TẠNG LUẬN
BỘ THÍCH KINH
SỐ 1530 - LUẬN VỀ PHẬT ĐỊA KINH
Tác giả: Bồ-tát Thân Quang. Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng.
Kính lạy Đấng phước điền vô thượng tuyệt luân,
Tam thân-Nhị đế cùng với chúng Nhất thừa,
Nay con tùy sức mình soạn ra luận này,
Mong giáo pháp thường trú lợi ích quần sinh.
Nắm ý các Sư lòng con đã thanh tịnh,
Sợ trí kém cỏi chưa có thể thông suốt,
Để cho mọi người thanh tịnh sinh thắng đức,
Cho nên con giải thích sơ lược địa Mâu Ni.
Luận: Kinh Phật địa, đầy đủ Nhất thiết trí, Nhất thiết chủng trí, lìa chướng phiền não và chướng sở tri. Đối với mọi tướng của tất cả pháp đều có thể tự mở mang giác ngộ, cũng có thể mở mang giác ngộ cho hết thảy hữu tình. Như người nằm mơ tỉnh giấc, như hoa sen hé nở, cho nên gọi là Phật địa. Nghĩa là những nơi nương tựa-thực hành-thâu nhiếp, tức là nói đến sự thọ dụng hòa hợp một vị của Đại viên cảnh trí, Bình đẳng tánh trí, Diệu quán sát trí, Thành sở tác trí trong pháp giới thanh tịnh. Đó là những nơi mà Phật nương tựa-thực hành và thâu nhiếp, cho nên gọi là Phật địa.
Có năng lực xuyên suốt qua-có năng lực-thâu nhiếp, cho nên gọi là Kinh. Dùng Thánh giáo của Phật xuyên suốt thâu nhiếp giữ gìn mà thuận theo giảng giải nghĩa lý để giáo hóa chúng sinh.
Cho nên biết trong này tuyên thuyết về Phật địa làm lợi ích cho hữu tình. Dựa vào nghĩa giải thích, gọi là kinh Phật địa, như kinh Duyên Khởi, như luận Tập Bảo.
Nói gọn nghĩa thuộc về kinh này, là làm sáng tỏ cõi Phật Thế Tôn viên mãn, công đức viên mãn, quyến thuộc viên mãn, an lập Phật địa với năm pháp thọ dụng chung-riêng hòa hợp thành một vị, trí dựa vào pháp giới thanh tịnh đầy đủ các công đức sai khác của ba thân.
Đây là theo thứ tự nêu rõ. Như lai ở nơi chốn như vậy, đầy đủ công đức như vậy, mọi người cùng an lập như vậy.
Địa có nghĩa khác nhau như vậy. Nơi chốn như vậy gọi là quốc độ thanh tịnh của Phật, tức là mười tám loại cung điện rộng lớn, trang nghiêm viên mãn.
Công đức như vậy gọi là hai mươi mốt loại công đức thù thắng của Phật, Thế Tôn.
Chúng như vậy nghĩa là vô số lượng các chúng Đại Thanh văn, Đại Bồ-tát đều thành tựu các loại công đức vi diệu.
Nghĩa riêng của Địa là năm pháp thọ dụng chung-riêng hòa hợp thành một vị của Địa Đại giác về sau sẽ nói rộng phần này.
Ở trong kinh này tổng quát có ba phần:
1. Phần nhân duyên khởi giáo.
2. Phần Thánh giáo đã thuyết giảng.
3. Phần y giáo phụng hành.
Phần chung là hiển bày về điều mình nghe và thời gian phát khởi giáo pháp.
Phần riêng là hiển bày về giáo chủ và xứ sở phát khởi giáo pháp. Giáo pháp bao trùm mọi căn cơ tức là do nhân do duyên mà phát khởi giáo pháp, gọi là phần nhân duyên phát khởi giáo pháp. Chính thức hiển bà Y thánh giáo đã thuyết giảng về các pháp môn-phẩm loại sai biệt, gọi là phần Thánh giáo đã thuyết giảng. Hiển bày vào lúc ấy đại chúng nghe Thánh giáo của Phật đều hoan hỷ phụng hành, gọi là phần y giáo phụng hành.
Kinh: “Tôi nghe như vậy: Một thuở, Đức Bạcgià-phạm...”.
Luận: Tôi nghe như vậy, nghĩa là tổng quát hiển bày về điều mình nghe. Người truyền lại lời Đức Phật dạy, nói rằng sự việc như vậy xưa kia tôi đã từng nghe như vậy…
Nói chung là dựa vào bốn nghĩa để phát triển:
1. Dựa vào thí dụ.
2. Dựa vào lời răn dạy.
3. Dựa vào sự hỏi đáp.
4. Dựa vào sự chấp nhận.
Dựa vào thí dụ, như có người nói: “Giàu sang như vậy, như Thiên vương Tỳ-sa-môn”.
Dựa vào lời răn dạy, như có người nói: “Ông nên đọc, tụng kinh luận như vậy…”.
Dựa vào sự hỏi đáp, như có người nói: “Tôi nghe như vậy, tuyên nói như vậy”.
Dựa vào sự chấp nhận, như có người nói: Tôi sẽ vì ông mà tư duy như vậy, như vậy mà làm, như vậy mà nói. Hoặc khi tin tưởng thì có thể nói: “Việc này có nghĩa như vậy”.
Trong này chỉ dựa vào sự nhận lời, nghĩa là khi kiết tập, các chúng Bồ-tát đều cùng đề nghị rằng: “Như những gì thầy nghe, thì nên nói như vậy”.
Bồ-tát truyền pháp liền chấp thuận lời đề nghị của đại chúng. Như vậy nên nói: “Như điều tôi đã nghe”.
Lại nói như vậy là tin tưởng có thể thẩm định, nghĩa là pháp như vậy, xưa kia tôi đã từng nghe, sự việc này là như vậy, tôi sẽ nói đầy đủ về sự việc đó, nhất định không khác.
Nghĩa “có” trong này cũng dựa vào câu hỏi và trả lời, nghĩa là có người hỏi: “Điều ông trong nói, xưa nhất định đã nghe chăng?” Người này đáp:
“Tôi nghe như vậy.”
Nghĩa “có” trong này tất cả dựa vào bốn loại.
Dựa vào thí dụ; nghĩa là chỗ nói sẽ theo câu văn như vậy: “Như tôi xưa đã nghe”.
Dựa vào lời răn dạy: Nghĩa là khi bảo với chúng nên nghe như vậy, xưa tôi đã nghe.
Ngoài ra, như trước đã nói. Tôi nghĩa là các uẩn thế tục giả hợp. Nghe nghĩa là nhĩ căn phát sinh thức nghe nhận. Vì bỏ cái riêng mà dựa vào cái chung, cho nên nói là “Tôi nghe”.
Nghĩa “có” là bản nguyện Từ Bi của Như Lai với lựa của duyên tăng thượng.
Nghe là từ trong thức phát sinh văn nghĩa. Tướng của văn nghĩa này dù trực tiếp dựa vào năng lực thiện căn của mình phát sinh, nhưng căn cứ theo duyên phát triển mạnh thì gọi là Phật nói. Vì năng lực của tai nghe là do tâm Biến hiện cho nên gọi là “Tôi nghe”.
Nghĩa có người nghe là lực của duyên tăng thượng trong bổn nguyện thiện căn trên thức của Như lai mà cùng phát sinh văn nghĩa. Tướng của văn nghĩa này là từ thiện căn lợi tha của Phật mà phát khởi, gọi là Phật nói. Người nghe dù tâm thức không nhận rõ, nhưng vì tướng ấy hiển hiện rõ ràng cho nên gọi là: “Tôi nghe”. Nên biết rằng nói là: “Tôi nghe như vậy” ngụ ý là tránh phần lỗi lầm thêm-bớt và đổi khác, nghĩa là pháp như vậy, tôi nghe từ Đức Phật, không phải do người khác lần lượt hiển bày rõ ràng.
Người nghe có đủ năng lực nhận lãnh cho nên những gì đã nghe đều xa lìa lỗi lầm thêm-bớt và khác lạ, không phải như kẻ tầm thường ngu muội, không có năng lực nào có thể nghe những gì đã nghe, hoặc không thể tránh khỏi phần thêm-bớt và khác lạ.
Khi kiết tập giáo pháp, truyền lại lời Phật dạy và dựa vào lời giáo huấn của Như Lai, lời nói đầu tiên này là làm cho chúng sinh cung kính tin nhận. Nói pháp như vậy tôi được nghe từ Đức Phật văn nghĩa quyết định không hề thêm-bớt. Vì vậy người nghe sau khi chính thức được nghe rồi, tư duy như lý, phải siêng năng tu học.
Nói “một thuở”, nghĩa là lúc nói và lúc nghe. Đây là căn cứ vào giây phút nối tiếp nhau không gián đoạn. Nói và nghe trọn vẹn cho nên gọi chung là “một thuở”. Nếu không như vậy thì tất cả ngôn từ-câu chữ… khi nói và nghe sẽ khác nhau.
Thế nào gọi là “một thuở”? Người tự mình nói là người đã chứng đắc Đà-la-ni, ở trong một chữmột khoảnh khắc có thể duy trì-có thể nói ra tất cả các pháp môn. Hoặc người tự mình nghe, là người có được tai nghe thanh tịnh, khi trong một khoảnh khắc nghe một chữ, đối với tất cả chữ khác đều không hề chướng ngại, đều có thể lãnh thọ, cho nên gọi là một thuở. Hoặc lúc gặp gỡ nhau không khác biệt, cho nên gọi là một thuở, tức là nói và nghe cùng gặp gỡ nhau, cùng chung nghĩa một thuở.
Lúc (Thời) tức là phần vị giả lập trên pháp hữu vi, hoặc là phần vị trên tâm, bởi vì ảnh tượng dựa vào sắc tâm thì tất cả đều là giả lập, là thuộc về hành uẩn không tương ưng.
Sao không hiển bày riêng biết các nơi chốn tiếp theo sau... mà chỉ nói một thuở? Vì thời gian ngày đêm và các phương không cố định, cho nên không thể nói riêng biệt được.
Vả lại, vì nghĩa không cố định, hoặc trong một giây phút, hoặc lại tương tục, không thể nói cố định. Vì vậy theo tướng chung chỉ nói là một thuở. Bạc-già-phạm gọi là Bạc-già-phạm thì dựa vào sáu nghĩa chuyển đổi:
1. Nghĩa tự tại.
2. Nghĩa xí thạnh.
3. Nghĩa đoan nghiêm.
4. Nghĩa danh xưng.
5. Nghĩa kiết tường.
6. Nghĩa tôn quý.
Như có bài tụng nói:
Tự tại-xí thạnh và đoan nghiêm,
Danh xưng-kiết tường cùng tôn quý,
Sáu thức nghĩa sai biệt như vậy,
Nên biết gọi chung là Bạc-già...
Như vậy tất cả Như Lai có đủ tất cả các loại, đều không cách ly nhau. Vì vậy danh hiệu Như Lai là Bạc-già-phạm.
Nghĩa đó thế nào? Nghĩa là các Đức Như lai vĩnh viễn không hệ thuộc bởi các phiền não, cho nên đầy đủ nghĩa tự tại. Vì được tôi luyện bằng ngọn lửa trí tuệ rừng rực mãnh liệt, cho nên đầy đủ nghĩa xí thạnh. Vì được trang sức bằng ba mươi hai tướng tốt đẹp của bậc đại sĩ, cho nên đầy đủ nghĩa đoan nghiêm. Vì tất cả công đức thù thắng đều viên mãn không có điều gì không biết cho nên đầy đủ nghĩa danh xưng. Vì tất cả thế gian đều thân cận cúng dường và khen ngợi, cho nên đầy đủ nghĩa kiết tường. Vì đủ tất cả các đức, thường xuyên vận dụng phương tiện làm lợi ích, an vui cho tất cả hữu tình, không biếng trễ bỏ nửa chừng, cho nên đầy đủ nghĩa tôn quý. Hoặc có năng lực phá tan bốn loại ma oán cho nên gọi là Bạc-giàphạm.
Bốn loại ma oán là ma phiền não, ma uẩn, ma chết và ma Tự Tại thiên.
Phật có đủ mười loại danh hiệu công đức. Vì sao Như Lai dạy cho người truyền pháp, trong phần đầu của tất cả các kinh, chỉ đặt danh hiệu Bạc-già-phạm như vậy?
Nghĩa là thế gian đều tôn trọng một danh hiệu này. Các ngoại đạo đều gọi danh hiệu của bổn sư là Bạc-già-phạm (Thế Tôn). Vả lại, một danh hiệu này thâu nhiếp toàn bộ mọi phẩm đức, các danh hiệu khác thì không như vậy, cho nên
Ở phần đầu các kinh đều đặt danh hiệu này. Về đức của Bạc-già-phạm, phần sau sẽ nói rộng.
Kinh: “An trú trong xứ sở trang nghiêm bằng bảy loại báu rực rỡ sáng ngời thù thắng vô cùng, phóng ra ánh sáng rộng lớn, soi chiếu khắp tất cả vô biên thế giới, vô lượng xứ sở trang nghiêm vi diệu hiện bày trong đó, vây tròn xung quanh không giới hạn với số lượng khó biết được, vượt lên trên xứ sở thực hiện của ba cõi, do thiện căn xuất thế gian thù thắng mà phát khởi, thức thanh tịnh tự tại cao nhất làm tướng do Như lai quy tập đầy đủ.
Các chúng Đại Bồ-tát đều vân tập, vô lượng trời-rồng-người và loài phi nhân… thường cùng nhau đi theo giúp đỡ, vui sướng giữ gìn pháp vị rộng lớn làm tất cả mọi điều lợi ích có ý nghĩa cho các chúng sinh-diệt trừ các phiền não tai họa ràng buộc thô trược, xa lìa các loại trang nghiêm lỗi lầm của các ma.
Xứ sở nương tựa trang nghiêm của Như lai, dùng Đại niệm tuệ hạnh làm con đường qua lại, dùng Đại chỉ diệu quán làm cỗ xe chuyển vận, dùng Đại không-Vô tướng-vô nguyện giải thoát làm cánh cửa tiến vào, vô lượng công đức trang nghiêm rực rỡ, do các loại hoa chúa quý báu nhất mà kiến lập trong cung điện vĩ đại”.
Luận: Đây là hiển bày trú xứ viên mãn của Như Lai, nghĩa là Tịnh độ của Phật. Tịnh độ này lại do mười tám sự viên mãn, đó là hiển sắc viên mãn, hình sắc viên mãn, phần lượng viên mãn, phương sở viên mãn, nhân viên mãn, quả viên mãn, chủ viên mãn, phụ giúp viên mãn, quyến thuộc viên mãn, trú trì viên mãn, sự nghiệp viên mãn, thâu nhiếp lợi ích viên mãn, không sợ hãi viên mãn, trú xứ viên mãn, đường sá viên mãn, sự vận hành viên mãn, môn viên mãn, y chỉ và gìn giữ viên mãn.
Do mười chín câu như thứ tự ấy biểu hiện rõ ràng mười tám loại viên mãn như vậy, chính cung điện được trang nghiêm viên mãn ấy gọi là Tịnh độ của Phật, Đức Phật gọi trú trong cung điện nguy nga vĩ đại như vậy mà thuyết ra Khế kinh này.
Thọ dụng biến hóa trong hai cõi Phật. Nay Tịnh độ này thuộc cõi nước nào? Nói kinh này thì
Phật dùng thân nào? Có nghĩa cõi nước này thuộc về cõi nước được biến hóa, Phật dùng thân biến hóa khi thuyết về kinh này, chúng Thanh văn... đều ở trong cõi nước này hiện đang đối diện trước Như Lai để nghe thuyết về kinh ấy, hoan hỷ tin tưởng, tiếp nhận mà vâng lời thực hành. Do tâm Phật hiện bày, thức thanh tịnh vượt ra ba cõi làm tướng để thuyết về pháp thù thắng, giáo hóa các loại hữu tình Địa tiền này, khiến cho họ vui mừng tu tập thực hành nhân tố ấy, Như lai tạm thời hóa làm cõi
Phật thanh tịnh, hóa thân đặc thù dùng sức thần thông làm cho đại chúng tạm thời được trông thấy.
Nếu không như vậy thì các chúng Thanh văn... hoàn toàn không trông thấy.
Có nghĩa là cõi nước ấy thuộc về cõi nước thọ dụng và Phật dùng thân thọ dụng để thuyết về kinh này. Vì lượng của Tịnh độ này là không giới hạn, cửa ngõ-đường sá-xe cộ vận chuyển đều là đức chân thật.
Thọ dụng cõi Phật thanh tịnh như vậy thì hoàn toàn thanh tịnh mầu nhiệm, hoàn toàn an lạc, hoàn toàn không có tội lỗi, hoàn toàn tự tại nói đến những nơi khác.
Kinh Giải Thâm Mật nói: “Địa thứ ba trở lên mới được sinh”. Giảng nói kinh này, sau đó Phật nói đầy đủ hai mươi mốt loại công đức chân thật, cho nên khi nói đến kinh khác thì không liệt kê công đức của Phật như vậy.
Nếu tạm thời hóa hiện Tịnh độ như vậy, thân vi diệu như vậy, gia bị cho đại chúng được trông thấy, thì phải như ở kinh khác, phân biệt nói rõ. Nhưng mà đây không nói đến cho nên biết đó là cõi nước thọ dụng và thân thọ dụng, các chúng Thanh văn... là do Phật hóa hiện, hoặc là các Bồtát hóa hiện làm thân này.
Trang nghiêm cõi Phật là vì giảng nói nơi pháp hội. Nếu thế thì Bồ-tát địa phương này đã nghe thấy, vì sao lại kiết tập, lưu hành và truyền pháp cho Bồ-tát trong cõi Phật biến hóa ấy?
Đó là vì Như Lai muốn thị hiện người Nhất thiết trí và nơi cư trú vượt lên trên tất cả pháp thế gian. Chỉ rõ như vậy là vì muốn cho chúng sinh được giáo hóa càng hân hoan, khiến cho họ phát nguyện sẽ được vãng sinh về cõi Phật thanh tịnh như vậy, sẽ được trông thấy Phật như vậy, nghe pháp như vậy. Vì tu tập nhân đó mà được phát sinh kiến giải thù thắng rộng lớn, vì hữu tình và các Bồtát đều vô cùng hoan hỷ. Vì muốn cho ý tăng thượng ưa hiểu biết tốt đẹp về cảnh giới vững chắc, cho nên kiết tập và lưu hành rộng khắp.
Vả lại, pháp ấy cao vượt hơn cõi này, cho nên nghe. Tuy nhiên xứ sở không tốt đẹp và tướng hóa thân thô kệch thì không thể diễn nói.
Vì vì vậy thân thọ dụng cư trú trong cõi nước thọ dụng.
Vì các Bồ-tát trên địa đầu tiên mà giảng nói, khiến cho người truyền pháp, kiết tập và lưu thông. Nếu thế, thì vì sao không chỉ nói là Phật đã giảng nói pháp? Nếu không nói đến xứ sở và người nói pháp thì sẽ không biết được pháp này là pháp gì? Nói ở đâu? Và ai nói? Tất cả đều sinh nghi cho nên phải nói đầy đủ.
Nghĩa như thật là khi Đức Thích-ca Mâu-ni giảng nói kinh này, đại chúng thuộc Địa tiền trông thấy thân biến hóa của Đức Phật đang ở cõi nước ô uế này mà giảng pháp cho họ, còn đại chúng thuộc Địa thượng lại trông thấy thân thọ dụng của Phật đang ở Tịnh độ giảng pháp cho họ. Tuy pháp được nghe là như nhau, nhưng Phật được trông thấy thì khác biệt. Mặc dù đều hoan hỷ và tin tưởng, nhận lãnh và vâng làm, nhưng mỗi người tu hành khác nhau theo chỗ hiểu sâu cạn của họ. Tuy nhiên, người truyền bá chánh pháp thì muốn chúng sinh đều được nghe pháp, hy vọng rằng họ sẽ siêng năng tu tập những nhân thanh tịnh kia, sẽ được vãng sinh Tịnh độ, chứng đắc công đức của Phật. Vì vậy đem điều cao cả đã được trông thấy mà kiết tập và nói là Đức Bạc-già-phạm cư trú nơi xứ sở tốt đẹp nhất... cho đến nói rộng về công đức của Như Lai.
Cõi Phật được trang nghiêm bằng bảy loại châu báu rực rỡ tốt đẹp hơn hết, là cung điện vĩ đại, được trang nghiêm bằng bảy loại châu báu rực rỡ với hào quang sáng tỏa hơn hết.
Bảy báu là:
1. Vàng.
2. Bạc.
3. Phệ-lưu-ly.
4. Mâu-bà-lạc-yết-bà.
5. Át-thấp-ma-yết-bà.
6. Trân châu đỏ, nghĩa là từ trùng đỏ mà sinh ra gọi là trân châu đỏ, hoặc thể của ngọc châu (ngọc trai) màu đỏ cho nên gọi là ngọc châu đỏ.
7. Yết-kê-đác-nặc-ca.
Dùng những thứ quý trọng này mà nói là bảy loại quý báu. Thực sự Tịnh độ vốn có vô lượng thứ trang sức đẹp đẽ, quý báu và mầu nhiệm, không phải là điều thế gian có thể biết được.
Phát ra hào quang rực rỡ vĩ đại, soi khắp tất cả vô biên thế giới là Đức Phật phát ra hào quang rộng lớn từ cung điện nguy nga vĩ đại, soi khắp tất cả vô biên thế giới. Hoặc vì tự thể của cung điện vĩ đại đó trùm cả vô biên thế giới, cho nên Đức Phật phát ra đạo hào quang sáng chói soi rọi khắp tất cả.
Hai câu này đã làm sáng tỏ Tịnh độ của Phật với hiển sắc đầy đủ.
Tịnh độ của Phật với hiển sắc như vậy còn số lượng hình thể thì ra sao? Vô lượng nơi chốn được trang trí tốt đẹp mầu nhiệm xen kẽ hàng hàng lớp lớp, nghĩa là cung điện vĩ đại được hiện bày vô lượng phương sở lẫn với cảnh trang hoàng tốt đẹp mầu nhiệm.
Nói vô lượng thì số là vô lượng, hoặc xứ sở là vô lượng. Như Tuệ là đồ trang sức trước hết trong sự sắp đặt. Vì vậy gọi là sự an bày xen lẫn trong sự trang trí mầu nhiệm, tốt đẹp.
Thế nào là cõi Phật lấy tâm thanh tịnh làm tướng? Nghĩa là cõi nước ấy không phải do công cụ bên ngoài và thợ thế gian làm mà có được.
Như vậy, Như Tuệ là đồ dùng trang sức xen lẫn trong sự bày biện sắp đặt, nghĩa là Phật Thế Tôn xưa kia khi còn là Bồ-tát đã mở ra tuệ phương tiện khéo léo.
Như vậy, thêm vào đó là thực hành thệ nguyện như vậy để trang nghiêm cõi Phật. Vì trước hết, gia tăng uy thế của thệ nguyện, cho nên đối với quả vị mặc dù không có tuệ giác về hý luận như xưa, nhưng do thức thanh tịnh của Phật đã biến hiện như vậy, đồng thời khiến cho thức của Bồ-tát cũng biến hiện như vậy, cho nên không mâu thuẫn nhau, nơi khác cũng cho nên dựa trên chân lý này mà nói.
Tịnh độ với hình sắc viên mãn như vậy, còn về phần lượng thì thế nào? Viên mãn cùng khắp chứ không giới hạn, với dung lượng của cõi nước đó cũng khó đo lường. Nghĩa là phần lượng của cung điện vĩ đại viên mãn trùm khắp không giới hạn, viên mãn cùng khắp không dễ gì đo lường. Lại nữa, phần vị của các phương Đông... không ngang đồng, cho nên có các hình tướng dài-ngắn... khó có thể đo lường.
Còn có nghĩa là thân và cõi nước thọ dụng của Như Lai đều tùy thuận vào sự thích nghi của chúng sinh đã được giáo hóa mà hóa hiện, hoặc lớn hay nhỏ, với số lượng và dung lượng không nhất định. Do đó, dù Như Lai hóa hiện phần lượng rộng lớn, nhưng cũng có giới hạn. Tuy vậy, đem tâm và trí tuệ của Bồ-tát ở địa tiền mà nói thì nó không giới hạn, phần lượng đó cũng khó đo lường.
Có nghĩa là thân và cõi nước thọ dụng của Như Lai, trải qua ba vô số kiếp tu tập vô biên thiện căn, cho nên đã cảm được pháp giới trùm khắp. Các Bồ-tát ở địa thượng và các Như Lai cũng không thể đo lường được phần lượng có giới hạn đó, vì vô biên như thời gian không đầu mối.
Nghĩa như thật là thân và cõi nước thọ dụng của Phật tóm lược có hai loại:
Tự thọ dụng: Là trải qua ba vô số kiếp, các Như Lai đã từng tu tập vô biên thiện căn và đã cảm được pháp giới trùm khắp, viên mãn, vì được tự thọ dụng nguồn vui của đại pháp. Từ khi mới chứng thành quả vị Phật cho đến cùng tận bến bờ vị lai, luôn nối tiếp nhau không thay đổi, như các công đức của Phật mà các Bồ-tát không thể nhận thấy, chỉ có thể được nghe.
Vì tính chất vô lượng của Tịnh độ như vậy, cho nên chư Phật dù trông thấy, nhưng cũng không thể lường xét phần lượng giới hạn của Tịnh độ có được.
1. Tha thọ dụng: Là các Như Lai vì khiến cho các chúng Bồ-tát ở Địa thượng đều nhận được nguồn vui đại pháp, tinh tiến tu tập các hạnh thù thắng, cho nên tùy sự thích nghi mà hóa hiện, hoặc hơn, hoặc kém, hoặc lớn, hoặc nhỏ, thay đổi luôn không cố định như cõi nước biến hóa.
Tịnh độ như vậy, do có biên giới cho nên Bồtát ở Địa thượng và các Như Lai đều lường xét được phần lượng của Tịnh độ đó, chỉ đối với Địa tiền mà nói thì không thể đo lường được.
Do hai loại khác nhau ấy, cho nên nói là viên mãn cùng khắp, không giới hạn và phần lượng của cõi nước đó khó lường xét được.
Tịnh độ với phần lượng viên mãn như vậy thì có thể giới hạn ở phạm vi ba cõi hay không? Siêu việt lên trên mọi chốn hành hóa của ba cõi, nghĩa là đại cung điện này vượt lên trên mọi nơi chốn, phương vực hành hóa của ba cõi, không phải như tự địa trong ba cõi còn chấp các ái là sở hữu của mình, là tướng của sở duyên cho nên vẫn bị hai loại ràng buộc này tăng trưởng theo là dị thục kia và quả được thêm lên.
Tịnh độ như vậy, không phải làm bằng ái của ba cõi, nó lìa khỏi hai loại ràng buộc nói trên, không phải dị thục với quả tăng trưởng kia. Như Niết-bàn... đã siêu việt lên trên cảnh giới của quả dị thục nơi ba cõi.
Nếu như vậy, thì Tịnh độ không phải thuộc về ba cõi, mà nó là vô lậu. Nếu đã là vô lậu mà còn thuộc hữu vi, tức là đạo đế, là tính thiện thì tại sao nó còn có thể dùng sắc-thanh-hương... làm thể tánh? Vì mười tám giới, mười lăm hữu lậu, tám vô ký... đã nói ở chỗ khác.
Có nghĩa mười tám giới thông suốt cả hữu lậu và vô lậu đều có tánh thiện. Tuy nhiên, căn cứ vào tướng thô, tương tự cảnh giới của hàng Nhị thừa, mà nói có mười lăm thứ hữu lậu và tám loại vô ký... trong mười tám giới.
Còn có nghĩa, Tịnh độ là do sự biến hiện của tâm định, tuy có sắc… tựa như tướng của mười tám giới, nhưng không phải thuộc vào mười tám giới, không phải là năm thức của các thế gian mà hiểu được. Như các màu sắc xanh-vàng... là sở duyên của biến hành nơi mười hai xứ... vì đều là sắc tự tại mà nảy sinh.
Đã thuộc về pháp giới, vì vậy mặc dù Tịnh độ có dùng sắc... làm thể tánh, nhưng vì đều là thiện vô lậu, thì cũng không mâu thuẫn nhau.
Nếu thế thì năm thức của Bồ-tát không duyên với cõi nước thọ dụng hay sao? Mặc dù dựa vào năng lực của tâm do tự thức biến đổi khác đi, nhưng vì tướng thô xấu và tốt đẹp không giống nhau. Vả lại, đâu phải các pháp thuộc về năm cảnh mà năm thức của Như Lai không thể duyên được? Vì sự kiện Phật duyên là do tác dụng tương tự của tâm. Vì lẽ giả danh gọi là năm thức, thật sự không phải là năm thức, vì Như Lai luôn ở trong định, có nơi khác giảng nói về Thể của năm thức là trạng thái tán loạn của tự tánh, vì chúng không có định.
Nếu thế thì cảnh giới Tịnh độ đó không phải phát sinh từ năm căn sao? Năm căn của Như Lai và sắc-thanh... đều đồng nhau, vì căn-cảnh tạm thời gọi là năm căn, và các cảnh sắc... đều do tâm định biến hiện. Thật ra pháp giới này luôn tự tại sinh ra sắc.
Nếu vậy, thì bốn trí không đồng thời vì không có cùng một lúc, một loại mà lại có nhiều thức phát sinh tác dụng trong cùng một thân, vẫn được thừa nhận thì nào có lỗi gì?
Về nghĩa như thật: Thân và cõi nước của Như Lai hết mực vi diệu sâu xa; không phải là có, không phải là không, không phải là hữu lậu, cũng không phải là vô lậu, không phải là thiện, không phải là ác, cũng không phải là vô ký, không phải là pháp môn thuộc về uẩn-giới... chỉ tùy thuận với những gì thích nghi mà nói có nhiều thứ khác biệt.
Có chỗ khác nói: “Trong mười tám giới có mười lăm hữu lậu, tám vô ký..., là chỉ căn cứ vào sự phân biệt tướng thô trong cảnh giới của hàng Nhị thừa, phàm phu, chứ không dựa vào cảnh giới thâm diệu của chư Phật và Đại Bồ-tát”.
Chỗ khác lại nói: “Như Lai không phải thuộc về uẩn, xứ giới thật. Các thứ thiện... hiện có đều là thị hiện, cho đến nói rộng hơn. Tịnh độ như vậy thì cùng một nơi chốn với ba cõi hay là đều khác biệt?”.
Có nghĩa đều khác biệt, như có nơi nói: “Ở trên cõi trời Tịnh Cư”. Có nơi nói: “Ở phương Tây...”.
Có nghĩa đồng xứ. Tịnh độ viên mãn cùng khắp, không có biên giới, vì trùm khắp pháp giới.
Theo nghĩa như thật, thì cõi nước thọ dụng thật đều biến khắp pháp giới, không nơi nào là không có, cho nên không thể nói là tách khỏi ba cõi, hay ở trong ba cõi. Nếu tùy thuận chỗ thích nghi của Bồ-tát mà hóa hiện thì hoặc ở trên trời Tịnh Cư của cõi Sắc, hoặc ở xứ sở phương Tây không nhất định.
Tịnh độ, với phương sở viên mãn như vậy, đã siêu việt cảnh giới của quả dị thục nơi ba cõi, như Niết-bàn... cho nên không có nhân. Nếu có nhân thì phải thuộc về ba cõi. Nếu nói Tịnh độ siêu việt lên trên ba cõi, thì lại có nhân của pháp siêu việt trên ba cõi.
Việc cần phải nói là tướng của Tịnh độ.
Thế nào là thiện căn xuất thế gian thù thắng siêu việt? Nghĩa là cung điện vĩ đại dùng thiện căn của trí hậu sở đắc và trí vô phân biệt xuất thế gian làm nhân mà được sinh khởi, không phải là không có nhân, không phải là Đại Tự Tại thiên... làm nhân. Vì sao Tịnh độ siêu việt lên trên ba cõi, mà dùng trí vô phân biệt xuất thế gian và trí hậu sở đắc? Chỉ nói pháp thanh tịnh của thế gian làm nhân dị thục, chứ không nói là làm nhân dị thục cho thế gian thanh tịnh kia. Nhưng vì nhân khác mà dị thục ấy được sinh khởi. Như Thế đệ nhất pháp làm nhân trong phẩm Khổ pháp trí nhẫn. Ở đây sử dụng trí không phân biệt, trí hậu đắc, chủng tử của pháp thiện vô lậu vốn có. Ba vô số kiếp tu tập khiến được rộng thêm, làm nhân sinh khởi biến hiện Tịnh độ này, trí vô phân biệt gọi là xuất thế gian, trí hậu đắc vượt qua trí trước cho nên gọi là công dụng thù thắng. Vượt qua thiện căn vô lậu xuất thế, vì đây là nhân sinh khởi. Hoặc Thánh đạo của các Thanh văn, Độc giác gọi là xuất thế gian. Thiện căn của Như Lai vượt lên trên Thanh văn... cho nên gọi là thù thắng. Tịnh độ của Phật này do thiện căn vô lậu trong thức của Như Lai làm nhân mà sinh khởi.
Có nghĩa: Chỉ là tăng thượng duyên sinh khởi, vì pháp bên ngoài.
Có nghĩa: Cũng là do nhân duyên sinh khởi, vì gần gũi mà có thể sinh khởi. Nếu không như vậy thì sẽ không có nhân duyên. Vì pháp bên ngoài cùng đối chiếu cho nên không phải là nhân duyên. Tất cả pháp bên ngoài đều dùng pháp huân tập bên trong làm nhân. Nếu thế thì pháp bên ngoài đã là cùng có, làm sao mỗi loài hữu tình đều có chủng tử riêng? Và cùng làm nhân duyên hợp lại sinh ra một quả?
Đừng đem tâm nhỏ hẹp mà lường xét pháp lớn. Vật bên ngoài đâu phải là vật thể cực vi hợp thành, nhưng thật có thể tánh vì nhiều nhân cùng cảm nhận, chỉ là do thức sai khác của hữu tình đều biến hiện, cùng một chỗ ở giống nhau thì không chướng ngại với nhau. Như những ngọn đèn sáng, như nhiều giấc chiêm bao, nhưng tương tự thì tướng của quả giống nhau. Xứ sở không khác biệt, giả danh là chung, mà thật ra thì mỗi xứ sở đều có nhiều điểm khác nhau.
Tịnh độ của chư Phật cũng lại như vậy. Mỗi cõi Phật đều do thức riêng biệt biến hiện, đều trùm khắp pháp giới, cùng xứ sở giống nhau cho nên gọi là chung.
Tướng của nhân Tịnh độ viên mãn như vậy, còn tướng của quả Tịnh độ thì sao? Lấy thức thanh tịnh và tự tại cùng cực nhất làm tướng. Nghĩa là cung điện vĩ đại, cực kỳ tự tại, dùng tâm vô lậu của Phật làm Thể tướng, vì chỉ có thức, không phải lìa ngoài thức mà có riêng các thứ châu báu... Chính là do tâm thanh tịnh của Phật đã biến hiện các thứ châu báu tương tự như vậy.
Như phần trước đã nói về tướng của cảnh giới, như nhập các màu xanh... chỗ nào cũng là định. Tướng do thức biến hiện, tức là trí Đại viên cảnh của Như Lai đã tương ưng với thức thanh tịnh, do xưa kia Như Lai tu tập pháp vô lậu làm lợi ích cho mình và năng lực của nhân duyên trong chủng tử Tịnh độ. Bất cứ khi nào nó cũng trùm khắp mọi chốn, Như Lai biến hiện tự nhiên mà không đợi tác ý.
Các thứ châu báu trang nghiêm nơi cõi nước thọ dụng của Phật và thân tự thọ dụng đã làm thành nơi nương tựa.
Tu tập pháp vô lậu làm lợi ích cho người và năng lực của nhân duyên trong chủng tử Tịnh độ, tùy thuận chỗ thích nghi của Bồ-tát địa thượng khác mà biến hiện Tịnh độ, hoặc nhỏ, hoặc lớn, hoặc hơn, hoặc kém cùng với thân thọ dụng của người khác để cùng làm thành nơi nương tựa. Nghĩa là tùy thuận chỗ thích nghi của Bồ-tát địa thứ nhất mà hóa hiện tướng nhỏ, biến hiện tướng kém.
Như vậy, lần lượt cho đến mười địa là địa thù thắng cao nhất ở trong các địa, các địa đầu-giữasau... cũng lại như vậy.
Tướng quả viên mãn của Tịnh độ như vậy, còn chủ của Tịnh độ đó thì như thế nào? Có cung điện thì nhất định phải có chủ nương tựa và duy trì.
Chỗ ở của Như Lai là cung điện vĩ đại và chư Phật-Thế Tôn là chủ, vì nói thù thắng không phải là nơi nào khác mà chỉ thuộc về Thế Tôn chủ trì thâu nhiếp, không phải người nào khác có thể làm được.
Cõi nước tự thọ dụng mặc dù trùm khắp pháp giới, nhưng mỗi cõi nước đều tự biến hiện và đều tự làm chủ, hoàn toàn không ngăn ngại nhau.
Cõi nước thọ dụng của người khác, dù là chư Phật biến hiện nhưng một tướng tổng hợp, cũng là một thân tướng tiếp nhận làm chủ, vẫn không gây chướng ngại nhau.
Chủ của Tịnh độ đã viên mãn như vậy, thì phải có người phụ tá.
Chủ nhất định thâu nhiếp mọi người phụ tá.
Các chúng Đại Bồ-tát đã vân tập, là cung điện vĩ đại thì thường xuyên có vô lượng Đại Bồ-tát Tăng cùng tập hợp, đến yết kiến, thừa sự, gọi là giúp đỡ.
Đã có vô số Đại Bồ-tát Tăng thường xuyên đến giúp đỡ, cho nên không có kẻ thù oán nào có thể gây hại.
Các Thanh văn... không làm được việc như vậy, nghĩa là các chúng Bồ-tát bắt đầu từ Địa thượng, mặc dù không thể triệu tập chư Phật đến Tịnh độ thọ dụng lợi mình, nhưng vẫn có thể triệu tập đại hội chư Phật tại Tịnh độ thọ dụng lợi ích cho người khác.
Từ tự thức, chư Phật rủ lòng thương, tùy thuận hoàn cảnh thích hợp của Bồ-tát mà biến hiện cõi nước tốt đẹp hay thô xấu.
Bồ-tát tùy thuận thiện căn và năng lực thệ nguyện của mình để biến hiện, từ tự thức giống như tướng Tịnh độ mà Phật đã sinh. Mặc dù là do tự tâm đều biến hiện khác biệt, nhưng cùng một nơi với hình tướng tương tự. Nghĩa là cùng tập hợp trong một cõi nước đó.
Tịnh độ của Bồ-tát thuộc Địa thượng là như vậy, là hữu lậu hay là vô lậu? Có nghĩa vô lậu, tức là sau khi đạt được chủng tử Tịnh độ vô lậu trong tự tâm và do diệu lực của nguyện hỗ trợ, biến hiện hóa sinh Tịnh độ, trong đó thọ dụng pháp lạc Đại thừa.
Vì các chúng Bồ-tát bắt đầu từ Địa thượng đều chứng ngộ lý Chân như, đạt được trú xứ vô lậu chân thật, pháp lưu chân thật, an trú Tịnh độ Chân như, thường trông thấy chư Phật, cho nên các cõi nước biến hiện đều là vô lậu chân thật, thuộc về đạo đế.
Có nghĩa hữu lậu; là vì thêm hạnh gieo trồng chủng tử và sức nguyện hỗ trợ trong tâm, cho nên biến hiện Tịnh độ, ở đó thọ dụng pháp lạc của Đại thừa. Bởi vì Bồ-tát kia dù đã chứng ngộ Chân như, được chân vô lậu, nhưng từ bảy địa trở lại, vẫn còn phiền não hiện khởi, cho đến mười địa cũng còn có dụng công tu tập và đoạn tuyệt chủng tử của phiền não cùng chướng sở tri. Vì Thể của thức thứ tám có thể duy trì các chủng tử. Tịnh độ đó vì tiếp nhận sự huân tập chủng tử trong hiện tại, cũng còn là hữu lậu thuộc tánh vô ký, thuộc về đạo đế vô lậu hữu vi, chắc chắn là thiện.
Nếu Thể của thức thứ tám trong mười địa là thiện vô lậu thì phải biết rằng đến Phật địa, không thể cầm giữ chủng tử hữu lậu, không cho nên nhận sự huân tập.
Khi Thể của thức thứ tám đã là hữu lậu thuộc về tánh vô ký, thì Tịnh độ được biến hiện làm thế nào lại thuộc về tánh thiện vô lậu được? Vả lại, một tánh hữu lậu không có hai thân thật. Bấy giờ, thân đó đã là nơi nương tựa của hữu lậu, thì Tịnh độ làm sao lại vô lậu.
Tịnh độ của Bồ-tát mười địa này là hữu lậu vi diệu thuộc khổ đế.
Nghĩa như thật, là tự tâm của Bồ-tát mười địa đã biến hóa Tịnh độ có hai:
Nếu Tịnh độ do thức thứ tám biến hóa thì nó thuộc về tướng phần của thức hữu lậu, là chỗ nương tựa của thân hữu lậu. Mặc dù nhờ năng lực thiện vô lậu nuôi dưỡng huân tập sự trong sạch tốt đẹp của Tịnh độ kia, nhưng nó vẫn thuộc về khổ đế hữu lậu. Tùy gia hạnh biến hiện... cũng thế. Nếu Tịnh độ với hình bóng biến hiện từ tâm vô lậu hậu đắc thì Tịnh độ thuộc tướng phần của thức vô lậu, vì phát sinh từ chủng tử vô lậu cho nên Thể của nó thuộc về đạo đế vô lậu.
Tịnh độ có sự phụ giúp đầy đủ như vậy, phải có quyến thuộc cho nên sau đó mới nói vô lượng hàng Trời, Rồng, Người, Phi nhân... thường xuyên theo giúp đỡ. Có nghĩa là cung điện vĩ đại chỉ có quyến thuộc là Trời... vây quanh, không có loài nào khác... Chữ đẳng (vân vân) là chỉ cho Kiềnđạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-đồ, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già... Mạc-hô-lạc-già tức là loài mãng xà to lớn.
Tại sao đã siêu việt lên trên việc làm của ba cõi mà Tịnh độ lại có trời... dùng làm quyến thuộc? Trời... đều là những hàng thuộc về ba cõi. Vì thức thanh tịnh đã thâu nhận sự biến hiện như vậy, vì mục đích làm trang nghiêm Tịnh độ, cho nên không mâu thuẫn với nhau. Hoặc vì hữu tình đã được giáo hóa thành thục, cho nên được thị hiện biến hóa ra các chủng loại như vậy, như để chế ngự kiếp Tỷ noa vương mà biến hiện, hóa làm vô lượng quyến thuộc vây quanh bảo vệ Chuyển luân vương. Hoặc là các Bồ-tát hóa làm vô lượng thân Trời, Rồng... cư ngụ ngay trong Tịnh độ để cúng dường Phật, hoặc tự hóa thân làm Trời, Rồng... để theo giúp đỡ Như Lai thì không phạm lỗi.
Quyến thuộc viên mãn của Tịnh độ như vậy, ở yên trong đó lấy gì để duy trì? Duy trì nhờ vào pháp vị hỷ lạc rộng lớn.
Nghĩa là ở đây được duy trì bằng pháp vị hỷ lạc của Đại thừa, sống bằng pháp lạc. Đó là nghĩa duy trì. Đã nói siêu việt lên trên việc làm nơi ba cõi đã làm thì tại sao Tịnh độ lại có cái ăn? Vả lại, trong pháp vô lậu không cho nên gọi là ăn, vì ăn là để nuôi lớn chúng sinh trong ba cõi hữu lậu. Vì muốn đoạn tuyệt cõi hữu lậu cho nên không gọi là ăn, nhưng do tính chất trú trì mà cũng gọi là ăn.
Như trong Tông chỉ của ông thì sinh lên cõi Sắc, nhập định vô lậu cũng gọi là ăn. Không phải là cái ăn trong quá khứ cho nên gọi là ăn. Quá khứ không có. Đây cũng cho nên như vậy. Vì nhân của trú trì này cho nên nói là ăn. Như pháp hữu lậu dù làm chướng ngại đối với pháp vô lậu, nhưng vì gìn giữ hữu lậu cho nên được gọi là ăn. Vô lậu cũng vậy, mặc dù đoạn tuyệt hữu lậu, nhưng gìn giữ vô lậu thì làm sao không phải là ăn? Trong Tịnh độ này, chư Phật Bồ-tát về sau chứng được vô lậu, có khả năng nói, có thể tiếp nhận pháp vị của Đại thừa mà sinh đại hoan hỷ. Hơn nữa, Trí thể chân chánh tiếp nhận vị Chân như, sinh niềm vui mừng lớn, có khả năng duy trì thân mạng, khiến cho không đoạn tuyệt-hư hoại, nuôi lớn pháp thiện, cho nên gọi là ăn.
Duy trì viên mãn của Tịnh độ như vậy để làm cho nên sự nghiệp gì? Để làm tất cả nghĩa lợi cho mọi chúng sinh. Nghĩa là người trong Tịnh độ này có khả năng làm hết thảy nghĩa lợi cho tất cả loài hữu tình. Hoặc khiến cho tất cả hữu tình làm mọi việc nghĩa. Sự lợi ích ngay trong hiện tại gọi là nghĩa, còn lợi ích cho mai sau gọi là lợi. Thế gian gọi là nghĩa, xuất thế gian gọi là lợi. Lìa ác gọi là nghĩa, tiếp nhận điều thiện gọi là lợi. Phước đức gọi là nghĩa, trí tuệ gọi là lợi.
Những sự nghiệp khác biệt như vậy, mặc dù đang ở trong cảnh giới định vắng lặng, nhưng do trước đã tu tập gia hạnh nguyện lực cho nên tự nhiên có khả năng làm mọi nghĩa lợi cho tất cả loài hữu tình.
Sự nghiệp viên mãn của Tịnh độ như vậy, đã thâu nhiếp lợi ích gì? Dứt trừ hết các tai họa, trói buộc, bức bách, cấu uế của mọi phiền não. Nghĩa là trong Tịnh độ này xa lìa mọi cấu uế buộc ràng của các phiền não cùng mọi tai họa bức bách. Chính mọi thứ phiền não gọi là sự ràng buộc cấu uế. Như vậy thì gọi là nguyên nhân của mọi tai họa bức bách. Trong Tịnh độ này không có sự ràng buộc cấu uế của phiền não và cũng không gây ra các tai họa bức bách.
Lại nữa, gọi là phiền não, nghĩa là một trăm hai mươi tám phiền não căn bản. Trói buộc là không biết hổ thẹn... Cấu uế, tức là sự dua nịnh, lừa dối, kiêu mạn... Tai họa bức bách tức là nghiệp đã phát khởi và quả báo đã cảm được.
Chướng sở tri hoặc các tùy miên gọi là phiền não. Khi chúng hiện khởi, gọi là sự trói buộc cấu uế. Căn bản nơi mê lầm gọi là trói buộc, chạy theo sự mê lầm đó gọi là cấu uế. Chướng sở tri... gọi là tai họa bức bách.
Trong này, pháp nào gọi là đem lại lợi ích? Tức là pháp xa lìa phiền não cấu uế, lìa tai họa bức bách, gọi là đem lại lợi ích. Như được thế gian phong cho mình làm chúa tể, dù không tiếp nhận, nhưng không bị tai họa, được cấp cho nhà ở, cũng nói là chủ, vì đã đem lợi ích cho mình. Đây cũng như vậy. Lại nữa, hiện chứng được giải thoát phiền não cấu uế và tai họa bức bách, có được phước, trí thù thắng cho nên gọi là thâu nhiếp lợi ích.
Tịnh độ như vậy, đã xa lìa tai họa bức bách bên trong, đem lại lợi ích viên mãn, cũng là nhân không sợ hãi cái gì bên ngoài, cho nên Tịnh độ chỉ rõ chính là cõi Vô úy viên mãn. Xa lìa các ma, nghĩa là Tịnh độ này đã xa lìa tất cả ma phiền não, ma uẩn, ma chết, ma trời hoặc có khả năng bảo người khác xa lìa bốn loại ma ấy.
Bốn loại ma như vậy là nguyên nhân của sự sợ hãi, vì sợ hãi ấy mà nảy sinh mọi thứ sợ hãi khác. Trong Tịnh độ này không có sự sợ hãi kia, cho nên không có sợ hãi nào nữa.
Ma phiền não là một trăm hai mươi tám phiền não và tùy phiền não.
Ma uẩn là năm thủ uẩn.
Ma chết nghĩa là các tướng vô thường trong pháp hữu lậu. Ma trời là Thiên tử Tự tại thứ sáu của cõi Dục.
Bốn loại này đều có thể gây tổn hại đến các pháp thiện, cho nên gọi là ma. Bốn loại này sinh ra mọi thứ sợ hãi khác. Đức Như Lai đã vĩnh viễn xa lìa bốn loại ma này, cho nên không có mọi sợ hãi. Các Đại Bồ-tát từ địa thứ nhất trở lên, ở trong Tịnh độ ấy, đã xa lìa thô cạn nơi bốn loại ma, không có năm sự sợ hãi.
Tịnh độ là cõi Vô úy viên mãn như vậy, cho nên nó cũng là chỗ ở thù thắng, vì vậy sau đây sẽ nói đến sự viên mãn của trú xứ. Chỗ ở của Như Lai trang nghiêm vượt lên trên mọi sự trang nghiêm. Nghĩa là chỗ cư trú của Phật trong Tịnh độ này, tốt đẹp hơn trú xứ của tất cả Bồ-tát và các trú xứ trang nghiêm khác, vì nó chỉ do Như Lai trang sức mầu nhiệm chỗ ở của Ngài, cho nên nó cao vượt hơn mọi nơi trang nghiêm khác. Vì vậy gọi là trú xứ viên mãn.
Tịnh độ với trú xứ viên mãn như vậy, thì đường qua lối lại trong đó ra sao? Đại niệm-tuệ-hạnh dùng làm đường đi, nghĩa là dùng đại niệm-đại tuệ và đại hạnh để làm đường đi. Rảo bước dạo chơi trên con đường này, cho nên gọi là con đường dạo chơi, là tên gọi khác của Đạo. Nghe mà thành tuệ gọi là Đại Niệm, nghe rồi ghi nhớ giữ theo nghĩa không trái ngược. Suy nghĩ mà thành tuệ gọi là Đại tuệ dựa vào lý suy xét kỹ càng để đạt được quyết định. Tu mà thành tuệ gọi là Đại Hạnh, nhờ năng lực tu tập để hướng đến chân lý.
Đại nghĩa là Niệm... duyên theo pháp Đại thừa mà sinh khởi, là quả vị của Đại thừa, vì thuộc về Đại thừa. Bước đi lui tới trên ba tuệ thanh tịnh trong Tịnh độ cho nên gọi là con đường dạo chơi.
Đây là nói nhờ ba tuệ mầu nhiệm mà Bồ-tát được đi vào Tịnh độ, cho nên gọi là con đường dạo chơi. Nếu là đại niệm của các Như Lai, thì nó là trí không phân biệt, chính là nhờ sự nhớ nghĩ an trú với lý Chân như. Đại Tuệ tức là trí hậu sở đắc, nhờ phân biệt tướng chân tục của các pháp.
Hai trí này đều có tạo tác, nghiệp dụng tăng thượng của Tịnh độ, cho nên đều gọi là Hạnh. Vì hai trí này đều sinh chung trong Tịnh độ, cho nên đều gọi là con đường dạo chơi. Hoặc đại Niệm hạnh là hành tự lợi, bởi vì thâu nhiếp giữ gìn bên trong. đại Tuệ hạnh là hành lợi tha, bởi vì phân biệt bên ngoài. Như vậy theo thứ tự cùng sinh trong hai loại Tịnh độ của Như lai, cho nên gọi là con đường dạo chơi.
Như vậy con đường Tịnh độ đã viên mãn, phải có người đánh xe và người được ngồi xe đi trên con đường ấy. Vì vậy tiếp theo nói đến Đại Chỉ và Diệu Quán dùng làm xe chuyên chở.
Chỉ là Tam-ma-địa. Quán là Bát-la-nhã. Nghĩa Đại như trước đã nói. Chỉ và Quán cùng vận chuyển cho nên gọi là chuyên chở. Ngồi nơi xe Chỉ Quán ấy, theo ý mình đi trên con đường phía trước. Con đường là vị trí chung, từ đường chung đó, theo Chỉ-Quán riêng gọi là ngồi xe.
Sự chuyên chở của Tịnh độ đã viên mãn như vậy, thì phải có cổng vào để từ cổng vào ấy người đánh xe cho xe vào cổng, vì vậy tiếp theo nói đến đại Không-Vô tướng-Vô nguyện giải thoát làm cổng vào. Ba cửa giải thoát trên là lối vào cung điện lớn này.
Giải thoát tức là lìa khỏi, là Niết-bàn, tức là Đại Không... gọi là cửa giải thoát. Dựa theo cổng này mà đi vào Tịnh độ.
Biến kế sở chấp, chúng sinh và pháp đều Vô ngã cho nên gọi là Không. Duyên vào Tam-ma-địa này, gọi là cửa giải thoát Không. Tướng là mười tướng:
1. Sắc.
2. Thanh.
3. Hương.
4. Vị.
5. Xúc.
6. Nam.
7. Nữ.
8. Sinh.
9. Lão.
10. Tử.
Niết-bàn không có các tướng này cho nên gọi là Vô tướng. Duyên vào Tam-ma-địa này gọi là cửa giải thoát Vô tướng.
Nguyện là mong ước. Quán xét mọi nỗi khổ trong ba cõi, không có chỗ nào đáng mong ước, cho nên gọi là Vô nguyện. Duyên vào Tam-ma-địa này gọi là cửa giải thoát Vô nguyện. Từ ba cửa giải thoát Không... này mà đi vào Tịnh độ, cho nên gọi là cửa.
Đại như trước đã nói.
Trong Tịnh độ này, cũng cần có công việc để người ta làm, như đường sá, xe chuyên chở, cổng... khiến cho loài hữu tình thêm hân hoan vui vẻ với đức chân thật, cho nên nói đến việc làm.
Cửa đi vào Tịnh độ đã viên mãn như vậy. Như cung điện khác, phải có chỗ nương tựa, vì vậy tiếp theo nói đến sự nương tựa, gìn giữ viên mãn với vô lượng công đức tạo sự trang nghiêm được xây dựng lên bằng các loại hoa chúa báu lớn. Nghĩa là như đất... dựa vào phong luân... hoặc như cung điện của thế gian dựa vào đất.
Tịnh độ như vậy, được trang nghiêm bởi vô lượng các công đức, được dựng lên bằng các hoa sen hồng chúa báu lớn, nghĩa là Tịnh độ thành tựu bằng hoa sen hồng báu lớn.
Như vậy, vô lượng các công đức thiện quý báu vĩ đại đã dựng lên cõi Tịnh độ. Vì tốt đẹp hơn các châu báu cho nên gọi là vĩ đại.
Những hoa sen hồng quý báu này tối thắng hơn hết trong mọi loài hoa cho nên gọi là hoa chúa. Hoặc hoa sen này phát sinh từ thiện căn của các Bồ-tát mà vượt qua mọi loài hoa khác cho nên gọi là Đại. Phật là Pháp vương, hoa sen này phát sinh từ thiện căn tối thắng của Phật cho nên gọi là hoa chúa. Lại nữa, hoa báu rất khó có được, cho nên gọi là Đại. Vì tốt đẹp hơn hết trong các hoa báu, cho nên gọi là hoa chúa. Hoa này không phải duy nhất, hoặc vì cánh hoa nhiều cho nên gọi là chúng. Đức Thế Tôn ở trong chúng hoa ấy mà xây dựng cung điện vĩ đại, để giảng nói Khế kinh này, vì vậy gọi là trong cung điện vĩ đại. Hoặc căn cứ vào thân thọ dụng thật của Như Lai dựa vào Tịnh độ, gọi là cung điện vĩ đại đồng với pháp giới, trong đó thân thọ dụng của mỗi Đức Phật đều có khả năng giảng nói về phần gốc, gọi là nói kinh này. Hoặc căn cứ vào thân thọ dụng đã biến hiện của Như Lai, tùy thuận hoàn cảnh thích hợp của Bồ-tát, đã y chỉ Tịnh độ, gọi là cung điện vĩ đại với lượng không nhất định, trong đó chư Phật cùng biến hiện một thân, chính thức giảng nói kinh này, cho nên nói phần lượng và phương sở của cung điện ấy không thể quyết định.
Kinh: “Đức Bạc-già-phạm này là bậc giác ngộ thanh tịnh nhất, hiện hành không hai, hướng đến pháp Vô tướng trú trong trú xứ của Phật, đạt được tánh bình đẳng của tất cả Phật, đến nơi không còn chướng ngại, pháp không thể lay chuyển được, việc làm không có gì ngăn ngại, mọi sự thành lập không thể nghĩ bàn được. Dạo khắp pháp tánh bình đẳng của ba đời, thân tướng bao trùm tất cả thế giới, đối với tất cả các pháp thì trí tuệ không có gì nghi ngờ vướng mắc, đối với tất cả các hành thì thành tựu sự giác ngộ vĩ đại, đối với các pháp thì trí tuệ không có gì nghi hoặc. Tất cả thân tướng đã thị hiện không thể nào phân biệt. Tất cả các Bồ-tát đích thực mà câu trí tuệ, đạt được như Phật không khác, an trú trong bến bờ giải thoát thù thắng, không xen lẫn cùng với sự giải thoát của Như lai. Trí vi diệu cứu cánh chứng đắc không có nghĩa và hai phía, Phật địa bình đẳng đến tận cùng pháp giới, tánh bao phủ bầu hư không đến tận cùng thời gian vị lai”.
Luận: Sau đây để làm sáng tỏ chư Phật khác với Đại sư, nên nói về công đức thù thắng của Thế Tôn. Ngoài ra, vì muốn làm cho chúng sinh nảy sinh niềm tin tưởng thanh tịnh, cho nên nói công đức viên mãn của Đức Thế Tôn. Cho nên biết hai mươi mốt loại công đức thù thắng này làm sáng tỏ Bạc-già-phạm là đấng giác ngộ thanh tịnh hơn hết. Nghĩa là Phật Thế Tôn hóa hiện cảnh giới giác ngộ để mở mang sự giác ngộ cho cả hữu vi và vô vi.
Lại nữa, đối với mọi nơi thị hiện cảnh giới giác ngộ tịnh diệu viên mãn để mở bày, dẫn dắt đạt đến giác ngộ.
Lại nữa, đối với tất cả tánh như tánh vốn có ra sức hoàn thành tánh vốn có mà đích thực mở bày giác ngộ, gọi là đấng Bạc-già-phạm giác ngộ thanh tịnh nhất.
Hiện hành không hai, tức là chỉ rõ công đức thù thắng của Thế Tôn hoàn toàn không còn chướng ngại. Nghĩa là hàng phàm phu, Nhị thừa đều hiện hành hai chướng, Đức Thế Tôn thì không có. Các phàm phu thì hiện hành theo sinh tử, phát sinh mọi thứ tạp nhiễm, sống bám víu trong sinh tử. Thanh văn-Độc giác thì hiện hành theo Niết-bàn, hoàn toàn quay lưng, từ bỏ việc làm đem lại niềm vui, lợi ích cho mọi người, mà vướng mắc vào Niết-bàn.
Đức Thế Tôn thì không có hiện hành theo hai chướng đó, cho nên gọi là hiện hành không hai.
Hướng tới pháp Vô tướng, là chỉ rõ phương tiện điều phục và giáo hóa của Đức Thế Tôn với nhiều công đức thù thắng, nghĩa là pháp Vô tướng, tức là Niết-bàn.
Đức Phật đã khéo thấu rõ hữu tình trong ba Thừa, vận dụng phương tiện khéo léo để điều phục và hóa độ tùy theo năng lực giác ngộ của họ, như thật nói cho họ, giúp họ hướng đến chứng ngộ pháp vô tướng.
Nơi Phật an trú là chỉ rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn quán sát chúng sinh đã được điều phục-hóa độ, nghĩa là Ngài đã an trú trong tâm Đại Bi, quán sát thế gian suốt sáu thời, cả ngày đêm. Đạt được tánh bình đẳng của tất cả Phật là chỉ rõ Đức Thế Tôn đã đạt được công đức thù thắng, sự nghiệp giống như sự nghiệp của tất cả Đức Phật khác. Có nghĩa là chứng ngộ được sự nghiệp đầy tính bình đẳng như hết thảy chư Phật.
Đạt đến nơi không có chướng, là chỉ rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn đã vĩnh viễn đoạn trừ mọi điều cần đối trị, là đã chứng ngộ được trí giải thoát tất cả hai chướng phiền não-sở tri và vĩnh viễn đoạn trừ tất cả chướng.
Pháp không gì lay chuyển, là chỉ rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn đã hàng phục ngoại đạo, là tất cả ngoại đạo không thể nào làm trở ngại chánh pháp của Phật. Ngoại đạo bị hàng phục cho nên chánh đạo sáng tỏ.
Mọi việc làm không trở ngại là chỉ rõ công đức thù thắng của Thế Tôn đã chế ngự các thứ ma oán. Nói những việc làm là chỉ cho cảnh giới của sắc..., mọi việc làm ở cảnh giới đó dễ khiến loạn tâm, gây chướng ngại đến điều thiện, cho nên gọi là ma oán.
Chư Phật Thế Tôn với tâm khéo yên định và ý rất vui, cho nên ngoại cảnh không thể quấy nhiễu. Do đó, bao nhiêu công đức cũng hoàn thành một cách tốt đẹp, mỹ mãn, tất cả cảnh ma không thể gây trở ngại được. Vì Ngài có thể hàng phục chế ngự tất cả cảnh giới, vì vậy mọi việc làm đều không thể gây trở ngại, vì vậy nói là mọi việc làm đều không ngăn ngại.
Mọi sự thành lập không thể nghĩ bàn được, tức là chỉ rõ công đức thù thắng của Thế Tôn đã an lập giáo pháp, là Phật an lập tất cả giáo pháp, siêu việt lên trên mọi cảnh giới tầm tư.
Dạo khắp pháp tánh bình đẳng của ba đời, là chỉ cho công đức thù thắng của Đức Thế Tôn đã ghi nhận trong ba đời, như trong hiện tại, Đức Thế Tôn ghi nhận mọi việc trong quá khứ, vị lai đều không chướng ngại.
Thân Phật bao trùm tất cả thế giới là chỉ rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn từ cung trời Đâu-suất giáng trần hiện bày Hóa thân khắp tất cả nơi chốn trên thế giới, đồng thời bước vào thai mẹ.
Đối với tất cả pháp thì trí tuệ không có gì ngưng trệ, là chỉ rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn đã đoạn tuyệt tất cả hoài nghi, đối với tất cả pháp Như Lai đã chứng được trí quyết định, có khả năng xua tan hết thảy mê lầm, ngờ vực.
Đối với tất cả hành thì thành tựu sự giác ngộ vĩ đại, là chỉ rõ đối với tất cả Thừa, Đức Thế Tôn đã tùy thuận căn cơ thích hợp, đã hóa độ tất cả hữu tình, chỉ rõ công đức thù thắng của tự thân, là Như Lai nhận biết rõ sự khác nhau về tính chất hành động của mọi loài hữu tình, tùy theo điều họ mong mà hóa hiện thân mình. Đối với tất cả pháp thì trí Như Lai không hề ngờ vực mê lầm là chỉ rõ trí của Đức Thế Tôn đã khéo thấu đạt một cách vi diệu về tất cả pháp, có khả năng tùy thuận với chúng sinh được thích ứng, luôn răn dạy tu tập công đức thù thắng, đối với người nào còn mê lầm hoài nghi với các pháp, không ai có khả năng tùy thuận ứng hiện để dẫn dạy họ, chỉ có Phật Thế Tôn với trí khéo léo quyết định chứng thấy các pháp, mới có thể tùy thuận với điều chúng sinh mong muốn để dẫn dạy họ, không hề ngừng nghỉ hay bỏ dở nửa chừng.
Hễ Như Lai hiện thân thì không thể phân biệt, là chỉ rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn có khả năng thâu nhiếp chính đáng tự thân không để nhiễm ô. Có nghĩa là thân của chư Phật không phải được khởi hiện do sự phân biệt hư vọng, ở đó không có nghiệp phiền não nảy sinh, vì đã hoàn toàn xa lìa sự phân biệt tạp nhiễm, cho nên không phân biệt được.
Tất cả Bồ-tát cầu mong chân chánh đạt được trí, là chỉ rõ Đức Thế Tôn đã thành tựu phương tiện của công đức thù thắng, không để giống Phật bị cắt đứt, vì muốn cho giống Phật không đoạn tuyệt cho nên các Bồ-tát siêng năng tu tập gia hạnh chứ không phải là Thanh văn... Vì thế, cho nên trí Phật chỉ có các Bồ-tát mới là người xứng đáng được mong cầu.
Được pháp không hai của Phật, an trú trong bến bờ giải thoát thù thắng là chỉ rõ công đức thù thắng của Thế Tôn với tự tánh thân phần, là tướng không sai biệt của Pháp thân Phật cho nên gọi là không hai.
Trú vào pháp không hai của Phật, tức là an trú vào Pháp thân, lấy Chân như làm Thể, tướng không sai khác, trong đó, tất cả sự phân biệt có hai tướng đều không hiện hành. Duyên vào tướng không sai biệt kia với tâm định thù thắng, thường trú trong Pháp thân đó, cho nên gọi là trú, tức là trú nơi không hai, gọi là bến bờ giải thoát thù thắng.
Phật đã đạt đến mức cùng cực, cho nên gọi là chứng đắc. Không đối đãi nhau trong xen tạp, là sự giải thoát của Như Lai được hướng dẫn do trí mầu nhiệm và cứu cánh là chỉ rõ công đức thù thắng của Thế Tôn thọ dụng thân phần, là hết thảy Như Lai với thân thọ dụng không cùng xen tạp, Thể của thân thọ dụng ấy đều riêng biệt.
Với trí mầu nhiệm, Như Lai có khả năng khiến tất cả chúng sinh đều được giải thoát, cho nên gọi là trí vi diệu, giải thoát của Như Lai.
Đức Phật đã đạt đến mức cứu cánh của trí này. Như vậy là nói về trí mầu nhiệm của Như Lai không xen tạp lẫn nhau, ngay như hiện thân thọ dụng trong Tịnh độ của Phật, cũng không xen tạp lẫn nhau.
Đức Phật hiện các loại thân trong đại hội cũng không lẫn lộn cùng với sự thọ dụng pháp lạc của các Bồ-tát.
Đức Như Lai đã hiện thân với trí ấy cũng đạt đến mức cứu cánh chứng ngộ không có chính giữa và một bên.
Phật địa bình đẳng là chỉ rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn đã chứng ngộ tướng Chân như, tướng Chân như không có chính giữa và một bên của pháp hữu vi-vô vi, đã xa lìa tướng chính giữa và một bên của mọi nơi chốn, phương hướng.
Chân như như vậy tức là pháp tánh bình đẳng của Phật địa này chứng được tánh bình đẳng, của Phật địa này, cho nên Đức Như Lai hoàn toàn không nhiễm ô trong tất cả pháp hữu vi-vô vi... Cùng tận trong pháp giới là chỉ rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn đã chứng ngộ được quả tướng, là đã chứng ngộ pháp giới thanh tịnh tột cùng.
Pháp giới như vậy là quả của tu đạo. Tiếp theo sau là hai loại công đức thù thắng, chỉ rõ công đức vô tận của Đức Thế Tôn.
Cùng tận tánh hư không và cùng tận thời gian vị lai, nêu rõ hai công đức thù thắng của Đức Thế Tôn là làm lợi mình và lợi người. Công đức không cùng tận, là như hư không dù trải qua bao kiếp thành-hoại nhưng tánh nó vẫn thường không cùng tận. Tất cả công đức chân thật của Như Lai cũng lại như vậy, còn mãi không dứt hết, như thời gian của đời vị lai không có thời kỳ cùng tận. Công đức lợi ích cho mọi người cũng lại như vậy, cùng cực thời gian đời vị lai, Đức Thế Tôn luôn mang lại sự lợi ích yên vui cho tất cả hữu tình.
Lại nữa, phần chung và riêng trong đoạn kinh này đã chỉ rõ về công đức thù thắng của Đức Thế Tôn.
Câu đầu là chung. Các câu còn lại đã mở rộng nghĩa thù thắng đó.
Như vậy mới gọi là khéo giảng giải về pháp yếu.
Do hai mươi mốt câu nói về công đức thù thắng, cho nên gọi là
Đấng giác ngộ thanh tịnh tối thượng.
Không có hai hiện hành, nêu rõ công đức dùng trí chuyển làm luôn luôn không chướng ngại đối với cảnh nhận biết của Đức Thế Tôn. Nghĩa là hàng Thanh văn... trí vẫn có chướng ngại đối với các cảnh giới, cần phải trải qua thời gian rất dài mới đến được vô biên sai biệt. Vì trong pháp của chư Phật họ không có trí chuyển biến. Như Lai thì không thế, bất cứ khi nào, ở đâu Ngài cũng có vô biên sai biệt. Trí nhất thiết chủng trong pháp Phật đều chuyển biến không có chướng ngại. Đối với các pháp tướng, Phật không còn hai hiện hành của vô tri, bất tri, cho nên nói là hiện hành không hai. Vì vậy cho nên gọi là Đấng giác ngộ thanh tịnh tối thượng.
Các câu còn lại đều cho nên phối thuộc như vậy.
Hướng đến pháp Vô tướng, chỉ rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn có khả năng tiến vào nẻo không hai, nghĩa là chính mình có khả năng bước vào tự tướng vĩnh viễn lìa bỏ mọi phân biệt, giải thoát mọi trói buộc cấu uế của tất cả phiền não, xa lìa tướng có-không, đạt được Chân như thanh tịnh, cũng giúp cho kẻ khác có thể tiến vào cõi đó.
Trú nơi Phật an trú, chỉ rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn, là làm Phật sự tự nhiên không ngừng nghỉ. Nghĩa là không cần dụng công trong việc làm lợi ích cho hữu tình không hề có sự gián đoạn. An trú nơi Thánh trú, Thiên trú và Phạm trú. Đạt được tánh bình đẳng của tất cả Phật chỉ rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn đã dựa vào ý lạc trong Pháp thân để tác nghiệp không sai biệt, là trí Chân như thanh tịnh của tất cả Phật, tất cả lợi ích, yên vui và ý lạc, thọ dụng biến hóa trong hai sự nghiệp lợi ích cho mọi người không khác nhau. Đạt đến nơi không còn chướng ngại, chỉ rõ công đức thù thắng của Thế Tôn đã tu tập tất cả pháp, đối trị hết mọi chướng ngại, là Đức Thế Tôn đã tu tập Thánh đạo đối trị tất cả phiền não và chướng sở tri, đã đạt đến nơi giải thoát tất cả chướng, nơi nương tựa và nơi hướng đến vốn gọi là Xứ.
Pháp không thể chuyển đổi, chỉ rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn là không bị khuất phục bởi tất cả ngoại đạo, kẻ khác không làm đảo ngược được pháp giáo hóa và chứng ngộ của Phật.
Mọi việc làm không ngại, chỉ rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn giáng sinh trong thế gian, nhưng pháp thế gian không hề gây trở ngại Ngài, là sinh trong thế gian, với tám loại pháp như lợi... đều không thể gây chướng ngại.
Chánh pháp của Thế Tôn đã được thành lập thì không thể tư duy-bàn luận, chỉ rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn đã an lập chánh pháp, là mười hai phần giáo pháp thù thắng vượt lên trên tất cả hoạt động của tầm tư, không phải là điều mà hàng phàm phu tối tăm có thể suy lường được. Vì Như Lai diễn nói về tất cả tự tướng và cộng tướng, cho nên gọi là an lập.
Hiện bày diệu dụng trong pháp tánh bình đẳng của ba đời, chỉ rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn, có khả năng chính thức ghi nhận, thì mọi cú nghĩa lưu chuyển trong ba đời, dù hiện tại hay vị lai, lần lượt Ngài ghi nhớ hết một cách chính xác diệu ký. Ghi nhớ việc quá khứ-vị lai cũng giống như trong hiện tại, ghi nhận rõ ràng thuận hợp cho nên gọi là bình đẳng.
Thân Phật trải khắp cả thế giới chỉ rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn, trong cùng một lúc Ngài hiện thân khắp tất cả thế giới, thị hiện thân thọ dụng và thân biến hóa mà nghĩa là trong tất cả thế giới vô biên, tùy nơi giáo hóa, Như Lai đều hóa hiện sắc thân mầu nhiệm như lưu ly... Với tất cả các pháp, trí không nghi ngờ ngưng trệ nêu rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn đã đoạn trừ mọi nghi, tức là luôn tự quyết định mới có thể khiến cho kẻ khác sinh tâm quyết định. Đối với tất cả việc làm đều thành tựu sự giác ngộ vĩ đại, chỉ rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn, đã nhập vào vô số các hành, là tùy thuận các hữu tình được giáo hóa, Ngài đã hiện thân đồng loại, mà giúp cho họ ngộ nhập.
Đối với các pháp, trí Phật không có mê lầm nghi hoặc, chỉ rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn, thấu đạt pháp ở tương lai, phát sinh trí mầu nhiệm, nghĩa là vượt lên trên cảnh giới hạn hẹp của Thanh văn..., Đức Thế Tôn đã khéo gieo trồng chủng tử như hạt giống vàng li ti trong đống ngói đá. Những cảnh giới như vậy, đều không có tướng điên đảo, vì Ngài đều nhận biết tất cả.
Đức Thế Tôn hiện thân thì không thể phân biệt, chỉ rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn, tùy theo sự hiểu biết của chúng sinh, Ngài đều hiện đúng như vậy, là Phật Thế Tôn dù không phân biệt như ngọc báu Ma-ni nhưng nhờ năng lực tăng thượng của Như Lai, cũng nhờ sức kiến giải tốt đẹp của tự thân cho nên trông thấy thân Như Lai như sắc vàng... Nhưng các Như Lai không có phân biệt, không phân biệt khác lạ, nói rộng như trong kinh.
Hoặc đồng với chủng loại kia cho nên không thể phân biệt được.
Tất cả Bồ-tát đã chân chánh mong cầu đạt trí Phật, chỉ rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn, Ngài là chỗ nương tựa, đã giáo hóa vô lượng hữu tình bằng phương tiện điều phục. Nghĩa là nhờ vô lượng Bồ-tát làm chỗ dựa mà mọi hữu tình được điều phục bằng phương tiện. Nhờ diệu lực tăng thượng của Như Lai ấy mà Bồ-tát được nghe chánh pháp, tư duy tu tập theo thứ tự, chứng được trí mầu nhiệm. Bồ-tát thuộc chủng loại khác tiếp nhận lời dặn dò phó thác của Như Lai, lần lượt nối tiếp nhau vận chuyển chánh pháp không có gián đoạn.
Được pháp không hai của Phật an trú trong bến bờ giải thoát thù thắng chỉ rõ công đức thù thắng của Như Lai thành tựu cùng tận Pháp thân bình đẳng Ba-la-mật, là đối với Pháp thân không hai của Phật địa, tất cả Ba-la-mật-đa như bố thí... đều bình đẳng viên mãn không xen tạp lẫn nhau.
Trí vi diệu giải thoát cứu cánh của Như Lai, chỉ rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn, tùy theo sự hiểu biết tốt đẹp của chúng sinh để thị hiện cõi Phật thanh tịnh, là quán sát sự sai biệt về kiến giải của loài hữu tình, thị hiện các cõi Phật toàn bằng vàng ròng... không xen tạp lẫn nhau.
Chứng ngộ Phật địa bình đẳng không có chính giữa và một bên, chỉ rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn là ba thân không hạn lượng, dù ở đâu, phương hướng nào, là chứng ngộ bình đẳng không có ban đầu-chính giữa và sau cùng. Ba thân của chư Phật trong Tịnh độ Phật của Phật địa không có tất cả phần giới hạn, dù là nơi chốn hay phương hướng nào.
Cùng tận nơi pháp giới, chỉ rõ công đức thù thắng của Đức Thế Tôn là tiến đến tận cùng giới hạn sinh tử, thường xuất hiện, mang lại lợi ích yên vui cho tất cả chúng hữu tình. Có nghĩa là pháp giới này thật thanh tịnh. Đi hết cảnh giới sinh tử, thường xuyên khởi niệm về các pháp Đẳng lưu-Khế kinh... để giáo hóa hữu tình đời vị lai, như sự thích ứng, như thời gian luôn hiện khởi, mang lại sự lợi ích, yên vui. Tận cùng tánh hư không, đi hết giới hạn vị lai, chỉ rõ công đức thù thắng cứu cánh và vô tận của Thế Tôn, là như hư không luôn luôn không có cùng tận.
Pháp giới của chư Phật khởi hiện công đức lại cũng như vậy, bởi vì không cùng tận. Như giới hạn của vị lai không có thời kỳ cùng tận, vì lợi ích yên vui của chúng hữu tình mà gia công tu hành, không lúc nào nghỉ ngơi.
Công đức của chư Phật vì tánh là thường còn, vô tận. Cứu cánh là tánh vô thường, mãi mãi nối tiếp nhau không gián đoạn, cứu cánh vô tận không thể nói là cố định. Pháp thân thanh tịnh của Phật là lý tánh của pháp giới, là tánh công đức cho nên nói thường còn. Công đức của hai thân thọ dụng, biến hóa, dù tánh nó vô thường, nhưng vẫn không đoạn tận, hoàn toàn không cùng tận. Từ xưa, tất cả Như Lai đều phát nguyện rộng lớn, chúng hữu tình mà cầu mong đạo quả Bồ-đề vĩ đại. Nếu các hữu tình đều được diệt độ thì bấy giờ công đức hữu vi của chư Phật sao không đoạn diệt? Nhưng bởi vì các cõi hữu tình đều không bao giờ diệt độ hết, cho nên công đức của Phật cũng không bao giờ đoạn diệt. Tại sao? Vì pháp vốn là như vậy.
Từ vô thỉ đến nay, tất cả hữu tình có năm chủng tánh:
1. Chủng tánh Thanh văn.
2. Chủng tánh Độc giác.
3. Chủng tánh Như Lai.
4. Chủng tánh không quyết định.
5. Chủng tánh không có công đức xuất thế.
Như kinh luận khác có giảng nói rộng về các tướng này. Phân biệt kiến lập bốn chủng tánh trước, tuy không có thời hạn nhất định, nhưng có thời kỳ cuối cùng diệt độ, vì tâm Từ Bi cho nên chư Phật dùng phương tiện khéo léo dẫn dắt. Chủng tánh thứ năm không có nhân của công đức xuất thế, cho nên hoàn toàn không có thời kỳ được diệt độ. Chư Phật chỉ có thể vì họ dùng phương tiện thị hiện thần thông, nói pháp xa lìa cõi ác-sinh cõi thiện, dù họ y theo lời Phật dạy siêng năng tu tập nhân thiện, được sinh trong thế giới loài người, cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhưng chắc chắn vẫn còn lui sụt rơi vào các cõi ác.
Chư Phật lại dùng phương tiện vì họ hiện thần thông giảng nói pháp, giáo hóa. Họ lại tu tập điều tốt, được sinh vào cõi tốt. Nhưng về sau lại lui bước, bị sa đọa, chịu mọi khổ não. Chư Phật lại vận dụng phương tiện cứu vớt.
Cứ lần lượt như vậy, cùng tận thời gian vị lai, cũng không thể nào khiến họ hoàn toàn được diệt độ. Mặc dù trong kinh khác đã diễn nói: “Tất cả loài hữu tình đều có tánh Phật, đều sẽ thành Phật”. Nhưng căn cứ vào Phật tánh-pháp thân Chân như, hoặc căn cứ vào một phần phương tiện cho tất cả hữu tình mà nói, là để giúp cho hữu tình thuộc chủng tánh không quyết định, có quyết định nhanh chóng hướng về quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Do đạo lý này, công đức đem lại lợi ích yên vui cho hữu tình của chư Phật không có đoạn hết. Công đức lợi người như vậy dựa vào công đức lợi ích mình, cho nên không hề đoạn tuyệt. Vì vậy, công đức hữu vi của Như Lai từ nhân mà sinh, tuy trong mỗi ý niệm có diệt nhưng không hề đoạn tuyệt. Do công đức của Phật cứu cánh không cùng tận, cho nên Ngài thành tựu giác ngộ thanh tịnh vô cùng.
Các câu còn lại đều cho nên phối thuộc từng câu một như vậy.
Vì sao trước nói Tịnh độ của chư Phật, rồi sau lại nói đến công đức của Đức Thế Tôn như vậy? Bởi vì làm sáng tỏ công đức của chư Phật như vậy đều nương vào Tịnh độ, là làm sáng tỏ Đức Thế Tôn dựa vào cõi Phật thanh tịnh đầy đủ công đức như vậy, để giảng về kinh này.
Tiếp theo là hiển bày quyến thuộc viên mãn của Thế Tôn, nghĩa là Đại Thanh văn và Đại Bồtát. Trong kinh khác nói: “Điều thuận-điều thuận mà trở thành quyến thuộc-giải thoát, giải thoát mà trở thành quyến thuộc”. Đó gọi là quyến thuộc viên mãn của Như Lai.
Đây là nói vô lượng chúng Thanh văn và vô lượng Đại Bồ-tát đều hiện diện đông đủ, tất cả điều thuận đều là Phật tử... đều an trú trong Đại thừa, hiện bày diệu dụng của Đại thừa.
Theo thứ tự đó, quyến thuộc Thanh văn và Bồtát đều viên mãn, nhưng vì sao trong này trước nói Thanh văn, sau nói Bồ-tát? Vì có người nảy sinh nghi ngờ đối với Đại thừa. Để trừ bỏ sự ngờ vực đó, cho nên dẫn dắt chúng chủng tánh bất định làm cho Bồ-tát nảy sinh niềm tin tưởng quyết định. Vì đã thanh tịnh cho nên các Đại Thanh văn đã từ bỏ sự tôn quý và kiêu mạn của mình. Nghĩa là đối trước chúng, hàng Đại Thanh văn được hầu cận bên Đức Thế Tôn, được gần gũi tiếp nhận sự giáo hóa... Vả lại, các Thanh văn thường xuyên theo sát bên cạnh Phật, vì hình dáng giống như Phật, cho nên thành quyến thuộc bên trong. Hơn nữa, Đức Phật muốn cho Bồ-tát sinh tâm cung kính đối với chúng Thanh văn, như Khế Kinh: “Bồ-tát không cho nên không sinh tâm cung kính chúng Thanh văn”. Do đó, Đức Phật vẫn khen ngợi công đức của Thanh văn, cũng khiến cho hầu hết đều phát sinh niềm tin tưởng thanh tịnh đối với chúng Thanh văn.
Trong hội này, cũng có các chúng khác cùng kiết tập pháp. Sở dĩ nói giảng lược có hai chúng Bồ-tát và Thanh văn, là chỉ rõ sự tốt đẹp của họ. Như phần sau kinh này nói: “Tất cả đại chúng Trời, Người, A-tố-lạc... trong thế gian, sau khi nghe Phật giảng nói, đều vô cùng hoan hỷ, tin tưởng tiếp nhận lời Phật dạy và vâng làm”.
Trước đây đã nói Tịnh độ rất tự tại, lấy thức thanh tịnh làm tướng, tại sao trong hội này lại có Thanh văn... mà không mâu thuẫn? Không có gì là mâu thuẫn. Vì các Thanh văn... cùng chung cách nhìn của Bồ-tát thì trở thành mâu thuẫn nhau. Nếu Thanh văn... cũng nhận thấy như vậy thì có thể nói lời này.
Các Thanh văn... mặc dù được tham dự đại hội này, nhưng cách nhìn và nghiệp tốt đẹp-thanh tịnh, bị chướng ngại cho nên cũng như người mù không trông thấy.
Với cảnh giới tốt đẹp, thanh tịnh như vậy, thật khó nêu bày hết. Đã không thể trông thấy thì không cho nên ở trong chúng. Vì dù không trông thấy Tịnh độ như vậy, nhưng vẫn trông thấy cõi nước cấu uế, vì Hóa thân Phật nói. Mặc dù cùng ở trong một hội, nhưng vì năng lực nơi nghiệp của mình, mà điều trông thấy đều khác nhau. Như trông thấy vàng ròng cho là lửa... Như bốn loại chúng sinh cùng ở chung một nơi chốn, nhưng mỗi loài đều thấy khác biệt, sự trông thấy không đồng nhau. Hoặc là Như Lai dùng sức thần thông gia bị, khiến tạm thời được trông thấy Tịnh độ và nghe pháp mầu nhiệm. Đây là năng lực không thể tư duy, luận bàn của Như Lai, không thể vấn nạn. Dùng căn cơ-địa vị và cảnh giới mà hóa độ cũng không sai lầm, vì muốn pháp hội thuyết giảng được trang nghiêm, cho nên hoặc là Phật hóa hiện ra hoặc là các Bồ-tát hóa hiện ra.
Kinh: “Cùng với vô lượng chúng đại Thanh văn quy tụ. Tất cả đều là Phật tử điều thuận, tâm khéo giải thoát-tuệ khéo giải thoát, giới hết sức thanh tịnh-mong cầu được pháp lạc. Nghe nhiều và giữ lại điều nghe được mà tích tập những điều được nghe, khéo tư duy những điều nên tư duy, khéo bàn luận những điều nên bàn luận, khéo thực hiện những điều nên thực hiện. Tuệ nhanh nhạytuệ mau chóng, tuệ sắc bén-tuệ xuất ly, tuệ quyết định chọn lựa tốt đẹp-tuệ vĩ đại, tuệ rộng rãi và tuệ không có gì sánh bằng. Tuệ quý báu thành tựu đầy đủ ba Minh, đạt đến nơi an trú trong pháp lạc hiện tại bậc nhất. Ruộng phước vô cùng thanh tịnh, oai nghi vắng lặng sâu xa, nhu hòa nhẫn nhục hết sức, thành tựu không có giảm bớt, đã khéo vâng mạng thực hành Thánh giáo vô thượng của Như lai.”
Luận: Vô lượng chúng Đại Thanh văn là số lượng rất nhiều, khó có thể tính toán, cho nên gọi là vô lượng. Nghe tiếng nói của Phật mà ngộ nhập
Thánh đạo, cho nên gọi là Thanh văn. Cùng là Tăng xuất gia, cho nên gọi là chúng. Tất cả đều là hàng lợi căn tột bậc, là Thanh văn thuộc chủng tánh Ba-la-mật-đa cho nên gọi là Đại. Có nghĩa là đều an trú trong quả vị Vô học, cho nên gọi là Đại.
Theo nghĩa như thật, thì đều là chủng tánh Thanh văn không quyết định, chứng được quả vị nhỏ, mà hướng tới đại Bồ-đề, cho nên gọi là Đại, hoặc vì số lượng nhiều của chúng này, cho nên gọi là Đại.
Như đại chúng hôm nay tất cả đều điều thuận có nghĩa là bậc Hữu học xa lìa kiến chấp, đã đoạn trừ một trăm mười hai loại phiền não phân biệt thô nặng. Không cần dây cương kiềm chế mà như con ngựa hay, cho nên gọi là điều thuận.
Có nghĩa là bậc Vô học xa lìa kiến tu đã đoạn trừ một trăm hai mươi tám loại phiền não. Không cứng nhắc mà như vàng ròng, cho nên gọi là điều thuận.
Nghĩa như thật thì đều là bậc hồi hướng về chủng tánh Bồ-đề, tất cả đều có năng lực phát tâm hướng tới quả Đại thừa. Theo ý Phật mà chuyển biến, như voi thông minh sáng suốt, cho nên gọi là điều thuận. Nhờ diệu lực giáo hóa của Phật, xuất sinh từ Thánh đạo, cho nên gọi là Phật tử. Như nói: “Đều từ miệng của Đức Thế Tôn sinh, do chánh pháp sinh”.
Có nghĩa; đều là hướng về Đại Thanh văn, có thể kế thừa chủng tử Phật khiến không đoạn tuyệt, cho nên gọi là Phật tử.
Tâm khéo giải thoát, là xa lìa tham dục trong ba cõi, như nói: “Xa lìa tâm tham lam, được giải thoát”.
Tuệ khéo giải thoát, là đã xa lìa tất cả vô minh cấu nhiễm, như nói: “Xa lìa vô minh cho nên tuệ được giải thoát”.
Giới hết sức thanh tịnh là như Khế Kinh: “Đầy đủ sáu chi, gọi là giới hết sức thanh tịnh”. Nghĩa là an trú trong Thi la thanh tịnh, khéo tự mình giữ gìn, phân biệt giải thích tường tận về quy tắc của luật nghi và cách thức thực hành đều đầy đủ. Đối với tội lỗi dù nhỏ nhặt, đều cảm thấy rất sợ hãi, tiếp nhận học-học xứ hoặc là đều chứng được giới vô lậu, cho nên gọi là hết sức thanh tịnh.
Nghĩa như thật an trú trong quả vị Vô học, hồi hướng Đại thừa. Tự phần giới thanh tịnh, tu tập giới Bồ-tát, cho nên gọi là hết sức thanh tịnh.
Mong cầu được pháp lạc, khi cầu chánh pháp thì muốn hướng đến niềm vui của Đại thừa, nghĩa là cầu Bồ-đề Phật chứ không mong cầu việc gì khác. Hoặc vào lúc cầu pháp, vì khiến cho người khác ưa thích pháp mà không tìm kiếm lỗi lầm của họ, xa lìa oai nghi xấu ác.
Nghĩa như thật, Đại Thanh văn này chuyên cầu pháp lạc, không mong cầu tiếng khen, lợi dưỡng và sự cung kính.
Vô lượng kinh sách trong các phần đầu, giữa và sau đều có thể nghe và tiếp nhận, cho nên gọi là nghe nhiều (Đa văn). Theo nghĩa đã nghe được đều có thể nhớ giữ, khiến không quên mất, cho nên gọi là nghe giữ. Thường xuyên học tập văn nghĩa cho được vững chắc, cho nên nói là nghe pháp rồi gom góp tích lũy.
Người ngu nơi thế gian, nghĩ tưởng ác khi tư duy, lời nói hung dữ khi nói năng, làm việc ác khi hành động. Bậc Thánh xuất thế thì vượt qua những pháp ấy và trái ngược với pháp ấy cho nên nói là khéo tư duy, khi tư duy, khéo bàn luận điều cần bàn luận, khéo thực hiện điều cần thực hiện.
Ba nghiệp thanh tịnh tùy theo việc làm của trí tuệ. Đối với pháp Tỳ-nại-da Phật đã giảng dạy đều nhanh chóng ngộ nhập với ý nghĩa cho nên gọi là tuệ nhanh nhạy. Ngay trong những pháp ấy đa số đều hội nhập với diệu nghĩa, cho nên gọi là tuệ nhanh nhạy. Vì có thể làm nhiều việc, cho nên gọi là nhanh nhạy. Ngộ nhập nghĩa vi tế, cho nên gọi là tuệ sắc bén. Diệu tuệ có khả năng ra khỏi sinh tử cho nên gọi là tuệ xuất ly. Tuệ này có khả năng làm nhân trọn vẹn cho Niết-bàn, cho nên gọi là tuệ quyết định lựa chọn tốt đẹp. Quyết định lựa chọn tốt đẹp tức là Niết-bàn. Vì tuệ này có thể làm liễu nhân cho Niết-bàn, dựa vào Niết-bàn mà đặt tên. Vì hỏi đáp có tính chất quyết định lựa chọn không cùng tận, nên gọi là tuệ vĩ đại.
Vì khéo thông đạt sâu rộng, viên mãn, cho nên gọi là tuệ rộng lớn. Có căn bản lại giảng nói về tuệ hết mực thâm diệu, nghĩa là người khác không có khả năng đạt tới chỗ sâu xa của nó. Đối với các chúng Thanh văn thuộc căn tánh mềm mỏng thì tuệ này cao vượt hơn, cho nên gọi là tuệ không có gì sánh bằng. Tuệ này có khả năng dẫn về ý nghĩa cao tột cho nên gọi là tuệ quý báu. Các Thanh văn này có đủ tuệ quý báu ấy, cho nên gọi là tuệ báu thành tựu.
Đầy đủ ba minh là chứng được ba minh của bậc Vô học. Sao gọi là ba minh của bậc Vô học? Đó là:
1. Trí chứng đắc thông minh, theo nhớ nghĩ mà biết chỗ ở từ kiếp trước.
2. Trí chứng đắc thông minh về sinh tử.
3. Trí chứng ngộ thông minh về hữu lậu đã diệt trừ.
Bậc Vô học với căn cơ nhạy bén chứng được ba thông, loại bỏ cái ngu nhiễm ô, mà không bị nhiễm ô trong ba đời cho nên nói là có ba minh.
Có nghĩa, minh là dùng tuệ làm tánh, tuệ có thể trừ diệt sự tối tăm, cho nên nói là minh.
Có nghĩa, không si mê thì lấy thiện căn làm tánh mà trái ngược với vô minh.
Đạt đến nơi an trú trong pháp lạc hiện tại bậc nhất là chứng được tĩnh lự thù thắng không thối chuyển.
Ruộng phước vô cùng thanh tịnh là vĩnh viễn xa lìa phiền não, như ruộng tốt ở đời có khả năng nhanh chóng sinh trưởng quả rộng lớn.
Oai nghi vắng lặng sâu xa là tất cả oai nghi đều an trú trong sự nhận biết đúng đắn (chánh tri).
Nhu hòa nhẫn nhục hết sức-thành tựu không có giảm bớt là có khả năng chịu đựng khổ để sống chung.
Đã khéo vâng mạng thực hành Thánh giáo vô thượng của Như Lai, làm mọi công việc đã làm đều được viên mãn. Thánh giáo của Như Lai vốn muốn đưa chúng hữu tình ra khỏi mọi đau khổ của sinh tử. Các Thanh văn này đã tiến lên quả vị Vô học, đều ra khỏi sinh tử, cho nên đã khéo vâng mạng thực hành Thánh giáo vô thượng của Như Lai. Nếu như vậy thì tại sao Đức Như Lai lại còn giảng nói pháp cho họ? Vì Đức Như Lai muốn họ hồi hướng đại Bồ-đề.
Các Thanh văn này đều an trú trong bậc Vô học. Khi báo thân này chấm dứt, thì chắc chắn họ bước vào cảnh giới Niết-bàn vô dư hoàn toàn vắng lặng, tịch tĩnh an lạc không khác gì Phật. Như luận khác nói: “Vì sao Như Lai lại hướng dẫn họ đến đại Bồ-đề, để phải chịu khổ trong một thời gian dài? Nhưng trong phần vị biến dịch sinh tử, họ không còn nhận chịu các khổ. Đây có lỗi gì? Vì còn có hành khổ thì đây là một lỗi lớn”. Tuy phải trải qua khổ này để được ba thân công đức của Như Lai đại hỷ đại lạc cho nên không có lỗi. Hết thảy sự an lạc lớn không gì hơn Niết-bàn, Thanh văn kia đã chứng đắc sao lại có một số ít phải cầu Bồ-đề Niết-bàn?
Mặc dù đã có được sự tịch diệt yên vui, nhưng không thọ nhận niềm vui, còn sự yên vui của ba Bồ-đề thì đoạn tuyệt mọi thọ lạc... và đã đầy đủ vô lượng công đức rồi thì đâu cần phải hành khổ để được niềm vui hữu vi.
Hữu vi vô lậu cũng như Niết-bàn, vì vô lậu này không phải thuộc về hành khổ. Vả lại, nếu đã thành Phật thì có thể giáo hóa, vô lượng hữu tình được Phật hóa độ đều ra khỏi sinh tử. Đã thành Phật thì không có khả năng này sao?
Kể từ vô thỉ đến nay pháp chúng sinh là như vậy, như vậy chủng tánh có thể giáo hóa và được giáo hóa đều tùy thuộc vào nhau. Nếu không tùy thuộc nhau, thì không thể giáo hóa. Vì vậy Đức Như Lai đã vận dụng mọi thứ phương tiện để giáo hóa các hữu tình khiến cho họ đều được quả vị Phật.
Giáo hóa chúng sinh được giáo hóa, nếu vậy thì Thanh văn hoặc trừ bảy đời, hoặc trừ một đời, hoặc trừ một đời ở mỗi mỗi nơi thuộc cảnh giới trên. Tất cả đời còn lại đều được phi trạch diệt, hoặc tất cả đời đều phi trạch diệt. Sao lại phải trải qua ba vô số kiếp tu nhân Bồ-đề mới được thành Phật?
Mặc dù các phiền não đã làm tăng trưởng phần đoạn và được phi trạch diệt, nhưng do nguyện lực mà thọ nhận biến dịch sinh tử, trải qua ba vô số kiếp tu nhân Bồ-đề không có lỗi lầm gì.
Phi trạch diệt là các duyên không đủ, hoàn toàn không sinh trong thời gian này, không phải là vĩnh viễn không sinh. Thanh văn kia dù lưu trú theo sinh tử trong thời gian dài, nhưng do định trong nguyện lực nuôi dưỡng mà cảm sinh ra nhân, khiến cho công năng của nhân có thể sinh ra kết quả trong nhiều thời gian. Chính trong một thân này đã lần lượt tăng tiến tốt đẹp cho đến khi thành Phật. Như pháp kéo dài sự sống, lại không thọ sinh cho nên luận mới nêu bày:
Hỏi: Thanh văn hồi hướng Bồ-đề là trú trong cảnh giới Niết-bàn vô dư y hay là trú trong cảnh giới Niết-bàn hữu dư y để phát tâm hướng về Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?
Đáp: Chỉ trú trong cảnh giới Niết-bàn hữu dư y mới có thể có việc này. Vì sao? Vì trong cảnh giới Niết-bàn vô dư y, hoàn toàn xa lìa tất cả sự nghiệp phát tâm hướng đến... tất cả công dụng đều được ngưng dứt. Hỏi: Nếu chỉ trú trong Niếtbàn hữu dư y để phát tâm hướng đến Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì làm sao chỉ một đời mà có thể chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác? Vì sao? Vì A-la-hán... đâu còn một đời nào khác nữa, huống là có nhiều đời nối tiếp nhau?
Đáp: Bởi vì Thanh văn kia cần phải gia tăng các hạnh sống lâu thì mới có thể hoàn thành. Đức Thế Tôn phần nhiều đều dựa vào số Thanh văn hồi hướng Bồ-đề này mà mật ý nói: “Nếu có người nào khéo tu tập bốn thần túc thì có thể sống một kiếp, hoặc hơn một kiếp”. Hơn một kiếp; trong này ý nói là trải qua một kiếp. Thanh văn kia, dù gia tăng hạnh sống lâu thêm và phát tâm hướng về Bồ-đề vô thượng, nhưng sự tu hành rất chậm chạp cho nên ưa chuộng Niết-bàn, không bằng Bồ-tát mới phát tâm và bắt đầu sự nghiệp.
Thanh văn kia đã tu hành gia tăng tuổi thọ như vậy xong, còn lưu lại căn thân hữu vi để riêng tạo ra hóa thân khác.
Pháp đồng là trong phương tiện trước, thị hiện nhập Niết-bàn trong Niết-bàn vô dư y. Do nhân duyên này cho nên đều nảy sinh cảm nghĩ: Tôn giả kia với danh hiệu đó đã nhập Niết-bàn trong cảnh giới Niết-bàn vô dư y. Thanh văn ấy vì đã để lại thân thật với căn hữu lậu, tức là tùy thuộc vào những gì họ ưa thích trong châu Thiệm-bộ ở cõi này, xa lìa rồi an trú. Tất cả chư Thiên hãy còn không thể nhìn thấy, huống chi là các chúng sinh khác có thể trông thấy. Vì Thanh văn ấy đa số đều thích an trú trong cảnh giới Niết-bàn, hiện bày diệu dụng đến khắp mọi thế giới để thân cận cúng dường Phật, Bồ-tát và tu tập làm hành trang cho Bồ-đề trong Thánh đạo. Nếu khi phóng dật thì chư Phật và Bồ-tát thường xuyên thức tỉnh họ. Khi Thanh văn kia đã tỉnh biết rồi, có thể không còn phóng dật trong công phu tu hành nữa.
Lại nữa, Thanh văn hồi hướng Bồ-đề, hoặc đối với quả vị Hữu học, thì có thể từ bỏ ước nguyện mong cầu Thanh văn. Hoặc ở quả vị Vô học, mới có thể buông bỏ hẳn, vì căn tánh của Thanh văn ấy có sự khác biệt, phải chờ đợi các duyên mới có sự khác biệt.
Như vậy, nếu trong quả vị Vô học, Thanh văn hồi hướng Bồ-đề do nguyện lực của định cho nên thường xuyên nuôi dưỡng cho nhân xưa kia cảm đến thân hiện tại, khiến cho xuất sinh quả báo nối tiếp nhau trong thời gian lâu dài, dần dần tốt đẹp thêm, mãi cho đến khi thành Phật thì công năng mới hết. Quả báo này dù là trực tiếp cảm từ nhân hữu lậu, nhưng do sức hỗ trợ nuôi dưỡng của định và nguyện vô lậu, gọi là sinh tử biến dịch không thể tư duy, luận bàn. Vì định và nguyện vô lậu thì không thể tư duy-luận bàn, cho nên nếu ở quả vị Hữu học hồi hướng Bồ-đề, thì hoặc tùy thuận với phiền não mà cảm sinh thế lực. Chiêu cảm phiền não này sinh rồi, đến đời sống sau cùng, Thanh văn hàng phục được các phiền não, phát sinh năng lực của định, nguyện, giúp đỡ cho nhân của thân đời sau, như đạo lý trước, cho đến khi thành Phật. Hoặc khi hồi tâm rồi, liền dẹp bỏ phiền não, phát sinh nguyện lực của định hỗ trợ cho nhân của thân hiện tại, như đạo lý trước, cho đến khi thành Phật. Mọi công dụng vô lậu giúp đỡ cho năng lực của định-nguyện, không phải là phiền não, nghĩa là đều thuộc về thân biến dịch không thể tư duy luận bàn, hoặc sức phiền não đã chiêu cảm dị thục thuộc về thân phần đoạn.
Nếu nói Thanh văn là người đã được tạo tác, hóa hiện thì không cần phải phân biệt hỏi đáp như vậy.
Kinh: “Lại có vô lượng Đại Bồ-tát từ cõi nước chư Phật cùng đến dự pháp hội, đều an trú trong Đại thừa, đều hiện bày diệu dụng trong pháp Đại thừa. Đối với các chúng sinh, tâm của các vị ấy đều bình đẳng, lìa mọi sự phân biệt và không phân biệt về vô số các thứ phân biệt, dẹp tan các ma oán, xa rời mọi sự phân biệt do ý niệm ràng buộc của hàng Thanh văn, Độc giác.
Pháp vị rộng lớn và sự vui mừng được duy trì, đã vượt qua năm thứ sợ hãi, luôn luôn hướng đến hội nhập với quả vị không thối chuyển, dứt hết tất cả cảnh giới khổ não bức bách của các chúng sinh hiện tại, Bồ-tát Diệu Sinh là bậc thượng thủ”.
Luận: Nói Đại Bồ-tát, nghĩa là các Tát-đỏa cầu đạt Bồ-đề. Đây là chung cho cả ba Thừa, vì nói giản lược, cho nên chỉ lấy Đại thừa, còn cần phải nói thêm từ Ma-ha-tát. Lại duyên lấy Bồ-đề Tátđỏa làm cảnh giới, cho nên gọi là Bồ-tát, là người có đầy đủ đại nguyện lợi mình-lợi người, mong cầu đại Bồ-đề, vì lợi ích cho mọi hữu tình.
Lại nữa, Tát-đỏa là nghĩa của sự dũng mãnh, tinh tiến dũng mãnh mong cầu Đại của Bồ-đề, cho nên gọi là Bồ-tát. Đây là chung cho các phần vị. Nay chỉ chọn lấy các Đại Bồ-tát ở địa thượng, vì vậy nói thêm từ Ma-ha-tát.
Vì sao khen ngợi nói về công đức của Bồ-tát? Vì họ đã từ bỏ tâm khinh mạn của chúng sinh.
Có người nói thế này: “Các chúng Thanh văn vì đã tu tập phạm hạnh từ lâu, các chúng Bồ-tát nên cung kính, lễ bái, đồng thời cũng làm cho chúng sinh phát khởi niềm tin thanh tịnh”.
Bồ-tát hãy còn có công đức như vậy, huống là Đức Như Lai. Ở đây nói là ca ngợi công đức của Bồ-tát, chính là hiển bày các Bồ-tát có ba việc lớn lao, cho nên gọi là Ma-ha-tát.
1. Số lượng lớn lao, bởi vì vô lượng.
2. Đức lớn lao, nghĩa là an trú trong Đại thừa, hiện bày diệu dụng trong pháp Đại thừa...
3. Nghiệp lớn lao, tức dứt trừ mọi khổ não của chúng sinh, đem lại lợi ích yên vui cho hữu tình là sự nghiệp của Bồ-tát.
Từ cõi nước chư Phật, các Bồ-tát cùng đến đây dự hội. Nghĩa là từ vô số các cõi Phật trong mười phương, vì muốn được nghe Phật giảng nói pháp, cho nên các Bồ-tát đều đến dự đông đủ. Cũng có chư vị
Bồ-tát ở thế giới Ta bà đến tham dự pháp hội, nhưng người kết tập kinh chỉ nói Bồ-tát ở phương khác vân tập đến, vì muốn đối trị những Bồ-tát lười biếng kiêu mạn, không đến tập hợp trong chúng hội để cầu nghe pháp.
Bồ-tát từ phương khác đến như vậy là chính mình cầu mong được nghe pháp, chứ không phải do người khác dẫn dắt, vì tất cả đều có đủ thần lực vĩ đại. Các Bồ-tát ấy đã từ một cõi rất xa của các thế giới khác đến đây để dự hội, huống là các Bồtát ở cõi này lại không đến tập hợp sao?
Chúng Thanh văn, trước không thấy nói đến việc tập hợp, vì họ đang cư ngụ tại phương này. Hôm nay, nói các Bồ-tát từ phương khác đến đây để dự hội, cho nên biết cũng có các Bồ-tát ở ngay phương này, vì giản lược cho nên không nói.
Căn cứ trong đức độ lớn lao, cho nên biết lược nói có chín loại đức vĩ đại:
1. Tinh tiến vĩ đại: Nghĩa là do diệu lực tinh tiến an trú trong Đại thừa. An trú trong Đại thừa mong cứu vớt hữu tình để họ xa lìa sinh tử và tự phát tâm hướng đến Bồ-đề Vô thượng.
2. Nhân vĩ đại: Nghĩa là Bồ-tát hiện bày diệu dụng trong pháp Đại thừa, tức là mười địa... Dùng hạnh nghe, tư duy, tu tập... lần lượt hiện bày diệu dụng.
3. Sở duyên vĩ đại: Nghĩa là đối với các chúng sinh, tâm Bồ-tát luôn bình đẳng. Ngay nơi tất cả hữu tình đạt được sự bình đẳng giữa mình và người, dùng các phương tiện bình đẳng như tâm Đại Bi...
4. Thời gian vĩ đại: Nghĩa là Bồ-tát xa lìa mọi sự phân biệt, không phân biệt về vô số các thứ phân biệt, tức là đối với tất cả thời gian, cũng như trong một niệm đều chuyển biến bình đẳng.
Kiếp gọi là phân biệt, bởi vì đối với tất cả kiếp và không phải kiếp đều đoạn hết phân biệt. Bởi vì không phân biệt kiếp và phi kiếp, cho nên Bồ-tát có thể tu hành trong thời gian lâu dài, không hề thấy chán.
5. Không cấu nhiễm vĩ đại: Nghĩa là phá trừ các thứ ma oán, vì buông bỏ tất cả những gì đã thâu nhận, cho nên có thể hàng phục các ma oán. Như nói: “Nếu Bồ-tát đối với tất cả các sự việc đã thâu nhận, biết rõ là không chắc thật, tâm không tham cầu, thì có thể phá tan mọi thứ ma oán”.
6. Tác ý vĩ đại: Nghĩa là xa lìa tất cả ý nghĩ phân biệt, ràng buộc trong ý niệm của hàng Thanh văn, Độc giác, tức là lìa bỏ phần đoạn, dứt trừ mọi tác ý của hàng Nhị thừa.
7. Nhậm trì vĩ đại: Nghĩa là pháp vị rộng lớn, vui mừng vì được gìn giữ, tức là dùng sự vui mừng đối với pháp vị của Đại thừa để làm thức ăn.
8. Thanh tịnh vĩ đại: Nghĩa là vượt qua năm sự sợ hãi, tức là ba nghiệp thanh tịnh, thoát khỏi mọi sự sợ hãi, không phạm giới..., vì phạm giới là nhân của sự sợ hãi sẽ bị đọa vào các cõi ác...
Năm thức sợ hãi:
1. Sợ không sống nổi.
2. Sợ tiếng xấu ác.
3. Sợ chết.
4. Sợ cõi ác.
5. Khiếp sợ đại chúng.
Năm thứ sợ hãi như vậy khi chứng đắc địa ý lạc thanh tịnh thì đều xa lìa.
9. Chứng đắc vĩ đại: Nghĩa là luôn luôn hướng tới tiến vào phần vị không thối chuyển, tức là được bậc Nhất thiết trí thọ ký. Bồ-tát ở vào phần vị luôn luôn không lùi lại. Trong bảy địa trước còn có công dụng vận chuyển của gia hạnh, chưa chứng được đạo không dụng công, không thối chuyển. Các địa còn lại đều được không gia hạnh đối với công dụng vận chuyển, luôn luôn hướng tới tiến vào phần vị không thối chuyển. Vì đạo không dụng công của phần vị không thối chuyển, luôn luôn hướng tới tiến vào, cho nên gọi là một mực hướng đến tiến vào phần vị không thối chuyển.
Sự nghiệp vĩ đại này chấm dứt tất cả khổ não đã bức bách các chúng sinh, mà Bồ-tát hóa hiện trước mắt, nghĩa là các Bồ-tát có khả năng dứt trừ mọi khổ não trong ngoài, luôn bức bách tất cả chúng sinh bằng chính phần vị hiện có của mình.
Trong địa này có Đại Bi, Đại Từ. Hai loại này có khả năng chấm dứt mọi khổ não của tất cả chứng bệnh bên trong... Bên ngoài thì bị phiền não bức bách do nghèo nàn... thì hai loại này làm ra nhiều lợi ích yên vui cho hữu tình. Có được công hạnh này cho nên gọi là sự nghiệp vĩ đại.
Lại nữa, đều an trú trong Đại thừa, là an trú ở địa thứ nhất, khi Bồ-tát chứng đạt được Chân pháp giới trùm khắp viên mãn, mới chứng được pháp Đại thừa chân thật, cho nên gọi là an trú trong Đại thừa.
Hiện bày diệu dụng trong pháp Đại thừa nghĩa là địa thứ hai, tu hành ba tụ giới của Bồ-tát. Pháp hành của Đại thừa, tức là ba tụ giới.
Tâm Bồ-tát luôn bình đẳng đối với mọi chúng sinh: Nghĩa là trong địa thứ ba chứng được các định thù thắng, phát khởi bốn vô lượng bình đẳng, đem lại lợi ích yên vui cho mọi hữu tình.
Xa rời mọi sự phân biệt: Ở địa thứ tư, Bồ-tát chứng được ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề, lìa xa mọi sự phân biệt và không phân biệt đối với vô số các thứ phân biệt.
Các thứ phân biệt: Tức phân biệt ngã chấp, do kiến đạo mà đoạn trừ nó. Bồ-tát địa thứ nhất đã xa lìa phần này.
Không phân biệt là Câu sinh ngã chấp, do tu đạo mà đoạn trừ chấp trước. Trong địa này thì đã xa lìa. Hai loại này tương ưng với các pháp, gọi là vô số các thứ phân biệt, vì hạnh và kiến giải đều khác nhau. Mặc dù trước-sau đều xa lìa nơi chốn cùng tận, nhưng nói chung như định thứ tư thì nói là xa lìa khổ vui, như ở quả vị thứ ba thì xa lìa năm phần dưới (Năm hạ phần kiết sử).
Có nghĩa, trong thức thứ bảy của địa này, câu sinh phiền não đều xa lìa tất cả. Có nghĩa trong thức thứ sáu của địa này, câu sinh ngã kiến đã xa lìa hết thảy, chứ không phải trong thức thứ bảy. Vì từ bảy địa trở lại, vẫn còn có sự hiện hành của phiền não vi tế.
Nếu không có thức thứ bảy thì sẽ không có chỗ dựa của sự cấu nhiễm, cho nên không giống năm thức trước. Nếu đã xa lìa các hoặc vi tế trong thức thứ bảy thì các hoặc thô trược của sáu thức sẽ không hiện hành ở các địa thứ năm-thứ sáu-thứ bảy, tức là trái với phần Du Già đã nói trong kinh Giải Thâm Mật.
Lại nữa, theo như trong định Kim cang dụ của Nhị thừa, các mê lầm của thức thứ bảy và phiền não rất nhỏ nhặt trong sáu thức đều được đoạn trong cùng một lúc, vì sao ở đây, trước thì nói phiền não vi tế của thức thứ bảy, sau lại nói lìa phiền não thô trược của sáu thức?
Vì vậy, bốn địa đã chứng được trí vô ngã, diệt trừ sự ngã chấp câu sinh trong ý thức, nhưng vẫn chưa xa lìa phiền não vi tế trong thức thứ bảy, cùng sự tu tập đoạn diệt hoặc còn lại trong sáu thức.
Đây là nói hàng phục và xa lìa, chứ không phải là nói vĩnh viễn trừ diệt. lúc đạt đến tâm kim cang trong địa thứ mười, thì mới nhanh chóng đoạn trừ, do tu đoạn chủng tử.
Dẹp tan các ma oán, là địa thứ năm quán sát bốn Thánh đế đều là tánh bình đẳng, phá tan các ma oán, chấp giữ về sự khác biệt của sinh tử và Niết-bàn. Xa lìa tất cả phân biệt hệ niệm của hàng Thanh văn, Độc giác, là địa thứ sáu, quán sát mười hai chi duyên khởi nhiễm-tịnh, đều là tánh bình đẳng. Tức là xa lìa hệ niệm phân biệt về chán sợ tạp nhiễm và ưa thích thanh tịnh của hàng Nhị thừa. Pháp Vị rộng lớn, vui mừng được gìn giữ là địa thứ bảy chứng đắc lý Vô tướng, khởi lên công hạnh hữu vi thù thắng từ trong trí Không, thọ nhận nguồn vui pháp lớn lao.
Vượt qua năm thứ sợ hãi: Nghĩa là trong địa thứ tám thì tất cả phiền não đều không còn hiện hành nữa, lìa khỏi nhân của năm thức sợ hãi, cho nên gọi là vượt khỏi năm thức sợ hãi. Về quả của năm thức sợ hãi thì ở địa thứ nhất đã xa lìa.
Luôn luôn hướng tới tiến vào phần vị không thối chuyển là địa thứ chín quyết định hướng tới tiến vào phần vị không thối chuyển của chúng Bồtát trong địa thứ mười với hạnh viên mãn.
Chấm dứt mọi khổ não của chúng sinh... nghĩa là trong địa thứ mười, chứng được Pháp thân vĩ đại, dấy lên làn mây Đại Bi, mưa xuống trận mưa pháp lớn diệt trừ mọi sự khổ não bức bách của tất cả chúng sinh.
Lại nữa, với mười câu văn kinh như vậy, có mười lần đến bờ bên kia và mười nguyện lớn... của Bồ-tát, cũng cho nên phối hợp giải thích.
Vì địa thứ nhất trở lên trong mỗi mỗi địa đều thâu nhiếp khắp tất cả mọi hành của các địa.
Bồ-tát Diệu Sinh làm bậc thượng thủ, vì Bồ-tát có khả năng phát khởi công đức viên mãn trong các Tam-ma-địa, cho nên gọi là Diệu Sinh. Vì Bồtát đã chứng được Tam-ma-địa này, cho nên danh hiệu là Diệu Sinh. Vì danh hiệu của Bồ-tát phần nhiều đều dựa vào pháp, như Từ Thị...
Vì Bồ-tát Diệu Sinh là bậc đứng đầu trong chúng hội này, cho nên gọi là thượng thủ. Vì vậy từ đây trở về sau, Phật chỉ nói với Bồ-tát Diệu Sinh, là người đã phát khởi cho sự giảng nói kinh này. Vốn giản lược cho nên chỉ nêu một danh hiệu, các chúng còn lại trong pháp hội chỉ nêu ra số lượng, vì người kết tập pháp có chủ ý ở sự giản lược.
Kinh: “Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo với Bồ-tát Diệu Sinh! Nên biết rằng có năm pháp thâu nhiếp địa vị Đại giác. Những gì là năm pháp? Đó là:
1. Pháp giới thanh tịnh.
2. Trí Đại viên cảnh.
3. Trí Bình đẳng tánh.
4. Trí Diệu quán sát.
5. Trí Thành sở tác”.
Luận: Như vậy đã nói xong phần Nhân duyên phát khởi nơi pháp.
Sau đây là chỉ rõ phần Thánh giáo đã thuyết giảng.
Chỉ nói với một mình Bồ-tát Diệu Sinh, là vì giáo pháp tối thắng này đã trùm khắp. Vì sao Đức Thế Tôn không nói với chúng Thanh văn? Vì các Bồ-tát chuyên ý mong cầu Nhất thiết trí, nghe pháp như vậy sẽ phát sinh cách hiểu thù thắng. Đã phát sinh cách hiểu thù thắng thì có khả năng bước vào. Đã bước vào rồi mới có khả năng thực hành chân chánh. Tu hành chân chánh rồi thì thành tựu nhanh chóng. Thanh văn không có khả năng cầu Nhất thiết trí. Dù có thể mong cầu được nghe pháp như vậy, họ cũng không phát sinh cách hiểu thù thắng. Dù phát sinh cách hiểu thù thắng nhưng họ không thể tu hành chân chánh. Dù có thể tu hành chân chánh nhưng họ cũng không nhanh chóng hoàn thành được, cho nên không nói với họ.
Như vậy thì tại sao lúc Phật giảng nói kinh này các Thanh văn vẫn hiện diện dự vào chúng hội? Để làm sáng tỏ lúc đó số chúng đến dự rất đông. Bồ-tát hóa hiện chủng loại này để Thanh văn hồi hướng đến Bồ-đề, phát tâm hướng tới Đại thừa, dẫn dắt họ gia nhập đại chúng. Hoặc vì các Bồ-tát hóa hiện đưa ra danh hiệu này cho nên không mâu thuẫn.
Nói giản lược là do bốn tướng an lập Phật địa:
1. Do số lượng.
2. Do sự thâu nhiếp.
3. Do danh hiệu.
4. Do lựa chọn nghĩa sai biệt.
Nay ở đây sẽ nói về số lượng-sự thâu nhiếp, danh hiệu và sự khác nhau.
1. Do số lượng, có năm loại pháp, về sau sẽ nói đến tự tướng. Số lượng của pháp này tự tỏ rõ. Vì sao nói về số lượng? Vì quyết định: Chỉ có năm pháp chứ không thêm không bớt.
Pháp tức là nghĩa giữ lấy tự tướng, không phải là cùng nghĩa của quả dị thục khả ái.
2. Do sự thâu nhiếp thâu nhiếp trong địa vị Đại giác, Đại giác là Phật, có đủ ba loại thân:
1. Thân tự tánh.
2. Thân thọ dụng.
3. Thân biến hóa.
Sau sẽ nói rộng. Địa (quả vị) là cảnh giới của bậc Đại giác nương tựa, thâu nhiếp, hành hóa. An lập tự tướng với những duyên sai biệt, dùng tất cả các pháp làm cảnh giới. An lập với những duyên là nói đến sự thâu nhiếp tất cả, an lập tự tướng thì chỉ thâu nhiếp tự thể hợp lại làm một. Trong địa vị Đại giác có vô biên công đức, lược nói có hai loại:
1. Hữu vi.
2. Vô vi.
Công đức vô vi thuộc về pháp giới thanh tịnh, tức là công đức vô vi Chân như, đều là thể tướng sai biệt của Chân như.
Công đức hữu vi thuộc về bốn trí, vì công dụng của trí trong bậc vô lậu rất mạnh, cho nên dùng trí để hiển bày tên gọi. Hết thảy các loại tâm và pháp sở hữu của tâm, và phẩm loại của pháp đó, nếu căn cứ vào nghĩa thật, thì mỗi mỗi phẩm trí đều thâu nhiếp đầy đủ tất cả pháp môn công đức. Nếu căn cứ vào tướng thô thì trí Diệu quán sát thâu nhiếp bốn niệm trú, vì quán sát tất cả pháp như thân...
Trí Bình đẳng tánh thâu nhiếp bốn chánh đoạn và bốn vô lượng. Vì bốn chánh đoạn dù dùng tinh tiến làm tự tánh, nhưng bởi vì trí Bình đẳng tánh của Như Lai đã thâu nhiếp, cho nên không có tướng cao thấp.
Bốn vô lượng là hạnh bình đẳng đã thuộc về trí này. Bốn như ý túc lấy Tam-ma-địa làm tự tánh, cho nên thuộc về trí quán sát, nắm giữ tất cả các môn Đà-la-ni. Về môn Tam-ma-địa, đoạn kinh sau sẽ nói đến.
Như vậy, các tĩnh lự giải thoát còn lại như Đẳng trì, Đẳng chí, môn Đà-la-ni, môn Tam-mađịa, Vô tránh-nguyện trí-thông, Vô ngại giải, mười tám pháp bất cộng của Phật, mười lực-bốn pháp vô úy của Như Lai, phần nhiều đều thâu nhiếp ở trí Diệu quán sát. Thần cảnh trí thông, phần nhiều được thâu nhiếp ở trí Thành sở tác.
Lậu tận trí thông, lậu tận trí lực hoặc nói là có bốn trí thâu nhiếp trong lậu tận tương tục, hoặc nói duyên vào Niết-bàn lậu tận kia, phần nhiều đều được thâu nhiếp ở trí Đại viên cảnh và trí Bình đẳng tánh.
Năng lực của trí hành biến hành thứ bảy thuộc về bốn trí. Các căn như Tuệ…, các lực như Tuệ…, phần nhiều thâu nhiếp ở trí Đại viên cảnh và trí Bình đẳng tánh. Giác chi và Đạo chi phần nhiều được thâu nhiếp ở trí Bình đẳng tánh.
Mười trí chân vô lậu như khổ... phần nhiều thâu nhiếp ở trí Đại viên cảnh và trí Bình đẳng tánh. Pháp không quên mất, phần nhiều thâu nhiếp ở trí Đại viên cảnh. Vĩnh viễn đoạn trừ tất cả tập khí tương tục, phần nhiều thâu nhiếp trong trí Đại viên cảnh của pháp giới thanh tịnh. Ba-la-mật-đa, hoặc là vô lậu, hoặc giống như hữu lậu, phần nhiều thâu nhiếp trong hai trí sau.
Các tướng tùy hình hảo, phần nhiều thâu nhiếp trong trí Thành sở tác.
Các pháp Phật còn lại như chỗ đã thích ứng, tùy thuận sự thâu nhiếp tương ưng.
Bốn trí như vậy thâu nhiếp đầy đủ tất cả địa vị Phật. Tâm vô lậu và tâm pháp, hoặc cùng có pháp, hoặc phẩm loại đã biến hiện khác nhau, thì pháp giới thanh tịnh tiếp nhận công đức của các tướng trên Chân như. Vì vậy, năm pháp thâu nhiếp đủ tất cả công đức của Phật địa.
3. Do danh hiệu, là pháp giới thanh tịnh, nói rộng cho đến trí Thành sở tác.
Pháp giới thanh tịnh là xa lìa mọi thứ chướng ngại cấu uế của tất cả khách trần trong sự nhận biết của phiền não. Tất cả các pháp hữu vi-vô vi... không làm đảo lộn thật tánh. Hết thảy thánh pháp là nhân của sự nương dựa và sinh trưởng.
Tự thể chân thật của tất cả Như Lai, từ vô thỉ đến nay, tự tánh vẫn thanh tịnh, đầy đủ các loại tánh tướng công đức, nhiều hơn số cực vi trần trong mười phương thế giới, không sinh-không diệt giống như hư không, bao trùm tất cả pháp và tất cả hữu tình, bình đẳng đều có, cùng với tất cả pháp không một-không khác, không phải có, không phải không, xa lìa tất cả tướng, tất cả phân biệt, tất cả danh từ-lời nói, đều không thể thủ đắc, chỉ là Thánh trí thanh tịnh đã chứng ngộ.
Hai Không-vô ngã đã làm sáng tỏ Chân như, là tự tánh của Chân như, các Thánh chỉ chứng ngộ từng phần, chư Phật thì chứng ngộ toàn phần viên mãn. Như vậy gọi là pháp giới thanh tịnh.
Trí Đại viên cảnh, là trí xa lìa tất cả mọi chấp trước về ngã và ngã sở, xa lìa mọi sự phân biệt về sở thủ và năng thủ, hành tướng của sở duyên không thể biết rõ, không ngu muội-không quên mất, nhận biết tất cả cảnh giới không phân biệt, sự sai khác của tướng cảnh, tất cả thời gian, phương hướng không gián đoạn, vĩnh viễn xa lìa các chủng tử hữu lậu, mọi cấu uế của tất cả chướng phiền não.
Hết thảy chủng tử của công đức vô lậu thanh tịnh viên mãn, có thể hiện khởi-có thể sinh ra ảnh tượng nơi các trí của tất cả cảnh giới, làm nơi nương tựa cho hết thảy hình bóng thân tướng-cõi nước, giữ gìn tất cả công đức của Phật địa, cùng tận thời gian vị lai, vẫn không dứt hết. Như vậy gọi là trí Đại viên cảnh.
Trí Bình đẳng tánh, là quán sát mình và người, tất cả đều bình đẳng, tâm Đại Từ và Đại Bi luôn cùng tương ưng, thường xuyên không gián đoạn, kiến lập Phật địa với Niết-bàn vô trú, tùy theo sự ưa thích của các hữu tình, thị hiện các loại ảnh tượng của thân-cõi nước thọ dụng, không cùng nơi nương tựa với trí Diệu quán sát. Như vậy gọi là trí Bình đẳng tánh.
Trí Diệu quán sát, là đối với sự khác nhau của tất cả cảnh giới, thường xuyên quán sát không trở ngại, thâu nhiếp, giữ gìn tất cả môn Đà-la-ni, môn Tam-ma-địa, cùng các định mầu nhiệm... Đối với các chúng hội lớn, có khả năng hiện bày tất cả tác dụng tự tại, đoạn tuyệt mọi sự nghi ngờ, tuôn cơn mưa pháp vĩ đại. Như vậy gọi là trí Diệu quán sát. Trí Thành sở tác, là trí có thể hiện hữu trùm khắp mọi thế giới, tùy thuận các hữu tình cần được giáo hóa, làm cho họ thành thục, thị hiện vô lượng vô số những biến hóa không thể nghĩ bàn của Phật, vận dụng phương tiện làm lợi ích yên vui cho tất cả hữu tình một cách thường xuyên không gián đoạn. Như vậy gọi là trí Thành sở tác.
Lại nữa, kiến lập năm pháp như vậy là vì nhân, vì quả, vì sự khác nhau của quả.
Vì nhân, tức là pháp giới thanh tịnh, nhân này có thể sinh trưởng Thánh pháp.
Vì quả, nghĩa là Thánh trí duyên vào quả kia mà sinh, cho nên nương dựa quả ấy. Vì sự khác nhau trong quả của Thánh trí này có bốn, được kiến lập tùy thuộc vào sự khởi hiện, nghĩa là duyên vào pháp giới gìn giữ tất cả, tùy thuận nghe pháp, đối với các hữu tình chứng được tánh bình đẳng giữa mình và người, khai thị chánh pháp bằng các phương tiện thù thắng, là nhân đem lại lợi ích cho mọi người.
Lại nữa, kiến lập năm pháp như vậy, vì tự thể của Phật, vì nhân, vì quả.
Vì tự thể của Phật, là lấy Chân như thanh tịnh làm Thể tướng, và trí không phân biệt duyên vào cảnh ấy làm Thể tướng.
Nhân nghĩa là vô lượng nhân thường xuyên không gián đoạn, dùng trí Bình đẳng tánh đối với các hữu tình.
Quả nghĩa là đem lại lợi ích cho tất cả hữu tình. Vì hai trí thù thắng quán sát hữu tình có thể giáo hóa hay không giáo hóa, tùy theo sự thích nghi của họ mà hoàn thành mọi việc.
Lại nữa kiến lập năm pháp như vậy, nghĩa là đối với sự khác nhau về quả vị của Phật địa, tức là lấy quả của trí đoạn làm Thể của Phật địa. Quả đoạn tức là pháp giới thanh tịnh, vì trong đó, tất cả chướng ngại đều vĩnh viễn đoạn tuyệt.
Trí có bốn loại là trí Đại viên cảnh... Đối với cảnh giới của quả vị Phật, các phần vị của tâm và tâm pháp đã hiển hiện, do trí thù thắng nhất trong các công đức, lấy trí làm tên, vì thâu nhiếp chung tất cả công đức hữu vi.
Lại nữa, pháp môn kiến lập năm pháp đã giảng nói như vậy, thâu nhiếp tổng quát tất cả pháp Phật của Phật địa, thâu nhiếp chung các công đức vô vi. Do tuệ của nghe huân tập thành thục, gìn giữ tất cả các công đức thuộc về Phật địa. Đối với các hữu tình, thường hiện khởi sự nghiệp đem lại lợi ích yên vui và bình đẳng, đã theo đuổi các môn Đà-la-ni, môn Tam-ma-địa, với vô biên, vô lượng phước trí trang nghiêm, có thể hoàn thành tất cả sự nghiệp biến hóa, đem lại lợi ích yên vui cho hữu tình.
Lại nữa, đã nói về bốn trí như vậy, chuyển từ pháp nào mà được?
Nhiếp Đại Thừa nói: Do chuyển thức uẩn mà được trí.
Vì sao chuyển tâm mà được tâm pháp và không được tâm pháp? Vì bốn tâm vô lậu và trí đều tương ưng, vì giả thuyết cho nên gọi là trí. Luận giảng giải rằng:
Hỏi: Chánh trí cho nên nói là thật có, hay cho nên nói là giả có?
Đáp: Nên nói là có cả hai, vì trong ấy trí là thật có. Nếu quyến thuộc của trí là các tâm-tâm pháp cũng gọi là trí, thì nói đó là giả, bởi vì có hai loại. Trong đó, trí làm chủ của tâmtâm pháp vô lậu... đều gọi là trí. Chuyển chỗ dựa của thức uẩn được bốn trí vô lậu tương ưng với tâm, nghĩa là tâm Đại viên cảnh, nói rộng cho đến tâm Thành sở tác. Chuyển Thức thứ tám thành trí Đại viên cảnh tương ưng với tâm, có thể duy trì tất cả chủng tử công đức, có thể biến hiện, có thể sinh ra tất cả thân tướng và cõi nước, là ảnh tượng của trí.
Chuyển thức thứ bảy thành trí Bình đẳng tánh tương ưng với tâm, xa lìa sự khác nhau của hai chấp về mình và người, chứng ngộ được tánh bình đẳng của tất cả các pháp.
Chuyển Thức thứ sáu thành trí Diệu quán sát tương ưng với tâm, có thể quán sát tất cả đều không ngăn ngại.
Chuyển năm hiện thức thành trí Thành sở tác tương ưng với tâm, có thể hoàn thành mọi công việc bên ngoài một cách hiện thực.
Lại có nghĩa: Chuyển Thức thứ sáu được Thành sở tác, chuyển năm hiện thức thành Diệu quán sát. Việc này không phải vậy, vì không theo thứ tự, công việc nói pháp là dẹp bỏ mọi sự nghi ngờ, và quán sát cùng khắp không phải là tác dụng của năm hiện thức.
Như vậy, chuyển biến loại trừ bốn phẩm tương ưng với tâm và tâm pháp tương ưng trong phần vị sinh tử, trở thành bốn phẩm tương ưng với tâm và tâm pháp tương ưng của quả vị Phật, đều gọi là trí. Lại nữa, đã nói bốn trí tương ưng với phẩm tâm như vậy là duyên với những gì? Trí Đại viên cảnh tương ưng với phẩm tâm. Hoặc nói một tướng, là trí không phân biệt chỉ duyên với Chân như, chứ không phải là trí hậu đắc, vì hành tướng của sở duyên không thể nhận biết. Hoặc nói đủ các tướng, duyên với tất cả pháp. Luận Trang Nghiêm nói: “Trí Đại viên cảnh hiện bày trùm khắp tất cả cảnh giới đã được nhận biết, không tối tăm mê muội”. Trong kinh này nói, như dựa vào gương sáng tròn, mọi hình tượng đều hiện bày. Như vậy, dựa vào gương trí của Như Lai, các xứ-cảnh-thức với mọi hình tượng đều hiện bày.
Nói các xứ, là sáu xứ bên trong.
Nói các cảnh, là sáu cảnh bên ngoài. Nói các thức, là sáu thức.
Như vậy, trên trí có mọi cảnh tượng của mười tám giới ảnh hiện. Vì vậy biết trí này duyên với tất cả pháp. Do gương trí này duyên với tất cả pháp trong tất cả thời gian, cho nên nói Đức Như Lai đầy đủ tất cả trí. Nếu không như vậy, thì các trí còn lại không chắc chắn nhận biết tất cả pháp và Đức Như Lai không thể gọi là bậc Nhất thiết trí.
Trí-cảnh như vậy, bên trong duyên với chủng tử công đức của tự
Thể, bên ngoài duyên với tất cả cảnh giới đã được nhận biết, hoặc là chân, hoặc là tục, hiện bày tất cả ảnh tượng của thân tướng-quốc độ...
Duyên vào bên nghĩa Chân thì gọi là Trí vô phân biệt. Duyên vào bên nghĩa Tục thì gọi là Trí hậu đắc. Mặc dù duyên vào tất cả nhưng đối với các hành tướng vi tế thì không thể biết rõ, như Alại-da, dù duyên với ba cảnh, vì quá vi tế cũng nói là duyên với cảnh, nhưng không thể biết rõ. Không cho nên viện cớ không thể biết rõ mà chứng minh Trí cảnh này chỉ duyên với Chân như của trí vô phân biệt, chứ không phải là trí hậu đắc. Các tâmtâm pháp, dù tự Thể chỉ là một nghĩa, nhưng công dụng của nó thì có nhiều, và tùy theo sự khác biệt của công dụng mà chia ra làm hai trí, cũng không có lỗi gì.
Cần phải đạt lý Chân mới biết được sự Tục, cho nên dù là nghĩa của một tâm mà nói có trước và sau, hoặc vì giống như ở sau, cho nên được gọi là Trí hậu đắc.
Các trí khác cũng như vậy. Trí Bình đẳng tánh tương ưng với phẩm tâm. Có nghĩa, trí này chỉ duyên với trí Đại viên cảnh. Như ý thức nhiễm ô duyên với A-lại-da làm cảnh giới.
Có nghĩa; trí này chỉ duyên với thật tế, Chân như, duyên với tánh bình đẳng làm cảnh giới.
Về nghĩa như thật; trí này cũng duyên với hết thảy làm cảnh, tức là duyên khắp tất cả tánh bình đẳng. Luận Trang Nghiêm nói: “Trí Bình đẳng tánh duyên với tất cả hữu tình, vì mình và người đều bình đẳng, tùy theo cách hiểu thù thắng của các hữu tình, mà thị hiện ảnh tượng của Phật.
Theo kinh này nói: Chứng ngộ được Thể tánh bình đẳng của mười tướng, tánh bình đẳng này thông suốt cả Chân và Tục, cho nên duyên với tất cả cũng không hề có lỗi. Vì lẽ, nếu không duyên với thế tục, thì không thể tùy theo cách hiểu thù thắng của hết thảy hữu tình mà thị hiện ảnh tượng của chư Phật. Cũng không nên cho rằng thức Mạtna nhiễm ô tương tự với trí bình đẳng, chỉ duyên với trí cảnh, vì phàm phu và Thánh nhân khác nhau, vì trái với Thánh giáo, vì những thứ còn lại không giống nhau.
Trí Diệu quán sát tương ưng với phẩm tâm, quán sát khắp tất cả tự tướng, cộng tướng vì đều không có chướng ngại khi duyên với tất cả cảnh giới đã được nhận biết.
Trí Thành sở tác tương ưng với phẩm tâm. Có nghĩa; chỉ duyên với năm loại hiện cảnh. Luận Trang Nghiêm nói: “Năm căn của Như Lai, mỗi mỗi đều chuyển biến đối với năm cảnh”.
Về nghĩa như thật, trí Thành sở tác cũng duyên với tất cả cảnh cũng không bị chướng ngại đối với cảnh nào hết.
Luận Trang Nghiêm nói: “Trí Thành sở tác đối với tất cả cảnh giới, khởi hiện các loại biến hóa không có số lượng, chẳng thể nghĩ bàn, làm tất cả nghĩa lợi cho các hữu tình”.
Trong kinh này nói: Trí Thành sở tác khởi tạo các sự việc biến hóa của ba nghiệp, quyết định lựa chọn tám mươi bốn ngàn tâm hạnh khác nhau của chúng sinh, diễn nói pháp đối trị, làm ra bốn ký luận, tiếp nhận mọi nghĩa của quá khứ-vị lai-hiện tại. Nếu trí này không duyên khắp tất cả cảnh giới, thì sẽ không có công năng này.
Lại nói: Tâm của Phật vốn tự tại không hề ngăn ngại, mỗi mỗi tâm đều có thể soi sáng tất cả cảnh, nhưng diệu lực tác ý, hoặc duyên với một pháp, hoặc duyên với tất cả. Vả lại, nói chuyển năm căn đối với năm cảnh, vì không nói như vậy thì không thành tự chứng.
Luận Tập Lượng nói: “Các tâm-tâm pháp đều chứng tự thể, gọi là hiện lượng”. Nếu không như vậy, thì như không từng trông thấy, không cho nên nhớ nghĩ. Vì vậy bốn trí luôn tương ưng với phẩm tâm, mỗi mỗi trí cũng có thể soi sáng, nhận biết tự thể. Vì sao không mâu thuẫn với pháp thế tục? Như con dao không tự cắt đứt đầu ngón tay, nếu nó không thể chạm đến đầu ngón tay ấy. Không trông thấy ngọn đèn... tự soi sáng chăng? Làm thế nào biết được đèn... tự soi sáng? Hiện thấy không có bóng tối mà là ánh sáng hiển hiện rõ ràng. Nếu ngọn đèn không tự soi sáng thì phải có sự che khuất của bóng tối, sẽ không trông thấy. Vì vậy cho nên biết rằng ngọn đèn... đã tự soi sáng. Mà đèn... đã không phải là bóng tối thì đâu cần soi chiếu nữa. Như cái bình, chiếc áo... tự thể của chúng dù không phải là bóng tối, nhưng nếu không có ngọn đèn... soi sáng đến mặt bị che khuất do bóng tối thì không thế nào hiện thấy. Lúc ngọn đèn... soi sáng trừ hết bên có bóng tối, khiến được hiện thấy thì gọi là soi sáng. Ngọn đèn... cũng vậy, khi tự thể nảy sinh (phát sáng) thì phía có bóng tối che khuất bị loại trừ, khiến hiện rõ được trông thấy cho nên gọi là tự soi sáng.
Các tâm-tâm pháp mặc dù có hơn kém khác nhau, nhưng đều có thể duyên với bên ngoài, bên trong chứng đạt tự thể. Cũng như ánh sáng, đã có thể soi sáng cho người khác thì cũng có thể tự soi sáng mình, không phải như các pháp về dao... Pháp như vậy không thể nào cùng một loại như nhau. Đây là căn cứ theo tướng thô của các tâmtâm pháp, đều có hai phần: Tướng-Kiến mà nói. Như phần biện luận về tâm-tâm pháp trong luận Tập Lượng đều nói có ba phần:
1. Phần đã được giữ lấy.
2. Phần luôn luôn giữ lấy.
3. Phần tự chứng.
Ba phần như vậy không một, không khác: Phần một là đều được lường xét, phần hai là luôn luôn lường xét, phần ba là quả của sự lường xét. Nếu phân biệt tỉ mỉ hơn, cần phải có bốn phần thì nghĩa trên mới được thành lập.
Vẫn với ba phần như trước, lại có thêm phần thứ tư là phần chứng tự chứng. Hai phần đầu là bên ngoài, hai phần sau là bên trong. Phần đầu chỉ là điều được nhận biết, các phần còn lại chung cho cả hai loại. Nghĩa là phần thứ hai chỉ nhận biết phần thứ nhất, hoặc hiện lượng, phi lượng, hoặc hiện lượng hoặc tỷ lượng.
Phần thứ ba tự chứng có thể chứng cho phần thứ hai và chứng cho phần thứ tư.
Phần thứ tư tự chứng có thể chứng cho phần thứ ba. Phần thứ ba và thứ tư đều thuộc về hiện lượng.
Từ đạo lý này, tuy là một thể, nhưng do nhiều phần hợp thành, cho nên “bất tức, bất ly”, trong ngoài đều nhận biết, không phạm lỗi vô cùng. Vì thế Kinh:
Tâm chúng sinh hai tánh,
Trong ngoài tất cả phần,
Buộc do năng sở thủ,
Nhận thấy có khác nhau.
Đại ý bài tụng này nói: Chúng sinh do hai phần tâm và tánh hợp thành, hoặc trong hoặc ngoài đều bị trói buộc do sở thủ và năng thủ trông thấy đủ mọi thứ hoặc “lượng” hay “phi lượng” hoặc “hiện lượng” hoặc “tỷ lượng”, phần nhiều đều khác biệt.
Bốn trí với phẩm tâm dù có nhiều phần, nhưng đều thuộc về “hiện lượng” vô lậu. Về nghĩa này, như ở chỗ khác đã phân biệt rộng hơn. Về công dụng của nghĩa thì gồm có nhiều phần, nhưng không phải là tự thể có khác biệt. Như khổ-vô thường... trong một pháp, các loại nghĩa đều riêng biệt mà thể vẫn là một.
Lại nữa, đã nói bốn trí tương ưng với phẩm tâm như vậy là vì có tướng phần-kiến phần chăng? Quyết định có kiến phần soi sáng và cảnh đã được soi sáng. Có phần tự chứng soi sáng chung cho kiến phần và phần chứng tự chứng. Phần chứng tự chứng soi sáng cho phần tự chứng, cũng quyết định là có. Vì nếu không có ba phần khác biệt như vậy, thì sẽ không có gì được duyên, sẽ không gọi là trí, vì tướng phần không cố định.
Có nghĩa: Phẩm tâm vô lậu chân thật, không có chướng ngại, trực tiếp soi sáng cảnh trước, không đuổi theo tâm Biến hiện tựa như tướng của cảnh trước. Vì tâm vô lậu, cho nên gọi là vô tướng, không phân biệt. Lại nói là duyên với cảnh không nghĩ bàn.
Có nghĩa: Phẩm tâm vô lậu chân thật, cũng có tướng phần, các tâm-tâm pháp pháp như vậy giống như cảnh hiển hiện gọi là duyên, không phải như động tác giữ lấy vật dụng của chiếc kìm... không phải như ngọn đèn... tỏa ra ánh sáng để soi chiếu cảnh vật, mà như gương sáng... hiện rõ hình ảnh soi sáng cảnh vật. Do cảnh giống nhau, ảnh hiện rõ ràng và soi sáng, gọi là không chướng ngại. Không chấp giữ, không suy tính gọi là vô tướng, cũng không phân biệt. Công dụng mầu nhiệm khó lường xét, gọi là không thể nghĩ bàn, không phải là không hiện rõ hình ảnh. Nếu nói là vô tướng thì không có tướng phần. Nói là không phân biệt thì sẽ không có kiến phần, cũng không có tướng phần và kiến phần cho nên như hư không, hoặc như sừng thỏ... thì sẽ không gọi là trí.
Vì không chấp giữ-không suy tính, cho nên nói là không có các tướng của năng thủ-sở thủ, chứ không phải không dùng nghĩa soi sáng cảnh-duyên tương tự. Nếu tâm vô lậu hoàn toàn không có tướng phần thì chư Phật không thể biến hiện các loại ảnh tượng của thân tướng và quốc độ...
Như vậy thì trái ngược với nhiều nơi trong kinh luận, chuyển chỗ dựa của sắc uẩn không được sắc, chuyển chỗ dựa của bốn uẩn sẽ không có thức... thì trở thành lỗi lầm vô cùng.
Có nghĩa; trí không phân biệt, vô lậu tương ưng với phẩm tâm, vì không phân biệt, Chân như của pháp được duyên không xa rời tự thể, cho nên như soi sáng tự thể thì không có tướng phần riêng. Nếu trí hậu đắc tương ưng với phẩm tâm thì có phân biệt về cảnh giới của pháp được duyên, hoặc xa rời tự thể. Như cảnh tướng giống nhau của tâm hữu lậu, hiện bày rõ ràng nhờ vào duyên soi sáng. Nếu tâm vô lậu duyên theo sự tách rời cảnh của tự thể, không giống với tướng của tự thể mà có được duyên dựa, thì theo “Luận Quán sở duyên”: Không cho nên nói trên năm thức vì không có tướng giống như vật thể cực vi cho nên không phải là pháp được duyên của tâm vô lậu. Như vậy, tướng cảnh đồng với tâm vô lậu, khi chủng tử vô lậu phát sinh tác dụng, dù có giống như pháp hữu lậu đi nữa nhưng không phải là hữu lậu. Như tâm hữu lậu dù có giống với tướng vô lậu nhưng không phải là vô lậu.
Cho nên dừng sự bàn luận rộng. Sự phân biệt như vậy chỉ căn cứ theo đạo lý và ngôn thuyết của thế tục, chứ không phải căn cứ trên nghĩa thù thắng (nghĩa chân lý thứ nhất). Nếu căn cứ theo thắng nghĩa thì xa lìa mọi nói năng, dứt hết mọi suy nghĩ. Đã không có kiến phần-tướng phần thì không thể nói về tâm-tâm pháp... vì xa lìa mọi hý luận, không thể tư duy bàn luận.
Lại nữa, đã nói bốn trí tương ưng với phẩm tâm như vậy, thì có bao nhiêu tâm pháp cùng tương ưng với bốn trí? Có hai mươi mốt: Nghĩa là năm biến hành, năm biệt cảnh và mười một pháp thiện.
Đối với mọi nơi chốn thường xuyên trải khắp, Đức Như Lai luôn ưa hiểu rõ về cảnh đã được nhận biết, vì sự ham muốn không giảm. Vì thường xuyên không giảm đối với cách hiểu thù thắng nơi ấn tượng của cảnh. Từng hiểu rõ cảnh cảm nhận, và sự nhớ nghĩ không giảm, cho nên Như Lai không có tâm bất định, luôn luôn quyết định lựa chọn, vì thường tương ưng với niềm tin tưởng rất trong sạch... cho nên không nhiễm ô, không ngủ nghỉ, không hối hận (ố tác), mà chứng ngộ hiện thực, tất cả không có tầm tứ. Phẩm tâm hữu lậu hơn kém không nhất định, pháp được duyên bị ngăn ngại tương ưng với tâm pháp hoặc nhiều hay ít. Phẩm tâm vô lậu luôn tự tại không ngăn ngại, tâm pháp bình đẳng không gây chướng ngại cho nhau.
Lại nữa, đã nói bốn trí tương ưng với phẩm tâm như vậy, quả vị nào chứng đắc đầu tiên? Ở vị trí nào đang hiện hành chủng tánh vô lậu vốn có từ vô thỉ, dựa vào thức dị thục, sinh diệt nối tiếp nhau?
Sau khi phát tâm nhờ vào sự huân tập bên ngoài, tăng trưởng dần dần, trí Đại viên cảnh tương ưng với phẩm tâm, khi định Kim cang dụ hiển hiện trước mắt, chuyển biến diệt trừ tất cả chủng tử hữu lậu trong thức dị thục... Bấy giờ, mới được hiện hành tất cả chủng tử vô lậu của quả vị Phật đầu tiên, nương tựa viên mãn, tận cùng thời gian vị lai, thường xuyên không gián đoạn cho nên trí Bình đẳng tánh tương ưng với phẩm tâm.
Bồ-tát địa thứ nhất, lúc mới quán sát hiện thực lần đầu, mới khởi sự hiện hành. Từ đó trở đi, trong các địa về sau, tu tập khiến tăng trưởng, thanh tịnh viên mãn. Khi quán sát vô lậu... đã hiển hiện trước mắt thì luôn luôn hiện hành. Nếu khi tâm hữu lậu hiện tiền, thì lập tức gián đoạn. Cứ lần lượt như vậy, cho đến mười địa. Khi tâm sau cuối từ đó về sau đến, tận cùng thời gian vị lai, thường xuyên không gián đoạn.
Như thức A-lại-da ở vị trí hữu lậu luôn cùng khởi hiện với toàn bộ thức Mạt na.
Trí Đại viên cảnh trong vị trí vô lậu, cũng thường xuyên khởi hiện cùng một lúc với trí Bình đẳng tánh, cho nên trí Bình đẳng tánh cũng không gián đoạn.
Trí Diệu quán sát tương ưng với phẩm tâm cũng tồn tại ở địa thứ nhất. Khi mới quán sát hiện thực, lần đầu tiên mới hiện hành. Từ đó về sau tu tập dần được tăng trưởng. Nếu khi tâm hữu lậu chính thức hiện tiền, hoặc khi không có tâm, thì lập tức gián đoạn. Lần lượt như vậy cho đến quả vị Phật. Nếu nhập định diệt tận, cũng không hiện hành.
Trí Thành sở tác tương ưng với phẩm tâm. Có nghĩa; các quả vị từ địa thứ nhất trở lên đều được hiện hành, vì đã bước vào dòng pháp.
Về nghĩa như thật, thì quả vị Phật mới khởi, vì trong mười địa còn có thức dị thục đã biến đổi năm căn chứ không phải là vô lậu, có thể dựa vào năm thức, cũng không phải là vô lậu. Năm căn hữu lậu phát sinh thức vô lậu là điều chưa từng thấy. Ở trên quả vị Phật, trí này cũng không thường hiển hiện trước mắt, vì tác ý khởi hiện thường xuyên bị gián đoạn.
Bốn trí như vậy tương ưng với chủng tử của phẩm tâm, vốn có từ vô thỉ, pháp như vậy không sinh từ sự huân tập, gọi là bản tánh ở trong chủng tánh. Sau khi phát tâm nhờ vào duyên bên ngoài huân tập mà phát triển tăng dần, gọi là do tu tập mà thành chủng tánh.
Từ địa thứ nhất trở lên, tùy theo sự thích ứng mới được hiện khởi. Thường dựa vào sự huân tập ngày càng thêm tốt đẹp, cho đến khi chứng đắc định Kim cang dụ. Từ đó về sau, mặc dù thường hiện hành nhưng không còn huân tập nữa, mà lại khiến cho tăng trưởng công đức được viên mãn đến nơi không thể gia tăng. Sự duy trì chủng tử của thức thanh tịnh, đã không phải là vô ký, cho nên không thể huân tập. Do đó công đức của Phật trước và Phật sau cho là nhiều-ít đều trở thành lỗi lầm.
Bốn trí như vậy tương ưng với phẩm tâm, luôn luôn là thiện, luôn luôn thuộc về Đạo đế vô lậu. Chư Phật không có chủng tử của tất cả các pháp hữu lậu, mặc dù trong hiện tại, chư Phật còn hóa làm thân sinh tử với nghiệp phiền não... giống như Khổ đế-Tập đế, nhưng thật sự là thuộc về Đạo đế vô lậu. Vì tùy theo tướng thế tục cho nên gọi là năm uẩn, mười hai xứ và mười tám giới... nhưng thật sự không phải là thuộc về uẩn-xứ-giới, xa lìa hý luận, vì xa lìa các tướng. Năm pháp như vậy đều thông cả giả-thật, không nhờ vào nói năng-tên gọi, vì căn cảnh còn lại này đều là thật có. Nếu nhờ vào tên gọi-nói năng thì căn, cảnh còn lại ấy đều là giả có.
Vả lại, lấy Chân như của pháp giới thanh tịnh làm Thể, là thật có.
Dựa vào Chân như để kiến lập các tướng Trạch diệt..., là giả có. Các tâm-trí... các sắc xanh-vàng... là thật có. Không phóng dật..., các hình sắc dài ngắn..., là giả có. Tạm thời dừng lại sự bàn luận rộng mà nên giải thích bản văn.
Phần 4 là do trong sự quyết định lựa chọn nghĩa sai biệt, lược nói có ba phần:
1. Quyết định lựa chọn năm pháp sai biệt.
2. Quyết định lựa chọn thọ dụng hòa hợp một vị với sự-trí.
3. Bài Tụng tổng kết về tướng của pháp giới thanh tịnh đầy đủ các công đức.
Trong ba thân sai biệt và năm pháp khác nhau, mỗi loại đều có quyết trạch theo thứ tự của nó.
Kinh: “Diệu Sinh cho nên biết! Pháp giới thanh tịnh ví như hư không, dù bao trùm các sắc trong đủ loại tướng, nhưng không thể nói có đủ loại tướng, vì thể tánh của hư không chỉ là một vị. Như vậy, pháp giới thanh tịnh của Như Lai, dù trải rộng đến khắp các loại tướng tương tự của cảnh giới đã được nhận biết, nhưng không thể nói là có các loại tướng, vì thể tánh chỉ là một vị”.
Luận: Sau đây, sẽ chỉ rõ về tướng của pháp giới thanh tịnh. Giải thích vấn nạn về quyết định lựa chọn pháp giới sai biệt. Nghĩa là có người vấn nạn: Nếu các Như lai lấy pháp giới làm tánh, thì pháp giới là dụng và Chân như là Thể. Chân như tức là tướng chung của các pháp. Các pháp đã có các loại sai biệt, thì pháp giới tùy theo các pháp đó, làm sao pháp giới lại không có các loại sai biệt? Nếu pháp giới có các loại sai biệt thì làm sao thanh tịnh? Không phải là Pha-chi-ca (pha lê) với các loại nương dựa cùng tương ưng, cho nên không có các loại tướng.
Để giải thích vấn nạn này cho nên Như Lai đầu tiên đã nói dụ hư không rộng lớn.
Ví như hư không, dù bao trùm khắp các sắc trong đủ loại tướng: Tức là như hư không ở thế gian dù có trải rộng khắp tất cả sắc có hình thể trở ngại... không đồng loại trong tướng sai biệt, do sự sai biệt của các phẩm loại cho nên gọi là chủng chủng. Tự thể của chúng đều tập trung ở phần trên như giác tuệ... và hiển hiện rõ ràng cho nên gọi là Tướng, tức là hành tướng. Nhưng không thể nói là có đủ loại tướng: Tức là như hư không ấy không thể nêu bày là có đủ loại sắc tướng với hình thể trở ngại.
Do hư không này với thể tánh của nó tự nhiên như vậy thì không cho nên nói, cho nên gọi là không thể nêu bày, hoặc không có khả năng diễn tả cho nên gọi là không thể nói. Nghĩa là, vì tính chất của hư không ấy là như vậy, không thể nói là có các loại có thể biểu thị cho các sắc tướng, cũng không thể nói là có các loại đã được biểu thị cho các sắc tướng. Nhưng thấy hư không có các loại tướng, và có thể nói là có các loại tướng, tức là thấy các loại sắc tướng trong hư không ấy chứ không phải là thấy hư không. Cũng tạm thời nói là có các loại sắc tướng như xanh-vàng... hoặc dàingắn..., đều không phải thật có. Không phải giả nói là có thì có thật sự. Vì sao hiện bày khắp trong hết thảy các sắc?
Không có các loại tướng, vì tự Thể chỉ có một vị. Không phải như hư không này, do tương ưng với các loại sắc tướng cho nên thành các loại tướng. Không bỏ tự tánh vì Thể chỉ có một vị, không chướng ngại, không có tướng khác biệt.
Như vậy, pháp giới thanh tịnh của Như Lai, như hư không của thế gian là có Thể tánh hay không có Thể tánh? Mặc dù tất cả hình sắc có ngăn ngại được bao trùm trong hư không, nhưng vẫn không tùy thuộc để trở thành các hình thể, trở ngại sai biệt. Cũng không thể nói là hư không có các sắc tướng. Tuy cũng nói là có, nhưng chỉ là giả có, chứ không phải là thật có. Do hư không ấy không bỏ tự tướng của nó để nhận lấy tướng nào khác. Như tuy giả nói là hư không, nhưng tánh của hư không thật ra không thể nêu bày.
Pháp giới thanh tịnh cũng lại như vậy, chân không giữa chân không, nhưng tánh của chân không thật sự thì không thể nêu bày. Vì như trước đây đã nói, hư không ấy vốn tương ưng với các loại nương tựa như Pha-chi-ca (pha lê).
Pháp giới phải có các loại riêng biệt, thì có sai lầm vì không nhất định. Hiện thấy hư không, tuy tương ưng với các loại sắc tướng, nhưng không có các loại sắc tướng như khói-sương mù... cùng tương ưng với hư không, có lúc trông thấy khoảng không gian có các loại tướng, do sức phân biệt hư vọng của mình, chỉ trông thấy có các loại tướng như khói... chứ không phải trông thấy hư không, vì lẽ tánh của hư không thì không thể trông thấy.
Như vậy, do sức tăng thêm cho ý thức phân biệt hư vọng, cho nên chỉ trông thấy có các loại tướng của sắc, chứ không phải là pháp giới thanh tịnh.
Trong pháp giới thanh tịnh dù không có các loại cảnh giới chân thật của giáo pháp, ngôn thuyết, nhưng vẫn có các loại chuyển biến của tướng sai biệt giữa giáo pháp và các cảnh giới, chứ không phải do pháp giới kia có các loại tướng, cũng khiến cho pháp giới có các loại tướng.
Do pháp giới thanh tịnh vốn tách rời danh từlời nói. Tất cả danh-ngôn đều dùng sự phân biệt đã được dấy khởi làm cảnh. Nhưng các giáo pháp cũng không vô ích, mà là nhân tố lần lượt sẽ được chứng ngộ pháp giới. Như thấy chữ viết thì hiểu nghĩa đã nói. Vì giáo pháp này là tâm Đại Bi của các Như Lai đã tuôn chảy, có thể lần lượt giảng nói với nghĩa xa lìa mọi ngôn thuyết. Như dùng nhiều màu sắc mà vẽ vào trong khoảng hư không là điều rất hy hữu. Nếu dùng ngôn thuyết để nói về nghĩa xa lìa mọi ngôn thuyết, thì lại vượt quá ví dụ kia. Như nói về biển tuệ.
Ví như có người dùng các loại màu sắc rực rỡ để vẽ vào hư không là nơi không sắc, không thấy, không đối, không biểu thị, như vẽ bức tường thì thật là chuyện hiếm có.
Chư Phật Thế Tôn đã chứng đắc pháp hết sức thâm diệu xa lìa mọi ngôn thuyết, mà có thể dùng ngôn thuyết vì các hữu tình chúng sinh để, khai thị giảng nói, lại còn khó hơn dụ vừa nêu trên.
Nói rộng ra như vậy. Lại nữa, pháp giới dùng Pha-chi-ca (pha lê) làm tánh cũng là thanh tịnh, không phải là dụ cùng pháp, vì nghĩa của chỗ lập nhân nếu chỉ tùy theo một thì không thành, hoặc cả hai cũng không thành.
Kinh: “Lại nữa, như hư không dù trải rộng khắp các sắc chứ không rời bỏ nhau, nhưng không bị sắc làm cho ô nhiễm. Như vậy, pháp giới thanh tịnh của Như Lai, dù trải rộng khắp tâm tánh của tất cả chúng sinh, chính vì sự chân thật mà không rời bỏ nhau, nhưng vẫn không bị lỗi lầm của chúng sinh làm cho ô nhiễm”.
Luận: Lại có người nêu vấn nạn: Nếu pháp giới thanh tịnh trải rộng trong tất cả cảnh giới đã được nhận biết thì cũng cùng với các thứ phiền não cấu uế như tham... tương ưng, tại sao không biết các phẩm tâm-tâm pháp hữu lậu khác trở thành không thanh tịnh?
Giải thích vấn nạn này, Đức Như Lai đưa ra thí dụ về hư không lớn thứ hai. Lại nữa, như hư không dù trải rộng khắp các sắc chứ không rời bỏ nhau: Tức là không có xứ riêng, cho nên gọi là không rời bỏ nhau.
Vì hư không trải rộng và chuyển động ở nội tại, không trông thấy biểu hiện bên ngoài. Đã chuyển động ở bên trong, không biểu hiện ra bên ngoài thì không thể nhất định nói là một hay là khác. Nếu hư không có xứ riêng thì hư không ấy phải có hình tướng trở ngại, phải là vô thường, nhưng nó không bị nhiễm ô do lỗi lầm của các sắc. Như hư không to lớn kia dù trải rộng khắp tất cả hình sắc có tính chất ngăn ngại, nhưng nó vẫn không bị ô nhiễm do lỗi lầm của sắc.
Lỗi lầm của sắc; là nhân làm sinh trưởng các thứ tham lam-giận dữ..., chứ không phải do những tướng dị biệt như xanh-vàng...
Lại nữa, hết thảy các thứ mây-sương mù-màu sắc hình ảnh hiện có trong hư không, có thể làm cho nó buông bỏ tướng thanh tịnh, và có thể gây chướng ngại cho sự phát sinh cái thấy trong lành về hư không, cho nên gọi là lỗi lầm của sắc.
Lại nữa, hình tướng của cảnh giới gia tăng trên tâm đó gọi là lỗi lầm của sắc. Vì tùy theo ý của chúng sinh cho nên Như Lai mới nói như trước, chứ không phải hư không bị ô nhiễm do lỗi lầm của các sắc kia, vì tự tánh của hư không vốn thanh tịnh.
Như vậy, pháp giới thanh tịnh của Như Lai dù trải rộng khắp trong tâm tánh của tất cả chúng sinh, do chân thật mà không rời bỏ nhau: Như tự tâm của Phật là thanh tịnh chân thật, là bản tánh sáng sạch, bản tánh thanh tịnh, cho nên tâm tánh của hết thảy chúng sinh cũng vậy, là bản tánh Chân thật, bản tánh thanh tịnh. Bản tánh của tâm, tức là Chân như. Tâm của tất cả chúng sinh đều có tánh bình đẳng. Như nói: Do đâu mà nói là tâm bình đẳng? Do tánh Không, cho nên nói là tâm bình đẳng. Nói rộng như vậy, thì bản tánh của tâm, tức là pháp tánh của tâm luôn trùm khắp trong tâm tánh của tất cả chúng sinh. Vì vậy cho nên gọi là tánh bình đẳng của tâm.
Vì biện giải về pháp tánh của tâm như vậy cho nên nói do chân thật mà không rời bỏ nhau, vì tâm tánh của hữu tình ấy vốn là thanh tịnh. Dù bản tánh thanh tịnh, nhưng do khách trần hiện có gây nhiều trở ngại uế tạp cho nên phải xa rời nó, an lập trong chân tâm thanh tịnh của Như Lai.
Lại nữa, tánh bình đẳng trong tâm của các hữu tình, chính là sự chân thật thuộc về tự tánh Viên thành thật. Do tướng chân thật của tánh bình đẳng trong tâm của các hữu tình, biểu thị bằng sự không rời bỏ, vì tâm của các chúng sinh lại là tướng chân thật của tâm tánh, biểu thị bằng sự không rời bỏ. Vì tâm tánh của tất cả hữu tình mà chuyển biến. Đại ý nói: Vì chuyển biến cùng khắp cho nên không rời bỏ nhau. Nhưng nói tánh không bị ô nhiễm vì lỗi lầm của sắc kia là vì bản tánh vốn thanh tịnh.
Lỗi lầm tức là tham... có thể khiến cho tướng của tâm trở thành lỗi lầm, trở thành cấu nhiễm. Mặc dù bị khách trần phân biệt chuyển biến, nhưng chúng không phải là bản thể của tâm, cho nên không thể hoàn toàn rời bỏ, lại có thể khiến cho tâm được thanh tịnh.
Dựa vào mật ý này để nêu bày như vậy. Tâm này là bản tánh thanh tịnh-sáng sạch, là pháp tánh của tâm cho nên gọi là tâm, chẳng phải là lìa pháp tánh của tâm mà có tâm thanh tịnh của tánh khác. Vậy tại sao tâm của hữu tình có tham...? Vì sức mạnh phân biệt của tự mình mà giữ lấy cho nên tâm điên đảo của hữu tình chưa vĩnh viễn đoạn trừ. Đây là vì sức mạnh của vô minh đã khởi hiện. Nghĩa này ý nói: Ví như bản tánh của hư không tuy trong sạch, nhưng người đang bị đau mắt sẽ nhìn thấy mọi hình sắc lộn ngược, cho nên thấy hư không đã bị cấu nhiễm. Như vậy, bản tánh của pháp giới dù trong sạch, nhưng do tự phân biệt cho nên đã phát sinh năng lực của các nhân duyên như tham... Màng mắt bệnh vô minh gây tổn hại cho mắt tuệ, cho nên mắt nhìn lộn ngược với mọi hình tướng mà trông thấy pháp giới như là không thanh tịnh. Nếu mắt tuệ của bậc Nhất thiết chủng trí thanh tịnh thì vĩnh viễn không thấy cấu uế.
Lại nữa, pháp giới thanh tịnh nếu không sai biệt, thì Nhất thiết chủng trí thanh tịnh được gọi là Pháp thân của tất cả Như Lai, cũng gọi là Thể tánh chân thật của Như Lai, vì thường còn không thay đổi trong tất cả thời gian.
Do pháp giới này cho nên tâm của tất cả hữu tình bình đẳng hiện hữu trong sự tương tục. Do đó nói như vậy: “Tất cả hữu tình là Như Lai tạng. Tất cả hữu tình đều có Phật tánh”. Vì muốn dẫn dắt những hữu tình có chủng tánh không nhất định khiến cho tâm quyết định hướng về Đại thừa.
Đến với các hữu tình có chủng tánh Như Lai, thì nói như vậy: “Tất cả hữu tình đều sẽ làm Phật”. Như có chỗ nói: “Tất cả vô thường, tất cả đều khổ”. Như vậy đều là nói một phần ít trong tất cả, chứ không phải là nói toàn phần trong tất cả. Nếu không như vậy thì trái với điều đã giảng nói về năm loại chủng tánh. Nếu cho công đức của chư Phật sẽ có nơi cùng tận, vì không có ai được hóa độ, thì trái với chỗ đã nêu giảng: “Công đức của Như Lai là thường còn, không dứt hết, chẳng phải là vô ích, vì thường trú ở thế gian, vì bản nguyện độ sinh, muốn cho chúng sinh đều mong cầu quả vị Phật”.
Pháp giới thanh tịnh này dù trải rộng khắp tất cả, bình đẳng đều có, nhưng do sức chướng ngại của mình đã giữ lấy, như người mù bẩm sinh ở thế gian, không thấy được mặt trời, mặt trăng. Như có tụng nói:
Tội chúng sinh không hiện,
Như trăng trong chậu bể,
Đầy khắp các thế gian,
Pháp sáng như mặt trời.
Vì đạo lý này, như trước đã nói, cũng là vì tương ưng với các phiền não cấu uế như tham... như phẩm tâm-tâm pháp hữu lậu khác, mà pháp giới thanh tịnh sẽ trở thành không thanh tịnh: Tức là có lỗi lầm không quyết định. Dù tương ưng với chỗ cấu uế của sắc, nhưng hư không vẫn không phải là không trong sạch. Dù tương ưng với các phiền não như tham... nhưng lại dùng pháp giới thanh tịnh làm tánh, cho nên các phẩm tâm-tâm pháp không phải là không thanh tịnh. Đây không phải là dụ đồng pháp. Như nói ý ưa thích điều không thanh tịnh, vì thấy tâm mình không thanh tịnh, từ đó cũng nói pháp giới không thanh tịnh, vì tướng thanh tịnh không hiển hiện.
Y ưa thích thanh tịnh; tuy thấy tương ưng với các cấu uế như tham..., nhưng bản tánh của tâm là thanh tịnh, không cấu nhiễm, cho nên thấy pháp giới thường thanh tịnh.
Nhân mà người kia đã lập, như trước thì không thành, vì pháp giới này trải rộng khắp tất cả. Ví như hư không, các lỗi của các hữu tình không thể làm cho cấu nhiễm. Đây là nói pháp giới trải rộng tất cả, là chấp lấy pháp Không mà cho đều là có, không cần phải thành lập.
Kinh: “Lại như hư không hàm chứa tất cả nghiệp của thân-miệng-ý, nhưng hư không ấy không có tạo tác. Như vậy, pháp giới thanh tịnh của Như Lai hàm chứa Nhất thiết trí với những sự biến hóa làm lợi ích cho chúng sinh, nhưng pháp giới thanh tịnh không có khởi tạo”.
Luận: Có người nêu vấn nạn: Nếu pháp giới thanh tịnh của Như Lai lấy Chân như làm Thể, thì không hý luận, cũng không khởi hiện tạo ra, vì sao có thể dung nạp nhân duyên phát sinh trí để làm lợi ích cho hữu tình? Nếu dung nạp trí phát sinh thì có khởi tạo, tại sao nói Như Lai lấy Chân như làm tướng?
Để giải thích vấn nạn này, Đức Như Lai nói dụ về hư không lớn thứ ba: Lại như hư không hàm chứa tất cả nghiệp của thân-ngữ-ý: Như hư không rộng lớn, dù không tác ý mà vẫn có thể tiếp nhận dung nạp ba nghiệp của hữu tình. Hai nghiệp thânngữ vì có hình tướng ngăn ngại, có thể cần sự tiếp nhận dung nạp. Còn ý nghiệp thì thế nào? Không có hình chất, không có đối ngại, tại sao vẫn cần hư không tiếp nhận dung nạp? Chính vì sự việc này, cho nên gọi là tiếp nhận dung nạp. Nghĩa là khi chúng phát sinh thì không bị chướng ngại. Vật có đối ngại cũng do lúc phát sinh không có chướng ngại, cho nên gọi là chỗ dung nạp tiếp nhận của hư không. Pháp này cũng như vậy, khi sinh thì không bị chướng ngại mà được sinh, cho nên cũng được gọi là hư không dung nạp hàm chứa. Lại nữa, vật có đối, lúc không bị đối ngại, có thể dung nạp các vật khác được qua lại.
Dựa vào pháp này cho nên trên đây đã giả lập về hư không. Nghiệp của ý cũng vậy, khi sắp diệt thì tiếp nhận dung nạp vật khác khiến cho được sinh khởi. Vì sao không được? Vì dựa vào pháp ấy cho nên trên đây giả lập về hư không. Nếu khác với pháp này mà thật có hư không bao trùm khắp tất cả nơi chốn thì làm sao tiếp nhận dung nạp?
Nếu thể của hư không là thật có cho nên không chướng ngại, thì pháp khác được sinh gọi là tiếp nhận dung nạp; tức là tất cả pháp không có sắc mà thật có Thể đều không chướng ngại, đều có thể tiếp nhận dung nạp, cho nên gọi là hư không.
Có nơi khác nói: Vì không có sắc cho nên gọi là hư không; là căn cứ vào tướng thô cả thế gian đều biết mà nói. Vì vậy hư không tiếp nhận dung nạp cả ba nghiệp cũng không có lỗi lầm.
Nhưng hư không này không có khởi tạo. Nghĩa là không phải hư không này phân biệt như vậy: “Mình tiếp nhận, dung nạp vật này chứ không tiếp nhận dung nạp vật kia”. Tuy không tác ý mà có thể tiếp nhận dung nạp.
Mặt trời, mặt trăng, ngọn đèn... với mọi ánh sáng hiện có cũng lại như vậy. Tuy không tác ý phân biệt kia đây, nhưng pháp như vậy khi phát sinh thì có thể soi chiếu các sắc. Ngọc báu Như ý cũng lại như vậy, dù không tác ý mà có thể đáp ứng thỏa mãn ý nguyện của chúng sinh. Các thí dụ khác cũng vậy. Lại nêu chỗ giống với hư không để làm sáng tỏ tất cả.
Như vậy, pháp giới thanh tịnh của Như Lai hàm chứa mọi biến hóa của Nhất thiết trí làm lợi ích cho chúng sinh. Nghĩa là pháp giới thanh tịnh của các Như Lai theo tánh mà an trú, không có tác ý, an lập tất cả việc làm lợi ích cho chúng sinh.
Nhất thiết trí, là trí Đại viên cảnh...
Tất cả sự biến hóa là, thân-miệng-ý biến hóa. Tất cả việc làm lợi ích cho chúng sinh, nghĩa là có thể hoàn thành việc lợi lạc thù thắng cho tất cả hữu tình.
Pháp giới thanh tịnh đều có thể hàm chứa, tức là khi pháp kia sinh khởi thì pháp giới làm nhân hỗ trợ.
Pháp giới thanh tịnh không có khởi tác; tác ý gọi là khởi, có thể khiến cho tâm của hữu tình rời bỏ cảnh giới khác hướng đến duyên khác.
Tâm động gọi là tác. Tâm suy nghĩ-dao động có hành được tạo tác, nghĩa là pháp giới thanh tịnh dù không có tác ý, nhưng tâm suy nghĩ-dao động thì vẫn có thể tiếp nhận dung nạp các loại biến hóa của trí làm lợi ích cho hữu tình.
Lại nữa, tiếp nhận dung nạp sự biến hóa của Nhất thiết trí làm lợi ích cho chúng sinh, nghĩa là pháp giới thanh tịnh tiếp nhận dung nạp tất cả hai thân Thọ dụng, Biến hóa, vì sự tạo ra nhân làm lợi ích cho hữu tình là không cùng tận, rất rộng lớn, không đối lập-ngăn ngại. Dù không phân biệt nhưng do sức tăng thượng cho nên có khả năng phát sinh việc lợi ích.
Nghĩa tổng quát này nói: “Như hư không bình đẳng dung nạp mọi chuyển biến, tác dụng của sắc khi phát sinh... tuy không có ngã và ngã sở tác ý phân biệt, hý luận, nhưng do diệu lực của pháp như vậy đã tạo ra tất cả tác dụng sai biệt rộng khắp.”
Như vậy Đức Như Lai an trú trong cảnh giới vô lậu, dù không có tất cả những thứ phân biệt-tác ý-hý luận của ngã và ngã sở... nhưng do trước đây Như Lai đã tu tập thệ nguyện với diệu lực vĩ đại cho nên có khả năng phát khởi mọi biến hóa của Nhất thiết trí làm lợi ích cho chúng sinh.
Như vậy, Như Lai đã an trú trong Pháp thân khó tư duy bậc nhất. Do diệu lực của thệ nguyện trước kia đã giữ vững cho nên tất cả tướng tốt, công đức trang nghiêm, tận cùng giới hạn của sinh tử, số lượng đời kiếp nối tiếp nhau, tuy không phân biệt nhưng làm mọi việc lợi ích cho chúng sinh nhờ sự biến hóa của Nhất thiết trí.
Đức Như Lai dù không phân biệt như vậy này: Đối với sự nghiệp như vậy, như vậy, Ta sẽ làm hay không làm. Nhưng với diệu lực của bản nguyện, cho nên có thể hành hóa hết thảy. Như trước kia đã phát nguyện, hoặc đi vào giấc ngủ, hoặc nhập định diệt tận, tuy không tác ý, nhưng vẫn tùy thuận chúng sinh cần được giác ngộ mà xuất định.
Như kinh Hải Tuệ, Đức Phật đã nói: “Như các Bí-sô phải chờ nghe được tiếng chuông mà nhập định diệt tận, không nghe tiếng chuông cũng không phân biệt, do diệu lực của sự mong cầu mà xuất định đúng giờ”. Nói rộng như vậy.
Kinh: “Lại như các loại sắc tướng đang sinhđang diệt trong hư không, nhưng hư không này không sinh không diệt.
Như vậy, việc làm lợi ích cho chúng sinh do các trí biến hóa trong pháp giới thanh tịnh của Như Lai đang sinh, đang diệt, nhưng pháp giới thanh tịnh thì không sinh-không diệt”.
Luận: Lại có vấn nạn: Nếu pháp giới thanh tịnh trải khắp trong cảnh giới đã được nhận biết, không rời bỏ nhau, luôn luôn tùy thuận chuyển biến, vậy thì pháp giới phải có sinh-diệt. Nếu không sinh diệt thì không phải là trải khắp cảnh giới đã được nhận biết, không rời bỏ nhau, luôn luôn tùy thuận chuyển biến.
Để giải thích vấn nạn đó, Đức Như Lai đưa ra thí dụ về hư không rộng lớn thứ tư. Lại như vô số các sắc tướng đang sinh-đang diệt trong hư không...”. Nghĩa này ý nói: Như hư không rộng lớn trải khắp các sắc, tiếp nhận dung nạp sắc tướng, không rời bỏ nhau, luôn luôn tùy thuận chuyển biến. Mặc dù các sắc lại đang sinh-đang diệt, nhưng tánh của hư không thì không sinhkhông diệt. Như vậy, pháp giới thanh tịnh của Như Lai trải rộng khắp tất cả cảnh, tiếp nhận dung nạp Nhất thiết trí đã biến hóa các việc làm lợi ích cho chúng sinh-không rời bỏ nhau, luôn luôn tùy thuận chuyển biến. Trí tuy có đang sinh, đang diệt, nhưng pháp giới thanh tịnh thì không sinh-không diệt.
Căn cứ vào mật ý này của Như Lai, trong Khế kinh đã nói: “Này Mạn-thù-thất-lợi! Vì không sinh-không diệt, cho nên gọi là Như Lai” cho đến nói rộng.
Căn cứ vào Thắng nghĩa đế: “Các pháp như sắc... cũng không sinh-diệt”.
Căn cứ vào Thế tục đế: “Thi thiết sinh-diệt cho nên nói là đang”. Ý này nói: Căn cứ vào tướng thế tục thì hiện có sinh-diệt, chứ không phải là thể tánh của Thắng nghĩa thật có sinh-diệt. Các trí biến hóa làm lợi ích cho chúng sinh trong pháp giới thanh tịnh, cũng lại như vậy”.
Kinh: “Lại như loại sắc tướng trong hư không đang thêm, đang bớt, nhưng hư không ấy thì không thêm-không bớt.
Như vậy, trong pháp giới thanh tịnh của Như Lai, chỉ rõ Thánh giáo cam lộ của Như Lai có tăngcó giảm, nhưng pháp giới thanh tịnh ấy thì không tăng, không giảm”.
Luận: Lại có vấn nạn: Nếu pháp giới thanh tịnh trải rộng khắp tất cả mà không rời bỏ nhau, Thánh giáo của Như Lai, nhận thấy trong hiện tại có tăng, về sau sẽ giảm và tiêu mất. Pháp giới đồng với Thánh giáo kia, thì phải có tăng-giảm. Nếu vậy thì pháp giới không phải là thanh tịnh? Để giải thích vấn nạn này, cho nên Đức Như Lai nói thí dụ về hư không rộng lớn thứ năm.
Lại như các loại thứ sắc tướng trong hư không đang thêm-đang bớt... Tức là đối với những giáo phái hơn kém của các ngoại đạo trong tất cả thế gian thì Thánh giáo của Như Lai là chân thật thù thắng và thanh tịnh hơn hết, cũng như đề hồ, cũng như cam lộ, giúp chúng sinh chứng ngộ Niết-bàn, vĩnh viễn không còn sinh tử.
Thánh giáo như vậy, nếu vâng mạng thực hành thì chứng đắc quả vị Thánh và quả vị Vô học đã có với đa số người cách nay cả ngàn năm về trước. Nói chánh pháp của Phật chỉ trải qua ngàn năm, chứ không phải giáo pháp chỉ tồn tại ở thế gian có ngàn năm.
Vả lại, Tạng Thanh văn thì có chia ra nhiều bộ ngay sau khi Phật nhập diệt một trăm năm, trong khi đó hàng ngàn năm về trước, Tạng Bồ-tát vẫn một vị thanh tịnh, không hề có sự tranh cãi sai trái. Mãi đến một ngàn năm về sau mới khởi lên hai loại dị luận có-không. (Không-Hữu).
Vì vậy nói chánh pháp của Như Lai chỉ trải qua ngàn năm, mà pháp giới thanh tịnh không tăngkhông giảm, thì có nghĩa là: Thánh giáo của Như Lai, căn cứ vào đạo lý thế tục thì có tăng-giảm, chứ không phải dựa vào nghĩa thù thắng lấy pháp giới làm tánh thì không tăng, không giảm.
Sắc... cũng lấy pháp giới làm tánh, cho nên không tăng-không giảm. Dựa theo lý Thắng nghĩa thì chúng cũng như hư không với tướng không tăng-không giảm.
Vì vậy, cho nên nói là đang, tức là dựa vào thức... của thế tục với những biến hiện dường như có tăng-giảm, chứ không phải căn cứ trong pháp giới thanh tịnh của chân tánh, vì ở đó các pháp như sắc... đều xa lìa tướng phân biệt-hý luận. Kinh: “Lại như các sắc tướng vô biên, vô tận khắp cả mười phương trong hư không, là cảnh giới vô biên, vô tận của hư không, nhưng hư không này thì không đi-không đến-không động-không chuyển.
Như vậy, trong pháp giới thanh tịnh của Như Lai, đã kiến lập các loại tác dụng vô biên vô tận để đem lại lợi ích yên vui cho tất cả chúng sinh khắp mười phương, là pháp giới thanh tịnh vô biên, vô tận, nhưng pháp giới thanh tịnh ấy không đi-không đến-không động-không chuyển”.
Luận: Lại có vấn nạn: Nếu các Như Lai lấy pháp giới làm Thể, Như Lai ban cho tất cả hữu tình những lợi ích yên vui, thì phải hoặc đi hoặc đến, vì pháp giới và Như Lai vốn không cách ly nhau. Như đối với các pháp khác phải có đi-đến, phải có sinh... Nếu thế thì pháp giới của Như Lai không phải là thanh tịnh. Nếu Pháp giới không có các sự việc đi-đến... thì không thể nói là ban lợi ích, yên vui cho các hữu tình trong khắp mười phương.
Để giải thích vấn nạn này, Đức Như Lai nói thí dụ về hư không rộng lớn thứ sáu.
Lại như các sắc tướng vô biên, vô tận khắp mười phương trong hư không: Như cảnh giới của hư không là vô biên vô tận, thì mười phương thế giới cũng vô biên vô tận, do đó, các loại sắc tướng trong ấy cũng vô biên vô tận, không có một phương nào có giới hạn, không có các phương nào cùng tận, thời-xứ đều thành tựu, cho nên gọi là vô biên vô tận.
Nhưng hư không này thì không đi-không đến, không động-không chuyển: Nghĩa là hư không rộng lớn bao hàm tất cả, trùm khắp tất cả, đều không có tác dụng.
Như vậy, trong pháp giới thanh tịnh của Như Lai đã kiến lập các loại… cho tất cả chúng sinh... khắp mười phương: Tức Tác dụng đem lại lợi ích yên vui cho chúng sinh là vô biên vô tận. Nghĩa như trước đã nói. Pháp giới thanh tịnh vô biên, vô tận, bởi vì pháp giới thanh tịnh là vô biên vô tận, tuy không có hành động nhưng với diệu lực tăng thượng, cho nên có thể chuyển biến làm việc lợi ích yên vui cho vô lượng hữu tình khắp mười phương trong vô biên thế giới. Nhưng pháp giới thanh tịnh ấy không đi-không đến: Bỏ chốn này đến nơi khác, gọi là đi. Bỏ chỗ kia đến nơi này, gọi là đến. Không động là không chuyển.
Đầu tiên là nêu lên, sau mới giải thích.
Pháp giới không, là không có biên giới, không có hình tướng, chướng ngại. Nếu pháp giới có biên giới, hình tướng và chướng ngại, thì các pháp có thể nói là có phương khác, có đi-đến, có hành động chuyển biến chứ không phải là không biên giới, không hình tướng và chướng ngại.
Pháp giới như hư không... thì có thể nói là tạo nghiệp đi-đến, hành động-chuyển biến.
Theo nghĩa tổng quát này nói: Pháp giới thanh tịnh là tự Thể trong nghĩa thù thắng của Như Lai. Pháp giới bao trùm khắp trong sự nối tiếp nhau của tất cả hữu tình, vì các hữu tình kia có năng lực tự thành tựu đầy đủ các chủng tử thiện nhờ duyên lực tăng thượng của pháp giới thanh tịnh, cho nên khi thức của hữu tình kia phát sinh, thì tác dụng như vậy sẽ được biến hiện mà chuyển, cho nên nói là Như Lai đã mang lại lợi ích an vui cho mọi chúng sinh. Nếu loại trừ tác dụng và duyên lực tăng thượng ấy, thì lại không có Pháp thân nào của Như Lai có thể tạo ra được các sự việc lợi ích an lạc cho chúng sinh. Như Khế Kinh: Như Lai đều không có các việc đi-đến... Nhưng nói Như Lai có đi-đến... là căn cứ vào thân thọ dụng và thân biến hóa, cho nên không có lỗi mâu thuẫn.
Kinh: “Lại như ba ngàn thế giới trong hư không, đang hoại-đang thành, nhưng cõi hư không thì không hoại-không thành. Như vậy, trong pháp giới thanh tịnh của Như Lai, Như Lai đã hiện bày vô lượng tướng thành tựu Đẳng chánh giác cũng hoặc lại thị hiện nhập đại Niết-bàn, nhưng pháp giới thanh tịnh thì không thành tựu ngôi vị Đẳng chánh giác cũng không nhập tịch diệt”.
Luận: Lại có vấn nạn: Nếu pháp giới thanh tịnh xa lìa sự đi-đến... thì vì sao không có phương sở đi-đến mà có thể thành tựu chánh giác, nhập Niết-bàn.... Nếu có đi-đến thì trở lại vấp phải lỗi trước?
Để giải thích vấn nạn này, Đức Như Lai lại nói thí dụ về hư không rộng lớn thứ bảy. Lại như ba ngàn thế giới trong hư không... Lời vấn nạn này không hợp. Ví như vậy giới đang hoại-đang thành, nhưng cõi hư không thì không thành-không hoại. Trong pháp giới thanh tịnh tuy có chư Phật thì hiện thành chánh giác-nhập Niết-bàn... nhưng pháp giới thanh tịnh, chân thật không có sự kiện thành tựu Đẳng chánh giác và nhập Niết-bàn.... Nếu có sự việc này, thì có thể nói là vì vậy mà có đi-đến... như trong hư không hiện bày các thế giới sinhthành-hoại diệt-là căn cứ theo lý của thế tục chứ không phải là căn cứ vào nghĩa chân thật, vì như hư không kia đều là tánh Không.
Như vậy, pháp giới thanh tịnh của Như Lai hiện bày vô lượng tướng thành tựu Đẳng chánh giác, hoặc nhập Niết-bàn, cũng dựa vào chân lý thế tục, chứ không phải theo nghĩa chân thật.
Thành chánh giác và nhập Niết-bàn đều không có, vì các uẩn là duyên sinh chứ không phải là tánh của ngã. Nếu pháp giới thanh tịnh căn cứ vào nghĩa chân thật, có hai sự kiện này thì không phải là chân thật. Vì pháp chân thật không buông bỏ tự tướng để nhận lấy tướng khác.
Nếu thừa nhận pháp giới buông bỏ cái không phải là chánh giác mà thành Đẳng chánh giác, buông bỏ cái không phải là Niết-bàn mà được nhập Niết-bàn, thì không phải là chân thật.
Nếu có ý cho: Chính vì nghĩa ấy mà gọi là chân thật, thì Đẳng chánh giác lúc nào cũng có thành Đẳng chánh giác, thì nhập Niết-bàn lúc nào cũng có nhập Niết-bàn, do đó phải là chân thật.
Nếu vậy, thì những sự kiện khác cũng như vậy, nghĩa là kiếp hoại thì luôn luôn hoại chứ không có lúc nào không hoại, kiếp thành thì luôn luôn thành chứ không có lúc nào không thành, cũng như cái bình thì không có lúc nào không phải là cái bình.
Những sự kiện như vậy đều phải là chân thật. Nếu vậy thì không cần phải tu tập hành quán để vượt qua kiếp lửa cháy tràn khắp thế giới này sang thế giới khác mà khởi bị chết cháy trong biển lửa đó. Như vậy, người đạt được diệu lực của Thắng giải tăng thượng ở trong quả vị của mình sẽ không có tác dụng chuyển biến tự tại.
Không phải là người chứng được định thù thắng, với diệu lực tự tại, thì hiện Đẳng chánh giác mà chẳng phải là Đẳng chánh giác, hiện Bát Niếtbàn mà không phải là Bát Niết-bàn. Vì vậy, tuy có trước là quả vị Đẳng chánh giác, nay là quả vị Niết-bàn, mà Chân như thanh tịnh không buông bỏ tự tướng của mình.
Pháp giới thanh tịnh, không phải là thành Đẳng chánh giác, không phải là nhập Niết-bàn, vì trong đó cả hai sự kiện này đều là tăng thêm cho tự tướng chứ không phải là có chân thật.
Tác là tác dụng, đều là tướng của biến kế sở chấp, cho nên đều không thực có. Nhưng nói tùy giác tất cả các pháp cho nên gọi là Bồ-đề, thì đây là trí không phân biệt của xuất thế gian mà thành Đẳng chánh giác. Trong này cũng nhờ duyên vào trí Chân như bằng hai loại phân biệt. Không hiện hành cho nên không phải là Đẳng chánh giác, không phải là nhập Niết-bàn, tức là dựa vào mật ý như vậy mà nói: “Thiên tử phải biết, vì tất cả pháp đều không sinh, cho nên chư Phật thị hiện sinh đều là vô đắc-vô chứng, cho đến nói rộng”.
Vì biến kế sở chấp là không thực có, mà sự phân biệt về sinh... cũng không có. Do chân lý thế tục mà thi thiết có hai, do thân biến hóa thị hiện mà có hai, tùy thuận ý nguyện của hữu tình đã được giáo hóa cho nên Đức Như Lai mới thị hiện hai việc như vậy. Tạm thời đưa ra hai sự việc tương tự để hiển bày tất cả.
Kinh: “Lại như dựa vào hư không mà các loại sắc tướng tan hoại-thiêu hủy-đổi khác, có thể phát sinh nhưng trong cõi hư không thì không phải là biến hiện ra những sự kiện đó, cũng không khó nhọc-hay hư xấu.
Như vậy, dựa vào pháp giới thanh tịnh của Như Lai, các loại học xứ, các nghiệp của thân-miệng-ý đã vi phạm trong cảnh giới của chúng sinh có thể phát sinh, nhưng pháp giới thanh tịnh không bị thay đổi khác đi vì những hành động đó, cũng không cảm thấy khó nhọc hay hư xấu”.
Luận: Lại có vấn nạn: Nếu pháp giới thanh tịnh hiện bày khắp tất cả loài hữu tình thì tại sao hữu tình lại có sự hủy phạm? Không phải là trong pháp giới có các hủy phạm, vì tánh nó là thanh tịnh. Do đó, việc chế lập học xứ cũng hóa ra vô ích, vì các hữu tình không hủy phạm. Nếu có hủy phạm thì phải có sự khó nhọc và hư xấu, sẽ đồng với Nhị thừa chứ không phải là hoàn toàn thanh tịnh.
Để giải thích vấn nạn này, Đức Như Lai đưa ra thí dụ về hư không rộng lớn thứ tám.
Lại như dựa vào hư không mà các loại sắc tướng sắc tướng tan hoại... Vấn nạn này không hợp. Như hư không, là ví như các thứ cỏ cây... dựa vào hư không. Các loại sắc tướng tan rã, đổi khác vô số... hiện bày, nhưng hư không vốn trong sạch không bị biến chuyển đổi khác vì các sự vật kia. Dù ở trong đó mà không biến hoại đổi khác, cũng không nhọc sức hay hư xấu... tức không có các thứ khổ như hoại khổ bức bách.
Như vậy dựa vào pháp giới thanh tịnh của Như Lai, trong cảnh giới của chúng sinh tuy có những hủy phạm hiện hành, nhưng pháp giới thanh tịnh không có đổi thay khác biệt, cũng không nhọc sức hay hư xấu.
Tuy có các loại hủy phạm đã hiện hành, nhưng pháp giới thanh tịnh không có biến đổi khác biệt, cũng không khó nhọc-hư xấu. Tuy trong pháp giới thanh tịnh hiện thấy hữu tình tự phân biệt nổi lên hai sự hủy phạm của ba nghiệp thân-ngữ-ý. Nghĩa là người tại gia có thể có hủy phạm, làm mọi việc bất thiện như giết hại cha mẹ... Những người xuất gia thì tùy theo những gì họ ưa thích, cũng có những hủy phạm hiện hành. Để ngăn cấm, cho nên Đức Như Lai chế lập ra các học xứ, có thể hiểu được.
Những việc trên đây về mặt thế tục đều đã có vi phạm, nhưng pháp giới thanh tịnh thì không phải bị đổi khác do những sự việc đó, vì tánh của pháp giới là không đổi khác. Cũng không nhọc sức hay hư xấu, tức là không bị bức bách. Nếu bị khổ bức bách không thể chịu đựng nổi, tức thì có khó nhọc và hư xấu. Như hàng Thanh văn... không phải là pháp giới thanh tịnh, cho nên không thể chịu đựng sự bức bách của tất cả nỗi khổ. Không cảm thấy nhọc sức và hư xấu, thì giống như hư không.
Lại nữa, các pháp như sắc... trong hư không dù có tan rã... chỉ là theo thế tục, chứ không phải là nghĩa chân thật.
Như vậy, trong pháp giới thanh tịnh của Như Lai, dù có sự hủy phạm và chế lập học xứ, cũng chỉ là giả an lập chứ không phải là thật có. Vì sao? Vì ba nghiệp thân... với tánh bất thiện... đều do thế mạnh của sự tương ưng phát sinh, được kiến lập trên giả danh, không do tự tánh, không phải là khối đá... do sự phát khởi mà có thể kiến lập được. Thân nghiệp là bất thiện... cũng thế. Do đất... hòa hợp lại mà thành tánh. Ngữ nghiệp cũng như tiếng chuông-trống..., không phải là các vô biểu nghiệp bất thiện... chỉ vì không làm thành tánh, cho nên cũng không phải là thật có.
Ý nghiệp cũng do thế mạnh của sự tương ưng mà phát sinh những hành vi bất thiện, như mọi sự tương ưng khác cũng không phải là thật có. Nhân đã không phải là thật thì quả cũng phải như vậy.
Vì vậy, nghiệp hay quả trong pháp giới, tất cả đều do sự phân biệt mà phát khởi, và do biến hiện của thức theo thế tục... mà sinh, như biến hiện ra tướng. Kiến lập như vậy đều không phải là chân thật.
Kinh: “Lại như dựa vào hư không mà mặt đất, núi lớn, ánh sáng, nước, lửa, quyến thuộc của Đế thích, cho đến mặt trời, mặt trăng, cùng tất cả các loại có thể tồn tại, nhưng cảnh giới hư không vẫn không phải là các hình tướng đó.
Như vậy, các uẩn như uẩn giới-uẩn định-uẩn tuệ-uẩn giải thoát và uẩn giải thoát tri kiến, đều dựa vào pháp giới thanh tịnh của Như Lai mà tồn tại, nhưng pháp giới thanh tịnh không phải là các hình tướng đó”.
Luận: Lại có vấn nạn: Nếu pháp giới thanh tịnh bao trùm khắp tất cả các pháp thì sẽ không có tướng uẩn vô lậu như giới... vì không rời nhau, phải như pháp giới cũng không phải là tánh uẩn?
Để giải thích vấn nạn đó, Đức Như Lai nêu thí dụ về hư không rộng lớn thứ chín.
Lại như tất cả mặt đất, núi lớn, ánh sáng, nước, lửa... đều dựa vào hư không. Vấn nạn này không đúng. Như hư không, tức là ví như mặt đất... đều dựa vào hư không mà tồn tại, chẳng phải là cùng với mặt đất tương ưng, mà hư không trở thành tánh của uẩn.
Như vậy, dựa vào pháp giới thanh tịnh của Như Lai, dù có các uẩn như giới... hiện hành, nhưng pháp giới thanh tịnh kia không phải là các uẩn như giới...
Phải biết rằng trong này giới thanh tịnh vô lậu, gọi là uẩn giới định tuệ vô lậu gọi là uẩn định-tuệ, thắng giải Vô học gọi là uẩn giải thoát, chánh kiến Vô học gọi là uẩn giải thoát trí kiến, ba loại trước là nhân, hai loại sau là quả.
Có thuyết nói: Tất cả đều là Vô học duyên với tuệ giải thoát gọi là trí kiến giải thoát. Tuệ còn lại gọi là tuệ. Có thuyết nói: Hết thảy đều chung cho học và Vô học. Quả vị Hữu học chứng đắc từng phần và Vô học viên mãn. Chư Phật và Bồ-tát đều có đủ năm loại đó.
Như vậy, dù năm uẩn dựa vào pháp giới, nhưng pháp giới thanh tịnh vẫn không đồng với các hình tướng đó và các tướng đó cũng không làm mất tự tướng của năm uẩn.
Trong này cũng cho nên nói năm thủ uẩn như giới vô lậu... vì đồng với pháp giới.
Lại nữa, nói tóm lược trong pháp giới thanh tịnh dù không có các loại công đức như giới... nhưng vẫn có pháp môn công đức của chân lý. Nhờ tăng thượng duyên của pháp môn đó mà sinh trưởng tất cả công đức hữu vi, chẳng đồng với pháp giới hư không, vì pháp môn công đức của chân lý là vô vi, không thuộc về uẩn. Dựa vào đó sinh trưởng tất cả công đức hữu vi sinh diệt là thuộc về uẩn. Không đoạn tận cho nên cũng gọi là Thường, nhưng không phải là vĩnh viễn không diệt, vì sinh chắc chắn quy về diệt, luôn luôn ghi nhớ như vậy. Do thuộc về uẩn cho nên không phải là pháp vô vi, vì có nghĩa của tác dụng duyên, lự v.v…, mà tác dụng ấy vốn là thù thắng.
Vả lại, nói pháp giới của năm uẩn, thật sự là chỗ nương dựa cho tất cả công đức của ba Thừa.
Kinh: “Lại như các loại nhân duyên lần lượt sinh khởi giữa hư không, mà ba ngàn đại thiên trong vô lượng thế giới đều quay vòng cùng khắp để tồn tại, nhưng cõi hư không vẫn không hề có sự dấy khởi tạo tác.
Như vậy, trong pháp giới thanh tịnh của Như Lai có đầy đủ vô lượng tướng, chư Phật và chúng hội đều nối tiếp hiện hành, nhưng pháp giới thanh tịnh không hề có sự dấy khởi tạo tác”.
Luận: Lại có vấn nạn: Nếu tất cả chư Phật dùng pháp giới làm Thể, thì sẽ không có sự khác nhau về thọ dụng nơi này chốn nọ, làm sao có được chúng hội không đồng? Nếu sự thọ dụng đã có sai biệt, thì làm thế nào pháp giới của chư Phật được thanh tịnh?
Để giải thích vấn nạn này, Đức Như Lai đã nói thí dụ về hư không rộng lớn thứ mười.
Lại như các loại các nhân duyên lần lượt sinh khởi giữa hư không: Vấn nạn này không đúng. Như hư không tức là các loại nhân duyên sinh khởi giữa hư không. Ba ngàn đại thiên thế giới... đều vây quanh dựa vào phong luân mà tồn tại. Hư không tuy không có phân biệt suy nghĩ về sự sai biệt của ngã sở, nhưng có khả năng dung nạp vô số những thế giới sai biệt xoay vòng, nối tiếp.
Như vậy, trong pháp giới thanh tịnh của Như Lai, tự nghiệp tăng thượng dấy khởi, vô số các tướng viên mãn đạt được Nhất thiết trí. Bồ-tát quán đảnh đồng nhất tập hội nối tiếp hiện hành, với nơi chốn sinh khởi của nhân duyên riêng biệt, không phải như nhân duyên trong chúng hội của một vị Phật. Nhân duyên thứ hai, thứ ba cũng lại như vậy. Trong Khế kinh khác cũng dựa vào đó để nói về Tịnh độ của chư Phật với vô số chủng loại có được, chúng hội của chư Phật với các loại có được, nhưng pháp giới thanh tịnh không có những thọ dụng sai biệt của ngã và ngã sở, cùng sự phân biệt tạo tác của năng thủ và sở thủ có thể phát sinh. Đây là nói theo nghĩa tổng quát: Pháp thân của Như Lai dù không có sự khác nhau do hý luận về màu sắc-cảnh tượng, nhưng thân thọ dụng và thân biến hóa, từ diệu lực của bản nguyện và sức mạnh trong việc làm thù thắng của mình, cho nên hai thân đó đã sinh khởi vô số các tướng viên mãn.
Sự sai biệt về Tịnh độ, về chúng hội của chư Phật đã tồn tại, đều là thức thanh tịnh biến hiện những sự khác nhau như vậy, không phải là có chân thật. Như Chuyển luân Thánh vương nhờ nguyện lực từ kiếp trước, đồng thời cũng vì muốn đem lại lợi ích cho các hữu tình, cho nên đã làm mọi việc thù thắng, với những thứ diệu lạc đầy đủ, vô số sự khác nhau như Ngọc nữ báu...
Chư Phật cũng như vậy, vì đem lại lợi ích cho các hữu tình, mà tạo tác hành hóa thù thắng. Đó là tự nghiệp tăng thượng sinh khởi các Tịnh độ, đầy đủ sự khác nhau về thọ dụng pháp lạc của chúng hội, chỉ khác với trước là không phân biệt.
Lại nữa, như vậy đã nói về các tướng thâm diệu, nghiệp dụng thâm diệu và xứ sở thâm diệu của pháp giới.
Tướng thâm diệu, nghĩa là xa lìa mười loại sai lầm không thanh tịnh, cho nên biết đó chính là mười tướng thanh tịnh.
Sai lầm không thanh tịnh có mười loại:
1. Sai lầm do sai biệt.
2. Sai lầm do tạp nhiễm.
3. Sai lầm do có hành.
4. Sai lầm do hữu vi.
5. Sai lầm do tăng giảm.
6. Sai lầm do hành động.
7. Sai lầm do chấp đoạn-thường.
8. Sai lầm do khó nhọc.
9. Sai lầm do tích tụ.
10. Sai lầm do thâu nhiếp tiếp nhận chúng.
Mười tướng thanh tịnh là:
1. Tướng không sai biệt.
2. Tướng không tạp nhiễm.
3. Tướng không phải là hữu hành.
4. Tướng không phải là hữu vi.
5. Tướng không có tăng giảm.
6. Tướng không hành động.
7. Tướng không chấp đoạn-thường.
8. Tướng không nhọc nhằn, hư xấu
9. Tướng không tích tụ 10. Tướng không có ngã sở.
Với thứ tự nghiệp dụng thâm diệu như vậy, cho nên biết chính là các nghiệp biến hóa.... Xứ sở thâm diệu nên biết chính là các tướng không có hành động viên mãn, tất cả chúng hội và Tịnh độ của Như Lai. Ở tất cả xứ sở đều lấy hư không làm thí dụ, là muốn nhằm làm sáng tỏ tất cả tướng thô của pháp giới đều đồng với hư không, như Khế Kinh: Cho đến tất cả các thí dụ thi thiết, dụ cho công đức của các Như Lai như giới..., tất cả đều là hủy báng các Như Lai, chỉ trừ một dụ là thí dụ về hư Không-Vô lượng công đức của Như Lai như giới... đều đồng với hư không. Cho đến nói rộng ra.
Kinh: “Lại nữa, này Bồ-tát Diệu Sinh! Trí Đại viên cảnh như mọi cảnh tượng đều hiện bóng vào tấm gương tròn. Như vậy, mọi cảnh tượng hình ảnh của các xứ-cảnh-thức, đều hiện bóng vào gương trí của Như Lai.
Chỉ lấy tấm gương tròn làm thí dụ, nên biết tấm gương tròn là biểu tượng của gương trí bình đẳng và vô cùng bình đẳng của Như Lai, cho nên, gương trí gọi là Trí viên cảnh (gương trí tròn lớn)”.
Luận: Đã kiến lập sự đoạn trừ thì phải kiến lập trí. Dựa vào đây mà nói: Lại nữa, này Bồ-tát Diệu Sinh! Trí Đại viên cảnh.... Cho nên biết ở đây, Đức Như Lai dùng gương để thí dụ là chỉ rõ trí Đại viên cảnh là nhân duyên có khả năng biến hiện, sinh ra bóng hình của mọi pháp một cách bình đẳng. Nghĩa là thức thanh tịnh thứ tám của các Đức Như Lai có khả năng biến hiện, sinh ra bóng hình của trí, cũng như tấm gương tròn vĩ đại, có khả năng phản chiếu tất cả ảnh tượng của thế gian, vì tương ưng với trí, cho nên mượn gọi là trí.
Nói các xứ, là sáu xứ bên trong, tức là mắt.... Nói các cảnh, là sáu cảnh bên ngoài, tức là sắc....
Sáu xứ bên trong và sáu cảnh giới bên ngoài này tức là mười hai xứ. Duyên vào mười hai xứ này sinh ra ba phẩm trí-tâm và tâm pháp. Vì thức làm chủ, cho nên gọi chung là các thức. Chính các thức ấy gọi là các ảnh tượng, là sự biến hiện khác biệt của các loại hành tướng. Đoạn sau của kinh này nói:
Trí Đại viên cảnh dựa vào các duyên trong bất cứ lúc nào, sinh khởi các loại ảnh tượng tướng mạo của trí. Nhiều đoạn văn đều nói như vậy, tức là có thể làm nhân tố sinh ra ảnh tượng của trí, cho nên gọi là gương trí.
Trí Bình đẳng tánh dùng sự việc duyên sinh của trí viên cảnh... làm cảnh giới.
Trí Diệu quán sát lấy tự tướng, cộng tướng của tất cả pháp làm cảnh giới.
Trí Thành sở tác, cho nên biết cũng như vậy.
Ba trí như vậy đều tương ưng với phẩm tâm. Đối với sáu xứ bên trong và sáu cảnh giới bên ngoài, tất cả pháp đã được duyên và đã được giữ lấy trên cảnh đều biến hiện, giống như tất cả tự tướng và cộng tướng với các loại ảnh tượng được hiển hiện rõ ràng.
Các ảnh tượng như vậy đều được sinh khởi từ trí Đại viên cảnh của Như Lai, vì sáng tỏ rõ ràng cho nên gọi là hiện. Ở đây chỉ là những pháp được hiển hiện do trí bình đẳng của Như Lai, vì trí bình đẳng ở quả vị của Như Lai đều là tự tánh. Khi trí bình đẳng nảy sinh, như chính mình đã có sự sai biệt về hành tướng thì đều có thể chứng biết. Chỉ có tuệ giác ngộ của Như Lai mới có thể phân tích và chỉ rõ về tướng sai biệt đó. Ngoài ra không ai có được khả năng này.
Trí Đại viên cảnh được gọi là chủ động biến hiện. Từ đây làm duyên sinh ra ảnh tượng kia, giống như gương sáng hiện ra các hình ảnh.
Lại nữa, ba sự kiện về xứ-cảnh và thức khác biệt. Xứ là sáu căn, cảnh là sáu trần, thức là sáu thức, tức là mười tám giới hiện bày các cảnh tượng. Mọi hình ảnh này đều tùy theo sự thích ứng với ba phẩm trí mà hiển hiện. Trí Diệu quán sát đều tận cùng với tánh hiện có. Như tánh hiện có đều có năng lực hiện bày. Trí cảnh của Như Lai tương ưng với thức thanh tịnh làm duyên sinh ra ảnh tượng của ba trí này, cho nên gọi là hiện, cũng chỉ có trí bình đẳng của Như Lai mà được hiện bày. Nói rộng ra, cho đến chỉ có tuệ giác của Như Lai mới phân tích và chỉ rõ về tướng đó. Còn lại như trước đã nói.
Lại nữa, mười tám giới là ảnh tượng của trí Đại viên cảnh của Như Lai tương ưng với phẩm tâm đã thể hiện rõ ràng, khi gương trí của các Như Lai phát sinh, đều có thể soi tỏ tất cả các cảnh. Các xứcảnh-thức giống như các ảnh tượng, hiển hiện rõ ràng ở trong trí này, từ gương trí này thâu nhiếp các tướng kia mà sinh khởi.
Gương trí dù không có sự phân biệt một-khác và năng thủ-sở thủ nhưng có ảnh hiện của pháp đã được nhận biết như tấm gương tròn to lớn. Lúc trì này sinh hành tướng như vậy là tự tánh. Đức Như Lai tuy không có sự phân biệt biết về một-khác và năng thủ-sở thủ nhưng có năng lực hiện chứng những gì thể hiện của tự tâm, là ảnh tượng của các pháp với tự tướng và cộng tướng. Do chứng biết cho nên có năng lực thuyết giảng không điên đảo về tự tướng và cộng tướng của tất cả các pháp. Do các ảnh tượng này cho nên Như Lai thành tựu pháp không quên mất. Hết thảy ảnh tượng của cảnh giới đã được nhận biết, đều hiển hiện rõ ràng trên gương trí trong tất cả thời gian, mà không quên mất. Nếu không như vậy, làm sao Như Lai được xưng là bậc Nhất thiết trí? Không có gương trí bình đẳng thì không thể nào chứng biết được tự tướng và cộng tướng của tất cả các pháp hiển hiện trong mọi thời gian. Nếu cho rằng do sự nối tiếp nhau mới có khả năng làm được mọi việc cho nên gọi là Nhất thiết trí, như có bài tụng:
Nối tiếp có thể làm,
Như lửa đốt hết thảy,
Như vậy Nhất thiết trí,
Không ngừng biết tất cả.
Đây chỉ là lời nói suông, bởi vì lúc tâm và trí của người khác đều giữ lấy một sự việc, thì không nhận lấy sự việc khác, không biết được những điều khác thì không phải là Nhất thiết trí. Ngay như hiện tượng nối tiếp nhau kia, cũng không có năng lực giữ lấy sự nhận biết của hiện tại.
Theo tông chỉ của ông thì một niệm chỉ nhận biết một phần tướng chung của các pháp. Nếu vậy thì Đức Như Lai nên tạm thời gọi là Nhất thiết trí, không thể tạm thời nói Ngài không phải là Nhất thiết trí, vì Nhất thiết trí tức là người thành tựu Nhất thiết trí chân thật.
Lại nữa, dùng gương trí của Như Lai làm duyên, các ảnh tượng của các xứ-cảnh-thức thiện ở thế gian và xuất thế gian trong sự nối tiếp còn lại đều hiện bày. Bởi vì các pháp thiện của thế gian và xuất thế gian nếu không có gương trí thì chúng không phát sinh được. Khi các pháp đó nảy sinh đều do năng lực này, thì cũng có thể chứng biết. Nghĩa này ý nói gương trí của Như lai là diệu lực của tăng thượng duyên tất cả các pháp thiện thế gian và xuất thế gian, cùng các xứ-cảnh-thức đều được sinh khởi như những ảnh hiện bày trong gương sáng ngời. Mặc dù các hữu tình đều có năng lực của nhân tố, nhưng do gương trí làm tăng thượng duyên cho nên chúng mới được sinh khởi. Cũng như dù có hạt giống, nhưng nếu không có đất... thì mầm... không thể nảy sinh, cũng như tuy có vật thể, nhưng nếu không có gương... thì các ảnh tượng của vật thể sẽ không hiện bày.
Nếu vậy thì Đức Thế Tôn thuận theo với vọng kiến, trời Tự Tại… là nhân của thế gian. Bởi vì thiết lập làm nhân bình đẳng sinh ra tất cả các quả của thế gian, cho nên không có lỗi lầm này. Vì lúc quả kia sinh ra thì chỉ có thể làm tăng thượng duyên chứ không phải là tác giả, mà là vô thường. Đức Như Lai đã tu tập hai loại tư lương phước, trí trong vô lượng kiếp mới được sinh khởi. Tất cả chúng sinh thiện và duyên thiện đều do phước, trí ấy mà được phát sinh. Ngoại đạo vọng kiến về trời Tự Tại... cho rằng trời kia là yếu tố tạo ra các thế gian, vì tánh của trời Tự Tại là thường trú cho nên khác với việc của Như Lai.
Nếu không có ảnh thật hiện ra trong chiếc gương tròn thì làm sao nêu ví dụ được? Phải có vật thể và có gương sáng hòa hợp làm duyên như vậy cùng xuất hiện cho nên có thể làm ví dụ. Nghĩa là các hữu tình chấp trước điên đảo về ảnh tượng, bởi vì do sức mạnh của sự huân tập thành thục.
Chiếc gương và mặt là duyên, do tự thức chuyển khác, trông giống như khuôn mặt mình hiện bóng. Do đó thế gian khởi lên tăng thượng mạn, cho là mình đã nhìn thấy ảnh của mặt mình trong gương, vì không có ảnh nào khác hiện ra trong gương.
Kinh chỉ nói các cảnh tượng hiện bóng, chứ không nói là sinh khởi. Như vì vậy biết, tất cả cảnh tướng đều là tự thức biến đổi sai khác và hiện ra chứ không phải là thật có.
Do sự thù thắng của thức, cho nên nói là “duy thức”, không phải là không có tâm pháp, cũng không nói là chỉ có một thức, vì các hữu tình đều có tám loại và tâm pháp.
Tất cả sắc... mặc dù mỗi thứ đều có chủng loại riêng, nhưng đều là tự thức biến hiện sai khác và huân tập trên thức, lấy công năng sai biệt làm tánh, cho nên khi thức biến hiện thì quay trở lại không rời thức.
Đứng về mặt thế tục mà nói, thì có tâm pháp riêng biệt, không phải là nghĩa chân thật. Theo nghĩa thù thắng thì các pháp đều không có tánh quyết định riêng biệt, thậm chí Chân như tuy không phải do thức biến hiện, nhưng cũng không lìa khỏi thức, vì tánh chân thật của thức, vì cọng tướng của hai không-Vô ngã trên thức đã hiện bày. Ở đây nói chỉ có thức, bởi vì ngăn ngừa người ngu cố chấp cho rằng ngoài tâm-tâm pháp, nhất định có tánh biến kế sở chấp như sắc.... Các pháp như sắc... không loại trừ và không lìa các tâm-tâm pháp.
Tánh Y tha khởi và tánh viên thành thật không phải là không có, bởi vì bình đẳng cho nên hai loại này bình đẳng, vì vậy nói là bình đẳng, bình đẳng.
Chiếc gương tròn của thế gian và gương trí của Như Lai đều không có gì phân biệt, đều có năng lực hiện rõ hình ảnh không có gì khác nhau. Vì nhân duyên này cho nên gọi là Trí viên cảnh.
Kinh: “Như tấm gương tròn to lớn phát sinh phước đức an vui được người treo vào nơi tốt đẹp trên cao không gì lay chuyển được. Vô lượng chúng sinh qua lại trong các cõi, hướng về chiếc gương này quán sát những gì được mất của chính mình, bởi vì mong muốn giữ lại cái được mà rời bỏ những cái mất..
Như vậy, Đức Như Lai treo cao trí viên cảnh ở giữa pháp giới thanh tịnh, không gián đoạn, không gì lay chuyển được mong muốn làm cho vô lượng vô số chúng sinh quán sát đối với nhiễm-tịnh, bởi vì muốn giữ lấy tịnh mà rời bỏ những điều cấu nhiễm”.
Luận: Nơi tốt đẹp trên cao, nghĩa là cột cao, hoặc là nơi tốt đẹp khác.
Pháp giới thanh tịnh, là Chân như không cấu uế.
Xứ nghĩa là nơi yên ổn, hoặc nương dựa, hoặc duyên không gián đoạn.
Không lay chuyển, là nhờ gương trí này dựa theo duyên của pháp giới đến tận cùng giới hạn của sinh tử, luôn luôn gắn bó nối tiếp nhau không gián đoạn, không gì lay chuyển được.
Nghĩa này ý nói: Trí Đại viên cảnh vĩnh viễn xa lìa tất cả sự lay chuyển phân biệt. Một khi đã chứng được trí này rồi, về sau đến tận cùng thời gian vị lai, vẫn nối tiếp nhau không đoạn tuyệt. Ba trí còn lại, dù không vọng chấp nhưng vẫn còn tác ý phân biệt chấp có-không.
Sau khi chứng được ba trí này, hoặc hành động hay không hành động-không phải là không lay chuyển.
Có thuyết nói: “Trí Bình đẳng tánh, định diệt cũng không hiện hành”.
Luận nói là trong định diệt tận không có Thức thứ bảy.
Lại nói: “Cũng diệt một phần hiện hành thường hằng của tâm-tâm pháp”.
Nếu luận nói như vậy thì trong ba phần vị đều không có Thức thứ bảy. Vậy thì từ địa thứ nhất trở lên, khi hành hiện quán vô lậu, và địa Như Lai, sẽ không có trí này. Đó là sai lầm lớn, vì trái với kinh luận. Nhưng sở dĩ nói không có Thức thứ bảy, là ý muốn nói không có Thức thứ bảy nhiễm ô, chứ không phải tất cả đều không có. Khi chưa chứng được trí pháp Không-Vô ngã, thì phân biệt pháp chấp thường xuyên hiện hành dựa vào nhau. Như chưa chứng đắc trí Bổ-đặc-già-la Không-Vô ngã, thì trí kia vẫn luôn hiện hành ngã chấp vì dựa vào Thức này.
Trong phần quyết định lựa chọn nói: “Thức Alại-da nhất định cùng chuyển với một thức Mạt na”. Nếu khởi hiện Ý thức thì nhất định cùng chuyển biến một lúc với hai thức. Nếu trong năm thức tùy theo khởi hiện một thức thì nhất định cùng chuyển biến một lúc với ba thức. Cho đến trong một lúc, nếu năm thức khởi hiện thì nhất định cùng chuyển biến một lúc bảy thức. Nhận biết về định diệt của Thánh đạo, bậc Vô học cũng có. Pháp không nhiễm ô phân biệt chấp trí bình đẳng, cùng với các hành tướng vi tế trong Thức thứ bảy không trái với định diệt. Vì định diệt này là đạo vô lậu đã dẫn phát, Thể vô lậu trái ngược với ý thức ngã chấp nhiễm ô, đây là một phần diệt chứ không phải là diệt tất cả.
Trí bình đẳng ở trong quả vị Phật, tuy luôn luôn hiện hành nhưng trong mười địa từ khi chứng đắc về sau, hoặc khi tâm hữu lậu dấy lên phiền não, trí này không khởi hiện bởi vì có gián đoạn chứ không phải là không lay chuyển. Hai trí còn lại ở trong quả vị Phật, cũng không luôn luôn hiện hành, chứ không phải là không lay chuyển.
Vì sao trí Đại viên cảnh được an trí vào giữa pháp giới thanh tịnh?
Vì khiến cho vô lượng vô số chúng sinh quán sát về nhiễm-tịnh.
Vì sao quán sát về điều ấy? Vì muốn giữ lấy tịnh và bỏ hết mọi nhiễm.
Nhiễm, nghĩa là phiền não và tướng sinh khởi của nghiệp. Xả nghĩa là điều phục và đoạn tuyệt.
Dựa vào đạo thế gian và đạo xuất thế gian, điều phục và đoạn trừ những phiền não một cách trọn vẹn trong thời gian ngắn. Tịnh nghĩa là các pháp thiện có thể làm cho tâm chúng sinh được thanh tịnh.
Thủ nghĩa là giữ lấy, an lập-nuôi lớn và làm thành thục chủng tử, tùy theo những nguyện cầu mà chứng đắc giải thoát. Ý trong này nói: Tất cả Như lai xưa kia ở địa vị Bồ-tát, vì mong muốn thành tựu tất cả mọi việc lợi ích an lạc với mọi hình tướng cho tất cả hữu tình, ý vui vẻ mang lại lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình, thường tùy ý dựa vào pháp giới thanh tịnh, tùy theo sự tu tập phước trí làm tư lương, quay lại mong cầu nối tiếp nhau.
Vì phương tiện khéo léo của trí Đại viên cảnh mà siêng năng tu tập, chứng đắc trí này, dựa theo và duyên của pháp giới nối tiếp nhau không lay động. Dù không tác ý phân biệt hý luận nhưng vẫn chuyển biến tương tục làm tăng thượng duyên khiến cho các hữu tình tùy theo sự mong cầu của mình, mà an tập-nuôi lớn và thành thục vô lượng chủng tử, thiện căn, đạt được niềm vui thế gian và sự giải thoát xuất thế gian.
Đây là do sự khởi hiện trong trí Đại viên cảnh của Như Lai, hóa hiện phát sinh tác dụng tuyên thuyết về pháp yếu cho các hữu tình, khiến cho họ nhận biết cấu nhiễm và thanh tịnh, chọn lấy thanh tịnh mà rời bỏ cấu nhiễm, chính là căn bản của sự lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình.
Kinh: “Lại nữa, chiếc gương tròn rất khéo mài sáng, trong sạch vô cùng, không chút bợn nhơ ánh sáng chiếu rọi khắp nơi. Như vậy, trí Đại viên cảnh của Như lai, ở trong trí Phật vĩnh viễn rời xa cấu uế của tất cả các tướng phiền não và chướng sở tri, lấy sự rất khéo mài sáng làm nơi nương tựa, do định thâu nhiếp giữ gìn, trong sạch vô cùng và không chút bợn nhơ làm sự nghiệp lợi ích an lạc cho các chúng sinh với ánh sáng chiếu rọi khắp nơi.”
Luận: Gương soi nghĩa là tự tánh rất thanh tịnh. Sạch nghĩa là chỗ sai biệt vì lìa mọi khách trần. Nói không chút bợn nhơ, là chung cho hai loại trước, tức là tròn đầy và xa lìa bợn nhơ, vô cùng thanh tịnh. Ánh sáng là do gương soi, trong sáng là do sạch sẽ. Nói chiếu rọi khắp nơi, bởi vì không có bợn nhơ. Nói chiếu rọi khắp nơi, bởi vì không có bợn nhơ. Ở trong trí Phật tức là chướng phiền não và chướng sở tri, đều gọi là cấu uế. Đã hoàn toàn đoạn tuyệt, cho nên gọi là vĩnh viễn rời xa.
Do có nghĩa vĩnh viễn rời xa các cấu nhiễm chướng ngại, cho nên nói gương trí rất khéo mài sáng.
Lại nữa, phiền não nghĩa là tham lam-giận dữ.... Tất cả phiền não ràng buộc ở vị trí của tùy miên hoặc hiện hành hay không hiện hành đều có sức mạnh gây chướng ngại cho Thánh đạo, cản trở việc tu chứng Niết-bàn, gây rối loạn thân tâm cho nên gọi là chướng phiền não.
Chướng sở tri, là đối với cảnh đã được nhận biết, không nhiễm mà không nhận biết thì làm chướng ngại cho Nhất thiết trí, không chướng ngại Niết-bàn. Dù có chướng này, nhưng vẫn có Thanh văn... chứng đắc Niết-bàn. Chính hai chướng này cũng gọi là sự trở ngại của cấu uế.
Trí thanh tịnh làm cho chúng không nảy sinh. Trí nhiễm, tịnh có được do đối trị với chướng ngại, cấu uế của khách trần, khi trần hoàn toàn không nảy sinh thì gọi là vĩnh viễn rời xa. Do vĩnh viễn rời xa chướng cho nên trí Đại viên cảnh luôn luôn rất sạch, vì vậy nói là rất khéo mài sáng. Làm nơi nương tựa, do định thâu nhiếp giữ gìn, nương tựa vào nơi này cho nên gọi là nương tựa. Trí Đại viên cảnh dựa vào nơi này mà phát sinh. Nương tựa ngay nơi định, cho nên gọi là y chỉ. Định hoặc là trí nương dựa cho nên định gọi là y chỉ. Định phát sinh từ đạo giải thoát không gián đoạn này cho nên rất thanh tịnh. Nương tựa trong định này tức là định Kim cang dụ thù thắng. Do sức mạnh của định ấy cho nên các chướng ngại vĩnh viễn đoạn trừ, vì thế trí này lấy định làm chỗ dựa. Sức của định đã thâu nhiếp giữ gìn cho nên gọi là nhiếp trì. Vì định kia không gián đoạn, trí này được sinh. Do sức của định kia vô cùng thanh tịnh, rời xa tất cả phân biệt, không còn có phân biệt, cho nên gương trí phát sinh từ đó.
Trí này đã làm nơi nương dựa, do định mà thâu nhiếp giữ gìn. Trong sạch vô cùng không chút bợn nhơ, tự thể vốn thanh tịnh, cho nên gọi là gương soi. Xa lìa mọi chướng phiền não cho nên gọi là sạch. Xa lìa mọi chướng sở tri cho nên gọi là không cấu uế. Làm sự nghiệp đem lại lợi ích an vui cho các chúng sinh, với ánh sáng chiếu rọi khắp mọi nơi, là trí này được định thâu nhiếp giữ gìn, cũng có khả năng khởi tạo mà sự nghiệp đem lại lợi ích an vui cho tất cả hữu tình. Do thực hiện sự nghiệp này cho nên ánh sáng chiếu rọi khắp nơi.
Tự tánh của gương soi vốn trong sạch, cho nên gọi là sáng, do xa lìa tất cả chướng phiền não và chướng sở tri.
Như thứ tự của gương soi, gọi là sáng chiếu khắp nơi. Trong này ý nói: Như tấm gương tròn vĩ đại rất khéo mài sáng trong sạch vô cùng, không chút bợn nhơ. Vì muốn làm cho mọi chúng sinh đều được nhìn thấy chỗ được-mất trên gương mặt mình, và vì sự nghiệp lợi ích cho người, do đó nói là ánh sáng chiếu rọi khắp nơi.
Trí Đại viên cảnh với tự tánh thanh tịnh, xa lìa hai chướng, trong sạch vô cùng không chút bợn nhơ. Dù không thể thấy được trí này, nhưng nó vẫn khởi hiện thân thọ dụng và thân biến hóa, có thể sinh ra các trí và hoàn thành mọi sự nghiệp làm lợi ích cho chúng sinh, vì vậy gọi là ánh sáng chiếu rọi khắp nơi.
Kinh: “Lại như chiếc gương tròn dựa vào duyên của tính chất vốn có, sinh khởi các loại tướng mạo và ảnh tượng. Như vậy, trí Đại viên cảnh của Như lai. Đối với tất cả thời gian dựa vào các duyên, sinh khởi các loại tướng mạo và ảnh tượng của trí.”
Luận: Nếu trí viên cảnh là nhân tố sinh ra ảnh tượng của tất cả trí... nơi các hữu tình, thì tại sao tướng của ảnh tượng có sự khác nhau? Tại sao Thể của trí này lại không khác biệt? Lại nữa trí này đã thường xuyên có Thể làm nhân tố cho mọi ảnh tượng trong tất cả thời gian, tại sao trí này không luôn luôn phát sinh tức khắc ảnh tượng của tất cả chúng sinh và tự trí của họ?
Để giải thích vấn nạn đó, Đức Như Lai nói: “Lại như chiếc gương tròn dựa vào duyên của tính chất vốn có, sinh khởi các loại tướng mạo và ảnh tượng.” Không phải ảnh tượng sai khác làm cho Thể của gương có khác biệt, cũng không phải luôn luôn trong mọi lúc đều lập tức phát sinh ảnh tượng, vì còn phải đợi các duyên”.
Như vậy, gương trí bất cứ lúc nào cũng phải chờ đợi các duyên mới phát sinh các loại sai biệt về ảnh tượng của trí... chứ không phải là khác với ảnh tượng cho nên trí mới thành. Những màu sắc khác biệt như xanh, vàng... cũng không phải luôn luôn lập tức phát sinh ảnh tượng của Thánh trí nơi mình và tất cả chúng sinh mà cần phải chờ đợi các duyên đầy đủ mới có thể phát sinh.
Ý đoạn này nói: Trí Đại viên cảnh tương ưng với thức thanh tịnh có hai loại tác dụng:
1. Tác dụng của nhân duyên; là trong thức thanh tịnh có đủ tất cả chủng tử của các pháp thanh tịnh có khả năng hiện bày, có khả năng sinh ra thân tướng-cõi nước-cảnh-trí. Nếu gặp duyên bên ngoài, thì lập tức biến hiện các loại ảnh tượng của cảnh giới thân tướng-cõi nước, và có thể sinh khởi các trí bình đẳng... tương ưng với mọi hành tướng sai biệt của phẩm tâm.
2. Tác dụng của duyên tăng thượng, là các thiện căn trong Thức thanh tịnh của Phật, do nguyện lực mà được sinh khởi. Nếu các chúng sinh tự mình có đủ nhân duyên, thì lúc đó Thức thanh tịnh lập tức hỗ trợ giúp đỡ, khiến cho họ không bị chướng ngại mà sinh trưởng và thành tựu đầy đủ. Vì vậy thể của gương trí dù là một, mà vẫn có thể hiện khởi, có thể sinh ra mọi ảnh tượng của các pháp, nhưng còn phải chờ các duyên bên ngoài, chứ không phải là lập tức hiển hiện.
Kinh: “Như trong chiếc gương tròn, không phải là một hay rất nhiều các ảnh tượng hiện bày, mà trong gương tròn không có các ảnh tượng, nhưng gương tròn này vẫn không lay động và không tạo tác.
Như vậy, trong trí viên cảnh của Như Lai, không phải là một hay rất nhiều ảnh tượng của các trí khởi hiện, mà trong trí viên cảnh không có các ảnh tượng của trí, nhưng gương trí này vẫn không lay động và không tạo tác”.
Luận: Nếu các ảnh tượng của trí trong gương trí trước đây đã có tự thể, thì tại sao gương trí phải làm duyên mới được phát sinh? Nếu các ảnh tượng của trí trước đây không có tự Thể thì làm sao có thể phát sinh các ảnh tượng của trí mà không có động tác. Không thấy thợ gốm nào không có động tác, mà có thể nặn ra chiếc bình trước khi không có bình...?
Giải thích vấn nạn này nên nói: Như trong chiếc gương tròn, không phải là một hay rất nhiều các ảnh tượng... Như tấm gương tròn lớn có thể khởi lên các ảnh. Đồng loại với số nhiều, cho nên gọi là không phải một, khác loại thì vô số cho nên gọi là rất nhiều. Quán cần phải đồng loại, vì chọn lấy một loại cho nên nói không phải là một. Quán cần phải khác loại, hiển bày vô số cho nên nói là rất nhiều.
Như vậy, trong mặt gương tuy trước không có ảnh tượng mà khởi lên nhiều ảnh tượng nhưng gương vẫn không có động tác gì suy nghĩ hay phân biệt. Gương trí cũng vậy, tuy trước không có ảnh tượng của trí..., nhưng vẫn có thể sinh khởi mọi thứ ảnh tượng nơi các pháp của trí... Quán cần phải đồng loại cho nên nói không phải là một. Quán cần phải khác loại cho nên nói là rất nhiều.
Mặc dù phát sinh các ảnh tượng của trí..., như vậy, nhưng gương trí không có động tác gì suy nghĩ hay phân biệt.
Trong này ý nói: Như tấm gương tròn vĩ đại tuy không phân biệt, nhưng có thể sinh khởi các loại ảnh tượng. Gương Trí cũng thế, tuy không ngã chấp và ngã chấp sở, tác ý phân biệt năng thủ và sở thủ, nhưng vẫn có thể sinh khởi các loại ảnh tượng nơi các pháp của trí...
Kinh: “Lại như chiếc gương tròn và các ảnh tượng không phải là hợp, không phải là ly, không tụ tập, mà cũng hiện khởi duyên kia.
Như vậy, trí Đại viên cảnh của Như Lai cùng với ảnh tượng của các trí không phải là hợp, không phải là ly, không tụ tập cũng không tản mất”.
Luận: Nếu trí viên cảnh cùng hòa hợp với ảnh tượng của các trí...,thì tại sao không khác biệt với ảnh tượng đó, điều này trở thành sai biệt. Nếu không hòa hợp thì sao lại làm nhân? Không thấy hạt giống... và quả của các mầm..., không cùng hòa hợp mà có thể làm nhân? Không phải ánh sáng mặt trời và đá, tro..., không hòa hợp mà có thể soi sáng lẫn nhau?
Giải thích vấn nạn này cho nên nói: Lại như chiếc gương tròn và các ảnh tượng không phải là hợp, ly... Tức là như chiếc gương tròn của thế gian, tuy có thể làm nhân khởi hiện các ảnh tượng, nhưng gương không hòa hợp với ảnh tượng đó. Ảnh tượng đó trước khi chưa sinh do chưa có tự Thể, cho nên không có tụ tập. Không phải gương này và ảnh tượng kia hoặc đồng thời hay khác thời, mà có thể gọi là hòa hợp. Gương tròn và ảnh kia cũng không phải tách rời nhau mà hiện khởi duyên kia, chính vì nghĩa này cho nên không phải là không hòa hợp, cần phải nhờ vào gương này thì ảnh tượng kia mới có được. Mặc dù gương làm nhân tố hiện khởi, mà sinh ra ảnh tượng, nhưng không vì ảnh tượng khác biệt, mà gương trở thành khác biệt.
Trí Đại viên cảnh cũng lại như vậy. Tuy luôn luôn làm nhân sinh ra ảnh tượng của trí..., nhưng cùng với trí không phải là hợp, không phải là ly, không tụ tập cũng không tan mất.
Nói không phải là hợp, tức là khi ảnh chưa sinh vì nó chưa có tự thể, không có tụ tập.
Nói không phải là ly, tức là cần phải có gương trí thì ảnh của trí..., mới sinh, nếu không có thì không sinh cũng không tản mất. Lìa-hoại và không có, gọi là tiêu tán. Ngược lại cùng với điều ấy, gọi là không tán mất. Gương trí thâu nhiếp và phát sinh ảnh kia, hoặc không quên mất tướng cảnh đã duyên, gọi là không tản mất. Từ trong gương trí hiển hiện tất cả tướng đã nhận thức.
Trí ba đời... và các chúng sinh, nếu không nhận biết khắp nơi thì gương trí sẽ không phát sinh, cần phải nhận biết tất cả, thì trí này mới phát sinh. Vì vậy, trí này không quên tất cả tướng cảnh đã duyên, cho nên gọi là không tản mất. Vì không tan mất, cho nên không phải là ly. Tuy gương trí này có khả năng làm nhân khởi hiện ra ảnh của trí..., nhưng không phải do ảnh kia có khác biệt, mà gương trí này trở thành khác biệt. Như chiếc gương tròn vĩ đại không hề đổi thay khác biệt.
Trong này ý nói: Như chiếc gương tròn của thế gian, tuy có thể làm nhân dấy khởi các ảnh tượng, nhưng không phải do sự sai biệt của hợp và ly đã tiếp xúc. Gương trí cũng như vậy, tuy luôn luôn làm nhân dấy khởi ảnh tượng của trí, nhưng không phải là sự sai biệt do hợp và ly đã tiếp xúc. Tuy có thể làm nhân cho sự nảy mầm... nhưng các hạt giống cũng đều không thể nói là hợp hay ly. Vì chỉ một phần ánh sáng yếu ớt, cũng không phải là sắc..., vì tướng chung hòa hợp là do cả hai đều có, làm cho trong thức kia giống như hòa hợp cùng sinh với sắc... Vì thế gian hiện thấy tất cả nhân-quả, tuy không phải là hòa hợp, ly tán, nhưng vẫn có thể làm nhân. Vì vậy, không có hai tướng nhân quả quyết định hòa hợp.
Kinh: “Lại như chiếc gương tròn với bề mặt hoàn trong sáng, ở tất cả mọi nơi làm duyên nương tựa cho các ảnh tượng phát khởi rõ ràng... Như vậy, trí Đại viên cảnh của Như Lai, không đoạn tuyệt vô lượng những hành thiện trong sáng, làm duyên nương tựa cho hình ảnh các trí phát khởi khắp nơi, đó là ảnh tượng các trí của Thanh văn thừa, ảnh tượng các trí của Độc nhất giác Thừa, ảnh tượng các trí của Đại thừa vô thượng. Vì muốn làm cho những người Thanh văn Thừa nương vào Thanh văn thừa mà giải thoát, người Độc nhất giác nương vào Độc giác Thừa mà giải thoát, người Đại thừa nương vào vô thượng thừa mà giải thoát.”
Luận: Thế nào là một trí, bất cứ khi nào cũng có khả năng phát sinh ảnh tượng các pháp của Nhất thiết trí..., trong ba Thừa?
Giải thích vấn nạn này cho nên nói: Lại như chiếc gương tròn với bề mặt hoàn toàn trong sáng... Như gương tròn của thế gian vì soi khắp cho nên tất cả ảnh tượng đều xuất hiện bề mặt trong sáng của gương, nếu tiếp tục làm thêm các loại trong sáng khắp trước-sau và hai bên của bề mặt chiếc gương ấy, thì ở tất cả mọi giới đều có thể làm duyên hiện rõ tất cả hình ảnh vốn có.
Gương trí cũng vậy, tất cả Như Lai khi còn làm Bồ-tát, tuy có chủng tánh, nhưng vì bị chướng ngại che lấp, cho nên chưa có khả năng sinh khởi tất cả ảnh tượng khắp các pháp của Nhất thiết trí... trong ba Thừa. Sau đó siêng năng tinh tiến tu tập không gián đoạn vô lượng những hành thiện trong sáng. Đến khi định Kim cang dụ hiển hiện trước mắt, rời xa tất cả chướng ngại mà được thanh tịnh viên mãn, có khả năng sinh khởi trí..., của khắp ba Thừa. Tất cả ảnh tượng không gián đoạn thì phương xứ không còn phân chia giới hạn, vô lượng hành thiện đến lúc thành tựu như trải qua vô lượng thời gian.
Đây là nói về phần vị của nhân bao trùm tất cả mọi nơi, trải qua vô lượng thời gian chịu khó tu tập mọi công hạnh, loại bỏ chướng ngại làm cho trí Đại viên cảnh hết sức trong sáng, có thể phát sinh mọi ảnh tượng của trí ba Thừa.
Lại nữa, chính là gương trí trùm khắp nơi chốn, luôn luôn rời xa mọi thứ nhơ bẩn, các loại hạnh đức đều viên mãn, trang nghiêm và thanh tịnh vô cùng, có khả năng khởi hiện tất cả hình ảnh bất cứ ở đâu và khi nào. Như nói định Kim cang dụ thù thắng đã đoạn tuyệt tất cả các chướng, chứng được trí Đại viên cảnh của Như Lai, các loại công đức đều viên mãn, trang nghiêm với tất cả mọi nơi.
Lại nữa, trong vô lượng thời gian, trí này có thể khởi hiện tất cả ảnh tượng của ba Thừa.
Ở đây ý nói: Mỗi thiện căn riêng biệt được thành thục khác nhau. Khi đạo thù thắng phát sinh trí Đại viên cảnh hoặc-gần, hoặc xa tùy theo sự thích ứng của nó để làm thành duyên mạnh mẽ. Với chủng tánh quyết định, đều dựa vào Thừa của mình mà được xuất ly. Đối với chủng tánh bất định thì hoặc dựa vào Đại thừa, hoặc dựa vào các Thừa khác mà được xuất ly.
Nói xuất ly, tức là Niết-bàn. Những người thuộc ba Thừa thường dùng chủng tánh của mình làm nhân duyên, gương trí của Như Lai làm tăng thượng duyên, siêng năng tinh tiến vận dụng phương tiện tu tập tư lương dẫn dắt phát sinh Thánh đạo, bỏ chướng phiền não và chướng sở tri, tùy theo căn cơ thích hợp, đều chứng được Niếtbàn.
Chủng tánh quyết định Thanh văn và Độc giác đều an trú trong quả vị Vô học, vì ưa cảnh tịch diệt, phát khởi hành nghiệp làm tăng ích cho chướng phiền não nảy sinh đều dứt trừ hết. Phiền não của nghiệp trước đã chiêu cảm nơi thân tâm, đều tùy ý dập tắt, không còn thọ sinh vì không nương tựa nơi nào, tất cả chủng tử của các hành hữu vi-hữu lậuvô lậu, đều tùy thuận đoạn diệt, chỉ có hành chuyển y không còn tướng hý luận, xa lìa nhơ bẩn, đạt được pháp giới thanh tịnh của Chân như, thân giải thoát tự tại, gọi là cảnh giới Niết-bàn vô dư y, thường trú yên vui, hoàn toàn tịch diệt, không rơi vào số đông, không thể nghĩ bàn được, đồng với các Như Lai. Nhưng không có được công đức vô lậu, hữu vi để trang nghiêm, không còn tiếp tục thực hành sự nghiệp đem lại lợi ích yên vui cho hữu tình, cho nên không đồng với Như Lai.
Chủng tánh bất định Thanh văn-Độc giác an trú trong quả vị Vô học, tuy không có phiền não, mà ưa Bồ-đề, nhờ nguyện lực của định, để lại thân nối tiếp nhau tu tập hạnh Đại thừa, cho đến chứng được định
Kim cang dụ, tất cả chướng đều diệt, chứng ngộ ba thân Phật. Tuy có công đức vô lậu, hữu vi, nhưng vì không tồn tại thân-tâm hữu lậu, cho nên chứng được cõi đại Niết-bàn vô dư y.
Dựa, nghĩa là thân-tâm hữu lậu của ba cõi. Nếu các Bồ-tát khi đoạn tuyệt hai chướng, đều chứng được hết quả vị Phật, thì được gọi là chứng đại Niết-bàn vô dư y.
Vì vậy, hàng Nhị thừa trước hết phải chứng Niết-bàn hữu dư y, về sau mới tiến vào Niết-bàn vô dư y.
Khi Bồ-tát mới chứng Như Lai địa, thì đã chứng ngộ mau lẹ hai cảnh giới đại Niết-bàn, vì đã dứt sạch hữu lậu của thân-tâm, gọi là vô dư y. Vẫn còn có biến hóa giống như tướng hữu lậu, vì thântâm tồn tại gọi là hữu dư y. Vì Bi và Trí không đoạn tuyệt quả vị đã được chứng đắc, cũng gọi là không an trú trong cảnh giới đại Niết-bàn. Niếtbàn tức là nghĩa vĩnh viễn trừ chướng trong Thể Chân như, do tuệ vô lậu chọn lựa chân lý, đoạn tuyệt các tạp nhiễm mà chứng đắc, cũng gọi là Trạch diệt.
Như vậy, trạch diệt ở trong thực tế Chân như, là tạm thời thi thiết mà có chứ không có vật thật sự nào khác đến nơi cuối cùng, gọi là Niết-bàn. Vì không còn mục tiêu hướng đến. Vì không có sự xú uế, do lìa khỏi sự vây buộc, ra khỏi rừng dày đặc, gọi là Niết-bàn.
Thanh văn, Độc giác còn có tập khí của chướng sở tri chưa diệt làm sao chứng được Niết-bàn cuối cùng? Còn tập khí của chướng sở tri là vì không biết chứ không phải là nhiễm ô, chỉ chướng ngại quả Bồ-đề, không chướng ngại Niết-bàn. Vì không có phiền não cho nên không tái sinh. Nếu không có nguyện lực hồi tâm hướng về Đại thừa đến quả vị Vô học, thì khi đã hết số lượng tuổi thọ phải vĩnh viễn nhập tịch diệt.
Kinh: “Như ảnh lớn có thể có được trong gương tròn. Nghĩa là ảnh của tất cả mặt đất, núi lớn, cây to, cung điện, nhà cửa rộng lớn nhưng gương tròn này không giống với phần lượng kia.
Như vậy, trên trí viên cảnh của Như Lai, từ địa Cực hỷ cho địa đến Phật, ảnh của trí có thể có được và cùng với tất cả ảnh của trí thế gian-xuất thế gian có thể có được, nhưng trí viên cảnh không phải là phần lượng của các pháp đó”.
Luận: Nếu trí viên cảnh có thể khởi hiện ảnh tượng của trí thì phải đồng với sự khác biệt của phần lượng kia, có thể có được không?
Giải thích vấn nạn này nên nói: Như ảnh lớn, có thể có được trong gương tròn, nghĩa là ảnh của tất cả mặt đất..., như gương tròn của thế gian, tuy có thể làm duyên để khởi hiện ảnh của mặt đất..., nhưng gương tròn này không giống với phần lượng kia.
Trong một chiếc gương nhỏ, hiện lên nhiều ảnh to lớn như núi... có thể có được. Đa số ảnh nhỏ như đá... hiện ra trong một tấm gương to, có thể có được. Tuy có hình ngăn ngại, nhưng số lượng của các ảnh lớn-nhỏ đều không giống nhau.
Gương trí cũng như vậy. Tuy khởi hiện ảnh tượng của các trí thế gian, xuất thế gian, không có hình thể ngăn ngại, nhưng không giống với số lượng lớn nhỏ của ảnh trí kia. Do nhân duyên này mà gương trí của chư Phật gọi là kho tàng của Đại Trí, vì nó là căn bản của trí thế gian và xuất thế gian. Như nói: Đức Thế Tôn đã chứng thành gương trí của kho tàng Đại Trí, vì nó có thể sinh ra Nhất thiết trí. Nên biết trong này lấy tên trí để nói đến tất cả công đức, vì gương trí này tương ưng với Thức thanh tịnh, đầy đủ tất cả chủng tử của công đức lợi mình và lợi người. Nó có khả năng làm nhân duyên sinh ra ảnh tượng của trí..., cho chính mình và làm tăng thượng duyên để sinh ra ảnh tượng của trí..., trong thân người khác. Do gương trí này có thể biến hiện thân, sinh ra trí thuyết pháp, và lần lượt sinh ra ảnh của trí..., nơi người khác. Hoặc năng lực Từ Bi, thệ nguyện huân tập mà được hoàn thành, tùy ý để làm duyên tăng thượng cho pháp thiện của trí..., nơi người khác, làm cho pháp thiện của trí..., nơi thân người khác được sinh trưởng dễ dàng.
Vì vậy Kinh: Tất cả chúng sinh vốn có pháp thiện và quả vị thù thắng, đều là do năng lực của Từ Bi và thệ nguyện của Như Lai tăng thượng mà được phát sinh.
Kinh: “Lại như gương tròn là duyên khởi hiện tính chất ảnh tượng chứ không phải là nơi che lấp tính chất ảnh tượng.
Như vậy, trí Đại viên cảnh của Như Lai là duyên khởi hiện trí ảnh của chúng sinh, chứ không phải thuộc về bạn dữ, nghe pháp không chân chánh, làm trở ngại trí ảnh của chúng sinh, vì chúng không phải là pháp khí”.
Luận: Nếu trí Viên cảnh của Như Lai giúp cho ba Thừa đều được xuất ly mà sinh ra ảnh tượng của các trí, cũng do năng lực của Từ Bi-thệ nguyện huân tu mà trở thành tăng thượng duyên xuất sinh ảnh tượng của trí thế gian-xuất thế gian, thì tại sao chánh trí của các ngoại đạo thế gian lại không thể sinh ra nhân duyên thường hòa hợp với trí. Các ngoại đạo... có phải là không điên đảo chăng?
Giải thích vấn nạn này cho nên nói: Lại như gương tròn là duyên khởi hiện tính chất ảnh tượng chứ không phải là nơi che lấp tính chất ảnh tượng... Như chiếc gương tròn của thế gian, tuy có khả năng làm duyên hiện lên các ảnh tượng, nhưng gương không phải là duyên làm cản trở hình bóng, mà tường vách mới cản trở, tất cả hình bóng.
Gương trí của Như Lai cũng lại như vậy. Tuy có khả năng làm duyên sinh ra ảnh tượng của trí, nhưng không phải thuộc về nơi yêu thích của ác tri thức. Họ ham nghe tà pháp gây cản trở, ảnh của trí làm duyên phát sinh bởi vì tác động của ác tri thức kia chẳng phải là điều có thể thêm sức cho người có lòng nghe chánh pháp. Vì vậy, Thánh đạo không nảy sinh với ngoại đạo, ngoại đạo thường ôm lòng điên đảo, làm tổn thương và phá hư chủng tử của pháp thiện, còn chủng tử của pháp ác thì gặp duyên tốt để phát sinh. Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay, thời gian tu tập điều thiện thì ít mà thời gian gây tạo việc ác thì nhiều. Do đó, pháp thiện dù có gặp duyên mạnh mẽ mà cũng khó có thể sinh trưởng, pháp ác dù gặp một ít duyên bên ngoài tác động nhưng có thể bùng phát dữ dội.
Kinh: “Lại như chiếc gương tròn là duyên khởi hiện ảnh tượng của trí chứ không phải là nơi làm mờ tối tính chất ảnh tượng. Trí Đại viên cảnh của Như Lai cũng vậy, là duyên khởi hiện trí ảnh của chúng sinh, chứ không phải là nơi ưa xấu ác ngu muội, vì những thứ ấy không phải là pháp khí”.
Luận: Như duyên bên ngoài gây chướng ngại, khiến cho ảnh của trí không phát sinh. Tập quán ưa việc hung dữ từ kiếp trước là duyên bên trong, bị vô minh đen tối che khuất cho nên ảnh của trí không khởi hiện.
Những người ưa chuộng việc ác, tuy tất cả phiền não như tham lam-giận dữ..., đều bùng cháy rất mãnh liệt, nhưng nặng nề nhất là si mê. Vì không nhận biết tường tận về sự kiện thiện ác-nhân quả-hơn kém, không biết trong thế gian hiện có chánh pháp của chư Phật, luôn đem lại lợi ích yên vui cho tất cả chúng sinh. Thửa ruộng rất tốt là Tam bảo luôn sinh trưởng vô lượng công đức phước thiện cho tất cả thế gian và xuất thế gian. Nhưng họ không muốn nghe pháp và tiếp nhận giáo pháp, không thích quay về nương tựa. Ngược lại, họ ham nghe pháp tà vạy của ngoại đạo, không lợi ích, không yên vui, nương tựa vào đó làm tăng trưởng và chuốc lấy mọi nỗi khổ não do vô lượng nghiệp ác của các tà thần, há không phải là do sức ngăn che của vô minh tối tăm hay sao? Vì vậy, che lấp điều thiện thì vô minh là nặng nhất, cho nên cần phải siêng năng tu tập trí tuệ sáng suốt. Vô minh nặng nề không phải là căn khí tốt.
Kinh: “Lại như chiếc gương tròn là duyên khởi hiện tính chất ảnh tượng chứ không phải là nơi chốn cách xa. Như vậy, trí Đại viên cảnh của Như Lai là duyên khởi hiện trí ảnh của chúng sinhkhông phải là nơi chốn tạo pháp bất tịnh, chiêu cảm sự thiếu thốn chánh pháp của chúng sinh bất tín vì các loại đó không phải là pháp khí”.
Luận: Do sức mạnh nơi chướng ngại của hai duyên trong ngoài như vậy, cho nên ảnh của trí không phát sinh.
1. Do nghiệp tạo từ đời trước đã chiêu cảm đến sự thiếu thốn giáo pháp cho nên khiến trong rất nhiều thời kỳ không được nghe chánh pháp. Nghĩa là trong đời trước đã hủy báng chánh pháp. Do nghiệp chướng này, cho nên trải qua vô lượng kiếp không được nghe pháp của Phật. Bởi vì không nghe chánh pháp của chư Phật, là chướng của quả nghiệp kia. Ảnh tượng của trí kia không được nảy sinh bởi vì không được nghe chánh pháp. Tự thể của ảnh-trí kia đã không có thì làm sao có thể gọi là hủy báng chánh pháp? Quả báo thế nào? Có thể tạo chướng ngại, có thể nảy sinh ảnh tượng của trí, không nói là chúng sinh kia không nghe chánh pháp là quả báo, là chướng ngại. Nhưng nói là do chúng sinh chiêu cảm đến sự thiếu thốn giáo pháp mà có tình trạng đó, cho nên không thể nghe nhận chánh pháp. Thân tâm ngu si đần độn, không đủ các căn... là quả báo, là chướng ngại.
2. Do không tin tưởng, là không có chủng tánh, không có pháp Niết-bàn, không ưa Niết-bàn, không có chủng tử của Thánh đạo xuất thế gian. Đối với sự chứng ngộ Chân như, còn có chướng cuối cùng. Khi nghe pháp xuất thế đều không tin tưởng tiếp nhận, hoàn toàn không chứng được Niết-bàn của ba Thừa. Như vậy, tất cả thân tâm nối tiếp nhau đều không thanh tịnh, vì không phải là pháp khí của bậc Thánh, cho nên tạm thời hoàn toàn không phát sinh ảnh-trí của công đức xuất thế gian. Ví như nước vẩn đục nhơ nhớp, không thể lộ bày hình bóng của trăng. Gương trí cũng vậy, ai không tin tưởng thì ảnh tượng của trí không thể phát sinh.
Như vậy, nói giản lược về Trí Đại viên cảnh gồm có chín loại tướng thù thắng. Còn lại những trí khác, nghĩa là tướng huấn từ, tướng không phân biệt, tướng chướng ngại thanh tịnh, tướng dựa vào nhân duyên phát sinh trí ảnh, tướng không có ngã sở-không có gì thân nhận, tướng không quên tất cả các cảnh đã nhận biết, tướng luôn luôn khắp mọi nơi phát sinh trí ảnh, tướng có năng lực phát sinh Nhất thiết căn bản, tướng đối với hạng không phải là pháp khí thì không có năng lực phát sinh.
Ở đây có ba loại không phải là pháp khí của bậc Thánh:
1. Gần gũi tri thức không tốt, nghe pháp không chân chánh, tạm thời có chướng ngại, không phải là pháp khí của bậc Thánh.
2. Vì bị chướng ngại do phiền não, si mê, không phải là pháp khí của bậc Thánh.
3. Vì bị chướng ngại do nghiệp chướng rất nặng và không có chủng tử của Thánh đạo xuất thế, qua thời gian lâu dài đến cuối cùng không phải là pháp khí của bậc Thánh.
Ba loại như vậy gọi chung là tướng đổi với hạng không phải là pháp khí thì không có năng lực phát sinh, thuộc tướng thứ chín.
Kinh: “Lại nữa, này Bồ-tát Diệu sinh! Trí bình đẳng tánh là do mười loại tướng thành tựu viên mãn”.
Luận: Trí bình đẳng tánh do mười loại tướng thành tựu viên mãn, nên biết mười tướng này chính là quả tu chứng của mười địa.
Nói tóm lược, trong mỗi mỗi địa đều chứng ngộ một tánh bình đẳng, tu tập thành tựu viên mãn trí bình đẳng tánh của Phật địa. Vì vậy mà nói trí Bình đẳng tánh là do mười loại tướng thành tựu viên mãn.
Nếu nói rộng, thì trong mỗi mỗi địa đều chứng ngộ vô lượng pháp tánh bình đẳng, tu tập thành tựu viên mãn trí Bình đẳng tánh của Phật địa.
Kinh: “Chứng được các tướng tăng thêm sự vui mừng-yêu thích, thành tựu viên mãn pháp tánh bình đẳng”.
Luận: Các tướng, tức là các tướng của bậc Đại sĩ và các tướng hảo tùy thuộc sai biệt, đều gọi là tướng. Các tướng như vậy xa lìa tự tánh của biến kế sở chấp cho nên gọi là bình đẳng.
Khế Kinh: Các tướng của bậc Đại sĩ, Như Lai đã nói bởi vì không phải là tướng, vì vậy nói là các tướng của bậc Đại sĩ.
Tăng thượng là giàu sang, tự tại. Các uẩn như sắc... đều riêng biệt, đều không phải là sự giàu sang tự tại. Hòa hợp cũng không phải là giàu sang tự tại, bởi vì tính chất riêng biệt của chúng. Các pháp khi hòa hợp thì không buông bỏ tự tánh. Nếu rời tự tánh này, thì không thật có Bổ-đặc-già-la. Do đó tất cả sự giàu sang, tự tại, đều xa lìa tự tánh của biến kế sở chấp, cho nên gọi là bình đẳng.
Khế kinh nói: Bạch Thế Tôn! Hôm nay con đã hiểu rõ, tất cả vì Vô ngã cho nên không có giàu, không có nghèo.
Vui mừng-yêu thích, là sự vui mừng mến yêu hiện có do sức của biến kế. Tùy thuận với pháp yêu mến kia thì phát sinh hoan hỷ, trái ngược với pháp yêu mến thì cảm thấy buồn rầu lo lắng. Vì các pháp trong biến kế sở chấp đã không có, thì đối với tất cả sự vui mừng-yêu mến trong biến kế sở chấp cũng không có cho nên gọi là hiểu rõ về bình đẳng.
Như vậy, đã nói về các tướng tăng thêm sự vui mừng-yêu mến đối với pháp tánh bình đẳng, gọi là chứng được địa thứ nhất. Bồ-tát lần đầu tiên chứng đắc pháp tánh bình đẳng này, dùng phương tiện tu tập dần dần trong các địa nối tiếp, khiến được lớn mạnh thêm, sau cùng đến Phật địa thì thành tựu viên mãn. Từ đây về sau không còn tăng trưởng. Do sự chứng ngộ được thành tựu viên mãn cho nên trí Bình đẳng tánh mới được thành tựu viên mãn.
Sự thành tựu viên mãn ở đây, đối với xứ thứ ba thì nói là sự biến chuyển thứ năm, còn tất cả cho nên nói là do nghĩa thành tựu viên mãn, lời nói giống nhau cùng một loại tương ưng cho nên nói như vậy.
Kinh: “Chứng được pháp tánh bình đẳng viên mãn, thành tựu tất cả sự lĩnh thọ-duyên khởi”.
Luận: Duyên khởi có hai; nghĩa là trong và ngoài. Duyên khởi bên trong nghĩa là mười hai chi Hữu như vô minh... Duyên khởi bên ngoài nghĩa là tất cả sự vật bên ngoài như hạt giống-mầm...
Trong thì nên dùng pháp quán sát về hành tướng thuận nghịch của hai phần tạp nhiễm mà thanh tịnh. Ngoài thì cho nên dùng pháp quán sát các hành tướng, vì cái này có cái kia có, vì cái này sinh mà cái kia sinh. Nghĩa là vì những chủng tử có cho nên những chủng tử sinh, những mầm non có được cho nên những mầm non sinh được. Hai duyên khởi này tất cả đều vì có nhân cho nên có quả. Vì nhân sinh cho nên quả sinh. Nghĩa không có tác dụng là nghĩa của duyên khởi. Nghĩa Không-Vô ngã, nghĩa không có Bổ-đặc-già-la là nghĩa của duyên khởi.
Tự tướng của các nghĩa duyên khởi như vậy là những gì đã được lãnh thọ cho nên gọi là lãnh thọ. Hoặc giả nhờ hữu tình có thể lãnh thọ cho nên gọi là lãnh thọ.
Các pháp duyên khởi là những gì đã được lãnh thọ. Tất cả duyên khởi lãnh thọ như vậy, vì không có tác dụng, vì Không-Vô ngã, vì không có Bổđặc-già-la, xa lìa tự tánh của biến kế sở chấp, gọi là hiểu rõ về bình đẳng.
Như vậy, đã nói về sự lãnh thọ tất cả duyên khởi trong pháp tánh bình đẳng, cho nên gọi là chứng đắc. Do sự chứng đắc này, theo như trước tu tập thành tựu viên mãn, cho nên trí Bình đẳng tánh thành tựu viên mãn.
Pháp tánh bình đẳng duyên khởi như vậy tức là pháp tánh bình đẳng của tất cả pháp. Như nói với
Phạm chí, tất cả pháp tánh tức là pháp tánh duyên sinh-duyên khởi. Giác ngộ đạo lý này cho nên gọi là Bồ-đề. Như Đức Phật đã nhận thấy tất cả pháp tánh như vậy, tức là pháp tánh duyên khởi.
Lại như Khế Kinh: Không nhận thấy có một chút pháp nào xa lìa tánh duyên khởi. Pháp tánh bình đẳng duyên khởi trong này gọi là tánh duyên khởi. Dựa vào mật ý này mà nói lời như vậy: Nếu thấy duyên khởi thì thấy pháp tánh, nếu thấy pháp tánh thì thấy chư Phật.
Thật tánh của duyên khởi tức là nghĩa thù thắng về Pháp và nghĩa thù thắng về Phật.
Pháp tánh bình đẳng đối với tất cả mọi nơi, đều không có gì sai biệt cho nên nói lời này.
Kinh: “Chứng được sự xa lìa dị tướng-không phải là tướng, thì pháp tánh bình đẳng thành tựu viên mãn”.
Luận: Vì tướng của các pháp như sắc..., không giống nhau mà đổi thay, tan hoại..., cho nên gọi là dị tướng. Xa lìa dị tướng với những gì riêng biệt như vậy, tức là tướng chung.
Tướng chung như vậy lấy gì làm tướng? Lấy không phải là tướng (Phi tướng) làm tướng. Như Khế Kinh: Hết thảy pháp tánh chỉ có một tướng, đó là không phải tướng, không phải tướng (Phi tướng) tức là pháp tánh bình đẳng.
Hiểu rõ về biến kế sở chấp như vậy, tất cả pháp tánh cuối cùng và vĩnh viễn không có pháp tánh bình đẳng, cho nên gọi là chứng đắc.
Do sự chứng đắc này, theo như trước, tu tập thành tựu viên mãn, cho nên trí Bình đẳng tánh thành tựu viên mãn.
Lại có thuyết: Xa lìa dị tướng tức là không có tướng. Xa lìa không phải tướng (Phi tướng) tức là không có tướng không có. Không có và không có cái không có thì gọi là tánh bình đẳng. Ngoài ra như trước đã nói.
Kinh: “Với tâm Đại Từ cứu giúp rộng rãi, cho nên pháp tánh bình đẳng thành tựu viên mãn”.
Luận: Từ có ba loại:
1. Từ duyên với hữu tình.
2. Từ duyên với pháp.
3. Từ vô duyên.
Các Bồ-tát ở phần vị mới phát tâm, phần nhiều đều tu tập tâm Từ duyên với hữu tình, đa số là hữu lậu, bởi vì chọn cảnh giới hữu vi của thế tục. Các Bồ-tát ở phần vị tu tập hạnh chân chánh, phần nhiều đều tu tập tâm Từ duyên với pháp, cũng đa số là hữu lậu.
Do lấy giáo pháp Đại thừa làm cảnh giới tu tập, cho nên các Bồ-tát..., chứng được Nhẫn vô sinh, phần nhiều đều tu tập tâm Từ không duyên. Tuy có duyên đã được duyên là pháp giới, ví như các pháp dị thục như mắt..., không hề có phân biệt, không tạo tác gia hành mà tùy ý chuyển biến tự nhiên, cho nên gọi là vô duyên. Trí Bình đẳng tánh tương ưng với tâm Từ vĩ đại.
Hoặc có thuyết nói: Chỉ duyên với pháp giới đã được duyên nhưng vĩnh viễn không có phân biệt. Vì không duyên với hữu tình và các pháp cho nên gọi là tâm Từ vô duyên.
Lại có thuyết nói: Cũng duyên với các pháp.
Về nghĩa như thật: Cũng duyên với hữu tình, nhưng không có phân biệt, hành tướng đều bình đẳng, biết rõ tất cả đều là giả lập. Vì tánh của hữu tình bình đẳng, vì duyên sinh cùng pháp tánh bình đẳng, vì tánh Chân như Vô ngã bình đẳng cho nên gọi là trí bình đẳng. Trí này tương ưng đến cảnh đã được duyên có đủ ba tâm Từ, chỉ là hạnh bình đẳng chứ không phân biệt, cho nên nói là vô duyên.
Trí bình đẳng tánh trong Như Lai địa tương ưng với tâm Từ vĩ đại, các tướng thành tựu viên mãn cho nên đều luôn luôn hiện hành. Đức Như Lai đã vốn có tâm Từ vĩ đại vô duyên, còn lại hai tâm Từ không nói đến mà tự nhiên thành tựu. Do ba tâm Từ này mà Đức Như Lai cứu độ bình đẳng cho tất cả hữu tình, không những ban vui đối với thiểu số chúng sinh, mà còn chuyển biến phổ cập các pháp Vô ngã cho hết thảy hữu tình trở thành tánh Chân như bình đẳng. Vì luôn luôn hiện hành cứu độ tất cả cho nên gọi là tâm Từ vĩ đại, không phải như Thanh văn và hàng phàm phu..., chỉ tạm thời chuyển vận việc làm ban vui một phần ít, chứ không có khả năng cứu độ tất cả hữu tình.
Vì hơn hẳn tất cả hàng Thanh văn..., vì cứu độ tất cả các hữu tình, trong suốt thời gian dài đã tích tụ tư lương phước-tuệ, mà được thành tựu viên mãn, cho nên gọi là sự cứu giúp rộng lớn.
Như vậy, đã nói về hạnh cứu giúp rộng lớn với tâm Từ vĩ đại trùm khắp tất cả mọi nơi, chuyển vận không hề sai biệt, cho nên gọi là bình đẳng, và chính sự bình đẳng này được gọi là pháp tánh. Hoặc giả đã nói tâm Từ vĩ đại cứu giúp rộng lớn, lấy pháp tánh bình đẳng làm sở duyên, căn cứ vào cảnh cho nên gọi là pháp tánh bình đẳng. Nhờ tâm Từ vĩ đại này, theo như trước tu tập thành tựu viên mãn cho nên trí Bình đẳng tánh thành tựu viên mãn.
Kinh: “Tâm Đại Bi không đối đãi cho nên pháp tánh bình đẳng thành tựu viên mãn”.
Luận: Tâm Bi của hàng Thanh văn..., không có thể cứu vớt tất cả hữu tình, chỉ duyên với một phần hành tướng của cõi Dục mà tạm thời chuyển biến. Tâm Bi vĩ đại của Như Lai có năng lực cứu độ trùm khắp tất cả hữu tình, duyên suốt cả ba cõi, trùm khắp mọi hành tướng và luôn luôn mà chuyển biến.
Nói không đối đãi là không hề quán sát đối đãi mà luôn luôn cứu độ, không lìa bỏ, nghĩa là không có gì đối đãi mà tùy theo sự thích ứng của chúng sinh để cứu giúp thoát khỏi ba khổ, đối với mọi hữu tình đau khổ vẫn luôn luôn dùng tâm Bi chuyển hóa chứ không rời bỏ. Giống như Trưởng giả thương yêu con một, đối với các hữu tình đều vận chuyển bình đẳng, vì cảnh giới hữu tình không có giới hạn. Lúc hữu tình thành thục không tạm thời dừng bỏ, hữu tình được thành thục nhưng tâm Bi chưa từng có lúc sai lạc.
Đức Như Lai thường xuyên tương ưng với tâm Bi vĩ đại, không thể nói là tạm thời khởi hiện hay tạm thời vận chuyển. Như kinh nói: Thiện nam! Không cho nên nói rằng chư Phật Thế Tôn hiện có tâm Bi vĩ đại, đối với các hữu tình tạm thời khởi hiện, tạm thời vận chuyển. Vì sao? Vì tâm Đại Bi ấy luôn vận chuyển mãi.
Tâm Đại Bi của chư Phật, Thế Tôn trùm khắp cho đến những kẻ không có căn cơ, chưa thiết lập thiện căn và chung cuộc không chứng ngộ được Bồ-đề Vô thượng. Đức Như Lai sau khi chứng được Bồ-đề, luôn cảm nghĩ như vậy: Ta sẽ an lập các thiện căn vốn có cho hết thảy hữu tình. Nếu có ai chưa giác ngộ được tất cả các pháp, thì Ta sẽ khai ngộ cho họ.
Đức Như Lai đã thường xuyên khởi tâm Bi vĩ đại đối với các hữu tình như vậy, cho đến nói rộng, như Khế Kinh: Suốt ngày đêm, Như Lai luôn luôn quán sát thế gian trong sáu thời, tại sao hôm nay mới nói tâm Bi vĩ đại luôn luôn vận chuyển? Đây là nói tác dụng trong sáu thời luôn luôn tương tục kéo dài không gián đoạn, cho nên không hề trái ngược nhau.
Tâm Từ vĩ đại và tâm Bi vĩ đại, lấy thiện căn không giận-không gây tổn hại-không si mê làm tự tánh, còn hành tướng ban vui-cứu khổ thì có khác nhau, đều có đủ ba loại duyên với hữu tình...
Từ là không giận, Bi là không hại. Từ thì duyên với không an vui mà mong ban cho niềm vui. Bi thì duyên với có đau khổ mà mong cứu vớt nỗi khổ đó. Còn tâm Đại Bi không đối đãi với sự vận chuyển không sai biệt, cho nên gọi là bình đẳng.
Đây chính là pháp tánh, hoặc duyên với pháp tánh bình đẳng làm cảnh. Nhờ tâm Đại Bi này theo như trước tu tập thành tựu viên mãn cho nên trí Bình đẳng tánh thành tựu viên mãn.
Kinh: “Tùy theo những gì các chúng sinh ưa thích, Như Lai thị hiện pháp tánh bình đẳng thành tựu viên mãn”.
Luận: Tùy theo các hữu tình thích trông thấy sự sai biệt về sắc thân của Đức Như Lai, Như Lai sẽ thị hiện sắc thân như vậy.
Tuy ở quả vị không hý luận, do năng lực tăng thượng của trí bình đẳng, trí Đại viên cảnh tương ưng với Thức thanh tịnh mà Đức Như Lai biến hiện sắc thân vi diệu như lưu ly..., khiến thiện căn của các hữu tình đều được thành thục. Tự tâm Biến hiện thân tướng như vậy, nghĩa là ngoài tự tâm được trông thấy thân Như Lai, như Khế Kinh: Do năng lực thiện căn trong tâm Từ của các Như Lai đã thị hiện, khiến cho tự tâm của hàng trờingười..., biến đổi khác nhau mà được trông thấy thân Như Lai như sắc vàng ròng...
Lại như Kinh: Nếu sự ứng hóa vì vô lượng hữu tình, cần trông thấy sắc thân quý báu như lưu lymạt-ni, thì Như Lai có năng lực vô ngại thị hiện các loại sắc tướng quý báu như lưu ly-mạt-ni, khiến cho tự tâm của hữu tình đó cũng biến hiện như vậy, cho đến nói rộng.
Như vậy, thị hiện tất cả hình tướng bình đẳng của Như Lai. Bình đẳng như vậy chính là pháp tánh. Vì thế cho nên gọi là pháp tánh bình đẳng. Nghĩa là tùy theo hữu tình được hóa độ ưa trông thấy hình tướng-sắc thân, các Như Lai đều lập tức thị hiện hình tướng cùng một xứ sở-cùng một thời gian-cùng một chủng loại, khiến cho tự tâm họ biến hiện ra việc làm lợi ích an vui như vậy.
Như chủng tử đã thành thục tướng chung trong thức A-lại-da của các hữu tình, tất cả đều biến hiện ra tướng của thế giới..., cùng chung một chỗ, giống như nhau mà không ngăn ngại nhau.
Đây cũng như vậy. Như tướng nơi sắc thân của Như Lai, các việc khác cũng vậy. Nhờ sự thị hiện này theo như trước tu tập thành tựu viên mãn, cho nên trí Bình đẳng tánh thành tựu viên mãn.
Kinh: “Tất cả chúng sinh cung kính tiếp nhận những pháp Như lai thuyết giảng, cho nên pháp tánh bình đẳng thành tựu viên mãn”.
Luận: Nếu có chủng loại ngữ nghiệp như vậy, thì có năng lực làm cho thiện căn của hữu tình được thành thục. Nghe xong đều cảm thấy hoan hỷ vì được niềm vui tin tưởng thanh tịnh.
Đức Như Lai đã thị hiện ngữ nghiệp như vậy, làm cho hữu tình đều được nghe. Tuy không hý luận phân biệt nhưng do năng lực của tâm Bi và thệ nguyện, cho nên Như Lai thị hiện như vậy, đã giáo hóa hữu tình bằng sức mạnh thắng giải của mình mà biến hiện khác lạ như vậy, nghĩa là ngoài tự tâm họ nghe được tiếng nói của Phật. Đức Như Lai đã nói bằng tất cả ngôn ngữ thích hợp với mọi căn cơ trình độ, các hàng người-trời... đều không có gì trái nghịch, cho nên nói là cung kính tiếp nhận. Nếu không phù hợp với căn cơ thì Như Lai không thị hiện, cho nên lời nói của chư Phật không hoang phí. Tuy có chúng sinh không vâng theo lời Phật dạy, nhưng đây là Như Lai hóa hiện, hoặc sẽ có lợi ích, về sau nhất định phải tin tưởng tiếp nhận.
Nói một cách tổng quát thì tất cả chúng sinh đều tỏ lòng tôn kính và tiếp nhận lời Phật đã giảng dạy. Lời nói như vậy là do đạo lý trước chư Phật cùng hóa hiện, cho nên gọi là bình đẳng. Bình đẳng như vậy, thì gọi là pháp tánh. Nhờ sự thị hiện, này theo như trước tu tập thành tựu viên mãn, cho nên trí Bình đẳng tánh thành tựu viên mãn.
Kinh: “Trạng thái vắng lặng yên tĩnh của thế gian đều chung một vị, cho nên pháp tánh bình đẳng thành tựu viên mãn”.
Luận: Năm uẩn hữu lậu gọi là thế gian, từng niệm từng niệm đối trị với hai loại hư hoại, chính là sự diệt hẳn của năm uẩn gọi là sự tĩnh lặng. Do đó, ở ngay trong năm uẩn này mà tĩnh lặng, chính là Thánh đạo và tánh Y tha khởi của Niết-bàn. Sự tĩnh lặng của thế gian cùng trở về với Chân như, vì tánh viên thành thật cho nên gọi là một vị.
Lại nữa, thế gian là biến kế sở chấp, nhưng tánh căn bản này không còn, cho nên gọi là tĩnh lặng. Trạng thái tĩnh lặng như vậy đã làm sáng tỏ Chân như không hề sai biệt cho nên gọi là một vị. Đây chính là pháp tánh bình đẳng. Do một vị này, như trước tu tập thành tựu viên mãn, cho nên trí Bình đẳng tánh thành tựu viên mãn.
Kinh: “Các pháp khổ-vui của thế gian đều chung một vị, cho nên pháp tánh bình đẳng thành tựu viên mãn”.
Các pháp thế gian nói giản lược có tám loại:
1. Lợi.
2. Suy.
3. Chê bai.
4. Đề cao.
5. Khen ngợi.
6. Chế nhạo.
7. Khổ.
8. Vui.
Việc được vừa ý gọi là lợi. Việc không vừa ý gọi là suy. Không bài bác trước mặt gọi là chê bai. Không ca ngợi trước mặt gọi là đề cao.
Ca ngợi trước mặt gọi là khen ngợi. Bài bác trước mặt gọi là chế nhạo. Thúc bách-bức não thân tâm gọi là khổ. Thân tâm vừa ý thích thú gọi là vui. Tám loại như vậy tổng quát có hai loại: Bốn điều trái nghịch gọi là khổ, bốn điều thuận lòng gọi là vui, vì nó nảy sinh sự hân hoan hay buồn bã. Hoặc nói giản lược, trong ấy sau cùng khổ-vui là một đôi, nhưng bậc Thánh ở trong đó luôn luôn là một vị, được lợi, không cho là cao, gặp suy không cho là thấp. Như vậy cho đến dù khổ mà không giận dữ, dù vui mà không yêu thích. Như Khế Kinh: Bậc Thánh ở trong thế gian đều bình đẳng một vị giống như hư không. Còn hàng phàm phu ngu muội sống trong thế gian luôn chấp có sai biệt. Vì Thánh nhân đã xa lìa biến kế sở chấp, đối với tám pháp của thế gian trong tất cả mọi nơi đều chung một vị. Chính điều này gọi là pháp tánh bình đẳng. Nhờ một vị này theo như trước tu tập thành tựu viên mãn, cho nên trí Bình đẳng tánh thành tựu viên mãn.
Kinh: “Tu tập gieo trồng vô lượng công đức đến cứu cánh, cho nên pháp tánh bình đẳng, thành tựu viên mãn”.
Luận: Công đức tức là các pháp công đức của ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề... Huân tập chủng tử, nuôi lớn thành thục giải thoát gọi là tu tập gieo trồng. Trí Bình đẳng tánh tuy không phân biệt, nhưng do diệu lực tăng thượng của trí Phật và Bồtát, như hạt châu như ý, khiến cho công đức trong thân khác được sinh trưởng thành thục giải thoát.
Nói cứu cánh, là vì có thể chứng đắc Niết-bàn của ba Thừa. Đã khiến được giải thoát, khiến được niềm vui thế gian, không nói mà tự nhiên thành tựu trí như vậy, gọi là pháp tánh bình đẳng, vì đã xa lìa tánh biến kế sở chấp. Hoặc các Bồ-tát đã tu tập, gieo trồng công đức thù thắng của vô lượng phần pháp Bồ-đề... cho đến cứu cánh, thì điều này gọi là pháp tánh bình đẳng. Nhờ công đức này theo như trước tu tập thành tựu viên mãn, cho nên trí Bình đẳng tánh thành tựu viên mãn.
Kinh: “Lại nữa, này Bồ-tát Diệu Sinh! Trí Diệu quán sát ấy...”.
Luận: Dựa vào mười loại nhân cho nên biết!
Phân biệt về trí Diệu quán sát có mười loại nhân:
1. Nhân kiến lập.
2. Nhân sinh khởi.
3. Nhân hoan hỷ.
4. Nhân phân biệt.
5. Nhân thọ dụng.
6. Nhân sai biệt về cõi
7. Nhân sai biệt về cảnh giới.
8. Nhân rưới cơn mưa pháp vĩ đại.
9. Nhân hàng phục oán địch.
10. Nhân đoạn trừ tất cả nghi ngờ.
Kinh: “Ví như vậy giới duy trì cảnh giới của chúng sinh. Như vậy, trí Diệu quán sát của Như Lai tùy ý duy trì tất cả môn Đà-la-ni, môn Tamma-địa và biện tài vô ngại là các pháp nhiệm mầu của chư Phật”.
Luận: Trong đoạn kinh này Như Lai chỉ rõ về tướng của nhân kiến lập. Ví như vậy giới duy trì cảnh giới của chúng sinh; như tự tâm của các hữu tình mà biến hiện tướng của các thế giới như bên dưới phong luân..., có thể duy trì tự tâm mà biến hiện tất cả cảnh giới của các hữu tình như mắt...
Như vậy, trí Diệu quán sát của Như Lai có năng lực duy trì tất cả các môn Đà-la-ni, nói rộng cho đến các pháp nhiệm mầu của chư Phật, vì tương ưng với các môn ấy và có thể dẫn khởi.
Đà-la-ni: Niệm tuệ tăng thượng, có thể tùy ý giữ gìn tổng quát về vô lượng pháp Phật, khiến cho không quên mất. Ở trong một pháp duy trì tất cả pháp, trong một lời văn bao hàm tất cả lời văn, trong một nghĩa chứa đựng tất cả nghĩa, thâu nhiếp gìn giữ vô lượng các công đức cho nên gọi là vô tận tạng.
Đà-la-ni này nói tóm lược có bốn loại:
1. Đà-la-ni pháp.
2. Đà-la-ni nghĩa.
3. Đà-la-ni chú.
4. Đà-la-ni có thể chứng được nhẫn của Bồtát. Như trong Luận Du Già nói rộng về tướng của Nhẫn đó.
Làm thế nào chỉ trong một pháp..., mà có thể tùy ý duy trì được tất cả các pháp...? Nghĩa là với diệu lực không thể nghĩ bàn của chư Phật và Bồtát khiến cho Niệm tuệ tăng thượng, ở trong một pháp tướng thuộc tướng phần của tự tâm hiện ra tất cả các pháp. Văn nghĩa cũng như vậy.
Lại có khả năng thị hiện pháp môn công đức vô lượng vô tận. Vì tự thể của kiến phần cũng đầy đủ vô biên công năng thù thắng, tùy ý duy trì tất cả khiến cho không quên mất. Với diệu lực của Niệm tuệ không thể nghĩ bàn như vậy, gọi là Đàla-ni.
Tam-ma-địa: Nghĩa là Định tăng thượng tức là hành trì mạnh mẽ các Tam-ma-địa có khả năng hơn hẳn các Tam-ma-địa của tất cả thế gian-xuất thế gian. Vì các Tam-ma-địa khác không thể hơn cho nên gọi là hành trì mạnh mẽ.
Lại nữa, Phật và Bồ-tát là những bậc hành hóa dũng mãnh, cho nên gọi là hành trì mạnh mẽ. Chỉ có Bồ-tát địa thứ mười và Phật mới chứng được định này. Các Tam-ma-địa khác tùy theo kinh mà nói, thuận theo để giải thích tên của các định, thì Đà-la-ni và Tam-ma-địa, đều gọi là Môn, như ba môn Không-Vô nguyện, vô tướng, vì có năng lực phát sinh thông suốt vô lượng đức, cùng loại và khác loại.
Vô ngại biện thuyết, tức là bốn vô ngại PhápNghĩa-Từ-Biện. Do bốn loại này có khả năng biện luận, giảng diễn về pháp nhiệm mầu cho chúng sinh cho nên gọi là biện thuyết. Pháp nhiệm mầu của chư Phật tức là vô lượng pháp Phật như mười lực, bốn pháp Vô úy của Như Lai..., nói tất cả hoặc nói từng pháp một.
Trí Diệu quát sát chuyển từ ý thức đạt được tác dụng rộng lớn, có thể tùy ý gìn giữ tất cả công đức. Thức thứ sáu là Ý thức tương ưng với trí này, tương ưng với hết thảy công đức và có khả năng dẫn phát các công đức cho nên gọi là có thể tùy ý giữ gìn.
Kinh: “Lại như thế giới là nhân duyên của thức làm cho các chúng sinh lập tức hiện khởi tất cả các loại với vô lượng tướng.
Như vậy, trí Diệu quán sát của Như Lai có thể làm nhân duyên của thức lập tức hiện khởi tất cả các loại với vô lượng tướng đã được nhận biết không ngăn ngại trong diệu trí.”
Luận: Trong này chỉ rõ về tướng của nhân sinh khởi. Trí Diệu quán sát có khả năng làm nhân cho thức lập tức hiện khởi tất cả các tướng đã được nhận biết. Thế giới tức là các khí thế gian. Như khí thế gian có thể làm nhân phát sinh nơi thức của chúng sinh về vô lượng tướng trong hư không và trên các lục địa.
Như vậy, trí Diệu quán sát của Như Lai, trong một thời gian lập tức hướng về tất cả cảnh giới, giống như trong hư không có thể hiểu rõ không ngăn ngại, có thể làm nhân sinh ra thức tướng của tất cả các loại thế gian và vô lượng cảnh giới đã được duyên của xuất thế gian. Nghĩa này ý nói: Trí Diệu quán sát của tất cả Như Lai có năng lực lập tức biết rõ tất cả các cảnh giới, giống như cảnh giới đã được nhận biết có rất nhiều tướng, như dùng màu sắc hoa ra cảnh sắc có các loại tướng. Thể của trí nơi kiến phần có khả năng làm nhân sinh ra tướng thức như vậy. Cái này có thể hiện bày cái kia, cho nên nói là nhân phát sinh, chứ không phải là nhân tự mình sinh ra, mà từ chủng tử sinh ra. Đây tức là nhân của duyên cho nên gọi nhân duyên.
Do kiến phần khởi hiện tướng phần, hoặc từ Thể phát sinh Dụng. Tuy không có Thể khác mà vì không như nhau cho nên cũng được làm nhân, như từ tướng phần sinh ra kiến phần. Đây cũng như vậy.
Kinh: “Lại như thế giới có nhiều loại có thể ngắm nhìn, như vườn-rừng-ao..., mà trang nghiêm cho thế giới thật đáng yêu thích. Như vậy, trí Diệu quán sát của Như Lai, với các loại có thể ngắm nhìn, như Ba-la-mật-đa, pháp phần Bồ-đề, mười lực-pháp vô úy, các pháp bất cộng mà trang nghiêm, thật đáng yêu thích”.
Luận: Trong này chỉ rõ về tướng của nhân hoan hỷ. Như các loại có thể ngắm nhìn của khí thế gian như vườn-rừng-ao..., trang sức đan xen hàng hàng lớp lớp, với ánh sáng rực rỡ uy nghiêm, khiến cho các hữu tình đều cảm thấy hoan hỷ yêu thích.
Như vậy, trí Diệu quán sát của Như Lai, đủ các loại có thể ngắm nhìn như Ba-la-mật-đa, pháp phần Bồ-đề..., được trang sức hiện bày đan xen với hào quang uy nghiêm rực rỡ, làm cho các Bồ-tát đều hoan hỷ yêu thích.
Ba-la-mật-đa nói giản lược có sáu loại, nghĩa là bố thí..., hoặc chia ra thành mười, tức là thâm vào bốn loại như Phương tiện khéo léo... Hoặc lại mở rộng làm thành tám vạn bốn ngàn, như kinh đã nói đầy đủ. Nếu phân biệt riêng lẻ thì số Ba-la-mật là vô lượng.
Pháp phần Bồ-đề nêu tóm lược có ba mươi bảy, nói rộng cũng là vô lượng. Nói mười lực nghĩa là trí lực xứ, phi xứ..., thuộc về mắt tuệ trong thân Như Lai và cụ tri căn. Nói không sợ hãi là bốn loại vô úy, do năm căn thâu nhiếp và cụ tri căn tức là năm căn như Tín... Pháp bất cộng của Phật có mười tám loại như đã nói rộng trong kinh.
Công đức như vậy, phần nhiều thuộc về trí này thâu nhiếp, tương ưng và có thể dẫn phát. Vì vậy, tất cả mọi điều trang nghiêm nhờ vào trí này.
Kinh: “Lại như vậy giới có cồn đảo, mặt trời, mặt trăng, trời Tứ Thiên vương, trời Ba mươi ba, trời Dạ-ma, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc-biến-hóa, trời Tha-hóa-tự-tại, trời Phạm thân... uy nghi đẹp đẽ đan xen hàng hàng lớp lớp.
Như vậy, trí Diệu quán sát của Như Lai, đối với nhân quả thịnh suy của thế gian và xuất thế gian, hàng Thanh văn-Độc giác và Bồ-tát tu chứng viên mãn trọn vẹn đều quán sát sự uy nghiêm mầu nhiệm đan xen vào nhau”.
Luận: Trong này chỉ rõ về tướng nhân phân biệt. Như khí thế gian có vô lượng châu bãi..., trang sức giao xen đẹp đẽ không lẫn lộn. Châu, nghĩa là bốn châu lớn, như châu Thiệm-bộ...
Bãi, nghĩa là tám bãi nhỏ như Già-mạt-la...
Lược nêu về mặt trời, mặt trăng là thâu nhiếp các vì sao. Trời Tứ Thiên vương nghĩa là đều an trú bốn phía thuộc tầng thứ tư trên núi Diệu cao.
Trời Ba mươi ba, nghĩa là bốn phía trên đỉnh núi này, mỗi phía có tám Đế thích đại Thiên vương cư trú trong đó, cho nên có số lượng ấy. Trời Dạ-ma, nghĩa là trong cõi trời này, thọ hưởng mọi diệu lạc đều tùy theo thời gian, cho nên gọi là Thời phần.
Trời Đổ Sử Đa, là thân cuối cùng của Bồ-tát giáo hóa ở đó, đa số đều tu tập pháp hỷ túc cho nên gọi là Hỷ túc.
Trời Lạc-biến-hóa, là vui với sự biến hóa của mình làm ra những nhạc cụ để tự mình vui đùa tùy thích.
Trời Tha-hóa-tự-tại; thích làm cho người khác biến hóa tạo ra những nhạc cụ, biểu hiện sự tự tại của mình.
Trời Phạm Thân, vì xa lìa dục vọng vắng lặng yên tĩnh, cho nên gọi là Phạm. Thân là nhiều đẳng là cùng chọn lấy các cõi trời trên đây.
Như vậy, trí Diệu quán sát của Như Lai có thể quán sát trùm khắp tất cả nhân quả thịnh suy của thế gian và xuất thế gian. Ba Thừa tu chứng viên mãn, trang trí vi diệu đan xen lẫn nhau không hề tạp loạn.
Nhân quả của cõi ác gọi là sự suy vi của thế gian. Nhân quả của cõi thiện, gọi là sự hưng thịnh của thế gian.
Lại nữa, thế gian tan hoại và thế gian thành lập, theo thứ tự như vậy gọi là suy-thịnh.
Lại nữa, tổn giảm gọi là suy, tăng trưởng gọi là thịnh. Nhân quả của Nhị thừa gọi là sự suy yếu của xuất thế gian. Nhân quả của Đại thừa gọi là sự hưng thịnh của xuất thế gian.
Lại nữa, lùi lại gọi là suy, tiến tới gọi là thịnh.
Nói chứng ngộ viên mãn, tức là quả vị. Ba Thừa trước gọi là hiển bày quả vị của nhân.
Lại nữa, chứng ngộ viên mãn, là chỉ nói về quả vị Phật.
Trí Diệu quán sát, quán sát pháp tướng dị biệt của các pháp này. Trí như cảnh đó, hành tướng không xen tạp mà hiển hiện rõ ràng. Vì vậy nói là trang trí vi diệu, đan xen lẫn nhau.
Kinh: “Lại như thế giới là chỗ thọ dụng rộng lớn của các chúng sinh.
Như vậy, trí Diệu quán sát của Như Lai cũng thị hiện chúng hội của tất cả chư Phật, mưa cơn mưa pháp lớn để cho chúng sinh được tiếp nhận niềm vui của pháp lớn”.
Luận: Trong đoạn kinh này, Đức Như Lai đã chỉ rõ về tướng của nhân thọ dụng.
Như khí thế gian vì tùy thuộc vào nghiệp của hữu tình với sức tăng thượng của chủng tử trong tướng chung A-lại-da biến hiện sinh ra các thứ công cụ, tiền của hỗ trợ cho tướng chung, vì muốn cho hữu tình được thọ dụng rộng lớn.
Như vậy, trí Diệu quán sát của Như Lai giúp cho trí bình đẳng, làm tăng thượng duyên dẫn dắt phát trí Đại viên cảnh tương ưng với thức thanh tịnh, hiện thân thọ dụng cùng các chúng hội với uy đức nổi bật mà mưa cơn mưa pháp lớn, để cho các Đại Bồ-tát thuộc địa thượng được tiếp nhận pháp lạc lớn lao, đồng thời cũng hỗ trợ cho trí Thành sở tác của Như Lai, làm tăng thượng duyên, kích thích mở ra gương trí tương ưng với Thức thanh tịnh, thể hiện thân biến hóa các chúng hội với oai đức sáng chói, mưa cơn mưa pháp lớn để cho hàng địa tiền và các hữu tình giáo hóa được thọ dụng nguồn vui của giáo pháp.
Kinh: “Như năm cõi trên thế giới được tồn tại là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, cõi người, cõi trời.
Như vậy, trí Diệu quán sát của Như Lai hiện rõ đầy đủ nhân quả vô biên và sự sai biệt của năm cõi.”
Luận: Trong đoạn kinh này, Đức Như Lai đã chỉ rõ về tướng của nhân sai biệt trong năm cõi. Nó tùy thuộc vào nghiệp lực của hữu tình với sức tăng thượng trong thế giới, chủng tử của tướng không chung trong A-lại-da biến hiện sinh ra sự khác biệt về nhân quả của năm cõi đang tồn tại.
Như vậy, trí Diệu quán sát của Như Lai vì lấy nhân quả của năm cõi làm cảnh giới, cho nên giống như có sự khác biệt về hai tướng nhân quả của năm cõi biến hiện, không phải sinh ra các chủng loại bất định của năm cõi như A-tố lạc, hoặc trời, hoặc ngạ quỷ, hoặc còn bàng sinh mà không nói riêng biệt.
Nhân năm cõi, nghĩa là thân Trung hữu làm phương tiện cho năm cõi. Cõi là nơi đến, vì thân Trung hữu có thể hướng đến, thuộc về không phải cõi. Căn cứ vào loài có sự sống mà kiến lập riêng biệt bốn loài, vì vậy thân Trung hữu cũng thuộc về loài có sự sống. Hữu trong nghĩa Trung hữu là phương tiện đi đến, cho nên gọi là Trung, tức là nói ở trong cõi.
Ở đây nói nhân là nghĩa của phiền não... còn quả là năm cõi.
Kinh: “Các cõi Dục-cõi Sắc, Vô sắc trong thế giới hiện hữu tồn tại. Như vậy, trí Diệu quán sát của Như Lai, hiển hiện đầy đủ nhân quả vô biên và sự sai biệt của ba cõi”.
Luận: Trong này chỉ rõ về tướng nhân sai biệt của các cõi. Như tùy thuộc vào nghiệp lực của hữu tình, với sức tăng thượng trong thế giới, chủng tử của tướng chung và không chung trong thức A-lạida biến hiện, nảy sinh sự khác biệt về nhân quả của ba cõi. Thế giới trong này là chung cho cả tình và phi tình. Nghĩa là thế giới hữu tình và khí thế giới. Nếu không như vậy thì trong thế giới ấy không cho nên có cõi Vô sắc, vì trong cõi này chỉ có định đã sinh ra sắc chứ không có nghiệp sinh cõi Sắc, không có phương hướng-xứ sở. Tùy thuộc vào duyên thích ứng mà kiến lập ba cõi trong ba đời. Nghĩa là trong khí thế giới chỉ có cõi Dục-cõi Sắc, cõi hữu tình và phi hữu tình.
Trong cõi hữu tình có đủ ba loại. Chỉ có cõi hữu tình lấy khí thế giới thâu nhiếp chung cho cả hữu tình và phi hữu tình, vì thế giới hữu tình chỉ có khả năng thâu nhiếp cõi hữu tình.
Như vậy, trí Diệu quán sát của Như Lai, lấy nhân quả của ba cõi làm cảnh giới, giống như sự sai biệt về hai tướng nhân quả của ba cõi được biến hiện rõ ràng, chứ không phải sinh ra nhân quả của ba cõi giống như trước.
Hai loại phân biệt. Ở đây ý nói: Vì trí Diệu quán sát có thể quán sát bao trùm hết thảy cảnh, bao trùm sự sống của tất cả các giới, tức là cõi đã chiêu cảm do nghiệp-phiền não..., với các hành thành thục, tiếp nhận tướng nhân quả của tâm-tâm pháp..., biến hiện. Nghĩa là trí
Đại viên cảnh của các Như Lai được sức tăng thượng đã sinh ra trí Diệu quán sát. Tuy không có năng duyên và sở duyên, nhưng đã xa lìa hai chướng, là nhân của hết thảy phiền não và sở tri quán sát tất cả các sự kiện nhân quả..., và có thể nói như chiếc gương tròn sạch hiện lên mọi ảnh tượng, tất cả ảnh tượng đều hiện rõ trong gương, nhưng gương trí không có lỗi sai biệt.
Trí Đại viên cảnh, đều không ngu tối đối với mọi việc. Tuy có khả năng hiện rõ tất cả ảnh tượng, tùy ý chuyển biến, nhưng mà không hề phân biệt. Trí này có khả năng hiện bày tất cả cảnh tướng cũng có phân biệt. Nếu không phân biệt thì không thể quán sát sự kiện nhân quả..., và giảng nói pháp để dứt bỏ sự nghi ngờ của chúng hội.
Đoạn văn này chứng minh một cách xác định: Tâm vô lậu..., cũng có đối tượng. Trên trí Như Lai, vô biên nhân quả của ba cõi và năm đường đều hiển hiện đầy đủ.
Có thuyết nói: Vì trí của Như Lai rất sáng suốt và thanh tịnh, cho nên tất cả cảnh tướng dù hiện bày trong trí, nhưng cảnh tướng này không phải là trí đã biến hiện, vì không thanh tịnh, mà chỉ là do tâm..., của chúng sinh đã biến hiện ra ảnh tượng của các pháp.
Nhận thức ấy không đúng, vì nếu ảnh tượng này là điều đã được nhận biết mà tâm..., của chúng sinh đã biến hiện ra thì tại sao lại hiện rõ trên trí Phật? Không thể nào từ nhân khác mà sinh tâm khác, nó mâu thuẫn với lý chân chánh, như tướng của tâm khác.
Đây cũng như vậy, nhưng cảnh tướng này là do tâm vô lậu của Như Lai biến hiện. Như ảnh tượng của phần cấu uế trong gương sáng, tuy giống như không sạch, nhưng thật ra không phải là không sạch. Tâm và tâm pháp duyên vào cảnh của pháp như vậy. Nếu duyên vào cảnh khác thì không phải, như cây kìm-chiếc đèn không động tác, chỉ vì tính chất của gương sáng vốn trong sạch, cho nên biến hiện giống như cảnh tướng, nhưng có thể duyên vào sự lo nghĩ. Nếu các cảnh tướng không phải là ảnh hiện của tâm-tâm pháp thì như năm căn..., cũng không gọi là đối tượng. Như chỗ khác nêu bày, trí không phân biệt cũng nhất định như vậy. Đối tượng là Chân như không xa lìa Thể trí, cho nên không thể xác định như vậy. Trí thế tục-hậu đắc tuy không duyên vào Chân, vì có phân biệt, mà không chứng ngộ được Thể chân, chỉ tự biến thành tướng Chân duyên vào không có. Như các phàm phu khác, tâm duyên vào tâm vô lậu, hết thảy cảnh tướng vô lậu, tuy giống như vô lậu nhưng thật sự là hữu lậu. Đây cũng như vậy. Đạo lý Duy thức đã quyết định như vậy: Tướng được biến hiện do tâm, tuy có giống nhau, nhưng thật ra thì không có tự Thể. Nếu không như vậy thì phải có sắc..., như tâm-tâm pháp cũng không xa lìa các sự tương ưng với sắc..., kia, gọi là cảnh của Duy thức là trở thành lỗi lầm lớn.
Kinh: “Như núi chúa Đại Bảo Tô-mê-lô..., trong thế giới, tồn tại hiện rõ. Trí Diệu quán sát của Như Lai, với oai thần của chư Phật và Bồ-tát đã dẫn phát giáo pháp thâm diệu rộng lớn, có thể hiện hữu”.
Luận: Trong đoạn kinh này, Đức Như Lai đã chỉ rõ về tướng của nhân hàng phục giặc oán. Như khí thế gian do sức tăng thượng trong nghiệp của các chúng sinh mà phát sinh các biển cả, không thể lay động.
Như vậy, trí Diệu quán sát của Như Lai, do các hữu tình chiêu cảm được sức tăng thượng của nghiệp tạo chánh pháp, cho nên khởi hiện giáo của pháp giới không thể lay động. Pháp giới ở đây là lý Không-Vô tướng. Nói lý pháp giới tức là giáo của pháp giới.
Các ngoại đạo..., đều dựa vào các kiến chấp vào lý Không của pháp giới. Để đối trị với các kiến chấp đó, là xa lìa mọi lĩnh vực kiến chấp. Vì vậy đối với giáo pháp về Không, họ không thể lường xét. Họ không thể lay động trước giáo pháp của oai thần. Vì oai thần cao rộng, cho nên nói dụ về núi báu. Giáo của pháp giới này là pháp giới rất sâu xa, cho nên ví dụ về biển cả. Vì trí Diệu quán sát là nhân tố có thể soi rõ tất cả cảnh, có thể khởi sự giảng nói tất cả giáo pháp.
Lược nêu về sự thù thắng, cho nên Khế Kinh: Phật-Thế Tôn được gọi là mặt trời trí vĩ đại, vì có khả năng soi sáng khắp hết thảy các pháp.
Kinh: “Lại như thế giới được vây bọc xung quanh do vòng núi lớn-nhỏ.
Như vậy, trí Diệu quán sát của Như Lai không hề ngu tối, dù bị vây bọc do tất cả tự tướng, cộng tướng”.
Luận: Ở đây chỉ rõ về tướng của nhân đoạn trừ tất cả nghi ngờ. Như khí thế giới, một ngọn núi Diệu Cao có đến bảy đại kim sơn, tám biển cả và bốn châu lớn... Thâu nhiếp bên ngoài có vòng núi nhỏ với nhiều lớp bao quanh. Như vậy là một mà nhân thành đến ngàn. Lại nữa, toàn bộ bên ngoài có vòng núi kế tiếp, bao bọc nhiều lớp chung quanh, gọi là Tiểu thiên thế giới. Như vậy là một lại tính đếm đến ngàn.
Lại toàn bộ bên ngoài, có vòng núi tiếp theo nhiều lớp vây bọc chung quanh, gọi là Trung thiên thế giới. Như vậy, là một lại tính đếm đến ngàn. Toàn bộ bên ngoài có vòng núi lớn nhiều lớp vây bọc chung quanh, có phong luân vĩ đại duy trì tổng quát ở phía dưới, gọi là ba ngàn đại thiên thế giới. Như vậy, gọi là được bao bọc do các vòng núi lớn-nhỏ.
Như vậy, trí Diệu quán sát của Như Lai, đã nhận biết khắp hết thảy tự tướng-cộng tướng, có thể đoạn trừ tất cả sự ngờ vực sai lầm và ngu muội đối với tự tướng-cộng tướng của thế gian, là nhân của ngờ vực sai lầm trong khi nhận biết tự tướng, cộng tướng. Trí Diệu quán sát không có cái ngu đó. Chính mình không hoài nghi, sai lầm thì mới có thể cắt đứt được mối nghi ngờ của người khác.
Trí Đại viên cảnh vĩnh viễn xa rời hai chướng, cho nên không ngu tối. Tất cả tự tướng, cộng tướng đều có khả năng sinh ra trí này, thâu nhiếp trí ấy cho nên gọi là vây quanh.
Gương trí tuy có khả năng nhận biết được tự tướng-cộng tướng của hết thảy pháp, không hề phân biệt, nhưng không có khả năng nói pháp để đoạn tuyệt sự nghi ngờ của người khác. Trí này có khả năng nhận biết, có sự phân biệt cho nên có thể nói pháp để chấm dứt sự nghi ngờ của mọi người.
Lại nữa, Thể của trí này có thể nhận rõ tự tướng, cộng tướng của các pháp. Nó được vây quanh do hai hành tướng: Hành tướng của tự tướng như vòng núi nhỏ, và hành tướng của cộng tướng như vòng núi lớn. Gương trí có khả năng duy trì, như gió duy trì ở phần dưới. Trí thanh tịnh của Như Lai thuộc về hiện lượng, làm sao có thể nhận biết được tướng chung của các pháp? Nếu cảnh của tướng chung được nhận biết bằng hiện lượng thì tại sao hai lượng lại dựa vào hai tướng để thành lập?
Có nghĩa: Vì hai lượng kia ở phần vị của tâm tán loạn, cho nên dựa vào hai tướng để thành lập, chứ không nói ở phần vị của định. Nếu ở tâm định mà duyên với tất cả tướng thì đều thuộc về hiện lượng.
Có nghĩa: Tâm định chỉ duyên vào tự tướng, nhưng vì phương tiện của tướng chung đã dẫn phát, duyên vào các tướng chung, lý đã được sáng tỏ. Căn cứ theo phương tiện mà nói, gọi là nhận biết được tướng chung. Ngược lại, là nhận biết tự tướng. Do đạo lý này, hoặc nói Chân như gọi là tướng chung của các pháp Không-Vô ngã, hoặc nói hai loại Không mà Chân như đã làm sáng tỏ không phải là tướng chung.
Nghĩa như thật: Luận Nhân Minh kia thành lập tự tướng và tướng chung so với đây có khác đôi chút.
Nhân Minh nói nghĩa thật trên tất cả pháp, đều gọi là tướng chung, vì tự tướng và tướng chung trên các pháp đều dựa vào Thể của mình, không dựa chung với Thể khác. Nếu tâm phân biệt thiết lập một chủng loại gồm năng thuyên và sở thuyên, thì thông suốt ở các pháp, như dây xâu hoa, gọi là tướng chung. Tướng chung này chủ yếu do tâm tán loạn, phân biệt giả lập là cảnh của tỷ lượng. Tất cả tâm định xa lìa sự phân biệt này, đều gọi là hiện tượng. Mặc tuy duyên vào các pháp khổ-vô thường..., nhưng mỗi pháp đều có các pháp riêng cho nên gọi là tự tướng. Chân như tuy là tướng chung đã sáng tỏ, vì nó là tự tánh chân thật của các pháp, tự có tướng nhưng nó cũng không phải là tướng chung. Không thể vì tướng chung đó cùng với tất cả pháp không một-không khác mà gọi là tướng chung. Tự tướng cũng cùng với tất cả tướng chung không một-không khác, vì vậy luận kia nói, trên các pháp vốn có nghĩa thật, đều gọi là tự tướng. Kinh này không như vậy cho nên không mâu thuẫn nhau.
Kinh: “Lại nữa, này Bồ-tát Diệu Sinh, trí Thành sở tác…”.
Luận: Trí Thành sở tác, nên biết! Thành lập Hóa thân của Như Lai. Hóa này lại có ba loại:
1. Thân hóa.
2. Ngữ hóa.
3. Ý hóa.
Thân hóa lại có ba loại:
1. Hóa hiện thần thông.
2. Hóa hiện thọ sinh.
3. Hóa hiện nghiệp quả.
Ngữ hóa cũng có ba loại:
1. Ngữ hóa chúc mừng, an ủi.
2. Ngữ hóa phương tiện.
3. Ngữ hóa biện luận, tán dương.
Ý hóa lại có bốn loại:
1. Ý hóa quyết định lựa chọn.
2. Ý hóa tạo tác.
3. Ý hóa phát khởi.
4. Ý hóa lãnh thọ.
Trí Thành sở tác có thể khởi hiện tác Dụng hành hóa của ba nghiệp như vậy. Ba nghiệp giáo hóa này chính là Hóa thân.
Cho nên biết trong Hóa thân này, lấy Dụng để làm sáng tỏ cho Thể, chứ không phải ba nghiệp này chính là Thể của trí, mà chỉ là tướng phần được hiện bày trên trí. Hoặc do sức nơi tăng thượng duyên của trí sở tác kích phát gương trí tương ưng với Thức thanh tịnh, khiến hiện lên tác dụng hành hóa của ba nghiệp như vậy cho nên tự nó cũng có khả năng hiện bày. Phải biết rằng bốn trí, mỗi trí đều có thể phát sinh tất cả tác dụng.
Căn cứ vào phần nhiều và mạnh mẽ, cho nên nói trí Bình đẳng tánh khởi hiện thân thọ dụng, trí Thành sở tác khởi hiện thân biến hóa, trí Diệu quán sát thì quán sát tất cả tự tướng và tướng chung của các môn Đà-la-ni, Tam-ma-địa..., trí Đại viên cảnh có thể hiện bày ảnh tượng của tất cả các pháp. Như mỗi mỗi căn nhận lấy tất cả cảnh, không phải là không có tác dụng mạnh mẽ.
Đây cũng như vậy, lời văn trong đoạn kinh này chứng minh quyết định: Ba nghiệp của tâm-tâm pháp..., đều có biến hóa. Trên trí của Đức Như Lai hiện lên tất cả công đức của tướng thô trong tâmtâm pháp..., này khiến cho các phần vị dưới có thể biết rõ hiện thực. Nếu không như vậy, thì hàng phàm phu, Nhị thừa làm thế nào biết được? Đức Như Lai hiện có công đức khác biệt của tâm-tâm pháp..., tại sao Như Lai đã thành Phật lâu rồi, lại còn hiện làm các loại hóa thân với đủ cả tham-giận...? Kinh khác cũng nói: Hóa ra vô lượng loại đều khiến có tâm. Lại nữa, nói Hóa thân, cũng gọi là có tâm, cũng gọi là không có tâm. Có tâm dựa vào kẻ khác, không có tâm tự dựa vào mình, nghĩa là dựa vào tâm thật, hiện ra tâm Biến hóa, nhưng tâm thật ở trên tướng phần, giống như có tác dụng duyên vào suy nghĩ... Như lửa trong gương không có tự thể riêng biệt, mà tùy thuộc vào các duyên mới phát sinh, như các tâm còn lại, ở chỗ khác, dù nói là không có các tâm Biến hóa vì không có tác dụng thật, nhưng các tâm như thật biến hóa ra các sắc là có tác dụng thật. Như các sắc thật cho nên nói riêng là có. Do tướng thô của các tâm Biến hóa hiện rõ dễ nhận biết, cho đến loài vượn khỉ cũng biết được tâm của Như Lai. Nếu tâm thật của Phật thì các Đại Bồ-tát cũng không thể hiểu được.
Kinh: “Như các chúng sinh siêng năng cố gắng trong nghiệp của thân, do đó các chúng sinh ấy hướng đến, mong cầu những việc lợi ích cho nên họ siêng năng trong các nghề nông, phụng sự vua...
Như vậy, trí Thành sở tác của Như Lai, thân siêng năng với nghiệp hóa hiện, do đó Như Lai thị hiện các loại phương tiện khéo léo ở mọi nơi chế ngự các chúng sinh kiêu mạn. Do diệu lực của phương tiện thiện xảo ấy dẫn dắt các chúng sinh khiến cho họ thâm nhập Thánh giáo, được thành thục và giải thoát”.
Luận: Trong đoạn kinh này chỉ rõ Như Lai hóa hiện thần thông với tướng của nghiệp Thân hóa.
Khiến tâm dũng mãnh cho nên gọi là siêng năng, cố gắng, nhận lấy sự luôn tinh tiến trong tánh thiện, ngoài ra chỉ là tác ý. Do đó phát sinh thân nghiệp siêng năng, cố gắng.
Vì căn cứ theo nhân mà đặt tên. Do thân nghiệp này mà hữu tình thế gian đã tạo cho nên ba nghiệp chân chánh. Chữ đẳng (là cùng chọn lấy những việc xen lẫn còn lại).
Trí Thành sở tác tương ưng với tinh tiến, khởi hiện nghiệp Hóa thân. Do nghiệp Hóa thân này mà khi còn làm Bồ-tát, Như Lai đã thị hiện đủ loại sự việc và nơi chốn khéo léo như thợ gốm... Đây là tướng của thân nghiệp được biến hiện trên trí, vì muốn khuất phục kẻ kiêu mạn về kỹ thuật, cho nên biến hiện sự việc ấy, bằng phương tiện khéo léo, tức là Từ Bi-trí tuệ bình đẳng, chuyển hóa đạo là trước, rồi mới hiện bày thần thông. Lúc đầu khiến cho chúng sinh phát sinh niềm tin tưởng, cho nên gọi là dẫn dắt chúng sinh khiến cho họ thâm nhập Thánh giáo, như hiện thần thông hóa độ Ca-diếp... Sau đó, làm cho họ điều phục, tùy thuận, mà có thể tiếp nhận giáo pháp, gọi là thành thục, dìu dắt khiến cho nuôi lớn các thiện căn. Về sau, giúp họ giải thoát khỏi đường ác nơi ba cõi, dù có chủng tánh hay không, vẫn theo thứ tự đó, cho nên gọi là giải thoát.
Do năng lực giáo hóa, kẻ có chủng tánh giúp họ sinh vào Thánh đạo, giải thoát khỏi ba cõi. Còn kẻ không có chủng tánh thì khiến cho họ tu tập việc thiện nơi thế gian, sẽ được sinh vào đường thiện, giảng chánh pháp giúp cho thiện căn đó phát triển mong thoát khỏi ba cõi. Lại phóng ánh áng chấm dứt đau khổ, an lập đường thiện cứu giúp.
Lại khiến cho họ phát sinh các tuệ, Văn-Tư-Tu theo thứ tự ba câu.
Lại khiến cho họ nảy sinh tâm thuận theo phần giải thoát, tùy thuận phần lựa chọn và sinh vào Thánh đạo, theo thứ tự ba câu.
Lại khiến cho họ hội nhập kiến đạo-tu đạo và đạo Vô học là ba câu theo thứ tự.
Giải thích cho nên tùy theo tướng như vậy mà nói, các phần sau cũng vậy.
Kinh: “Lại nữa, như thân nghiệp thọ dụng của chúng sinh do đó chúng sinh thọ dụng các loại cảnh giới như sắc… Như vậy, trí Thành sở tác của Như Lai tiếp nhận nghiệp hành hóa của thân. Do đó, Như Lai đã đi các loại sinh xứ của các chúng sinh, thị hiện cùng loại sinh nhưng mà thuộc ngôi vị tôn quý. Chính vì sự thị hiện cùng loại sinh, cho nên đã nhiếp phục được tất cả các chúng sinh thuộc loại khác, lại dùng năng lực của phương tiện khéo léo, dẫn dắt các chúng sinh đi vào Thánh đạo, đạt được thành thục và giải thoát”.
Luận: Đoạn này chỉ rõ sự hóa hiện thọ sinh trong tướng của nghiệp Thân hóa.
Hữu tình thế gian đối với các sinh xứ, tùy các căn tiếp nhận cảnh giới như sắc của họ..., cho nên gọi là thân thọ dụng. Vì có vận chuyển, cho nên gọi là nghiệp thân.
Ở tất cả sinh xứ, trí Thành sở tác đồng thời hiện sinh trong cảnh giới thọ dụng. Nghĩa là hiện bày Hóa thân tại tất cả sinh xứ trong cõi trời-người, thị hiện cùng loại sinh ở chủng tộc Sát-đế-lợi, Bà-lamôn, thuyết phục các loài thấp kém khiến cho họ được lợi ích yên vui. Đây cũng là tướng của thân nghiệp được biến hiện trên trí, hoặc kích thích gương trí, hoặc tự hiện rõ. Các trường hợp khác cũng như vậy.
Kinh: “Lại như chúng sinh lãnh thọ nghiệp thân. Do đó chúng sinh lãnh thọ quả báo của nghiệp thiện-ác đã gây tạo.
Như vậy, trí Thành sở tác của Như Lai, nhận lãnh nghiệp hành hóa của thân. Do vậy, Như Lai thị hiện lãnh thọ các hành khó tu tập của bản sự-bản sinh, dẫn dắt các chúng sinh bằng năng lực của phương tiện khéo léo ấy, khiến cho họ tiến vào Thánh giáo đạt được thành thục và giải thoát”.
Luận: Trong đoạn này nói rõ về sự hóa hiện nghiệp quả trong tướng của nghiệp Thân hóa. Thân tức là nghiệp cho nên gọi là thân nghiệp. Vì quả của nghiệp trước, cho nên quả nói theo tên của nhân. Hoặc khi thân lãnh thọ quả của nghiệp trước, vì có sự vận chuyển tác dụng, cho nên gọi là thân nghiệp. Do nghiệp thân này lãnh thọ nghiệp trước mà quả có đáng ưa thích hay không đáng ưa thích. Trí Thành sở tác biến hiện giống như Hóa thân lãnh thọ nghiệp hành hóa. Do nghiệp này cho nên thị hiện, tiếp nhận các hành khó tu tập của tất cả bản sự-bản sinh.
Các sự việc khác hiện có tương ưng với đời trước gọi là bản sự. Sự khác biệt về chủng loại đã thọ sinh từ đời trước, gọi là bản sinh. Như tất cả sự kiện bản sinh của Tỳ-thấp-phạn-đát-la... Dựa vào bản sinh này, trước kia đã tu hành các loại khổ hạnh, gọi là khó tu hành. Hoặc ở đời này, dựa vào thân biến hóa, trước đây tu tập khổ hạnh, về sau bỏ cách tu đó, tu theo cách trung đạo mới chứng Bồđề, gọi là khó tu hành. Vì các chúng sinh cho rằng phải tu tập khổ hạnh, dứt ác, tu thiện mới chứng đắc Bồ-đề, mong muốn hóa độ họ cho nên trước hết Như Lai thị hiện giống với họ, tu tập các hạnh khổ để thể hiện rằng không phải chỉ có giữ giới là được trong sạch, mà cần phải do định và tuệ, mới được thanh tịnh.
Đức Như Lai thị hiện từ bỏ việc tu tập khổ hạnh mà tu tập theo trung đạo mới được Bồ-đề. Có Khế Kinh: Vào đời quá khứ, thời Phật Ca-diếp, Như Lai đã có lời quở trách thế này: Nơi nào có Sa-môn cạo bỏ râu tóc, mà có đạo Đại Bồ-đề? Vì Bồ-đề vô thượng rất khó có được. Do nghiệp ác đó cho nên nay phải chịu quả báo hành những việc khó khổ như vậy.
Lời nói này cũng là vì muốn chấm dứt hành ác mà hiện hóa những tạo tác. Nếu không như vậy thì làm gì có Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ, đã từng được thân cận phụng sự vô lượng Như Lai, gieo trồng tánh vốn có của các thiện căn, do nhớ lại những việc mình đã làm từ kiếp trước, mà vụt khởi lên hành ác bằng lời nói nặng như vậy. Phải biết rằng Đức Phật nói lên lời này là mong muốn hóa độ. Cho nên người nghe lời này mà được hóa độ, khiến cho đối với Đức Phật mà xa lìa lời nói ấy.
Kinh: “Lại như ngữ nghiệp của chúng sinh nói lời chúc mừng an ủi. Do đó chúng sinh lần lượt luận đàm, an ủi, chúc tụng lẫn nhau.
Như vậy, trí Thành sở tác của Như Lai, với lời chúc mừng tốt đẹp là nghiệp Ngữ hóa. Do nghiệp này, cho nên Đức Như Lai đã tuyên dương các pháp tùy theo sự ưa thích của mọi người, với văn nghĩa mầu nhiệm khéo léo, dù các chúng sinh trí nhỏ hẹp, nhưng vừa nghe qua mà vẫn tin tưởng, dùng diệu lực của phương tiện khéo léo ấy mà dẫn dắt các chúng sinh tiến vào Thánh giáo, đạt được thành thục và giải thoát”.
Luận: Ở đây là chỉ rõ về ngữ hóa chúc mừng an ủi trong tướng của nghiệp Ngữ hành hóa. Chúc mừng, an ủi tức là chỗ sai biệt của sự vui mừng. Lời nói có thể phát sinh các điều ấy, cho nên gọi là chúc mừng, an ủi. Vì nghe lời nói này, mọi người đều lần lượt phát sinh hoan hỷ lớn. Nghĩa là các hữu tình do sức tăng thượng của tâm mà phát ra lời nói, đều là tướng của nghiệp ngữ được biến hiện trên thức khác biệt của mỗi chúng sinh, làm tăng thượng duyên, khiến cho các thức khác biến hiện giống như tướng của nghiệp ngữ, đều cho rằng nghe lời nói của người khác mà cảm thấy vui mừng.
Trí Thành sở tác hóa tạo nghiệp ngữ, cho nên biết cũng như vậy. Tự hóa hiện ra tiếng nói vi diệu khiến cho tâm người khác thay đổi, nghĩa là nghe lời Phật nói mà lòng mình cảm thấy hoan hỷ.
Tùy theo pháp mà họ ưa chuộng là tùy theo năng lực trong nhân tố của chúng sinh mà họ ưa nghe. Người, Trời và ba Thừa có pháp khác nhau.
Văn khéo léo vi diệu, là chữ và câu văn rất sáng tỏ tuyệt vời dễ lôi cuốn người nghe.
Nghĩa khéo léo mầu nhiệm, là nghĩa rất sâu xa và phân minh dễ hiểu.
Những chúng sinh trí tuệ nhỏ hẹp mới nghe mà vẫn tin, là vì tiếng nói của Phật có đủ sáu mươi đức. Các hàng phàm phu ngu tối dù mới nghe qua hãy còn tin hiểu, huống là những người thông minh mẫn tiệp khác.
Trí Thành sở tác gọi là an ủi chúc mừng; vì nó có khả năng biểu hiện lời nói giáo hóa, tuyên thuyết tất cả văn nghĩa mầu nhiệm khéo léo, làm nảy sinh tâm hoan hỷ của các hữu tình, cũng có thể gia bị cho các chúng sinh khéo thể hiện..., vì ngôn âm của Phật diễn nói pháp thâm diệu thật khó lường xét.
Như vậy, trí này có thể gia bị cho người khác.
Tất cả luận là tất cả các loại sắc cho đến hư không, cũng có khả năng phát sinh lời nói giáo hóa giảng nói pháp. Cho nên biết việc này là không thể nghĩ bàn được.
Kinh: “Lại như nghiệp ngữ phương tiện của chúng sinh, do đó các chúng sinh lần lượt chỉ dạy, truyền trao nghề chuyên môn đã làm, như chê bỏ điều ác, ca ngợi việc thiện, dùng mệnh lệnh triệu tập nhau lại.
Như vậy, trí Thành sở tác của Như Lai đã khởi hiện phương tiện trong nghiệp ngữ biến hóa. Do vậy, Như Lai đã thiết lập học xứ chân chánh, chê trách mọi sự phóng dật, ca ngợi đức không phóng dật.
Hơn nữa, Như Lai còn kiến lập hạnh tùy tín khiến cho người theo pháp mà hành trì dùng diệu lực của phương tiện khéo léo ấy mà dẫn dắt chúng sinh khiến cho họ tiến vào Thánh giáo, đạt được thành thục và giải thoát”.
Luận: Đoạn kinh này chỉ rõ về Ngữ hóa phương tiện trong tướng của nghiệp ngữ hành hóa. Như phương tiện trong nghiệp ngữ của chúng sinh ở thế gian, lại cùng chỉ bảo cho nhau về chuyện nên làm hay không nên làm, những lợi ích cho bạn bè thân thuộc.
Đối với chúng sinh sống buông thả thì phải giúp sức cho họ làm thiện, cho nên gọi là phương tiện.
Như vậy, do tâm Đại Bi vì các hữu tình mà Như Lai thiết lập học xứ, khuyên bảo dẹp bỏ mọi điều ác, tu tập việc thiện của thế gian, xây dựng từng phần vị khác nhau của Thánh đạo, khiến cho chúng sinh tiến vào chánh đạo mà thoát khỏi ba cõi.
Trí Thành sở tác của Như Lai có thể phát sinh ngữ hành hóa, làm xong việc này, nghĩa là chấm dứt mọi điều ác, phát sinh các việc thiện.
Đây là tác dụng của lời nói.
Kinh: “Lại như chúng sinh mở rộng nghiệp ngữ bằng tranh luận, vì vậy chúng sinh lần lượt chỉ bày những chỗ nghĩa chưa hiện rõ (Bất liễu nghĩa) bằng cách đọc các luận.
Như vậy, trí Thành sở tác của Như Lai hiện bày nghiệp Ngữ hóa biện luận. Do vậy, Như Lai đã đoạn trừ vô lượng điều nghi hoặc của các chúng sinh. Nhờ diệu lực của phương tiện khéo léo này mà dẫn dắt, các chúng sinh khiến cho tiến vào Thánh giáo, đạt được thành thục và giải thoát”.
Luận: Đoạn kinh này chỉ rõ về Ngữ hóa biện luận tán dương trong tướng của nghiệp ngữ hành hóa.
Trí Thành sở tác tùy theo chỗ khác nhau về sự ưa thích của các chúng sinh mà hiện khởi nghiệp ngữ biến hóa, nói các loại nghĩa đoạn tuyệt mọi sự nghi hoặc. Nghĩa là phát ra một âm, biểu thị tất cả nghĩa, khiến cho các hữu tình tùy theo loại đều được lợi ích. Như Khế Kinh: Phật dùng một âm thanh diễn nói các pháp, chúng sinh tùy theo chủng loại đều được mở bày hiểu rõ, hoặc có kẻ sợ hãi, hoặc có người hoan hỷ, hoặc nảy sinh tư tưởng nhàm chán, hoặc lại đoạn tuyệt hoài nghi. Đây là bản nguyện của Như Lai đã dẫn phát diệu lực không thể nghĩ bàn mà phát khởi ngữ biến hóa: Một âm có thể đoạn trừ tất cả mọi sự nghi ngờ. Nếu thực hiện với Hóa thân thì cũng khiến cho chúng sinh cùng một Thể chất mà thấy khác nhau về sự thành tựu việc lợi lạc.
Kinh: “Lại như chúng sinh với nghiệp ý quyết định lựa chọn. Vì vậy chúng sinh quyết định lựa chọn điều cho nên làm và điều không cho nên làm. Như vậy, trí Thành sở tác của Như Lai với ý quyết định lựa chọn nghiệp giáo hóa. Do vậy, Như Lai đã quyết định lựa chọn sự khác nhau trong tám vạn bốn ngàn tâm hành của chúng sinh. Dùng sức mạnh của phương tiện khéo léo này mà dẫn dắt, các chúng sinh khiến cho tiến vào Thánh giáo, đạt được thành thục và giải thoát”.
Luận: Trong đoạn kinh này chỉ rõ về ý hóa quyết định lựa chọn trong tướng của nghiệp ý biến hóa. Trí Thành sở tác tương ưng với nghiệp ý, có thể khởi hiện biến hóa, cho nên gọi là nghiệp ý biến hóa.
Nghiệp ý biến hóa này có thể quyết định lựa chọn sự sai biệt của tám vạn bốn ngàn tâm hành trong chúng sinh được giáo hóa. Hoặc lại hiện rõ nghiệp ý biến hóa tương tự trong tướng phần của trí này, có khả năng quyết định lựa chọn tám vạn bốn ngàn tâm hành của chúng sinh, khiến cho họ biết rõ có được nghĩa-lợi thù thắng.
Thế nào là tám vạn bốn ngàn tâm hành? Nghĩa là sự khác nhau trong tám vạn bốn ngàn các hành của tâm, và những cấu uế của trần lao nơi chúng sinh. Tâm hành này có khả năng gây chướng ngại cho tám vạn bốn ngàn Ba-la-mật, môn Đà-la-ni, Tam-ma-địa... Như đã nói rộng về các tướng Ba-la-mật đó trong kinh Hiền Kiếp. Nghĩa là đầu tiên tu tập thực hành pháp Ba-la-mật, cho đến sau cùng phân bố Ba-la-mật-đa của thân Phật gồm có ba trăm năm mươi, mỗi mỗi phần thân Phật đều có đủ sáu pháp đến bờ kia.
Như vậy, tổng cộng có hai ngàn một trăm pháp đối trị (6 x 350 = 2100). Phần tham lam-giận dữ-si mê và phần cùng có trong tâm hành của hữu tình chính là tám ngàn bốn trăm. Trừ ra bốn đại chủng và sáu thức không có nghĩa mà sinh ra lỗi lầm. Mười lần biến chuyển hợp lại thành số tám vạn bốn ngàn tâm hành. Vì tu tập tâm hành này cho nên lại thành tựu được tám vạn bốn ngàn môn Đàla-ni và Tam-ma-địa... Đây hãy còn nói giản lược, nếu nói rộng hơn là vô lượng.
Kinh: “Lại như chúng sinh gây tạo nghiệp ý, vì vậy chúng sinh gây tạo vô số các nghiệp đã khởi hiện.
Như vậy, trí Thành sở tác của Như Lai, đã tạo thành nghiệp ý giáo hóa. Do đó, Như Lai quán sát việc làm của các chúng sinh đã làm,, có làm và không làm, hoặc được, hoặc mất để khiến cho họ nhận lấy hoặc từ bỏ.
Như Lai đã tạo ra pháp đối trị. Dùng sức mạnh của phương tiện khéo léo này mà dẫn dắt chúng sinh khiến cho tiến vào Thánh giáo, đạt được thành thục và giải thoát”.
Luận: Đoạn kinh này chỉ rõ về ý hóa tạo tác trong tướng của nghiệp ý biến hóa. Tùy theo mà quán sát việc làm của tất cả hữu tình đã làm. Nếu các hành ác không làm thì có được, nếu làm thì có mất. Nếu các hành thiện, làm thì có được, không làm thì có mất.
Quán sát như vậy là muốn giúp cho chúng sinh nhận lấy cái được, bỏ đi cái mất. Đối với cái được tạo tác thì gìn giữ là pháp đối trị, đối với cái mất mà gây tạo thì dùng pháp đối trị là xa lìa.
Trí Thành sở tác tương ưng với nghiệp ý có khả năng khởi hiện biến hóa, cho nên gọi là nghiệp ý biến hóa. Tuy các Đức Như lai không còn dụng công đối với tất cả mọi việc, nhưng khiến cho tâm chúng sinh cùng biến hiện tựa như có tạo tác, cho nên gọi là tạo tác. Hoặc là hiện có nghiệp giống như ý biến hóa trong tướng phần của trí ấy có thể quán sát những việc làm được-mất của tất cả hữu tình-khiến cho họ biết rõ có được nghĩa-lợi thù thắng.
Kinh: “Lại như chúng sinh phát khởi nghiệp ý. Vì vậy chúng sinh phát khởi các nghiệp.
Như vậy, trí Thành sở tác của Như Lai phát khởi nghiệp ý biến hóa. Do đó, vì muốn tuyên thuyết các pháp đối trị với nghiệp ý của họ, Như Lai đã làm sáng tỏ danh từ-câu văn, bài văn mà các chúng sinh ưa chuộng. Dùng sức mạnh của phương tiện khéo léo ấy mà dẫn dắt các chúng sinh khiến cho họ tiến vào Thánh giáo đạt được thành thục và giải thoát”.
Luận: Trong đoạn kinh này chỉ rõ về ý hóa phát khởi trong tướng của nghiệp ý biến hóa.
Trí Thành sở tác tương ưng với nghiệp ý, có thể phát khởi hai nghiệp thân và ngữ, căn cứ theo dụng mà nói là phát khởi nghiệp ý. Hoặc ý nghiệp này do trí phát khởi cho nên gọi là phát khởi ý nghiệp, vì có khả năng giáo hóa, hoặc tướng phần của trí hiện bày giống ý nghiệp kia. Nghiệp ý biến hóa này vì muốn tuyên thuyết các pháp đối trị với ý nghiệp kia, nghĩa là nói pháp đối trị với các hành động của hữu tình.
Pháp đã giảng nói này là lấy danh từ-câu, chữbài văn làm tự tánh, cho nên làm sáng tỏ danh từcâu-chữ-bài văn. Đức Như Lai tùy theo sự việc mà các hữu tình ưa thích, vì họ giảng nói danh từ-bài văn..., khiến họ cảm thấy mến thích để phát sinh đối trị. Đó là hiện rõ nghiệp ý biến hóa trong tướng phần trên trí Thành sở tác của Như Lai, phát sinh danh từ-bài văn..., diễn nói pháp đối trị các nghiệp của hữu tình. Do năng lực ấy, khiến cho tự tâm của các hữu tình biến hiện giống như pháp mà Phật đã giảng nói, vì vậy họ nảy sinh sự ái mộ sâu xa phát sinh đối trị, cho nên gọi là phát khởi nghiệp ý.
Kinh: “Lại như chúng sinh nhận lãnh nghiệp ý. Vì vậy chúng sinh nhận lãnh mọi thứ khổ-vui. Như vậy, trí Thành sở tác của Như Lai tiếp nhận nghiệp giáo hóa của ý. Do vậy, Như Lai đối với những sự việc xác định-không xác định-hỏi lạithiết lập ghi nhận hay ghi nhận riêng biệt mà tùy theo sự thích hợp của chúng sinh tiếp nhận các nghĩa của quá khứ-vị lai và hiện tại. Dùng sức mạnh của phương tiện khéo léo ấy mà dẫn dắt chúng sinh, khiến cho họ tiến vào Thánh giáo, đạt được thành thục và giải thoát”.
Luận: Trong đoạn kinh này chỉ rõ về ý hóa tiếp nhận trong nơi tướng của nghiệp ý biến hóa. Thọ tương ưng với tư duy, có thể làm động tâm khiến cho cảm nhận khổ-vui, cho nên nói là tiếp nhận nghiệp ý.
Trí Thành sở tác tương ưng với tư duy cho nên có thể khởi hiện giáo hóa, gọi là nghiệp ý biến hóa. Nghiệp ý biến hóa hiện bày trong tướng phần của thành sở tác trí gọi là nghiệp ý hành hóa.
Đối với bốn loại ghi nhận-hỏi và ghi nhận riêng biệt tùy theo những điều thích hợp biết rõ ràng tất cả các câu hỏi đúng như thật rồi, tiếp nhận nghĩa lý về lô lượng các pháp trong ba đời và biết rõ ràng đúng như thật. Mỗi tự thể đều nhận biết đúng như thật rồi, tùy theo sự thích hợp mà ghi nhận riêng biệt tất cả không có gì trái ngược.
Nói bốn loại ghi nhận là:
1. Ghi nhận toàn bộ.
2. Ghi nhận phân biệt.
3. Ghi nhận hỏi lại.
4. Ghi nhận bằng im lặng mà gác lại.
Ghi nhận toàn bộ là như có người hỏi: Tất cả sự sống chắc chắn là tiêu mất chăng? Phật, Pháp, Tăng bảo là ruộng phước tốt đẹp chăng? Các câu hỏi như vậy, cần phải ghi nhận toàn bộ, vì nghĩa này là quyết định”.
Ghi nhận phân biệt là như có người hỏi: Mọi thứ tiêu mất thì chắc chắn được sinh ra lại không? Phật-Pháp-Tăng bảo chỉ có một chăng? Với những câu hỏi như vậy, cần phải phân biệt ghi nhận, vì nghĩa này không nhất định”.
Ghi nhận hỏi lại là như có người hỏi: Bồ-tát mười địa là cao hay-thấp? Phật-Pháp-Tăng bảo là hơn hay kém? Với những câu hỏi như vậy cần phải ghi nhận và hỏi lại: Ông muốn hỏi gì?
Ghi nhận bằng im lặng mà gác lại như có người hỏi: Tánh thật có của ngã là thiện hay là ác? Con của Thạch nữ màu đen hay trắng? Với những câu hỏi như vậy cần phải im lặng mà gác lại không cần phải ghi nhận vì chỉ là hý luận dài dòng.
Nên biết rằng trong này thân-ngữ nghiệp giáo hóa, hoặc tương ưng với tự thân, hoặc tương ưng với thân người khác, hoặc không tương ưng với nghiệp biến hóa của ý, hoặc chỉ tương ưng với mình và người. Bởi vì nghiệp này chính là giải thích ba loại thần biến, là thần biến về thần thôngthần biến về khuyên dạy và thần biến về ký thuyết. Nghiệp biến hóa này của Phật đối với tất cả chủng loại luôn luôn đi theo không thể nghĩ bàn được, bởi vì tác dụng và số lượng cõi nước sai biệt không thể nghĩ bàn. Vì công dụng lợi ích cho hữu tình luôn vận chuyển không mừng cho nên không thể nghĩ bàn được. Tất cả Như lai dùng ba loại hóa nghiệp, vì muốn thành thục cho hữu tình là đầu tiên, cho nên gọi là phương tiện thiện xảo bậc nhất. Do đó, Khế Kinh: Phật Thế Tôn gọi là vị thuốc đại trí, có thể chữa lành tất cả bệnh phiền não.
Kinh: “Bấy giờ, Đại Bồ-tát Diệu Sinh bạch Phật: Thế Tôn! Chỉ một mình Như Lai ở trong pháp giới thanh tịnh thọ dụng hòa hợp một vị theo trí, các Bồ-tát cũng có thể thực hiện được như vậy? Phật bảo Bồ-tát Diệu Sinh: Bồ-tát cũng có khả năng thọ dụng hòa hợp một vị theo trí”.
Luận: Nay dựa vào sự thọ dụng, hòa hợp một vị theo trí để hỏi.
Trước đây, biện luận về Phật địa chỉ nói về Thể pháp giới thanh tịnh của Như Lai chỉ là một vị. Gương trí..., của Phật ở trong sự thọ dụng hòa hợp một vị không hề hành động và không hề tạo tác. Bồ-tát Diệu Sinh có ý ngờ vực về điều này, là chỉ có Như Lai hay cũng chung cho cả Bồ-tát, vì thế nêu lên câu hỏi này. Hoặc trước kia chỉ nói có năm loại pháp thâu nhiếp quả vị Đại giác. Thể của pháp giới thanh tịnh chỉ là một vị. Gương trí dựa vào pháp giới ấy mà duyên hợp, dựa vào pháp giới ấy mà sinh khởi, không có phân biệt, cho nên cũng chỉ có một tướng. Trí Bình đẳng tánh duyên chung cả Chân như, lìa hai phân biệt, cũng chỉ có một tướng. Hai trí còn lại vì làm lợi ích cho chúng sinh, cũng dựa vào Chân như, không phân biệt riêng khác, cũng chỉ có một tướng.
Như vậy, chỉ có Phật thọ dụng hòa hợp một vị theo trí, cho nên không chung với quả vị khác. Vì muốn biết chắc chắn cho nên đặt ra câu hỏi này.
Trong này đã nói, đối với pháp giới thanh tịnh thì sự thọ dụng hòa hợp một vị theo trí đủ chứng tỏ rằng, nơi khác không có sự thọ dụng hòa hợp một vị theo trí. Có thể thọ dụng những gì thích ứng thọ dụng hòa hợp một vị trong cảnh giới Chân như cho nên gọi là thọ dụng. Cùng chung một việc cho nên gọi là hòa. Tuy cùng một việc nhưng có lúc lại ly biệt là vì biểu hiện trong đó thường không ly biệt. Lại nói hợp cùng năng duyên và sở duyên, bình đẳng và bình đẳng tuyệt đối hòa hợp không ly biệt.
Vị có nghĩa là chắc thật, tức là sở thọ dụng và sở duyên cùng một vị Chân như của pháp giới.
Sự nghĩa là dụng sự. Trí tức là trí của năng thọ dụng, đích thực nhận lấy gương trí và trí Bình đẳng tánh, nhận lấy cả hai trí còn lại, vì phần nhiều duyên vào Chân như. Hoặc một vị là trí của năng thọ dụng không phân biệt. Sự là quả, duyên vào pháp giới thanh tịnh mà sinh khởi. Hoặc năng thọ dụng tức là xả thọ, không khổ-không vui mà bình đẳng một loại, cho nên gọi là một vị. Sự là quả. Chính quả này tương ưng với trí viên cảnh..., do năng lực của quả đó nảy sinh cho nên gọi là quả kia. Hoặc là hành xả không có tướng công dụng, bất cứ ở đâu cũng một vị mà chuyển biến.
Trí của năng thọ dụng gọi là trí sự. Hoặc là trí tự có thể lãnh thọ Thể của mình, cho nên gọi là thọ dụng. Hai loại mình-người vì không có phân biệt cho nên nói là một vị. Sự là quả là thuận theo các nhân duyên, xa lìa hai tưởng, mà luôn luôn chuyển biến mãi.
Bồ-tát cũng có thể như vậy, trong này nói thọ dụng hòa hợp một vị theo sự trí không phải riêng một mình Như Lai.
Nếu các Bồ-tát cũng có thể như vậy thì tại sao chỉ nói có năm loại pháp thâu nhiếp quả vị Đại giác? Ở đây ý nói, Phật địa chỉ thuộc về năm pháp mà không nói năm pháp chỉ có năm pháp này thâu nhiếp không nói là năm pháp chỉ thâu nhiếp Phật địa, mà cũng có thể thâu nhiếp các địa Bồ-tát.
Kinh: “Bồ-tát Diệu Sinh lại bạch Phật: Những Bồ-tát nào được thọ dụng hòa hợp một vị theo sựtrí?. Phật bảo Bồ-tát Diệu Sinh: Bồ-tát chứng được pháp Nhẫn vô sinh. Do Bồ-tát kia từ trong pháp Vô sinh, lúc đạt được Nhẫn giải đã đối trị hai tưởng. Vì loại trừ hai loại tưởng về mình-người cho nên tâm được bình đẳng. Từ đó trở lên các Bồtát kia, ý tưởng phân biệt về mình-người không còn hiện tiền nữa, được thọ dụng hòa hợp một vị theo sự-trí”.
Luận: Vì chỉ rõ Bồ-tát chưa chứng được pháp Nhẫn vô sinh của Đại thừa, hoặc Bồ-tát còn trú trong công dụng có đạo gia hạnh, cho nên chưa có thọ dụng hòa hợp một vị theo sự-trí.
Lại hỏi: Những Bồ-tát nào được thọ dụng hòa hợp một vị theo sự-trí?
Đáp: Đó là Bồ-tát đã chứng được pháp Nhẫn vô sinh. Nghĩa là Bồ-tát từ địa thứ nhất trở lên, chứng được hai Không, đã hiện bày Chân như, quán sát tất cả pháp trong biến kế sở chấp với bản tánh không sinh, cũng không diệt, xưa nay vắng lặng yên tĩnh là tự tánh Niết-bàn, cho nên được thọ dụng hòa hợp một vị theo sự-trí, chẳng phải như hàng Nhị thừa kiến đạo-hiện quán, chỉ chứng Sinh Không mà hiển bày được Chân như, chứ chưa chứng Pháp Không để hiển bày về Chân lý chưa có năng lực hiện quán các pháp bình đẳng để thọ dụng hòa hợp một vị theo trí-sự. Bồ-tát địa tiền cũng chưa có thể chứng ngộ, chưa thấy được Chân như hòa hợp một vị vì trí Bình đẳng tánh chưa hiện hành.
Có thuyết cho là: Từ, Bồ-tát địa thứ nhất trở lên lại có ba loại:
1. Mới phát tâm là ở địa thứ nhất, đã vào Kiến đạo chánh tánh ly sinh, tâm chân vô lậu bắt đầu hiện hành.
2. Đã tu hành: Nghĩa là sáu địa trên đã được Tu đạo vì tu hành tinh tiến.
3. Không thối chuyển, nghĩa là ba địa trên, Tu đạo đã viên mãn, xa rời các công dụng, không còn đạo gia hạnh, tự nhiên hiện tiền, tất cả phiền não hoàn toàn không còn dấy khởi, mỗi mỗi niệm đều tinh tiến thù thắng, không còn thoái chuyển.
Ở đây, chỉ chọn lấy từ tám địa trở lên, quán sát tất cả pháp xưa nay không sinh, hiện tại cũng không khởi, được Nhẫn bậc thượng luôn luôn thanh tịnh, luôn phát khởi vô lậu, chuyển biến tự nhiên. Vì được như vậy cho nên nói là chứng được pháp Nhẫn vô sinh. Như Khế Kinh: Tám địa trở lên, các chúng Bồ-tát đã tách lìa tưởng pháp, cho nên không có ngã và ngã sở. Quán sát tất cả pháp không phải là thường mà vô thường-không sinhkhông khởi, mình-người đều bình đẳng. Cho đến nói rộng. Do được đối trị hai tưởng tự nhiên, bất cứ ở đâu đều có tâm bình đẳng.
Từ đây trở lên vì đã lìa hai tưởng, tách khỏi các công dụng và gia hạnh, luôn luôn vô lậu, rất thanh tịnh, cho nên trí không còn phân biệt mà đã được tự tại, chuyển biến tự nhiên, mới được gọi là thọ dụng hòa hợp một vị theo sự-trí.
Bồ-tát địa thứ nhất tuy đã chứng được bình đẳng giữa mình và người, nhưng vẫn còn có dụng công, tác ý gia hạnh, vì chưa thanh tịnh cho nên chưa kiến lập.
Kinh: “Bồ-tát Diệu Sinh lại bạch Phật: Ngưỡng mong Như Lai nói rộng bằng thí dụ, để cho các Bồ-tát đều ngộ được nghĩa rất sâu xa, tùy theo duyên mà giáo hóa, tuyên dương rộng rãi truyền bá khắp nơi khiến cho chúng sinh được nghe, đều mau chứng ngộ pháp Nhẫn vô sinh”.
Luận: Bồ-tát Diệu Sinh muốn cho nghĩa trên được sáng tỏ, dễ nhận thấy nhờ cách thí dụ để sau khi nghe pháp này, các Bồ-tát đạt được nghĩa rất sâu xa, chứng được nhẫn vô sinh, cho nên lại thỉnh hỏi.
Kinh: “Phật bảo Bồ-tát Diệu Sinh: Ví như trời Ba mươi ba chưa đi vào khu rừng tạp, cho nên cuối cùng không thể thọ dụng sự hòa hợp đối với sự, hoặc cảm nhận về vô ngã, ngã sở. Nếu vào rừng tạp thì không còn phân biệt mà tùy ý thọ dụng, do khu rừng tạp ấy có đức như vậy, có khả năng khiến cho chư Thiên đi vào khu rừng này thì thọ dụng hòa hợp đối với quả báo của các cõi trời, hoặc sự-hoặc cảm nhận, không có gì tư duy.
Như vậy, nếu chưa chứng được pháp Nhẫn vô sinh thì Bồ-tát rốt cuộc không có khả năng đạt được tâm bình đẳng và xả bình đẳng, cho nên không có gì khác biệt với tất cả Thanh văn-Độc giác, vì còn có hai tưởng. Bồ-tát đó không thể an trú trong sự thọ dụng hòa hợp một vị theo sự-trí. Nếu đã chứng được pháp Nhẫn vô sinh và vì trừ hết hai tưởng mà đạt được tâm bình đẳng thì sẽ khác với Thanh văn-Độc giác.
Nhờ có tâm bình đẳng, mà có thể an trú buông xả, thọ dụng hòa hợp một vị theo sự-trí”.
Luận: Trời Ba mươi ba có một khu rừng tạp, hiện ra do sự hòa hợp trong năng lực phước báo của chư Thiên, khiến chúng chư Thiên không cư ngụ ở khu rừng này, vì sự cảm nhận khổ vui ở cung điện hơn kém đều khác nhau, vì còn có sự thọ dụng sai biệt của ngã và ngã sở.
Nếu ở khu rừng này thì hoặc sự-hoặc cảm nhận đều không có hơn kém, đều cùng chung một vị Vô ngã-ngã sở tuyệt vời nhất hòa hợp thọ dụng có thể khiến cho bình đẳng. Vì hòa hợp thọ dụng cho nên gọi là rừng tạp.
Đây là do chư Thiên đều tu tập bình đẳng, do sức tăng thượng hòa hợp của nghiệp phước, làm cho thức A-lại-da của chư Thiên kia biến hiện ra khu rừng này đều cùng nơi cư trú, cùng lúc và cùng một tướng trạng.
Do sức tăng thượng của khu rừng này khiến cho chuyển thức của các trời kia cũng cùng biến hiện, tuy cùng thọ dụng nhưng họ cho là không khác biệt.
Như vậy, Bồ-tát địa tiền và hàng Nhị thừa, chưa chứng được hai Không để hiển bày Chân như cùng pháp Nhẫn vô sinh, còn có chấp khác nhau về Kiến đạo đoạn, chưa xa rời hai tưởng khác nhau giữa mình và người, chưa đạt được tâm bình đẳng về thọ-xả tương ưng với trí Bình đẳng tánh vô lậu. Hoặc còn hành xả cho nên không thể an trú trong sự thọ dụng hòa hợp một vị theo sự-trí.
Có nghĩa là bảy địa trở xuống, Bồ-tát còn có dụng công, còn có đạo gia hạnh, còn có phiền não vi tế hiện hành, cho nên chưa thanh tịnh, chưa đạt được pháp Nhẫn vô sinh tùy ý vận dụng, trí Diệu quán sát tương ưng với bình đẳng, hoặc là tâmhoặc là xả, cho nên không có năng lực an trú thọ dụng hòa hợp một vị theo sự-trí.
Kinh: “Lại nữa, này Bồ-tát Diệu Sinh! Ví như rất nhiều dòng sông lớn nhỏ chưa đổ vào biển cả, thì mỗi dòng sông đều dựa vào mỗi loại nước khác nhau với lượng nước ít. Lượng nước có thêm-bớt, tùy thuộc vào sự vận chuyển nước, tạo ra mỗi loại nước đều khác nhau, một phần ít nước tựa vào nhau để duy trì sinh mạng của thủy tộc. Nếu các dòng nước đổ vào biển cả thì không có nơi nương tựa riêng biệt nữa, nước không khác nhau, nước không có hạn lượng nước, không có thêm bớt, mà làm thành nghiệp rộng lớn dựa vào nhau để, duy trì sinh mạng của thủy tộc.
Như vậy, nếu Bồ-tát chưa chứng nhập biển cả pháp giới thanh tịnh của Như Lai, thì mỗi Bồ-tát đều nương tựa riêng biệt vào trí khác nhau-trí ít và trí có thêm bớt. Tùy thuộc vào nghiệp trí của mỗi Bồ-tát đã mà làm thành công hạnh khác biệt. Một phần ít chúng sinh dựa vào trí, mà thiện căn được thành thục. Nếu Bồ-tát đã chứng nhập biển cả pháp giới thanh tịnh của Như Lai, thì không còn chỗ dựa riêng biệt nữa, trí không có khác biệt, trí không có hạn lượng, trí không có thêm bớt, thọ dụng hòa hợp một vị theo sự-trí, là nơi nương tựa cho vô lượng chúng sinh được thành thục thiện căn của mình”.
Luận: Các dòng sông lớn, nghĩa là bốn con sông lớn như Hằng hà... Các dòng sông nhỏ, nghĩa là các sông nhỏ khác.
Chưa đổ vào biển cả mỗi sông đều có chỗ nương tựa riêng, là mỗi mỗi sông nương tựa vào các địa phương.
Nước khác là nước trong-đục và nước tro, nước tốt khác nhau. Nước ít là so với biển cả.
Nước có thêm-bớt là do sự khác nhau theo lúc mưa ít, mưa nhiều. Tùy thuộc vào nghiệp nước đã tạo, mà mỗi thứ đều khác nhau, tức là các sức mạnh về sự bốc hơi, vị nước, sự thành thục có khác nhau.
Một phần ít nước làm nơi nương tựa duy trì sinh mạng của thủy tộc là một số ít với dung lượng nước ít, làm nơi nương tựa, duy trì sự sống cho chúng sinh loài thủy tộc.
Nếu các dòng sông đều đổ vào biển cả thì không có chỗ tựa riêng biệt là so với trước đã nói, tất cả đều ngược lại, cho nên biết.
Tướng của biển rộng lớn làm nơi nương tựa duy trì, là dựa vào số lượng rộng lớn mà nói.
Như vậy, Bồ-tát chưa chứng nhập biển cả pháp giới của Như Lai, là chưa chứng được pháp giới thanh tịnh của chư Phật cho nên mỗi Bồ-tát đều có chỗ dựa riêng biệt, vì đều có mỗi Đức Như Lai riêng biệt làm nơi nương tựa.
Trí khác biệt, là mỗi Bồ-tát đều có mỗi kiến giải, đã tu tập hoàn thành tốt đẹp riêng biệt.
Trí ít, là so sánh với trí Phật.
Trí có thêm-bớt là các địa cùng so sánh có sự hơn kém, và cùng so sánh chỗ hơn kém của Định.
Tùy thuộc vào nghiệp trí của mỗi Bồ-tát mà làm thành công hạnh khác nhau, vì các Bồ-tát đều quyết định về số lượng riêng biệt, cho nên chỗ tạo tác đều khác nhau. Tùy vào uy lực thắng giải của các Bồ-tát khi duyên với cảnh giới hữu tình, có thể có những điều được tạo tác. Nếu vượt qua sự kiện này thì không chuyển biến, cho nên mỗi hạnh tu tập đều khác nhau.
Một phần ít chúng sinh, là số ít-lượng kém làm nơi nương tựa cho việc thành thục các thiện căn, vì năng lực tăng thượng của các Bồ-tát, tùy thuộc từng phần, khiến cho thiện căn của người khác được thành thục. Định của các Bồ-tát đều so sánh với định của Như Lai, vì số lượng ít cho nên việc làm lợi ích cho các hữu tình cũng ít. Nếu Bồ-tát đã chứng được biển cả pháp giới của Như Lai thì đã chứng ngộ được pháp giới thanh tịnh của chư Phật không còn chỗ tựa riêng biệt, lấy Chân như thanh tịnh làm nơi nương tựa.
Trong cảnh giới vô lậu, không thể kiến lập sự dị biệt giữa chư Phật, huống là Bồ-tát.
Trí không có sai biệt là trí viên cảnh..., đều là tương tự, vì không có phân biệt sai khác giữa mình và người.
Trí không có hạn lượng, là thấu suốt vô biên cảnh đã được nhận biết.
Trí không có thêm bớt là bình đẳng thanh tịnh, vì nhận biết trùm khắp cảnh giới không có ítnhiều.
Thọ dụng hòa hợp một vị theo sự-trí, là tất cả việc làm cùng với trí bình đẳng..., đều giống nhau. Vô lượng chúng sinh, là hoặc về số, hoặc về lượng đều là vô lượng; phước đức-trí-tuệ đều không cùng tận, vì tư lương đều bình đẳng. Do Bồtát đã chứng được Pháp thân, đi tới tận cùng giới hạn sinh tử, là nơi nương tựa cho tất cả hữu tình, thành thục được thiện căn.
Có sai biệt giữa hai thí dụ trước và sau. Nghĩa là, thí dụ trước thì nói các Bồ-tát chưa ngộ nhậpđã ngộ nhập, hoặc địa Hoan hỷ, hoặc địa Bất động. Trong thí dụ về biển cả sau lại nói các Bồ-tát chưa nhập-đã nhập hoặc địa Bất động, hoặc địa Như Lai.
Có nghĩa nữa: Cả hai thí dụ đều nói Bồ-tát chưa chứng đắc-đã chứng đắc pháp Nhẫn vô sinh. Thí dụ trước thì nói công đức trù mật của Bồ-tát dụ như rừng tạp. Trong thí dụ sau thì nói công đức của Bồ-tát là vô tận, ví dụ như biển cả.
Kinh: “Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói tụng”.
Luận: Sẽ nói bốn bài tụng thâu nhiếp chung các nghĩa trên. Hiển bày giản lược về tướng pháp giới thanh tịnh của Phật địa.
Tất cả công đức hữu vi-vô vi trong địa Như Lai đều được pháp giới thanh tịnh thâu nhiếp-gìn giữ, đều là tướng của pháp giới thanh tịnh. Tướng năng-tướng sở đều gọi là tướng không phân biệt gì.
Trong bốn bài tụng, ba tụng rưỡi trước hiển bày riêng biệt về tướng đó, nửa tụng sau là phần tổng kết.
Trong phần hiển bày riêng biệt về tướng (Ba tụng rưỡi), có nghĩa: Trong ấy, nửa tụng đầu là chỉ rõ về pháp giới thanh tịnh, nửa tụng tiếp theo là chỉ rõ về trí Đại viên cảnh, nửa tụng tiếp là chỉ rõ về trí Bình đẳng tánh, nửa tụng tiếp là chỉ rõ về trí Diệu quán sát, nửa tụng kế là chỉ rõ về trí Thành sở tác. Một nửa tụng tiếp là chỉ rõ về công đức quyến thuộc của bốn trí. Phần nửa tụng sau là chỉ rõ về năm pháp tạo thành ba thân khác nhau. Lại có nghĩa là chỉ rõ pháp giới thanh tịnh, có sáu tướng thâu nhiếp tổng quát tất cả công đức của Phật địa. Nghĩa là tướng tự tánh, tướng nhân, tướng quả, hoặc tướng tác nghiệp, hoặc tướng tương ưng, hoặc tướng sai biệt. Nếu như theo thứ tự thì tướng đầu tiên có một tụng, các tướng còn lại đều có phân nửa tụng. Kinh:
“Tất cả pháp Chân như,
Tướng thanh tịnh hai chướng”.
Luận: Có nghĩa đây là làm sáng tỏ pháp giới thanh tịnh. Tức là hết thảy pháp, tánh là KhôngVô ngã, đã làm sáng tỏ Chân như, vĩnh viễn tách lìa hai chướng, bản tánh là thanh tịnh. Nay lại xa lìa sự cấu nhiễm, cho nên có khả năng làm nơi nương tựa cho mọi pháp thiện, vì vậy gọi là pháp giới thanh tịnh.
Tất cả pháp, nghĩa là các pháp uẩn-xứ-giới hữu lậu-vô lậu... của thế gian và xuất thế gian.
Chân như tức là tánh chân thật của các pháp, không có tánh điên đảo, cùng với tất cả pháp, không một, không khác. Thể chỉ là một vị, tùy thuộc vào tướng phần cho nên có nhiều hoặc nói hai loại: Nghĩa là Sinh Không vô ngã-Pháp Không vô ngã. Chân như thật sự không phải là tánh Không-Vô ngã, vì lìa mọi phân biệt, dứt tuyệt mọi hý luận, chỉ do tu tập pháp quán Không-Vô ngã, dập tắt chướng ngại của Chân như, diệt tưởng ngã chấp-ngã sở mà chứng đắc cho nên gọi là KhôngVô ngã. Hoặc nói có ba loại, nghĩa là thiện-bất thiện-vô ký. Chân như là tánh chân thật của ba pháp này. Hoặc nói bốn loại, tức là hệ thuộc ba cõi và không hệ thuộc ba cõi. Chân như là tánh chân thật của bốn pháp ấy. Hoặc nói có năm thức, nghĩa là Chân như tâm, nói rộng cho đến Chân như vô vi, cũng là tánh chân thật của năm pháp. Hoặc nói sáu loại, nghĩa là Chân như của sắc, nói rộng cho đến Chân như vô vi. Năm uẩn vô vi là tánh chân thật. Hoặc nói bảy loại:
1. Chân như lưu chuyển: Nghĩa là thật tánh của tất cả các hành lưu chuyển từ đời vô thỉ đến nay.
2. Chân như thật tướng: Nghĩa là thật tánh của tất cả các pháp là hai Không-Vô ngã được hiển bày.
3. Chân như duy thức: Nghĩa là thật tánh của tất cả các pháp chỉ là Thức.
4. Chân như an lập: Nghĩa là thật tánh của pháp hữu lậu là Khổ đế.
5. Chân như tà hạnh: Nghĩa là thật tánh của nghiệp phiền não là Tập đế.
6. Chân như thanh tịnh: Nghĩa là thật tánh của vô vi thiện là Diệt đế.
7. Chân như chánh hạnh: Nghĩa là thật tánh của các pháp thiện hữu vi-vô lậu, là Đạo đế.
Hoặc nói tám loại: Nghĩa là không sinh-không diệt, không đoạn-không thường, không mộtkhông khác, không đến, không đi. Tám môn tướng loại trừ đó đã làm sáng tỏ Chân như.
Hoặc nói chín loại: Nghĩa là chín phẩm đạo dứt trừ chín loại chướng mà làm sáng tỏ Chân như.
Hoặc nói mười loại: Nghĩa là ở mười địa loại trừ mười loại vô minh mà làm sáng tỏ Chân như, tức là mười pháp giới, như luận Nhiếp Đại Thừa đã biện minh rộng về tên gọi và hình tướng. Như vậy, cứ thêm số lên cho đến vô cùng tận.
Hết thảy pháp môn đều là tướng khác nhau của Chân như, nhưng Thể của Chân như thì không phải một, không phải nhiều. Phân biệt, diễn tả đều không thể biện luận được. Nó đã lìa bỏ mọi điên đảo hư vọng, giả gọi là Chân như. Vì có khả năng làm nơi nương tựa cho tất cả pháp thiện. Giả gọi là pháp giới, vì xa rời mọi hủy báng về tổn giảm, giả gọi là Thật hữu. Vì lìa mọi bài báng về tăng ích, giả gọi là Không. Chẳng có gì phân tích suy tìm các pháp chỉ là hư giả, cùng cực đến nơi cùng cực ấy lại không thể vượt qua nữa, chỉ ở đây là Chân giả gọi là Thật tế. Là cảnh giới tối thắng vô phân biệt mà trí tuệ bậc Thánh đã chứng đắc, giả gọi là Thắng nghĩa. Nói rộng như vậy.
Nói hai chướng:
1. Chướng phiền não.
2. Chướng sở tri.
Não loạn thân-tâm khiến mà không thể tĩnh lặng, gọi là chướng phiền não. Che lấp cảnh giới đã được nhận biết, làm cho tánh không điên đảo không hiển hiện được, gọi là chướng sở tri.
Chướng phiền não: Nghĩa là chấp thật ngã, Tát-ca-da-kiến (Thân kiến) là đứng đầu làm chủ một trăm hai mươi tám căn bản phiền não và tùy phiền não. Hoặc là nghiệp đã phát khởi, hoặc là quả báo đã thọ nhận đều được thâu nhiếp trong phiền não, đều lấy phiền não làm căn bản.
Chướng sở tri: Nghĩa là nắm giữ các pháp trong biến kế sở chấp, Tát-ca-da-kiến (Thân kiến) là đứng đầu. Hết thảy các tâm-tâm pháp như vô minh-ái-giận dữ... hiện có cùng nghiệp đã phát khởi, quả báo đã thọ nhận, đều được thâu nhiếp trong đó, đều lấy pháp chấp và vô minh... làm căn bản.
Có nghĩa: Pháp chấp và vô minh... có mặt khắp hết thảy các pháp thiện-ác-vô ký. Phẩm tâm hữu lậu cùng với phẩm tâm vô lậu của Nhị Thừa đều không thấu đạt về pháp vô ngã, mà đều giống như tướng phần-kiến phần dấy khởi, có nghĩa chỉ ở trong phẩm tâm bất thiện-vô ký hữu lậu. Luận Du Già Sư Địa nói:
Các vô minh chỉ có hai loại:
1. Bất thiện.
2. Vô ký. Lại có hai loại:
1. Nhiễm ô.
2. Không nhiễm ô.
Không nói có thiện, không thể không có thiện, vì tâm thiện tương ưng, vì trái ngược với tánh.
Lại nữa, phẩm tâm thiện nhất định tương ưng với thiện căn không si. Si tức là vô minh, không thể một tâm mà có si-không si, cũng như thamkhông tham, sân-không sân... do không tương ưng. Không thể có pháp chấp mà không cùng chung với si. Vì nếu không có vô minh thì không có chấp điên đảo. Như chấp có ngã thì nhất định có sự hiện diện của vô minh. Đây cũng phải như vậy.
Lại nữa, các tâm thiện với tính chất không mê chấp mà đều tin tưởng..., cùng thuận theo kiến giải vô ngã, làm phương tiện trước cho pháp quán hai Không. Không thể có pháp chấp dẫn đường cho pháp quán không, vì trong ngã chấp chưa từng thấy điều này. Vì vậy, tâm thiện hữu lậu-vô lậu quyết định không tương ưng với hai chấp vô minh-ái..., vì trái với giáo lý. Tất cả phẩm tâm dị thụcvô ký, cũng không có pháp chấp và vô minh...
Vì sức phân biệt yếu kém cho nên không thể giữ lấy. Nếu có chấp điên đảo thì trở thành pháp, ngã kiến, có thức A-lại-da cùng vô minh..., không thuận theo chỉ cùng tương ưng với năm pháp. Nhận thấy được vô minh..., đó là việc của tuệ...
Lại nữa, nếu thức này có pháp chấp, mà không có sự huân tập, thì thuận theo niệm niệm mà mất nếu không cần pháp đối trị thì trở thành lỗi lầm lớn, vì trong chướng phiền não không có điều này. Lại nữa, quán pháp Không vào lúc mới hiện tiền thì thức này phải đoạn bởi vì chướng và đối trị trái ngược nhau chứ không đồng thời hiện hành.
Nếu như vậy, thì những chủng tử hữu lậu còn lại sẽ không có nơi nương tựa, các công đức đã tu tập sẽ không có huân tập vì không có huân tập, cho nên không thể nói huân tập trong gương trí tương ưng với Thức thanh tịnh, vì không phải là vô ký, cũng vì chưa chứng đắc.
Thức A-lại-da đã không có pháp chấp, thì quả dị thục trong chuyển thức còn lại, cũng phải có tánh đồng loại như vậy.
Cũng không có pháp chấp trong năm thức, vì không có tác dụng phân biệt mạnh mẽ, nhạy bén, vì không suy xét tìm tòi. Luận Nhiếp Đại Thừa nói: “Tâm có năng lực biến kế chỉ là Ý thức”. Nên biết năm thức không duyên với tự tánh của biến kế sở chấp. Nếu không có kiến giải phân biệt, không suy xét tìm tòi, thì không thể có ngã chấp, cho nên cũng không thể tính toán so sánh về các pháp. Nhưng do Ý thức ngã chấp-pháp chấp, khởi lên ái, giận..., dẫn dắt năm thức, trong đó, các thứ ái giận khởi hiện không thuộc về kiến chấp. Tuy không có kiến chấp mà vẫn có các pháp yêu, giận vô minh..., mà thuộc về hai chướng. Do đó, hai chấp phân biệt, suy tìm chỉ ở Thức thứ sáu và Thức thứ bảy. Nếu sự yêu-giận..., không thuộc về kiến chấp, thì không suy tìm, cũng ở tại năm thức. Thể của chướng phiền não như các ngã chấp..., chỉ có trong hai tâm bất thiện hữu phú vô ký. Nếu pháp chấp... là thể của chướng sở tri, thì cũng ở trong tâm vô phú vô ký, vì bậc Vô học của hàng Nhị thừa cũng còn hiện hành.
Trong phần vị Vô học, không có bất thiện hữu phú vô ký. Đây là căn cứ theo Nhị thừa thì gọi là vô phú. Nếu đối chiếu với Bồ-tát thì nhiễm ô, cũng gọi là hữu phú, mà chướng sở tri cũng gọi là vô phú, cũng gọi là hữu phú. Một Thể hai tên, vì có sự so sánh riêng biệt.
Trong chướng phiền não có chướng sở tri. Đó là chỗ nó nương tựa thì chắc chắn chấp có pháp mà chấp ngã. Thể tuy không có hai, nhưng dụng có sai khác. Như thể của một thức nhận lấy cảnh thì nhiều dụng. Do thức này huân tập sinh ra một chủng tử, thể cũng có nhiều dụng. Khi khởi hiện, tuy cùng khởi mà dần dần đoạn tuyệt, vì uy lực của Thánh đạo có giới hạn mức độ. Nếu chướng sở tri dựa theo Nhị thừa mà nói là vô phú vô ký, thì trong bốn loại vô ký thuộc về vô ký nào? Thuộc về dị thục sinh, vì từ thức dị thục mà sinh khởi. Nếu như vậy thì không phải là dị thục sinh? Như tăng thượng duyên, ngoài ra chỗ không thâu nhiếp đều thuộc về thức này. Oai nghi..., tâm không giữ lấy vững chắc, vì không phải là phổ biến, cho nên Thể không có hai chướng. Nếu trong tâm là thiện, vô phú, vô ký, không có pháp chấp thì tại sao không thể thấu đạt pháp Không, cũng không có ngã chấp thì tại sao không thể thấu đạt sinh Không?
Pháp chấp này vì đã câu kết với ngã chấp trong Thức thứ bảy cho nên không thấu đạt về sinh Không. Cũng phải vì đã câu kết với pháp chấp trong Thức thứ bảy, cho nên không thông đạt về pháp Không.
Đã giống như tướng phần-kiến phần mà khởi hiện, tại sao không gọi là thuộc về pháp chấp?
Trí vô lậu..., của chư Phật và Bồ-tát cũng có hai phần, tại sao không phải là chấp? Vì vậy duyên sinh-tướng phần kiến phần đều thuộc về pháp Y tha khởi. Hoặc dựa trên pháp Y tha khởi này mà vọng chấp ngoài tâm. Hoặc trong định tánh có thì mới gọi là chấp, cho nên chướng sơ tri ở trong thức thứ bảy, phổ biến cùng một lúc với tâm ba tánh của sáu thức, chứ không phải là phẩm tương ưng.
Tạm thời dừng sự tranh biện rộng, mà cho nên trở lại giải thích về bản văn.
Tướng thanh tịnh, nghĩa là bản tánh của Chân như này luôn thanh tịnh, nhưng bị hai chướng che lấp. Như hư không trong sạch nhưng bị mây khói..., phủ mờ, che kín, mà giống như không trong sạch.
Đến khi chứng được đạo Chân như xuất thế gian, mới dần dần trừ khử hết thảy chủng tử hiện có của hai tướng này, giống như gió lớn thổi bạt mây khói..., Khi định Kim cang dụ hiển hiện trước mắt, thì diệt và lìa hết mọi chủng tử của tất cả chướng, chứng được pháp giới thanh tịnh mà hoàn toàn chuyển y, gọi là tướng thanh tịnh.
Như vậy, đã làm sáng tỏ pháp giới thanh tịnh trong năm pháp trước.
Có nghĩa: Đây là hiển bày về và một phần tự tánh tướng thanh tịnh của pháp giới, tức là một phần tự tánh trong sáu tướng, văn được giải thích như trước.
Kinh: “Pháp trí-sở duyên kia Tướng tự tại vô tận”.
Luận: Có nghĩa đây là hiển bày về pháp của trí Đại viên cảnh; tức là tánh Y tha khởi duyên pháp trong gương trí, gọi là pháp trí. Trí Đại viên cảnh cũng duyên với tánh Y tha khởi của thế tục mà hiện khởi hình bóng, nhưng không mê chấp trong hình bóng đó.
Sở duyên kia, kia nghĩa là Chân như chứ không phải là pháp trí kia, tuy vẫn còn câu cách biệt, nhưng thế của nghĩa luôn tương ưng, cho nên không có lỗi. Vì pháp trí dùng Chân như làm sở duyên cho nên gọi sở duyên là Chân như, không phải cho rằng pháp trí là đối tượng được duyên của Chân như.
Trí Đại viên cảnh cũng duyên với tánh Viên thành thật của Thắng nghĩa, vì tận cùng giới hạn sinh tử mà nội chứng Chân như. Đây là nói gương trí duyên với tự tướng-cộng tướng của tất cả pháp, vì tánh Y tha khởi và tánh viên thành thật đều làm cảnh, còn biến kế sở chấp chỉ là chỗ chấp nơi tâm vọng của phàm ngu, chứ không phải là cảnh của Thánh trí, cho nên không nói là duyên.
Như trong luận nói: Biến kế sở chấp chỉ là cảnh của trí phàm phu. Tánh Viên thành thật chỉ là cảnh của Thánh trí. Tánh Y tha khởi cũng là cảnh của trí phàm phu, cũng là cảnh của Thánh trí. Vì không có Thể tánh, cho nên biến kế sở chấp không phải là đối tượng chứng đắc của bậc Thánh.
Nếu như vậy thì Thánh trí không nhận biết hết thảy.
Tánh biến kế sở chấp kia đã là không có thì trí làm sao nhận biết được? Nếu biết là có thì trở thành điên đảo, còn nếu biết là không thì không phải là biến kế sở chấp, vì tâm của tự tánh đã biến hiện, không thuộc về Y tha khởi.
Lý của Chân như không thuộc về Viên thành thật, cho nên Thánh trí tuy nhận biết là có, không, nhưng không duyên với tự tánh của biến kế sở chấp kia làm cảnh.
Nói tự tại, vì trí Đại viên cảnh có được là nhờ tu tập sáu đáo bỉ ngạn (đến bờ kia tức là Ba-lamật), gồm đủ mười diệu dụng tự tại không bị ngăn ngại.
Tướng không cùng tận là tận cùng giới hạn sinh tử, vì thường còn, nối tiếp nhau không gián đoạn.
Tướng nghĩa là sở tướng, hoặc là năng tướng biểu thị cho tự Thể.
Như vậy, đã làm sáng tỏ tổng quát về trí Đại viên cảnh trong năm pháp trước.
Có nghĩa: Đây là hiển bày một phần tự tánh. Bốn trí ở quả vị Phật tức là một phần tự tánh trong sáu tướng.
Pháp công đức hữu vi tức là trí Đại viên cảnh. Do năng lực đối trị chuyển biến, dứt bỏ hết thảy nơi nương tựa thô nặng trong thức A-lại-da, chuyển thành tánh Y tha khởi thanh tịnh, xa lìa tất cả các tâm suy nghĩ phân biệt sở duyên và năng duyên đều bình đẳng, một sự bình đẳng không thể diễn nói. Vì pháp tánh duyên sinh không thêm, không bớt, cho nên chứng ngộ nội tại về hành tướng có khả năng biến hiện ảnh tượng của tất cả các pháp, có khả năng soi sáng khắp tất cả các cảnh không hề phân biệt.
Nói chung gọi là pháp trí, tức là trí Bình đẳng tánh. Do năng lực đối trị chuyển biến, dẹp bỏ mọi thứ chấp trước về chúng sinh và pháp trong mạt na thứ bảy, chuyển thành tánh Y tha khởi thanh tịnh, duyên vào gương trí bình đẳng và pháp giới thanh tịnh bình đẳng rất bình đẳng. Vì chứng ngộ nội tại về hành tướng, cho nên gọi là trí.
Sở duyên kia; tức là hai trí còn lại. Do năng lực đối trị chuyển biến loại bỏ sáu thức phân biệt của thế gian, chuyển thành tánh Y tha khởi thanh tịnh hoặc là xuất thế gian, hoặc là thế gian-xuất thế gian.
Trí hậu sở đắc đó sẽ duyên trong Chân như và pháp trí..., lấy tánh Y tha khởi làm cảnh giới, không chấp phân biệt giống như cảnh được duyên hiện khởi, phân biệt sở chứng-năng chứng tự nội tâm mình. Vì dùng pháp trí của Chân như đã nói trên kia làm sở duyên cho nên gọi là sở duyên kia. Vì bốn trí có diệu dụng, không ngăn ngại như vậy, cho nên gọi là tự tại. Tận cùng giới hạn sinh tử, thường dùng không dứt, cho nên gọi là không cùng tận. Trí Đại viên cảnh và trí Bình đẳng tánh, vì thường không gián đoạn cho nên gọi là không cùng tận. Trí Diệu quán sát và trí Thành sở tác, tuy có gián đoạn, nhưng tác ý tạm thời thì có khả năng hiện tiền, thường khởi hiện không cùng cho nên cũng gọi là không cùng tận.
Tướng, nghĩa là tướng của Thể đều từ duyên sinh, cho nên gọi là tánh Y tha khởi thanh tịnh, vì đều không điên đảo cho nên gọi là thanh tịnh.
Tánh Viên thành thật đều có sự sáng tỏ bên trong. Tác dụng của cảnh soi sáng giống như cảnh hiển hiện gọi là trí.
Các nghĩa như vậy có thể biểu thị cho tự Thể, cho nên gọi là tướng.
Kinh: “Trí Chân như trùm khắp, Tu tập chứng viên mãn”.
Luận: Có nghĩa: Đây là làm sáng tỏ trí Bình đẳng tánh, nghĩa là khi quán sát hiện thực ở địa thứ nhất, chứng được trí bình đẳng không phân biệt này. Quán sát tất cả bình đẳng, Chân như bình đẳng. Về sau ở các địa lần lượt tu tập chuyển biến tốt đẹp, càng trở cho nên thanh tịnh, cho đến Phật địa chứng đắc viên mãn thanh tịnh tận cùng chứng ngộ pháp giới..., tất cả lý-sự đều hoàn toàn bình đẳng.
Như vậy, đã hiển bày về trí Bình đẳng tánh trong năm pháp trước.
Có nghĩa: Đây là chỉ rõ tướng nhân trong sáu tướng, là trí không phân biệt trong địa thứ nhất. Quán sát kiến đạo của pháp giới ban đầu có ba tâm đoạn, Kiến đạo đoạn một trăm mười hai phiền não căn bản và tùy phiền não cùng diệt. Kiến đoạn không nhiễm vô minh, pháp chấp phân biệt, là một phần thô nhất mà làm sáng tỏ và tăng trưởng cho trí của pháp giới lúc đầu.
Từ đây về sau, đối với hết thảy các địa, trong phần vị tu đạo với trí không phân biệt, quán sát pháp giới Như như còn lại, hướng về tất cả các pháp môn kia, trong các phần vị Văn-Tư-Tu…, trí gia hạnh… và mọi phương tiện đều tu tập dần dần. Như vậy và như vậy tùy theo những pháp thích ứng của các địa, dần dần điều phục tu tập đoạn trừ mười sáu phiền não và tùy phiền não, tùy theo những pháp thích ứng dần dần diệt trừ do tu mà đoạn, không nhiễm vô minh cùng pháp chấp câu sinh.
Các phần còn lại đều làm sáng tỏ và tăng trưởng chủng tử của trí pháp giới khác. Do chủng tử làm nhân, cho đến Phật địa chứng được bốn trí của pháp giới viên mãn.
Kinh: “An lập chúng sinh hai, Các chủng quả vô tận.”
Luận: Có nghĩa: Đây là chỉ rõ về trí Diệu quán sát. Nghĩa là diệu trí này có thể vì các chúng sinh giảng nói pháp mầu nhiệm. An lập chúng sinh và làm lợi ích yên vui, cho nên gọi là hạo. Ngay trong hai loại này có nhiều phẩm loại, cho nên gọi là các loại.
Hai việc như vậy, cùng tận giới hạn sinh tử, thường thực hiện không đoạn tuyệt, cho nên gọi là không cùng tận. Đây tức gọi là quả, là quả của trí.
Như vậy, đã làm sáng tỏ về trí Diệu quán sát trong năm pháp trước.
Có nghĩa: Đây là hiển bày tướng của quả trong sáu tướng. Nghĩa là pháp giới thanh tịnh và bốn trí mầu nhiệm đều có khả năng an lập tất cả chúng sinh và làm lợi ích yên vui. Khuyên bảo chúng sinh tu tập nhân thiện gọi là lợi ích; khiến đạt được kết quả vui vẻ gọi là yên vui. Khuyên bảo chúng sinh xa rời điều ác, gọi là ích lợi, giúp họ thâu nhiếp điều thiện, gọi là yên vui. Lại nữa, cứu vớt nỗi đau khổ của chúng sinh, gọi là lợi ích; ban cho họ niềm vui, gọi là yên vui. Từ đời này đến đời khác, thế gian-xuất thế gian... cho nên biết cũng như vậy.
Vì phẩm loại rất nhiều, cho nên gọi là các chủng loại. Vì tận cùng thời gian vị lai, cho nên gọi là không cùng tận.
Các chủng loại với hai sự việc lợi ích-yên vui như vậy đều không cùng tận.
Pháp giới thanh tịnh và quả của bốn trí này, đều từ những loại trên mà phát khởi.
Kinh:
“Thân-ngữ và tâm hóa,
Nghiệp phương tiện khéo léo”.
Luận: Có nghĩa: Đại ý hai câu tụng mà là chỉ rõ về trí Thành sở tác. Nghĩa là trí có khả năng khởi động sự giáo hóa của thân-ngữ-tâm tương xứng và tùy thuận với trình độ thích đáng, cho nên gọi là khéo léo. Vì gia hạnh không dứt, cho nên gọi là phương tiện. Đây chính là nghiệp. Hoặc là trí này còn có phương tiện khéo léo có thể khơi dậy ba nghiệp giáo hóa của thân-ngữ và tâm.
Như vậy, là chỉ rõ trí Thành sở tác trong năm pháp trước.
Có nghĩa: Câu tụng này chỉ rõ về tướng của nghiệp trong sáu tướng. Nghĩa là pháp giới thanh tịnh và bốn trí mầu nhiệm có thể khởi hiện ba nghiệp giáo hóa của thân-ngữ-tâm, cùng với nghiệp phương tiện khéo léo. Trí Thành sở tác khởi hiện ba loại nghiệp giáo hóa của thân-ngữ-tâm. Trí Diệu quán sát thì khởi động nghiệp thiện xảo, vì quán sát căn cơ thích hợp rất khéo léo. Hai trí còn lại và pháp giới thanh tịnh đều khởi hiện nghiệp phương tiện, vì có thể tùy ý vận dụng làm phương tiện cho tất cả các nghiệp.
Thân giáo hóa có ba loại:
1. Tương ưng với tự thân: Nghĩa là tự thân hóa hiện làm đầy đủ hình tướng-chủng loại như Luân vương…, và hiện rõ tất cả các loại Bản sinh-Bản sự.
2. Tương ưng với thân người khác: Nghĩa là biến hóa Ma vương làm thân Phật... biến Xá-lợitử thành Thiên nữ..., dựa vào thân người khác thị hiện các loại hình tướng-chủng loại biến hóa.
3. Tương ưng với không phải thân: Nghĩa là biến hiện đại địa thành bảy loại châu báu... Hoặc hiện bày vô lượng Hóa thân Phật... Hoặc phóng ánh sáng chiếu rọi đến vô biên thế giới.
Các loại như vậy, rời ngoài thân mình và thân người hóa hiện làm thành các loại hình tướngchủng loại sắc chất hữu tình và phi, và những sự việc như chấn động mặt đất-phát ra ánh sáng-gió thơm ngào ngạt…, đều làm lợi ích yên vui cho các hữu tình. Tất cả đều gọi là nghiệp Hóa thân của Phật.
Như vậy, ngữ giáo hóa cũng có ba loại:
1. Tương ưng với tự thân: Nghĩa là tự thân Phật hóa hiện tiếng nói của Phạm thiên, giảng nói khắp mọi nơi với các loại nghiệp ngữ trong vô biên thế giới...
2. Tương ưng với thân người khác: Nghĩa là khiến cho các đại đệ tử Thanh văn... dùng Phạm âm của Phật diễn nói các pháp Đại thừa sâu xa. Vì vậy, Thanh văn và các Bồ-tát nói không phải là phần pháp mầu nhiệm thâm diệu của mình, mà đều là do Như Lai biến hóa nói ra, chứ không phải do tự lực của các Thanh văn, Bồ-tát kia.
3. Tương ưng với không phải thân: Nghĩa là hóa hiện các loại núi-biển-cỏ cây..., cho đến hư không, cũng phát ra âm thanh diễn nói về pháp Đại thừa... Như vậy, đều gọi là nghiệp ngữ biến hóa.
Tâm giáo hóa chỉ có hai:
1. Tương ưng với tự thân: Nghĩa là trên tự tâm, hóa hiện các loại hình tượng sai biệt của tâm và tâm pháp.
2. Tương ưng với thân người khác: Nghĩa là khiến cho tâm người khác cũng hóa hiện các loại ảnh tượng sai biệt của tâm và tâm pháp. Đây đều là tướng phần hiện bày tương tự với kiến phần.
Có nghĩa: Do năng lực của định có thể làm cho tự tâm nhận hiểu không phải là phần pháp, gọi là tự tâm hóa hiện. Gia bị cho hữu tình, khiến kẻ ngu muội có thể hiểu được pháp sâu xa vi tế, khiến cho người mất chánh niệm có được sự nhớ nghĩ đúng đắn, gọi là tâm người khác hóa hiện. Nhưng tâm không hóa hiện, vì không có hình chất, như luận nói: Tâm không có hình tướng cho nên không thể biến hóa. Lại nói Hóa thân không có tâm-tâm pháp.
Đây là căn cứ vào Nhị thừa và sức định của hàng phàm phu mà nói. Sức định của họ yếu kém, không thể hóa hiện các pháp không có hình chất. Năng lực của định không thể nghĩ bàn của chư Phật và Bồ-tát đều có khả năng hóa hiện được hết thảy. Nếu không như vậy thì làm sao Đức Như Lai hóa hiện được tham-giận...? Làm thế nào hàng Thanh văn và Bàng sinh..., đều biết được tâm của Như Lai? Làm sao như Kinh: Hóa hiện vô lượng chủng loại đều khiến có tâm? Làm sao như trên đây đã nói: Các nghiệp ý hóa hiện? Và làm sao như Kinh: Có tâm Y tha? Chỉ vì các sắc hóa hiện đều giống với sắc thật, căn hóa hiện cùng với tâm chỉ có tướng hiện khởi, không giống với tác dụng thật. Vả lại, vì căn cứ vào chủng loại thấp cho nên nói lời này. Nếu như vậy thì tại sao không hóa hiện loại phi tình, khiến cho tâm cùng hiện khởi? Phi tình đã là tướng phần của tâm..., làm sao lại khiến có tâm cùng hiện khởi? Nếu tâm cùng hiện khởi thì gọi là hữu tình, không phải thuộc về phi tình. Vì vậy tâm hóa hiện chỉ nói có hai loại như trước đã nói.
Trí Diệu quán sát có khả năng quán sát tự chứng ngộ môn Đà-la-ni, Tam-ma-địa..., có thể quán sát căn cơ và tánh ham muốn..., của hữu tình, giảng nói thuốc pháp mầu nhiệm, gọi là nghiệp thiện xảo.
Hai trí còn lại và pháp giới thanh tịnh làm nơi nương tựa cho các công đức, có khả năng khởi hiện đủ loại việc làm lợi ích cho hữu tình, gọi là nghiệp phương tiện.
Kinh: “Định cùng môn tổng trì, Thành tựu hai vô biên”.
Luận: Có nghĩa: Câu tụng này chỉ rõ về công đức quyến thuộc đều thuộc về bốn trí.
Có nghĩa: Đây là làm sáng tỏ về tướng tương ưng trong sáu loại tướng. Môn định tức là tám vạn bốn ngàn môn Tam-ma-địa. Môn tổng trì tức là tám vạn bốn ngàn môn Đà-la-ni.
Hai loại như vậy, cùng làm phát sinh tất cả công đức hữu vi, cùng làm sáng tỏ hết thảy công đức vô vi, và cùng dẫn phát tất cả các tác dụng của thần lực làm mọi lợi ích cho chúng sinh, cho nên gọi là môn.
Hai Vô biên; là phước đức-trí tuệ trang nghiêm, trong đó, sai biệt có vô lượng loại. Tám vạn bốn ngàn phước đức-trí tuệ là do tu tập mà thành tựu trải qua vô lượng kiếp, cho nên nói là vô biên.
Năm Ba-la-mật-đa trước gọi là phước đức, một Ba-la-mật-đa sau gọi là trí tuệ. Hoặc là tùy theo những quyến thuộc thích ứng với tự tánh, mỗi mỗi quyến thuộc đều có đủ cả hai.
Hai môn như vậy nhờ vào hai loại trang nghiêm, mỗi quyến thuộc đều đầy đủ trong bốn phẩm trí, luôn tương ưng với nhau, cũng vẫn dựa vào pháp giới thanh tịnh, cùng với pháp giới thanh tịnh không tách rời nhau, cho nên gọi là thành tựu. Kinh: “Pháp tự tánh thọ dụng, Biến hóa, chuyển sai biệt”.
Luận: Có nghĩa: Đây là nói rõ về năm pháp đã thành tựu ba thân sai biệt.
Có nghĩa: Đây là hiển bày về tướng sai biệt trong sáu loại tướng. Tuy các Đức Như Lai đều dựa vào pháp giới thanh tịnh với thể tánh không có sai biệt, nhưng vẫn có các loại tướng của ba thân được chuyển biến khác nhau cho nên gọi là sai biệt.
Pháp tự tánh, tức là thân tự tánh ban đầu của Như Lai, với Thể thường còn không thay đổi, cho nên gọi là tự tánh. Vì đã dựa vào các pháp công đức như mười lực, bốn pháp vô úy..., cũng gọi là Pháp thân. Thọ dụng tức là thân thọ dụng kế tiếp, có thể khiến mình và người đều được thọ dụng các nguồn vui của pháp vĩ đại.
Biến hóa tức là thân biến hóa sau, vì muốn đem lại lợi ích, yên vui cho chúng sinh, mà thị hiện các loại sự việc biến hóa.
Nghĩa của thể, nghĩa của nương dựa nghĩa của sự tích tụ các đức gọi chung là thân. Như vậy là giải thích tóm lược về danh nghĩa của ba thân.
Lại nữa, Pháp thân là hoàn toàn chuyển y lấy Chân như làm tướng, là chỗ dựa bình đẳng cho hết thảy pháp Phật, có khả năng khởi hiện mọi tác dụng tự tại, hết thảy tăng thượng duyên của pháp thiện đều được hiển bày. Tự tánh bình đẳng của tất cả Như Lai vi diệu rất, khó lường xét, diệt hết mọi phân biệt, chấm dứt mọi hý luận, cho nên Khế Kinh: Pháp thân của chư Phật không nên tầm tư, vì không phải là cảnh giới của tầm tư, siêu việt trên tất cả sự tầm tư-hý luận.
Thân thọ dụng là nhận hết thảy công đức viên mãn làm tướng, tất cả pháp Phật cùng nhau kết hợp mà thành, có khả năng phát khởi tất cả tác dụng tự tại, tất cả pháp thiện được tăng thượng đã khởi hiện.
Tất cả Như Lai đều có tự Thể riêng biệt vi diệu rất khó lường xét, trú trong cõi nước thuần tịnh, trong lành tự nhiên, cùng tận thời gian vị lai, tự tiếp nhận nguồn vui của pháp, hiện bày các loại hình tướng, giảng nói đủ các loại pháp, khiến cho các Đại Bồ-tát cũng được tiếp nhận nguồn vui của pháp.
Thân biến hóa là lấy tất cả thần biến viên mãn làm tướng, tất cả tác dụng biến hóa cùng kết hợp mà thành, thị hiện tất cả tác dụng tự tại, tất cả tăng thượng duyên của pháp thiện đã dẫn phát. Tất cả Như Lai đều có tác dụng biến hóa riêng, vi diệu, khó lường xét, trú trong Tịnh độ hay cấu uế, hóa hiện các loại hình tướng, giảng nói các loại pháp, làm thành thục các Bồ-tát ở phần vị dưới và hàng Nhị thừa cùng mọi phàm phu, khiến cho ngộ nhập cảnh giới Đại thừa, ra khỏi ba cõi, rời bỏ các đường ác.
Như vậy đã giải thích tóm lược về tướng, dụng của ba thân.
Lại nữa, ba thân thuộc về năm pháp trước. Có nghĩa: Hai pháp trước thuộc về thân tự tánh, hai pháp giữa thuộc về thân thọ dụng, trí Thành sở tác thuộc về thân biến hóa.
Kinh: “Chân như là pháp thân”.
Luận: Chuyển biến, trừ bỏ thức A-lại-da đạt được thân tự tánh. Trí Đại viên cảnh chuyển từ thức thứ tám mà được. Cho nên biết, hai pháp trước thuộc về Thân tự tánh. Trong kinh này nói: Trí thành sở tác khởi hiện các nghiệp hóa. Luận Trang Nghiêm nói: “Trí thành sở tác đối với tất cả cảnh giới, phát khởi vô lượng sự việc biến hóa khó nghĩ bàn”. Nên biết một pháp sau là thuộc về Thân biến hóa.
Trí bình đẳng tánh như luận khác nói: Có khả năng ở nơi Tịnh độ tùy theo sự ưa thích của các Bồ-tát thị hiện các loại thân Phật.
Trí Diệu quán sát cũng như luận nói: Có khả năng hiện bày hết thảy tác dụng tự tại để thuyết pháp, đoạn trừ mọi sự nghi ngờ trong đại tập hội. Lại nói: Vì chuyển biến loại bỏ các chuyển thức, cho nên được Thân thọ dụng. Do đó biết hai pháp giữa thuộc về Thân thọ dụng.
Lại nữa, ba thân của Phật đều thuộc về trí thù thắng trong mười. nghĩa. Cho nên biết ba thân đều hiện rõ là có trí.
Có nghĩa: Một pháp đầu tiên thuộc về Thân tự tánh, tương ưng với tự tánh của bốn trí cùng có và Bồ-tát địa thượng đã hiện bày một phần tướng vi tế thuộc về Thân thọ dụng. Nếu là các Bồ-tát địa tiền đã hiện bày, thì một phần tướng thô hóa dụng thuộc về Thân biến hóa.
Các kinh đều nói: “Chân như thanh tịnh là Pháp thân”.
Luận Tán Phật nói: “Pháp thân của Như Lai là không sinh-diệt”.
Luận Trang Nghiêm nói: “Thân tự tánh của Phật, bản tánh là thường trú”.
Luận Năng Đoạn Kim Cang Bát Nhã nói: “Thọ trì diễn thuyết về công đức của kinh ấy, đối với Pháp thân Phật là nhân chứng đắc, đối với hai thân còn lại là nhân phát sinh.”
Các kinh-luận đều nói: “Chuyển y cuối cùng là Pháp thân. Chuyển y tức là Chân như thanh tịnh, không phải là đạo đối trị. Cho nên biết Pháp thân chỉ lấy Chân như của pháp giới thanh tịnh làm tánh”.
Luận Trang Nghiêm nói: “Trí Đại viên cảnh là thọ dụng của Phật”.
Luận Nhiếp Đại Thừa nói: “Chuyển các chuyển thức đạt được Thân thọ dụng. Tuy nhiên, nói chuyển bỏ thức A-lại-da mà được pháp thân, đó là nói chuyển bỏ chủng tử của hai chướng trong Thức thứ tám, làm sáng tỏ được Pháp thân thanh tịnh nhờ chuyển y, chứ không phải nói đến gương trí, vì nói gương trí là thọ dụng”.
Lại nữa, Thân thọ dụng lược nói có hai loại:
1. Tự thọ dụng: Thân này do tu tập trong ba vô số kiếp mà được thành tựu.
2. Tha thọ dụng: Là các Bồ-tát tiếp nhận nguồn vui của pháp, cho nên cùng có chung sự tương ưng với bốn trí và một phần hóa hiện làm Thân thọ dụng. Kinh, Luận đều nói: Hóa thân là hiện ra các loại hình tướng cho chúng sinh địa tiền. Đã là cảnh giới của chúng sinh được địa, cho nên biết không phải là công đức chân thật, mà chỉ là tác dụng của biến hóa.
Kinh-Luận chỉ nói trí Thành sở tác có khả năng khởi hiện nghiệp biến hóa chứ không phải là Hóa thân. Tuy là ba loại thân, nhưng thuộc về trí thù thắng, Pháp thân là chỗ dựa của trí để chứng ngộ. Hóa thân là diệu dụng được phát khởi của trí vì giống như trí hiện bày, cho nên giả nói là trí, cũng không có lỗi.
Ba thân như vậy thì Thân thọ dụng-biến hóa đã có sinh-diệt, tại sao Kinh: Thân của chư Phật thường trú? Vì hai thân dựa vào Pháp thân mà thường còn. Lại nữa, Thân thọ dụng và Thân biến hóa tuy có sinh-diệt, nhưng mà luôn thọ dụng nguồn vui của pháp, không dừng bỏ nửa chừng, đối với mười phương thế giới thường thường hiện khởi, biến hóa không đoạn tuyệt, như thường xuyên tiếp nhận niềm vui, như thường bố thí thức ăn cho nên gọi là thường.
Luận Trang Nghiêm nói: “Thường có ba loại:
1. Thường của bản tánh: Nghĩa là Thân tự tánh, vì tánh của thân này xưa nay là thường trú.
Thường do không đoạn: Nghĩa là Thân thọ dụng, vì luôn luôn tiếp nhận nguồn vui của pháp, không hề gián đoạn.
2. Thường do nối tiếp nhau: Nghĩa là Thân biến hóa, biến mất rồi lại hiện ra, biến hóa không cùng tận.
Vì vậy, Pháp thân tuy đã tách rời mọi sự phân biệt-hý luận, nhưng không sinh-diệt, cho nên gọi là thường. Hai thân kia tuy có niệm niệm sinh diệt, nhưng dựa vào thân thường không gián đoạn và luôn nối tiếp nhau cho nên gọi là thường.
Kinh: Tất cả pháp sắc-thọ..., của Như Lai đều thường trú. Dựa vào đạo lý này cho nên không phải là không sinh-diệt, vì nó sinh khởi từ chủng tử vô lậu mà tu tập tăng trưởng. Sinh là đều diệt hoàn toàn, vì sắc-tâm đều thấy là vô thường, không hề thấy sắc-tâm nào là thường trú cả.
Ba thân như vậy, hình lượng thế nào? Pháp thân lấy Chân như thanh tịnh làm Thể. Chân như tức là thật tánh của các pháp. Pháp đã không có giới hạn thời gian, thì Pháp thân cũng như vậy trùm khắp bất cứ pháp nào, nơi nào cũng đều có. Như hư không, không thể nói hình tướng. Dùng lượng lớn-nhỏ là căn cứ theo hình tướng mà nói, còn pháp thân thì trùm khắp mọi nơi chốn.
Thân thọ dụng là có sắc và phi sắc. Phi sắc là các pháp không có hình chất. Cũng không thể nói về hình lượng lớn-nhỏ.
Nếu căn cứ vào thân nương tựa và cảnh đã được nhận biết, thì cũng có thể nói là bao trùm tất cả nơi chốn.
Sắc có hai loại:
1. Sắc thật.
2. Sắc biến hóa.
Nói sắc thật, là trải qua ba vô số kiếp, do nghiệp tu tập mà chiêu cảm được sắc thân với các tướng tốt... Chuyển biến sắc thân hữu lậu là năm căn..., được sắc tướng là năm căn..., vô lậu của Phật, với vô lượng tướng tốt trang nghiêm. Thân Phật trùm khắp pháp giới, tương xứng với Tịnh độ chân thật.
Nghiệp ở trong sinh tử có phần hạn, do thức Alại-da mà biến hiện thân hình lớn-nhỏ không nhất định.
Lại như con người thuộc châu Thiệm-bộ ở cõi này, vì nghiệp thiện quá kém cho nên sắc thân đạt được dài nhất là bốn khuỷu tay. Nghiệp thiện của người thuộc châu Đông thắng thân hơn một bậc, cho nên thân dài tám khuỷu tay.
Nghiệp thiện như vậy dần dần thêm hơn hẳn, mà cảm được thân sắc với hình thể, dung lượng lớn dần. Cho đến cõi trời Sắc cứu cánh ở cõi Sắc, chiêu cảm được sự thù thắng tột bậc trong nghiệp sắc, mà có được sắc thân dài khoảng một vạn sáu ngàn du-thiện-na. Bồ-tát mười địa được huân tập và nuôi dưỡng do thiện căn vô lậu, cho nên thân hình được chuyển theo hướng lớn dần, như kinh đã nói rộng.
Khi định Kim cang dụ hiện bày trước mắt, đã diệt trừ mọi chướng, cho nên uy lực của thiện căn là vô biên, cho nên đã chứng được sắc thân sung mãn pháp giới hiện hữu khắp Tịnh độ chân thật.
Vì tương ưng với Thức thanh tịnh, cho nên trí Đại viên cảnh đã biến hiện thân và cõi nước không hạn lượng. Thức của chư Phật biến hiện cùng nơi cùng lúc. Tướng thức của chư Phật giống nhau không gây chướng ngại nhau, cùng tận thời gian vị lai không hề gián đoạn.
Dựa vào thức thanh tịnh có thể khiến chư Phật thọ dụng sự vui mừng an lạc rộng lớn, vì thế gọi là thân-cõi thọ dụng.
Thân, cõi nước như vậy chỉ có Phật mới nhận biết, không phải là sự chứng đắc của Bồ-tát tại năm căn. Mỗi mỗi sắc căn có khả năng chứng đạt tất cả cảnh giới đã thọ nhận, không có gì chướng ngại. Vì vậy, từ tướng vô kiến đảnh của chư Phật phát ra vô biên pháp âm, tất cả tác dụng của sắc căn đều không giới hạn mà hiện bày trùm khắp.
Nói sắc biến hóa là do sức của Bi nguyện biến hóa các loại thân, các loại tướng tốt đẹp, các loại tiếng nói, dựa vào các cõi nước với hình tướng-số lượng không nhất định, để giúp chúng Bồ-tát bước vào lĩnh vực Đại thừa.
Thân biến hóa cũng là do sức của bi, nguyện để giáo hóa các hữu tình thuộc địa tiền, mà hiện thân biến hóa chung cho cả sắc-phi sắc. Phi sắc tức là nghiệp ý biến hóa, tướng của các công đức như mười lực, bốn pháp Vô úy. Vì không có hình chất cho nên không có hình thể-dung lượng.
Sắc là nghiệp của thân ngữ biến hóa..., tùy lúctùy nơi-tùy sự thích hợp của mọi người mà biến hiện thân hình với số lượng không nhất định, như kinh đã nói rộng.
Ba thân như vậy, thì tất cả Như Lai là có sai biệt hay là không sai biệt? Tánh thật của Pháp thân thì hết thảy Như Lai đều cùng có, không hề có sai biệt. Dựa theo nhân của năng chứng vì có sai biệt, mà tạm nói là sai biệt. Hai thân còn lại, mỗi thân đều chiêu cảm với nhân riêng, với tự tánh riêng biệt cho nên thật có sai biệt. Nhưng không giữ lấy riêng biệt, cùng xứ sở tương tự với sự nghiệp mang làm lợi ích yên vui, bình đẳng cho nên nói là không sai biệt. Vì vậy mà nói: Tất cả chư Phật dựa vào sự nghiệp vui với ý thích làm nơi nương tựa, đối với ba loại thân theo như thứ tự ấy mà nói là không sai biệt, pháp giới là nơi nương tựa không hề sai biệt ý thích mang lại niềm vui lợi ích không hề sai biệt cùng làm sự nghiệp không hề sai biệt.
Ba thân như vậy, mỗi thân đều có các công đức riêng biệt chăng? Pháp thân thanh tịnh của Như Lai lấy Chân như chuyển y làm tướng, là điều thiện chân thật, có bản tánh thanh tịnh vì xa lìa tất cả các pháp tạp nhiễm, là nơi nương tựa của hết thảy công đức, là tánh chân thật của mọi công đức, cho nên gọi là đầy đủ tất cả công đức, không có công đức sai biệt của sắc-tâm.
Thân thọ dụng của Phật đầy đủ tất cả công đức chân thật của các pháp sắc-tâm, và vì người khác mà hiện bày công đức của tướng biến hóa.
Thân biến hóa của Phật chỉ đầy đủ mọi biến hiện công đức trong tướng biến hóa của sắc-tâm... Vì vậy, ba thân đều nói là đầy đủ số lượng công đức vượt quá số cát sông Hằng.
Tất cả Như Lai đã hóa độ các hữu tình là chung hay không chung?
Có nghĩa: Đều chung. Bởi vì mỗi mỗi Đức Phật đều có thể hóa độ tất cả hữu tình với tất cả phước đức-trí tuệ đều bình đẳng, siêng năng tu tập thệ nguyện trong ba vô số kiếp, cùng vì cứu độ tất cả chúng sinh và mong cầu Bồ-đề. Như nói: Một Đức Phật đã hóa độ hữu tình, tức là tất cả Phật hóa độ.
Có nghĩa: Không chung. Bởi vì các loài hữu tình được Phật hóa độ, vốn cùng hệ thuộc lẫn nhau. Vì vậy, vào thời Phật Để-sa, Như Lai đã cùng với đức Từ Thị làm đệ tử Phật ấy. Phật Để-sa quán xét hữu tình mà Đức Thích-ca giáo hóa có thiện căn thành thục trước, còn thiện căn của hữu tình mà đức Từ thị hóa độ về sau mới thành thục.
Lại nữa, Phật Để-sa quán sát nhân hành của đức Từ Thị sẽ được viên mãn trước, còn Đức Thích-ca thì viên mãn sau. Như Lai Để-sa liền nhập định Hỏa quang ở một chỗ, khiến Đức Thíchca trông thấy, suốt bảy ngày bảy đêm không rời khỏi một bước, Đức Thích-ca dùng một bài tụng ca ngợi Phật Để-sa cho nên Đức Thích-ca đã vượt qua và thành Phật trước Đức Từ Thị.
Lại nữa, khi Đức Phật sắp nhập Niết-bàn, đã nói như vậy này: “Những người đáng được hóa độ, Ta đã hóa độ xong”.
Lại như Khế Kinh: Khi sắp nhập Niết-bàn, Đức Phật quán sát một nơi chốn đã hóa độ trong hiện tại, đó là Phi tưởng phi phi tưởng xứ, người ở đó sẽ sinh vào cõi này để nhận sự hóa độ của Phật,
Ngài đã để lại một Hóa thân ẩn trong cõi này. Thân hiện nhập Niết-bàn là thân đã được thọ nhận từ trước. Người từ cõi Phi tưởng phi phi tưởng xứ mất và sinh vào cõi này. Hóa thân của Đức Phật đã lưu lại sẽ giảng nói pháp nhiệm mầu khiến kẻ kia thành tựu quả vị A-la-hán, bấy giờ, hóa thân mới mất mà không hóa hiện nữa.
Lại nữa, nhiều nơi trong các kinh đều nói rõ năng hóa và sở hóa đều quyết định hệ thuộc nhau. Vì vậy, sự giáo hóa của chư Phật là không chung.
Nghĩa như thật, thì có chung và không chung. Từ vô thỉ đến nay, chủng tánh trong pháp vốn như vậy mà hệ thuộc với nhau: Hoặc nhiều hóa thân hệ thuộc một hóa thân, hoặc một Hóa thân hệ thuộc với nhiều Hóa thân. Khi nhân của Bồ-tát làm thành thục cho các hữu tình, cũng không quyết định là hoặc chung-hoặc không chung, cho nên thành Phật rồi, hoặc hóa độ chung, hoặc hóa độ riêng.
Nếu chúng sinh được hóa độ, luôn luôn là chung thì đâu cần nhiều Đức Phật? Một Đức Phật có thể hóa độ tất cả chúng sinh, chỉ cần một Đức Phật thường trú nơi thế gian để giáo hóa chúng sinh, còn tất cả Đức Phật khác đều tùy ý vĩnh viễn nhập Niết-bàn. Đức Phật cũng không cần phải hóa độ các chúng sinh còn lại, khiến hướng về Đại thừa, vì không có tác dụng, chỉ cần hóa độ các chúng sinh kia khiến đạt được ba Thừa, vĩnh viễn nhập tịch diệt vì dễ chứng đắc.
Vậy ai là người có trí mà bỏ cái dễ để chọn cái khó là đốt đèn giúp cho mặt trời? Vì vậy, cho nên chúng sinh được hóa độ không phải là luôn luôn đều chung. Nếu chúng sinh được hóa độ, luôn luôn là không chung, thì Bồ-tát không cần phải phát thệ nguyện sâu rộng, từng trải để phụng sự chư Phật, tu học Tô-đạt-na..., của Đại thừa, cũng không cần gần gũi nhiều bậc thiện tri thức và chư Phật, chẳng cần đem những gì mình đã hóa độ để giao phó dặn dò Đức Phật sau.
Những sự việc như vậy đều trái ngược với nhau. Vì vậy không nên cho là luôn luôn không chung. Tuy mỗi Đức Phật đều có công năng hóa độ tất cả hữu tình, nhưng các hữu tình nếu không có duyên với Đức Phật thì họ không bằng lòng tiếp nhận sự hóa độ, cũng không trông thấy-không nghe biết. Tuy mỗi mỗi Đức Phật đều gắn bó cùng tận thời gian đời vị lai, ở mãi với thế gian, giáo hóa vô lượng các loại hữu tình, tùy thuận căn cơ thích hợp hiện bày các loại để hóa độ, hoặc thị hiện Đẳng giác, hoặc thị hiện Niết-bàn, hoặc gọi là Thích-ca, hoặc gọi là Từ Thị... Thuận theo một tướng hóa độ đối với các hữu tình đã được hóa độ mà nói là đều đã hóa độ xong.
Người sinh vào xứ Phi tưởng, cần phải trông thấy tướng hóa độ của Đức Phật Thích-ca thì mới được hóa độ, cho nên Đức Phật để lại Hóa thân chờ đợi, cũng không trái ngược nhau. Nếu các Như Lai đều cùng một chủng loại được hóa độ thì Đức Phật nào hiện tiền mà hóa độ chúng sinh kia? Vì chư Phật đều có năng lực của Bi, nguyện, không thể một lần hóa độ mà các lần khác đều ngừng nghỉ. Chỉ vì có duyên với Phật, cùng một nơi chốn, cùng một thời gian, trên trí hậu đắc đều hiện bày một lần hóa độ.
Trạng thái đó giống như không chướng ngại nhau, lại cùng hòa hợp đan xen làm tăng thượng duyên, khiến thức của chúng sinh được hóa độ biến hiện như vậy. Nghĩa là trông thấy một Đức Phật, hiện thần thông hay giảng nói chánh pháp cho họ. Những sự kiện như vậy..., thì không thể nghĩ bàn được, không phải là lý Duy thức thì không thể hiểu rõ.
Lại nữa, Thân tự tánh tịch diệt, yên vui, chính là thuộc về công đức lợi mình, là tăng thượng duyên cho lợi ích của chúng sinh, cho nên gồm cả việc lợi người.
Hơn nữa, với hai thân ấy cùng làm lợi, vì đều là nơi nương tựa của công đức, thuộc về hai loại lợi ích. Thân thọ dụng; có đủ hai phần:
1. Phần tự thọ nhận pháp lạc: Nghĩa là trong ba vô số kiếp, tu tập hạnh lợi mình đầy đủ mà chứng được thân thật như các sắc tướng..., khiến tự thọ dụng sự hỷ lạc vi diệu.
2. Phần khiến kẻ khác thọ nhận pháp lạc: Nghĩa là tu tập hạnh lợi người đầy đủ trong ba vô số kiếp, mà chứng được Hóa thân như các sắc tướng... vì nhập vào các chúng Bồ-tát thuộc cảnh giới Đại thừa, hiện bày các loại hình tướng, giảng nói các loại pháp, khiến cho các Bồ-tát tiếp nhận pháp lạc lớn. Do hai phần ấy, hoặc nói thân này chỉ thuộc về lợi mình, hoặc nói thân này chỉ thuộc về lợi người, hoặc nói thuộc về cả hai, đều không trái ngược nhau.
Thân biến hóa chỉ vì lợi tha mà hiện bày các tướng hóa độ, cho nên thuộc về lợi tha.
Ba thân như vậy có bốn phần, có thể làm thành bốn câu:
1. Thọ dụng không phải là biến hóa: Nghĩa là phần lợi mình thuộc thân thọ dụng thật.
2. Biến hóa không phải là thọ dụng: Nghĩa là thân biến hóa, vì hóa độ cho nhiều loại chúng sinh thuộc địa tiền, hoặc thô sơ, hoặc mầu nhiệm, hoặc khiến cho chúng sinh hoan hỷ, hoặc làm cho họ sợ hãi, đổi thay không nhất định, chỉ gọi là biến hóa mà không gọi là thọ dụng, vì không cần phải làm cho tiếp nhận pháp lạc hiện tại.
3. Cũng thọ dụng mà cũng biến hóa: Nghĩa là vì Bồ-tát địa thượng đã hiện ra các Hóa thân, khiến cho các Bồ-tát được tiếp nhận pháp lạc, tùy thuận thời gian đổi thay chuyển biến không quyết định.
4. Không phải là thọ dụng cũng không phải là biến hóa: Là thân tự tánh.
Hoặc có chỗ nói Phật có hai loại thân:
1. Sinh thân.
2. Pháp thân.
Hoặc là thân tự tánh, hoặc là thân thọ dụng thật, đều gọi là pháp thân, là chỗ nương tựa của các pháp công đức, là các pháp công đức tích tập mà thành. Hoặc là thân biến hóa, hoặc là thọ dụng của người khác, đều gọi là sinh thân vì tùy sự thích ứng của chúng sinh mà thường thị hiện thọ sinh.
Lại nữa, kinh khác nói: Có mười loại Phật:
1. Phật hiện Đẳng giác.
2. Phật thệ nguyện rộng lớn.
3. Phật của nghiệp dị thục.
4. Phật trú trì.
5. Phật biến hóa.
6. Phật pháp giới.
7. Phật tâm.
8. Phật định.
9. Phật bản tánh.
10. Phật tùy thuận an lạc.
Năm Phật trước thuộc về thế tục. Năm Phật sau thuộc về Thắng nghĩa. Tùy theo những sự thích hợp mà thuộc về ba thân. Các loại như vậy..., tùy theo hình tướng, cho nên biết.
Kinh: “Pháp giới tịnh như vậy, Điều chư Phật đã nói”.
Luận: Pháp giới thanh tịnh của Như Lai như vậy là chư Phật cùng thuyết giảng.
Phật Địa đầy đủ ba thân sai biệt với năm loại công đức. Hoặc nghĩa tướng của tự tánh có sáu câu.
Do bốn bài tụng này nói lược về tất cả công đức của Phật địa, và như trước đã nói rộng, cho nên biết gọi chung là Thánh giáo đã được nêu giảng.
Kinh: “Bấy giờ, Đức Bạc-già-phạm thuyết kinh này xong, Đại Bồ-tát Diệu Sinh..., các Đại Thanh văn, các chúng Trời-Người, A-tố-lạc..., ở thế gian, cùng tất cả đại chúng sau khi nghe Phật thuyết giảng, đều vô cùng hoan hỷ tin nhận và vâng làm”.
Luận: Trong đoạn kinh này chỉ rõ: Chúng hội nghe pháp, vâng làm theo lời Phật dạy.
Do tâm Bi và thệ nguyện trong Thức thanh tịnh của Phật mà dẫn phát, biến hiện tương tự diệu lực tăng thượng duyên của Khế kinh, lúc ấy thiện căn trong tự tâm của chúng hội đều được thành thục, giống như tướng Phật thể hiện. Nghĩa là nghe Phật giảng nói đều sinh tâm hoan hỷ-tin tưởng-tiếp nhận và vâng làm.
Các Thanh văn..., hoặc là do biến hiện hóa ra, hoặc là chân thật, hai cõi Thọ dụng và Biến hóa đều cùng một chốn.
Đồ chúng đã nghe pháp xong, mặc dù cùng được nghe như nhau, nhưng sự nhận thức đều khác nhau, mà không gây chướng ngại nhau. Trên cũng thấy dưới, dưới không thấy trên, nhưng tất cả đều thành tựu sự việc lợi ích và yên vui.
Các câu-nghĩa thâm diệu Phật địa,
Nay con tùy phần đã lược giải,
Công đức thí khắp các quần sinh
Nguyện mau chóng thành quả Vô thượng.
Những ai viết chép được sinh phước,
Sau được quả Đẳng lưu thắng thiện,
Mong pháp nối tiếp tận vị lai,
Lợi ích yên vui các hàm thức.