đạt được nhân không lui sụt thì cuối cùng thành tựu tâm sâu xa, cho nên gọi là không lui sụt. Nói không thay đổi là vì dựa vào tâm niệm sâu xa không lui sụt, phát sinh tâm niệm với việc làm tốt đẹp hơn, tiến bộ hơn, cho nên gọi là không thay đổi.
Hỏi: Nếu vậy thì không lui sụt và không thay đổi lại không có nghĩa gì sai khác. Vì sao không thay đổi đối với không lui sụt mà lại tốt đẹp hơn?
Đáp: Nói không lui sụt là dựa vào tâm không gây tổn hại, là căn bản nghiệp đạo, khởi sự làm lợi ích cho mọi người, chứng được nghĩa tốt đẹp hơn hết. Nói không thay đổi là bởi vì tu hành thành tựu. Nói không lui sụt là nói đến sự đoạn tuyệt vĩnh viễn tất cả phiền não căn bản như thân kiến..., có thể làm chướng ngại đến pháp thù thắng.
Nói không thay đổi là vì đoạn diệt được căn bản Vô minh trong phần vị Tu đạo. Còn nói không lui sụt là vì khéo tích tập đầy đủ các công đức.
Nói không thay đổi là khéo tích tập đầy đủ trí tuệ. Còn nói không lui sụt là bởi vì thành tựu phương tiện.
Nói không thay đổi là nói về thành tựu Bátnhã. Còn nói không lui sụt là vượt lên trên nhân của phần vị Thanh văn và Bích-chi-Phật.
Nói không thay đổi là vì Bồ-tát khéo tích tập được các thiện căn Bồ-đề. Còn nói không lui sụt là nói về thành tựu năng lực vĩ đại.
Nói không thay đổi là nói về thành tựu tu hành. Còn nói không lui sụt là nói về đầy đủ nhân để thành tựu mười lực.
Nói không thay đổi là nói về đầy đủ nhân thành tựu bốn pháp vô úy hãi. Còn nói không lui sụt là dựa vào bạch pháp như Bố thí Ba-la-mật... làm lợi ích cho chúng sinh.
Nói không thay đổi là đem các thiện căn mà bố thí... là vì chúng sinh mà hồi hướng đại Bồ-đề, vì làm lợi ích cho các chúng sinh mà luôn vui thích. Còn nói. không lui sụt là nói về chứng được địa bậc nhất, không làm mất nhân của tâm Bồ-đề, mà được thành tựu tâm sâu xa...
Nói không thay đổi là từ địa thứ hai trở lên thuộc về sự khởi tâm xây dựng mười thiện nghiệp đạo, khác với mười thiện nghiệp đạo của Bồ-tát khi tu hành bố thí... Cứ như vậy mà luôn tăng trưởng.
Hỏi: Pháp thắng tiến thì, nghĩa này thế nào?
Đáp: Vì tâm Từ Bi và việc Bồ-tát làm cứ ngày càng lớn dần. Trước hết là được pháp thiện thanh tịnh sau đó tiến triển tốt đẹp đến bậc trung bình và bậc cao. Vì nghĩa đó cho nên gọi là pháp thắng tinh tiến.
Hàng phục tất cả các ma oán thù, bởi vì đè bẹp ma, hàng phục oán, hàng phục giặc thù, cho nên nói là hàng phục hết thảy các ma oán thù. Nghĩa này thế nào? Vì Bồ-tát đè bẹp mọi ma phiền não, Thiên ma luôn rình rập để tìm kiếm một ít lỗi lầm, nói là hàng phục tất cả các ma. Vì đạt được năng lực của Văn-Tư-Tu tuệ, làm lợi ích cho chúng sinh, cho nên oán thù càng không thể gây trở ngại được, cho nên nói là hàng phục hết thảy các oán. Hết thảy ngoại đạo luận sư đều không có khả năng bẻ gãy hay hàng phục, cho nên nói là hàng phục hết thảy giặc thù. Vì vậy cho nên mới nói là hàng phục hết thảy ma oán, giặc thù.
Vả lại, nhờ có năng lực Bát nhã đoạn trừ được ma phiền não, cho nên nói là hàng phục tất cả các ma. Nhờ sức phương tiện mà Bồ-tát có thể tu tập thiện căn Bồ-đề, vượt lên trên Niết-bàn oán thù mà Nhị thừa đã chứng được, cho nên mới nói là hàng phục tất cả các kẻ thù ma oán.
Hơn nữa, vì thành tựu các pháp về tâm sâu xa, lại vượt qua nhân của đạo ma, cho nên nói là hàng phục tất cả các ma, tâm mong cầu quả vị Nhất thiết trí không bao giờ dứt, là pháp khuất phục đối trị địch thủ khiến chúng mệt mỏi. Tâm mong cầu quả vị Nhất thiết trí đã đoạn tuyệt, là khi pháp khuất phục đã khiến địch thủ phải mệt mỏi, cho nên nói là hàng phục tất cả địch thủ.
Vả lại, vì được mười loại Tự Tại mà Bồ-tát có khả năng hàng phục tất cả bốn ma, chư ấm... cho nên nói là hàng phục tất cả các ma.
Vì an trú chánh định tụ, vượt lên trên phần vị Thanh văn và Bích-chi-Phật mà Bồ-tát không mong, cho nên gọi là hàng phục kẻ thù oán.
Lại có khả năng khéo biết sự nghiệp của các ma, cho nên nói là hàng phục tất cả ma. Được các thiện nghiệp thanh tịnh của các Bồ-tát, có khả năng vượt lên trên tất cả nhân của các đạo ác, cho nên nói là hàng phục tất cả kẻ thù oán.
Lại có khả năng khéo gìn giữ các pháp đối trị... đối với các ma oán thù, vì vậy gọi là hàng phục tất cả các ma thù oán. Như trong kinh Phật nói: Này Long vương! Đại Bồ-tát vì thành tựu tám pháp cho nên có thể đè bẹp các ma thù oán. Tám pháp đó là:
1. Biết pháp năm ấm như huyễn hóa.
2. Xa rời tất cả phiền não như thân kiến... vì biết như thật về nghĩa Không.
3. Biết như thật về tất cả các hành hữu vi vốn không sinh mà sinh ra các thế gian.
4. Thường giáo hóa chúng sinh vì thường không rời bỏ tâm Bồ-đề.
5. Tâm luôn tu hành tinh tiến vững chắc, nhưng vẫn thường sợ hãi ba cõi.
6. Ngộ nhập với pháp không đáng ngộ nhập mà hằng mong cầu trí cao thượng bởi vì chúng sinh.
7. Thường tu tập công đức mà vẫn tin tưởng vì tướng vô thường.
8. Thường tu tập công đức trí tuệ, nhưng không mong cầu trí của Thanh văn và Bích-chi-Phật.
Hỏi: Cho nên nói về việc làm của Bồ-tát. Thế nào là việc làm của Bồ-tát?
Đáp: Việc làm của Bồ-tát, là Bồ-tát đã nhận thấy sâu xa về lợi ích của Niết-bàn và những lỗi lầm tai hại của thế gian, cho nên phát khởi tâm Đại Từ Bi, mà thâu nhiếp vào trí tuệ phương tiện, thường làm lợi ích cho chúng sinh mà tu hành, vì vậy gọi là thực hành hạnh của Bồ-tát.
Biết như thật về tướng và tự Thể của tất cả các pháp, là biết tất cả pháp, đúng như thật về tướng của nó. Tướng của tự Thể gọi là tướng, như tướng của tướng tự Thể của mọi pháp, Bồ-tát biết đúng như thật.
Hỏi: Cần phải nói như vậy: Biết tướng của tất cả các pháp chứ không cho nên nói là biết tướng tự Thể của tất cả các pháp?
Đáp: Vì chứng minh pháp được thấy và pháp có thể thấy là không hai, cho nên nói là biết như thật về tướng tự Thể của tất cả các pháp. Nghĩa này thế nào? Vì chứng minh tướng tự Thể của các pháp là không lìa các pháp mà lại có tướng.
Hỏi: Nếu vậy thì cho nên nói như vậy: biết thể của các pháp chứ không cho nên nói là biết tướng của pháp?
Đáp: Không phải thế! Nếu nói như vậy thì không tránh khỏi lỗi lầm vừa nói. Đây là nói rõ về nghĩa gì? Như tướng của các pháp lìa các pháp mà lại có tự Thể, thì e rằng chọn lấy như vậy chỉ vì che chở cho lỗi lầm kia. Nói cách khác, đây là chứng tỏ nghĩa gì? Tức là tướng của tự Thể tách rời tự Thể thì không có tướng nào nữa, tự Thể và tướng tuy tên khác mà nghĩa chỉ là một. Vì vậy nói là biết như thật về tướng tự Thể của tất cả các pháp, không giống như vấn nạn trước đây đã nói:
Hỏi: Vì sao gọi là tướng của tự Thể?
Đáp: Nếu biết như thật về tất cả nhân duyên của các pháp, mà có tướng của tự Thể không thật. Đây là chứng minh về nghĩa gì? Vì các Bồ-tát luôn tùy thuận trí tuệ xuất thế gian, có thể biết như thật về Thể của các pháp đó. Có khả năng biết như thật về Thể của các pháp, là vì thấy tất cả các hành của hữu vi đều dựa vào nhân duyên mà có chứ không thường còn không đoạn diệt. Chính vì nghĩa này cho nên không vướng vào sự chấp trước hư vọng về đoạn thường, có và không có đều như nhau mà thành tựu Trung đạo. Thấy biết đúng như thật về các hành hữu vi đều hư vọng không thật, bởi vì đạt được tâm thanh tịnh mà biết các hành của hữu vi đều do phân biệt hư vọng, cho nên lìa xa nhân cấu trược như phá giới…, đầy đủ giới hạnh thanh tịnh, ngay cả khi chưa thành Phật về sau vẫn tu tập thiện căn, làm nhân mang lại yên vui cho tất cả chúng sinh, khiến cho họ đạt được Nhất thiết chủng trí.
Hỏi: Đối với các thế gian, tâm không thấy mệt mỏi là sao?
Đáp: Lúc còn phần vị Kiến đạo, đã xa lìa nhân mệt mỏi như thân kiến... Câu nói này nói rõ nghĩa gì? Vì các phàm phu chấp lấy tướng ngã, bị bức não do đủ loại khổ đau trong sinh tử, mà nảy sinh tâm mỏi mệt trong thế gian, Bồ-tát khi thấy thể của các pháp, đều xa lìa mọi vướng mắc về tướng ngã. Vì vậy đối với thế gian. Các vị tâm Bồ-tát không thấy mệt mỏi. Sở dĩ đối với các thế gian, tâm Bồtát không thấy mệt mỏi, là vì Bồ-tát đã xa lìa được năm sự sợ hãi. Việc này có nghĩa là gì? Bởi vì chúng sinh ở thế gian chưa lìa bỏ năm sự sợ hãi, như sợ không thể sống nổi..., khiến tâm họ thấy mệt mỏi đối với các thế gian. Bồ-tát đã xa lìa năm điều sợ hãi ấy..., đã xa lìa tướng ngã... đã tu tập công đức, trí tuệ đầy đủ. Vì vậy Bồ-tát thấy tâm mình không mệt mỏi đối với các thế gian. Lại có được một vị tâm làm lợi ích cho mọi người, cho nên tâm không mệt mỏi. Việc này có ý nghĩa gì?
Bởi vì các Bồ-tát dựa vào tâm Từ Bi mà làm lợi ích cho mọi người, với tâm sâu xa khéo tu tập, giống như nước trong biển cả cùng chung một vị mặn. Bồ-tát cũng vậy, là một vị tâm làm lợi ích cho mọi người. Vì các Bồ-tát làm lợi ích cho mọi người, cũng chính là làm lợi ích cho mình. Vì lợi ích của chúng sinh mà tu tập và làm các việc, cho nên tâm Bồ-tát không thấy mỏi mệt đối với các thế gian. Tâm của Bồ-tát lại luôn được an trú, cho nên tâm không cảm thấy mỏi mệt đối với các thế gian. Việc này có ý nghĩa gì? Vì các Bồ-tát đối với các nẻo ác như, địa ngục dây đen, địa ngục hợp lại, địa ngục kêu la, địa ngục Đa-ba-na, địa ngục Ba-đaba-ba, địa ngục A-tỳ, địa ngục Cứu cứu la, địa ngục tử thi, địa ngục rừng dao, địa ngục rừng gươm, địa ngục bửa xẻ, địa ngục An-phù-đà, địa ngục A-ba-na, địa ngục A-tra-tra, địa ngục Ưubát-la, địa ngục Câu-vật-đầu, địa ngục Hương, địa ngục Phân-đà-lợi, địa ngục Ba-đầu-ma, với mọi thứ lạnh-nóng cam chịu mọi khổ não, và cả nẻo súc sinh-ngạ quỷ trong ngục Nê-lê, A-tu-la, người-trời, cùng giết hại lẫn nhau, cùng dong ruổi tìm kiếm lôi kéo cấu xé ăn thịt lẫn nhau, hoặc còn sống sót, hoặc đã tháo chạy, khởi lên tâm niệm ngã mạn, ganh ghét, giận hờn, ân ái biệt ly, oán ghét lại gặp nhau, Lão-bệnh-chết-lo buồn khổ não. Với những đau khổ như vậy, dù thấy-nghe nhưng Bồtát vẫn không xa rời việc làm đem lại lợi ích cho chúng sinh. Tâm Bồ-tát hoàn toàn không luikhông chuyển, hoàn toàn an trú vào tâm đại Bồđề, đó gọi là Bồ-tát đối với các thế gian mà tâm không hề mỏi mệt.
Không mỏi mệt là vì thệ nguyện kiên cố. Điều này có nghĩa gì? Vì các Bồ-tát dựa vào tâm Từ Bi bình đẳng vĩ đại làm lợi ích cho chúng sinh, cuối cùng đạt được tâm sâu xa lấy đó làm căn bản cho mọi việc làm. Vì khéo biết tâm kiên cố, lại tùy thuận với những thệ nguyện làm lợi ích cho chúng sinh, cho nên Bồ-tát đối với các thế gian mà tâm không cảm thấy mỏi mệt.
Hỏi: Tâm nguyện kiên cố của Đại Bồ-tát là gì? Đáp: Có năm pháp gọi là thệ nguyện vững chắc của Bồ-tát. Đó là:
1. Thừa Thanh văn không lay chuyển được Bồ-tát.
2. Thừa Bích-chi-Phật không lay chuyển được Bồ-tát.
3. Các lý luận của ngoại đạo không lay chuyển được Bồ-tát.
4. Tất cả các loài ma không lay chuyển được Bồ-tát.
Không vì không nhân-không duyên mà tự nhiên lay chuyển được Bồ-tát. Vì vậy nói tâm Bồ-tát không cảm thấy mỏi mệt đối với mọi thế gian.
Lại có năm pháp, đối với các thế gian mà tâm Bồ-tát không cảm thấy mệt mỏi:
1. Thấy suy tổn hay lợi ích mà tâm không lo buồn hay vui mừng.
2. Mọi việc làm đã hoàn tất vì biết như thật về đạo.
3. Biết như thật về đạo quả.
4. Chính mình đạt được vắng lặng.
5. Có tâm loại bỏ khổ đau phiền não cho mọi chúng sinh. Vì vậy Bồ-tát đối với thế gian mà tâm không thấy mỏi mệt.
Lại không mỏi mệt, vì có được tâm Đại Từ-tâm Đại Bi. Đây nói rõ nghĩa gì? Vì các Bồ-tát đã thành tựu được tâm Đại Bi, thấy mọi chúng sinh đang bị đắm chìm trong vũng bùn của cuộc sống rất khốn khổ... đang bị Vô minh làm cho mù lòa, bị buộc ràng do tham ái mà không có nơi nào quay về. Bồtát vì thành tựu năng lực của tâm Từ Bi và lấy trí tuệ làm hàng đầu, siêng năng tu hành tinh tiến, cho nên cứu vớt được nỗi đau khổ của chúng sinh, vì mọi chúng sinh mà sẵn sàng chịu những nghiệp khổ não trong thế gian. Vì vậy, Bồ-tát đối với các thế gian mà tâm không biết mỏi mệt. Lại có năm pháp, biết Bồ-tát có tâm Đại Từ Bi:
Cho chúng sinh sự ổn định và niềm vui, cho tất cả tiền của nuôi mạng sống mà không hề luyến tiếc.
1. Không tiếc thân mạng mình.
2. Không cần bảo vệ, luyến tiếc mạng sống của mình.
3. Tu tập tất cả các hạnh, bất kể thời gian giờ giấc.
4. Thương yêu bình đẳng, không phân biệt kẻ thân, người thù. Vì thế Bồ-tát không cảm thấy tâm mình mỏi mệt đối với các thế gian.
Lại không mỏi mệt là vì Bồ-tát có thể chịu đựng được tất cả mọi khổ não. Câu nói này có nghĩa gì? Bởi vì các Bồ-tát có thể dựa vào duyên lực cho nên tâm các Ngài luôn dũng mãnh, trải qua vô số kiếp, có thể chịu đựng mọi sự khổ đau phiền não. Bởi vì có năng lực chịu đựng được tất cả khổ não, cho nên tâm Bồ-tát đối với thế gian không cảm thấy mỏi mệt.
Có năm pháp có khả năng chịu đựng mọi khổ não của thế gian:
1. Tin tưởng các pháp đều Vô ngã.
2. Tin tưởng các pháp đều Không.
3. Quán sát pháp thế gian.
4. Quán sát các nghiệp quả.
5. Quán sát các nghiệp đã hết, Bồ-tát vì mọi chúng sinh mà nhận chịu biết bao khổ đau phiền muộn trong Vô lượng kiếp.
Lại không mỏi mệt là do tâm sâu xa luôn mong cầu Bồ-đề Phật. Câu này có nghĩa gì? Vì Bồ-tát luôn dùng tâm sâu xa vui với cảnh Niết-bàn mà mong cầu Bồ-đề Phật. Do năng lực vững chắc và tăng trưởng, cho nên Bồ-tát đã vì tất cả chúng sinh mà gieo trồng chủng tử thiện căn làm nhân duyên Bồ-đề bằng cách thực hành các việc thế gian. Vì vậy Bồ-tát không thấy tâm mệt mỏi đối với các thế gian.
Lại có năm pháp mà Bồ-tát luôn mong cầu Bồđề vô thượng:
1. Không giống với trí của Thừa khác, mà hơn hẳn các thừa khác.
2. Là bậc tối thượng đứng đầu trong thế gian.
3. Tự độ mình.
4. Hóa độ người khác.
5. Đầy đủ tất cả tạng công đức.
Lại không mệt mỏi, là vì giáo hóa cho các chúng sinh. Câu này có nghĩa gì? Mãi mãi Bồ-tát luôn vì các chúng sinh, có khả năng giáo hóa trong các thế gian, tùy thuận mà giáo hóa, đoạn trừ mọi khổ não của chúng sinh trong thế gian, tuy đang bị mọi mũi tên khổ sở đắng cay bắn tới, nhưng đối với thế gian mà tâm Bồ-tát không hề biết mệt mỏi.
Giáo hóa chúng sinh là quán sát tâm chúng sinh, tùy thuận mọi chúng sinh, đối với pháp năm thừa người nào nên tiếp nhận thì giáo hóa, Bồ-tát sẽ truyền trao cho họ. Năm Thừa đó là:
1. Thừa Ứng Chánh Biến Tri.
2. Thừa Bích-chi-Phật.
3. Thừa Thanh văn.
4. Thừa trời 5. Thừa người.
Lại không mệt mỏi là vì mạnh mẽ dũng cảm không sợ hãi. Câu này có nghĩa gì? Vì dựa vào năng lực trí tuệ, dựa vào sức dũng cảm không sợ hãi, cho nên Bồ-tát tuy bị bắn do mũi tên cay đắng của thế gian, nhưng đối với thế gian Bồ-tát vẫn không nảy sinh tâm mỏi mệt.
Có năm pháp biết được Bồ-tát dũng cảm không sợ hãi:
1. Đối với mọi việc suy hao hư hỏng mà tâm Bồ-tát không lo lắng.
2. Thành tựu tất cả các pháp lợi ích nhưng tâm Bồ-tát không vui mừng.
3. Dù nhận mọi khổ đau phiền não nhưng tâm vẫn không đau buồn.
4. Dù nhận niềm vui tốt đẹp nhưng Bồ-tát không lấy làm vui.
5. Hai trạng thái giận-mừng không thể biết được. Đó gọi là Bồ-tát dũng cảm mạnh mẽ không sợ hãi, cho nên biết.
Lại không mỏi mệt là vì Bồ-tát không đắm theo thân mạng. Câu này có nghĩa gì? Vì đắm vào thân mạng mà người thế gian luôn bị trúng mũi tên đau khổ của sinh tử, nhàm chán thế gian mà nảy sinh tâm niệm mỏi mệt. Bồ-tát vui với sự nghiệp lợi ích cho các chúng sinh, biết như thật về thân mạng cho nên Bồ-tát xả bỏ mà không tham đắm, chỉ vì muốn đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh. Vì vậy, Bồtát đối với các thế gian mà tâm không mỏi mệt. Bồ-tát có thể biết được năm pháp cho nên không dính mắc vào thân mình:
1. Biết thân mình không đến từ đời quá khứ.
2. Biết thân không hướng về đời vị lai.
3. Biết thân mình không phải là pháp vững chắc.
4. Biết thân mình, không thật có thần ngã.
5. Biết thân mình không thật có ngã sở.
Vì vậy mà Bồ-tát không đắm theo tự thân. Bồtát có khả năng biết năm pháp cho nên không tham đắm thân mạng:
1. Sống dựa vào trí tuệ chứ không theo cách sống bất chánh.
2. Sợ tất cả các pháp bất thiện.
3. Quán sát từ vô thỉ đến nay chưa từng có ai không chết.
Cùng chung một cõi sống hữu lậu với tất cả các chúng sinh.
4. Không thể bảo tồn mạng sống lâu dài.
Lại không mệt mỏi, là vì không đắm say niềm vui của mình. Câu này có nghĩa gì? Bởi vì các chúng sinh vì đam mê niềm vui của mình, mà phải chịu đựng mọi thống khổ nảy sinh tâm mệt mỏi. Bồ-tát xả bỏ niềm vui của riêng mình, cứu vớt nỗi đau khổ của chúng sinh, vì vậy đối với các thế gian, tâm niệm Bồ-tát không cảm thấy mệt mỏi.
Bồ-tát biết như thật về năm pháp không mong cầu niềm vui riêng mình:
1. Nhận biết niềm vui như bọt nước.
2. Nhận biết khi niềm vui tàn hoại thì sẽ đau khổ.
3. Có được phương tiện thế gian, vì các Bồ-tát dựa vào thiện tri thức, lắng nghe chánh pháp, lắng lòng tư duy để làm căn bản, đạt được phương tiện xuất thế cho mình và cho chúng sinh.
4. Không dựa vào trí của người khác.
5. Dựa vào trí lực của mình
Lại không mỏi mệt là vì Bồ-tát luôn nhận thấy tất cả các thiện pháp đều hiện rõ trước mặt. Câu này có nghĩa gì? Vì các Bồ-tát dựa vào năng lực trượng phu mà đạt được quả báo, vì các thiện pháp đều dựa vào năng lực trượng phu. Những sự việc trong Vô lượng kiếp, Bồ-tát đang thấy như một giấc chiêm bao. Trong đời vị lai, Bồ-tát không dựa vào năng lực người khác, chỉ dựa vào sức trượng phu của chính mình để tu tập các thiện pháp dấy lên tư duy như vậy: Nhất thiết chủng trí không phải là người khác có thể cho mình, mà dựa vào năng lực của mình có được. Bồ-tát nhận biết như vậy, cho nên không dựa vào người khác, tự phát tâm tinh tiến tu tập các hạnh, nhanh chóng đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Như Đức Phật bảo Tôn giả A-nan: “Chỉ có tinh tiến Ba-la-mật mới có khả năng chứng đắc Bồ-đề”. Vì vậy, Bồ-tát đối với các thế gian mà tâm không cảm thấy mỏi mệt.
Lại không mỏi mệt là vì chứng ngộ trí tự nhiên. Câu này có nghĩa gì? Bởi vì các Bồ-tát đã vượt qua nhân của sự dựa vào mỏi mệt, cho nên thành tựu tâm không mỏi mệt. Bồ-tát khéo nhận biết tất cả các pháp nhân duyên, dựa vào pháp này phát sinh pháp kia và tăng trưởng dần theo thứ tự, như các bậc thang. Bồ-tát dựa vào căn bản Bát nhã mà thành tựu tinh tiến. Vì vậy, Bồ-tát nhanh chóng chứng ngộ phần vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Vả lại, các câu như không lui sụt-không thay đổi…, trong tất cả các kinh khác đã nói rộng, nên biết!
Lại còn có nghĩa nói về không lui sụt là vì thành tựu được pháp của tâm sâu xa. Không lui sụt là vì được thành tựu việc thực hành tâm Xả. Nói không thay đổi là vì được thành tựu pháp của tâm sâu xa. Hàng phục tất cả các ma thù oán, là vì Bồtát đã thành tựu tâm khéo nhận biết phương tiện hồi hướng.
Nhận biết như thật về tướng tự Thể của tất cả các pháp là vì đã thành tựu sự khéo nhận biết phương tiện. Đối với các thế gian, tâm Bồ-tát không thấy mỏi mệt, vì đã thành tựu tâm Đại Từ Đại Bi. Vì tâm không biết mỏi mệt cho nên không dựa vào trí của người khác, mà Bồ-tát nhanh chóng thành tựu vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vì đã thành tựu Bát nhã Ba-la-mật. Vì vậy Đức Phật bảo Bồ-tát Di-lặc: “Bồ-tát đã hoàn toàn thành tựu tám pháp, không thối chuyển đối với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác...”.
Hỏi: Vì sao Đức Như Lai chỉ nói có tám pháp, không nhiều không ít?
Đáp: Đây không phải là câu hỏi chính đáng. Vì sao? Nếu Như
Lai có nói nhiều hay ít hơn, thì đâu cần thiết để đặt thành câu hỏi. Tuy nhiên, không phải không có nhân duyên làm cho Phật-Thế Tôn nói về tám pháp này. Vì tám pháp này thành tựu đầy đủ cho nhân Bồ-đề. Câu đó có nghĩa gì? Từ sự thành tựu tâm sâu xa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật, phải thành tựu hoàn toàn tám pháp này, Bồ-tát mới đầy đủ công đức, trí tuệ, nhanh chóng thành tựu Nhất thiết chủng trí. Vì tám pháp này đầy đủ thì thành tựu nhân của Bồ-đề Phật, cho nên Đức Như Lai chỉ nói tám pháp này mà không nhiều không ít.
Sở dĩ Đức Như Lai chỉ nói tám pháp này là vì tám pháp này thâu nhiếp đạo Bồ-tát. Điều này chứng tỏ nghĩa gì? Nói gọn, Bồ-tát có hai đạo:
- Đạo phương tiện sai biệt.
- Đạo trí tuệ.
Các câu như thành tựu tâm sâu xa cho đến phương tiện... là chỉ rõ về đạo phương tiện sai biệt. Thành tựu Bát nhã Ba-la-mật, là chỉ rõ về đạo trí tuệ. Vì vậy trong kinh Văn Thù Sư Lợi Vấn Bồ Đề, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: “Này các Thiên tử! Nói gọn về đạo Bồ-tát Ma-ha-tát thì có hai, đó là nói gọn về đạo nhanh chóng đạt được vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Hai đạo đó là:
1. Đạo phương tiện.
2. Đạo trí tuệ.
- Đạo phương tiện, là biết thâu nhiếp các thiện pháp.
- Đạo trí tuệ là trí nhận biết như thật về các pháp. Phương tiện: là quán sát mọi chúng sinh.
Trí tuệ: là trí xa rời các pháp.
Phương tiện là nhận biết các pháp tương ưng. Trí tuệ là trí nhận biết các pháp không tương ưng.
Phương tiện là quán sát các nhân của đạo. Trí tuệ là trí diệt trừ các nhân của đạo.
Phương tiện là nhận biết sự khác nhau của các pháp. Trí tuệ là trí nhận biết các pháp không hề khác nhau.
Phương tiện là trang nghiêm cõi Phật. Trí tuệ là trí trang nghiêm cõi Phật bình đẳng, không sai biệt.
Phương tiện là đi vào các căn tánh của chúng sinh mà hành. Trí tuệ là trí không thấy chúng sinh.
Phương tiện là con đường dẫn đến đạo tràng. Trí tuệ là trí có khả năng chứng ngộ tất cả pháp Bồ-đề Phật.
Chính vì nghĩa này, cho nên Đức Như Lai chỉ nói có tám pháp chứ không nhiều hơn hay ít hơn.
Sở dĩ Đức Như Lai chỉ nói tám pháp là vì muốn thâu nhiếp cả trợ đạo và đoạn đạo. Việc này có nghĩa gì? Chính trong kinh ấy đã nói: “Lại nữa, này Thiên tử! Các Đại Bồ-tát lại có hai đạo, nói gọn là các Đại Bồ-tát do hai đạo này mà nhanh chóng chứng ngộ Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Hai đạo đó là: 1. Đạo hỗ trợ; 2. Đạo đoạn.
Đạo hỗ trợ là năm pháp Ba-la-mật. Đạo đoạn là Bát-nhã Ba-la-mật.
Từ tâm sâu xa cho đến phương tiện dùng làm đạo hỗ trợ, thâu nhiếp năm Ba-la-mật, thành tựu tâm Xả là gồm trong Bố thí Ba-la-mật, thành tựu tâm hạnh là gồm trong Trì giới Ba-la-mật, thành tựu tâm sâu xa thâu nhiếp Nhẫn nhục Ba-la-mật, thành tựu tâm khéo biết phương tiện hồi hướng và thành tựu khéo biết phương tiện, gồm trong Tinh tiến Ba-la-mật, thành tựu tâm Đại Từ và thành tựu tâm Đại Bi thâu nhiếp Thiền Ba-la-mật, thành tựu Bát-nhã Ba-la-mật thâu nhiếp đạo đoạn.
Như vậy, đạo có trở ngại, đạo không trở ngại, hữu lậu, vô lậu... đều có thể hiểu một cách tương tự như vậy, cho nên biết.
Vả lại, thâu nhiếp đạo hữu lượng và đạo Vô lượng. Như trong kinh kia nói: “Lại nói gọn có hai loại đạo:
1. Đạo hữu lượng.
2. Đạo Vô lượng”.
Đạo hữu lượng là phân biệt chọn lấy tướng. Đạo Vô lượng là phân biệt không chọn lấy tướng.
Bảy câu; từ Tâm sâu xa cho đến phương tiện… là phân biệt chọn lấy tướng thâu nhiếp trong đạo hữu lượng, cho nên biết.
Như vậy thành tựu Bát-nhã Ba-la-mật là phân biệt không chọn lấy tướng, thâu nhiếp trong đạo Vô lượng, cho nên biết.
Như vậy, bốn gia, bốn nhiếp, bốn Vô lượng, ba mươi bảy phẩm, tất cả công đức của các Đại Bồtát tùy theo nghĩa tương ưng với tám pháp, đều thâu nhiếp trong đó cả, cho nên biết như vậy.
Hỏi: Nên nói về nghĩa của tâm sâu xa. Thế nào nghĩa của tâm sâu xa?
Đáp: Nghĩa của tâm sâu xa là tâm thật sự không trú, chẳng phải là tâm tương ưng. Tướng sai khác của sử mạn tương ưng với năm ấm mà khởi nghiệp tu hành làm tăng trưởng nhân quả, trái ngược với nhân của tâm sâu xa, trái ngược với quả của Niết-bàn. Tâm sâu xa lìa tu hành căn thiện, chẳng phải là tâm tương ưng. Hành thuộc về tụ ấm, Thể tùy thuận quả Niết-bàn, cũng như dựa vào Văn tuệ mà phát sinh những tuệ khác, đó gọi là tâm sâu xa.
Vả lại, tâm sâu xa là tâm trú trong chốc lát, lìa khỏi tâm tương ưng. Thể hành của thiện căn, dựa vào hành mà khởi hạnh, giống như dòng nước cuồn cuộn chảy, tuần tự nảy sinh các pháp, đó gọi là tâm sâu xa.
Tâm sâu xa là dựa vào chủng tử mà phát sinh, giống như các loại sữa, tất cả pháp thiện tùy thuận nhân duyên tu hành pháp thiện thì gọi là tâm sâu xa.
Tâm sâu xa ví như vật bị cuốn lại đã lâu, tuy tạm thời kéo duỗi ra nhưng buông rời vẫn trở ngại như cũ. Tâm sâu xa cũng vậy, tùy theo nhân vốn có mà tạo ra các pháp, rồi trở lại tiếp tục như cũ, không thể nói nó là một-không thể nói là khác, đó là tâm sâu xa.
Tâm sâu xa là tu học pháp thiện, gọi là tâm sâu xa. Tâm sâu xa là tâm tu hành tất cả các pháp của thiện căn và thành tựu, pháp Đại Niết-bàn không mất, không thêm, không bớt, đó gọi là tâm sâu xa.
Hỏi: Như trong kinh Tỳ Ma La Kiết Lợi Trí Sở Thuyết có nói: “Đại Bồ-tát tu tập Vô lượng công hạnh thì có Vô lượng tâm”. Tâm sâu xa này là khởi hạnh gì?
Đáp: Tâm sâu xa này đều có khả năng phát khởi cầu Bồ-đề Phật, tất cả các hạnh đó gọi là tâm sâu xa. Vì sao? Vì tâm sâu xa này phát sinh tất cả các nhân Bồ-đề, đều có khả năng tăng trưởng sức mạnh của các công đức. Ví như trì giới vậy. Đây nói rõ nghĩa gì? Như người trì giới đạt được thiện căn trì giới, Vô lượng sự khác nhau của tất cả pháp thiện, đều gọi là trì giới, mà ba nghiệp thân-miệngý đều được thành tựu, cũng gọi là trì giới. Vì sao? Vì nghiệp thân-miệng-ý làm căn bản cho các pháp thiện. Tâm sâu xa cũng vậy, lấy tất cả các thiện hạnh làm căn bản cho nhẫn Bồ đề Phật. Vì vậy trong kinh Lão Da Sơn Đảnh, “Thiên tử Nguyệt Tịnh Quang Đức hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: Tâm thanh tịnh và sâu xa của các Đại Bồ-tát lấy gì làm gốc? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi trả lời: Này Thiên tử! Tâm thanh tịnh sâu xa của các Đại Bồ-tát lấy tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác làm gốc”. Vì nghĩa đó cho nên trong kinh này đã nói đến tâm sâu xa.
Lấy tâm Bồ-đề làm gốc, như trong kinh Kim Cang Mật Tích đã nói.
Với công đức của tâm sâu xa, các Đại Bồ-tát không lừa dối thế gian, vậy cho nên nói đó là nhân Bồ-đề, cho nên biết như vậy.
Hỏi: Vì nghĩa gì mà có thể nói Bồ-tát đã thành tựu tâm sâu xa? Đáp: Vì tất cả pháp đối trị không thể lay chuyển được tâm sâu xa.
Đây nói rõ nghĩa gì? Nghĩa là mọi khổ não không thể lay chuyển được, và tất cả Bồ-tát đều mong cầu tâm Bồ-đề. Chính lúc đó, Bồ-tát có thể gọi là thành tựu tâm sâu xa, cho nên biết như vậy.
Thân khác của các Bồ-tát với tâm vui mừng, có sức hàng phục tâm vui mừng của tự thân. Câu này có nghĩa gì? Vì Bồ-tát đó tự cầu tâm vui mừng, để mang lại niềm vui cho người khác mà hàng phục tâm sâu xa. Lúc đó Bồ-tát có thể gọi là thành tựu tâm sâu xa, cho nên biết. Lại nữa, thành tựu tâm sâu xa bởi vì đạt đến nơi cuối cùng. Câu này nói về nghĩa gì? Vì dựa vào tâm sâu xa với pháp bậc thấp-vừa và cao theo thứ tự mà được tăng trưởng, cho đến hoàn toàn vững chắc, gọi là thành tựu tâm sâu xa, cho nên biết.
Thành tựu tâm sâu xa, bởi vì phát sinh tâm khó xả mà có thể xả. Câu này có nghĩa gì? Nếu các Bồtát tu hạnh bố thí mà lại khó thực hành bố thí, lúc này tâm sâu xa sẽ phát khởi tu hành với tâm bình đẳng thành tựu hạnh bố thí. Chính khi đó Bồ-tát được gọi là thành tựu tâm sâu xa, cho nên biết. Như trong kinh Thánh Giả Vô Tận Ý có nói: Vì Đầu-đà là việc làm rất khó xả mà có thể xả, thì gọi là thành tựu tâm sâu xa, nên biết.
Thành tựu tâm sâu xa là vì có khả năng hàng phục tâm keo kiệt, ganh ghét... Câu này có nghĩa gì? Vì các Bồ-tát đã hoàn toàn thành tựu tâm sâu xa, cho nên có khả năng hàng phục các pháp trái ngược với đạo Bồ-đề như tánh keo kiệt, ganh ghét... Lúc đó Bồ-tát gọi là thành tựu tâm sâu xa, cho nên biết. Như trong kinh Thánh Giả Vô Tận Ý có nói: Đại đức Xá-lợi-phất! Các Bồ-tát có tâm sâu xa, bởi vì tâm niệm ganh ghét đã hàng phục và giáo hóa chúng sinh keo kiệt, ganh ghét…” Như vậy gọi là thành tựu tâm sâu xa, cho nên biết.
Thành tựu tâm sâu xa, là vì nhân quả không cùng tận. Câu này có nghĩa gì? Vì nhân quả trong tâm sâu xa của các Bồ-tát là không cùng tận, chính lúc đó được gọi là Bồ-tát mềm mỏng, cho nên biết.
Nhân không cùng tận, là vì sự tu hành rộng lớn Vô lượng vô biên. Quả không cùng tận, là tất cả pháp Phật đều Vô lượng vô biên, không đoạn tuyệt với nhân của Tam bảo.
Trong kinh Vô Tận Ý có đoạn nói: “Bồ-tát, tu hành bố thí với tâm sâu xa... bởi vì Bồ-tát có thể xả thí tất cả vật cần dùng, đó gọi là Bồ-tát thành tựu tâm tu hành.
Lại nói: “Đại đức Xá-lợi-phất! Với mười lựcbốn pháp vô úy và mười tám pháp bất cộng của chư Phật Như Lai, nói gọn cho đến tất cả các pháp Phật đều không thể cùng tận, cho nên tâm sâu xa không thể cùng tận.” Bởi vì quả tu hành không thể cùng tận, cho nên nói Bồ-tát thành tựu tâm sâu xa. Thành tựu tâm sâu xa, là dựa vào kinh này nói, cho nên biết. Trong kinh này nói: “Này Di-lặc! Nếu Đại Bồ-tát nghe người nào ca ngợi Phật hay chê bai Phật, tâm Bồ-tát hoàn toàn vững chắc, không lay động đối với quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Như vậy, nếu nghe người nào ca ngợi Pháp-Tăng, hay chê bai Pháp-Tăng cũng lại như vậy.
Bồ-tát thấy biết như thật về mười hai nhân duyên như vậy, tức là biết Pháp thân của chư Phật Như Lai, thành tựu tâm kiên cố đối với Tam bảo. Bởi vì đạt được trí vô lậu, cho nên tâm hoàn toàn sâu xa. Tất cả ngoại đạo, các ma thù oán không thể làm cho lui bước, vì vậy Bồ-tát thành tựu tâm sâu xa.
Hỏi: Vì nghĩa gì mà trước hết nói về tâm sâu xa, sau đó nói về việc tu hành?
Đáp: Vì sự tu hành của Bồ-tát là nhân của trí chứng ngộ. Câu này có nghĩa gì? Tâm tu hành có khả năng làm nhân chứng ngộ cho tâm sâu xa. Khi tâm Đại Từ, Đại Bi khởi lên thì tâm này chính là tâm bảo vệ, duy trì phần vị Phật, cho nên biết như vậy.
Nhưng tâm sâu xa kia thì không thể trông thấy được, bởi vì dựa vào tâm sâu xa, các thức như nhãn nhĩ… ở trong cảnh giới không có thể phát khởi những tâm gây tổn hại, vì làm lợi ích cho người khác mà xa lìa những hành nghiệp như giết hại…, nêu rõ về tâm của Bồ-tát. Vì ý nghĩa này cho nên trước hết nói về tâm sâu xa, sau đó nói đến việc tu hành, cho nên biết.
Lại còn chỉ rõ nghĩa thứ tự. Câu này có nghĩa gì? Vì tất cả các pháp cần phải phát sinh theo thứ tự như vậy, cho nên trước nói về tâm sâu xa, sau nói đến việc tu hành.
Hỏi: Thế nào là nghĩa tu hành?
Đáp: Vì lợi ích của người khác mà phát sinh nghiệp của thân-miệng-ý với tâm niệm sâu xa không gây tổn hại nuôi dưỡng việc làm lợi mình và lợi người, đó gọi là tu hành.
Hỏi: Thế nào là Bồ-tát thành tựu việc tu hành? Đáp: Vì Bồ-tát không cùng chung với ngoại đạo, Thanh văn và Bích-chi-Phật. Câu này có nghĩa gì? Vì mong cầu khoái lạc thế gian mà các ngoại đạo tu tập nghiệp đạo thiện, vì tham đắm niềm vui và quả báo của thế gian mà tu tập các hạnh thành tựu quả báo thế gian. Bởi vì thành tựu quả báo thế gian cho nên họ không có thể thành tựu tu hành được. Lại nữa, vì Thanh văn và Bíchchi-Phật... đều mong cầu niềm vui Niết-bàn mà tu tập nghiệp đạo thiện, từ bỏ tâm Đại Bi cho nên chỉ thành tựu phần vị Niết-bàn Tiểu thừa. Đối với phần vị Bồ-tát, thì hàng Thanh văn kia không được gọi là thành tựu sự tu hành. Bồ-tát đã vượt lên trên tất cả thế gian, nhận thấy mọi lỗi lầm của các thế gian, thậm chí không đắm theo những quả báo yên vui của Chuyển luân Thánh vương. Tuy có khả năng chứng được Niết-bàn của Tiểu thừa, nhưng vì dựa vào tâm dũng mãnh Từ Bi vĩ đại, cho nên Bồ-tát từ bỏ niềm vui Niết-bàn mà mong cầu Bồđề Phật. Tu hành mười thiện nghiệp vì cứu độ tất cả các chúng sinh, thâu nhiếp những đại nguyện thù thắng, tâm Bồ-tát chỉ vì Nhất thiết chủng trí, lấy mười thiện nghiệp đạo cuối cùng, cho nên Bồtát không đồng với tất cả ngoại đạo, Thanh văn và Bích-chi-Phật... khi tu hành mười thiện nghiệp đạo. Vì vậy, gọi là thành tựu việc tu hành.
Thành tựu việc tu hành, là thọ trì và làm tăng thượng mười thiện nghiệp đạo. Câu này có nghĩa gì? Vì sự tu hành của Bồ-tát vượt lên trên mười thiện nghiệp đạo của Thanh văn và Bích-chiPhật... Vì vậy gọi là thành tựu sự tu hành.
Các Đại Bồ-tát có năm pháp hơn hẳn mười thiện nghiệp đạo của Thanh văn. Đó là:
1. Chuyên tâm tu hành.
2. Thường tu hành.
3. Tự thân được yên ổn.
4. Vì sự yên ổn cho thân người khác.
5. Khéo thanh tịnh.
Chuyên tâm tu hành là tâm hoàn toàn không xa lìa một vị. Thường tu hành là không đoạn tuyệt, không ngừng nghỉ. Vì sự yên ổn của tự thân, là tự thân đạt được sự yên ổn của trời-người và đại Bồđề. Vì sự yên ổn của thân người khác, là mang lại sự yên ổn tất cả chúng sinh, cuối cùng hồi hướng đại Bồ-đề, vì cứu giúp vô số chúng sinh vượt qua đau khổ.
Khéo thanh tịnh, là không phá, không nhắc nhở, không nhiễm ô, không bị lệ thuộc, khéo cứu cánh, không ăn, được người trí khen ngợi.
Phá, là một phần tu sửa-một phần không tu sửa, cho nên gọi là phá. Vì vậy Bồ-tát tu sửa đầy đủ, gọi là không phá.
Nhắc nhở, là chính mình không tu hành, không khuyên bảo người khác tu hành, cho nên gọi là nhắc nhở. Bồ-tát luôn tự mình tu hành cũng khuyên bảo người khác tu hành, cho nên gọi là không tra xét.
Nhiễm ô là chính mình không tu hành, không bày cho người khác tu hành, thấy người khác tu hành mà tâm tùy hỷ, cho nên gọi là nhiễm ô. Bồtát tu hành đầy đủ gọi là không nhiễm ô.
Lệ thuộc, là phải dựa vào trí của người khác mới có thể tu hành, cho nên gọi là lệ thuộc. Bồ-tát không dựa vào trí của người khác mà vẫn có thể tu hành, cho nên gọi là không bị lệ thuộc.
Khéo cứu cánh là tập trung nhớ nghĩ rốt ráo về tâm dục, tập trung nhớ nghĩ rốt ráo về tâm ái, tập trung nhớ nghĩ rốt ráo về tâm cung kính, tập trung nhớ nghĩ rốt ráo về tâm tin tưởng, tập trung nhớ nghĩ rốt ráo về tâm lo sợ, tập trung nhớ nghĩ rốt ráo về tâm vô thường. Vì nghĩa này cho nên gọi là khéo cứu cánh.
Ăn, là quay lại tướng về chọn lấy cái có, có tiền của giúp cho sự sống, cho nên gọi là ăn. Bồ-tát không chọn lấy cái có, cho nên gọi là không ăn.
Người trí không khen ngợi, là hồi hướng về thế gian trong thừa Thanh văn và Bích-chi-Phật, từ Đại thừa mà quay về thừa Thanh văn và Bích-chiPhật, gọi là điều mà người trí không ca ngợi. Bồtát không hồi hướng về thế gian trong thừa Thanh văn và Bích-chi-Phật, từ Đại thừa Bồ-tát không hồi hướng về thừa Thanh văn và Bích-chi-Phật.
Như vậy gọi là người trí ngợi khen.
Thành tựu sự tu hành, là vượt ra ngoài tất cả các thế gian. Câu này có nghĩa gì? Có nghĩa là các Bồ-tát tu hành mười thiện nghiệp đạo, hơn hẳn các thế gian, vì vậy gọi là thành tựu sự tu hành, cho nên biết như vậy.
Bồ-tát có năm pháp để tu hành mười thiện nghiệp đạo, có thể vượt lên trên tất cả thế gian:
1. Nguyện.
2. Yên ổn.
3. Tâm sâu xa.
4. Khéo thanh tịnh.
5. Phương tiện.
Nguyện, là mọi sự phát nguyện của Đại Bồ-tát thì tất cả phàm phu, Thanh văn và Bích-chi-Phật đều không thể phát nguyện như vậy. Bởi vì Bồ-tát dựa vào lời phát nguyện tu hành mười thiện nghiệp đạo thì có khả năng vượt qua tất cả thế gian, như trong kinh của Đại thừa, kinh Vô Cấu Đức Nữ Sở Thuyết có nói: “Này Tôn giả Mục-kiền-liên! Các Đại Bồ-tát từ lúc mới phát tâm cho đến khi ngồi đạo tràng thường vì tất cả thế gian trời-người mà làm ruộng phước, hơn hẳn các Thanh văn và Bíchchi-Phật.”
Yên ổn, là bởi vì các Bồ-tát tuy bị sự bức não vì khổ đau vô cùng, sâu nặng của tất cả thế gian mà không có thể thay đổi, vẫn giữ lấy tâm cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho nên Bồ-tát chuyên tâm tu hành mười thiện nghiệp đạo. Bồ-tát dựa vào tâm yên ổn mà tu hành mười thiện nghiệp đạo, thì có khả năng vượt qua khỏi tất cả thế gian.
Tâm sâu xa là do sự tu hành tối thắng, bởi vì các Bồ-tát với tâm yêu thương chúng sinh rất sâu sắc mà tu hành mười thiện nghiệp đạo. Bồ-tát dựa vào tâm sâu xa mà tu hành mười thiện nghiệp đạo, thì có khả năng vượt ra ngoài tất cả thế gian.
Thanh tịnh là từ địa thứ hai trở lên thì gọi Bồtát thanh tịnh. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát có ba loại thanh tịnh để tu hành mười thiện nghiệp đạo. Bồtát dựa vào sự thanh tịnh mà tu hành mười thiện nghiệp đạo, thì có khả năng vượt ra ngoài tất cả thế gian.
Phương tiện, là Bồ-tát ở trong pháp như thế nào, dùng phương tiện như thế nào mà tu hành mười thiện nghiệp đạo? Bồ-tát có đủ phương tiện, còn chúng sinh thế gian đều không có phương tiện như vậy. Bồ-tát dựa vào năng lực phương tiện mà tu hành mười thiện nghiệp đạo, thì có khả năng vượt ra ngoài tất cả thế gian.
Thành tựu sự tu hành là do thời gian... Vô lượng. Câu này có nghĩa gì? Vì các Bồ-tát đã sống trong Vô lượng kiếp, đã tu hành mười thiện nghiệp đạo và Vô lượng hạnh... vì vậy Bồ-tát thành tựu việc tu hành.
Các Bồ-tát lại có năm pháp mà tu hành Vô lượng mười thiện nghiệp đạo. Đó là:
1. Vô lượng đời.
2. Vô lượng pháp thiện.
3. Vô lượng quán.
4. Vô lượng tận.
5. Vô lượng hồi hướng.
Vô lượng đời là vì các Bồ-tát đã trải qua Vô lượng đời tu hành mười thiện nghiệp đạo, vì vậy Bồ-tát đã tu hành mười thiện nghiệp đạo trong Vô lượng thời gian.
Vô lượng pháp thiện, là vì các Bồ-tát tu hành Vô lượng pháp thiện, vì pháp thiện kia là Vô lượng, cho nên Bồ-tát đã khởi sự tu hành Vô lượng nghiệp đạo thiện. Như trong kinh Như Lai Thanh Tịnh Tỳ Ni Đại Thừa có nói: “Này Ca-diếp! Như trong bốn biển rộng chứa đầy sữa tươi, đủ dùng cho tất cả chúng sinh. Đại Bồ-tát tu tập tất cả thiện căn hữu vi cũng lại như vậy. Bởi vì các Bồ-tát hồi hướng chọn lấy trí vô lậu ấy, có năng lực giúp cho tất cả chúng sinh được sử dụng”.
Các Bồ-tát hồi hướng đều nhận lấy trí vô lậu kia để có thể cùng với chúng sinh mà thọ dụng.
Vô lượng quán sát là vì Vô lượng chúng sinh mà quán sát, các Bồ-tát không phải vì chúng sinh có số lượng mà tu hành mười thiện nghiệp đạo, không dấy lên ý niệm như vậy. Mình vì bao nhiêu chúng sinh mà tu tập thiện căn, hay không vì bao nhiêu chúng sinh mà tu tập thiện căn. Vì các Bồtát đều quán tất cả chúng sinh để tu tập thiện căn, cho nên Bồ-tát được Vô lượng thiện nghiệp.
Vô lượng tận, như trong kinh Như Lai Thanh Tịnh Tỳ Ni có nói: “Này các Thiên tử! Ví như Trưởng giả có Vô lượng của cải, là người Đại Xả, là người thực hành tâm Đại Từ, là người thực hành tâm Đại Bi, là người chủ buôn vĩ đại, vì thương xót tất cả các chúng sinh mà làm người tu hành với tâm không thối chuyển, khởi tâm như vậy: Mình có thể ban cho tất cả chúng sinh kia Vô lượng vô biên niềm vui yên ổn.
Này các Thiên tử! Đại Bồ-tát cũng lại như vậy. Bởi vì trú trong tâm sâu xa làm cho các chúng sinh được trú trong tâm yên ổn mà phát khởi tâm đại tinh tiến và tư duy như vậy: Mình nên giáo hóa Vô lượng vô biên chúng sinh đang bị khổ não, đều được an lành trong niềm vui của cảnh Niết-bàn. Vì vậy Bồ-tát tu hành Vô lượng tận.
Vô lượng hồi hướng, là như trong địa thứ nhất phát khởi Vô lượng nguyện hạnh gồm mười câu cùng tận, Bồ-tát đã dùng mười câu cùng tận Vô lượng đó để tu hành mười thiện nghiệp đạo, cũng lại Vô lượng. Vì do dựa vào hồi hướng Vô lượng trước đây, cho nên Đại Bồ-tát tu hành tất cả nghiệp đạo thiện và kết quả cũng lại Vô lượng, đó gọi là Vô lượng hồi hướng. Thành tựu sự tu hành là vì chân thật. Câu này có nghĩa gì? Vì các Đại Bồ-tát đã tu hành chân thật và hy hữu đối với mười thiện nghiệp đạo, vì vậy Bồ-tát thành tựu sự tu hành. Bồtát có năm pháp thành tựu hiếm có:
1. Phát tâm dũng mãnh vĩ đại.
2. Tinh tiến.
3. Kiên cố.
4. Tuệ.
5. Kết quả.
Phát tâm dũng mãnh vĩ đại là; Phát tâm có thể đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Giả sử có người hoặc dùng ngón tay kẹp chặt, hoặc một lóng tay, có thể nâng ba ngàn đại thiên thế giới đứng vững trải qua Vô lượng kiếp, thì việc này không phải là khó. Phát tâm có thể đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì việc này thật là khó. Vì vậy Bồ-tát tu hành nghiệp đạo thiện là sự thành tựu hiếm có.
Tinh tiến Bồ-tát dấy lên tư duy như vậy: Chúng sinh có thể phát tâm dũng mãnh vĩ đại, chịu khó tinh tiến Vô lượng vô biên thì vẫn còn ít không đáng nói đến, nếu người nào có khả năng tinh tiến mong cầu Bồ-đề thì thật là hiếm có. Vì vậy nếu Bồ-tát muốn cầu Vô lượng công đức hiếm có bậc nhất, thì dựa vào sự tinh tiến vĩ đại mà tu tập nghiệp đạo thiện, cho nên Bồ-tát tu hành nghiệp đạo thiện là sự thành tựu hiếm có.
Kiên cố, là vì các Bồ-tát phát tâm đại tinh tiến mà tu hành nghiệp đạo thiện, trú trong năng lực kiên cố hiếm có bậc nhất, có thể tiến đến tận cùng của sự tinh tiến. Vì vậy Bồ-tát tu hành nghiệp đạo thiện là sự thành tựu hiếm có.
Tuệ Bồ-tát dấy lên tư duy như vậy: Các pháp dũng mãnh-tinh tiến và kiên cố... đều dựa vào căn bản của Bát-nhã mà có được, vì vậy Bát-nhã là pháp hy hữu. Tại sao? Vì dựa vào Bát-nhã mà có được sự dũng mãnh, tinh tiến và kiên cố, cho nên Bồ-tát tư duy như vậy: “Mình dựa vào pháp Bát-nhã hiếm có để tu hành nghiệp đạo thiện”. Vì thế Bồ-tát thành tựu tâm Bát-nhã.
Kết quả, bởi vì dựa vào sự tu hành nghiệp đạo thiện... mà có thể sinh ra kết quả, chứng được Vô lượng vô biên tất cả pháp Phật. Vì vậy nói Bồ-tát thành tựu pháp hiếm có.
Lại nữa, thành tựu tu hành là do phương tiện thâu nhiếp. Câu này có nghĩa gì? Vì các Bồ-tát dựa vào sức mạnh của phương tiện mà thâu nhiếp hết thảy, bởi vì, việc tu hành nghiệp đạo thiện không giống với sự tu hành nghiệp đạo thiện của Thanh văn và Bích-chi-Phật. Vì vậy Bồ-tát thành tựu sự tu hành.
Bồ-tát có năm pháp thâu nhiếp phương tiện, nên biết! Đó là:
1. Trí thời gian-nơi chốn.
2. Trí quay lại hòa nhập.
3. Trí hòa hợp.
4. Trí vừa ý.
5. Trí thứ tự.
Trí thời gian-nơi chốn, là theo thời gian như thế nào nên nói pháp như vậy, theo nơi chốn như thế nào nên nói pháp như vậy. Tuy theo thời gian như thế nào nên giáo hóa chúng sinh như vậy, tùy theo nơi chốn như thế nào nên giáo hóa chúng sinh như vậy. Bồ-tát đều nhận biết như thật về tất cả việc đó, dùng trí theo thời gian như vậy, nơi chốn như vậy, giáo hóa chúng sinh như vậy và như vậy, đó gọi là trí thời gian-nơi chốn.
Trí quay lại hòa nhập là Bồ-tát đã biết như thật về tất cả chúng sinh ở trong pháp ngoại đạo thích hợp quay lại như vậy, nhận biết như thật ở trong pháp Phật phải hòa nhập như vậy.
Biết như thật về quay lại như vậy, biết như thật về sự thiết lập trong niềm an lạc, biết như thật về thiết lập trong pháp Phật như vậy không còn quay lại chọn lấy pháp của ngoại đạo, nơi ấy không phải là quán mười hai nhân duyên mà là quán về sự quay lại, đó gọi là trí quay lại hòa nhập.
Trí hòa hợp là tùy theo các chúng sinh dùng những pháp môn như thế nào và thế nào dễ dàng phù hợp với nhau. Bồ-tát nhận biết những pháp môn ấy, dựa vào những pháp môn ấy phù hợp với những chúng sinh ấy, như niềm tin-như năng lực và như phần giáo hóa, đó gọi là trí hòa hợp.
Trí vừa ý là Bồ-tát nhận biết ý định của chúng sinh, nhận biết niềm tin của chúng sinh, nhận biết mong cầu của chúng sinh. Nhận biết chúng sinh như vậy Bồ-tát tiến vào việc tu hành của chúng sinh, hòa nhập niềm tin, hòa nhập mong cầu, hòa nhập với mọi ngôn ngữ. Tùy thuận với chúng sinh cho nên Bồ-tát phát khởi sự nghiệp có thể giáo hóa, phát khởi không quay lại như vậy, đó gọi là trí vừa ý.
Trí thứ tự, là Bồ-tát biết nghiệp của chúng sinh, theo thứ tự mà hiểu-lần lượt mà hiểu, đó là trong thừa Thanh văn thì nói đến quả báo của bố thí-trì giới sẽ sinh vào hàng trời người, nói đến lỗi lầm của các ham muốn, nói đến lỗi lầm nhiễm trước của đời sống tại gia, nói đến lợi ích của đời sống xuất gia…
Lại nói đến khổ-tập-diệt-đạo, tiếp đến nói về phần vị của Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, tiếp đến nói về sự giải thoát không thể hủy hoại tiếp đến nói về sự vô ngại. Ở trong thừa Bích-chi-Phật nói đến lỗi lầm của sự tích trữ và lợi ích của sự phân chia sử dụng, nói đến lỗi lầm của tại gia và lợi ích của xuất gia, nói đến lỗi lầm của hý luận và lợi ích của của vắng lặng, nói đến lỗi lầm của tụ lạc và lợi ích của A-lan-nhã, nói đến lỗi lầm của nhiều ham muốn-không biết vừa đủ và lợi ích của ít hàm muốn-biết vừa đủ. Nói đến sự phòng hộ các căn môn, biết hạn lượng đối với ăn uống từ đầu hôm cho đến rạng sáng hôm sau luôn tinh tiến siêng năng tu hành. Nói đến lỗi lầm của sự nhớ nghĩ tưởng tượng trong pháp quán sát, thích chốn trống trải nhàn nhã. Nói đến sự tôn trọng giới cấm, tôn trọng Tam-muội, và tôn trọng Bát-nhã, không bị quở trách hay ca ngợi về lợi ích riêng mình, khen ngợi pháp sâu xa, không phải người khác biết được…
Ở trong pháp Đại thừa, theo thứ tự giải thích (Ưu-ba-đề-xá) về bố thí-trì giới-nhẫn nhục-tinh tiến, thiền định và trí tuệ, tiếp đến nói về Thật, Xả, Tuệ Diệt. Đó gọi là trí thứ tự.
Lại nói về sự thành tựu tu hành, là phát tâm Bồ đề nói mười câu về nguyện mười câu về Tâm. Mười câu về xa lìa pháp thối chuyển tu hành theo pháp không thối chuyển, ca ngợi tinh tiến kiên cố, ca ngợi tâm kiên cố, ca ngợi trí an trú, đó gọi là Bồ-tát thành tựu sự tu hành.
Thành tựu tu hành là khen ngợi pháp an trú của địa, khen ngợi pháp luôn luôn cứu cánh của địa, nói sâu vào pháp lui sụt của địa, ca ngợi về pháp thanh tịnh của địa, ca ngợi về pháp có thể tiến lên của địa ca ngợi về pháp có thể đạt được trong thời gian an trú của địa. Nói về pháp lui sụt của địa ca ngợi về pháp đắc quả của địa ca ngợi về pháp đắc quả nhờ tập khí của địa. Đó gọi là Bồ-tát thành tựu sự tu hành.
Thành tựu tu hành, là nói về các địa, đó là địa Hoan hỷ, địa Ly cấu, địa Minh, địa Diệm, địa Nan thắng, địa Hiện tiền, địa Viễn hành, địa Bất động, địa Thiện tuệ và địa Pháp vân. Đó gọi là Bồ-tát thành tựu sự tu hành.
Thành tựu tu hành, là bởi vì các Bồ-tát với tâm sâu xa thâu nhiếp các pháp mầu nhiệm tốt đẹp. Đây nói rõ về nghĩa gì? Với tâm sâu xa của Bồ-tát thâu nhiếp các pháp thù thắng vì không đoạn tuyệt Tam bảo, vì giáo hóa chúng sinh mà thực hành hạnh Bồ-đề, vì Nhất thiết chủng trí mà tu tập nghiệp đạo thiện. Vì vậy Bồ-tát thành tựu sự tu hành với thiện nghiệp đạo.
Bồ-tát có năm pháp thâu nhiếp các pháp thù thắng. Đó là:
1. Vì muốn đền đáp công ơn của chư Phật.
2. Vì chính mình cho nên khiến diệu pháp thường trú.
3. Cúng dường chư Phật.
4. Vì muốn làm lợi ích cho Vô lượng chúng sinh.
5. Vì khó được pháp mầu nhiệm.
Pháp ấy lại có năm pháp cho nên gọi là thâu nhiếp pháp diệu.
Đó là:
1. Tự mình tu hành đúng như thật.
2. Dạy cho người khác tu hành đúng như thật.
3. Hàng phục sự phá hoại ác độc của các ma.
4. Từ bỏ A-ba-đề-xá bất thiện.
5. Thâu nhiếp Đại A-ba-đề-xá.
Này các Tỳ-kheo! Đó gọi là Bồ-tát thành tựu sự tu hành.
Lại nữa, thành tựu tu hành, bởi vì đã tạo ra nghiệp không thể chê bai quở trách. Đây nói rõ nghĩa gì? Vì mọi việc mà các Bồ-tát làm là duy trì vững chắc sự tu hành nghiệp đạo thiện... đều không thể chê bai quở trách. Đó gọi là Bồ-tát thành tựu sự tu hành.
Có năm pháp giúp cho các nghiệp thành tựu không thể chê trách. Đó là:
1. Làm những điều gì thì có thể thành tựu tất cả.
2. Có thể đạt được quả to lớn.
3. Không trái với pháp thiện.
4. Tùy thuận pháp thanh tịnh.
5. Đức hạnh xứng với danh tiếng. Đó gọi là
Bồ-tát thành tựu sự tu hành.
Thành tựu tu hành là phát khởi mọi việc tu hành thanh tịnh. Câu này có nghĩa gì? Vì các Bồtát đã thực hiện tất cả mười thiện nghiệp đạo thanh tịnh. Đó gọi là Bồ-tát thành tựu sự tu hành. Như trong kinh Thập Địa có nói: “Bồ-tát này lại tư duy sâu xa: Thực hành mười bất thiện nghiệp đạo, các nhân duyên sẽ tích tập lại, thì rơi vào các cõi địa ngục-súc sinh và ngạ quỷ. Thực hành mười thiện nghiệp đạo, các nhân duyên sẽ tích tập lại, thì sinh trong loài người, cho đến sinh lên cõi trời Hữu Đảnh”. Lại nữa, mười thiện nghiệp đạo trên đây được hòa hợp với tất cả các trí tuệ quán sát, nhưng vì tu hành với tâm niệm hẹp hòi, nhàm chán, sợ ba cõi, xa lìa tâm Đại Bi, theo người khác nghe tiếng mà thông đạt. Do nghe tiếng và ý nhận hiểu mà thành tựu thừa Thanh văn”.
Lại nữa, mười thiện nghiệp đạo thanh tịnh trên đây là không nghe theo người khác mà tự mình biết, rồi không có đủ phương tiện của tâm Đại Bi mà có thể thông đạt pháp nhân duyên sâu xa, cho nên thành tựu thừa Bích-chi-Phật.
Lại nữa, trên mười thiện nghiệp đạo thanh tịnh đầy đủ với tâm Bồ-tát rộng lớn Vô lượng, vì các chúng sinh mà khởi tâm thương xót, dùng phương tiện thâu nhiếp khéo phát thệ nguyện rộng lớn, không bỏ rơi tất cả chúng sinh, quán sát trí Phật rộng lớn, địa thanh tịnh của Bồ-tát, thanh tịnh Ba-la-mật, ngộ nhập hạnh sâu rộng. Lại nữa, trên mười thiện nghiệp đạo là tất cả mười lực thanh tịnh, là tích tập tất cả pháp Phật làm cho được thành tựu. Vì vậy mình phải bình đẳng thực hành mười thiện nghiệp đạo, tu hành với tất cả chủng loại, làm cho chúng sinh được thanh tịnh đầy đủ. Đó gọi là Bồ-tát thành tựu sự tu hành.
Thành tựu tu hành bởi vì lợi ích cho tất cả chúng sinh mà tu hành mười thiện nghiệp đạo. Câu này có nghĩa gì? Bởi vì các Bồ-tát không đắm theo niềm vui của mình tu hành mười thiện nghiệp đạo làm lợi ích cho chúng sinh mình có thể làm lợi ích cho chúng sinh, vì tâm Từ Bi chứ không phải chỉ vì lợi ích của mình có thể làm lợi ích cho mình rồi lại có thể khiến cho người khác trú trong mười thiện nghiệp đạo. Vì vậy Bồ-tát thành tựu sự tu hành. Chính vì nghĩa này cho nên trong kinh Thập Địa đã nói: “Vì vậy mình nên trước tiên an trú trong pháp thiện, cũng khiến cho người khác trú trong pháp thiện”. Cho nên thành tựu sự tu hành.
Lại như trong kinh Thập Địa nói: “Bồ-tát lại phải ở trong tất cả chúng sinh, phát sinh tâm yên ổn, tâm mềm mỏng, tâm Từ Bi, tâm thương xót, tâm lợi ích, tâm giữ gìn bảo vệ, tâm ngã, tâm bình đẳng, tâm sư, tâm Thế Tôn. Bồ-tát lại suy nghĩ như vậy: Những chúng sinh này rơi vào tà kiến, nghĩ ác và tâm niệm độc ác, họ đi lạc vào rừng rậm của đường ác, mình cần phải khiến cho những chúng sinh đó đi theo con đường chân thật, an trú trong pháp như thật của đạo lý chánh kiến…”. Vì vậy gọi là thành tựu sự tu hành.
Thành tựu tu hành, là tu hành thiện nghiệp đạo đến cuối cùng không cùng tận. Câu này có nghĩa gì? Các Bồ-tát vì không đoạn tuyệt Tam bảo mà tu hành không gián đoạn, thường tu hành nghiệp đạo thiện không cùng tận, cho nên gọi là thành tựu sự tu hành. Như trong kinh Vô Tận Ý nói: Này Đại đức Xá-lợi-phất! Trì giới Ba-la-mật đối với các Đại Bồ-tát là không cùng tận, vì thường xuyên tu hành. Vì sao? Vì giới pháp của phàm phu là thuộc về sự thọ sinh, cho nên có tận cùng, vì vậy mười điều thiện trong loài người cùng tận mà có cùng tận. Phước báo và công đức của các loài trời ở cõi Dục cùng tận mà có cùng tận. Các loài trời ở cõi Sắc bởi vì Vô lượng thiền cùng tận mà có cùng tận. Trời ở cõi Vô sắc vì chọn lấy chứng nhập các định cùng tận mà có cùng tận. Tiên nhân và ngoại đạo vốn có các giới lui mất thần thông, cùng tận mà có cùng tận. Tất cả giới học-vô học của Thanh văn vì chứng nhập giới hạn cùng tận của Niết-bàn mà có cùng tận. Giới của Bích-chi-Phật không có tâm Bi vĩ đại cùng tận mà có cùng tận.
Này Xá-lợi-phất! Giới thanh tịnh của Bồ-tát đều không có cùng tận. Vì sao? Vì giới Bồ-tát vượt ra ngoài tất cả các giới, như gieo trồng không thể tận thì kết quả cũng không cùng tận. Vì chủng tử Bồ-đề không thể cùng tận, cho nên giới cấm của Như Lai cũng không có cùng tận.
Thành tựu tu hành là xa lìa cấu trước của phiền não kiến. Câu này có nghĩa gì? Vì mười thiện nghiệp đạo của các Bồ-tát rời xa vết bẩn của ngã kiến, lúc đó gọi là nghiệp đạo thanh tịnh, vì vậy
Bồ-tát thành tựu sự tu hành, chính trong kinh kia nói: “Giới thanh tịnh có nghĩa là không hý luận chấp trước ngã tướng…” vì vậy gọi là thành tựu sự tu hành.
Thành tựu tu hành, là thành tựu tất cả các loại thanh tịnh. Câu này có nghĩa gì? Vì các Bồ-tát tu hành tất cả chủng loại, tất cả quyến thuộc thanh tịnh của mười thiện nghiệp đạo. Lúc đó, Bồ-tát gọi là thành tựu sự tu hành mười thiện nghiệp đạo, cho nên biết. Như trong kinh Vô Tận Ý nói: “Chỉ có Xá-lợi-phất là giữ các giới Bồ-tát với sáu mươi sáu điều thanh tịnh, sự tu sửa cũng không thể cùng tận.
Sáu mươi sáu điều ấy là:
1. Đối với chúng sinh khác, không khởi tâm.
2. Đối với tài vật của người khác, không sinh tâm trộm cắp.
3. Đối với vợ và con gái của người khác, tuyệt đối không nhìn với ý bất chính.
4. Không lừa dối đối với mọi chúng sinh.
5. Đầu tiên là không nói hai lời, biết dừng đúng lúc đối với quyến thuộc của mình.
6. Không nói lời thô ác mà nhẫn nhịn với hạng lỗ mãng.
7. Không nói lời thêu dệt mà thường xuyên nói khéo léo.
8. Đối với niềm vui của người khác không tham lam-ganh ghét.
9. Đầu tiên là không giận dữ, mà nhẫn nhục với lời nói hung dữ.
10.Chánh kiến không tà vạy như các đạo khác.
11.Tin tưởng sâu xa đối với Phật vì tâm không cấu trược.
12.Tin tưởng tùy thuận đối với pháp vì các pháp đều là pháp thiện.
13.Tin tưởng cung kính đối với Tăng vì tôn trọng Thánh chúng.
14.Rạp lạy sát đất vì chí thành nghĩ đến Phật.
15.Rạp lạy sát đất vì nhớ nghĩ chánh pháp.
16.Năm chi thể dập sát đất vì tôn kính Tăng.
17.Kiên quyết giữ gìn giới cấm tất cả không vi phạm, cho đến giới cấm nhỏ cũng không buông bỏ.
18.Giữ giới không thiếu sót vì không dựa vào thừa khác.
19.Giữ giới không xuyên thủng vì xa lìa điều ác phát sinh.
20.Giữ gìn không sai lầm vì không lẫn tạp các kiết sử.
21.Giữ giới không nhiễm ô vì chuyên chú tăng trưởng pháp thiện.
22.Giữ gìn sâu xa này vì tùy ý hồi hướng được Tự Tại.
23.Giữ gìn ca ngợi vì người trí không quở trách.
24.Giữ giới thuần thiện vì biết chánh niệm.
25.Giữ giới không bị quở trách vì tất cả các giới không tản mất.
26.Giữ giới tốt lành và vững chắc vì ngăn giữ các căn.
27.Giữ giới nổi tiếng vì được chư Phật nghĩ đến.
28.Giữ giới biết vừa đủ vì không có gì không chán ngán.
29.Giữ giới ít ham muốn vì đoạn tuyệt sự tham lam và luyến tiếc.
30.Giữ giới tánh thanh tịnh vì thân tâm tịch diệt.
31.Giữ giới A-lan-nhã vì xa lìa ồn ào náo nhiệt.
32.Giữ giới duy trì chủng tử của Thánh vì không mong cầu ý niệm nào khác.
33.Giữ giới oai nghi vì tất cả thiện căn được Tự Tại.
34.Giữ giới đúng lời Phật đã nói vì mọi người đều hoan hỷ.
35.Giữ giới tâm Từ vì bảo vệ chúng sinh.
36.Giữ giới tâm Bi vì có thể chịu đựng mọi thống khổ.
37.Giữ giới tâm Hỷ vì không lười biếng.
38.Giữ giới tâm Xả vì xa lìa sự yêu mến-giận dữ.
39.Giữ giới tự tỉnh biết vì tâm khéo phân biệt.
40.Giữ giới vì không tìm tòi, khuyết điểm của mọi người vì gìn giữ tâm của người khác.
41.Giữ giới khéo thâu nhiếp vì khéo giữ gìn.
42.Giữ giới tuệ thí vì giáo hóa chúng sinh.
43.Giữ giới nhẫn nhục vì tâm không giận dữ làm trở ngại.
44.Giữ giới tinh tiến vì không lui sụt trở lại.
45.Giữ giới thiền định vì nuôi lớn các chi thiền định.
46.Giữ giới trí tuệ vì thiện căn đa văn không biết chán đủ.
47.Giữ giới đa văn vì sự học rộng vững chắc.
48.Giữ giới thân cận thiện tri thức vì hỗ trợ thành tựu Bồ-đề.
49.Giữ giới xa rời ác tri thức vì xa lìa con đường ác.
50.Giữ giới không tiếc thân vì quán sát tướng vô thường.
51.Giữ giới không tiếc mạng vì năng tu hành thiện căn.
52.Giữ giới không hối tiếc vì tâm thanh tịnh.
53.Giữ giới không sống bất chánh vì tâm niệm và hành động đều thanh tịnh.
54.Giữ giới không lo buồn vì hoàn cảnh thanh tịnh.
55.Giữ giới không đốt cháy vì tu hành nghiệp thiện.
56.Giữ giới không ngạo mạn vì tâm hạ mình khiêm tốn không kiêu căng.
57.Giữ giới không dâm vì xa lìa mọi dục vọng.
58.Giữ giới không tự cao vì tâm bình đẳng ngay thẳng.
59.Giữ giới nhu hòa vì không xúc phạm đến người khác.
60.Giữ giới điều phục vì không não hại đến người.
61.Giữ giới tịch diệt vì tâm không cấu uế.
62.Giữ giới với lời lẽ hòa thuận vì thực hành như lời nói.
63.Giữ giới giáo hóa chúng sinh vì không xa lìa nhiếp nháp.
64.Giữ giới để bảo vệ chánh pháp vì không trái với như thật.
65.Giữ giới thành tựu đúng như bài tụng vì tâm bình đẳng đối với các chúng sinh
66.Giữ giới thân cận Đức Phật vì tiến vào Tam-muội đầy đủ tất cả pháp của chư Phật”. Vì vậy gọi là thành tựu sự tu hành.
Thành tựu tu hành, là bởi vì thành tựu quả vị không cùng chung. Đây là nói rõ nghĩa gì? Vì các Bồ-tát thành tựu tu hành thì mười thiện nghiệp đạo thâu nhiếp tâm Bồ-đề. Vì nghĩa này cho nên khi Bồ-tát chứng được Bồ-đề thì trở thành phần vị không chung. Vì vậy gọi là thành tựu sự tu hành, cho nên biết. Như trong kinh Thánh Giả Sa Lão La Long Vương nói: “Này Long vương! Người nào xa rời sự giết hại chúng sinh có được mười pháp thanh tịnh, xa lìa sát sinh thì tất cả thiện căn đều hồi hướng phần vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Khi người đó chứng được Bồ-đề thì tâm Tự Tại và cảm được thọ mạng Vô lượng...”
Hỏi: Cho nên nói về nghĩa nghiệp đạo. Thế nào là nghĩa nghiệp đạo?
Đáp: Thứ tự sẽ nói, nói như thế nào? Vì tạo tác, cho nên gọi là tướng của nghiệp, ngay nơi nghiệp gọi là đạo, là con đường có thể dẫn tới địa ngục, cho nên gọi là nghiệp đạo. Bảy nghiệp của thânmiệng tức là tướng của tự Thể, gọi là nghiệp đạo. Ba nghiệp còn lại là ý thức tương ưng với tâm. Chính những nghiệp đó có thể làm con đường cho nên gọi là nghiệp đạo. Câu này có nghĩa gì? Chỉ có tâm là nghiệp, bảy nghiệp của tâm đó phát sinh cùng một lúc gọi là đạo. Ba nghiệp còn lại cùng tương ưng cho nên gọi là nghiệp đạo.
Hỏi: Nếu chính nghiệp gọi là đạo, thì tất cả nghiệp có thể dẫn đến địa ngục... vì sao ba nghiệp còn lại chẳng phải là nghiệp đạo?
Đáp: Với bảy nghiệp kia, thì ba nghiệp này có thể làm căn bản cho bảy nghiệp kia, vì tương ưng với nhau, mà không có thể như nghiệp kia cho nên không gọi là nghiệp đạo.
Hỏi: Tất cả các hành ác như mùi vị ngon, uống rượu, ăn thịt, vung tay đánh đập, cười cợt đùa giỡn như vậy... Tất cả các hành thiện như cử chỉ lễ bái, cúng dường, cung kính, từ bỏ việc uống rượu như vậy... vì sao không cho là nghiệp đạo?
Đáp: Xa lìa hành động uống rượu... chỉ là nghiệp của tâm, mà nghiệp của tâm thì có thể phát sinh bảy nghiệp hành động không phải là nghiệp của thân và miệng, cho nên không phải là nghiệp đạo. Ngược lại, nếu tạo ra nghiệp tương ưng với tâm thì cũng là nghiệp đạo.
Hỏi: Nếu những nghiệp đó có thể tạo ra đạo cho nên gọi là nghiệp đạo, thì tướng như vậy cũng giúp hiểu là nghiệp đạo. Tất cả pháp đối với tâm đều phải gọi là nghiệp đạo. Nếu vậy thì vì sao chỉ nói mười loại nghiệp đạo, mà không nói là Vô lượng đạo nghiệp?
Đáp: Vì chú trọng điều hơn hẳn. Câu này có nghĩa gì? Vì mọi hành vi ác hay thiện trong mười nghiệp đạo là rất quan trọng, còn mọi hành động khác không phải là quan trọng, cho nên không thể nói là Vô lượng.
Hỏi: Nghĩa này không đúng. Vì sao? Bởi vì nghiệp là bất định. Câu này có nghĩa gì? Vì phương tiện có xa gần là quan trọng, còn chính nghiệp thì không quan trọng, vì vậy không đồng ý chỉ nói mười nghiệp là nghiệp đạo, mà không nói là Vô lượng.
Đáp: Nghĩa này không phải vậy. Vì sao? Vì mười nghiệp đa số là quan trọng, còn phương tiện gần, xa đa phần đều xem nhẹ. Hầu hết chúng sinh ở thế gian đều sợ mười nghiệp, chứ không sợ phương tiện gần xa. Hơn nữa, mười nghiệp đạo có thể gây ra sự bức bách khổ não sâu nặng, còn những nghiệp khác thì không thể. Vì vậy ông nói nghiệp là bất định, thì nghĩa này cũng đã giải đáp rồi. Vả lại trước đây ông nói: Tất cả pháp đối với tâm đều phải gọi là nghiệp đạo. Nghĩa này không phải vậy? Vì sao? Vì bảy nghiệp luôn luôn rất quan trọng, ba nghiệp của ý thức thì cũng nhẹ-cũng nặng, uống rượu... thì không như vậy. Vì nghĩa này cho nên chỉ nói mười nghiệp kia gọi là nghiệp đạo mà không nói các nghiệp khác gọi là nghiệp đạo.
Hỏi: Nói từ bỏ sự giết hại chúng sinh, nên nói về những tướng của sự giết hại chúng sinh...?
Đáp: Giết hại chúng sinh có tám cách:
1. Tâm cố tình.
2. Người khác.
3. Tướng của chúng sinh quyết định hay không quyết định.
4. Tâm ngờ vực.
5. Phát sinh phương tiện hủy bỏ mạng sống.
6. Hành vi gây tạo.
7. Tướng không trực tiếp gây tạo.
8. Tướng hoàn toàn không tạo. Những tướng này gọi là nghiệp của thân giết hại chúng sinh. Nghiệp của thân-miệng-ý gọi là sát sinh, bởi vì tâm cố tình.
Hỏi: Có người nói, tâm không tạo ra nghiệp sát sinh mà trở thành tội sát sinh, như chạm vào lửa. Câu này có nghĩa gì? Như lửa có thể đốt cháy, nếu cố tâm hay không cố tâm tiếp xúc thì đều có thể bị đốt cháy. Giết hại chúng sinh cũng vậy, hoặc cố tâm giết hại hay không cố tâm giết hại, đều mắc phải tội báo sát sinh?
Đáp: Không phải thế. Vì sao? Nếu không cố tâm giết hại mà mắc phải tội báo thì A-la-hán không chứng Niết-bàn. Điều này có nghĩa gì? Vì A-la-hán đoạn tuyệt nhân của thế gian. Có tâm không gây tạo nên nghiệp mà giết hại chúng sinh, như vậy cũng phải sinh trở lại trong thế gian, nhưng thật ra không phải thế. Vì nghĩa này, cho nên không cố tâm giết hại thì không mắc phải tội báo. Vả lại, nói như lửa thì nghĩa đó không đúng. Vì sao? Vì trong nghiệp ác không có tâm ác ngăn cách. Câu đó có nghĩa gì? Giống như lửa kia, củi và than đều ngăn cách tiếp xúc mà không đốt cháy. Như vậy trong nghiệp ác không có tâm ác ngăn cách, mặc dù vẫn còn giết hại chúng sinh nhưng không thể mang lấy quả báo. Vì vậy nghĩa của ví dụ lửa là không tương ưng.
Hỏi: Vì sao người chết phải chịu khổ, mà người sát sinh không mắc phải tội báo?
Đáp: Vì do tâm không tan rã. Vả lại, nghĩa này không phải vậy. Vì sao? Vì xa lìa sự bức não của chúng sinh có tội, xa lìa sự lợi ích của chúng sinh có phước, như đoạn tuyệt thiện căn, Từ Bi, vô tránh, định diệt tận... đều vừa mắc tội, vừa được phước.
Hỏi: Vì sao gọi là người khác?
Đáp: Vì không phải thân mạng của mình. Hỏi: Vì sao tự sát mình không mắc tội báo?
Đáp: Vì không thể giết mà giết được. Câu này có nghĩa gì? Nếu có người khác là người có thể giết. Người có thể giết chết mạng sống thì mắc tội sát sinh, còn kẻ tự sát thì không có tình huống có thể giết hại, tức là không có kẻ giết hại, vì không có người giết hại, cho nên tự đoạn thân mình, không mắc phải quả báo ác.
Vả lại, năm ấm trong quá khứ không có sự nối tiếp với năm ấm sát sinh này... Vì vậy, kẻ tự sát không mắc phải tội sát hại.
Hỏi: Kẻ tự sát mình, khởi sự bằng tâm niệm giết hại, là cắt đứt mạng căn của con người, họ đã phá hoại năm ấm mà rời bỏ cõi người, thì thành tựu nghiệp giết hại. Tại sao họ không phạm tội sát sinh và không chịu quả báo?
Đáp: Nếu thế thì người A-la-hán phải mắc tội giết hại. Câu này có nghĩa gì? Vì sự chết của Lahán là tự sát, là cắt đứt mạng sống của mình, A-lahán kia cũng phải mắc tội đoạn mạng sống, nhưng họ vẫn không có tội. Vì sao? Vì A-la-hán xa lìa tâm giận dữ... Vì vậy kẻ tự sát không mắc phải tội sát sinh.
Lại nữa, tướng của chúng sinh là định hay không định, nghĩa là tướng của chúng sinh định, tướng của chúng sinh bất định, thì những tướng ấy của chúng sinh gọi là tướng của chúng sinh định và bất định.
Lại nữa, nếu là định tướng của chúng sinh thì có hàng trăm ngàn sự tạo ra quyết định giết chết một mạng người nào đó trong tâm mình, đó gọi là định, hoặc giết người đó để trở thành tội giết hại, hoặc giết một người khác mà không mắc tội giết hại. Không định có nghĩa là vì buông bỏ tất cả tùy theo sự giết hại mà phải tội, do ở đó không xa rời tướng chúng sinh.
Nghi ngờ nghĩa là tâm ngờ vực sát sinh cũng phạm tội giết hại, vì kẻ ấy đã rời bỏ chúng sinh. Tâm niệm tuy ngờ vực nhưng vì từ bỏ tâm Từ Bi mà sát hại chúng sinh, cho nên phạm tội sát sinh.
Lập phương tiện hủy bỏ mạng sống. Câu này có nghĩa gì? Nếu người giết hại khởi tâm bất thiện, quyết định muốn giết chết chúng sinh, đó không phải là tâm Từ Bi, mà là tâm không ngăn ngừa tội cố sát. Họ cố ý giết hại, tìm cách giết hại, đây gọi là khởi (khởi động).
Lại nữa, có hành động, không hành động, hoàn toàn không hành động. Hành động là những việc tạo tội, không hành động là không tạo tội. Không tạo tội và hành động tạo tội kia cùng khởi động, thì dù tâm niệm tạo ra nghiệp giết hại đã diệt, nhưng pháp thiện, vô ký vẫn nối tiếp nhau mãi không đoạn tuyệt.
Hỏi: Thế nào là không gây cho nên tội mà gọi là nghiệp (hành động)?
Đáp: Vì có khả năng tạo nhân-tạo quả cho việc tạo tội (tác nhân). Câu này có nghĩa gì? Vì mọi nơi đều nói trong nhân có quả và trong quả có nhân.
Như trong kinh, Như Lai có nói: Có thể trông thấy, có thể va chạm tiếp xúc thì gọi là sắc. Không tạo ra là vô tác, tạo ra cái mới là đối tượng, từ cái không thể trông thấy, không thể tiếp xúc, mà tạo ra cái có thể trông thấy, có thể tiếp xúc. Vì người kia không tạo tội, cho nên nói là có thể trông thấy, có thể tiếp xúc. Như vậy nơi đó, nếu sự kiện thân đã dựa kề vào thân để giết chết sự sống bằng dao, gậy... thì gọi là tác bất tác, đều được gọi là nghiệp của thân.
Lại như người Tự Tại ra khẩu lệnh giết người Tiên, vì có lòng giận dữ muốn giết hại chúng sinh, sứ giả nhận sắc lệnh, dựa vào khẩu lệnh của người Tự Tại mà giết hại người Tín Tiên Dạ-xoa. Do lòng giận dữ mà người Tiên giết hại chúng sinh. Người Tự Tại kia và người Tiên cùng tạo ra nhân (tác nhân) giết chết sự sống của Dạ-xoa. Khi sứ giả đã giết Dạ-xoa thì người Tự Tại kia và cả người Tiên đều đã thành tựu thân không tạo nghiệp.
Lại như người thọ giới, khi sắp thọ giới, thân hoạt động miệng nói, đến giờ nhận lãnh giới pháp thì đứng yên lặng, thân miệng không hoạt động. Sau khi làm pháp yết-ma xong, người thọ giới kia mới được thành tựu nghiệp thân không tạo tác. Sự kiện này cũng như vậy. Lại như nghiệp miệng, nhưng miệng thì không nói, chỉ biểu lộ bằng cử chỉ, chỉ gật đầu, nháy mắt, nhướng chân mày, đưa tay lên, qua sự kiện trong khi thọ giới, cũng được thành tựu nghiệp miệng không tạo tác. Đáp lại, thân tạo ra nghiệp, nhưng thân lại không hoạt động, miệng nói lên những phương tiện tạo nghiệp của thân. Lúc sự kiện đó được hoàn thành, thì cũng được thành tựu nghiệp thân không tạo tác.
Có người nói: Miệng và ý cũng được thành tựu nghiệp sát sinh. Nghiệp sát sinh này là nghiệp của ý và miệng, chứ không phải là nghiệp của thân. Dù có lời nói này, nhưng nghĩa đó không phải vậy. Vì sao? Vì nếu chính khi miệng nói thì tâm đã nhớ nghĩ, đã trở thành sát sinh. Có thể là nghiệp của miệng, là nghiệp của ý. Câu này có nghĩa gì? Nếu miệng và ý là thể của nghiệp sát, thì người Tự Tại ra lệnh giết chúng sinh kia, tâm của tiên nhân cũng nhớ nghĩ đến sự giết chết chúng sinh kia, tức là khi vừa nhớ đến lệnh sai khiến của mình thì mạng sống của chúng sinh kia lẽ ra phải chấm dứt. Nhưng sự kiện này không như vậy, vì lẽ kẻ bị sai khiến kia tin tưởng ở Tiên nhân, còn lúc này thì nghiệp của thân Dạ-xoa đã thành là việc phải sát sinh. Nếu không như vậy thì khi người Tự Tại kia miệng nói giết đi và lúc Tiên nhân nọ tâm nổi giận, thì lẽ ra phải trở thành sát sinh mà thật ra không thành.
Lại còn có lỗi là đằng khác, vì người Tự Tại kia tuy miệng đã ra lệnh sát sinh, trong khi kẻ được sai khiến chưa kịp giết hại. Người Tự Tại kia được chứng ngộ Kiến đạo. Sau khi sứ giả nhận lệnh mới sát sinh. Nếu miệng vừa ra lệnh giết xong mà gây tạo sát sinh, thì khi chứng ngộ phần vị Kiến đạo rồi, sau đó mới là sát sinh, nhưng nghĩa này không phải vậy, vì đã được xa rời nhân sát sinh kia và tâm ác phá giới... Vì vậy, không do hai nghiệp miệng và ý làm Thể cho sát sinh. Vì sao? Vì nghiệp thì không sai biệt. Câu này có nghĩa gì? Vì tướng của thiện nghiệp-bất thiện và vô ký... mỗi thứ đều khác nhau. Vì tướng không sai biệt như vậy cho nên nghiệp của thân-miệng-ý cũng không sai biệt. Nhưng do phương tiện xa gần mà nghiệp sát sinh của thân-miệng-ý đã thành, thì sự kiện này không ngăn ngừa được.
Hỏi: Miệng nói giết hại, thì nghiệp sát đã thành hay chưa?
Đáp: Chưa thành. Vì sao? Vì vượt quá thời gian. Câu này có nghĩa gì? Do những thời gian nào? Những phương tiện nào? Ở đâu? Khi người kia giết hại đã vượt qua thời gian và nơi chốn... mà người Tự Tại đã nói.
Người giết hại thì mắc tội, người bảo giết không có tội, nghiệp của thân là dựa vào thân để tạo nghiệp, gọi là tự nghiệp (nghiệp của thân). Câu này có nghĩa gì? Dựa vào thân để tạo nghiệp, tùy nghiệp mà thân đã tạo ra, gọi là thân nghiệp.
Hỏi: Không có mạng có thể giết. Giết thế nào là mắc tội sát sinh?
Đáp: Dù không có thân mạng thật, mà cắt đứt tự Thể hòa hợp, vẫn gọi là sát sinh. Như chặt cây rừng, dập tắt tim đèn... Nếu có cái ngã linh thiêng thì cái ngã linh thiêng ấy phải thường còn, không có nghĩa sát sinh.
Hỏi: Gây tổn hại các ấm nào gọi là giết? Hại trong quá khứ, hại trong vị lai, hại trong hiện tại. Nếu giết hại trong quá khứ, thì quá khứ đã diệt, nếu giết hại trong vị lai thì vị lai chưa đến, nếu giết hại ngay trong hiện tại thì trong sát na không dừng lại?
Đáp: Có người nói, trú ở đời hiện tại thì bị hoại diệt, còn đời vị lai thì tự Thể năm ấm hòa hợp. Lại có người nói: Hư hại cả đời vị lai và hiện tại. Câu này có nghĩa gì? Vì dao, gậy chỉ có thể gây sát hại năm ấm ở ngay đây. Đó là giết.
Lại có người nói: Năm ấm tự diệt chứ không phải là nhân duyên diệt.
Người thì nói: Hiện tại chỉ làm hư hỏng Sắc ấm trong năm ấm, vì dao-gậy... có thể cắt đứt, có thể va chạm, còn bốn ấm kia thì không thể cắt đứt và va chạm.
Có người lại nói: Giết hại cả năm ấm. Bốn ấm kia mặc dù tự nó không thể va chạm, nhưng lại sống, dựa vào Sắc ấm, mà Sắc ấm đã hư hỏng thì bốn ấm kia cũng hư hỏng theo, ví như chiếc bình đã bể thì nước hay sữa cũng chảy tuột mất.
Có người lại nói: Chỉ giết hại ấm vô ký, vì trong ấm vô ký dao-gậy có thể va chạm, không có sự va chạm, thì ấm có hai loại, tất cả nghiệp có ba loại, như trước đây đã nói, cho nên biết như vậy.
Hỏi: Trong kinh, Như Lai có nói: Có hai loại nghiệp: Một là nghiệp sinh khởi. Hai là nghiệp tạo ra. Hai nghiệp này nếu nói rộng thì có ba loại, là nghiệp thân-miệng và ý. Sự khác nhau của ba nghiệp này như vậy nào? Từ nương tựa mà nói, hay là từ Thể mà nói, hay là từ phát sinh mà nói?
Nếu từ chỗ nương tựa mà nói tức là một nghiệp, nhưng mọi nghiệp đều nương tựa vào thân. Nếu từ Thể mà nói tức là một nghiệp, tất cả mọi nghiệp đều chỉ có khẩu nghiệp. Nếu từ phát sinh mà nói tức là một nghiệp, nhưng mọi nghiệp từ tâm phát sinh.
Đáp: Dựa vào ba thứ tự có ba loại nghiệp. Câu này nghĩa gì? Do tâm suy nghĩa tức là nghiệp của tâm. Dựa vào nghiệp của tâm đó mà phát sinh nghiệp của thân-miệng. Vì nương vào tâm, cho nên phát sinh nghiệp của thân và miệng. Theo thứ tự như vậy, cho nên biết. Có tạo nghiệp hay không tạo nghiệp, cho nên biết. Sự sai khác của nghiệp thân và miệng, cho nên biết. Lại nữa, thân tạo ra nghiệp là dựa vào oai nghi, dựa vào thân để tạo ra hình tướng của mỗi cử chỉ oai nghi kia, đó gọi là nghiệp do thân tạo ra.
Hỏi: Vì thân có đi lại, có hành động, có vận chuyển, cho nên gọi là thân nghiệp. Nếu không đi, không lại thì không gọi là nghiệp?
Đáp: Nếu nói có đi lại là nghiệp của thân, thì việc này không phải vậy. Vì sao? Vì tất cả pháp hữu vi đều chuyển biến trong từng sát na không dừng lại. Sát na không dừng lại đó sẽ diệt ở chỗ nào? Đã không đi-không đến thì tại sao lại nói là đi lại, hành động, vận chuyển, gọi là nghiệp của thân?
Hỏi: Nghĩa này không phải vậy. Vì sao? Nếu tất cả pháp luôn xê dịch, một sát na cũng không ngừng, có thể nói như vậy, cũng nhận thấy có pháp dừng lại trong sát na chứ không phải là không dừng lại, tại sao lại nói không đi-không đến?
Đáp: Nghĩa này không phải vậy. Vì sao? Vì pháp hữu vi hoàn toàn không đứng lại (an trú). Đây là nói rõ nghĩa gì? Vì tất cả các pháp hữu vi kia đều không nhân-không duyên, tự nhiên mà diệt. Đây lại là nghĩa gì? Vì pháp có thể tạo ra thì có nhân duyên mà diệt. Pháp tức là không có vật, nếu không có vật thì pháp kia không có tạo ra. Vì pháp hữu vi không nhân, không duyên, mà diệt mất một cách tự nhiên. Nếu chính lúc pháp sinh mà không diệt, thì về sau cũng không cho nên diệt. Nếu không diệt thì nhất định là thật. Nếu nhất định là thật, thì không cho nên thay đổi. Nếu như vậy thì không cho nên theo nhân duyên diệt kia mà diệt.
Hỏi: Tôi nhận thấy có pháp đã từ nhân duyên mà diệt, như củi… là các pháp đều từ nhân duyên của lửa... mà tàn rụi. Trong mọi lượng thì lượng hiện thấy là hơn hẳn. Vì nghĩa này cho nên tất cả pháp đều diệt từ các nhân duyên?
Đáp: Làm sao biết được củi… là các pháp đều dựa vào các nhân duyên của lửa mà tàn rụi? Tôi đã nói không nhân mà tự nhiên diệt. Cho nên suy nghĩ về nghĩa này! Hỏi: Vì nhân của lửa mà các pháp như củi… diệt, cho nên không trông thấy phải không? Hay là vì không có nhân duyên, mà tự nhiên diệt cho nên không trông thấy? Nghĩa này thế nào? Nhân duyên vốn nối tiếp nhau diệt, ngoài ra lại không nảy sinh, cho nên không trông thấy. Nhân duyên diệt không phải như gió thổi làm tắt đèn, tay chấm dứt tiếng chuông. Sự nhận biết những hiện tượng như vậy này là sự nhận thức của trí so sánh chăng.
Đáp: Tôi đã nói không phải là sự kiện không có thể tạo ra. Đây là nói rõ nghĩa gì? Nếu có một pháp từ nhân duyên mà diệt thì lẽ ra tất cả pháp cũng đều diệt từ nhân duyên, không có pháp nào không phải từ nhân duyên mà diệt, giống như pháp sinh thì tất cả đều từ nhân duyên mà phát sinh, không có pháp sinh nào không từ nhân duyên. Chẳng hạn như tâm-âm thanh và ngọn lửa, không phải là nhân duyên mà diệt, vì chúng không chờ đợi nhân duyên mới diệt.
Hỏi: Nghĩa này không như vậy. Vì sao? Vì tâm niệm sau nảy sinh thì tâm niệm trước diệt đi, tiếng sau phát ra thì tiếng trước im mất, vì pháp trước chưa kịp đợi chờ pháp sau, vì vậy biết được chúng đều từ nhân duyên mà diệt chăng?
Đáp: Nghĩa này không như vậy. Vì sao? Vì tâm niệm và âm thanh kia không chờ đợi nhau. Đây là nói rõ nghĩa gì? Vì có sự ngờ vực cho nên mới biết và biết một cách quyết định. Hai pháp đó không cùng lúc khổ-vui-tham-giận cũng đều như vậy. Lại nữa, vì tâm niệm và âm thanh trước thì nhanh, tâm niệm-âm thanh sau lại chậm, vậy thì làm sao tâm niệm-âm thanh không nhanh mà có thể gây tổn hại cho tâm niệm, âm thanh nhanh kia được? Vì vậy, pháp diệt mất không từ nhân duyên.
Hỏi: Mặc dù chiếc đèn và ngọn lửa trong từng niệm không dừng lại, vì pháp không có nhân dừng lại mà có diệt và diệt không phải là pháp. Dựa vào pháp diệt kia mà có sự tắt mất ở chiếc đèn và ngọn lửa.
Vì vậy, phải dựa vào nhân duyên mà diệt chăng?
Đáp: Nghĩa này không như vậy. Vì sao? Vì pháp là không có vật thì tại sao lại có thể làm nhân cho sự diệt. Lại nữa, pháp là nhân duyên sinh chứ không phải là pháp sát na không dừng lại, trong từng sát na tâm thì sát na tâm hoàn toàn không thể làm nhân cho sinh và làm nhân cho diệt.
Như vậy, tất cả các pháp hữu vi đều không từ nhân duyên mà diệt, cho nên biết.
Như đã giải đáp, nếu dựa vào lửa... có thể làm nhân cho củi... bị tàn rụi, như vậy thì nhân phát sinh tức là nhân tố của sự diệt. Đây nói rõ nghĩa gì? Dựa vào những ngọn lửa nào phát sinh các sắc nào? Tức là ngọn lửa kia có thể tạo ra sự nấu chín loại ăn rất tốt, sự nung chín đó làm nhân cho trạng thái diệt. Vì vậy cho nên ngay nơi nhân của sự sinh là nhân của sự diệt, không còn có nhân nào khác. Nhưng nghĩa này không như vậy. Làm sao chỉ một pháp mà có thể vừa làm cho pháp sống động, lại vừa có thể khiến pháp tiêu mất. Vả lại, các nhân tố sai biệt như vậy trong mỗi sự khác biệt của ngọn lửa, đều do sự phân biệt hư vọng của ý thức, như nhân của tro, nước uống, rượu đắng, sương, mặt trời, đất, nước, lửa, gạo có thể sinh ra sự nấu chín khác nhau, các màu sắc của sự nấu chín khác nhau ở nơi đó làm sao phân biệt được.
Hỏi: Không như vậy. Vì sao? Vì lửa đun nước, nước do lửa mà cạn, vậy lửa là nhân của sự cạn khô chăng?
Đáp: Như trước đây đã giải thích, làm thế nào biết được nước là do lửa mà cạn chứ không phải tự nhiên mà cạn.
Hỏi: Nếu vậy thì lửa là do cái gì tạo ra?
Đáp: Giới hạn lửa được mở rộng hơn, dựa vào năng lực của lửa mà năng lực của nước suy yếu dần, cho đến thời gian sau này. Thể của nước nối tiếp nhau đoạn tuyệt không phát sinh, những ngọn lửa tạo ra không phải những ngọn lửa diệt đi. Vì vậy tất cả pháp hữu vi tự nhiên mà diệt, không nhân duyên diệt, pháp diệt đó sát na không ngừng, cho nên diệt ngay. Thành tựu các pháp không dừng lại trong sát na như vậy. Vì sát na không dừng lại, cho nên pháp này không đi đến chỗ kia.
Hỏi: Tôi vẫn trông thấy pháp này ở nơi khác. Nếu pháp này không di chuyển đến nơi khác thì làm sao biết được ở chỗ khác có mà trông thấy và nhận thức được mình đang ở một nơi khác?
Đáp: Như cỏ và ngọn lửa, cho nên không đi. Vì vậy, thân oai nghi gọi là thân tác pháp. Nghĩa này đã thành lập chứ không phải cho là thân khác, có thật pháp riêng biệt. Như một phương sinh ra màu sắc gọi là sắc dài, dựa vào sắc dài ấy lại trông thấy màu sắc khác gọi là sắc ngắn. Dựa vào bốn phương, cho nên trông thấy màu sắc của bốn phương, dựa vào một vật hình tròn, cho nên gọi là sắc tròn.
Như vậy, các màu sắc dài-ngắn-vuông-tròncao-thấp, ví như gánh một hòm lửa đi thẳng không dừng lại-không tắt mất, sẽ trông thấy ngọn lửa nối tiếp nhau tạo thành một đường lửa chạy dài, mà gọi là lửa hình dài. Ngọn lửa ấy tiếp tục đi vòng quanh không dừng lại-không tắt mất thì gọi là lửa hình tròn, tùy theo mọi cách chuyển đổi mà thấy đủ loại hình dáng khác nhau của ngọn lửa.
Như vậy, lìa ngọn lửa thì không có sự khác biệt về pháp hình tướng có thật. Nếu lìa ngọn lửa, thì ngoài pháp có hình tướng sẽ có hai tướng so sánh nhau. Nhãn căn thì thấy dài mà thân căn tiếp xúc thì ngắn. Vì một sắc đưa vào chứ không phải là hai căn thấy, giống như pháp tiếp xúc dài ngắn… trong sắc như vậy nên biết.
Pháp tiếp xúc chỉ có tâm chứ không phải là căn hiện tại có thể nắm bắt, có thể biết được. Như trông thấy hình dáng ngọn lửa đó, nảy sinh sự nhớ nghĩ và nhận biết trong sự cảm xúc-va chạm; như ngửi mùi thơm của hoa, gợi lên ý niệm trong màu sắc; pháp này thuận theo như thế, dựa vào pháp khác rồi nhớ nghĩ một pháp khác mà không có một pháp nào xúc chạm. Thật ra, có pháp dựa vào cảm xúc va chạm mà có được pháp khác trong oai nghi. Vì vậy không có pháp chân thật của thân oai nghi.
Hỏi: Nghĩa này không như vậy. Vì sao? Vì như trong đêm tối lờ mờ, từ xa thấy hình dáng bức tượng hoặc dài hay ngắn, sự việc này phải là thật chăng?
Đáp: Chỉ trông thấy màu sắc lờ mờ mà hư vọng phân biệt các màu sắc, hình dáng dài ngắn... khác nào như con kiến trông thấy mình đang đi, thấy vây bọc chung quanh. Sự việc này cũng như vậy. Cái khác của thân oai nghi lại không có pháp thật, chỉ có oai nghi của thân mới được gọi là tác pháp (pháp tạo tác), chứ không rời ngoài thân mà có tác pháp riêng biệt. Trước đây nói về tâm tư duy, là sự nhận thức trong tâm phân biệt về ngã như vậy, tác là như vậy, có thể sinh ra nghiệp thân và miệng, gọi là nghiệp của tâm. Nếu thân đã gây tạo thì gọi là nghiệp của thân. Nếu miệng đã gây tạo thì gọi là nghiệp của miệng, không có pháp thật nào khác biệt với ba nghiệp.
Hỏi: Khác với nghiệp thân và miệng, thật có pháp khác biệt. Vì sao? Vì có ba loại sắc không cấu uế được tăng trưởng, không tạo ra nghiệp đạo... Câu này có nghĩa gì? Trong kinh Như Lai có nói: “Sắc thâu nhiếp ba loại là:
1. Sắc có thể trông thấy, có thể trở ngại.
2. Có sắc không thể trông thấy, có thể gây trở ngại.
3. Có sắc không thể trông thấy, không thể gây trở ngại”.
Sắc không cấu uế, nghĩa là sắc vô lậu. Sắc không cấu uế là sao? Sắc không cấu uế có nghĩa là pháp vô lậu. Pháp vô lậu là gì? Nghĩa là đối với thời gian quá khứ-vị lai-hiện tại không nảy sinh tâm niệm giận dữ, yêu mến trong sắc, cho đến không nảy sinh giận dữ-yêu mến trong thức. Vì nghĩa này, cho nên gọi là pháp vô lậu. Nếu như vậy thì xa rời pháp không tạo tác, ở chỗ nào có Sắc không thể trông thấy, không thể gây trở ngại. Vì là vô lậu cho nên biết có pháp không tạo tác xa rời sức tăng trưởng của nghiệp thân-miệng và ý. Trong kinh, Như Lai có nói: Người có đức tin là những thiện nam, thiện nữ tu hành bảy loại công đức, suốt ngày đêm thường xuyên sinh công đức và nuôi lớn công đức, trong mọi cử chỉ đi-đứngngủ-thức... “Nếu rời xa nghiệp của thân-miệng thì không có “không tạo tác”, tại sao pháp của tâm khác mà có thể được tăng trưởng? Vì vậy nên biết, rời xa nghiệp của thân-miệng mà có pháp “không tạo tác”. Lại nữa, chính mình không tạo ra nghiệp mà khiến cho người khác tạo cho nên nghiệp. Nếu không có “không tạo tác” thì nghiệp này làm thế nào được hoàn thành? Hơn nữa, không phải chỉ sai khiến người ta tạo ra nghiệp thì có thể gọi là thành tựu tạo nghiệp, vì nghiệp đó chưa thành hình, lại còn có lỗi là đằng khác. Mặc dù gây tạo nghiệp nhưng chưa có thực thể thành tựu, vì trong kinh, Như Lai có nói: “Các Tỳ-kheo ngoại nhập có mười một loại nhập không thâu nhiếp cho nên không thể trông thấy, không thể trở ngại, nhưng không nói là không phải sắc”. Đây là vì nghĩa gì mà Như Lai lại nói thế? Vì Đức Như Lai nhận thấy sắc “không tạo tác” bao gồm trong pháp của nhập cho nên mới nói như vậy.
Lại còn có người đưa ra vấn nạn: Nếu không có pháp “không tạo tác” thì cũng sẽ không có tám Thánh đạo, vì không có lời nói chân chánh và nghiệp chân chánh, kể cả thì sống chân chánh trong định, cho nên biết rằng nhất định có pháp “không tạo tác”.
Lại có người chất vấn: Nếu không có pháp “không tạo tác”, xa lìa Ba-la-đề-mộc-xoa thì cũng sẽ không có giới “không tạo tác”, vì thọ giới xong rồi sau đó vẫn không có tạo tác. Như trong lúc ngủ và những người hay quên vì bệnh đau đầu... thì cũng gọi là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni. Vì vậy cho nên biết nhất định có pháp “không tạo tác”.
Lại có kinh mà trong đó Như Lai đã nói về: Xa lìa chiếc cầu phá giới. Nếu không có pháp “không tạo tác” thì sao lại nói xa lìa chiếc cầu phá giới. Vì vậy cho nên biết có pháp “không tạo tác”.
Đáp: Câu vấn nạn này vô cùng phức tạp. Mặc dù đã dùng rất nhiều lời lẽ để diễn đạt, nhưng về ý nghĩa đều không như vậy. Vì sao? Vì trước đây tuy ông dẫn chứng ba loại sắc đã nói trong kinh Như Lai, ông lại không hiểu nổi ý của kinh Như Lai, nghĩa này thế nào? Tất cả năng lực thiền định của Thánh nhân, nhận thấy sắc của cảnh giới Tammuội, dựa vào năng lực Tam-muội mà phát sinh sắc đó. Vì sắc đó không phải là cảnh giới (đối tượng trực tiếp) của nhãn căn, cho nên không thể trong thấy. Ngoài ra, tất cả sự vật đã không có khả năng cản trở cho nên không thể ngăn ngại.
Hỏi: Nếu nói không phải là cảnh giới của nhãn căn, cho nên không thể gây chướng ngại thì tại sao gọi là sắc?
Đáp: Ông đã xa lìa tâm và ý về có sắc “không tạo tác”. Vì sao có thể gọi là sắc “không tạo tác”? Lại trả lời tiếp: Sắc này mới thật là sắc Tam-muội của Thánh trí, thuộc cảnh giới vô lậu, không giống với sắc hữu lậu của thế gian.
Nói sắc vô lậu là dựa vào sắc của năng lực thiền định Tam-muội kia, được gọi là vô cấu. Thánh nhân đã ở trong vô lậu Tam-muội mà nói pháp vô lậu.
Lại có người nói: Sắc của A-la-hán và sắc bên ngoài, đều gọi là vô lậu, vì đã xa lìa pháp hữu lậu. “Tôi không chấp nhận nghĩa này”.
Lại tăng trưởng công đức, nghĩa là sao? Vì pháp như vậy. Thí chủ bố thí bao nhiêu vật cần dùng như vậy, thường thường sẽ có bấy nhiêu sự thọ dụng như vậy.
Thọ dụng như vậy, tức là dựa vào năng lực công đức của người thọ dụng, tuy thí chủ có tâm niệm khác nhưng vẫn dựa vào bổn tâm, bản thể liên tục tu tập một cách tỉ mỉ chín chắn, thì ngày càng trở cho nên tốt đẹp. Vì chuyển biến tốt đẹp, cho nên sẽ được thành tựu rất nhiều hiệu quả phước đức trong đời sau.
Căn cứ vào nghĩa này, cho nên Đức Như Lai nói: Phát sinh nhiều công đức làm cho công đức tăng trưởng, chẳng lìa tâm-lìa sắc mà có được pháp “không tạo tác”.
Hỏi: Thế nào là thân-tâm khác dựa vào thântâm khác mà liên tục chuyển biến vi tế tăng trưởng phước đức trong thân-tâm khác?
Đáp: Thân tâm khác dựa vào thân-tâm khác là thế nào? Có pháp không tạo tác trong thân-tâm khác, phải không? Trả lời tiếp: Nhưng nghĩa này không như vậy. Tôi dựa vào nghiệp của thân-tâm và nghiệp của miệng mà có được công đức thiện-ác. Dựa vào bổn tâm, tạo ra bổn tâm không quên mất Thể vẫn liên tục, bệnh điên đầu, ngủ nghỉ... thường xuyên được tăng trưởng, không tạo nghiệp là chính mình không tạo nghiệp mà lại khiến người khác tạo nghiệp, thì làm sao hoàn thành được nghiệp đạo. Đây là nói rõ nghĩ gì? Vì dựa vào kẻ sai khiến (sứ giả) mà nghĩ ra cách giết hại chúng sinh kia. Vì vậy tính chất vẫn liên tục, tỉ mỉ trong con người sứ giả càng chuyển biến nảy sinh thô bạo. Vì nghĩa này, cho nên có thể phát sinh rất nhiều lỗi lầm trong đời vị lai. Lại nữa, cũng không chỉ là kẻ bị sai khiến tạo ra việc ác, mà kẻ tự tạo ra điều ác và việc tạo ra điều ác đã kết thúc, cũng nảy sinh khá nhiều lỗi lầm trong đời mai sau. Vì vậy ở trong đời vị lai thân thể vẫn chuyển biến phát sinh liên tục, gọi là nghiệp đạo. Bởi vì đã rõ về nghĩa của quả trong nhân, cho nên xa lìa chiếc cầu phá giới. Hôm nay, vì ông có bệnh điên đầu cho nên mới nói như vậy phải không? Nếu thật sự có bệnh đau đầu, loạn não, thì nhanh chóng tìm Nhân trần và Tử tô uống để chữa lành, chứ không cho nên nói những lời phi pháp.
Hỏi: Vì sao thêm cho tôi có pháp “không tạo tác” mà ông tự lập luận là từ tâm phát sinh bổn thể tương tục vi tế chín chắn, mới có được pháp tăng trưởng?
Đáp: Tôi không thêm cho ông có pháp “không tạo tác”, nhưng pháp mà ông đã nói không có nghĩa như vậy. Đây nói rõ nghĩa gì? Chính vì dựa vào tâm mà thực hành việc của thân-miệng, cho nên khi công việc đã làm xong, thì thành tựu nghiệp đạo, là ông đã có pháp xa lìa tâm-thânmiệng. Ở trong pháp Phật, không có nghĩa như vậy. Các pháp thế tánh-thời-phương... của vi trần thì Ni-kiền-tử cho là chúng có bên ngoài tâm.
Các pháp không có tâm niệm thiện-ác như vậy, thì trí giả không chấp nhận, vì vậy không thành lập việc xa lìa sắc-tâm, ngoài thân-tâm mà có pháp “không tạo tác”.
Từ bỏ trộm cắp: Trộm cắp có chín loại:
1. Vật người khác đang giữ gìn.
2. Nghĩ đến vật ấy.
3. Tâm ngờ vực.
4. Nhận biết không theo.
5. Muốn cướp đoạt.
6. Biết vật của người khác mà sinh tâm cho là của mình.
7. Tạo tác
8. Tướng không tạo tác.
9. Không có tướng tạo tác.
Những loại này gọi là nghiệp trộm cắp của thân.
- Vật người khác đang gìn giữ; đây là nói rõ việc trộm lấy vật người khác đang gìn giữ.
- Nghĩ đến đồ ấy, nghĩa là nếu không nảy sinh ý tưởng là của mình, không nói là đồ vật của mình, thì gọi là nghĩ đến vật ấy.
- Tâm ngờ vực; nếu như tâm có ngờ vực vật này là của mình hay của người khác, mà vật đó vẫn là của người khác.
- Biết mà không theo, là biết vật của người khác, nảy sinh tâm niệm theo người khác với tư tưởng đó là vật của mình.
- Muốn cướp đoạt, là phát sinh tâm niệm gây tổn hại.
- Biết vật của người khác mà sinh tâm cho là của mình. Hoặc thấy không khác lạ, hoặc lấy vật ở chỗ tối, hoặc lấy vội vàng, hoặc lấy vật khác, hoặc đã lấy vật của người rồi cho là của mình.
- Về tạo tác, tướng không tạo tác và không có tướng tạo tác, như đã nói trong phần sát sinh ở trước. Nghiệp đạo thành hay không thành tùy thuộc vào nghĩa tương ưng để giải thích, cho nên biết.
Từ bỏ tà dâm; Tà dâm có tám loại:
1. Người con gái được bảo hộ.
2. Tưởng nghĩ người đó.
3. Tâm hoài nghi.
4. Đạo và phi đạo.
5. Không giữ gìn.
6. Phi đạo và phi thời.
7. Tạo tác.
8. Tướng không tạo tác.
Những loại này gọi là nghiệp tà dâm của thân.
- Người con gái được bảo hộ; là người con gái được cha mẹ gìn giữ, bảo vệ như vậy...
Tưởng nghĩ người đó; là biết người con gái kia đã được cha mẹ có ý tưởng che chở chứ không phải là không có ý tưởng che chở.
- Tâm ngờ vực; như nảy sinh tâm ngờ vực, cô này hay cô khác, cha mẹ gìn giữ hay không gìn giữ; cô gái này của mình hay là cô khác. Nhưng người con gái đó đã được cha mẹ gìn giữ. Đối với những người con gái đã được sự bảo hộ của cha mẹ, thì mọi việc nghi ngờ đó đều là tà dâm.
- Đạo và phi đạo; đạo là có chỗ ấy, phi đạo nghĩa là không phải chỗ ấy. Bất hộ là người kia không giữ gìn người con gái. Phi đạo và phi thời cũng gọi là tà dâm (tức dâm dục không phải thời, không phải chỗ âm đạo).
- Không phải giữ gìn; là người con gái tự giữ lấy mình hay người con gái không tự giữ lấy mình, hành dâm trái chỗ của họ cũng là tà dâm.
Lại nữa, người con gái không được giữ gìn, nghĩa là tất cả người con gái mà không biết giữ gìn..., đều gọi là tà dâm.
- Tạo tác và tướng không tạo tác, thì như đã nói trong phần sát sinh ở trước, cho nên biết.
- Tướng không tạo tác là pháp không tạo tác, trong việc tà dâm nó không như vậy. Vì điều xấu tự gây tạo, cho nên như người bệnh phải uống thuốc. Vì uống thuốc, cho nên khỏi bệnh tật, hóa ra không có bệnh. Người bệnh thì được lành, nhưng bệnh của thầy thuốc thì không lành.
Từ bỏ nói dối: Nói dối có bảy loại:
1. Chuyện trông thấy...
2. Việc lộn ngược và không lộn ngược.
3. Tâm nghi ngờ.
4. Phát sinh tư tưởng che giấu.
5. Tạo tác.
6. Tướng không tạo tác.
7. Không có tướng tạo tác.
Những loại này gọi là nghiệp nói dối của miệng.
- Chuyện thấy... nghĩa là thấy-nghe-biết ở trong những việc lộn ngược hay không lộn ngược.
- Việc lộn ngược là nghe chuyện của người kia như vậy, không lộn ngược là y như việc của người kia mà nói.
- Tâm nghi ngờ, là nảy sinh ngờ vực; là như vậy, là không như vậy, là luôn luôn như vậy, là luôn luôn không như vậy
- Phát sinh tư tưởng che giấu, là cố ý che giấu sự thật, làm chuyện khác lạ rồi nói theo chuyện khác lạ đó.
- Tạo tác và tướng không tạo tác-không có tướng tạo tác, như trước đã nói trong phần sát sinh.
Có người nói: Tướng của thân và cử chỉ đứng yên lặng trong lúc bố tát đều có tướng không tạo tác của nói dối trở thành nghiệp của thân và ý vì cho là nói dối. Mặc dù có nói những lời này, nhưng về nghĩa thì không như vậy. Vì sao? Vì nghiệp khác với tướng.
Khác với tướng là vì nghiệp của thân-miệng-ý khác với tướng. Vì vậy nghiệp của miệng không phải là Thể của nghiệp thân và ý, nhưng vẫn dựa vào nghiệp vốn có của miệng, điều mà thế gian thường dùng. Nhưng khi nghiệp miệng và nghiệp thân đã biểu lộ trước mắt, dù nói là không tạo ra nghiệp miệng, nhưng nghiệp miệng vẫn có tên gọi. Hoặc trong bố tát, Tỳ-kheo dù không nói vẫn trở thành nghiệp của miệng. Vì sao? Vì vẫn dựa vào nghiệp miệng mà đặt ra pháp chế ngự. Trước hết phải chấp nhận lời nói này: “Mình ở trong pháp Phật không tạo ra pháp như vậy, tạo ra pháp như vậy, mà người kia trước có tâm quan trọng nhưng về sau lại không nói, mà chỉ đứng yên lặng. Người đó đã rời bỏ tâm quan trọng ban đầu mà họ có, Vì vậy, có thể hoàn thành nghiệp nói dối của miệng”.
Từ bỏ nói hai lời. Nói hai lời có bảy loại:
1. Gợi lên ý nghĩ bất thiện.
2. Thật sự nói dối.
3. Tâm phá hoại.
4. Trước cố ý phá hoại không hòa hợp.
5. Tạo tác.
6. Tướng không tạo tác.
7. Không có tướng tạo tác.
Những loại này gọi là nghiệp nói hai lời của miệng.
Ý nghĩ bất thiện là nghiệp bất thiện tương ưng với tâm phiền não.
- Thật sự nói dối, là biết rõ người khác, biết rõ cái xấu trong tâm người khác, hoặc nói thật-hoặc nói dối để làm hỏng tâm của người khác, phá hoại tâm người khác.
- Trước cố ý phá hoại không hòa hợp, nghĩa là ý thì gợi lên điều ác, còn thân tự nổi lên pháp ác, đó gọi là nói hai lời.
- Tạo tác, tướng không tạo tác-không có tướng tạo tác, như đã nói trong phần sát sinh trước đây.
Có người nói: Phá hoại vô tác trong nghiệp nói hai lời, không gì nặng hơn là phá hoại Tăng bằng nói hai lời. Nhưng ở bên Như Lai mà nói thì vẫn không phá hoại được, vậy thì không thành nghiệp ác phá hoại Tăng.
Như vậy, nghiệp không phá hoại là không nói hai lời. Từ bỏ lời nói hung dữ. Lời nói hung dữ có bảy loại:
1. Dựa vào ý nghĩ bất thiện.
2. Khởi tâm gây rắc rối.
3. Dựa vào tâm rối loạn.
4. Nói với người bằng lời lẽ hung dữ.
5. Tạo tác.
6. Tướng không tạo tác.
7. Không có tướng tạo tác.
Những loại này được gọi là nghiệp lời nói hung dữ của miệng.
- Dựa vào ý nghĩ bất thiện, là miệng thốt ra lời nói ác khiến cho người nghe có thể nảy sinh khổ đau, phiền muộn.
- Khởi tâm gây rắc rối, là tâm niệm chỉ nổi lên sự não loạn gây rắc rối chứ không hề khởi tâm yên ổn. Nếu có tâm yên ổn thì dù có nói lời hung dữ, cũng không có tội gây não loạn rắc rối.
- Dựa vào tâm rối loạn là khởi tâm như vậy mà tùy lúc gây rối loạn cho người nghe. Gây loạn là không làm rối loạn bằng tâm nói ác.
- Tướng tạo tác và tướng không tạo tác-không có tướng tạo tác, như đã nói trong phần sát sinh ở trước.
Từ bỏ lời nói thêu dệt: Nói thêu dệt có bảy loại:
1. Dựa vào ý nghĩ bất thiện.
2. Lời nói không có nghĩa.
3. Phi thời.
4. Tương ưng với pháp ác.
5. Tạo tác.
6. Tướng không tạo tác.
7. Không có tướng tạo tác.
Những điều này trùm khắp lời nói hung dữ, gọi là nghiệp nói thêu dệt của miệng.
- Dựa vào ý nghĩ bất thiện, là dựa vào phần vị Tu đạo ở cõi Dục, có lời nói tương ưng với tâm phiền não, cho nên gọi là nói thêu dệt.
- Lời nói vô nghĩa, là rời xa nghĩa chân thật.
- Phi thời, là lời nói tuy có nghĩa nhưng nói không phải lúc, cũng trở thành lời nói thêu dệt. Lại nói có lúc, ví như người tự do ăn nói ở giữa đại chúng, cũng trở thành lời nói thêu dệt.
- Tương ưng với pháp ác, là mọi lời nói đùa cợt, phi pháp, ca vũ... tất cả đều không tương ưng với pháp thiện, đều là nói thêu dệt.
- Tạo tác, tướng không tạo tác-không có tướng tạo tác, như đã nói trong phần sát sinh trước đây.
Tham, là bị ràng buộc do tâm niệm yêu thích, muốn có được tiền bạc tài sản của người khác. Tâm tham ái ràng buộc chắc chắn mà mong muốn được tự tại như người khác, đó gọi là tướng tham, nên biết!
Sân, là khởi lên tâm ác đối với chúng sinh khác muốn đánh đập-giết hại..., ngược với tâm Đại Từ Bi, đó gọi là sân.
Chúng sinh, là xa lìa việc chẳng phải chúng sinh. Người khác là xa lìa việc của chính mình. Nói sân đối với chúng sinh khác, là khởi lên tâm độc ác đối với chúng sinh khác.
Tâm hại là không có tâm Từ. Đánh là không có tâm Bi vì muốn giết chết kẻ đó và đánh đập là dùng roi-gậy-đất đá... có khả năng gây khổ não đều gọi là đánh. Trái với tâm Từ Bi, muốn giết chết người khác là trái với tâm Từ, đánh người là trái với tâm Bi, những hành động như vậy gọi là tướng sân, nên biết.
Tà kiến là thấy không có sự ban cho trong pháp bố thí... Đây là nói rõ nghĩa gì? Ở trong Bố thí thấy không có Bố thí, ở trong ban cho thấy không có ban cho, ở trong buông xả thấy không có buông xả. Những cách nhìn như vậy gọi là tà kiến.
Hỏi: Tại sao như vậy gọi là tà kiến? Vả lại, ba câu là Bố thí-ban cho và buông xả có gì sai biệt?
Đáp: Bố thí; tâm chân chánh thì ruộng phước và không phải ruộng phước đều bố thí cả. Ban cho cũng là tâm chân chánh mà ban cho ruộng phước mà không phải ruộng phước.
Buông xả, là chỉ với tâm chân chánh mà Bố thí ban cho ruộng phước. Lại nói: Thấy không có Bố thí, bởi vì nhận thấy sự Bố thí không thanh tịnh. Lại nói: Thấy không có ban cho bởi vì bài báng người Bố thí không có công đức. Lại nói: Thấy không có buông xả, bởi vì bài báng người tiếp nhận không có công đức.
Những cách nhìn không chính đáng như vậy đều là tướng của con người keo kiệt.
Bởi vì thấy những người giàu có thì keo kiệt tham tiếc, mà người nghèo thì có thể Bố thí, cho nên người này đã khởi tâm như vậy: Nếu thật sự có Bố thí cho, thì người keo kiệt không đáng giàu có. Vì sao? Vì đời trước họ đã quen thói keo kiệt bủn xỉn khá lâu.
Lại nảy sinh tâm nghi ngờ, là người có thể Bố thí này không đáng nghèo khó. Vì sao? Vì đời trước họ đã quen bố thí trong thời gian khá lâu. Dù người đó có nảy sinh tà kiến như vậy, nhưng mà ý nghĩa thì không như vậy.
Hỏi: Nếu vậy thì nghĩa này là sao?
Đáp: Người giàu kia dù trong kiếp quá khứ đã quen tánh keo kiệt, nhưng bỗng nhiên gặp được ruộng phước thanh tịnh, đã làm việc bố thí chút ít trong ruộng phước đó, cho nên họ cảm được quả báo Lão có trong đời này, nhưng vì thói quen mà tánh keo kiệt vẫn không bỏ.
Người nghèo có thể bố thí; điều này thế nào? Người nghèo kia trong đời quá khứ, vì không có lòng tin tưởng đối với không phải ruộng phước, vì không hết lòng, vì muốn được tiếng khen, vì mong cầu quả báo, vì mong muốn được người tôn trọng, cho nên người đó mới bố thí. Chính vì nghĩa đó, cho nên không cảm được quả báo Lão có. Vì đã từng quen bố thí từ trước, cho nên đời này cũng có thể buông bỏ.
Không có hành động tốt lành-hành động hung ác; là dựa vào tự thân thấy thường-vô thường, mà phát sinh hình tướng lỗi lầm.
Không có quả báo của hành nghiệp tốt-xấu, người kia thấy có kẻ làm điều thiện mà nhận chịu đau khổ, kẻ làm điều ác mà được hưởng niềm vui, cho nên người ấy nảy sinh tâm niệm như vậy: Quả báo khổ vui có một cách tự nhiên chứ không phải từ nhân duyên.
Không có đời này-đời khác, nghĩa là người kia với tâm niệm thấy đời này sẽ hoại diệt, mà họ không thấy đời sau sẽ đến, cho nên họ nghĩ thầm sẽ không có đời sau. Người kia lại nảy sinh tâm niệm này: Thật không có ngã, vì nếu có ngã thì thế gian sẽ không có chúng sinh hóa sinh. Bởi vì họ không quán sát mười hai nhân duyên.
Lại sinh tâm ngờ vực cho là tất cả nam nữ vì niềm vui của mình mà làm chuyện dâm dục, chứ không vì nảy sinh từ ngã, mà ngã dựa vào nghiệp của mình và sinh trưởng trong đó. Như chúng sinh loài thấp sinh (sinh trong môi trường ẩm thấp) nương vào nơi nào có đất ẩm ướt thì sinh sôi nảy nở. Đất ẩm ướt không phải là cha mẹ của chúng sinh đó, ngã cũng như vậy.
Họ lại thấy A-la-hán cầu lạnh, cầu nóng, cầu thức ăn-thức uống... rồi cho là thế gian không có A-la-hán. Vì sao? Vì A-la-hán còn có tâm niệm yêu thích. Người đó tự mình không còn năng lực tu hành, cho nên họ không thể đoạn tuyệt được mọi phiền não, rồi cho là thế gian không có A-la-hán.
Hỏi: Nên nói về nghĩa từ bỏ sát sinh. Vì nghĩa nào mà có thể gọi là từ bỏ? Vì có sự việc có thể giết mà được gọi là từ bỏ, hay là vì không có sự việc có thể giết mà gọi là từ bỏ? Nếu có sự giết mà bảo là từ bỏ thì nghĩa không thành. Vì sao? Vì quả của thói quen tạo ra đã thành hình, sao lại nói từ bỏ các sự sát sinh được? Nếu không có sự việc có thể giết mà gọi là từ bỏ, thì không có phước của việc từ bỏ sát sinh. Như không có sừng thỏ để có thể cắt đứt, thì cũng không có nghĩa từ bỏ việc cắt đứt. Lại nói từ bỏ sát sinh, gọi là việc không sát sinh, cũng như không buông bỏ việc thâu nhiếp chúng sinh!
Đáp: Vì đã thọ pháp không giết hại, dựa vào tâm thọ pháp vốn có mà có năng lực. Vì vậy, không tạo ra việc ác sát sinh kia, bởi vì đã thọ pháp từ bỏ sát sinh, và cũng vì phát sinh pháp thiện cho nên từ bỏ sát sinh, chứ không từ bỏ việc thâu nhiếp chúng sinh.
Hỏi: Có thể sát sinh mà từ bỏ sát sinh, hay là không thể sát sinh mà từ bỏ sát sinh, hay là có thể sát sinh cũng không thể sát sinh mà từ bỏ sát sinh? Đáp: Có thể sát sinh cũng không thể sát sinh mà từ bỏ sát sinh. Vì sao? Vì tâm ác khởi lên không ngừng nghỉ, cho nên gọi là từ bỏ sát sinh. Đây là nói rõ nghĩa gì? Nếu còn có thể giết hại chúng sinh mà từ bỏ sát sinh, hay không thể giết hại chúng sinh mà không từ bỏ lĩnh vực sát sinh, thì nghĩa từ bỏ không thành. Đây lại có nghĩa gì? Bởi vì từ bỏ tội lỗi có thể giết hại chúng sinh thì thành phước thiện không thể giết hại chúng sinh. Chính vì nghĩa này cho nên đối với đối với có thể giết hại chúng sinh và bên cạnh không thể giết hại chúng sinh sẽ trở thành phước thiện vì từ bỏ sát sinh. Nếu không như vậy thì không có thể nói là từ bỏ việc sát sinh, không trở thành buông bỏ việc sát sinh, không nhận chịu sự việc sát sinh, sẽ đạt được từ bỏ việc sát sinh. Nếu không như vậy thì không nhận chịu cần phải từ bỏ, mà nhận chịu tùy theo thì không từ bỏ.
Hỏi: Phải dựa vào ấm-giới-nhập trong hiện tại có thể từ bỏ sát sinh, chứ không phải trong quá khứ-vị lai?
Đáp: Nếu hỏi và đáp như trước đây thì không thành tựu về nghĩa từ bỏ sát sinh.
Hỏi: Nên nói về từ bỏ sát sinh... có bao nhiêu loại từ bỏ? Đáp: Có ba loại từ bỏ:
1. Thành lập.
2. Dựa vào.
3. Phát sinh.
Dựa vào và thành lập, sát sinh và lời nói hung dữ dựa vào chúng sinh, vì tâm sân hận mà hình thành. Trộm cắp, tà dâm là dựa vào tiền của hỗ trợ cho đời sống, vì tâm tham lam mà hình thành. Nói dối, nói hai lời và nói lời thêu dệt đều dựa vào danh tự, đều vì tâm tham lam mà hình thành. Tà kiến dựa vào sắc, vì tâm ngu si mà hình thành. Khởi lên mười bất thiện nghiệp đạo, tất cả đều từ tham lamgiận dữ và si mê gây ra.
Dựa vào tâm tham lam mà khởi lên hành động sát sinh, tâm tham lam mà sát sinh, hoặc vì ham da-thịt-gân-xương-răng-sừng và tiền bạc-tài sản... mà giết chết mạng sống chúng sinh, hoặc vì mình, vì những gì mà mình yêu thích, mỗi thứ đều có đủ ba việc mà sát sinh.
Dựa vào tâm giận dữ mà khởi lên sát sinh, nghĩa là vì tâm giận dữ cho nên giết kẻ thù oán và giết người yêu thương của kẻ thù, đó gọi là dựa vào tâm giận dữ mà khởi lên sát sinh. Dựa vào tâm si mê mà khởi lên sát sinh, như có người nói: Giết rắn rít... tuy giết mà không có tội. Vì sao? Vì sinh vật đó gây cho nên mọi khổ não cho chúng sinh”.
Lại có người nói: Nếu giết nai-dê-trâu... thì không có tội báo. Vì sao? Vì chúng sinh này do nghiệp mà cảm như vậy.
Lại có những người ở nước Ba-la-tư nói: Giết cha mẹ Lão yếu và người bệnh nặng thì không có tội báo”. Tất cả những việc như vậy gọi là dựa vào tâm si mê mà khởi lên sát sinh.
Dựa vào tâm tham lam mà khởi lên ăn trộm. Vì cần những của cải như vậy, cho nên mới lấy những vật dụng như vậy, hoặc lấy cho mình, hoặc vì người khác, hoặc vì sự uống ăn. Đó gọi là dựa vào tâm tham lam mà khởi lên trộm cắp.
Dựa vào tâm giận dữ mà khởi lên trộm cắp, nghĩa là vì tâm niệm giận dữ người ta và đối với những gì mà người tay yêu quý, cố tình trộm cắp tất cả vật của họ. Đó gọi là dựa vào tâm giận dữ mà khởi lên trộm cắp.
Dựa vào tâm si mê mà khởi lên trộm cắp, như Bà-la-môn nói: Hết thảy mọi vật trên trái đất này đều là sở hữu của một mình ta. Vì sao? Vì quốc vương kia trước đây đã cho ta, nhưng vì ta không có năng lực, cho nên đã bị dòng họ khác cướp đoạt hết mọi sự thọ dụng của ta. Vì vậy, nay ta lấy tức là lấy vật của mình, không gọi là trộm cắp. Người ngu si kia vì nảy sinh tâm niệm đó, cho nên mới có sự ăn trộm này. Đó gọi là dựa vào tâm ngu si, mà khởi lên trộm cắp.
Dựa vào tâm tham lam mà khởi lên tà dâm, nghĩa là đối với chúng sinh khởi lên tâm tham lam ô nhiễm, không tu hành như thật, đó gọi là dựa vào tâm tham lam mà khởi lên tà dâm.
Dựa vào tâm giận dữ mà khởi lên tà dâm, nghĩa là đối với người con gái, hoặc được sự bảo vệ của người khác, hoặc tự gìn giữ, hoặc người khác gìn giữ tiền của nuôi sống, dựa vào tâm giận giữ cho nên khởi lên sự tu hành không như thật. Như bên cạnh người vợ của kẻ thù và bên cạnh người thiếp mà kẻ thù yêu mến, đó gọi là dựa vào tâm giận giữ mà khởi lên tà dâm.
Dựa vào tâm si mê mà khởi lên tà dâm, nghĩa là như có người nói: Ví như cối giã gạo-hoa thơmquả chín-đồ ăn thức uống-nước sông và đường đi…, những người nữ như vậy tà dâm không có tội. Lại như ở Ba-la-tư có người tà dâm với mẹ... đó gọi là dựa vào tâm si mê mà khởi lên tà dâm.
Nói dối dựa vào tâm tham lam mà phát sinh, dựa vào tâm tham lam khởi lên mà tâm giận dữ phát sinh, dựa vào tâm giận dữ khởi lên mà tâm si mê phát sinh, dựa vào tâm si mê khởi lên như vậy mà nói hai lời-nói lời hung dữ-nói lời thêu dệt cũng đều như vậy. Nên biết rằng tham lam dựa vào tâm tham lam mà khởi lên dựa vào kiết tham lam mà phát sinh thứ tự hai tâm hiện tiền như vậy gọi là dựa vào tâm tham lam mà khởi lên. Dựa vào kiết giận dữ mà phát sinh gọi là dựa vào tâm giận dữ mà khởi lên. Dựa vào kiết si mê mà phát sinh gọi là dựa vào tâm si mê mà khởi lên. Như tham lamgiận dữ và tà kiến, cũng đều như vậy, nên biết!
Hỏi: Vì sao không nói đến tạo tác và tướng, không tạo tác-không có tướng tạo tác, quyết định trong nghiệp nào có, trong nghiệp nào không?
Đáp: Chỉ trừ tà dâm, trong sáu nghiệp đạo còn lại đều thuộc về bất định. Nghĩa này như vậy nào? Nếu chính mình tạo tác thì thành tựu việc tạo ra nghiệp và không tạo ra nghiệp. Nếu khiến người khác làm thì chỉ có không tạo tác chứ không có thể có tạo tác. Ở trong tà dâm quyết định có tạo tác, chứ không thể nào có sự không tạo tác. Vì sao? Vì nghiệp tà dâm này là hoàn toàn tự tạo tác, chứ không có khiến người khác tạo tác, vì vậy kinh nói: “Có thể có nghiệp chẳng phải là thân tạo tác, mà nhất định thành tựu tội sát sinh chăng? Đáp: Có, miệng khiến người khác làm thì thành tựu tội sát. Lại hỏi: Có thể có nghiệp chẳng phải là miệng tạo tác, mà nhất định thành tựu tội nói dối chăng? Đáp: Có, vì thân nghiệp tạo tác mà thành tựu tội nói dối của nghiệp miệng. Lại hỏi: Có thể có nghiệp chăng phải là thân tạo tác, nghiệp chẳng phải là miệng tạo tác, mà nhất định thành tựu nghiệp của thânmiệng chăng?
Đáp: Có. Vì dựa vào tâm niệm giận dữ của người Tiên, vì trong thiện nghiệp tạo chỉ có sắc thân của cõi Dục là hoàn toàn có tạo tác và không có tạo tác thiền và giới vô lậu không có giới vô tác. Vì sao? Vì dựa vào tâm mà thiền trung gian thì bất định. Nếu tâm sâu xa, tâm hoàn toàn cung kính tạo cho nên nghiệp của thân-miệng, thì thành tựu tác nghiệp và vô tác nghiệp tác. Nếu kiết sử sâu dày, tâm phát sinh nghiệp của thân miệng, thì cũng thành tựu tác nghiệp và vô tác nghiệp. Nếu không phải là tâm sâu xa, không phải là tâm hoàn toàn cung kính tạo ra nghiệp thân-miệng, thì chỉ có tác nghiệp, không có vô tác nghiệp. Nếu không phải là kiết sử sâu dày mà tâm phát khởi nghiệp thânmiệng, thì cũng chỉ có tác nghiệp chứ không có vô tác nghiệp, nhưng phương tiện tác nghiệp của tâm trở lại ăn năn thì chỉ có tác nghiệp mà không có vô tác nghiệp”
Hỏi: Trong nghiệp đạo, cái gì là quyến thuộc trước? Cái gì là quyến thuộc sau?
Đáp: Nếu khởi lên phương tiện sát sinh. Như người đồ tể bắt dê, hoặc đem vật mua dẫn đến nơi giết mổ, bắt đầu hạ xuống một nhát dao, hoặc hai-ba nhát dao, mạng dê chưa chấm dứt mà vốn có nghiệp ác gọi là quyến thuộc trước. Tùy vào nhát dao nào ấn xuống chấm dứt mạng sống của con dê, ngay lúc nghĩ đến điều đó thì đã có tác nghiệp và vô tác nghiệp, những hành động này đều gọi là nghiệp đạo căn bản. Hành nghiệp của thân thực hiện gây ra tiếp theo sau, đó gọi là nghiệp quyến thuộc sau của sát sinh. Cho đến nói lời thêu dệt cũng đều như vậy, nên biết! Ngoài ra trong tham lam-giận dữ-tà kiến, thì không có quyến thuộc trước, vì khi tâm mới khởi lên lập tức đã thành tựu nghiệp đạo căn bản. Còn thân-miệng-ý trong mười bất thiện nghiệp đạo, tất cả đều có quyến thuộc trước sau. Nghĩa này thế nào? Như người khởi tâm muốn giết chúng sinh này, nhân đó lại muốn giết luôn chúng sinh kia.
Như muốn đến trời mà sát hại chúng sinh, liền cướp đoạt vật dụng của người khác mà muốn giết người ấy, lại dâm với vợ của họ. Nảy sinh tâm niệm như vậy, trở lại xúi giục vợ của người đó tự giết chồng mình, lại dùng đủ loại lẽ gây, rối loạn phá hoại thân thuộc của người ấy. Không lúc nào chân thật, luôn sinh tâm tham đắm của cải vật dụng của người ta, lại sinh tâm giận dữ với người ta, vì giết hại người ấy cho nên phát sinh tà kiến như vậy, làm cho tà kiến tăng trưởng mà giết hại người kia, lại còn muốn giết cả vợ con người ta nữa.
Như vậy theo thứ tự, đầy đủ mười bất thiện nghiệp đạo. Những nghiệp như vậy gọi là quyến thuộc trước. Tất cả mười bất thiện nghiệp đạo cũng đều như vậy, cho nên biết.
Vả lại, từ bỏ thiện nghiệp đạo chẳng phải là phương tiện tu hành thiện nghiệp đạo, vì phương tiện này là xa rời căn bản và xa rời phương tiện. Nói phương tiện, như Sa-di kia muốn thọ Đại giới, phải đích thân đến giới trường lễ dưới chân chúng Tăng, xin Hòa thượng thọ trì ba y, bắt đầu tác bạch, tác bạch lần bậc nhất, rồi tác bạch lần thứ hai. Những hành động như vậy đều gọi là quyến thuộc trước.
Từ lần tác bạch thứ ba cho đến khi làm pháp Yết ma xong là đã bắt đầu tác nghiệp, và lúc nghĩ đến điều ấy thì khởi lên vô tác nghiệp. Những hành động này đều gọi là nghiệp đạo căn bản.
Sau đây, nói đến bốn pháp nương tựa, cho đến không rời bỏ thiện hạnh mà mình tiếp nhận, thânmiệng tác nghiệp và vô tác nghiệp như vậy, đều gọi là quyến thuộc sau.
Hỏi: Cho nên nói về bất thiện nghiệp đạo. Ở trong năm đạo thì đạo nào đầy đủ, đạo nào không đầy đủ và trong đạo nào nhiều, trong đạo nào ít?
Đáp: Địa ngục có năm bất thiện nghiệp đạo, đó là nói hai lời, nói thêu dệt, tham lam, giận dữ và tà kiến. Nghĩa này như vậy nào? Vì không giết hại người khác cho nên không có sát sinh, không có điều gì khác để tâm gìn giữ vì vậy không có ăn trộm, không có người con gái giữ gìn cho nên không có tà dâm, không có tâm ngay thẳng cho nên không có nói dối, thường không có tướng chánh niệm cho nên không có tâm phá hoại và không có nói lời hung dữ: Vì thường phá hoại cho nên dựa vào khổ đau phiền não vây ngặt mà có nói hai lời. Có nói phi thời, cho nên có lời nói thêu dệt: Vì tham lam-giận dữ-tà kiến đều có đủ cả, cho nên gọi là có, nhưng không phải là có trong hiện tại. Chính vì nghĩa này cho nên một chỗ thì nói có, một chỗ khác thì nói là không. Như Uất-đơn-việt về phía Bắc không có sáu loại trước, chỉ có bốn loại sau. Vì mạng sống đã nhất định cho nên họ không có sát sinh. Vì không có sự giữ gìn cho nên không có ăn trộm. Vì không có người con gái giữ gìn cho nên không có tà dâm. Người ở cõi ấy lúc muốn dâm dục, muốn vui vẻ thì nắm tay người con gái dẫn đến dưới tán cây, nếu cây uốn cành xuống che phủ người ấy thì đó là hành dâm. Nếu muốn dâm dục, và muốn vui vẻ, mà nhánh cây không cong xuống che phủ thì người kia cảm thấy hổ thẹn liền buông ra mà rời xa.
Vì không có tâm lừa dối người khác cho nên không có nói dối. Vì thường định tâm cho nên không có nói hai lời. Vì thường nói lời dịu dàng mềm mỏng cho nên không có nói lời hung ác. Vì có ca vũ cho nên có nói lời thêu dệt. Còn lại là nghiệp của ý, bởi vì hoàn toàn có mà không phải là hiện có. Lại nữa, trừ ra Uất-đơn-việt thì ba cõi còn lại đều thọ nhận mười nghiệp đạo. Uất-đơnviệt phía Bắc cũng xa lìa bất thiện nghiệp đạo. Trong cõi súc sinh, ngạ quỷ và các trời ở cõi Dục, cũng xa lìa thọ nhận mười nghiệp đạo. Các trời trong cõi Dục xa lìa và không thọ giới bất thiện nghiệp đạo, mặc dù trời không giết hại trời, nhưng trời cũng giết hại chúng sinh thuộc đường khác.
Lại có người nói: Trong cõi trời cũng có cảnh chặt tay chân... nhưng tức khắc chân tay đều mọc lại như cũ. Nếu chặt đầu, hoặc khoảng giữa thân mình, thì chết không sống lại. Cũng có bất thiện nghiệp đạo giết hại người khác và ăn trộm vật dụng của người khác. Trong cõi trời Sắc-Vô sắc, không có bất thiện nghiệp đạo.
Hỏi: Bất thiện nghiệp đạo ở trong các đạo thì mỗi đạo có bao nhiêu loại?
Đáp: Địa ngục, Bắc Uất-đơn-việt không có tham lam, giận dữ, cũng không có tà kiến. Vì hoàn toàn có mà không phải là hiện có, ba cõi còn lại và các trời cõi Dục từ bỏ thọ pháp mà có thọ pháp. Các trời cõi Dục cũng có thọ pháp thiện vô lậu, cho nên biết.
Súc sinh, ngạ quỷ cũng không có thọ pháp, các trời trong cõi Sắc đều có thọ pháp, vì thâu nhiếp thiện pháp hiện đang thọ nhận vả lại cõi ấy có Thánh nhân sinh ra, có dựa vào thiện nghiệp đạo vô lậu. Trong cõi Vô sắc chỉ có tâm nghiệp đạo, vì thành tựu nghiệp không phải là hiện hữu. Trời trong cõi Sắc, tuy rằng vẫn có thành tựu mà không phải là hiện hữu, hết thảy Thánh nhân sinh ra ở đó đều hiện hữu, vì họ dựa vào sức giữ giới vô lậu.
Hỏi: Nên nói về quả của mười bất thiện nghiệp đạo và nhân tùy thuận.
Đáp: Có ba loại quả:
1. Quả của quả báo.
2. Quả của tập khí.
3. Quả của tăng thượng.
Mỗi nghiệp đạo đều có ba loại. Nghĩa này thế nào? Đầy đủ mười bất thiện nghiệp đạo bậc thấp, trung bình và bậc cao đều sinh trong địa ngục, đó gọi là quả của quả báo.
Quả của tập khí là từ địa ngục rút lui, sinh vào trong loài người. Vì dựa vào hành động sát sinh cho nên có quả báo bị giết, vì ăn trộm cho nên chịu quả báo trong đời sống không có tiền bạc của cải, vì tà dâm cho nên không có thể gìn giữ vợ mình, vì nói dối cho nên mắc quả báo bị người khác chê bai, vì nói hai lời cho nên mắc quả báo quyến thuộc bị người ta phá hoại, vì nói hung dữ cho nên không nghe được âm thanh êm đẹp, vì nói thêu dệt thêm bớt cho nên không ai tin mình, vì trước kia tham lam cho nên tâm tham lam mạnh mẽ hơn, vì trước kia giận dữ cho nên tâm giận dữ càng thêm mãnh liệt, vì dựa vào tà kiến cho nên tâm niệm càng mù quáng ngu muội thêm. Tất cả như vậy gọi là quả của tập khí.
Quả tăng thượng là dựa vào mười bất thiện nghiệp đạo đó, mà tất cả sự vật bên ngoài không có khí thế, đó là đất đai gỗ, ghề cao thấp, chim chuột nhiều, mưa gió thất thường, gai góc rậm rạp, bụi bặm mù mịt, mùi hôi xông lên, có nhiều rắn rít, ít thóc lúa-ngũ cốc thiếu, ít hoa trái-hoa trái thiếu hụt và quả đắng chát. Tất cả mọi thứ như vậy gọi là quả tăng thượng.
Lại có quả tương tự, vì giết hại cho nên nhận chịu mọi sự khổ đau cùng chúng sinh đã bị hại, bởi vì khổ đau ấy cho nên sinh trong địa ngục nhận chịu đủ loại khổ đau. Vì đoạn mất mạng sống loài khác cho nên đời sau sinh trong loài người phải chịu quả báo chết yểu. Vì đoạn mất sự tiếp xúc ấm áp của loài khác, cho nên tất cả đồ vật bên ngoài cung cấp cho đời sống không còn có thế mạnh tốt đẹp.
Như vậy, tất cả mười nghiệp đạo này, tùy theo nghĩa tương ứng mà giải thích, cho nên biết.
Cướp đoạt của người, tà dâm vợ người, tuy không gây cho nên nỗi đau buồn trầm trọng cho người khác, nhưng vì tâm phá hoại cho nên phải nhận chịu tội báo, tuy không phá hoại-không giận dữ-không nói lời hung ác, nhưng vì tâm niệm gian ác cho nên mắc tội.
Hỏi: Người cố tâm phát khởi làm mọi việc ác là quyết định thành tựu nghiệp ác-nghiệp bất thiện và chắc chắn nhận quả đau khổ trong đường ác kia, hay là không quyết định thành tựu nghiệp ác và không chắc chắn nhận quả báo đau khổ trong đường ác. Nếu mọi nghiệp ác đã gây tạo đều nhất định phải nhận quả thì những tội-nghiệp trong đường dữ đều không thể vượt qua được. Điều này nói rõ nghĩa gì? Vì hoàn toàn thành tựu tội nghiệp của ác đạo thì phải rơi vào đường ác...
Trừ ra nghiệp năm nghịch, từ vô thỉ đến nay đã quen gây tạo các nghiệp thì phải nhận lấy tội lỗi trong đường ác.
Đã quyết định hoàn toàn nghĩa là mọi đường ác không thể vượt qua được, nhưng không tu tập phạm hạnh, lại trái ngược với kinh pháp. Trong kinh, Như Lai có nói: “Có người tu tập bất thiện nghiệp đạo đã mắc phải tội báo sẽ nhận chịu địa ngục, người ấy nhận chịu ngay trong thân hiện tại…”. Nếu quả báo của tội năm nghịch kia, hoàn toàn phải nhận chịu trong địa ngục, thì tại sao lại nói nghiệp tội trong đường dữ có thể xoay chuyển được? Tại sao lại nói các tội trong đường dữ đều nhận chịu ngay trong đời sống hiện tại? Vả lại, có lỗi lầm như tội nghiệp trong đường ác của địa ngục nhận chịu trong thân hiện tại nếu như vậy thì luật nhân quả sẽ trở cho nên phức tạp lẫn lộn. Vì sao? Vì thời gian và quả báo nặng nhẹ đều không nhất định.
Đáp: Có người nói, nhận chịu tội báo địa ngục ngay trong đời sống hiện tại, vì người này thấy được thật đế, cho nên trong thân đời này nhận chịu một ít tội báo, nhưng nghĩa này không như vậy. Vì sao? Vì nghiệp không tự tại. Đây là nói nghĩa gì? Vì tất cả nghiệp tội, và nghiệp phước đã gây tạo không có năng lực Tự Tại, mà tùy thuộc vào các nhân duyên nào đã hòa hợp, dựa vào nhân duyên đó mà trong thân này phải chịu quả của các tội hay trong thân đời sau phải chịu. Việc nhận quả báo đời này có nhiều ý nghĩa cao vượt. Nếu nghiệp được quả báo vui thì sẽ được nhận quả báo vui. Còn mắc quả khổ thì sẽ nhận quả báo khổ. Đó là dựa vào nghiệp không nhất định, mà nói như vậy. Vì cũng dựa vào nghiệp tương tự không nhất định mà nói như vậy, và cũng không phải dựa vào quả báo nhất định. Vì sao? Vì sẽ không được phần giải thoát. Vì A-la-hán thọ giới Ba-la-đề-mộc-xoa, giới thiền định và giới vô lậu, cho đến khi mạng sống chưa chấm dứt thì vẫn giữ giới Ba-la-đề-mộc-xoa. Nếu có quả báo thì không được giải thoát. Vì vậy trong hiện tại nhận chịu quả báo của nghiệp là không nhất định.
Hỏi: Nếu như vậy, thì các nghiệp không nhất định, cũng trái với Tu-đa-la, Vì sao? Vì trong Tuđa-la Như Lai đã nói: “Tạo nghiệp do thói quen mà không nhận chịu quả báo thì không có chuyện đó”. Những nghiệp do thói quen kia đều hoàn toàn nhận chịu quả báo nhất định hoặc trong thân đời này, hoặc trong thân đời sau chăng?
Đáp: Nghĩa này không như vậy, Vì sao? Vì các nhân duyên chưa hòa hợp, cho nên chưa nhận chịu quả báo. Nghĩa này thế nào? Thói quen làm các nghiệp, tuy thật sự có thể nhận chịu quả báo trong đời này, nhưng hiện tại không nhận chịu. Vì sao? Vì các nhân duyên chưa hòa hợp. Việc này có nghĩa gì? Giống như hạt giống, dựa vào các nhân duyên như đất... hòa hợp mới có thể nảy mầm, việc này cũng như vậy. Nghiệp dựa vào Thức, mà tồn tại, nhân duyên hòa hợp thì chủng tử của Thức bất tịnh có thể nảy sinh các mầm như Danh sắc... Đây nói về nghĩa gì? Nếu dựa vào tu hành như thật, tùy thuận Bát-nhã như thật và biết như thật về hành của hữu vi, khi đoạn trừ các phiền não, dựa vào năng lực của Thánh đạo mà tu tập các công đức, thì có khả năng sinh mầm của căn thiện. Lúc đó, tuy có nhận chịu nghiệp của đời sau, nhưng bởi vì không có bè bạn phiền não, cho nên không có thể nhận chịu quả báo của đời sau. Vì đoạn trừ các phiền não, tuy rằng không nhận chịu quả báo của thân sau, nhưng vẫn còn dựa vào bất thiện nghiệp đạo kia, cho nên chỉ nhận chịu một ít quả báo của thói quen trong thân đời này, chứ không nhận chịu hoàn toàn quả báo trong đường ác, như trong Tuđa-la Như Lai đã nói: Phải nhận chịu như vậy.
Phải nhận chịu như vậy. Câu nói này của Như Lai chứng minh nghĩa gì? Có nghĩa là: Tuy có nhận chịu một ít nỗi vui mừng, tuy có nhận chịu một ít lo lắng buồn phiền, nhưng thiện nghiệp-bất thiện lập tức nhận chịu hết, thậm chí nhận chịu một chút bệnh khổ đau đầu... Đây là nhận chịu tội nhỏ với quả tương tự ấy. Trước đây nói là trái với Tu-la-la, thì nghĩa này không như vậy. Vì sao? Vì dựa vào quả báo không nhất định và dựa vào nghiệp chưa đối trị để mà đối trị, cho nên Đức Như Lai mới nói như vậy trong Tu-la-la. Nếu hoàn toàn quyết định tâm tạo nghiệp nhưng không nhận quả báo, thì không có chuyện đó. Đây là nói rõ về nghĩa gì? Tuy bậc A-la-hán đoạn trừ hết nghiệp quả của đời sống, kể cả quả báo tội phước của thân sau, nhưng vẫn nhận chịu nhân duyên quả báo trong thân này và không còn hòa hợp nữa. Nếu như vậy thì A-la-hán kia dựa vào nghiệp đạo này có thể không nhập Niết-bàn. Chính vì nghĩa này, cho nên biết ông không hiểu ý của Đức Như Lai nói trong Tu-la-la.
Hỏi: Nên nói về giới thanh tịnh và không thanh tịnh. Thế nào là giới thanh tịnh và thế nào là giới không thanh tịnh?
Đáp: Có chung giới thanh tịnh. Các Thanh văn và Bích-chi-Phật và Bồ-tát cùng tu tập năm giới pháp thanh tịnh, cho nên biết. Năm giới pháp đó là:
1. Căn bản thanh tịnh.
2. Quyến thuộc thanh tịnh.
3. Giác quán bất loạn.
4. Thâu nhiếp ý niệm.
5. Hồi hướng Niết-bàn.
Căn bản thanh tịnh, là xa lìa tội lỗi của nghiệp đạo căn bản.
Quyến thuộc thanh tịnh là xa lìa mọi phương tiện, hành động như sát sinh...
Giác quán bất loạn, là hiểu rõ tất cả các ác hành mà xa lìa sự ham muốn giết hại và giận dữ…
Thâu nhiếp ý niệm là thâu nhiếp các ý niệm như niệm Phật-niệm Pháp-niệm Tăng…
Hồi hướng Niết-bàn, là vì Niết-bàn mà hộ giới, chứ không vì sự sống và tiền của ở thế gian. Đây là phần ít giới giống nhau.
Giới thù thắng của các Đại Bồ-tát là dựa vào lúc mới phát tâm Bồ-đề, không gây tổn hại, mà bắt đầu giới tụ cho đến tám địa, qua Vô lượng thời gian tu tập tất cả giới tụ, đem tâm làm lợi ích cho người khác mà hồi hướng về trí Nhất thiết trí, xa rời tất cả tập khí đạt được Đại Niết-bàn. Các Đại Bồ-tát này đều khéo thanh tịnh tất cả giới, cho nên biết. Ngoài ra, phương tiện dựa vào thầy dạy mà trì giới… đều không thanh tịnh.
Hỏi: Giữ giới có bao nhiêu cách?
Đáp: Nói gọn thì có một cách giữ giới, là nương vào tâm không gây tổn hại, tâm không điên đảo mà phát khởi nghiệp của thân-miệng. Lại có hai cách giữ giới:
1. Thọ giới.
2. Giới pháp.
Lại có ba cách:
1. Học.
2. Vô học.
3. Phi học phi vô học.
Lại có bốn cách:
1. Thọ giới Ba-la-đề-mộc-xoa.
2. Giới thiền định.
3. Giới vô lậu.
4. Giới xa lìa phiền não.
Giới Ba-la-đề-mộc-xoa, là thọ giới để răn dạy thế gian, như giới mà bảy chúng đã lãnh thọ.
Giới thiền định, là giới hữu lậu đã chuyển biến và giới vô lậu đã chuyển biến.
Giới vô lậu là giới học-vô học.
Giới xa lìa phiền não, là dựa vào sự nhàm chán ham muốn do đạo trung gian mà chuyển biến. Sự giữ giới, phá giới của người kia cùng với năng lực của họ phát khởi đối trị phiền não là nhân duyên của phá giới.
Nói hữu lậu, là dựa vào giới thiền định mà nói. Nói vô lậu, là dựa vào giới vô lậu định mà nói.
Lại có năm loại: Giới của cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, giới tạo tác, không tạo tác và vô lậu không tạo tác.
Lại có sáu loại không tham... giới tạo tác có ba loại khác nhau, không tạo tác cũng có ba loại khác nhau.
Lại có bảy loại; là từ bỏ sát sinh cho đến nói lời thêu dệt, chính bảy loại này dựa vào sự khác biệt của tạo tác và không tạo tác mà thành mười bốn loại. Chính bảy loại này dựa vào không tham... mà có hai mươi mốt loại. Chính bảy loại này dựa vào sự khác biệt của tạo tác và không tạo tác, mà có bốn mươi loại. Dựa vào sự sai biệt lần lượt trong từng sát na mà có Vô lượng loại.
Hỏi: Quả của giới là gì?
Đáp: Quả của giới là giới hữu lậu định và giới vô lậu định. Cảnh giới đồng loại kia dựa vào cảnh giới đồng loại, tức là tương ưng với quả, nên biết.
Giới vô lậu, là vì xa lìa phiền não, có hai loại quả báo. Các Đại Bồ-tát vì Nhất thiết trí mà giữ giới, nhận lấy phần vị Bồ-đề Phật. Từ bỏ sát sinh... thực hành mười thiện nghiệp đạo, cảm được quả báo tốt đẹp. Đức Như Lai đã giảng nói rộng rãi trong các kinh. Trong tất cả các kinh đều có nói điều này, cho nên biết. Như trong kinh Sa Lão La Long Vương Sở Vấn, Đức Như Lai đã nói: “Này Long vương! Thiện nam, thiện nữ nào từ bỏ sự giết hại chúng sinh thì cảm được mười pháp mát mẻ xa lìa phiền não nóng bức”. Mười pháp đó là:
1. Giúp cho tất cả chúng sinh sự không sợ hãi.
2. A trú trong niệm Đại Bi.
3. Đoạn trừ tập khí tai họa của các phiền não.
4. Nhận được quả báo không có bệnh tật.
5. Gieo trồng chủng tử trường thọ.
6. Được các loài Phi nhân luôn luôn bảo vệ.
7. Ngủ thức đều yên ổn.
8. Không thấy ác mộng, từ bỏ tâm oán hận.
9. Không sợ tất cả ngoại đạo.
10. Chết được sinh lên cõi trời.
Đó gọi là mười pháp mát mẻ xa lìa phiền não nóng bức. Này Long vương! Nếu người nào đem thiện căn không giết hại chúng sinh hồi hướng phần vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thì người đó khi chứng được Bồ-đề, tâm sẽ được Tự
Tại, cho nên mạng sống lâu Vô lượng.” Cho đến trong đạo Chánh kiến đều cần phải giải thích rộng ra, như trong tất cả các kinh, nên biết.
Thành tựu tâm Xả.
Hỏi: Vì nghĩa gì trước nói giữ giới, sau đó mới nói đến thành tựu tâm Xả?
Đáp: Vì thấy được năng lực làm lợi ích cho mọi người. Câu này có nghĩa gì? Vì Bồ-tát giữ giới, nhờ vào sự giữ giới này mà được sinh vào đường thiện. Mặc dù thành tựu tâm Xả, nhưng không đầy đủ của cải để nuôi sống. Nếu vậy, thì Bồ-tát không có thể lợi ích cho người khác, và Bồtát sẽ không thể nào thành tựu được tất cả các công đức khác. Vì sao? Vì làm lợi ích cho người khác là thâu nhiếp thế gian, nhưng Bồ-tát kia làm đem lợi ích cho mọi người mà buông bỏ hết tài sản của cải, thì không có thể thành tựu. Chính vì nghĩa này, mà dựa vào việc làm lợi ích cho người khác để nói đến việc giữ giới trước, sau đó mới nói đến thành tựu tâm Xả.
Vả lại, còn có nghĩa là giữ giới và tâm Xả cùng nương vào nhau và làm lợi ích cho nhau, vì sự giữ giới đó có thể giúp ích cho tâm Xả, tâm Xả cũng có thể làm lợi ích cho việc giữ giới. Chính vì nghĩa này cho nên nói về giữ giới trước, sau mới nói đến tâm Xả. Lại nữa, vì từ bỏ giữ giới cho nên sinh vào đường dữ, tâm Xả không có thể giữ được quả báo, như quả báo tương ứng thì trước mắt có thể không cảm được đầy đủ. Nhưng nếu người giữ giới sinh trong đường thiện thì tâm Xả có thể nhận được quả báo, như quả báo tương ứng trước mắt được đầy đủ. Chính vì nghĩa này, mà giữ giới có thể làm lợi ích cho tâm Xả và tâm Xả cũng có thể làm lợi ích cho sự giữ giới. Bởi vì người giữ giới luôn được sinh vào đường thiện, nhưng cuộc sống không có tiền của thì rất dễ bị nghèo khổ vây ngặt, cho nên dù có được sinh vào đường thiện mà như là sinh vào đường ác. Trong khi đó, nếu thành tựu tâm Xả, thì sinh vào đường thiện, là nhân tố làm việc lợi mình và lợi người. Vì vậy bố thí có thể làm lợi ích cho giữ giới.
Theo nghĩa thứ tự tu hành thì đây là nói về nghĩa gì? Vì muốn làm lợi ích chúng sinh, cho nên Bồ-tát tu hành. Do đó, theo thứ tự mà tu hành như vậy, nếu muốn được công đức phát sinh từ lời nói và năng lực của mình, thì trước hết phải tu vào sự giữ giới. Sau đó dựa vào tâm không gây tổn hại, khởi lên tâm Đại Từ Bi, đem lại lợi ích cho mọi người bằng pháp thí và giúp cho của cải tiền bạc nuôi dưỡng đời sống của những chúng sinh có thể thâu nhiếp để giáo hóa.
Lại nữa, việc bố thí... là pháp có khả năng trang nghiêm cho giới. Câu này có nghĩa gì? Các Đại Bồ-tát khi hành bố thí... đã dùng pháp để trang nghiêm cho việc trì giới, cho nên có khả năng thành tựu các loại quả báo tốt đẹp. Như trong kinh Sa Lão La Long Vương Sở Vấn, Như Lai nói: “Này Long vương! Đại Bồ-tát từ bỏ sát sinh cho nên có khả năng làm việc bố thí, thì được thành tựu sự Lão sang với nhiều tiền của, không gì có thể phá hoại và được sống lâu, làm các việc của Bồtát làm, tránh khỏi mọi việc ác gây khổ não cho các thế gian.
Những việc như vậy... này Long vương! Mười thiện nghiệp đạo cũng lại như vậy. Bố thí sẽ trang nghiêm cho mười thiện nghiệp đạo và thành tựu lợi ích vĩ đại. Giữ giới trang nghiêm cho mười thiện nghiệp đạo, thành tựu hết thảy nguyện của pháp Phật. Nhẫn nhục trang nghiêm mười thiện nghiệp đạo, thành tựu ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp và âm thanh mầu nhiệm của Phật. Tinh tiến trang nghiêm cho mười thiện nghiệp đạo, thành tựu pháp Phật và hàng phục tất cả các ma oán thù. Tư duy trang nghiêm cho mười thiện nghiệp đạo, thành tựu Văn tuệ-Tư tuệ và Tư tuệ luôn được kiên cố thanh tịnh. Bát nhã trang nghiêm cho mười thiện nghiệp đạo, thành tựu sự xa lìa mọi tà kiến. Tâm Từ trang nghiêm cho mười thiện nghiệp đạo, thành tựu tâm không giết hại tất cả chúng sinh. Tâm Bi trang nghiêm cho mười thiện nghiệp đạo, thành tựu tâm không rời bỏ tất cả chúng sinh. Tâm Hỷ trang nghiêm cho mười thiện nghiệp đạo, thành tựu tâm tu hành pháp Phật không hèn yếu. Tâm Xả trang nghiêm cho mười thiện nghiệp đạo, thành tựu tâm xa lìa yêu-ghét. Bốn nhiếp pháp trang nghiêm cho mười thiện nghiệp đạo, thành tựu tâm giáo hóa tất cả chúng sinh.”
Hỏi: Ý nghĩa của Xả là thế nào?
Đáp: Nghĩa là đối trị lòng lam, tham đắm vào năm ấm và những của cải riêng tư, phát sinh tâm Từ Bi, thâu nhiếp những việc làm đem lại lợi ích cho hết thảy mọi người, nhưng không tham đắm các pháp nhân quả giữ gìn chắc chắn sự tu hành, gọi là nghĩa của Xả.
Hỏi: Nên nói về nghĩa thành tựu Xả. Thế nào là Bồ-tát thành tựu Xả?
Đáp: Bồ-tát xa lìa những việc làm dẫn đến vui vẻ của mình, gọi là thành tựu Xả. Nghĩa này như vậy nào? Người ngoại đạo chỉ mong cầu tự vui cho nên họ bố thí. Người ngoại đạo đó dù bố thí rộng, từ bỏ tự vui đi nữa, nhưng họ bị ràng buộc do tâm niệm của cảnh giới ái, cho nên quả báo của họ rất mỏng manh. Lại có hàng Thanh văn và Bích-chiPhật, mặc dù không mong cầu quả báo yên vui của thế gian, nhưng tâm họ hoàn toàn nhận lấy Niếtbàn, từ bỏ việc làm lợi ích cho chúng sinh, chỉ chọn lấy niềm vui Niết-bàn. Vì vậy công đức nghiệp đạo bố thí của họ ít vì mọi người mà hoàn toàn vì mình, hoàn toàn nghĩ đến thành tựu quả báo lợi ích cho riêng mình. Còn Đại Bồ-tát thì vượt lên trên tất cả thế gian, chỉ vì làm lợi ích cho mọi người mà phát sinh tâm kiên cố với năng lực vĩ đại, khởi lên lòng Đại Bi, áp dụng phương pháp nhu hòa mềm mỏng cho nên việc bố thí hoàn toàn thành tựu tối thắng.
Thành tựu hạnh Xả có sáu loại nhân. Đó là:
1. Từ bỏ thú vui của riêng mình.
2. Quán sát không thấy chúng sinh.
3. Mong cầu Vô lượng pháp Phật.
4. Thâu nhiếp an trú Vô lượng đời kiếp.
5. Tu tập Vô lượng các thiện căn.
6. Không đoạn mất Tam bảo, vì có khả năng thành tựu Vô lượng quả báo. Đó gọi là nghĩa thành tựu hạnh Xả của Bồ-tát.
Vì đem lại lợi ích cho mọi người với tâm niệm một vị. Câu này có nghĩa gì? Chúng sinh ở thế gian đa số vì mình mà từ bỏ việc làm lợi ích cho mọi người. Vì mong cầu niềm vui cho mình, vì muốn được sự báo đáp ngay trong hiện tại, vì mong được hưởng quả báo trong vị lai, cho nên họ mới bố thí cho người những phẩm vật.
Các Đại Bồ-tát thì làm lợi ích cho mọi người, chuyên tâm một vị, nhận thấy các chúng sinh đều nghèo, không có tiền của, tài sản và pháp Bátnhã... Vì nghĩa này, cho nên Bồ-tát không tham đắm nhân quả, chỉ dựa vào tài thí-pháp thí, ở đời hiện tại và đời vị lai, đều có khả năng ban cho chúng sinh lợi ích to lớn. Vì vậy Đại Bồ-tát thành tựu được tâm Xả.
Lại nữa, vì Xả có nghĩa là tùy thuận. Đây là trình bày về nghĩa gì? Những việc như Bố thí… là tùy thuận thâu nhiếp hành của chúng sinh, thì có thể thâu nhiếp tất cả chúng sinh làm sự việc lợi ích to lớn. Tuy làm việc sự việc lợi ích cho người khác, mà những ngoại đạo-Thanh văn và Bích-chi-Phật… rời bỏ lợi ích của tất cả chúng sinh, chỉ vì thành tựu lợi ích của riêng mình. Dựa vào tâm Đại Từ Bi mà Đại Bồ-tát phát khởi công hạnh làm lợi ích yên vui cho chúng sinh, như Bồ-tát đã hằng mong muốn được thành tựu như vậy. Chính vì nghĩa này cho nên gọi là thành tựu tâm Xả.
Lại nữa, dựa vào việc chứng được Bồ-đề Phật mà phát sinh tâm Xả. Đây là nói rõ về nghĩa gì? Vì trao niềm vui cho tất cả chúng sinh và tự mong cầu Bồ-đề Phật mà Đại Bồ-tát phát sinh tâm Xả. Nhận thấy chúng sinh lớp lớp rơi vào đường ác, cho nên Bồ-tát tự nghĩ: Mình sẽ giúp cho chúng sinh xa lìa khổ não ngay đời này và cả những đời sau. Vì vậy Bồ-tát suốt đêm ngày luôn làm lợi ích cho chúng sinh, cho nên gọi là thành tựu tâm Xả.
Lại nữa, vì có khả năng thâu nhiếp mọi quả báo. Đây nói về nghĩa gì? Bồ-tát bố thí là làm lợi ích cho mọi người ngay bây giờ và cả mai sau. Bồtát thâu nhiếp mọi chúng sinh là muốn cho họ được mọi quả báo tốt. Đó gọi là Bồ-tát đã thành tựu tâm Xả. Như trong kinh Vô Tận Ý có nói: “Ai xin thức ăn uống thì cho thức ăn uống”. Vì mạng sống, vì yên vui, vì biện tài, vì sắc, kể cả vì năng lực, những mong cầu như vậy... Bồ-tát đều có thể thí cho tất cả. Bồ-tát vì xa lìa cầu tiền bạc cung cấp cho đời sống bằng các loại tà mạng. Đây là nói về nghĩa nào? Tham lam mong cầu được tiền của để cung phụng cho sự sống là điều trái ngược với Bố thí Ba-la-mật của các Bồ-tát. Mọi lối sống tà mạng thì Bồ-tát đều xa lìa, như trong kinh Vô Tận Ý có nói: “Đại Bồ-tát không sống theo cách sống điên đảo để cho tà mạng bức bách mong cầu của bố thí như tiền bạc cung phụng cho đời sống”.
Hỏi: Cho nên nói và Xả thanh tịnh và không thanh tịnh. Thế nào là thanh tịnh? Thế nào là không thanh tịnh?
Đáp: Đại Bồ-tát dựa vào tâm thanh tịnh của mình mà bố thí thanh tịnh. Như trong kinh Như Lai có nói: Có bốn cách bố thí thanh tịnh, là có bố thí mà thí chủ thanh tịnh chứ không phải là ở người nhận. Ở trong bốn cách bố thí đều như vậy. Người thí chủ thanh tịnh chứ không phải là người nhận của bố thí kia thanh tịnh. Đó gọi là Đại Bồ-tát bố thí thanh tịnh.
Từ người cho và người nhận đều thanh tịnh, cũng gọi là cách bố thí thanh tịnh của Bồ-tát. Vì sao? Vì Bồ-tát bố thí cho người những phẩm vật mà không mong cầu quả báo, tức là có khả năng bố thí cho hết thảy chúng sinh.
Người bố thí mà cầu được quả báo bố thí, người đó đối với người nhận chỉ được một phần thanh tịnh. Còn Bồ-tát vì xa lìa quả báo, cho nên bất cứ khi nào thân tâm của Bồ-tát cũng đều thanh tịnh. Vì tâm thanh tịnh cho nên bố thí thanh tịnh.
Vì xa lìa bỗng nhiên mà bố thí. Điều này có nghĩa gì? Vì trong kinh Như Lai có nói: “Cho có chín cách:
1. Vì gặp mà cho.
2. Sợ mà cho.
3. Trả ơn mà cho.
4. Cho vì mong cầu được trả ơn.
5. Cho vì bắt chước theo cha mẹ.
6. Cho vì được sinh lên cõi trời.
7. Cho để được tiếng khen.
8. Cho vì trang nghiêm tâm.
9. Cho vì pháp quyến thuộc, cho vì công đức tu hành, vì nghĩa cao thượng.
- Gặp mà cho, là vì gặp được ruộng phước, để cầu mong được nhiều quả báo. Lại nữa, cho vì được gặp còn có nghĩa là gần quyến thuộc, gọi là gặp mà bố thí.
- Sợ mà cho, là vì nhận thấy tất cả sự vật đều vô thường, mục nát, hư hỏng, thà đem bố thí cho người sử dụng.
- Trả ơn mà cho, là trả ơn cho nhau; người đó trước đây đã cho mình, nay mình cho nên cho lại.
- Cho vì mong cầu được trả ơn, là để cầu mong sau này mình sẽ được người ta trả ơn.
- Cho vì bắt chước theo cha mẹ, có nghĩa là bám vào công phu tu hành trong quá khứ mà khởi tâm như vậy: Cha mẹ mình thường tu hành bố thí rất tinh tiến, mình cũng cho nên thực hành bố thí như vậy.
- Cho vì được sinh lên cõi trời, là vì mong cầu được cảnh giới năm dục ở cõi trời.
- Cho vì tiếng đồn về mình, là để cho các Samôn, Bà-la-môn ở khắp bốn phương đều hay biết tiếng tăm mình, mà cho.
Bảy cách cho như vậy đều bị người trí quở trách, bởi vì không thanh tịnh.
Người Thanh văn và Bích-chi-Phật đều xa lìa niềm vui thế gian để mong cầu niềm vui Niết-bàn cho nên họ bố thí, như vậy cũng không phải thanh tịnh.
Đại Bồ-tát không tham đắm niềm vui của mình mà tâm chỉ mong cầu Bồ-đề Phật cho nên bố thí sự bố thí như vậy là thanh tịnh tối thắng trong mọi cách bố thí. Đó gọi là Bồ-tát bố thí thanh tịnh.
Bồ-tát biết như thật về Thể của mọi hành hữu vi. Câu này có nghĩa gì? Phàm phu bám chắc vào ngã tướng hư vọng hý luận với tâm điên đảo, họ chỉ mong cầu niềm vui trong cảnh giới năm dục. Vì xa lìa mắt tuệ, vì đã bị hoen ố do các phiền não dơ bẩn như ái ân... cho nên Xả không thanh tịnh, còn Đại Bồ-tát đã hiểu rõ như thật về Thể của mọi hành hữu vi là hư vọng không thật. Vì vậy Bồ-tát đã xa lìa mọi tướng chấp ngã và còn có khả năng xa lìa năm điều sợ hãi, không thấy trong ngoài có những vật dụng có thể cho.
Không thể buông bỏ, là vì còn bị ràng buộc, do tâm mong cầu lợi ích, do kẻ khác đem đến. Có khả năng xa lìa pháp dơ bẩn mà tự mong cầu niềm vui cho mình. Vì nghĩa này cho nên gọi là Xả thanh tịnh.
Dùng pháp Không quán để quán sát sự phát sinh bố thí. Câu này có nghĩa gì? Các Bồ-tát dùng Không quán để quán sát bình đẳng các pháp bố thí... vì nghĩa này, cho nên gọi là Xả thanh tịnh. Như trong kinh Vô Tận Ý, Như Lai nói: “Dùng Không quán để quán sát việc phát sinh bố thí”. Vì nghĩa này, cho nên bố thí là không thể cùng tận như vậy...
Hỏi: Nên nói đến tướng khác nhau của bố thí?
Đáp: Nói gọn thì chỉ có một cách bố thí, nghĩa là tâm không tham lam, tương ưng với tâm bố thí. Lại có hai loại: Thấy có người nhận, không thấy có người nhận.
Không thấy có người nhận của bố thí, là như để một vật trong lửa hay giữa sông Hằng.
Còn nhận thấy có thí chủ, là có người cho và có của cho. Cách cho bậc nhất cũng có hai loại: nghĩa là ô nhiễm và không ô nhiễm.
Ô nhiễm, nghĩa là theo phép nhà được sắp đặt thức uống ăn, và người dâm nữ sửa soạn thật tươm tất các phẩm vật để bố thí. Đó gọi là bố thí ô nhiễm.
Bố thí không ô nhiễm, nghĩa là bố thí cho những người nghèo khổ, cô độc... gọi là bố thí không ô nhiễm. Lại có hai cách cho, nghĩa là cho pháp và cho của tiền nuôi sống.
Cho pháp, nghĩa là xa lìa tâm niệm cúng dường, cung kính... Theo quy tắc trong giáo pháp, phải có tư tưởng xa lìa tâm ái và tâm điên đảo mà nói Tu-đa-la... Đó gọi là thí pháp.
Lại có ba cách cho, tức là hai cách cho này cộng thêm cách cho tinh thần không sợ hãi.
Cho không sợ hãi là như nói lời thế này: “Ông đừng sợ, ông đừng sợ”. Cho sự không sợ hãi, là nhận thấy các chúng sinh mắc đủ mọi thứ sợ hãi, mà ban cho họ tinh thần dũng cảm không sợ hãi.
Nghĩa này thế nào? Nghĩa là nhận thấy người khác hốt hoảng sợ hãi, ngay lúc này, luôn ban cho họ tâm không sợ hãi, và nói với họ lời này: “Ông đừng sợ! Ông không phải sợ chi cả. Tôi sẽ vì ông mà tìm phương cách như vậy này, như vậy này. Tùy cách nào thích hợp, tôi sẽ trao cho ông cách cuối cùng không còn sợ hãi nữa”. Đó gọi là bố thí không sợ hãi.
Người sợ hãi như kẻ nghèo nàn cơ cực, phải chịu nỗi buồn phiền khốn khổ, sự sợ hãi này cũng lại như vậy, phải giúp cho họ pháp đối trị là không sợ hãi.
Lại có bốn cách cho, đó là ba cách cho vừa nói, cộng với cách cho vĩ đại.
Nói cách cho vĩ đại, là thọ trì năm giới. Đây là pháp thí thật vĩ đại mà Đức Như Lai đã nói, vì nó có khả năng thâu nhiếp Vô lượng chúng sinh, thành tựu sự yên vui cho Vô lượng chúng sinh, chứ đem tiền của hỗ trợ sự sống và các thức uống ăn để bố thí, thì không thể làm lợi ích cho chúng sinh một cách rộng khắp. Người thọ trì năm giới có khả năng làm lợi ích, suốt đời thọ trì năm giới, thì trong mỗi ý niệm nuôi lớn thêm công đức, vì nương vào tâm căn bản kia, mà có khả năng tạo cho nên sự tích tụ các công đức, mãi cho đến khi mạng căn không còn nữa.
Lại có bốn cách cho, bốn cách cho này nói gọn thành hai:
1. Không sạch.
2. Sạch.
Trong không sạch có hai loại khác nhau:
1. Cho vì sợ hãi.
2. Cho vì mong cầu được trả ơn.
Vì nghĩa gì gọi là không sạch? Ví như thửa ruộng ở thế gian, vì che lấp bởi chông gai và cỏ dại, cho nên gọi là không sạch. Đây cũng như vậy, vì sợ hãi mà mong cầu được trả ơn, cho nên gọi là cho không sạch.
Sự cho sạch cũng có hai loại khác biệt:
1. Cho với tâm cung kính tôn trọng.
2. Cho với lòng Từ Bi.
Trừ bốn cách cho này ra còn có cách cho tốt đẹp cao thượng hơn hết, như bài kệ nói:
Thấp cầu có sự sống
Thấp quá sợ mà cho,
Người trí cho kính trọng,
Trí hơn cho Từ Bi.
Lại có bốn cách cho:
1. Cho là vì lợi ích của mình chứ không phải vì lợi ích của mọi người.
2. Vì lợi ích của mọi người mà cho chứ không phải vì lợi ích của mình.
3. Cho vì cả hai đều lợi ích.
4. Cho vì cả hai đều không lợi ích.
Cho là vì lợi ích của mình chứ không phải vì lợi ích của mọi người, có nghĩa là phàm phuThánh nhân, khi phải điều phục xa rời phiền não, hoặc có người không phải là điều phục xa rời phiền não, có lúc thí cho chư Phật Như Lai, có lúc thí cho hình tượng-chùa tháp, đó gọi là vì lợi ích của chính mình mà cho, chứ không phải vì lợi ích của mọi người.
Cho là vì lợi ích của mọi người chứ không phải vì lợi ích của mình, nghĩa là A-la-hán, A-na-hàm... ngoại trừ vì quả báo trong hiện tại mà thí cho chúng sinh. Đó gọi là vì lợi ích của mọi người mà cho chứ không phải vì lợi ích của mình.
Cho vì cả hai đều được lợi ích, nghĩa là cho vì phàm phu đã dẹp bỏ phiền não, hoặc vì phàm phu chưa dẹp bỏ phiền não, đó gọi là cho vì cả hai đều lợi ích.
Cho vì cả hai đều không lợi ích, ngoại trừ vì quả báo trong hiện tại, nghĩa là A-la-hán, A-nahàm... vì chùa tháp mà bố thí, đó gọi là cho vì cả hai đều không lợi ích.
Lại có cách nói gọn: Các Đại Bồ-tát có bốn cách cho mà hết thảy đều có khả năng thâu nhiếp mọi thiện căn. Đó là:
Cho với tâm bình đẳng.
Cho vì đối trị.
Cho vì hồi hướng đại Bồ-đề.
Cho vì dựa vào tịch diệt.
Làm đầy đủ như vậy thì các Đại Bồ-tát đã thực hành Bố thí Ba-la-mật. Bố thí là như vậy, cho nên biết.
Hỏi: Cho nên nói về quả báo của bố thí. Thế nào là quả báo bố-thí?
Đáp: Nói gọn thì bố thí có một quả báo, đó là thọ dụng.
Lại có hai loại quả báo, đó là nhận của trong hiện tại và nhận của trong vị lai.
Lại có ba loại quả báo, tức là hai loại này cộng thêm Bát nhã. Lại có bốn loại quả báo:
1. Có quả báo mà không có thọ dụng. 2. Có thọ dụng mà không có quả báo.
3. Có quả báo cũng có thọ dụng.
4. Không có quả báo cũng không có thọ dụng.
- Có quả báo nhưng không có thọ dụng, là cho mà không chí tâm, không tự tay cho, cho với tâm khinh thường.
Người ấy với cách cho như vậy, tuy cảm được Vô lượng quả báo nhưng không có thể thọ dụng, như Thiên chủ Xá Vệ, tuy có được Vô lượng các thứ châu ngọc quý báu, nhưng không có thể thọ dụng.
- Có thọ dụng nhưng không có quả báo, là mình không cho nhưng thấy người ta làm việc bố thí lại sinh tâm tùy hỷ. Chính vì nghĩa này cho nên tuy được thọ dụng, nhưng tự mình không có quả báo. Như vật của Thiên tử thì tất cả Sa-môn và Bà-la-môn... tuy có được áo cơm và sự thọ dụng, nhưng tự mình không có quả báo.
Lại như bốn binh chủng của Chuyển luân Thánh vương, tuy có được áo cơm nhưng không có được quả báo.
- Có quả báo cũng có thọ dụng, là thật tâm cho, không cho với tâm niệm khinh bỉ, như Trưởng giả Thọ Đề Lão...
- Không có quả báo cũng không có thọ dụng, nghĩa là bố thí xong thì nhân bố thí liền mất hết tất cả, hoặc làm trở ngại cho Thánh đạo xuất thế, giống như Thánh nhân xa lìa phiền não.
Lại có năm loại quả báo, đó là được mạng sống, sắc đẹp, năng lực, khoái lạc, biện tài... Như trong kinh Như Lai có nói: “Nhờ ăn mà có được mạng sống vì vậy cho thức ăn tức là cho mạng sống. Vì nhân duyên này mà đời sau cảm được mạng sống lâu dài. Như vậy cho sắc đẹp, cho năng lực, cho niềm vui, cho biện tài... đều cũng như vậy. Lại có năm loại quả báo tốt đẹp: Là thí cho cha, mẹ, người bệnh, pháp sư, Bồ-tát, thì cảm được quả báo tốt đẹp. Công ơn cha mẹ sinh thành và nuôi lớn thân mạng mình, vì vậy thí cho cha mẹ sẽ được quả báo tốt đẹp.
Người bệnh là kẻ cô độc đáng thương xót.
Chính vì nghĩa này, cho nên phát tâm Từ Bi bố thí cho người bệnh thì được quả báo tốt đẹp.
Đối với người nói pháp, có năng lực sinh ra Pháp thân và nuôi lớn thêm Pháp thân, chỉ dẫn hành vi thiện-ác; ngay thẳng-không phải ngay thẳng, điên đảo-không phải điên đảo, vì vậy người bố thí sẽ được quả báo tốt đẹp.
Các Bồ-tát đều có thể dìu dắt và đem đến cho chúng sinh nhiều lợi ích với tâm vui vẻ, không có nhân duyên mà có khả năng phát sinh tâm Từ Bi, giữ lấy nhân của Tam bảo không làm cho đoạn tuyệt. Chính vì nghĩa này, cho nên người bố thí cho Bồ-tát thì cảm được nhiều quả báo tốt đẹp.
Lại có năm loại quả báo cảm được ngay trong thân hiện tại:
1. Nhập Tam-muội Từ.
2. Nhập Tam-muội Vô tránh.
3. Nhập định diệt tận.
4. Kiến đạo.
5. Phần vị A-la-hán.
Nếu người nào Bố thí thì cảm được quả báo. Nhập định Đại Từ, là có năng lực phát tâm ban cho Vô lượng chúng sinh niềm vui sướng yên ổn. Vì ban niềm vui cho Vô lượng chúng sinh, cho nên gọi là tâm Từ. Dùng tâm Từ này mà hun đúc trau dồi tự Thể. Vì vậy, lúc ban đầu phát khởi Tammuội tâm Từ, thì người bố thí cảm được quả báo trong hiện tại.
Nhập Tam-muội Vô tránh, đều có khả năng phòng vệ các tâm phiền não của tất cả chúng sinh. Dùng tâm thâu nhiếp làm mọi lợi ích cho chúng sinh mà hun đúc tu tập tự Thể, vì vậy, ngay từ ban đầu phát khởi Tam-muội vô tránh, thì người bố thí cảm được quả báo trong hiện tại.
Nhập định diệt tận, là có khả năng thâu nhiếp Vô lượng công đức, lấy Vô lượng công đức để hun đúc, tu tập tự Thể, vì Tam-muội này giống như Niết-bàn, vì vậy ngay từ ban đầu phát khởi Tammuội diệt tận, thì người bố thí cảm được quả báo trong hiện tại.
Kiến đạo là xa lìa phiền não trong phần vị Kiến đạo, dùng năng lực của Thánh đạo mà hun đúc tu tập tự Thể. Chính vì nghĩa này, cho nên ngay từ ban đầu phát khởi Kiến đạo, thì người bố thí cảm được quả báo trong hiện tại.
Quả báo A-la-hán, là xa lìa tất cả phiền não của phần vị Tu đạo, tâm được tự tại, vì vậy, ngay từ ban đầu phát khởi quả báo của A-la-hán, thì người bố thí cảm được quả báo trong hiện tại.
Quả báo bố thí của Đại Bồ-tát, như kinh Vô Tận Ý và trong tất cả các kinh khác đều đã nói rộng, cho nên biết.
Các Đại Bồ-tát... tu tập và thực hành bố thí, luôn hơn hẳn tất cả sự bố thí của người khác, vì Bồ-tát xa rời việc chọn lấy niềm vui riêng mình vì mong muốn đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh mà làm việc bố thí.
Nói gọn, Bồ-tát vì mong cầu hai pháp mà thực hành bố thí:
1. Vì mong cầu có được cuộc sống Lão sang và có rất nhiều tiền của.
2. Vì mong cầu được thành tựu Ba-la-mật.
Bồ-tát khởi tâm như vậy: Nếu mình không có nhiều của cải tiền bạc, thì tuy mình vốn có tâm bố thí nhưng lại không có của cải tài sản để bố thí, thì không làm đầy đủ việc bố thí. Vì vậy, Bồ-tát mới phát tâm muốn thành tựu cuộc sống Lão sang và nhiều tiền của để bố thí cho chúng sinh.
Dựa vào pháp bố thí, Bồ-tát cho một cách bình đẳng, không phân biệt kẻ oán người thân, mọi người đều nhận được lợi ích như nhau. Bồ-tát thấy bố thí theo cách này thành tựu được Vô lượng phước đức. Nói gọn thì có hai mươi lăm loại:
1. Có khả năng thâu nhiếp tất cả thù oán.
2. Luôn luôn cung cấp giúp cho tất cả chúng sinh những vật dụng như cơm áo...
3. Tâm niệm không hèn yếu.
4. Những người thân không ức hiếp.
5. Thường được mọi người cung kính, tin tưởng và tôn trọng.
6. Tất cả quyến thuộc đều tin nhận lời Bồ-tát nói.
7. Lúc đi vào đại chúng mà tâm không run sợ.
8. Tất cả kẻ thù oán không có thể gây tổn hại.
9. Thân thuộc cảm thấy hoan hỷ.
10. Quả báo trong hiện tại thì đời sống vật chất thường có chứ không thiếu thốn.
11. Thường được mọi người đến cầu xin.
12. Mọi việc mình làm đều được thành tựu.
13. Những người xung quanh mình đều có lòng kính mến.
14. Những kẻ không kính mến đều rời xa.
15. Hết thảy thành tựu về lợi ích của thế gian và xuất thế gian đều thù thắng, thường được tất cả bà con mến mộ.
16. Nếu không đem lại lợi ích cho tất cả mọi người thân thuộc thì Bồ-tát luôn thấy âu lo phiền muộn.
17. Ngăn ngừa hết thảy mọi điều ác.
18. Tự mình khiến cho an trú trong các pháp thiện.
19. Thấy thần thông của người khác mà tâm Bồ-tát không hân hoan, sùng bái.
20. Luôn luôn ca ngợi tất cả công đức.
21. Che giấu tất cả lỗi lầm của người khác.
22. Từ bỏ hết những gì trái với tướng trượng phu.
23. Thành tựu tất cả các tướng đại trượng phu.
24. Không có người nghèo khổ thấp kém ăn xin nào thấy Bồ-tát là thí chủ.
25. Mọi việc mong cầu đều đầy đủ như tâm nguyện.
Vì vậy, Đại Bồ-tát thấy pháp bố thí sâu xa này có Vô lượng công đức như vậy... và vì muốn đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh, mà tự mình có thể thành tựu năng lực như vậy.
Tin tưởng vui vẻ bố thí, bởi vì dựa vào niềm tin vui vẻ khi thực hành bố thí, cho nên có thể đầy đủ Bố thí Ba-la-mật.
Hỏi: Từ tâm niệm thù thắng mà thành tựu quả báo bố thí thanh tịnh, hay là từ ruộng phước tốt đẹp mà thành tựu quả báo bố thí thanh tịnh?
Đáp: Có người nói: Từ tâm niệm thù thắng mà thành tựu quả báo bố thí thanh tịnh. Vì sao? Vì hiện tại trông thấy làm việc bố thí là một mà quả báo có nhiều khác biệt, cũng như chủng tử vậy. Nghĩa này thế nào? Cũng như hạt giống và đất... là một, nhưng dựa vào hạt giống và mà thấy có quả tốt đẹp. Những vật để Bố thí như vậy cũng là một, mà dựa vào tâm niệm thù thắng, thậm chí bố thí cho các loài súc sinh... với tâm lực thù thắng thì cũng cảm được quả báo của hàng người trời, quả báo của Chuyển luân Thánh vương, Thanh văn và Bích-chi-Phật và Bồ-đề Phật. Chính vì nghĩa này mà dựa vào tâm thù thắng thì cảm được quả báo thù thắng.
Vì vậy có thể biết tâm thù thắng là quan trọng. Đây lại có nghĩa gì? Nếu sự bố thí là quan trọng, dựa vào sự Bố thí mà thành tựu quả báo bố thí thanh tịnh, xa lìa sự bố thí quan trọng mà dùng tâm Từ Bi thí cho súc sinh, thí cho ruộng phước, như bố thí cho Phật thì không thể thành tựu quả báo bố thí thanh tịnh. Nhưng nếu xa lìa những tâm niệm vui vẻ, tốt đẹp, tôn trọng... mà bố thí cho Đức Như Lai, thì sẽ được thành tựu quả báo của sự bố thí thanh tịnh mà thật sự là không thành tựu. Chính vì nghĩa này cho nên thành tựu quả báo bố thí thanh tịnh, tâm là nhân thù thắng, mà sự bố thí ruộng phước có khả năng nảy sinh tâm niệm tốt đẹp.
Dựa vào nghĩa này cho nên trong kinh Đức Như Lai đã ca ngợi về ruộng phước.
Lại có người nói: Dựa vào ruộng phước tốt đẹp, dựa vào sự bố thí quan trọng mà thành tựu quả báo thanh tịnh. Vì sao? Vì nghe nói bố thí nhưng không biết ruộng phước cảm được quả báo tốt đẹp? Việc này có nghĩa gì? Vì không biết được công đức ruộng phước của chư Phật Bố thí chư Phật cảm được quả báo tốt đẹp. Như có con khỉ thí mật cho Đức Như Lai và Bà-tư-tra-cathi-ca... Lại như người nữ với tâm niệm yêu thương đem các cờ phướn, lọng báu và tràng hoa tươi đẹp…, mà tâm vốn có thật sự muốn cúng dường tháp của đứa trẻ, nhưng thực sự là cúng dường tháp của Bích-chi-Phật, nhưng nói đó là tháp của đứa trẻ. Cảm được Vô lượng phước là từ Bích-chi-Phật, chứ không từ tâm niệm ban đầu đến bên đứa trẻ mà cảm được phước. Vì nghĩa này, từ ruộng phước tốt đẹp và từ sự bố thí quan trọng mà cảm được quả báo tốt đẹp, chứ không do tâm mà được. Vì vậy biết tự bố thí ruộng phước là quan trọng.
Lại có người nói: Không biết ruộng phước, không có ruộng phước, thì không thành tựu được quả báo bố thí thanh tịnh. Như có một người thí cho Ni-kiền-tử mà sinh ý tưởng là A-la-hán, không thành tựu được quả báo thanh tịnh.
Lại có người nói: Tâm-ruộng phước và sự Bố thí, cả ba loại cùng hòa hợp. Đây là nói rõ nghĩa gì? Nếu người bố thí từ sự tôn trọng mà khởi tâm bố thí, biết ruộng phước... có Vô lượng công đức, và may mắn gặp được ruộng phước của chư PhậtNhư Lai, hoặc đôi khi gặp đệ tử của Như Lai, với tâm tôn trọng mà khởi tâm bố thí, những vật đáng Bố thí đều là sự việc khó bỏ mà có thể bỏ để Bố thí. Ba loại hòa hợp mới thành tựu được quả báo thanh tịnh, mà tâm là quan trọng. Bởi vì nghĩa này, cho nên trong ba loại này chỉ riêng tâm là quan trọng, là tốt đẹp hơn cả. Tâm là người chủ có thể buông bỏ, là người chủ có thể bố thí.
Hỏi: Chủ buông bỏ và chủ Bố thí có gì khác biệt?
Đáp: Có người đến cầu xin, đem vật của người khác mà cho là chủ có thể Bố thí, còn đem vật dụng của mình mà cho là chủ có thể buông bỏ. Lại có người đến xin, đem vật dụng của mình mà cho cũng là chủ có thể Bố thí. Nếu có người khởi tâm cầu xin vật quý trọng, nhưng họ im lặng không nói ra mà mình lại biết được liền cho, là chủ có thể buông bỏ. Lại vào lúc Bố thí vật dụng mà tâm keo kiệt liên tục khởi lên ngăn cách là chủ có thể Bố thí. Nếu không có tâm keo kiệt liên tục khởi lên thì đó là chủ có thể buông bỏ. Vả lại, tuy Bố thí vật dụng cho người mà vì tâm keo kiệt, cho nên tự cầu quả báo của mình, là chủ có thể Bố thí. Nếu Bồ-tát vật dụng cho người không vì tâm keo kiệt mà chỉ cầu của quả báo của mình, thì đó là chủ có thể buông bỏ. Vả lại, từ bỏ những tâm niệm vui mừng... mà thực hành bố thí, là chủ có thể Bố thí. Cùng với tâm hoan hỷ suốt trong ba thời gian, mà tâm Bố thí không hề hối tiếc, là chủ có thể buông bỏ.
Nếu Bố thí mà cầu quả báo tốt đẹp ở vị lai, thì đó là chủ có thể Bố thí. Từ bỏ quả báo thế gian, chỉ mong cầu phần vị Niết-bàn là chủ có thể buông bỏ. Nếu Bố thí mà mong cầu quả báo trong hiện tại-vị lai và phần vị Niết-bàn là chủ có thể Bố thí. Nếu phát tâm mong cầu phần vị đại Bồ-đề, chỉ có tâm Đại Bi bố thí cho chúng sinh, là chủ có thể buông bỏ. Tiếp theo nói về thành tựu khéo biết phương tiện hồi hướng.
Hỏi: Tại sao nói đến khéo biết phương tiện hồi hướng sau khi nói về giữ giới và bố thí?
Đáp: Vì muốn chỉ rõ công đức của đạo khác. Nghĩa này thế nào? Người ngoại đạo... thì mong cầu niềm vui cho mình, còn người tu hành giữ giới bố thí đều vì hồi hướng cho ba cõi.
Người Thanh văn và Bích-chi-Phật..., cũng vì chính mình mong cầu niềm vui Niết-bàn, mà tu tập giữ giới-bố thí để hồi hướng Niết-bàn.
Các Đại Bồ-tát đem lại lợi ích cho chúng sinh, mong cầu đại Niết-bàn, dùng tâm Từ Bi một vị bình đẳng ban vui cho chúng sinh, vui với tu hành giữ giới-bố thí mà hồi hướng quả vị Đại Bồ-đề vô thượng. Vì giữ giới-bố thí... thì cũng giống với ngoại đạo-Thanh văn và Bích-chi-Phật. Vì vậy, Đức Như Lai chỉ rõ công đức thù thắng rồi nói pháp hồi hướng tiếp sau khi nói về giữ giới và bố thí.
Sau đây là nói đến khéo biết phương tiện hồi hướng. Tu tập-giữ giới và bố thí với tâm niệm tham đắm dục lạc trong quả báo của thế gian, thì khó có thể đề phòng. Vì vậy, sau khi nói về giữ giới và bố thí, Đức Như Lai tiếp tục nói đến khéo biết phương tiện hồi hướng.
Việc này có nghĩa gì? Vì giữ giới-bố thí... không phải là thực hành Tam-muội, chỉ nhận được quả báo của cảnh giới sắc thanh tịnh, mầu nhiệm... trong hàng trời, người ở cõi Dục, mà cảnh giới của sắc mầu nhiệm thanh tịnh đó, dù đã đem tâm phòng ngừa mọi phiền não như tham đắm... nhưng vẫn không thể lìa khỏi chúng được. Vì sao? Vì tập khí tham ái đã ngấm sâu vào con người từ vô thỉ trong quá khứ đến nay, đắm vào cảnh giới đó bằng tâm chọn lấy những cảnh giới của sắc... kia, cho nên không dễ gì phòng vệ. Nhưng khi các Bồ-tát còn tu hành pháp phương tiện, thì lúc đó, tuy Bồtát vẫn chưa xa lìa phiền não như tham đắm... nhưng vì Bồ-tát tu tập giữ giới-bố thí, cho nên các phiền não tham đắm... không thể làm hoen ố tâm của Bồ-tát.
Lại vì đoạn trừ nghi ngờ cho nên sau khi Đức Như Lai nói về giữ giới và bố thí, tiếp theo mới nói đến Bồ-tát khéo biết phương tiện hồi hướng. Đây là chỉ rõ nghĩa gì?
Trong thế gian có người ngờ vực là Bồ-tát không xa lìa phiền não mà vẫn tu tập giữ giới và bố thí... vì căn tánh khôn lanh cho nên quán sát biết tất cả pháp hữu vi đều là Khổ-Không-Vô thường, còn lúc tu tập, giữ giới và bố thí, thì các phiền não như tham đắm... có làm hoen ố Bồ-tát hay không làm hoen ố Bồ-tát? Vì đoạn trừ nghi ngờ cho đến không ấy mà nói đến điều này. Bồ-tát lúc bấy giờ vì muốn lợi ích cho tất cả chúng sinh, mà từ bỏ mọi lợi ích của riêng mình, cho đến không mong cầu quả báo vui sướng của địa vị. Chuyển luân Thánh vương. Chỉ muốn đem niềm vui cho đến tất cả chúng sinh, mà Bồ-tát mong cầu Bồ-đề Phật: Có bao nhiêu thiện căn, Bồ-tát đều hồi hướng Niết-bàn. Chính vì nghĩa này, tuy chưa lìa khỏi thế gian, nhưng Bồ-tát không bị ô nhiễm do những lỗi lầm tai hại mà tất cả thế gian mắc phải.
Dựa vào giới thanh tịnh cho nên hồi hướng thanh tịnh. Đây là làm rõ nghĩa gì? Vì dựa vào năng lực giữ giới thanh tịnh, cho nên Bồ-tát có thể buông bỏ, nhờ năng lực buông bỏ cho nên các pháp mà Bồ-tát đã mong cầu đều hoàn toàn thành tựu. Vì vậy, Đức Như Lai sau khi nói về giữ giớibố thí, tiếp tục nói đến phương tiện hồi hướng. Trong kinh Như Lai có nói: “Người giữ giới nếu đã mong muốn điều gì, đã thực hiện điều gì, thì cũng đều được thành tựu. Vì sao? Vì Bồ-tát luôn giữ giới thanh tịnh.”
Hỏi: Cho nên nói về nghĩa của hồi hướng và nói đến nghĩa của phương tiện. Thế nào là nghĩa hồi hướng? Thế nào là nghĩa phương tiện?
Đáp: Nếu đem mọi thiện căn công đức có được ở nơi khác, mà hướng về Bồ-đề Phật, thì gọi là hồi hướng. Lại dựa vào Bồ-đề Phật, phát tâm tu hành Vô lượng pháp môn, ở trong tất cả thời gian-tất cả nơi chốn đều tích tập các thiện căn. Vì muốn chứng ngộ được Nhất thiết chủng trí, mà dựa vào cảnh giới Bát nhã của Thế đế, vận dụng phương tiện hồi hướng khiến cho tất cả đều chuyển đến Nhất thiết chủng trí. Việc này có nghĩa gì? Vì các Bồ-tát đều dựa vào cảnh giới Bát nhã của Thế đế, biết nhân giống như quả, tu nhân hữu lượng với tâm niệm sâu xa, thành tựu những công đức về đạo bất cộng của Bồ-tát, tăng trưởng pháp thù thắng đưa vào trong Vô lượng quả báo. Vì vậy gọi là phương tiện hồi hướng.
Lại cùng hồi hướng thù thắng, đây là nói rõ nghĩa gì? Nói gọn là Đại Bồ-tát có hai cách hồi hướng. Đó là:
- Cùng hồi hướng.
- Thắng hồi hướng.
Cùng hồi hướng; tất cả thiện căn đều hồi hướng về trí Nhất thiết trí.
Thắng hồi hướng; như trong kinh Vô Tận Ý ở phần quả Bố thí có nói: “Cần ăn thì cho ăn để có đủ mạng sống, biện tài, sắc đẹp, năng lực, niềm vui. Cần uống thì cho uống, để từ bỏ mọi khát ái. Như vậy Bố thí y phục thì được sắc đẹp, Bố thí phương tiện chuyên chở thì được niềm vui, Bố thí đèn thì mắt được sáng, Bố thí âm nhạc thì được thiên nhĩ thanh tịnh. Như vậy, cho đến Bố thí cả tủy não, thì được thân kim cang kiên cố, không tan rã...
Lại nữa, cùng hồi hướng là ban niềm vui cho tất cả chúng sinh. Thắng hồi hướng là đối với người chưa phát sinh tín tâm thì khiến cho phát sinh tín tâm. Nếu người có phá giới thì khiến cho có thể trì giới. Nếu người không có văn tuệ thì khiến cho có được văn tuệ. Nếu người có lười nhác thì khiến cho có thể tinh tiến. Nếu người có hay quên thì khiến cho được nhớ mãi. Nếu người tâm tán loạn thì khiến cho có thể thiền định. Nếu người không có trí tuệ thì khiến cho được trí tuệ. Nếu người có keo kiệt tiếc nuối thì khiến cho thành tựu tâm buông xả.
Vả lại, cùng hồi hướng là làm cho đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật. Thắng hồi hướng là vì từ bỏ mọi việc bên ngoài. Vì khiến cho tất cả chúng sinh có được cuộc sống Lão sang với đầy đủ của cải, cho nên Bồ-tát xả tất cả những phần tay chân cùng với các căn, vì muốn làm cho tất cả chúng sinh đều đầy đủ các căn và tay chân...
Với các phương tiện hồi hướng như vậy..., đã được nói rộng trong các kinh, cho nên biết.
Lại nữa, Bồ-tát vì muốn thanh tịnh các cõi nước của chư Phật cho nên hồi hướng. Nghĩa này thế nào? Bồ-tát vì muốn làm thanh tịnh có bốn nghĩa, đối với bố thí và các pháp thiện đều hồi hướng về Bồ-đề Phật. Bốn nghĩa ấy là:
1. Vì muốn thanh tịnh cõi nước của chư Phật.
2. Vì muốn thanh tịnh tâm Bồ-đề.
3. Vì muốn giáo hóa tâm của chúng sinh được thuần thục thanh tịnh.
4. Vì muốn thanh tịnh tất cả pháp Phật. Nhưng Bồ-tát hoàn toàn không vì đạt được quả vị ở thế gian mà hồi hướng, không vì cầu mong niềm vui cho riêng mình, mà hồi hướng, không vì chọn lấy quả vị Thanh văn và Bích-chi-Phật mà hồi hướng. Vả lại, Bố thí bình đẳng xa lìa mọi nhân mà hồi hướng, vì các Bồ-tát chọn lấy nhân của Nhất thiết chủng trí, cho nên Bồ-tát khéo biết phương tiện hồi hướng.
Bồ-tát có bốn sự việc làm tiêu tan hết công đức bố thí:
1. Không hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
2. Mong cầu sinh vào cõi trời, người ở thế gian.
3. Không có phương tiện hồi hướng.
4. Gần gũi ác tri thức.
Như vậy các thiện căn có được từ những việc Bố thí của Bồ-tát đều mất hết.
Nếu Bồ-tát thực hành bố thí... Như ba loại pháp thường hiện tiền, thì lúc ấy, công đức bố thí... của Bồ-tát đều xa lìa nhân tố làm cho mất hết, có khả năng thành tựu Nhất thiết chủng trí. Ba pháp đó là:
1. Tâm Bồ-đề chánh biến tri.
2. Thương xót chúng sinh.
3. Không trái với lời Như Lai dạy.
Lại dùng để thâu nhiếp các phương tiện. Đây là nói rõ nghĩa gì? Dù chỉ thâu nhiếp một thiện căn nhỏ nhưng các Bồ-tát cũng có thể thành tựu được quả to lớn. Đó là vì chúng sinh ở thế gian làm việc bố thí, họ chỉ chọn lấy quả báo của cõi trời và người. Còn các Đại Bồ-tát thì đem công đức bố thí đó để nhận lấy Bồ-đề Phật. Chính vì nghĩa này cho nên Bồ-tát thành tựu phương tiện hồi hướng. Như trong kinh Như Lai Phương Tiện nói: “Này Thiện nam! Đại Bồ-tát dùng trí phương tiện, thậm chí nhịn ăn một bữa để thí cho một người, thì có thể bố thí đầy đủ cho mọi chúng sinh. Vì sao? Vì Bồtát có trí tuệ phương tiện, dùng một bữa ăn, thậm chí đem thí cho súc sinh, mà tâm Bồ-tát luôn nhớ nghĩ đến tất cả chúng sinh, đem thiện căn ấy đều nguyện hồi hướng về Nhất thiết chủng trí. Bồ-tát bố thí cho tất cả chúng sinh vì hai việc:
1. Mong cầu phần vị Nhất thiết trí.
2. Hồi hướng đại Bồ-đề.
Lại nữa, này Thiện nam! Đại Bồ-tát dùng sức phương tiện mà bố thí, lúc bố thí đều vận dụng đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật. Vì sao? Vì khi nhìn thấy kẻ ăn xin, các Đại Bồ-tát tự nhiếp phục tâm keo kiệt-ganh ghét, nuôi lớn tâm Đại Xả, mà thành tựu được Bố thí Ba-la-mật. Lại nữa, các Bồ-tát vì tự thân trì giới mà bố thí cho người trì giới, tất cả những người phá giới thì Bồ-tát khiến cho họ thành tựu trì giới, đó gọi là Trì giới Ba-la-mật của Đại Bồ-tát.
Lại nữa, Bồ-tát thực hành bố thí với tâm Từ, tâm không giận và tâm định, đó gọi là Nhẫn nhục Ba-la-mật của Đại Bồ-tát. Lại nữa, Bồ-tát bố thí với nghiệp thân-miệng-ý theo pháp Khư-đà-ni, Bồ-xà-ni... với đủ mọi cách thức trong việc uống ăn-đi lại-tới lui-ngơi nghỉ, đó gọi là Tinh tiến Ba-la-mật của Đại Bồ-tát.
Và khi bố thí, các Bồ-tát đều chuyên tâm nhất niệm hoan hỷ không tán loạn, không mong cầu việc gì khác, đó gọi là Thiền Ba-la-mật của Đại Bồ-tát.
Và khi bố thí, các Bồ-tát đều quán sát pháp tướng; ai có thể Bố thí và ai có thể thọ nhận của bố thí, ai thọ nhận quả báo? Bồ-tát quán sát như vậy và không thấy một pháp nào, vì không thấy một pháp nào cho nên ai là người Bố thí-ai là người thọ nhận-ai thọ nhận quả báo đều không. Đó gọi là Bát nhã Ba-la-mật của Đại Bồ-tát. Những phương tiện như vậy... đều là phương tiện hồi hướng đã được nói rõ trong kinh Như lai phương tiện, nên biết.
Hỏi: Cho nên nói về hồi hướng thanh tịnh và không thanh tịnh. Như trong bố thí có thanh tịnh và không thanh tịnh, thì trong hồi hướng này cũng có thanh tịnh và không thanh tịnh như vậy. Vậy thế nào là thanh tịnh? Và thế nào là không thanh tịnh?
Đáp: Nhân và quả tu hành đã được nói rộng trong tất cả các kinh, nên biết! Tiếp theo nói về thành tựu tâm Từ.
Hỏi: Vì sao Đức Như Lai nói về khéo biết phương tiện hồi hướng, tiếp đến mới nói về thành tựu tâm Từ?
Đáp: Vì giữ giới và bố thí là thuộc về tâm tán loạn, do đó bao nhiêu công đức tu tập nghiệp đạo, nhất định cảm được quả báo ở cõi Dục, Bồ-tát thì dùng phương tiện hồi hướng mà thâu nhiếp mọi quả báo đã quyết định của cõi Dục, chuyển trở lại để cầu Đại Bồ-đề là chỉ rõ quả đó chứ không nhất định là chỉ rõ năng lực khéo tu tập đạo Bồ-tát.
Lại nữa, trì giới-bố thí là công đức Tu đạo của tâm Tam-muội, quyết định cảm được quả báo ở phần vị thiền định. Bồ-tát dùng phương tiện hồi hướng để thâu nhiếp mọi quả báo quyết định ở phần vị thiền, chuyển trở lại để cầu Đại Bồ-đề là chỉ rõ quả đó chứ không nhất định chỉ rõ năng lực khéo tu tập đạo Bồ-tát. Vì vậy, Đức Như Lai nói là phương tiện hồi hướng.
Tiếp theo, nói về thành tựu tâm Từ thì câu này có nghĩa gì? Vì các phàm phu không biết như thật về pháp giới chân thật, cho nên từ vô thỉ đến nay đã tu tập mà không có trí. Vì không có trí cho nên họ không có khả năng lìa khỏi các pháp ngã và ngã sở. Bởi vì chấp sai lầm về ngã và ngã sở làm cảnh giới của sắc mà bị tâm ái trói chặt. Vì vậy, tâm thường cầu quả báo ở thế gian và gây ra rất nhiều điều ác, tự nhiên thành tựu quả báo thế gian, cho nên tu hành giữ giới-bố thí nhất định thành tựu quả báo giống như cảnh giới đó. Nhưng tâm Bồ-tát thấy được mọi lỗi lầm tai hại của thế gian, thấy được lợi ích yên vui của Niết-bàn, khéo có năng lực hiểu biết về pháp giới chân thật, khéo biết nhân duyên của các hành hữu vi, tâm Bồ-tát chỉ vì Bồđề Vô thượng mà tu tập giữ giới-bố thí..., vì muốn cứu độ tất cả chúng sinh phóng túng rơi vào hiểm nạn của thế gian. Bồ-tát trì giới-bố thí, tuy không nhận lấy quả báo của thế gian, nhưng vì chúng sinh mà Bồ-tát tu tập tất cả các hạnh, chứ không vì chọn lấy quả báo của chính mình làm tăng trưởng năng lực công đức to lớn từ sự tu tập, để tâm có khả năng thâu nhiếp các phương tiện hồi hướng và tùy thuận thành tựu quả báo ở những nơi mong cầu.
Hỏi: Nên nói về bốn Vô lượng. Thế nào là Bồtát thành tựu bốn Vô lượng? Thế nào là thành? Thế nào là biện tài của thế gian? Thế nào là Thể? Thế nào là tướng? Thế nào là chỗ khác nhau của các địa? Dựa vào nơi nào? Quan sát cảnh giới nào? Quan sát pháp nào? Thế nào là tương ưng? Thế nào là chứng đắc? Thế nào là nghĩa thành tựu?
Đáp: Thế nào là Bồ-tát thành tựu bốn Vô lượng? Bởi vì bốn Vô lượng ấy khác với ngoại đạo... Việc này có nghĩa gì? Các chúng ngoại đạo mặc dù cũng tu hành bốn hạnh Vô lượng, nhưng vì tâm ái đắm trước mọi nơi, cho nên họ chỉ thành tựu quả báo ở cõi Sắc.
Lại nữa, người Thanh văn và Bích-chi-Phật thì tất cả thiện căn đều vì chính mình. Tâm họ luôn cầu sự an vui cho tự thân, cho nên họ chọn lấy Niết-bàn. Vì sợ sự nóng bức của phiền não, cho nên họ điều phục các kiết sử. Họ tu hành Vô lượng mà không phải là vì chúng sinh. Còn các Đại Bồtát... tâm họ thường vì tất cả chúng sinh mà tu hành các hạnh, lần lượt ban cho tất cả chúng sinh, dùng tâm Từ Bi phát khởi giữ giới-bố thí..., vì muốn làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, tuy bị sự bức bách khổ não vì những tai họa lỗi lầm xấu ác của thế gian, nhưng Bồ-tát vẫn không từ bỏ các chúng sinh. Vì muốn diệt trừ mọi khổ đau phiền não cho tất cả chúng sinh, khiến họ hoàn toàn đoạn tuyệt mọi khổ não, Bồ-tát quán sát Vô lượng thân của mọi chúng sinh, trong mỗi thân có Vô lượng sự khác biệt của mọi nỗi khổ đau phiền muộn.
Hơn nữa, Bồ-tát biết như thật về tất cả các phương tiện, vì muốn cứu vớt chúng sinh ra khỏi Vô lượng khổ não kia. Bồ-tát trải qua Vô lượng thời gian, tuy nhận thấy cảnh giới Niết-bàn nhưng quán sát Vô lượng chúng sinh để biết được ai có thể thành tựu Vô lượng pháp Phật. Chính vì nghĩa này cho nên gọi là Bồ-tát thành tựu Vô lượng. Lại vì nhận lấy quả báo khắp nơi, đây là trình bày về nghĩa gì?
Vì các Đại Bồ-tát tu hành bình đẳng Vô lượng vô biên hạnh như tâm Từ Vô lượng... cho nên Bồtát thành tựu Vô lượng. Như trong kinh Vô Tận Ý: “Thánh giả Vô Tận Ý bảo Tôn giả Xá-lợi-phất: Đại đức Xá-lợi-phất! Bồ-tát tu tập tâm Từ cũng không thể cùng tận. Vì sao? Vì tâm Từ của Bồ-tát là Vô lượng vô biên.
Tu tập tâm Từ, là thế giới chúng sinh không có giới hạn, cho nên Bồ-tát tu tập tâm Từ là phát tâm che phủ khắp nơi. Này Xá-lợi-phất! Ví như hư không, không nơi nào không che khắp, tâm Từ của Bồ-tát này cũng lại như vậy, tất cả chúng sinh đều được che phủ khắp nơi. Này Xá-lợi-phất! Thế giới chúng sinh là Vô lượng vô biên, không thể cùng tận, Bồ-tát tu tập tâm Từ cũng lại như vậy, cũng Vô lượng vô biên không thể cùng tận. Vì hư không vô tận, cho nên thế giới chúng sinh vô tận. Vì chúng sinh vô tận, cho nên Bồ-tát tu tập tâm Từ cũng không thể cùng tận...”.
Lại nữa, vì đem lại sự yên ổn và công đức cho người mà Bồ-tát phát tâm tu hành. Việc này có nghĩa gì? Đại Bồ-tát tu tập bốn Vô lượng không phải vì chính mình, mà vì tất cả chúng sinh, vì tâm hoàn toàn muốn đem lại sự yên ổn và công đức cho tất cả chúng sinh cho nên Bồ-tát thành tựu. Như trong kinh Vô Tận Ý nói: “Bồ-tát Vô Tận Ý bảo Tôn giả Xá-lợi-phất: Đại đức Xá-lợi-phất! Tâm Từ này có khả năng tự hộ trì. Tâm Từ này cũng có thể làm lợi ích cho chúng sinh. Tâm Từ này không tranh cãi. Tâm Từ này có khả năng đoạn hết thảy sự giận dữ, hiềm khích và thù hận…”
Thế nào là hành? Đó gọi là có sự chán ngán? Ở đây làm rõ nghĩa gì? Dựa vào sự chán ngán có được. Bốn Vô lượng, có ở phần vị Sơ thiền ấy vốn có Vô lượng cảm được từ sự chán ngán của cõi Dục, như vậy, cho đến trong thiền thứ tư vốn có
Vô lượng sự cảm được từ sự chán ngán ở thiền thứ ba, sau đó vào lúc phát khởi phương tiện thì về sau mới hiện rõ trước mắt.
Hỏi: Những gì gọi là Vô lượng mà lấy làm phương tiện tu hành?
Đáp: Tâm Từ dựa vào sự thân thiết mà phát sinh. Câu này có nghĩa gì? Bồ-tát muốn tu hành bốn Vô lượng, thì tâm đối với tất cả chúng sinh có ba loại phân biệt: Phần thân thiết, phần oán thù, phần chẳng thân thiết-chẳng oán thù. Ở trong phần thân thiết lại làm thành ba phần, làm ba phần rồi trong ba phần đó, đối với bậc thân thiết nhất mà khởi tâm vui vẻ an ổn cùng với bậc thân thiết nhất, đó là cha mẹ và những sư tăng được tôn trọng khác. Vì từ vô thỉ đến nay tâm đã quen với những điều ác, cho nên khó có thể bình đẳng, vì vậy phải phân biệt mà báo ân như vậy. Ở trong phần thân thiết không có khả năng bình đẳng mà lần lượt chuyển đổi nhờ tu tập, mới có thể bình đẳng. Nếu tâm như trong bậc thân thiết nhất mà tăng lên, hoặc an trú bình đẳng trong phần oán thù, như tâm vui vẻ cùng với cha mẹ không khác, thì lúc ấy gọi là thành tựu tâm Từ, Tâm Bi-Hỷ và Xả cũng lại như vậy biết. Nhưng Xả Vô lượng thì từ trong phần chẳng thân thiết-chẳng oán thù mà phát khởi mới thành tựu.
Các Đại Bồ-tát không lìa bỏ phiền não, tu tập ở phần vị thiền với phương tiện Vô lượng. Nếu đoạn phiền não, thì thâu nhiếp Vô lượng của sơ thiền, như vậy bốn Vô lượng theo thứ tự sẽ thành tựu, cho nên biết.
Nói đến bốn Vô lượng, thì có ba loại: Quán về chúng sinh, quán về pháp, quán về không.
Khi mới phát tâm Bồ-đề, Bồ-tát chưa biết tướng chúng sinh, cũng giống như quán Vô lượng của Thanh văn và Bích-chi-Phật và ngoại đạo, đó gọi là Vô lượng quán chúng sinh. Các Bồ-tát ngay nơi quán chúng sinh như vậy, theo thứ tự dần dần tăng trưởng đến chỗ cao hơn hết, biết như thật về tướng của chúng sinh mà tu hành các hạnh Bồ-tát, nhưng cũng chưa biết về tướng của hết thảy các pháp hữu vi, chỉ dựa vào giả danh chúng sinh và các hành hữu vi mà khởi lên sự hý luận về tướng của chúng sinh, liền chọn lấy các hành hữu vi này cho là chúng sinh, gọi là Vô lượng quán các pháp. Các Bồ-tát có thể biết như thật về tướng của hành hữu vi mà đạt được pháp Nhẫn vô sinh. Thuận theo tâm từ về sau tiếp tục phát sinh Bát nhã quán sát bình đẳng, gọi là tâm Từ, là Vô lượng, vô quán, như Giác phần cùng tâm Từ tương ưng. Đây là nói rõ nghĩa gì? Như tâm Từ, về sau tiếp tục phát sinh Trạch pháp giác phần mà gọi là Từ.
Sau Từ Vô lượng như vậy, tiếp tục được Bát nhã quán sát bình đẳng, gọi là từ Vô lượng, đó gọi là Vô lượng vô quán.
Vì ban cho người khác niềm vui bằng tâm Từ, mà các Đại Bồ-tát phát khởi tất cả các hạnh. Đây là có nghĩa gì? Vì các Đại Bồ-tát đã phát khởi các hạnh, tất cả đều từ tâm Từ mà sinh ra. Vì làm lợi ích và làm cho chúng sinh khác được yên ổn, vì đạt được pháp Nhẫn vô sinh, mà Bát nhã của Đại Bồ-tát thuận theo tâm Từ phát sinh, mang lại niềm vui yên ổn cho tất cả chúng sinh, giống như tâm Từ cho nên nói là Từ.
Pháp của cảnh giới Thế đế và pháp của cảnh giới Đệ Nhất nghĩa đế lần lượt cùng dựa vào nhau tăng trưởng phát sinh sức mạnh, có thể tu hành rộng ra mà thành tựu Vô quán, gọi là khéo thanh tịnh, gọi là tâm Từ.
Thế nào gọi là cảnh giới của Thế đế làm nhân cho Bát nhã? Bởi vì các Bồ-tát thấy thể của các pháp, dựa vào tâm Từ Bi mà quán sát chúng sinh, khiến cho mọi việc làm không rơi vào địa Thanh văn và Bích-chi-Phật. Vì nghĩa này cho nên không từ bỏ chúng sinh mà làm mọi chuyện, đó gọi là cảnh giới của thế đế và các pháp như Từ Bi làm nhân cho Bát nhã.
Thế nào gọi là cảnh giới của Đệ nhất nghĩa đế và Bát nhã làm nhân cho các pháp Từ Bi đẳng trong cảnh giới của Thế đế. Vì các Bồ-tát muốn làm thanh tịnh các pháp Từ Bi của Thế đế, vì biết dựa vào hành tướng của chúng sinh mà khởi những phân biệt, Bồ-tát quán sát những phiền não nhiễm trên hành tướng của chúng sinh. Vì biết như thật về phiền não phát sinh từ hành tướng của chúng sinh, cho nên Bồ-tát đã lìa xa tất cả mọi phiền não, biết chúng là nhân không thanh tịnh của tâm Từ... Đó gọi là Bát nhã có khả năng làm nhân cho pháp của cảnh giới Thế đế. Các Bồ-tát đều tu hành phương tiện Bát nhã như vậy để tu tập rộng rãi các hạnh, cho nên thành tựu pháp Nhẫn vô sinh. Lúc đó, Bồ-tát quán về không có, nhưng không rời bỏ nhân của mọi việc mà Bồ-tát làm vì chúng sinh. Tâm Từ hoàn toàn thanh tịnh có tên gọi là tâm Từ, gọi là tâm Từ đó gọi là Vô quán.
Thế nào là biện tài thế gian? Giải thích về danh từ Vô lượng kia bởi vì có khả năng quán sát vô biên chúng sinh, cho nên gọi là Vô lượng.
Thể là gì? Thể của tâm Từ Bi là thiện căn không giận. Vì sao? Vì nó là pháp đối trị với giận. Lại còn đối trị với phạm vi có thể nổi giận thì gọi là Từ, đối trị với phạm vi không thể sân giận thì gọi là Bi. Lại đối trị với tâm khởi lên sự từ bỏ chúng sinh thì gọi là Từ, đối trị với tâm đánh đập chúng sinh thì gọi là Bi.
Đó là vì mong cầu công đức cho nên có thể sinh ra Vô lượng, vì không tìm tòi lỗi lầm cho nên có thể sinh ra Vô lượng. Vì sao? Vì các Bồ-tát cho đến những người đoạn mất thiện căn, nếu mong cầu công đức thì thấy quả báo của nghiệp thanh tịnh, cho đến bên cạnh A-la-hán, nếu tìm lỗi lầm thì thấy quả báo của nghiệp ác. Vì sao? Vì thấy trong hiện thân của A-la-hán nhận chịu quả báo do nghiệp bất thiện mà không thấy ở quá khứ có những nghiệp còn lại không cùng tận. Nghĩa là thân này của A-la-hán tạo ra điều ác. Vì nghĩa này cho nên đối với A-la-hán không có thể phát sinh tâm Từ Bi Vô lượng.
Thể của tâm Hỷ là căn tánh vui mừng. Thể của tâm Xả là thiện căn không tham lam.
Hỏi: Nếu như vậy thì không phải là pháp đối trị với tham dục và các căn như hại...
Đáp: Không như vậy. Vì không giận là pháp tương ưng với thiện căn, cho nên mới nói như vậy. Hỏi: Nếu tâm Xả có khả năng đối trị pháp với tham, thì quán bất tịnh cũng đối trị với pháp tham chăng?
Đáp: Ông biết những pháp tham nào mà tâm Xả có khả năng đối trị không? Và những pháp tham nào mà quán bất tịnh có thể đối trị không?
Hỏi: Không biết.
Đáp: Ông có nghe nói; tánh tham sắc đẹp thì pháp quán bất tịnh có thể đoạn trừ, tánh tham dâm, thì tâm Xả có thể đoạn trừ. Bốn Vô lượng này cùng chung với tâm lần lượt làm Thể cho năm ấm.
Thế nào là tướng? Tướng ban cho chúng sinh niềm vui và sinh, làm cho chúng sinh được yên ổn, đó gọi là tướng của tâm Từ. Tướng cứu vớt chúng sinh đau khổ và tướng đoạn diệt-tướng vắng lặng mà thương xót chúng sinh, đó gọi là tướng của tâm Bi. Tướng xa lìa tâm niệm không vui là pháp đối trị với tánh ganh ghét đó gọi là tướng của tâm Hỷ. Tướng rời bỏ yêu mến và không yêu mến là pháp trái ngược với nhân làm việc lợi ích cho tất cả chúng sinh, tự nhiên buông xả tùy ý đó gọi là tướng của tâm Xả. Thế nào là sự khác nhau của địa? Trừ ra Hỷ Vô lượng, còn lại ba Vô lượng thuộc về trong sáu địa, cho nên biết. Sáu địa đó là thiền vị lai-thiền trung gian và bốn thiền căn bản, đó gọi là sáu địa.
Sơ thiền và nhị thiền có Hỷ Vô lượng, ba loại Vô lượng còn lại đều có mặt khắp trong bốn thiền, vì hỷ Vô lượng lấy hỷ căn làm Thể.
Dựa vào nơi nào? Dựa vào cõi Dục, bốn Vô lượng phát sinh ngay trong cõi Dục chứ không phải là nơi khác. Vì sao? Vì chúng sinh ở cõi Dục có nhiều nỗi khổ đau phiền não. Thấy chúng sinh đau khổ mà Bồ-tát khởi tâm ban cho niềm vui. Thấy chúng sinh đau khổ, mà Bồ-tát phát tâm cứu vớt nỗi khổ. Bởi vì ở cõi Sắc-Vô sắc không có khổ não. Đó cũng là pháp đối trị với sự não hại. Đây là nói rõ nghĩa gì? Vì bốn Vô lượng là pháp đối trị với sự não hại... Chính vì nghĩa này cho nên trong kinh nói: Tu hành tâm Từ ở bậc thấp-trung bình và cao, thì thành tựu tâm lìa bỏ sự não hại. Tu hành tâm Bi ở bậc thấp, vừa và cao, thì thành tựu sự buông bỏ tâm nóng giận. Tu hành tâm hỷ ở bậc thấp, vừa và cao, thì thành tâm lìa bỏ sự không vui thích. Tu hành tâm Xả ở bậc thấp-vừa và cao, thì thành tựu tâm lìa bỏ những pháp như tham dục não hại. Riêng ở cõi Sắc-Vô sắc hoàn toàn không có sự tham dục-não hại... Chính vì nghĩa này, cho nên ở trong cõi Dục chứ không phải là cõi Sắc-Vô Sắc, tuy ở cõi Dục chỉ có ba cõi thiên hạ, mà không có cõi Uất-đơn-việt.
Quán sát theo cảnh giới nào? Nghĩa là quán Từ là cho vui, quán Bi là cứu vớt khổ đau, quán Hỷ là cảnh giới của hoan hỷ, quán Xả là cảnh giới của buông bỏ.
Quán sát theo pháp nào? Quán sát về thân năm ấm của chúng sinh trong cõi Dục, hoặc quán sát hai ấm. Nếu cùng tâm… cùng loại thì đó là năm ấm. Nếu không cùng tâm-cùng loại, thì đó là hai ấm. Hoặc quán sát chúng sinh không có tâm, hoặc quán sát chúng sinh có một ấm, hoặc quán sát chúng sinh có hai ấm.
Hỏi: Có kinh nói: Từ Bi Hỷ Xả trùm khắp một phương trong hư không pháp giới, như vậy cho đến trùm khắp cả mười phương thế giới. Trong này chỉ nói quán sát chúng sinh, nghĩa đó thế nào? Đáp: Trùm khắp mười phương, là quán sát hết thảy chúng sinh trú ở hết thảy thế giới. Nói bao trùm khắp mười phương thế giới, không có nghĩa là vật bao trùm khắp cả mặt đất. Nói trùm khắp là chỉ rõ về nghĩa dựa vào cõi vốn có chúng sinh cư ngụ. Vả lại Vô lượng ở phần vị Sơ thiền quán về chúng sinh cõi Dục Vô lượng ở phần vị Nhị thiền quán về cõi Dục và Sơ thiền. Như vậy cho đến Vô lượng ở phần vị Tứ thiền, quán về cõi Dục cho đến Tam thiền. Lại nữa, Vô lượng ở phần vị Sơ thiền quán về cõi Dục và Sơ thiền. Như vậy cho đến Vô lượng ở phần vị Tứ thiền quán về cõi Dục cho đến Tứ thiền. Lại nữa, quán sát tâm Từ ở cõi Dục cho đến Tam thiền. Tại vì sao? Bởi vì quán sát tâm Từ là cảnh giới vui vẻ.
Lại nữa, căn tánh vui vẻ phát sinh từ cõi Dục cho đến Tâm thiền.
Quán sát tâm Bi từ cõi Dục cho đến Sơ thiền. Vì sao? Vì quán sát tâm Bi là cảnh giới đau khổ, vì chúng sinh trong cõi Dục mang nhiều sự khổ não. Nguồn gốc đau khổ phát sinh từ cõi Dục cho đến Sơ thiền.
Quán sát tâm hỷ từ cõi Dục cho đến Nhị thiền. Vì sao? Vì tâm Hỷ ấy có tướng dũng mãnh vui vẻ. Vả lại, nguồn gốc hoan hỷ phát sinh từ cõi Dục cho đến Tam thiền.
Quán sát tâm Xả từ cõi Dục cho đến Tứ thiền. Vì sao? Vì quán sát buông bỏ là tướng buông bỏ.
Vả lại, nguồn gốc buông xả phát sinh từ cõi Dục cho đến Tứ thiền. Có người nói: Tất cả Vô lượng chỉ quán sát chúng sinh ở cõi Dục.
Thế nào gọi là tương ưng? Phần vị Sơ thiền và Nhị thiền tương ưng với Hỷ căn và xả căn. Phần vị Tam thiền tương ưng với Lạc căn và Xả căn. Phần vị thiền vị lai-thiền trung gian và Tứ thiền đều tương ưng với xả căn.
Thế nào là chứng đắc? Nếu người sinh ở Tam thiền và Tứ thiền thì chứng được ba loại Vô lượng, trừ Hỷ Vô lượng. Vì sao? Vì từ Tam thiền trở lên không có Hỷ căn. Lại nữa, người sinh ở cõi Dục rời xa phiền não, và người sinh ở Sơ thiền-Nhị thiền thì chứng được bốn loại Vô lượng. Như trong kinh Như Lai có nói: “Từ Vô lượng là đến cõi Biến tịnh, và lấy đó làm giới hạn. Bi Vô lượng là đến cõi hư không và lấy đó làm giới hạn. Hỷ Vô lượng là lên đến Thức xứ và lấy đó làm giới hạn. Xả Vô lượng là đến Vô sở hữu xứ và lấy đó làm giới hạn. Vì sao? Vì căn bản Sơ thiền thâu nhiếp. Đây là nói rõ nghĩa gì? Vì Vô lượng bắt đầu từ Vô biên hư không xứ và lấy đó làm giới hạn cho nên nói như vậy”.
Có người nói: Thánh Đạo ở nơi ấy lấy danh từ Vô lượng để nói. Vì sao? Vì chúng sinh có thể giáo hóa có căn tánh như vậy, nhờ nghe danh từ Vô lượng mà tiến vào Thánh đạo.
Lại, có người nói: Dựa vào Giác phần đối trị kia mà Bồ-đề phần”. Câu nói đó có nghĩa gì? Vì Giác phần đối trị với Tam thiền, ngay nơi Giác phần ấy lấy tên của Từ mà nói. Như vậy cho đến Vô sở hữu xứ thì dựa vào pháp đối trị ấy và lấy tên của Xả mà nói.
Lại có người nói: Vô lượng là pháp tương tự”. Câu nói này có nghĩa gì? Dùng tâm Từ quán về niềm vui mà thọ nhận niềm vui, cho đến trong Tam thiền dùng tâm Bi quán về đau khổ, mà Vô biên hư không xứ trái ngược cùng với sắc. Dùng tâm Hỷ quán về không có niềm vui mà Vô biên thức xứ thì trú trong thức Hỷ. Dùng tâm Xả quán về buông bỏ mà Vô sở hữu xứ buông bỏ thì không có gì buông bỏ cho nên gọi là Xả.
Hơn nữa, trong Tu-đa-la khác nói: “Đại đức Xá-lợi-phất! Bồ-tát mới phát tâm dùng bốn Vô lượng quán sát chúng sinh, gọi là chúng sinh quán. Đại Bồ-tát tu hành các hạnh Bồ-tát, quán sát việc làm của mình cho nên gọi là pháp quán. Đại Bồtát đã chứng được pháp Nhẫn vô sinh rất sâu, cho nên gọi là vô quán.”
Hỏi: Bốn Vô lượng là quán về chúng sinh, tại sao lại nói là quán về pháp, quán về không có?
Đáp: Vì tất cả các hạnh đều làm lợi ích cho hết thảy chúng sinh, đều là pháp tương tự với tâm Từ. Câu này có nghĩa gì? Đại Bồ-tát vì các chúng sinh mà tu tập hết thảy các hạnh, đều lấy Bát nhã làm gốc, vì vậy Bát nhã lấy tâm Từ mà đặt tên. Vì tướng của tâm Từ luôn luôn mang lại niềm vui cho mọi người.
Như vậy, Bồ-tát từ bỏ niềm vui của riêng mình, Bát nhã Ba-la-mật là tướng mang lại niềm vui cho người khác. Cho nên Bát nhã lấy tâm Từ mà đặt tên. Do đó, quán về pháp và quán về không có đều là Từ Bi Bát nhã.
Lại có người nói: Tâm Từ quán về không có lấy Từ mà đặt tên. Đây là nói rõ nghĩa gì? Các Bồtát quán sát chúng sinh, lại vì chín mình mà tìm cầu phương tiện xa lìa phiền não và quán sát các hành hữu vi. Khi đạt được tâm Vô lượng sâu sắc, chính là đạt được năng lực Bát nhã rốt ráo. Bồ-tát nghĩ thế này: Những chúng sinh này bị vô trí che lấp, mà không có thể thấy biết như thật về pháp giới, mình nên khiến cho các chúng sinh kia, dần dần theo thứ tự có thể tiến vào chánh đạo.
Hơn nữa, trong Tu-la-la khác có nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo: Bảy năm Ta tu hành tâm Từ trong quá khứ, trải qua quá trình thành-hoại của thế giới, bảy lần không sinh trở lại thế giới này, cho đến được làm Chuyển luân Thánh vương trong Vô lượng trăm ngàn vạn kiếp…”
Hỏi: Nếu nói quả báo mà bốn Vô lượng có được, không phải là ở cõi Dục, thì tại sao trong kinh Như Lai lại nói là được quả báo do tu hành Vô lượng, cho đến được làm Chuyển luân Thánh vương trong Vô lượng trăm ngàn vạn kiếp?
Đáp: Vì trong kinh đó dựa vào Vô lượng của ba phần vị mà nói như vậy. Nghĩa này thế nào? Có quả báo Vô lượng của phần vị cõi Dục làm Chuyển luân Thánh vương. Có quả báo Vô lượng của phần vị Sơ thiền làm Phạm Thiên Vương. Có quả báo Vô lượng của phần vị Nhị thiền là được sinh lên cõi trời Thiểu Quang.
Lại ở cõi Dục khởi tâm Tam-ma-bạt-đề, vốn có quả báo là được làm vua Đế thích và vua Chuyển luân. Thiền ở phần vị căn bản vốn có quả báo làm Phạm Thiên Vương và sinh lên cõi trời Thiểu Quang.
Trong Tu-đa-la khác có nói: Phật bảo: Này Tỳ-kheo! Trong đời quá khứ, ngoại đạo có người thầy tên là Thiện Nhãn. Hàng ngoại đạo kia gọi thầy Thiện Nhãn là Thế Tôn. Thế Tôn Thiện Nhãn chứng được thần thông, xa rời phiền não nơi cõi Dục. Này các Tỳ-kheo! Thiện Nhãn Thế Tôn, thầy của ngoại đạo kia có Vô lượng Thanh văn, còn đệ tử thì có Vô lượng trăm, Vô lượng ngàn, Vô lượng vạn, Vô lượng trăm ngàn vạn. Này các Tỳ-kheo! Thiện Nhãn Thế Tôn-thầy của ngoại đạo kia vốn có Thanh văn giữ giới đầy đủ. Người ngoại đạo kia tu tập bốn phạm hạnh, xa rời phiền não của cõi Dục, thì được sinh lên cõi Phạm Thiên Thế. Này các Tỳ-kheo! Thiện Nhãn Thế Tôn-thầy của ngoại đạo kia vốn có nhiều đệ tử không thể tu tập đầy đủ bốn phạm hạnh, trong số đệ tử đó, hoặc cho đến người sinh lên cõi trời Tha-hóa-tự-tại, có người sinh trong loài người.
Bấy giờ, Thiện Nhãn Thế Tôn-thầy của ngoại đạo kia sinh tâm như vậy: Nay Ta không biết phải làm thế nào để đệ tử mình đi đến một nơi, sinh sống ở một nơi. Dấy lên tư duy như vậy: Ta đã dựa vào tâm Từ tu tập thiền thứ hai, sinh lên cõi trời Thiểu Quang. Này các Tỳ-kheo! Thiện Nhãn Thế Tôn-thầy của ngoại đạo kia tu tập tâm Từ vĩ đại, tiến vào thiền thứ hai, và sinh lên thiền thứ ba...”
Hỏi: Nếu các Đại Bồ-tát... làm lợi ích cho người khác mà khởi tâm bình đẳng đối với các chúng sinh, thì tạo sao tự nảy sinh tâm tốt đẹp-tâm Từ mà tu tập thiền thứ hai và sinh lên cõi trời Thiểu Quang, nhưng không nói pháp cho đệ tử sinh lên cõi trời Thiểu Quang?
Lại có kẻ hỏi: Thiện Nhãn Thế Tôn-thầy của ngoại đạo kia, có pháp đã nói tốt đẹp hơn pháp của Phật. Vì sao? Vì họ đều được sinh lên trên đường thiện, trong khi đó, Thanh văn của Như Lai có người bị rơi vào đường ác?
Đáp: Điều này không có gì sai trái. Vì sao? Vì
Bồ-tát quán xét căn cơ mà nói pháp. Đây là nói rõ nghĩa gì? Vì những ngoại đạo, Bà-la-môn kia luôn luôn suy nghĩ, đầu tiên họ cho cõi Phạm Thiên là nơi cuối cùng, tùy thuận với tâm vui thích mà sinh cõi đó, không có thể tu hành bốn Vô lượng để được sinh lên thiền thứ hai. Chính vì nghĩa này, khéo biết rõ tâm đệ tử mình, cho nên Bồ-tát không nói pháp cho họ tu bốn Vô lượng để sinh lên thiền thứ hai.
Lại bởi, vì không có năng lực. Đây là nói về nghĩa gì? Có người nói: Ngoại trừ Đức Phật xuất thế không có ngoại đạo nào có khả năng tu đủ hai thiền Vô lượng để sinh lên thiền thứ hai, chỉ trừ các Bồ-tát với năng lực vĩ đại.
Lại nói: Pháp của ngoại đạo cao hơn pháp của Phật. Nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì ngoại đạo chọn lấy quả báo thế gian.
Lại bởi vì thời tiết. Đây là nói rõ nghĩa gì? Có thời gian như vậy, có nhiều chúng sinh sinh vào đường thiện, huống là lại có Vô lượng chúng sinh tu hành Vô lượng.
Lại nói: Đệ tử của Như Lai có người rơi vào đường ác thì điều đó không phải lỗi ở Như Lai.
Lại trong Tu-đa-la khác có nói: “Có ba loại hạnh: Phạm hạnh, Thiên hạnh, Thánh hạnh”.
Phạm hạnh là bốn Vô lượng. Thiên hạnh là bốn thiền. Thánh hạnh là ba mươi bảy pháp phần Bồđề.
Hỏi: Vì nghĩa gì mà nói bốn Vô lượng gọi là Phạm hạnh?
Đáp: Vì bốn Vô lượng là nhân của Phạm Thiên, lại vì có thể chứng được trong thân của người tu hành, lại vì đối trị với phi Phạm hạnh.
Hỏi: Vì sao các thiện căn ở trong cõi Sắc chỉ nói Vô lượng thì cho là việc phước?
Đáp: Vì làm lợi ích cho kẻ khác. Đây là nói rõ nghĩa gì? Đa số người thế gian đều nảy sinh hình tướng công đức trong lợi ích của người khác, vì trong lợi ích khác không sinh nhiều công đức như vậy.
Hỏi: Trong Tu-đa-la khác lại có nói: Có bốn hạng người có thể sinh công đức của Phạm Thiên. Đó là:
1. Nơi thế gian này nơi nào chưa có tháp thì xây tháp ở đó.
2. Gieo trồng vườn rừng để bố thí Tăng bốn phương.
3. Hòa hợp lại trước sự phá Tăng.
4. Có thể nảy sinh bốn tâm Vô lượng”.
Nếu tu bốn tâm Vô lượng thì được quả báo sinh lên cõi Phạm Thiên, có thể nói là đã thành tựu quả báo của Phạm Thiên. Ba loại được quả báo Phạm Thiên như xây tháp... Nghĩa này thế nào?
Đáp: Dựa vào phạm hạnh mà nói cho nên không có lỗi. Đây là nói rõ nghĩa gì? Chẳng phải xây tháp... thì thành tựu quả báo Phạm Thiên. Nếu có người dựa vào phạm hạnh Như Lai mà xây tháp để thờ Xá-lợi, thì người đó có thể sinh công đức của phạm hạnh.
Lại có người dựa vào tu tập phạm hạnh, bố thí vườn rừng cho Tăng, người Bố thí như vậy, sẽ được thành tựu phước của phạm hạnh.
Lại nữa, dựa vào Thánh đạo tu tập phạm hạnh, hòa hợp sự phá Tăng cảm được quả báo của Phạm Thiên. Lại còn vì pháp tương tự kia. Đây là nói rõ nghĩa gì? Ba loại thành tựu từ hạnh như xây dựng tháp... sẽ được quả báo công đức của Phạm Thiên không phải luôn luôn như nhau. Quả báo bốn Vô lượng mà công đức kia chỉ có một phần ít nghĩa tương tự. Như người thành tựu bốn tâm Vô lượng, thì người đó đã vì sự tiếp nhận dìu dắt chúng sinh mà thành tựu Vô lượng công đức lợi ích. Đây cũng như vậy. Nếu người nào ở trong thế gian này, nơi chưa có tháp thì xây tháp thờ Xá-lợi, Bố thí vườn rừng cho Tăng, hòa hợp sự phá Tăng, người đó có thể thành tựu Vô lượng phước đức. Vì vậy cho nên nói: Tu tập bốn Vô lượng ở ba cách như xây tháp... đều có nghĩa tương tự.
Hỏi: Lượng của công đức phạm hạnh được bao nhiêu?
Đáp: Có người nói: Tùy thuộc vào những nghiệp nào mà được làm Chuyển luân Thánh vương đứng, đầu bốn châu thiên hạ và có thế lực tự tại, thì lượng của công đức phạm hạnh cũng như vậy.
Lại có người nói: Tùy thuộc vào những nghiệp nào mà được làm Đế thích vương với thế lực Tự Tại thì lượng của công đức phạm hạnh cũng như vậy.
Lại có người nói: Tùy thuộc vào những nghiệp nào mà được làm Ma vương với thế lực Tự Tại trong cõi Dục, thì lượng của công đức phạm hạnh cũng như vậy.
Lại có người nói: Tùy thuộc vào những nghiệp nào mà được sinh vào cõi Phạm Thiên, thì lượng công đức của phạm hạnh cũng như vậy.
Lại có người nói: Phạm Thiên thỉnh Phật thuyết pháp tại cung trời, nhờ đó mà được phước báo, thì lượng công đức của phạm hạnh cũng như vậy.
Hỏi: Ngoài ra còn có nhiều Tu-đa-la, trong đó Đức Như Lai đã nói: “Nếu có người có thể thành tựu tâm Từ thì công đức của người ấy, lửa không thể đốt cháy, nước không thể cuốn trôi, dao không thể cắt đứt, thuốc độc không thể hãm hại được, sống lâu không chết yểu”. Vì nghĩa gì mà nói như vậy?
Đáp: Hết thảy cảnh giới của chư Phật Như Lai là không thể nghĩ bàn, tất cả thiền định cũng không thể nghĩ bàn, tất cả các nghiệp cũng không thể nghĩ bàn.
Lại có người nói: Nếu người nào có khả năng đem lại cho vô lượng chúng sinh Vô lượng sự yên ổn, bởi vì điều này cho nên nói nhân duyên bên ngoài không có thể làm tổn hại người ấy.
Người đó lại nhớ nghĩ đến bốn đại của cõi Sắc. Đây là nói về nghĩa gì? Bởi vì người ở cõi ấy tu tập tâm Từ nhập vào tâm Từ, cho nên dựa vào cõi Sắc, được thành tựu thân bốn đại của cõi Sắc. Vì nghĩa này, cho nên các nhân duyên bên ngoài không thể nào gây tổn thương được.
Hỏi: Vì ý nghĩa gì mà trong Tu-la-la này chỉ nói tu tập tâm Từ, tâm Bi được nhiều công đức nhưng không nói đến tâm Hỷ và tâm Xả?
Đáp: Vì tu hành thì phần nhiều chú trọng đến việc đem lại lợi ích cho mọi người. Câu đó có nghĩa gì? Vì tu tập tâm Từ Bi là ban cho niềm vuicứu giúp đau khổ. Dựa vào Từ Bi mà phát tâm tu hành về Xả-bố thí... cảm được Vô lượng phước, nhưng Hỷ-Xả thì không có thể như vậy. Ý nghĩa này thế nào? Bởi vì tâm Hỷ ấy trông thấy những chúng sinh khác, mà tự mình tu tập thiện nghiệp, tự mình nhận được niềm vui, chính người đó sinh ra Hỷ. Vì vậy cho nên Hỷ và Xả cũng như vậy. Bởi vì chúng sinh kia trong tự tâm mình phân biệt về tâm giận hờn-tâm yêu thương và tâm không gây tổn hại, cho nên gọi là xả. Vì ý nghĩa này, cho nên tâm Hỷ và Xả thì phước ít, mà tâm Từ Bi thì được phước nhiều. Tâm Từ Bi là thành tựu công hạnh ban cho mọi người Vô lượng sự yên vui lợi ích, chứ sự thành tựu này không do tâm Hỷ và tâm Xả. Vì đối trị với sự giận dữ thì gọi là tâm Từ, thiện căn không giận dữ lấy Từ làm Thể, dùng nghĩa tối thắng đối trị với sự giận dữ. Vì sao? Vì tâm giận dữ cho nên rời bỏ mọi chúng sinh, ngược với việc làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Vì vậy Bồ-tát vì muốn đem lại lợi ích cho tất cả các chúng sinh mà cự tuyệt những việc làm không lợi ích. Vì vậy, trong kinh này nói đến sự tu hành được đối trị bằng tâm Từ Bi…
Phát tâm Bồ-đề, tu tập các thiện hạnh đều lấy tâm Từ Bi làm căn bản. Câu này có nghĩa gì? Chính là nói đến tâm không thối chuyển trong Tu-la-la này, thành tựu nhân cho phát tâm Bồ-đề. Tâm Bồ-đề của Bồ-tát lúc bắt đầu sắp nảy sinh là dựa vào tâm Từ Bi để làm căn bản, thì có thể tu tập Vô lượng công đức, chứ không phải là tâm hỷ và tâm Xả... Chính vì nghĩa này, cho nên trong kinh chỉ nói tâm Từ Bi phát sinh nhiều công đức, mà không nói là tâm Hỷ và tâm Xả. Vì vậy trong kinh Thập Địa có nói: “Bồ-tát ấy phát tâm Bồ-đề, tâm này lấy Đại Bi làm căn bản…” Bởi vì cuối cùng thành tựu nghiệp thân-miệng-ý Đại Từ và Đại Bi. Nghiệp thân-miệng-ý Tam-muội này dựa vào tâm Từ Bi mà phát sinh tương ưng với ban cho niềm vui gọi là tâm. Bởi vì thấy nói đến quả trong nhân của thế gian, ví như thế gian nói đến kết quả trong nhân tố ban đầu thực hiện một bức tranh. Thành tựu nghiệp của thân-miệng-ý không làm não hại, dùng tâm Bi đối trị tâm não hại để không phát sinh các nghiệp thân-miệng-ý làm, não loạn người khác.
Thành tựu sự khéo biết phương tiện.
Hỏi: Vì nghĩa gì sau khi nói về Vô lượng, tiếp theo mới nói về thành tựu sự khéo biết phương tiện?
Đáp: Vì muốn chỉ rõ cách dùng năng lực phương tiện thâu nhiếp mà tu tập bốn hạnh Vô lượng tùy thuận tâm mình mà cảm nhận quả báo, như nói tùy thuận bốn Đại. Đây là chứng minh về nghĩa gì? Nói gọn, Bồ-tát có hai loại phương tiện khéo léo làm lợi ích mà hết thảy ngoại đạo đều không có. Đó là phương tiện khéo léo Đệ nhất nghĩa đế. Họ tu hành Vô lượng mà bị tâm ái thấm nhuần cho nên cảm được quả ở cõi Sắc. Những người Thanh văn và Bích-chi-Phật, vì tâm niệm chọn lấy Niết-bàn, chấp cho là thiện căn cuối cùng, mà từ bỏ việc làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, từ bỏ Thế đế mà tạo ra các nghiệp, họ luôn chú tâm vì lợi ích của mình, không có thể tu tập như thật về bốn Vô lượng, không có khả năng đoạn tuyệt hoàn toàn mọi phiền não, họ chỉ có thể khuất phục tất cả phiền não. Còn các Đại Bồ-tát thì có khả năng biết như thật về hai pháp hữu vi và vô vi, quán sát chúng sinh không bỏ pháp hữu vi, tuy biết như thật về tịch tĩnh vô vi, nhưng vì thành tựu tất cả pháp Phật cho nên Bồ-tát không rơi vào pháp hữu vi, đem mọi việc mình làm và tu tập làm lợi ích cho chúng sinh, vì nhận biết như thật về tự tướng và đồng tướng. Vì không thể chứng được thiền định bằng tâm Tự Tại, cho nên chỉ được quả báo thanh tịnh của cõi Sắc. Tâm yêu thích của họ không thể thấm nhuần vào việc làm của bốn Vô lượng, mà tâm tùy thuận cho nên thành tựu quả báo, như tùy thuận vào bốn Đại. Việc này có nghĩa gì? Như tướng của bốn Đại không phải là thành tựu từ Đệ nhất nghĩa đế, như người thiền định do năng lực của tâm tùy thuận mà có thể rời bỏ tự tướng của bốn Đại. Đây cũng như vậy. Tuy là thành tựu tướng của pháp hữu vi, nhưng vì các Bồtát đã thanh tịnh các công đức giữ giới, đã tu tập bốn Vô lượng với năng lực của tâm tùy thuận thành tựu quả báo, nhưng không tùy thuận bốn tâm Vô lượng. Chính vì nghĩa này, cho nên Như Lai đã nói trong kinh Thánh Giả Tư Ích Phạm Thiên Sở Vấn: “Các Bồ-tát Ma-ha-tát... thành tựu bốn pháp, tu hành bốn thiền, sinh trong cõi Dục. Bốn pháp đó là:
1. Được tâm Tự Tại.
2. Đầy đủ năng lực của các thiện căn.
3. Quán sát tất cả chúng sinh.
4. Tu hành phương tiện Bát nhã”.
Vì vậy chỉ rõ phương tiện thâu nhiếp Vô lượng tu hành tùy tâm nhận quả báo. Vì lẽ đó cho nên Đức Như Lai nói pháp phương tiện sau khi đã nói về bốn Vô lượng.
Hỏi: Cho nên nói về ý nghĩa phương tiện. Thế nào là ý nghĩa phương tiện?
Đáp: Tiếp theo nói về ý nghĩa của phương tiện, có hai loại:
1. Ý nghĩa mong cầu điều khác lạ.
2. Ý nghĩa không bỏ cả hai.
Tâm tu tập các hạnh và trí tuệ quán sát gọi là phương tiện. Câu này có nghĩa gì? Về nghĩa mong cầu điều khác lạ, thì các Bồ-tát... không phải vì mong cầu chứng ngộ được phần vị của Thánh đạo hiện tiền, cũng không phải vì tâm chán ngán khổ đau phiền não của thế gian, mà muốn từ bỏ thế gian, chỉ vì làm lợi ích cho tất cả chúng sinh và vì chính mình được đại Bồ-đề. Giáo hóa chúng sinh là phương tiện, là cách chứng đạo Bồ-đề. Đem việc làm thanh tịnh Đại Bi... mà chứng pháp Bồđề, vượt lên trên phần vị tu chứng của Thanh văn và Bích-chi-Phật. Các pháp là chỗ đối trị với công đức... Bồ-tát đã chứng ngộ Thánh đạo hiện tiền, gọi là nghĩa mong cầu khác lạ.
Nghĩa không bỏ cả hai, nghĩa là tâm Bồ-tát không từ bỏ Thế đế và Đệ nhất nghĩa đế. Điều này có nghĩa gì? Vì thấy rõ tất cả pháp hữu vi đều là vô thường, cho nên Bồ-tát quán sát chúng sinh mà không từ bỏ mọi pháp hữu vi, không xa lìa pháp hữu vi, không từ bỏ pháp vô vi. Như vậy, Đại Bồtát thực hành Bát nhã là nhân của không thối chuyển, cho nên nói là phương tiện. Như Thánh giả Văn-thù-sư-lợi đã nói trong kinh: Này Thiên tử! Với trí Bát nhã mà Đại Bồ-tát biết rõ các Đại Bồ-tát không phải hành động với trí hữu vi, không rơi vào trí vô vi. Đại Bồ-tát như vậy được gọi là Bồ-tát không sợ hãi. Lại nữa, này Thiên tử! Nếu các Bồ-tát quán sát chúng sinh mà không từ bỏ các hạnh hữu vi, và quán sát các pháp của chư Phật mà không rơi vào hành vô vi, thì Đại Bồ-tát như vậy được gọi là Bồ-tát không sợ hãi…”
Lại nữa, nghĩa của mọi sự mong cầu tùy thuận tâm, có khả năng thành tựu việc làm xứng hợp với tâm mong cầu, gọi là phương tiện. Hoàn toàn đầy đủ trí cũng gọi là phương tiện.
Hỏi: Khéo nhận biết Thế đế, những câu như vậy nói về những nghĩa nào?
Đáp: Khéo biết Thế đế, là khéo biết tự tướng. Khéo biết Đệ nhất nghĩa đế, là khéo biết đồng tướng. Khéo biết cả hai nghĩa, là khéo biết tự tướng và đồng tướng
Hỏi: Chỉ nói khéo biết Thế đế và khéo biết Đệ nhất nghĩa đế là đủ rồi. Vì sao còn nói là khéo biết cả hai nghĩa?
Đáp: Vì Đức Như Lai muốn chỉ rõ nghĩa biết phương tiện thù thắng của Bồ-tát, cho nên lại nói là khéo biết cả hai nghĩa. Ý này làm rõ nghĩa gì? Ngoại đạo xa lìa trí Bát nhã như thật, họ chỉ có trí thế gian mà không có trí xuất thế gian. Thanh văn và Bích-chi-Phật đều từ bỏ trí thế gian, chỉ có trí Niết-bàn chứ không có trí thế gian. Đại Bồ-tát vì muốn làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, mà mong cầu pháp mầu nhiệm, ở trong Thế đế và Đệ nhất nghĩa đế mà tu hành trí phương tiện. Vì muốn chỉ rõ trí phương tiện thù thắng của Bồ-tát, cho nên Đức Như Lai lại nói là khéo biết cả hai nghĩa. Thành tựu Bát nhã Ba-la-mật.
Hỏi: Vì sao nói về nghĩa phương tiện xong Đức Như Lai tiếp tục nói đến thành tựu Bát nhã Ba-lamật?
Đáp: Vì Đức Như Lai muốn chỉ rõ Bát nhã là phương tiện thâu nhiếp.
Lại nữa, Đức Như Lai muốn chỉ rõ ý nghĩa của phần vị mà các Bồ-tát đã chứng ngộ, vì vậy sau khi nói về nghĩa phương tiện, Đức Như Lai tiếp tục nói đến thành tựu Bát nhã Ba-la-mật. Việc này có nghĩa gì? Vì quán xét có thể thành tựu pháp phần Bồ-đề nhờ thiện căn thanh tịnh Bồ-tát mong muốn thấy được Thể của pháp Chân như, mà chưa có thể thấy được thật trí của Chân như, trước tiên quán sát vượt qua khỏi phần vị của Thanh văn và Bích-chi-Phật nhờ vào pháp đối trị, quán sát Đại Từ Bi…, thành tựu những đại Từ Bi căn bản, sau đó sẽ thấy được pháp Chân như kia. Chính vì nghĩa này mà thấy pháp Chân như không rơi vào phần vị của Thanh văn và Bích-chi-Phật. Vì vậy Đức Như lai chỉ rõ nghĩa tu hành theo thứ tự, trước tiên nói về phương tiện và tiếp theo nói đến thành tựu Bát nhã Ba-la-mật.
Hỏi: Thành tựu Bát nhã Ba-la-mật, cho nên nói về nghĩa Bát nhã, về thấy biết như thật, gọi là Bát nhã, về cảnh giới năng quán và sở quán gọi là Bát nhã, về biết như thật chỗ sâu-cạn-số lượng gọi là Bát nhã. Ông nói rõ về những nghĩa này?
Đáp: Đã đến được bờ bên kia, đó là nghĩa Ba-la-mật. Chư Phật
-Như Lai đều đã qua đến bờ bên kia cho nên gọi là Ba-la-mật. Bồ-tát địa bậc nhất đã đến nơi cuối cùng ở bờ bên kia cho nên gọi là Ba-la-mật. Cuối cùng các Bồ-tát đã tu hành đến được bờ bên kia cho nên gọi là Ba-la-mật. Trong kinh Như Lai nói: “Tùy thuận công hạnh Bát nhã gọi là Ba-lamật, vì nơi đó chưa quyết định về nghĩa của bờ bên kia”. Trong kinh Vô Tận Ý Sở Vấn, Như Lai có nói: “Thực hành đầy đủ các hạnh của Bồ-tát thì gọi là nghĩa Ba-la-mật. Trí sâu xa-đầy đủ gọi là nghĩa Ba-la-mật...”
Hỏi: Cho nên nói về nghĩa Bát nhã Ba-la-mật, nghĩa của Bát nhã Ba-la-mật là thế nào?
Đáp: Mong cầu Bồ-đề Phật với tâm Đại Từ Bi thâu nhiếp mà phát khởi trí tuệ phương tiện, có khả năng biết như thật về tất cả các pháp với nghĩa thù thắng của đồng tướng và biệt tướng, gọi là nghĩa của Bát nhã Ba-la-mật.
Hỏi: Nên nói về nghĩa thành tựu. Thế nào gọi là nghĩa thành tựu?
Đáp: Nghĩa cứu cánh là nghĩa thành tựu. Xa lìa tất cả phàm phu gọi là nghĩa cuối cùng của Bát nhã Ba-la-mật. Dựa vào Bát nhã Ba-la-mật mà xa rời thế gian đạt được nghĩa cuối cùng, gọi là thành tựu Bát nhã Ba-la-mật. Câu này có nghĩa gì? Dựa vào Bát nhã Ba-la-mật, tới được chỗ cuối cùng không sợ hãi.
Hỏi: Nếu như vậy thì khi Bồ-tát vừa chứng được địa bậc nhất liền được gọi là cuối cùng thành tựu Bát nhã Ba-la-mật sao?
Đáp: Bồ-tát dựa vào phần vị thứ tự, cho nên biết. Đây là nói rõ nghĩa gì? Bồ-tát từ địa bậc nhất cho đến lúc chứng được Bồ-đề Phật, vì có được pháp đối trị hiện tiền. Bởi vì có được pháp đối trị và phương tiện Bát nhã thâu nhiếp phương tiện ở địa bậc nhất, từ bỏ tất cả ác đạo và xa lìa phần vị của Thanh văn và Bích-chi-Phật. Như vậy, các địa còn lại tùy từng phần tương ứng mà phân xử, cho nên biết như vậy.
Có khả năng biết như vậy cho nên Bồ-tát tùy thuận trí Bát nhã như thật, quán sát các hành hữu vi, do năng lực khác dựa vào nhau mà có chứ không có tự thể.
Hỏi: Dựa vào pháp này mà có pháp này, dựa vào pháp này mà sinh pháp này, nhưng nói trùng lắp như vậy thì có nghĩa thù thắng gì?
Đáp: Vì muốn chỉ rõ nghĩa của hai loại nhân cho nên nói là hai loại. Câu này nói rõ nghĩa gì? Các hành hữu vi sinh ra từ nhân, có hai loại:
1. Nhân trước sinh.
2. Nhân cùng sinh.
Nhân trước sinh là khi nhãn thức sắp phát sinh tác dụng thì trước hết là sinh ý thức, giống như tùy thuận tâm trước không diệt mà không tiếp nhận tâm sau. Chủ yếu là tâm trước diệt thì tâm sau mới được nảy sinh. Nhưng ở đây tâm trước đã diệt mà nó vẫn làm nhân cho tâm sau, cho nên gọi là nhân trước sinh.
Nhân cùng sinh là khi các Thức tương ưng, đó là các pháp như Thọ… và tâm không tương ưng với pháp, mà cùng pháp kia sinh ra, các pháp như nhãn… có khả năng làm nhân duyên, dựa vào pháp kia mà có thể sinh ra pháp kia, khi pháp kia sinh ra lại có khả năng làm nhân cho nhau, gọi là nhân cùng sinh.
Lại dựa vào pháp này thì nói là nhân trước sinh, sinh ra pháp này thì nói là nhân cùng sinh.
Hỏi: Nói là dựa vào pháp này mà sinh ra pháp này, nghĩa này không như vậy. Vì sao? Vì pháp cùng sinh mà không có nhân cố định, không có sự khác biệt về nhân và quả. Sự kiện này nói rõ nghĩa gì? Pháp cùng sinh, mà pháp này là nhân, và pháp này cũng là quả, không có sự sai biệt về nhân cố định như vậy, thì không thể nói pháp này là nhân, pháp này là quả được. Vậy thì không có nhân cố định, không có sự sai biệt giữa nhân và quả chăng? Đáp: Vì trông thấy cho nên mới nói. Câu này nói rõ nghĩa gì? Giống trông thấy pháp cùng sinh trong thế gian, nhưng một pháp là nhân, một pháp không phải là nhân. Cũng như ngọn đèn và tim đèn, đều phát ra ánh sáng, mà ngọn đèn và tim đèn này có thể làm nhân soi sáng, nhưng sự chiếu sáng thì không có thể làm nhân cho ngọn đèn, tim đèn. Vì sao? Vì sự chiếu sáng này tùy thuận ngọn đèn và tim đèn. Câu này có nghĩa gì? Vì nhận thấy sự chiếu sáng là thuận theo tim đèn, chứ không phải tim đèn thuận theo sự chiếu sáng. Rõ ràng thấy tim đèn có thêm có bớt như vậy, sự chiếu sáng cũng có thêm có bớt như vậy, mà tim đèn tắt thì sự chiếu sáng của đèn cũng tắt theo. Lại nữa, nếu lúc dời tim đèn đi một chỗ khác thì sự chiếu sáng cũng đi theo. Như vậy các pháp cùng sinh như nhãn thức... đều dựa vào mắt-thân... nhờ vào thân-mắt... mà phát sinh nhãn thức, không phải nhờ vào nhãn thức... sinh ra mắt-thân...
Lại dựa vào pháp này, các Bồ-tát... quán sát như vậy: Lúc trước, pháp sinh ra không có gì tạo tác, mà chỉ là các nhân duyên cùng nhau hòa hợp mà sinh ra, vì có pháp này mà sinh ra các pháp này.
Các Bồ-tát lại nảy sinh tâm niệm như vậy: Nhân đã vô thường thì làm thế nào mà có thể sinh ra pháp này. Vì vậy Bồ-tát lại nảy sinh tâm niệm như vậy: Vì dựa vào pháp này mà sinh ra pháp này, chứ không phải trước đây có pháp rồi thời gian sau này mới sinh ra pháp. Nếu trước kia đã có rồi, lúc sau này mới sinh, thì chính là pháp thường còn. Chính vì nghĩa này, ngay khi pháp sinh ra đã có nhân duyên hòa hợp. Không có một pháp nào là thật sự cố định, thì không có pháp thật sự cố định chiếu sáng cảnh giới nhãn thức. Chính vì nghĩa này, cho nên khi pháp này sinh, thì nhất định không từ chỗ kia mà đến. Vả lại, bởi vì chính là cùng nhân duyên mà diệt mất. Nếu pháp chính là cùng nhân duyên mà diệt mất, lúc xa lìa các nhân duyên thì ý niệm không còn tồn tại. Chính vì nghĩa này, cho nên khi pháp này diệt mất, nó không rời khỏi chỗ này mà đã đi đến nơi khác. Lại dựa vào pháp này mà sinh pháp này, nghĩa là dựa vào những nhân duyên hòa hợp ấy, sinh ra những pháp ấy, trông thấy những pháp ấy, chỉ rõ pháp ấy do nhân duyên mà sinh chứ chẳng phải là không có nhân duyên.
Lại dựa vào pháp này mà sinh ra pháp này, là nhờ vào quán sát và nhớ nghĩ. Lại dựa vào pháp này mà sinh ra pháp này là chỉ rõ phần Vô minh và Hành ở quá khứ. Đây là xác minh nghĩa gì? Vì dựa vào Vô minh và Hành trong quá khứ, có được tám phần như thức... trong hiện tại, là chỉ rõ phần “hữu” trong hiện tại.
Lại dựa vào pháp này mà sinh ra pháp này, là chỉ rõ phần Hữu trong hiện tại. Đây là xác minh nghĩa gì? Dựa vào phần Hữu trong hiện tại, chỉ rõ nhanh về phần Hữu-Sinh và Lão tử.
Lại dựa vào pháp này mà sinh ra pháp này, là dùng Vô minh-Ái-Thủ mà chỉ rõ lối mòn phiền não. Dựa vào lối mòn của phiền não này mà sinh ra nghiệp đạo Hành và Hữu.
Lại dựa vào pháp này mà sinh ra pháp này, là dựa vào nghiệp đạo mà sinh ra chi Hữu khác, nghĩa là những lối mòn của khổ...
Lại dựa vào pháp này mà sinh ra pháp này, là dựa vào Vô minh-Hành và Ái-Thủ-Hữu làm nhân cho Tập đế, sinh ra bảy phần khác gọi là Khổ đế.
Lại dựa vào pháp này mà sinh ra pháp này, tức là dựa vào pháp của bảy phần Khổ đế, sinh ra năm phần như Vô minh… của Tập đế.
Lại dựa vào pháp này mà sinh ra pháp này, như trong kinh Như lai đã nói: “Dựa vào Vô minh-
Hành mà sinh ra thức...”. Trong kinh khác cũng có nói: “Dựa vào nhân duyên của Hành sinh ra Vô minh”. Đây là xác minh nghĩa gì? Vì khi sinh các tướng, các pháp như Vô minh... tương ưng với tâm, và tâm không tương ưng với pháp, nghiệp của thân-miệng-ý đều cùng sinh, chứ không phải đến thời gian sau mới sinh.
Lại dựa vào pháp này mà sinh ra pháp này, là ngay lúc vừa nảy sinh ý niệm, thì Vô minh đã che mờ tâm trí, cùng chung thời gian mà sinh ra, không phải là sinh trước.
Hỏi: Nói nhân duyên Vô minh là nhân duyên ban đầu, nếu như vậy thì mười hai nhân duyên là có chỗ bắt đầu. Vì sao? Vì trước Vô minh lại không thấy nói là có nhân duyên nào khác. Vậy ở trong các pháp hữu vi của thế gian, lấy Vô minh ấy làm đầu tiên chăng?
Đáp: Vì Sinh-phiền não và nghiệp thay nhau cùng làm nhân duyên. Nghĩa này thế nào? Từ Sinh mà sinh ra phiền não, từ phiền não mà sinh ra nghiệp, từ nghiệp mà sinh ra sinh. Như vậy từ vô thỉ vòng quanh cứ phát sinh mãi. Chính vì nghĩa này cho nên thế gian không có chỗ bắt đầu.
Hỏi: Trời Tự Tại... đã tạo ra. Câu nói này có nghĩa gì? Có phải từ trời Tự Tại và những hạt bụi nhỏ mà sinh ra thế gian? Chính vì nghĩa này cho nên thế gian có chỗ bắt đầu?
Đáp: Nghĩa này không phải vậy. Vì sao? Vì pháp là thường còn thì không thể sinh ra thế gian. Không thấy pháp nào sinh ra từ trời Tự Tại và những hạt bụi nhỏ cả, chỉ thấy các pháp đều sinh ra từ trong nhân duyên vô thường. Bởi vì không thấy pháp nào sinh ra từ trong pháp thường còn, mà thấy các pháp đều sinh ra từ trong nhân duyên vô thường. Nhưng trong pháp của ông, thì trời Tự Tại... đều là thường còn. Chính vì nghĩa này, cho nên trời Tự Tại... của ông không thể sinh ra pháp. Lại nữa, vì trông thấy ngay ở đây từ mọi nhân khác nhau mà sinh ra đủ mọi quả. Vì sao? Vì thấy các giống voi-ngựa-trâu-dê-lừa-lạc đà cho đến mọi người-các trời... đều có sự khác biệt. Vì vậy cho nên các pháp không phải do Tự Tại... tạo ra.
Hỏi: Không phải từ nhân duyên mà sinh ra tất cả pháp. Vì sao? Vì nhận thấy các thứ chông gai và con công đều có nhiều sự khác nhau, cho nên biết không phải từ nhân duyên Vô minh mà có thế gian sinh ra. Đây là làm rõ nghĩa gì? Không có nhân duyên mà có thế gian sinh ra. Vì sao? Vì tôi nhận thấy những loại chông gai và con công..., không phải là từ nhân duyên mà có sự khác biệt. Như vậy thì thế gian không phải là Vô minh sinh ra?
Đáp: Nghĩa này không như vậy. Vì sao? Vì tôi hiện trông thấy quả từ nhân mà sinh ra, chứ không phải là không có nhân mà sinh ra, giống như chủng tử là do đấtnước-thời tiết và sức nóng hòa hợp, làm cho hạt giống được nảy mầm, chứ không phải là tách rời các thứ nhân duyên này mà hạt giống nảy mầm.
Nếu tách khỏi nhân mà không có nhân mà có vạn vật sinh ra thì nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì thấy sự khác biệt trong pháp khác đối với sự khác biệt của pháp khác, dùng trí so sánh mà biết được thế gian cũng thế. Chưa từng thấy có pháp nào tách rời nhân mà không có nhân mà có pháp sinh ra. Vì nghĩa này, cho nên biết được các pháp đều từ nhân mà sinh ra quả. Vì vậy, tất cả các pháp trong thế gian chẳng phải là không có nhân mà sinh ra được, như vậy sẽ phạm phải nhiều lỗi. Nếu vậy thì không thể sinh ra các thứ quả và từ các thứ nhân mà sinh ra các thứ quả, không lìa các thứ nhân mà sinh ra các thứ quả. Nhưng ông nói quả không nhân mà có, nếu như vậy thì vạn vật cần phải như nhau và thế gian không cho nên sinh ra các thứ quả. Vì tôi trông thấy ngay đây từ các thứ nhân mà sinh ra các thứ quả. Chính vì nghĩa này, cho nên không có pháp nào không có nhân mà sinh ra. Vả lại, có cách trả lời: Nếu hết thảy mọi vật không có nhân mà sinh ra, thì thuận theo trong một vật sẽ có tất cả pháp sinh ra. Không như vậy thuận theo trong tất cả sự vật mỗi vật đều có tất cả vật sinh ra, nhưng nghĩa này thì không như vậy. Vì nghĩa này cho nên chẳng phải là không có nhân quả. Vả lại, có cách trả lời khác: Phải không có sự đổi thay. Nghĩa này thế nào? Nếu vạn vật đều không từ nhân mà sinh ra thì sẽ không biến đổi giống như hư không. Nhưng nghĩa này không như vậy. Vì sao? Vì sự thay đổi. Sự thay đổi như vậy nào? Trước không, sau có, đã có rồi lại không, sinh khác mà diệt khác. Không thấy quả như vậy trong pháp không có nhân, vì pháp luôn chuyển biến. Vì vậy các pháp từ nhân mà sinh ra, chứ không phải là không có nhân mà sinh ra.
Lại nữa, vượt lên trên tất cả nghiệp đã gây tạo, vì đều là Không. Việc này có nghĩa gì? Nếu không có nhân mà sinh ra tất cả vạn vật thì mọi nghiệp đã tạo ra đều rỗng không, chẳng có ích lợi gì, mà thật ra thì không thấy có việc gì như vậy. Vì vậy cho nên không phải không có nhân mà có quả.
Hỏi: Tôi thấy từ trí sinh ra trí. Việc này có nghĩa gì? Hiện tại thấy vạn vật bên ngoài thì chủng tử trong pháp hữu vi làm nhân, chứ không phải là nhân của quá khứ. Như vậy, hiện tại thấy bên trong pháp hữu vi, do các nhân tố đỏ trắng... hòa hợp lại mà sinh ra, chứ không phải là nhân của quá khứ.
Đáp: Nghĩa này không như vậy. Vì sao? Vì trí hiện tại được sinh ra từ trí quá khứ. Sự việc này có nghĩa gì? Vì nhận thấy trí sinh ra từ nhân của trí quá khứ mà có, chứ không phải là không có trí mà phát sinh. Nếu trí này không sinh ra từ trí kiếp trước, cần ra phải từ khối đất hay cây đá... mà sinh ra, cũng không phải từ cái gì khác lại nối tiếp nhau mà sinh. Vì sao? Vì nếu từ cái khác nối tiếp nhau mà sinh ra trí, thì cha mẹ cũng phải có thể sinh ra trí cho con. Vì thế, cho nên tôi biết trí của các chúng sinh trong bào thai kia đều sinh ra từ sự nối tiếp nhau. Điều này làm rõ nghĩa gì? Bởi vì trí đã có từ trước trong thai lại có thêm trí. Trí trong thai kia không xa rời nối tiếp nhau của trí trước mà sinh ra. Vì vậy trí có nhân của đời quá khứ.
Hỏi: Nghĩa này không đúng. Vì sao? Như từ nhiều duyên kéo cây lấy lửa-công người và phần trâu hòa hợp, trước không có lửa nhưng có thể phát sinh ra lửa. Trí cũng như vậy, trước kia không có trí nhưng nhân duyên hòa hợp mà có thể sinh ra trí?
Đáp: Nghĩa này không như vậy. Vì sao? Vì thấy được pháp khác là do trí so sánh mà biết được. Điều này có nghĩa gì? Vì thấy trong những pháp nào sinh ra pháp tương tự với pháp kia có thể sinh ra pháp chứ không phải là thấy trong sự phát sinh khác lạ không có tương tự. Cho nên gieo lúa. Lửa cũng như vậy, vì trông thấy lửa phát ra từ trong sự cọ cây và phân trâu, tuy không thấy mà cầu có lửa từ trong sự cọ cây cùng với phân trâu. Như vậy vì thấy từ trí mà sinh ra trí, tuy không thấy trí nhưng vẫn biết trí là từ trí quá khứ mà phát sinh. Vì vậy như trước ông có nói, không có lửa mà có thể sinh ra lửa, trước không có trí mà có thể sinh ra trí. Nói: tất cả vạn vật chỉ từ nhân hiện tại mà sinh ra, chứ không từ nhân quá khứ mà sinh ra. Nghĩa này không như vậy. Bởi vì nghĩa này là từ nghiệp phiền não mà sinh ra pháp thế gian, điều này làm sao biết? Luận thuyết của bậc Thánh và của người thế gian đều nói về nghĩa này. Làm thế nào từ bỏ phiền não? Tất cả Thánh nhân, chư Phật Như Lai và những người Thanh văn... đệ tử Phật, những vị đó nói như vậy: Từ nghiệp phiền não làm nhân mà sinh ra thế gian. Nói là như vậy: Nếu người tham lam đắm trước mà thân làm điều ác-miệng làm điều ác-ý làm điều ác, thì người đó dựa vào nhân duyên của điều ác, lúc thân này hoại rồi sinh trong đường ác. Tất cả các luận cũng nói như vậy: Từ nghiệp mà có sự sinh. Vì vậy kinh nói: Từ sáng suốt đi vào sáng suốt, từ bóng tối đi vào bóng tối. Người thế gian cũng đều nói như vậy: Từ nghiệp mà có sự sinh. Lại nói như vậy: Vì sợ tất cả những nơi sinh ra không vui sướng, cho nên xa rời tất cả các loại ác hạnh; vì mong cầu tất cả những nơi sinh ra được vui sướng cho nên tu hành tất cả các loại thiện hạnh. Chính vì nghĩa này cho nên dựa vào các Thánh nhân, dựa vào tất cả bộ luận và dựa vào người thế gian, mà tôi nhận biết như vậy. Từ nhân của nghiệp mà sinh ra thế gian, chứ không phải là không có nhân mà sinh ra.
Hỏi: Bởi vì niệm không dừng lại thì làm sao có thể sinh ra quả? Việc này có nghĩa gì? Nghiệp phiền não chuyển biến liên tục trong từng sát na, các nghiệp phiền não này diệt mất trong từng sát na. Vì vậy không phải từ các nghiệp phiền não mà sinh ra thế gian.
Đáp: Tôi thấy nhân diệt mất mà có thể sinh ra quả. Việc này có nghĩa gì? Vì thấy nhân diệt dựa vào nhân diệt ấy mà có thể sinh ra quả. Như trong trái Ma-đa-long Lão có mùi rượu, nhưng trong hạt nảy mầm mọc ra thân nhánh-lá và hoa... đều không ngửi thấy mùi rượu, mà dựa vào hạt cây ấy nảy mầm mọc ra thân-nhánh-lá… nối tiếp nhau, mãi đến thời gian sau mới thấy từ trong trái. Vị rượu vốn có trong quả Ma-đa-long Lão ấy, chứ không phải là ngay nơi nhân của nó cũng không phải là nhân nào khác. Như vậy, trông thấy nhân và quả từ bên ngoài hòa hợp mà sinh ra. Với pháp như vậy và trí so sánh như vậy mà biết, nhân diệt rồi dựa vào nhân diệt ấy mà có thế gian sinh ra, chứ không phải là không có nhân mà sinh, cũng không phải là nhân nào khác mà sinh.
Hỏi: Nếu chẳng phải là không nhân, chẳng phải là nhân điên đảo mà sinh ra thế gian, mà dựa vào nghiệp phiền não mà có thế gian, thì việc này làm sao biết được?
Đáp: Không biết sinh ra là tai họa của những nghiệp hành đã tạo tác. Việc này có nghĩa gì? Vì không sinh ra là tai họa, cho nên người thế gian đắm say cảnh giới năm dục với tất cả những việc không ích lợi, vì sinh ra trong thế gian là nơi đầy dẫy mọi điều không lợi ích, cho nên họ tu hành vì được quả báo của thế gian, và mọi việc do nghiệp làm ra không phải là việc làm đoạn sạch phiền não. Đây là có nghĩa gì? Trong khắp thế gian phàm phu ngu si không có trí tuệ cho nên không thể quán sát. Vì Vô minh che mờ tâm trí, cho nên mới nhận thấy có công đức phát sinh trong Vô lượng trăm ngàn nỗi khổ đau phiền não, vì cầu được thọ hưởng quả báo yên vui trong đời vị lai mà ra sức mong cầu, ra sức làm việc công đức, tu hành mọi việc như giữ giới-bố thí...
Lại có người vì tâm điên đảo, đắm vào cảnh giới năm dục của đời hiện tại, thấy mình không có phước đức trong đời vị lai, cho nên tu hành những hạnh không có phước đức như nghiệp sát sinh…
Lại còn có người đắm trong niềm vui Tammuội, yêu quý thiền-chấp lấy thiền-kiêu mạn vì thiền-nghi ngờ vì thiền-tăng thượng vì thiền…, tu hành tất cả các hành thần thông, vì vậy ở trong ba cõi ấy sinh ra chứ không đoạn trừ-không chấm dứt, từ sinh ra lại khởi lên tất cả phiền não, từ phiền não mà khởi lên tất cả nghiệp. Như vậy mà thế gian từ vô thỉ đến nay không bao giờ đoạn dứt được.
Hỏi: Nếu từ tất cả phiền não mà sinh ra các hành của thế gian thì tại sao trong kinh này Đức Như Lai chỉ nói từ Vô minh mà sinh ra thế gian?
Đáp: Tuy nói Vô minh, nhưng thâu nhiếp được tất cả phiền não tham lam... Việc này có nghĩa gì? Tuy Vô minh nhưng bao gồm tất cả mọi lỗi lầm như tham lam... điều này làm thế nào biết được? Vì con người ngu si mà nổi tâm tham, bởi vì không có trí cho nên phát sinh tất cả phiền não như tham lam... chẳng phải là không có nhân mà phát sinh. Như trong kinh nói: Nhân duyên Vô minh khởi lên lỗi lầm tham lam, khởi lên lỗi lầm giận dữ, khởi lên lỗi lầm tối tăm. Vì vậy nói căn bản vô minh ấy thâu nhiếp được những lỗi lầm của tất cả mọi phiền não. Giống như ở thế gian, vua đến vua đi thì các quan và các binh sĩ cũng đến cũng đi.
Hỏi: Vì nghĩa gì trong phần quá khứ chỉ nói Vô minh chứ không nói Ái? Còn trong phần vị lai chỉ nói Ái mà không nói Vô minh?
Đáp: Vì cảnh giới rộng lớn. Đây là nói rõ nghĩa gì? Vì Vô minh trùm khắp tất cả cảnh giới, còn Ái thì không như vậy. Đây là vì nghĩa gì? Vì Vô minh trùm khắp tất cả mọi nơi mà Ái thì không trùm khắp.
Lại vì duyên vào hữu vi-vô vi. Đây là nghĩa gì? Bởi vì Vô minh kia duyên với pháp hữu vi và vô vi. Ái thì không như vậy, mà chỉ duyên nơi pháp hữu vi.
Lại vì duyên vào phần vị giống và không giống. Đây là nghĩa gì? Bởi vì Vô minh duyên với phần vị giống và không giống. Ái thì không như vậy, mà chỉ duyên với phần vị giống nhau.
Lại vì tương ưng với tất cả phiền não. Đây là nghĩa gì? Bởi vì Vô minh và tất cả phiền não đều cùng tương ưng với nhau. Ái thì không như vậy, mà chỉ có kẻ ngu si mới phát sinh chứ không phải là người trí phát sinh.
Lại là nhân không đoạn tuyệt của tất cả khổ đau. Đây là nghĩa gì? Bởi vì Vô minh lấy tất cả mọi nỗi khổ đau làm căn bản. Chính vì nghĩa này, ở trong phần đầu chỉ nói đến Vô minh, dựa vào đó mà trong phần phiền não thứ hai, mới chỉ rõ Ái. Vì vậy trong phần vị lai kia chỉ nói đến Ái mà không nói đến Vô minh.
Hỏi: Vì nghĩa gì mà các nghiệp thâu nhiếp trong đời quá khứ tùy thuộc vào phiền não nào có thể làm nhân cho nhau, các phiền não ấy, dùng tên gọi của Vô minh để nói đến? Các nghiệp thâu nhiếp trong đời hiện tại, tùy thuộc vào phiền não nào có thể làm nhân cho nhau, các phiền não ấy dùng đến gọi của Ái và Thủ để nói đến.
Đáp: Bởi vì không phải là hiện tại đang thấy mà đang thấy hiện tại. Đây là nghĩa gì? Hết thảy phiền não có trong đời quá khứ, vì cách xa cho nên không thể trông thấy hiện tại. Vì vậy sự khác nhau của phiền não trong quá khứ kia, không thể chỉ rõ vì tướng mờ tối của nó không thể nào diễn tả được, cho nên đều lấy Vô minh mà gọi tên. Những phiền não thâu nhiếp của đời hiện tại thì có thể đang thấy hiện tại, những phiền não ấy sai biệt có thể nói được có thể chỉ rõ đây là Ái Thủ-đây là Dục Thủ và đây là Kiến thủ…Vì vậy mọi phiền não có trong hiện tại đều lấy Ái và Thủ mà gọi tên.
Hỏi: Lời nói này là lời nói vi diệu. Vì dựa vào nghiệp-phiền não mà có sinh tử ở thế gian, chứ không phải là nhờ vào trời Tự tại và cát bụi… Nhưng mười hai chi hữu như Vô minh... thì nghĩa ấy thế nào?
Đáp: Không biết như thật về sự việc trong ba đời thì gọi là Vô minh. Vô minh chuyển biến dấy khởi dẫn đến nhân của đời sau, gồm có nghiệp phước-nghiệp tội và nghiệp bất động…, thì gọi là Hành. Dựa vào Hành làm nhân mà có phát sinh phần nhiễm của ý thì gọi là Thức. Vì Thức kia tồn tại cho nên gọi là Danh sắc. Nơi nương tựa của Thức thanh tịnh ấy, gọi là Lục nhập. Ba sự việc của căn-thức và cảnh giới hòa hợp, hướng đến pháp thuộc phạm vi của ý thì gọi là Xúc. Dựa vào Xúc mà phát sinh yêu thích và không yêu thích, hai ý niệm cảm thọ trái ngược nhau, thì gọi là Thọ. Thấy đắm theo Thọ cùng tích tập vui thích, gọi là Ái. Dựa vào Ái mà mong cầu có lúc mất-có lúc được, ngã dựa vào vui với các phiền não và tùy thuận phiền não, thì gọi là Thủ. Thủ luôn luôn chuyển biến mà phát khởi dẫn đến nghiệp thânmiệng-ý làm nhân cho đời sau, thì gọi là Hữu. Dựa vào hành của Hữu dẫn đến thân đời sau, thì gọi là Sinh. Dựa vào Sinh mà thân có tăng trưởng-chín muồi và biến hoại, thì gọi là Lão. Thân có được trước đây bị hủy hoại, thì gọi là Tử. Sự việc xa lìa và không xa lìa, yêu thích và không yêu thích, mong cầu cung cấp nuôi dưỡng đều từ phạm vi của ý mà sinh ra, đốt cháy tâm tư của mình thì gọi là Ưu. Dựa vào tâm tư ôm ấp buồn lo nói đến công đức yêu quý, trong tâm sầu muộn chất chứa đủ loại ngôn từ đau thương, gọi là khóc nỉ non. Dựa vào Sắc-Thức-Thân cùng tương ưng với ý, không có gì yêu thích mà phải nhận lấy, thì gọi là Khổ. Chỉ có ý thức và thân tương ưng với phạm vi của ý, thì gọi là Sầu. Đối với hai loại cảnh giới yêu thích và không yêu thích, hoặc có mong cầu mà có-hoặc không mong cầu mà có, cầu tiền của sinh hoạt mà nhận chịu các loại khổ đau, tâm tư bức não thì gọi là điểm cùng cực của cuộc đời.
Hỏi: Vô minh duyên hành. Thế nào gọi là hành?
Đáp: Dựa vào sự dung nạp bạn bè đồng hành, khởi lên sự quan sát tùy thuận cùng sinh, là nghĩa của hành.
Hỏi: Cho nên giải thích về danh từ nhân duyên. Sao gọi là nhân duyên?
Đáp: Có thể thành tựu quả đó gọi là nhân. Dựa vào pháp này mà có thể làm sáng tỏ pháp kia, nhờ vào pháp này mà có thể sinh ra pháp kia, đó gọi là duyên.
Hỏi: Vì sao chỉ nói Vô minh duyên hành, mà không nói là Vô minh nhân Hành?
Đáp: Vì thâu nhiếp tất cả các nhân duyên. Nếu nói Vô minh nhân Hành, thì chỉ thâu nhiếp nhân của nhân duyên mà không bao gồm hết nhân duyên. Vì vậy, không nói Vô minh nhân Hành. Vì bốn nhân duyên như Vô minh... cùng có thể làm nhân duyên, cho Hành, vì vậy chỉ dựa vào tên gọi của nhân duyên mà nói bởi vì có thể thâu nhiếp cả bốn nhân duyên.
Hỏi: Hành cũng có khả năng làm nhân duyên cho Vô minh. Nếu như vậy thì vì sao chỉ nói Vô minh duyên Hành mà không nói là Hành duyên Vô minh?
Đáp: Vì có hai nghĩa quyết định và không quyết định. Điều này có nghĩa gì? Bởi vì nhân của Vô minh nhất định duyên với Hành, mà không phải là hành nghiệp nhất định duyên với Vô minh. Vì sao biết được như vậy? Vì A-la-hán tuy còn có nghiệp, nhưng mà không có Vô minh, cho nên không phải là nghiệp nhất định làm duyên cho Vô minh. Vì vậy cho nên không nói Hành duyên Vô minh.
Hơn nữa, dựa vào nhân duyên Vô minh mà có nghiệp, bởi vì nghĩa này mà dựa vào nhân duyên mà có nghiệp. Nếu như vậy thì chỉ dựa vào nhân duyên Vô minh mà có nghiệp, không cho nên nào xa lìa Vô minh mà có nghiệp, nhưng thật ra thì xa lìa Vô minh vẫn có nghiệp. Vì vậy nói là dựa vào Vô minh duyên hành, chứ không nói là dựa vào Hành duyên Vô minh.
Hỏi: Vì nghĩa gì mà đã nhận chịu quả báo của nghiệp nhưng dùng tên gọi của Hành để nói, chưa nhận chịu quả báo của nghiệp thì gọi là hữu?
Đáp: Chưa nhận chịu quả báo của nghiệp thì chỉ có phần hữu vi, vì vậy nói là Hữu, vì cuối cùng là Hữu, vì đời vị lai cuối cùng sẽ cảm được quả. Thể của nghiệp tuy diệt mà cuối cùng là Hữu, vì nhất định có thể mang lại quả báo trong đời vị lai, vì vậy gọi là Hữu. Lấy Hữu mà gọi tên, vì đã nhận chịu quả báo của nghiệp. Đã nhận chịu phần hữu vi cho nên nói là Hành. Vì có thể nhận chịu quả báo cho nên gọi là Hữu, lấy Hữu làm tên gọi.
Về nghĩa của Hữu. Vì sao gọi là Hữu? Vì dựa vào pháp này có khả năng phát sinh cho nên gọi là Hữu. Đây là nghĩa gì? Tùy thuộc vào những nghiệp nào mà cuối cùng có thể sinh ra quả báo trong đời vị lai, cho nên lấy Hữu gọi là tên. Tùy thuộc các nghiệp nào không phải là hoàn toàn có trong đời vị lai, như nghiệp của Ương-cù-ly-mA-la... vì chưa từng có, cho nên gọi tên là Hành. Vì vậy trong kinh nói: Hành duyên theo quả của nghiệp, lấy Thức mà gọi tên chứ không lấy Sinh để gọi tên. Vì sao? Vì nghiệp của hành kia không phải là cuối cùng sinh ra chi Hữu. Đây là nói nghĩa gì? Vì quả báo của nghiệp mà thân đang nhận chịu trong hiện tại, thì duyên của hành nghiệp kia có khả năng sinh ra chi thức, mà không có khả năng sinh ra chi Sinh kia.
Lại bởi vì thấy có năng lực và không có năng lực. Nghĩa này thế nào? Vì sao gọi là Hành có thể hoàn tất mọi việc. Sinh trong đời quá khứ đã tạo ra các nghiệp, nhận thấy nó có năng lực, mà có thể tạo thành quả báo, cho nên nghiệp đó gọi tên là hành. Các nghiệp đã làm trong đời này chưa nhận thấy sức mạnh của nó, vì chưa thành tựu quả quả báo của nghiệp đó ở đời vị lai, cho nên nghiệp đó không có thể gọi là Hành, mà lấy Hữu để gọi tên.
Hỏi: Vì nghĩa gì mà gọi là bất động?
Đáp: Vì phạm vi khác thì không thể mang lại quả báo, cho nên gọi là bất động. Việc này có nghĩa gì? Như nghiệp của cõi Dục ở trong phạm vi khác có thể mang lại quả báo. Tùy những thiện và căn nghiệp đạo thế nào mà sinh trong loài người, tức là thiện nghiệp kia dựa vào tâm mong muốn, cho đến sinh lên cõi trời Tha-hóa-tự-tại. Như Đức Như lai dựa vào kinh công đức sinh nói: Lại tùy theo những ác nghiệp bất thiện như thế nào cần phải sinh vào địa ngục. Nhận chịu quả báo tức là dựa vào nghiệp ấy mà nhận chịu khổ báo trong loài người.
Như Đức Như lai dựa vào kinh Diêm Dụ nói: Nghiệp của Sắc-Vô Sắc không nhất định như vậy. Nghĩa này thế nào? Nghiệp của phần vị Sơ thiền không sinh đến Nhị thiền, nghiệp của phần vị Nhị thiền không sinh vào Sơ thiền. Như vậy những phần vị khác đều như vậy, nên biết.
Vì vậy đức Phật nói: Nghiệp của Sắc-Vô Sắc gọi là bất động. Vả lại, những Cái-Chướng vốn không có thể lay động nổi, cho nên gọi là bất động, như ngọn đèn đặt trong căn nhà kín đáo.
Hỏi: Hành lấy hai nhân duyên Danh sắc và Thức mà nói là quan trọng, thì có gì tốt đẹp?
Đáp: Ban đầu thác thai thì Thức và hành làm nhân duyên, vì Hành và Thức là nghĩa có thể làm chủng tử. Chủng tử đã gieo trồng thì Danh sắc làm nhân duyên mà có thể hòa hợp thành tựu các việc. Lấy hai nhân duyên để nắm giữ sự thành tựu và nương tựa mà có thể quán sát tiếp nhận cảnh giới. Hơn nữa, nhân duyên của Hành mà gọi là nghiệp. Vì vậy trong kinh nói: Nhân của các nghiệp thì có thể sinh ra nhân. Nhân duyên của Danh sắc thì gọi là Ái. Vì vậy trong kinh nói: Ái kia làm duyên vì có thể sinh ra duyên, lấy hai nhân duyên dựa vào cảnh giới mà trú vào cảnh giới.
Vả lại, nhân duyên của Hành bắt đầu sinh tâm mà được tên gọi. Nhân duyên của Danh sắc, Lục nhập chưa thành tựu thì Lục nhập có được tên gọi. Vả lại, nhân duyên của Hành dựa vào một môn hành. Nghĩa này thế nào? Nhân duyên của Hành kia chỉ dựa vào môn hành. Nhân duyên Danh sắc dựa vào hai môn hành. Đây là có nghĩa gì? Danh sắc dựa vào hai môn là thân căn và ý căn mà hành động, lấy hai nhân duyên dựa vào sáu môn hành.
Lại nữa, nhân duyên của Hành chỉ ở trong đường dữ vì dựa vào nghiệp tội có thể thâu nhiếp tồn tại. Như trong kinh nói: Các chúng sinh kia ở trong đường dữ cho đến khi nghiệp ác chưa hết thì không chết và chỉ khi nào nghiệp đã hết sạch mới chết. Nhân duyên của Danh sắc loài người và loài trời trong cõi Dục và cõi Sắc là như vậy, vì nơi đó có hai việc Danh sắc, trong cõi Vô sắc thì không có hai nhân duyên.
Hỏi: Theo như trong kinh dụ về cái thành kia và trong kinh Đại Nhân Duyên Đẳng, Đức Như Lai đã nói: Dựa vào Danh sắc nhân duyên với Thức. Vì sao ở trong kinh này lại nói: Dựa vào
Thức nhân duyên với Danh sắc chăng?
Đáp: Nhân duyên Danh sắc dựa vào Thức mà có. Đây là có nghĩa gì? Vì thật có Thức, Danh sắc và thức cùng thay phiên làm nhân lẫn nhau, nhưng dựa vào hiện hữu của Thức mà có Danh sắc hiện hữu, ví như nương tựa và nơi nương tựa, cho nên có sự nương tựa. Đây là nghĩa gì? Ví như vua và quan cùng thay đổi nương tựa lẫn nhau, nhưng vua là hơn hết, vì lúc vua đi thì quan cũng đi theo. Đây cũng như vậy, Thức và Danh sắc cùng thay nhau nương tựa, nhưng Thức thì cao hơn. Vì vậy, dựa vào Thức mà có Danh sắc. Nếu nhân duyên của Thức không thác vào thai mẹ thì các tâm số pháp không hiện hữu được. Vì Thức đã thác vào thai, cho nên tâm số pháp cũng đều đi theo. Lại bởi vì tâm căn bản mà thành Ca-la-la, hai sắc tố đỏ-trắng hòa hợp, thì có thể trở thành Ca-la-la, là trở thành chúng sinh. Tâm thức là nhân căn bản của Ca-lA-la ấy. Như trong pháp môn Đại Nhân Duyên nói: “Phật bảo A-nan! Nếu tâm thức đó không thác vào thai mẹ, thì Ca-la-la và Danh sắc kia cũng không thành tựu. Vì vậy thức là chủng tử của các khổ, là muốn chỉ rõ về nghĩa căn bản, cho nên chỉ nói là Thức duyên Danh sắc mà không nói Danh sắc nhân duyên với thức.
Hỏi: Có người nói mười hai nhân duyên đều có quan hệ đến thời tiết. Người kia dựa vào nghĩa là Thức nhân duyên Danh sắc thì không thành. Vì sao? Vì không có nhân duyên. Việc này có nghĩa gì? Vì Thức đã diệt về sau mới có thể làm nhân duyên của Danh sắc, hay là Thức không diệt mà có thể làm nhân duyên mà Danh sắc? Nếu như Thức diệt rồi mà làm nhân duyên của Danh sắc, thì vô nghĩa. Vì sao? Vì chủng tử diệt đi thì không có thể làm nhân duyên cho mầm non phát sinh.
Lại còn vấp phải lỗi lầm, vì Thể trung gian của chúng sinh bị cắt đứt. Nếu Thức không diệt mà có thể làm nhân duyên cho Danh sắc, thì một thân chúng sinh, ở trong một niệm có đến hai Thức.
Chính vì nghĩa này, cho nên thức không thể làm nhân duyên cho Danh sắc?
Đáp: Nối tiếp nhau không đoạn không tuyệt, nhân duyên như Thể ánh lửa của cây đèn nối tiếp nhau không gián đoạn. Việc này có nghĩa gì? Ánh sáng của ngọn lửa nối tiếp nhau không gián đoạn mà luôn luôn có tác dụng, chứ không phải là ánh lửa trước tắt mà ánh lửa sau cháy lên. Nếu ánh lửa trước tắt mà từ ánh lửa cháy lên, vậy thì diệt rồi về sau lại sinh. Lại còn có lỗi, là lúc ánh lửa sau cháy lên nhưng không có nhân mà lại cháy. Lại còn có lỗi, là nếu không có nhân mà vẫn cháy thì phải luôn luôn cháy. Vả lại, cũng không phải là ngọn lửa trước cháy rồi dừng lại, sau đó ngọn lửa khác mới cháy. Nếu ngọn lửa trước dừng lại, ngọn lửa sau mới cháy, thì ngọn lửa trước phải có ý niệm thứ hai tồn tại. Nhưng trong pháp Phật thì không có nghĩa như vậy. Lại còn có lỗi, là ngọn lửa trước đã cháy nhưng không có nhân mà cháy. Lại còn có lỗi nữa là ngọn lửa cần phải tăng mạnh hơn. Lại còn có lỗi, là cần phải có nhiều ngọn lửa cùng cháy một lượt. Vả lại, cũng không phải là chính ngọn lửa trước dừng lại mà ngọn lửa khác lại cháy. Vì sao? Vì không có sự tiếp nhận, hiện tượng này có nghĩa thế nào? Tùy thuộc vào ngọn lửa trước đang cháy. Vì những nơi nào, những nhân duyên nào? Chính là nơi phát sinh của ngọn lửa, chính là nhân duyên của ngọn lửa, chính là ngọn lửa trước cháy lên, chính là lúc cùng chấm dứt. Vì vậy có thể tiếp nhận ngọn lửa khác và nhân duyên khác. Lại còn có lỗi, là ngọn lửa trước tắt, ngọn lửa sau cháy, không từ nhân duyên không có lửa mà cháy, nghĩa này không hợp lý. Vì sao tim đèn cháy sáng? Vì trước sau theo thứ tự không đoạn không tuyệt mà nối tiếp nhau cháy mãi. Thức-Danh sắc... cũng như vậy, theo thứ tự sinhdiệt mà có thể làm thành nhân quả, cho nên biết. Chính vì nghĩa này, cho nên dựa vào nhân duyên của Thức có thể sinh ra Danh sắc, nghĩa nhân quả được thành lập.
Hỏi: Nhân duyên của Danh sắc có lục nhập, là do những nhân nào?
Đáp: Do nhân của Danh sắc kia. Vì sao? Vì nhân duyên năm nhập thanh tịnh của sắc, vì nhân duyên ý nhập thanh tịnh của danh, mà gọi là nhân duyên lục nhập của Danh sắc. Hỏi: Nếu dùng Danh sắc duyên với Lục nhập thì nghĩa này không thành. Vì sao? Vì tuy có Danh sắc nhưng không có Danh sắc. Điều này có nghĩa gì? Khi Ca-la-la tuy có Danh sắc, nhưng không có lục nhập... Vì nghĩa này, mà nghĩa này thì không thành. Hơn nữa, sở dĩ nghĩa này không thành, là vì chúng sinh có người mù, điếc... Việc này có nghĩa gì? Nếu Danh sắc có thể làm nhân của lục nhập, thì không cho nên có chúng sinh điếc và mù, tất cả đều phải có nguyên vẹn các căn.
Đáp: Nghĩa này không như vậy. Vì sao? Vì không rời Danh sắc mà thành lục nhập, cũng như mây và mưa. Ý này là nghĩa gì? Ví như ông nói trời mưa, nếu trước đó đã có mây, sau đó mới có mưa, thì đương nhiên không phải là rời mây mà cũng có mưa, lúc có mây nhưng vẫn không có mưa. Lục nhập cũng như vậy, nếu có Danh sắc thì có lục nhập, chẳng phải lìa xa Danh sắc mà lại có Danh sắc nhưng không có lục nhập.
Hỏi: Vì nghĩa gì mà có Danh sắc nhưng không có lục nhập?
Đáp: Vì các nhân duyên không đầy đủ. Câu này có nghĩa gì? Cũng như nhãn thức có mắt như thật, nhưng vì các nhân duyên không đầy đủ, cho nên không thành nhãn thức. Lại nữa, như thật có chủng tử, nhưng vì các nhân duyên không hòa hợp cho nên không thể thành sự nảy mầm, việc này cũng như vậy. Vì nhân duyên trong thời kỳ Ca-lA-la... không trọn vẹn, cho nên các nhập (các trần) của mắt... cũng không đầy đủ.
Hỏi: Các nhân duyên kia không đầy đủ như vậy nào?
Đáp: Vì nghiệp phiền não và Danh sắc, hòa hợp thuần thục cho nên thành tựu.
Hỏi: Làm sao biết được phiền não cũng là nhân duyên của lục nhập?
Đáp: Vì A-la-hán không còn sinh trở lại. Việc này có nghĩa gì? Vì dù còn có nghiệp nhưng A-lahán không có phiền não cho nên không sinh, vì không sinh cho nên không có lục nhập, vì vậy biết được phiền não cũng chính là nghiệp nhân sâu xa của lục nhập, và cũng chính là nhân duyên của lục nhập kia. Vì sao? Vì có sự mù lòa... Vì vậy dù thật sự có phiền não, nhưng còn phải tùy thuộc vào sự sinh của từng chủng loại đủ sáu thứ nghiệp có mùđiếc... Vì vậy biết nghiệp cũng là nhân của lục nhập.
Lại vì mười hai nhập có nhiều thứ. Việc này có nghĩa gì? Vì nhập có nhiều thứ cùng thay đổi không giống nhau chỉ trong một thân thể của một chúng sinh mà có nhiều thứ khác nhau, huống là trong thân của đủ thứ chúng sinh có các nghiệp khác nhau, thế lực-nhà cửa-sắc đẹp-mạng sống đều khác nhau. Tất cả sự khác biệt về thế lực-nhà cửa-sắc đẹp... như vậy đều dựa vào nghiệp. Chính vì nghĩa này, cho nên nghiệp kia cũng là nhân duyên của lục nhập, Danh sắc cũng là nhân duyên của lục nhập, vì Lục nhập kia dựa vào chủng tử. Việc này có nghĩa gì? Vì tuy còn có nghiệp phiền não... mà chủng tử của Danh sắc nảy sinh ở Lục nhập, không lìa Danh sắc mà có thể sinh ra Lục nhập, như không lìa chủng tử mà có thể mọc ra mầm. Vì vậy có thể biết nhân gần của Danh sắc nảy sinh lục nhập, cũng dựa vào nghiệp kia mà sinh ra lục nhập. Vì sao? Vì tuy có nghiệp mà như không có nghiệp. Việc này có nghĩa gì? Vì mặc dù vẫn có nghiệp phiền não..., nhưng Danh sắc kia không thành tựu đầy đủ, như trong thời gian CA-la-la.., không có nhãn... nhập, nhưng dựa vào Danh sắc đó mà thành tựu lục nhập, ví như mới bắt đầu kết hạt, thì chung quy có thể trở thành quả. Vì vậy có thể biết Danh sắc-nghiệp phiền não... đã được thuần thục mà có thể làm nhân duyên của lục nhập kia.
Hỏi: Ông nói nhân duyên còn không đầy đủ. Vì sao? Vì trong đó không nói đến nhân duyên bên ngoài. Việc này có nghĩa gì? Vì chỉ trừ các duyên như Thanh nhập Danh sắc... cùng phát sinh lục nhập. Nếu như vậy thì chỉ nói nhân duyên Lục nhập không đầy đủ mà nói nhân duyên của Danh sắc, đây là lỗi lầm?
Đáp: Việc này không cần phải nói. Vì sao? Vì nhận thấy hai chỗ. Điều này có nghĩa gì? Vì nhận thấy hai chỗ ngoại nhập kia. Vì dựa vào chúng sinh thâu nhiếp hay dựa vào không phải là chúng sinh thâu nhiếp? Đây lại có nghĩa gì? Ở đây chỉ dựa vào thứ tự của chúng sinh mà nói về mười hai nhân duyên, chứ không dựa vào phi chúng sinh mà nói về mười hai nhân duyên. Vì vậy chỉ dựa vào chúng sinh đã thâu nhiếp mà nói, chứ không dựa vào cái phi chúng sinh mà nói. Do nghĩa này, cho nên ở đây chỉ dựa vào nhân duyên bên trong mà chúng sinh thâu nhiếp để nói, chứ không phải dựa vào nhân duyên bên ngoài kia mà nói.
Hỏi: Nếu vậy thì không cho nên nói về Danh sắc. Điều này có nghĩa gì? Nếu như vậy thì trong chi Hữu thuộc Danh sắc không nên nói về Danh sắc, vì sắc thấy ở hai nơi?
Đáp: Thật sự như lời chất vấn. Tuy nhiên, nếu ở chỗ kia không nói Danh sắc, chỉ nói dùng Danh duyên Lục nhập. Như vậy, không nói năm loại sắc nhập, sắc cũng thanh tịnh trong Lục nhập kia, chứ không phải chỉ có Danh sắc nhập thanh tịnh. Việc này có nghĩa gì? Cho nên nói là có thể thấy duyên nhập sắc... Vì vậy, chỗ kia cũng nói là sắc. Vì vậy cho nên nói Thức nhân duyên Danh sắc và duyên ý nhập như vậy... Ba thời gian như vậy không có phân biệt. Vì vậy, Đức Như Lai nói ở trong này, thì gọi là nói chính xác.
Hỏi: Tại sao không nói nhân duyên ngoại nhập?
Đáp: Nói về mắt… thì chính là nói về thành tựu. Điều này có nghĩa gì? Trong kinh này nói về Thể của chúng sinh thành tựu đầy đủ. Việc này lại có nghĩa gì? Có nghĩa là tùy thuộc vào những vị trí nào, các nhập của mắt... sẽ ở vị trí đó, tất nhiên có sắc ngoại nhập... Vì sao? Vì không thể xa lìa cảnh giới của sắc... mà có nhãn thức... Chính vì nghĩa này cho nên các nhập của mắt... đã thâu nhiếp các sắc ngoại nhập... Vì vậy, không nói riêng về các ngoại nhập. Lại bởi vì dựa vào nội nhập mà được tên gọi. Đây là có nghĩa gì? Vì dựa vào nội nhập, cho nên được gọi là chúng sinh, chứ không phải là dựa vào ngoại nhập. Chính vì nghĩa này cho nên chỉ nói nội nhập mà không nói ngoại nhập.
Hỏi: Vì sao gọi là Xúc? Đáp: Hướng đến gọi là Xúc.
Hỏi: Nghĩa này thế nào?
Đáp: Pháp trái ngược với Thức ở trong cảnh giới của niệm, vì nhãn thức… ở trong các cảnh giới của các sắc kia có sự trái ngược nhau giữa hai bên, đó gọi là Xúc. Lại có Xúc tiếp cận hướng về hòa hợp vào một nơi, tên gọi khác nhau mà nghĩa như nhau. Vả lai hòa hợp sinh ra pháp trong phần vị của ý cho nên gọi là Xúc.
Hỏi: Nói về nhân duyên của Xúc còn không đầy đủ, vì ba loại pháp hòa hợp nhân duyên mà sinh ra Xúc. Đây là có nghĩa gì? Vì có ba pháp hòa hợp với nhau mà sinh ra Xúc. Đức Phật đã nói như vậy. Ở đây chỉ nói nhân duyên lục nhập mà sinh ra Xúc, vì vậy trong này không nói đầy đủ về nhân duyên sinh ra Xúc, là một sự lỗi lầm chăng?
Đáp: Vì nói nhân duyên bên trong thâu nhiếp được duyên bên ngoài, ví như tiếng trống. Đây là có nghĩa gì? Như có người vỗ trong bọng cây nhịp nhàng sẽ phát ra tiếng, chỉ nói đó là tiếng trống. Ba pháp như vậy hòa hợp mà sinh ra Xúc. Tuy nói là dựa vào bên trong, nhưng thâu nhiếp được cả bên ngoài, vì vậy không có lỗi. Vả lại, không đồng nghĩa với sự nảy mầm của chủng tử. Nghĩa này thế nào? Như dù có thời tiết-đất-nước... hòa hợp, có thể làm nhân duyên cho sự nảy mầm nhưng nói hạt giống gọi là nhân tốt đẹp, hạt giống có thể nảy mầm là nhân duyên tốt đẹp của mầm. Đây là mầm lúa tẻ, đây là mầm lúa mạch, chứ không nói là cùng nhân; Xúc cũng có nghĩa bất đồng như vậy, dù có ba pháp hòa hợp mới nảy sinh, nhưng chỉ nói nội nhập mà không nói là cùng nhân.
Vì nhân hơn hẳn. Nghĩa này thế nào? Tuy có ba pháp hòa hợp mà sinh ra Xúc, nhưng vì dựa vào căn có khả năng nảy sinh mà nói là nhân nội tại, vì dựa vào sự hơn hẳn kia, dựa vào căn kia, cho nên các Thức có thể nảy sinh, vì những kẻ mù-điếc... không có Thức... vì các pháp như sắc... là cảnh giới của Thức, cho nên dựa vào ba pháp hòa hợp của căn mà có thể sinh ra pháp kia. Tuy ba pháp sinh ra Xúc, nhưng căn là hơn hẳn, cho nên Đức Như Lai chỉ nói pháp hơn hẳn, như nói Lục nhập. Lại nữa, tuy nói Lục nhập, nhưng thâu nhiếp được ba pháp hòa hợp thì mới trở thành Xúc. Vì đã gọi là nhập, tức là nói sáu thức. Vì thức tùy theo nhau cho nên nói nhập (thức) như mắt... tức là thâu nhiếp Xúc nhập như sắc... Vì sao? Vì thức (nhập) không lìa sắc... mà có được thức (nhập) của mắt... Chính vì nghĩa này, ở đây nói lục nhập cũng như vậy.
Hỏi: Lục nhập duyên Xúc, đây là nhân nào?
Đáp: Người mù... không có mắt... nhưng vẫn có cảm xúc với người khác. Đây là có nghĩa gì? Vì có căn mắt... là có sự cảm xúc mắt... nếu lìa xa căn mắt... thì không có sự cảm xúc của mắt... Như người mù... chỉ có ý thức. Lục nhập duyên xúc ở đây cũng như vậy.
Hỏi: Dựa vào Xúc duyên Thọ, đây là nhân nào?
Đáp: Cảnh giới và cảm nhận niềm vui có hòa hợp thì mới có sự cảm nhận niềm vui... Nghĩa này thế nào? Như người bị bệnh phong nhiệt, vì bực tức sự nóng nực, cho nên mong tìm nơi có tuyết rơi hoặc có sự che mát của ngọc ma-ni...
Lại có người vì thời tuyết lạnh lẽo làm cho khổ não, mà mong tìm lửa sưởi cho ấm, mong có áo ấm và tất cả sự va chạm ấm áp như nước nóng...
Hỏi: Xúc duyên Thọ, nghĩa này không như vậy. Vì sao? Vì cùng với sự cảm xúc nảy sinh. Nghĩa này thế nào? Xúc cùng nảy sinh với Thọ. Chính vì nghĩa này, cho nên Xúc duyên Thọ, nghĩa này không đúng. Ví như hai chiếc sừng cùng mọc một lượt, sừng bên phải không làm nhân duyên cho sừng bên trái, sừng bên trái không làm nhân duyên cho sừng bên phải. Đây cũng như vậy, vì vậy phải dựa vào nhân duyên khác mà sinh ra, chứ không phải là nhân duyên của Xúc. Vả lại, nếu cùng sinh, mà Xúc có khả năng làm nhân duyên cho Thọ, thì vì nghĩa này mà Thọ không thể cùng Xúc làm nhân duyên, vì Thọ là nhân tương ưng Xúc sinh ra.
Đáp: Tuy là cùng nảy sinh nhưng một pháp là nhân, một pháp không phải là nhân. Nghĩa này thế nào? Có hai loại pháp, tuy rằng cùng nảy sinh nhưng có một pháp có khả năng làm nhân cho pháp kia, chứ không phải là pháp thứ hai làm nhân cho pháp kia. Như ánh sáng và ngọn lửa tuy là cùng sinh ra, nhưng ngọn lửa là nhân của ánh sáng chứ ánh sáng không phải là nhân của ngọn lửa. Lại nữa, ví như mặt trời và ánh sáng là hai pháp cùng sinh, nhưng mặt trời chỉ có khả năng làm nhân cho ánh sáng chứ ánh sáng không thể làm nhân cho mặt trời.
Lại nữa, như thân cùng sinh ra cái bóng của thân, thân làm nhân cho bóng chứ bóng không làm nhân cho thân.
Xúc cũng như vậy, tuy cùng phát sinh với Thọ, nhưng Xúc làm nhân cho Thọ mà Thọ không thể làm nhân cho Xúc.
Nỗi hoài nghi này đã chấm dứt. Ngoài ra còn có nghĩa khác, là không phải theo thứ tự làm nhân duyên cùng phát sinh với xúc trong pháp này của tôi. Chính vì nghĩa này, cho nên không phải là thọ và Xúc đều nảy sinh nhất thời trong pháp này của tôi và nảy sinh thế nào? Dựa vào thời gian quá khứ mà Thọ làm nhân cho thời gian sau, và thứ tự làm nhân cho duyên sinh. Làm thế nào biết được? Vì nói một nhân. Đây là có nghĩa gì? Vì nói dựa vào nhân duyên của Xúc mà sinh ra Thọ, chứ không nói là dựa vào nhân duyên của Thọ mà sinh ra Xúc. Đây là có nghĩa là gì? Nếu hai pháp này đều cùng phát sinh thì cho nên nói là duyên, tức là chúng làm nhân lẫn nhau. Chính vì nghĩa này cho nên nói là duyên theo thứ tự, chứ không nói là nhất thời.
Hỏi: Dựa vào Thọ duyên Ái, thì đây là nhân gì?
Đáp: Vì Thọ làm nhân cho mọi ham muốn vui mừng mà sinh ra Ái.
Hỏi: Nếu như vậy thì khổ không cho nên sinh ra chăng? Đáp: Vì mong cầu rời xa.
Hỏi: Người mong cầu cảm nhận niềm vui là thấy niềm vui cho nên mong cầu không cần phải mong cầu đau khổ bởi vì không cần dùng chăng?
Đáp: Tuy không tìm cầu sự đau khổ nhưng cũng có Ái, vì không muốn thọ nhận nỗi đau kia. Mong muốn xa lìa nỗi đau khổ, đó chính là Ái. Vì vậy cảm nhận nỗi đau khổ cũng là nhân duyên của Ái. Lại nữa, sự cảm nhận niềm vui cũng là nhân duyên của dục ái. Nhận lấy đau khổ, xa lìa nhân duyên hữu ái, đây là có nghĩa gì? Như người đang đau khổ dựa vào sự bức bách của khổ mà không hay biết, vì không có thế lực cho nên thân mạng phải bị giết hại. Dù không tìm khổ, dù không mong cầu niềm vui, mà vẫn có nhân duyên của Ái.
Lại nữa, người mù quáng dựa vào Vô minh, mà chuốt lấy nỗi khổ đau, như kẻ khát nước trong đêm tối quờ quạng uống phải nước lẫn phân. Đây cũng như vậy.
Hỏi: Cảnh giới sắc... đều là duyên của Ái. Vì sao chỉ nói Thọ là duyên của Ái?
Đáp: Vì cảm nhận niềm vui mà mong cầu sắc... kia. Đây là có nghĩa thế nào? Cuộc sống với cảm nhận những niềm vui tất nhiên sẽ có nhiều bạn bè. Chính vì nghĩa này cho nên đối với các pháp sắc... đều sinh tâm yêu thích. Sự thọ nhận là nhân hơn hẳn chứ không phải là sắc-hương... Vì vậy chỉ nói thọ làm nhân cho Ái mà không nói đến sắc....
Hỏi: Thủ có nghĩa gì?
Đáp: Nhận lấy-gần gũi-nhiễm-bám dính, đều gọi là Thủ. Mong cầu ở chi Hữu và tất cả những vướng mắc đối với của cải riêng trong đời sống... Lại thích ứng với sự ô nhiễm vướng mắc không rời bỏ nhau, gọi là Thủ. Thủ này có bốn loại: Dục thủ, kiến thủ, giới thủ và ngã thủ.
Dục thủ là tham lấy công đức của cảnh giới năm dục. Giới thủ là bởi vì giữ giới mà ôm lấy ba loại chấp.
Kiến thủ là thân kiến và ngã kiến.
Vả lại, chấp trước vào ngã, gọi là ngã thủ. Người kia đắm theo ngã vì ngã mà mong cầu niềm vui. Vì vậy cầu mong cảnh giới của năm dục kia cầu mong niềm vui của chư Thiên. Hoặc chọn lấy mong thấy được chư Thiên mà thực hành các pháp khổ hạnh như vậy, đó gọi là kiến thủ. Nếu đã cầu được cảnh giới của năm dục, tham đắm vào pháp ấy, thì gọi là dục thủ. Đắm vào cảnh giới dục lạc của đời vị lai cho nên không có thể xa lìa cảnh giới của năm dục, giữ giới như vậy, thì gọi là giới thủ. Lại đắm vào thân mình, tùy thuận với hai bên thì gọi là kiến thủ. Nghĩa là thế nào? Nếu rơi vào bên đoạn thì cố chấp giữ lấy cảnh giới năm dục, đó gọi là dục thủ. Nếu rơi vào bên thường thì tham đắm năm dục, lấy làm nơi sinh tốt đẹp, giữ giới như vậy thì gọi là thủ.
Hỏi: Ái làm duyên cho Thủ, đây là nhân nào?
Đáp: Vì không thoả mãn Ái, cho nên sự mong cầu cứ tăng thêm, như uống nước muối lại càng khát thêm. Lại dựa vào Ái cho nên có bốn loại Thủ. Nghĩa này thế nào? Vì dựa vào duyên Ái, cho nên mong cầu cảnh giới năm dục trong hiện tại. Như kinh nói: Dựa vào nhân duyên của Ái mà mong cầu mọi dục vọng, đó gọi là dục thủ.
Lại dựa vào Ái cho nên mong cầu cảnh giới năm dục trong đời vị lai. Vì sự yêu thích ấy mà khởi lên sự giữ giới, mà gọi là giới thủ. Vì người đó chỉ mong cầu cảnh giới năm dục, nếu đã cầu được cảnh giới năm dục, thì không muốn rời bỏ, mà cầu mong ở các trời, chọn ngày tốt thờ tự cúng tế, đều là những mong muốn của ngã. Đắm theo ngã như vậy gọi là ngã thủ, đó gọi là dựa vào nhân duyên Ái hướng về Thủ.
Hỏi: Những Ái nào duyên những Thủ nào?
Đáp: Các dục ái-dục thủ-hữu ái-năng thủ-giới thủ-ngã thủ đều lìa ái-năng thủ và kiến thủ của chi Hữu. Lại nữa, ngã ái và kiến thủ của chúng sinh nảy sinh ra Ái-giới thủ-thọ ái-dục thủ, đối với tất cả thủ tham đắm vào kiến thủ. Dục thù và giới thủ trong bốn thủ là hai thủ thuộc về Ái, hai thủ còn lại thuộc về căn bản vô minh.
Hỏi: Thế nào là nghĩa của Hữu?
Đáp: Hữu này có khả năng phát sinh. Dựa vào khả năng phát sinh này mà siêng tu khả năng ấy. Dựa vào pháp này mà có khả năng phát sinh pháp khác cho nên gọi là Hữu.
Hỏi: Dựa vào Hữu duyên Sinh, đây là nhân nào?
Đáp: Dựa vào nghiệp của Hữu mà Sinh, như trước đây đã nói. Dựa vào Hành có Thức, ở đây cũng vậy, cần phải nói đầy đủ.
Hỏi: Phiền não cũng là nhân duyên của chi Sinh, như kinh nói:
Nhân của Ái có khả năng phát sinh. Vì sao chỉ nói Hữu là nhân duyên của Sinh mà không nói duyên Thủ?
Đáp: Vì dựa vào nhân phát sinh hơn hẳn cho nên nói như vậy. Nghĩa này thế nào? Trong này chỉ nói nhân hơn hẳn của pháp sinh. Vậy thế nào là hơn hẳn? Đây là địa ngục, đây là con người, và đây là trời, những thân nghiệp như vậy... là nhân gần, mà không phải là phiền não. Những nhân kia lại có nhân đã sinh, sinh trong đồng loại, mỗi cái đều có sự khác nhau, nghĩa là tất cả đều khác biệt về sắc lực, về nhà cửa, sống lâu, chết yểu, có bệnh, không bệnh, tiêu dùng của cải trong đời sống. Các nghiệp trong này cũng vậy, cho nên biết đó là nhân gần chứ không phải phiền não, là vì nói nhân duyên Hữu, Sinh hữu chứ không phải là nhân duyên Thủ.
Hỏi: Nếu Hữu có khả năng làm nhân duyên cho Sinh, thì tại sao nói Hữu là nhân duyên Sinh mà không nói là nhân duyên Sinh với Hữu?
Đáp: Vì Hữu định và bất định. Nghĩa này thế nào? Vì có chi Hữu tất nhiên phải có chi Sinh, nhưng có chi Sinh thì không cần phải có chi Hữu. Giống như dựa vào đế thứ hai kia, cho nên phải có đế thứ nhất, nhưng không cần phải nhờ có đế thứ nhất mới có đế thứ hai. Nếu không như vậy thì cuối cùng sẽ không có nhân duyên giải thoát. Vì vậy, nói dựa vào nhân duyên của chi Hữu thì phải có chi Sinh chứ không phải Sinh duyên Hữu.
Hỏi: Lão là nghĩa gì?
Đáp: Da nhăn, thể lực sút kém gọi là lão. Có người nói: Gọi là lão vì có sự thay đổi khác đi. Nghĩa này không thành. Vì sao? Vì không dừng lại, vì hành của hữu vi không dừng lại trong sát na. Nếu hành của hữu vi trong mỗi ý niệm không hề dừng lại, thì sao lại nói là đổi thay mà gọi là lão? Lại còn có lỗi, nếu pháp có thay đổi thì cần phải dừng lại trong sát na thứ hai. Nếu pháp dừng lại trong sát na thứ hai thì không phải là nghĩa của pháp Phật. Lại còn có lỗi nói thay đổi khác đi là phủ nhận thật thể. Nếu ngay trong pháp trước có sự đổi thay khác đi thì pháp ấy cần phải xả bỏ bản thể. Còn nếu như pháp đó không thay đổi khác đi, thì không có thể nói là có đổi thay, có khác biệt. Còn nếu pháp không bỏ rơi bản thể của nó thì cũng không có thể nói là có sự đổi khác mà gọi là lão. Vì vậy không có thể nói là có chuyển biến mà gọi là lão. Trước có nói tướng lão, đó là nghĩa của lão. Hỏi: Tâm-tâm số pháp, làm sao biết được là lão?
Đáp: Vì nhận thấy tâm pháp dựa vào pháp khác, có nghĩa là các căn mà bốn đại sút giảm rõ rệt, sự nhớ nghĩ mỏng manh-quên sót-lầm lẫn, đối với các pháp môn đã có-đã nghe, không nhận thấy rõ được cảnh giới khó trông thấy. Với những trạng thái như vậy, thì biết là tâm có lão.
Hỏi: Tử có nghĩa gì?
Đáp: Chết là từ bỏ mạng sống cuối cùng, tiêu mất hẳn trước khi đi đến một thế giới khác... Đó gọi là tử. Như vậy thì tử này và lão vừa nói trên, kết hợp cả hai hiện tượng này cho nên gọi là chi lão tử.
Lại còn có người nói: Sau khi các căn và bốn đại... sút kém rất tinh tế khó phân biệt, đó gọi là lão, bị tan vỡ gọi là tử, như tán cây tàn tạ dần. Lại nữa, bốn đại bị phá hoại gọi là lão, tiêu tan hết gọi là tử, như chiếc xe cũ kỹ hư mục rã rời tan nát. Lại nữa, đối với năm ấm tùy thuận diệt mất, đó gọi là lão, hiện tượng diệt gọi là tử, như ngôi nhà cũ đã mục hết.
Hỏi: Sinh duyên lão tử có nghĩa gì?
Đáp: Vì pháp kia đã tan rã mà có được pháp này. Nếu không có pháp kia thì cũng không có pháp này. Nghĩa này thế nào? Như mới đầu, nắn chiếc bình, thời gian sau bình sẽ cũ. Lại nữa, trước nắn chiếc bình, thời gian sau chiếc bình sẽ bị vỡ nát. Đây cũng như vậy. Có chúng sinh sinh ra về sau có già chết, chứ không phải là không sinh ra. Vì vậy là dựa vào sinh duyên lão tử.
Hỏi: Nếu trong một niệm Sinh mà lập tức chết đi, thì trong đó làm sao có Sinh duyên lão tử?
Đáp: Mạng diệt mất. Nghĩa này thế nào? Nơi kia có mạng rút giảm hiện tiền thì mạng năm ấm diệt mất, đó gọi là lão. Giống như cơn mưa có mây cho nên mưa, không có mây thì không có mưa, cũng có lúc có mây mà không có mưa. Phạm vi này cũng như vậy.
Hỏi: Vì sao trong ba pháp tướng hữu vi một chỗ chỉ nói sự sống là chi Sinh, một chỗ lại nói lão và lấy làm chi lão?
Đáp: Vì nghĩa tùy thuận. Lúc pháp sắp sinh thì Sinh luôn luôn tùy thuận, khi pháp sắp diệt thì chi lão tùy thuận. Lại nữa, chi lão tử tùy thuận pháp hoại, chi Sinh và lão tử kia trái ngược với nhau, hai pháp Lão tử cùng thay phiên nhau tùy thuận.
Nói tùy thuận, vì tùy thuận với sự phá hoại cho nên gọi là lão tử cũng như vậy. Vì vậy lão tử hợp thành một chi, Sinh là chi riêng.
Hỏi: Vì sao không nói sự âu lo... là chi?
Đáp: Vì không bao phủ khắp trong tất cả các chúng sinh. Nghĩa này thế nào? Các pháp âu lo... không bao phủ khắp trong ba cõi, chính vì nghĩa này cho nên không nói là chi.
Hỏi: Vô minh diệt thì hành diệt có theo thứ tự nào không?
Đáp: Như Lai nói theo thứ tự là mười hai phân nhân duyên như Vô minh... có thể sinh ra chi Hữu.
Vì mọi chúng sinh không có thể nhận biết được mười hai nhân duyên cho nên rơi vào Đoạn kiến. Đức Như Lai đã nói theo thứ tự là Vô minh diệt, thì những Chi khác cũng đều diệt. Vì mọi chúng sinh không thể thấy biết nhân duyên Vô minh, cho nên rơi vào Thường kiến. Vả lại, như trước đây đã nói, thế nào là thế gian có? Vì không thấy biết mười hai nhân duyên, cho nên rơi vào vô biên? Chính vì nghĩa này cho nên Đức Như Lai mới nói: Thế nào là thế gian mất? Vì không thấy biết các pháp là gì cho nên rơi vào có biên. Chính vì nghĩa này, cho nên Đức Như Lai nói tiếp như trong kinh Như Lai Ca Chiên Diên. Vả lại, đã nói đến thân kiến-Tập đế-Đạo đế, mà chưa nói đến thân kiếnKhổ đế-Diệt đế, vì vậy cần phải nói. Lại nữa, đã nói đến Nhiễm đế mà chưa nói đến Tịnh đế.
Lại nữa, đã nói đến chân lý của sự ràng buộc, nhưng chưa nói đến chân lý của sự giải thoát. Nay cần phải nói đến, cho nên Như Lai nói Vô minh diệt thì Hành cũng diệt.
Hỏi: Các nhân duyên này có bao nhiêu thứ?
Đáp: Nói gọn có bốn loại. Đó là:
1. Có thời gian của mười hai nhân duyên.
2. Sát na.
3. Thứ tự.
4. Không đoạn tuyệt.
Thời gian là đến lúc, gọi là lúc nhân duyên. Nghĩa này thế nào? Thời Vô minh là thời quá khứ.
Sinh phiền não là thời của Vô minh. Nói thời gian của Hành, là nói nghiệp thuộc thời gian quá khứ, đó gọi là thời gian của Hành.
Nói thời gian Thức, là tâm thác sinh, cùng sinh với quyến thuộc, đó gọi là thời gian của Thức.
Thời gian Danh sắc là khi tinh huyết chưa hòa hợp thành, tức Ca-la-la An-phù-đà, Tỳ-ni-kiênchi... Trong thời gian như vậy chưa sinh ra các căn, năm tình, và lục nhập chưa đầy đủ. Thể của sự phát sinh trong thời gian ấy thì gọi là Danh sắc.
Thời gian lục nhập đã sinh ra các căn đầy đủ như mắt... các cơ quan của lục nhập chưa có khả thể có sức lực làm chỗ nương tựa cho tâm, tâm số pháp, đó gọi là thời gian lục nhập.
Nói thời gian Xúc là thời gian tùy thuộc vào các căn có thể làm chỗ nương tựa cho tâm-tâm số pháp kia, nhưng chưa có thể thực hiện phân biệt khổ-vui, cũng chưa có thể làm mọi việc tốt, xấu, chưa có hành động hơn hẳn, đó gọi là thời gian Xúc.
Nói thời gian Thọ, là thời gian biết cảm nhận khổ, vui, phân biệt được nỗi khổ, niềm vui, gồm cả những việc tốt xấu, vui mừng, ăn uống, chưa có sự yêu thích ái dục, chưa đủ sức tiếp nhận tiền của riêng cho sự sống, đây là thời gian Thọ.
Nói thời gian Ái, là hành động yêu thích-ham muốn, có tiền của cung phụng cho đời sống, nhưng chưa thể phân biệt có không, đây gọi là thời gian ái.
Nói thời gian Thủ là biết phân biệt có, không, khởi lên sự mong cầu như vậy, đó gọi là thời gian Thủ.
Nói thời gian Hữu, là mong cầu cảnh giới năm dục ở đời này, và trong đời vị lai, cho nên dong ruổi tìm kiếm mưu cầu cho đời sống tương lai, bắt đầu gây ra mọi thứ nghiệp, đó gọi là thời gian hữu. Nói thời gian Sinh, là kiếp sống này đã lùi vào dĩ vãng, tức là sẽ được ký thác vào nơi sinh của đời kiếp sau, đó gọi là thời gian Sinh.
Thời gian Lão tử là từ đây về sau, các căn sẽ bị phá hoại dần, gọi là thời gian Lão tử.
Nói Sát na nghĩa là các chi như Danh sắc... gọi là Sát na (Khoảnh khắc), vì trong một ý niệm đều có đủ tất cả mười hai chi. Nghĩa này thế nào? Như một người dựa vào tâm tham lam mà giết hại chúng sinh. Chỗ dựa đó đã có sự mê lầm ngu si... gọi là Vô minh. Chỗ dựa đó đã có tâm niệm tương ưng với sự lo nghĩ, gọi là Hành. Chỗ dựa đó đã có ý thức tương ưng với pháp, gọi là Thức. Chỗ dựa đó đã có pháp tướng nảy sinh cùng với Thức. Bốn Đại và sự nương dựa vào bốn Đại mà nảy sinh bốn Trần, các pháp diễn ra như vậy gọi là Sắc. Chỗ dựa đó đã có Nhập dựa vào, tạo ra nghiệp mà chẳng lìa được Nhập, gọi là Lục nhập. Chỗ dựa đã có các pháp đối xứng tương ưng với nhau, gọi là Xúc. Chỗ dựa đó đã có sự tương ưng với những cảm giác, gọi là Thọ. Chỗ dựa đó đã có sự tương ưng với tâm tham dục, gọi là Ái. Chỗ dựa đó đã có tâm niệm không buông bỏ ái, gọi là Thủ. Chỗ dựa đó đã có nghiệp thân-miệng-ý, gọi là Hữu. Chỗ dựa đó đã có các pháp khởi lên thay thế các pháp đó, gọi là Sinh. Chỗ dựa đó các pháp đã có đổi khác, gọi là Lão. Chỗ dựa đó các pháp đã có tản diệt, gọi là Tử.
Có thứ tự là nghĩa vô thỉ. Nghĩa này thế nào? Vì nhân quả kia không đoạn tuyệt. Chính vì nghĩa này cho nên không biết điểm khởi đầu của nhân quả đó.
Không đoạn tuyệt vì mỗi nhân của nhân kia không đoạn tuyệt. Nghĩa này thế nào? Là nghĩa từ xa đến. Hơn nữa, không phải chỉ có mười hai chi hữu có khả năng nảy sinh nhân duyên, vì tất cả các pháp hữu vi kia đều gọi là nhân duyên.
Hỏi: Các pháp như tâm sâu xa... có thứ tự nào? Đáp: Vì thành tựu tất cả công đức thù thắng, vì không đánh mất tâm Bồ-đề trong tất cả các pháp, vì làm căn bản. Nghĩa này thế nào? Ở trong công đức tu hành của các Đại Bồ-tát, nói tâm sâu xa kia dùng làm căn bản, bởi vì các Bồ-tát đều thành tựu tâm sâu xa, và lấy làm nhân để không đánh mất tâm Bồ-đề. Như tâm sâu xa, các hành cũng như vậy.
Tự nhiên tu hành chỉ vì muốn đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh. Vì vậy Đức Như Lai vì muốn chỉ rõ nghĩa theo thứ tự như thật tu hành, cho nên sau khi nói về tâm sâu xa, thì tiếp theo Ngài nói về hoạt động của tâm. Lại bởi vì Bồ-tát thành tựu thâm tâm và hành tâm, rồi sau đó tu hành đem lại lợi ích cho mọi người. Vì muốn chỉ rõ nghĩa thù thắng như vậy cho nên Đức Như Lai nói đến thành tựu tâm Xả sau khi nói về việc tu hành. Lại bởi vì Bồ-tát tu hành như thật về giữ giới-bố thí... và nguyện đem pháp tốt đẹp đó hồi hướng. Dựa vào nghĩa như vậy chỉ rõ sự tu hành trợ đạo Bồ-tát. Vì vậy, tiếp theo nói về thành tựu hồi hướng. Vả lại, từ giữ giới cho đến hồi hướng đều không phải là thiện căn nhất định, tiếp theo là muốn chỉ rõ pháp Tam-muội thù thắng, muốn làm cho chúng sinh an trú trong những căn thiện như Từ Bi... Chính vì nghĩa này cho nên Đức Như Lai nói về thành tựu tâm Đại Từ Bi... sau khi nói pháp hồi hướng. Đức Như Lai đã an trí pháp yên vui mầu nhiệm nhất định đối với Bồ-đề, vì muốn xa lìa tâm niệm tham đắm kia, cho nên sau khi nói về tâm Từ Bi thì tiếp theo mới nói đến pháp phương tiện. Vì có phương tiện cho nên có trí tuệ sáng suốt thấy rõ các pháp. Chính vì nghĩa này cho nên Bồtát không rơi vào phần vị Thanh văn và Bích-chiPhật, mà đi vào phần vị Bồ-tát.
Vì vậy, Đức Như Lai nói đến thành tựu Bát nhã Ba-la-mật sau khi nói về pháp phương tiện.
Hơn nữa, nói gọn từ thành tựu tâm sâu xa cho đến phương tiện, là chỉ rõ sự thành tựu công đức hỗ trợ cho đạo.
Cuối cùng thành tựu Bát nhã Ba-la-mật là chỉ rõ thành tựu trí tuệ trợ đạo.
Lại nữa, từ thành tựu tâm sâu xa cho đến phương tiện là chỉ rõ thành tựu công đức Bồ-đề đạo. Thành tựu cuối cùng là Bát nhã Ba-la-mật, tức là chỉ rõ thành tựu đạo trí tuệ Bồ-đề.
Vả lại, từ thành tựu tâm sâu xa cho đến hồi hướng là chỉ rõ thành tựu thân Giới. Hai pháp TừBi là chỉ rõ thành tựu thân Định, phương tiện Bát nhã là chỉ rõ thành tựu thân tuệ. Lại nữa, thành tựu tâm sâu xa tức là chỉ rõ thành tựu tâm ngay thẳng. Bảy câu còn lại là chỉ rõ thành tựu sự tu hành.
Hơn nữa, thành tựu tâm sâu xa và thành tựu tâm hành là chỉ rõ nhà giới. Thành tựu tâm Xả và thành tựu hồi hướng là chỉ rõ nhà bố thí. Thành tựu tâm Đại Từ và thành tựu tâm Đại Bi là chỉ rõ nhà diệt. Thành tựu phương tiện và thành tựu Bát nhã là chỉ rõ nhà trí. Như vậy, tất cả các pháp có trở ngại hay không trở ngại, thì trong tất cả các Tu-lA-la khác đã nói rộng, cho nên biết.
Tu-la-la này là dựa vào nghĩa giới học của các Đại Bồ-tát mà nói.
Như vậy, với tám vạn bốn ngàn Vô lượng vô biên các pháp môn... của các Đại Bồ-tát, đều thuận theo tương tự biết rõ.