TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG LUẬN
BỘ A-TỲ-ĐÀM

SỐ 1554 - LUẬN NHẬP A TỲ ĐẠT MA

Tác giả: A-la-hán Tắc-Kiến-Đà-La. Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng. Đời Đường vâng chiếu dịch.

MỤC LỤC

QUYỂN THƯỢNG

QUYỂN HẠ

QUYỂN THƯỢNG

Phẩm 1: PHÂN BIỆT SẮC (Phần đầu)

QUYỂN HẠ

Phẩm 1: PHÂN BIỆT SẮC (Phần cuối)

Phẩm 2: PHÂN BIỆT TÂM

Phẩm 3: PHÂN BIỆT TÂM SỞ PHÁP


QUYỂN THƯỢNG

Kính lạy Nhất thiết trí Mặt trời Phật không nhơ Lời sáng mở người trời Nẻo ác che bản tâm

Và các lý đối pháp Dứt trừ tướng ngu si Con đảnh lễ như thế

Nhất Thiết trí nói Tạng, Tuệ kém tối vọng ngữ Ngăn lấp lời Phật dạy Chiếu soi do đèn sáng Kính lạy bậc thắp đèn.

Người có trí tuệ thông minh có thể thọ trì các nghĩa văn giáo huấn tôn quý của đấng Mâu-ni nhưng do câu nệ sự nghiệp nên chưa được bất thối. Người có trí tuệ kém cỏi, nghe danh, nghĩa trong pháp đối trị quá phức tạp như rừng rậm, rồi sinh ra nỗi sợ hãi. Nhưng người ấy thường có tâm tìm tòi, hiểu biết rõ ràng.

Vì muốn cho người đó đối với vị trí sâu thẳm trong biển pháp tướng của A-tỳ-đạt-ma, được vui thích dễ vào, nên tôi soạn luận này.

Nói là Tông Thiện Thệ có tám cú nghĩa:

1. Sắc.

2. Thọ.

3. Tưởng.

4. Hành.

5. Thức.

6. Hư không.

7. Trạch diệt.

8. Phi trạch diệt.

Đây là gồm chung tất cả nghĩa. Sắc có hai thứ: Đại chủng và Sắc được tạo đại chủng có bốn thứ: Đất, nước, lửa, gió. Giới có thể giữ gìn tướng riêng, tướng chung, hoặc các sắc được tạo, nên gọi là giới.

Bốn đại chủng này, như thứ lớp của chúng, lấy chất cứng, ẩm ướt, ấm áp, lay động làm tự tánh, dùng sự gìn giữ, thâu tóm, thành thục, tăng trưởng làm nghiệp. Vì chủng loại to lớn nên gọi là Đại chủng. Do đó hư không chẳng phải thuộc về Đại chủng. Vì có thể sinh ra quả của mình, gọi là nghĩa chủng, vì sắc được tạo ra cùng khắp, nên gọi là Đại. Như vậy đại chủng chỉ có bốn thứ.

Hơn nữa, vì không có công dụng khác, vì không có khả năng kham nhận, như chân giường.

Sắc được tạo ra có mười một thứ:

1. Mắt.

2. Tai.

3. Mũi.

4. Lưỡi.

5. Thân.

6. Sắc.

7. Âm thanh.

8. Mùi hương.

9. Vị.

10. Một phần xúc.

11. Sắc Vô biểu.

Vì ở đại chủng có, nên gọi là được tạo ra, tức là nghĩa nương tựa đại chủng để khởi. Mắt trong đây, nghĩa là chỗ nương tựa của nhãn thức, vì việc thấy sắc là dùng tịnh sắc làm thể. Tai, mũi, lưỡi, thân y theo đây nên nói.

Sắc có hai thứ: Hiển sắc và hình sắc. Như Đức Thế Tôn nói: "Hiển ác thì hình ác". Hiển sắc ở đây có mười hai thứ: xanh, vàng, đỏ, trắng, khói, bụi, sương mù, ảnh quang, ánh sáng và bóng tối. Hình sắc có tám thứ: Dài, ngắn, vuông, tròn, cao, thấp, ngay, không ngay.

Sương mù nói ở đây là hơi của đất, nước. Ánh nắng mặt trời gọi là ánh sáng. Mặt trăng, tinh tú, lửa, thuốc, ngọc báu, ánh chớp, v.v... các thứ ánh sáng ấy gọi là sáng. Che khuất ánh nắng mặt trời, ánh sáng sinh ở trong đó. Sắc khác có thể trông thấy, gọi là ảnh. Trái với ảnh này, gọi là bóng tối. Vuông là giới vuông, tròn là vòng tròn, bằng v.v… gọi là ngay, hình không bằng thẳng gọi là không ngay. Vì các màu sắc khác rất dễ hiểu, nên ở đây không giải thích.

Hai mươi hai thứ này đều là cảnh riêng của nhãn thức, và dẫn riêng ý thức để phân biệt cảnh.

Âm thanh có hai thứ: Có chấp thọ và không chấp thọ, Đại chủng làm nhân có khác nhau, nên rơi vào tự thể, gọi là có chấp thọ, là nghĩa có giác biết. Trái với nghĩa này gọi là không chấp thọ. Cái được sinh trước gọi là có chấp thọ. Đại chủng làm nhân, nghĩa là âm thanh của lời nói, tay chân, v.v... Về sau mới sinh gọi là không chấp thọ. Đại chủng làm nhân, nghĩa là âm thanh của gió, rừng cây, v.v...

Ở đây, tiếng hữu tình, tiếng phi hữu tình có bốn loại khác nhau: Tiếng nói trong tiếng trước kia gọi là tiếng hữu tình. Âm thanh khác gọi là tiếng phi hữu tình, tiếng nói nơi lời giáo hóa trong tiếng sau này, được gọi là tiếng hữu tình, tiếng khác gọi là tiếng phi hữu tình.

Trong ấy, lại có tám thứ tiếng vừa ý và không vừa ý. Tám thứ như vậy đều là cảnh riêng của nhĩ thức và ý thức được dẫn kèm để rõ biết.

Mùi hương có ba thứ:

1. Mùi hương thơm.

2. Mùi hương hôi.

3. Mùi hương không thơm không hôi.

Nghĩa là có thể nuôi lớn đại chủng của các căn, gọi là mùi hương thơm, nếu gây nên sự tổn hại đại chủng của các căn gọi là mùi hương hôi. Nếu đều trái với cả hai thứ trên gọi là mùi hương thơm không hôi. Ba thứ như vậy đều là cảnh phân biệt của tỷ thức và ý thức rõ biết.

Vị có sáu thứ khác nhau: ngọt, chua, mặn, cay, đắng, lạt. Sáu thứ như vậy đều là cảnh phân biệt của thiệt thức và ý thức rõ biết.

Một phần xúc có bảy thứ: tính chất trơn, nhám, nặng, nhẹ và lạnh, đói, khát. Mềm gọi là trơn, là nghĩa của ý xúc. Thô cứng gọi là nhám. Có thể cân đo gọi là nặng, trái lại là nhẹ. Do bị ép ngặt muốn ấm gọi là lạnh. Nhân muốn ăn gọi là đói, nhân muốn uống gọi là khát, những thứ này đều từ nhân mà đặt tên quả, nên nói như thế. Như nói: v.v… "Chư Phật xuất hiện v.v…".

Vì nước, lửa trong nhóm đại chủng tăng nên có tánh trơn. Vì đất, gió tăng nên có tánh nhám. Vì đất nước tăng nên có tánh nặng. Vì lửa, gió tăng nên có tánh nhẹ. Vì nước, gió tăng nên có tánh lạnh. Vì gió tăng nên có cảm giác đói. Vì lửa tăng nên có cảm giác khát.

Sắc Vô biểu: Nghĩa là vì có thể tự biểu lộ sự chuyển biến khác nhau của các tâm, tâm sở, nên gọi là biểu. Vì đồng loại với sự chuyển biến của tâm, tâm sở kia mà không thể biểu hiện, nên gọi là vô biểu. Đấy là do ở sự giống nhau nên lập ra giới hạn, như đối với Sát-đế-lợi v.v... nói là không phải Bà-la-môn, v.v...

Tướng vô biểu: Nghĩa là do tâm biểu lộ sự khác nhau của đại chủng. Vào lúc ngủ, thức, tâm tán loạn, hay không tán loạn, và ở phần vị vô tâm có sắc thiện, bất thiện, chuyển biến nối tiếp nhau, không thể chất chứa, là có thể kiến lập nhân của Bí-sô, v.v... là tướng vô biểu. Nếu không có tướng vô biểu này, thì không nên kiến lập có Bí-sô, v.v... như Đức Thế Tôn nói: "Dựa vào nghiệp phước mà phước thường hằng kia tăng trưởng". Như vậy, vô biểu gồm có ba thứ: luật nghi, bất luật nghi, đều thuộc về trái nhau.

Luật nghi có ba thứ: Biệt giải thoát, tĩnh lự và luật nghi vô lậu.

Luật nghi biệt giải thoát lại có tám thứ:

1. Luật nghi Bí-sô.

2. Luật nghi Bí-sô-ni.

3. Luật nghi cần sách (Sa-di).

4. Luật nghi Chánh học.

5. Luật nghi Cần sách nữ (Sa-di-ni).

6. Luật nghi Cận sự nam.

7. Luật nghi Cận sự nữ.

8. Luật nghi cận trụ.

Tám thứ như vậy chỉ thuộc cõi Dục. Luật nghi

Tĩnh lự, nghĩa là Tam-ma-địa của cõi Sắc, chuyển biến theo sắc. Luật nghi này chỉ thuộc cõi Sắc.

Luật nghi vô lậu, nghĩa là Tam-ma-địa vô lậu chuyển biến theo sắc, luật nghi này không lệ thuộc ba cõi.

Bất luật nghi, nghĩa là kẻ giết mổ thợ săn, bắt chim cá, trộm cướp, giữ ngục, trói rồng, nấu chó, đặt bẫy, làm nem thịt thái. Vô biểu sắc bất thiện trong các thân này được nối tiếp chuyển biến.

Phi luật nghi, phi bất luật nghi, nghĩa là xây dựng Tỳ-ha-la, Tốt-đổ-ba, Tăng-già-la-ma v.v... và lễ tháp miếu, đốt hương, rải hoa, tán, tụng, chú nguyện v.v... đồng thời đánh đập, v.v… khởi ra các thứ vô biểu sắc thiện, bất thiện nối tiếp chuyển biến. Cũng có vô biểu chỉ trong một sát-na. Vì dựa vào chủng loại chung nên nói là nối tiếp nhau.

Luật nghi biệt giải thoát do thệ nguyện lãnh thọ bảy luật nghi trước, cho đến khi qua đời, thọ luật nghi thứ tám trong một ngày, đêm, lại xả bảy thứ luật nghi trước do bốn duyên:

1. Vì xả giới mình đã học.

2. Vì qua đời.

3. Vì đoạn căn thiện.

4. Vì sinh hai hình.

Luật nghi thứ tám, tức do bốn duyên trước và xả do đêm đã tàn mà xả.

Luật nghi tĩnh lự do được tâm thiện cõi Sắc nên được. Vì bỏ tâm thiện cõi Sắc nên xả. Vì thuộc về tâm người kia, nên luật nghi vô lậu được xả cũng vậy. Vì tùy tâm vô lậu mà được xả, được bất luật nghi do tạo ra và lãnh thọ.

Do bốn duyên nên xả bất luật nghi:

1. Vì thọ luật nghi.

2. Vì qua đời.

3. Vì sinh hai hình.

4. Pháp như thế mà được.

Vô biểu trong xứ tâm thiện của cõi Sắc, hoặc vì làm ra mà được, là tâm tịnh ân cần, phiền não mạnh mẽ, nhạy bén, lễ tán tháp miếu và đánh đập, v.v... Hoặc vì lãnh thọ mà được, nghĩa là nghĩ rằng: "Nếu không được Đức Phật tạo ra Mạn-đồ-la thì trọn sẽ không ăn trước". Lời nguyện ấy hoặc do xả mà được, nghĩa là xây cất chùa, tăng xá, tọa cụ, vườn rừng, bố thí cho Bí-sô, v.v... Xả vô biểu này là do tâm cùng khởi và việc đã làm vì đều có tâm dứt trừ. Vô biểu như vậy và như trước đã nói năm căn như nhãn, v.v... chỉ là cảnh của ý thức đã biệt rõ. Ngang đây được gọi là nghĩa câu sắc ban đầu, nhưng các pháp tướng tóm tắt có ba thứ:

1. Tự cộng tướng.

2. Phần cộng tướng.

3. Biến cộng tướng

Tự cộng tướng: Nghĩa là như vì biến đổi, hư hoại, hoặc bị đổi thay, trở ngại, nên nói tên là sắc. Như vậy, tức là nói nghĩa có thể gây khổ não, hư hoại. Như đấng Pháp Vương nói: "Bí-sô nên biết! Do sự đổi thay, hư hoại, nên gọi là sắc thủ uẩn".

Cái gì có thể đổi thay, hư hoại? Là vì tay tiếp xúc, tức là sự đổi thay hư hoại, cho đến nói rộng. Như vì có thể đi nhanh, nên gọi là ngựa. Vì có thể đi chậm, nên nói là bò, v.v...

Phần cộng tướng: Nghĩa là như tánh phi thường và tánh khổ v.v… Biến cộng tướng: Như tánh phi ngã và tánh không, v.v... Do khuôn khổ này đối với tất cả pháp, nên biết là ba tướng. Nghĩa câu Thọ: Nghĩa là ba thứ nhận lãnh:

1. Vui.

2. Khổ.

3. Không khổ không vui.

Đây tức là sự nhận lãnh ba thứ nghĩa tùy theo sự tiếp xúc, từ sự xúc chạm sinh ra ưa thích, không ưa thích hoặc không phải cả hai. Vì phần vị của thân tâm, sinh ra hai sự tiếp xúc khác nhau, mà đối với cảnh sinh ra vui, buồn, không phải cả hai làm tướng hay làm nhân cho ai, nên gọi là thọ. Như Đức Thế Tôn nói: "Xúc duyên thọ, thọ duyên ái".

Thọ này lại tùy theo sự khác nhau của thức mà có sáu như nhãn tiếp xúc phát sinh thọ, cho đến ý tiếp xúc sinh ra thọ. Năm thức đều sinh gọi là thân thọ. Ý thức đều sinh gọi là tâm thọ.

Do căn khác nhau nên kiến lập năm thứ: Lạc căn, khổ căn, hỷ căn, ưu căn, xả căn. Các thân thọ nhận sự vui vẻ và tâm tĩnh lự thứ ba. Thọ nhận sự vui vẻ gọi là lạc căn. Sự vui vẻ là thuộc về nghĩa lợi ích.

Các thân nhận sự không vui, gọi là khổ căn. Sự không vui là nghĩa tổn não, trừ tĩnh lự thứ ba. Tâm khác nhận niềm vui, gọi là hỷ căn. Các tâm nhận sự không vui gọi là ưu căn. Các thân và tâm nhận không phải vui, không phải chẳng vui, gọi là xả căn. Phân biệt rộng về căn này, như chỗ nói về căn v.v…

Tưởng nghĩa câu, nghĩa là có thể đã hợp danh nghĩa của tướng để hiểu, tức là đối với các màu sắc xanh, vàng, dài, ngắn. v.v.. tiếng ốc, tiếng trống v.v... mùi hương trầm, xạ hương v.v.. vị mặn, đắng v.v.. sự tiếp xúc vật cứng, mềm v.v... pháp tướng của nam, nữ v.v.. gọi là trong nghĩa giả hợp mà hiểu.

Vì là nhân của tâm, tứ nên gọi là tưởng, tưởng này tùy theo thức có sáu thứ riêng như thọ.

Sự khác nhau lớn nhỏ của vô lượng có ba thứ: nghĩa là vì duyên cảnh ít, nên gọi là tưởng nhỏ. Vì duyên các cảnh pháp lớn, mầu nhiệm, cao siêu, v.v... nên gọi là tưởng lớn. Tùy theo không vô biên xứ, v.v... gọi là tưởng vô lượng, hoặc tùy theo ba cõi mà đặt ba tên này.

Hành có hai thứ: Hành tương ưng và hành bất tương ưng.

Hành tương ưng nghĩa là tư, xúc, dục, tác ý, thắng giải, niệm, định, tuệ, tầm, tứ, tín, tinh tiến, tàm, quý,, khinh an, bất hại, xả, hận, yểm, bất tín, biếng nhác, không buông lung, căn thiện, căn bất thiện, căn vô ký, kiết, phược, tùy miên, tùy phiền não, triền, lậu, ách, bộc lưu, thủ, thân hệ cái (cái lệ thuộc thân) và trí nhẫn, v.v... Các pháp tâm sở này đều đối với tâm có đủ năm nghĩa: Chỗ dựa, đối tượng duyên, hành tướng, thời gian và sự... nên gọi là tương ưng. Trái với tương ưng này, gọi là bất tương ưng, nghĩa là đắc, phi đắc, định Vô tưởng, định Diệt tận, Vô tưởng sự, mạng căn, chúng đồng phần, sinh, trụ, già, vô thường, danh thân, cú thân, văn thân...

Như vậy, hành tương ưng, bất tương ưng, gọi chung là hành uẩn. Vì vậy, nên đấng Đại Tiên nói: "Hành uẩn như thân cây chuối".

Tư, là có thể khiến tâm tạo tác, tức là ý nghiệp, cũng là nghĩa làm cho tâm vận động, vì tư này khác với thiện, bất thiện, vô ký, có ba thứ khác nhau.

Xúc là căn, cảnh, thức hòa hợp phát sinh khiến tâm tiếp xúc với cảnh, lấy khả năng nuôi sống tâm làm tướng, có ba thứ thuận lạc thọ v.v… khác nhau.

Dục, nghĩa là mong cầu, làm sự nghiệp thuận theo, tinh tiến, có nghĩa là ta phải làm sự nghiệp như thế.

Tác ý, nghĩa là có thể khiến tâm cảnh giác, tức là nghĩa dẫn tâm hướng đến cảnh, cũng là sự ghi nhớ, gìn giữ, đã từng là cảnh của thọ v.v... Cảnh này có ba thứ: Là học, vô học, phi học phi vô học. Tác ý vô lậu trong bảy thân hữu học, gọi là Học. Tác ý vô lậu trong thân A-la-hán, gọi là Vô học. Tác ý tất cả hữu lậu đều gọi là Phi học phi vô học.

Thắng giải, nghĩa là có thể chấp nhận đối với cảnh, tức là nghĩa có thể giúp cho tâm không khiếp sợ, yếu đuối đối với cảnh sở duyên.

Niệm: Khiến tâm ghi nhớ rõ cảnh tượng, tức là không quên, nghĩa là đã tạo ra các sự nghiệp chánh đáng.

Định: Khiến tâm chuyên chú một cảnh, tức là chế ngự tâm như vượn, khỉ, chỉ có nghĩa chuyển ở một cảnh. Phái Tỳ-bà-sa nói như vầy: "Như con rắn ở trong ống, di chuyển không cong. Nếu tâm ở trong định, sẽ chuyển ngay thẳng".

Tuệ: Đối với pháp hay chọn lựa, tức là tương ưng với sự thâu nhận, thành tựu các quả nhân duyên. Trong tám thứ pháp tự tướng, cộng tướng, tùy theo ở sự thích hợp mà lấy sự quán sát làm nghĩa.

Tầm: Nghĩa là đối với cảnh, khiến tâm thô tháo làm tướng, cũng gọi là sự phân biệt tư duy thuộc về gió tưởng, chuyển biến thô động, pháp này chính là nhân chuyển biến của năm thức.

Tứ: Nghĩa là đối với cảnh, khiến tâm nhỏ nhặt làm tướng. Pháp này chính là nhân thuận theo ý thức chuyển biến ở cảnh.

Tín là khiến tâm lắng sạch đối với cảnh, tức đối với tướng nhân quả của Tam bảo thuộc về sự chấp nhận hiện tiền trong tánh có, v.v... nên gọi là tín. Điều này có thể loại trừ pháp cấu uế của tâm, như bỏ phèn lóng xuống ao, sẽ làm cho nước đục nhơ trở thành lắng trong. Cũng vậy bỏ phèn tín vào ao tâm, mọi thứ nhơ đục của tâm đều được loại bỏ ngay.

Tin Phật chứng Bồ-đề, tin Pháp thì khéo nói, tin tăng có đủ diệu hạnh. Cũng tin tưởng hết thảy ngoại đạo đều bị mê mờ. Pháp tánh duyên khởi là sự nghiệp của niềm tin.

Tinh tiến, nghĩa là đối với pháp thiện, bất thiện, lấy sự mạnh mẽ vượt lên trong sự sinh diệt làm tánh, tức là kẻ đang chìm đắm trong vũng bùn sinh, tử thì dốc tâm, cố sức sao cho mình nhanh chóng được ra khỏi.

Tàm, nghĩa là thuận theo pháp bạch của chánh lý, tăng thượng mà nảy sinh tánh tự tại của tâm đẳng lưu trái với ái. Do uy lực này, đối với các công đức và người có đức độ, cung kính mà trụ.

Quý, nghĩa là tu tập công đức làm trước nhất, trái với đẳng lưu si, quở trách pháp yếu kém. Do uy lực này nên sợ tội lỗi.

Không buông lung nghĩa là tu các pháp thiện. Trái với hại, buông lung, gìn giữ tâm tánh. Tâm tánh kham nhận gọi là khinh an. Trái với hại, hôn trầm, thuận theo pháp thiện. Tâm tánh thiện vững chắc, gọi là không hại. Do uy lực này, nên không gây tổn não cho người khác. Hay trái với việc ưa làm tổn hại người khác, tâm tánh bình đẳng, gọi là xả. Vì xả bỏ phi lý và hướng đến chân lý. Do uy lực này khiến tâm đối với chánh lý và phi lý, không hướng, không bỏ, bình đẳng mà trụ, như cầm cán cân.

Hận: Là vui thích ở phẩm Hoàn diệt, thấy công đức rồi khiến tâm hân hoan, mến mộ, thuận theo tu thiện, vì có tâm này nên sự ưa thích Niết bàn tương ưng với tâm này, gọi là Hận tác ý.

Yểm: Nghĩa là nhàm chán các thứ tai hại đối với phẩm lưu chuyển. Thấy lỗi lầm rồi, khiến tâm chán lìa, thuận theo lìa nhiễm. Vì nhờ có tâm này, nên nhàm chán sinh tử xấu ác, tương ưng với tâm ấy, gọi là Yểm tác ý.

Tâm không lắng sạch, gọi là Bất tín, như trước đã nói, là trái với tín.

Tâm không mạnh mẽ, gọi là biếng nhác, trái với tinh tiến đã nói ở trước.

Không tu pháp thiện, gọi là buông lung, trái với tánh không buông lung đã nói ở trước, tức là nghĩa không thể gìn giữ tâm.

Ba thứ như bất tín v.v... đã nói, như vậy không lập tùy miên và triền cấu, vì lỗi lầm nhẹ, vì dễ trừ bỏ.

Căn thiện có ba thứ: Vô tham là trái với pháp tham, vô sân là trái với pháp sân, vô si là trái với pháp si, tức là lấy trí tuệ làm tự tánh như trước đã nói.

Ba pháp này là tự tánh của thiện, cũng có thể là cội rễ sinh ra pháp thiện khác, nên gọi là căn thiện. Nghĩa yên ổn là nghĩa thiện, vì có thể dẫn đến thân sau khả ái và mầm mống của sự giải thoát, hoặc là đã tập học, trở thành nghĩa phương tiện khéo léo, là nghĩa thiện. Do pháp thiện này có thể làm xong hình tượng của sắc mầu nhiệm. Như họa sĩ tô màu bức tranh vẽ, tạo ra ra bức tượng với màu sắc tươi đẹp, thế gian đều khen là khéo léo.

Căn bất thiện có ba thứ, tức là ba thứ tham, sân, si mà ở trước đối trị. Tham là năm bộ tham cõi Dục. Sân là năm bộ sân. Si là ba mươi bốn vô minh của cõi Dục, trừ hữu thân kiến và vô minh tương ưng với biên chấp kiến.

Ba pháp như vậy là tự tánh của bất thiện, cũng có thể là cội rễ nảy sinh các bất thiện khác, gọi là căn bất thiện. Nghĩa không yên ổn, là nghĩa bất thiện, vì có thể dẫn đến phi ái, mầm mống của các hữu. Hoặc chưa tập học, không phải là nghĩa phương tiện khéo léo, đó là nghĩa bất thiện. Do bất thiện này có thể phân biệt sắc tượng xấu, như họa sĩ tạo ra bức tranh không đẹp, nên gọi là không thiện.

Căn vô ký có bốn thứ: Ái, kiến, mạn, vô minh. Ái: Cõi Sắc, Vô Sắc đều có năm bộ tham.

Kiến: Cõi Sắc, Vô Sắc đều có mười hai kiến và cõi Dục hữu thân kiến, biên chấp kiến.

Mạn: Cõi Sắc, Vô Sắc đều có năm bộ mạn.

Vô minh: Tất cả vô minh của cõi Sắc, cõi Vô Sắc và cõi Dục, có thân kiến và biên chấp kiến tương ưng với vô minh.

Bốn căn vô ký này là tự mình đã thừa nhận.

Người tu tĩnh lự vì có ba hạng khác nhau:

1. Hạng người yêu thích tĩnh lự cõi trên.

2. Hạng người đã thấy tĩnh lự cõi trên.

3. Hạng người kiêu mạn đối với tĩnh lự cõi trên. Ba hạng người này đều do năng lực vô minh khởi lên. Phái Tỳ-bà-sa lập căn vô ký chỉ có ba thứ: Vô ký ái, vô minh, tuệ. Sự nghi ngờ trụ không vững chắc, tánh khinh mạn, tự cao, vì không phải pháp căn, nên đối với nghĩa thiện, bất thiện đều không ghi nhận, nên gọi là vô ký.

Lại vì không thể ghi nhớ của ái, phi ái, nên gọi là vô ký, vì không thể chiêu cảm quả dị thục. Tánh vô ký này cũng có thể sinh ra pháp nhiễm vô ký khác, hoặc các pháp vô ký, nên gọi là căn vô ký

Kiết có chín thứ: Kiết ái, kiết sân, kiết mạn, kiết vô minh, kiết kiến, kiết thủ, kiết nghi, kiết san và kiết tật.

Kiết ái, nghĩa là sự tham của ba cõi là tướng đắm nhiễm như keo sơn nên gọi là ái. Vì ái chính là kiết, nên gọi là kiết ái.

Kiết sân, nghĩa là năm bộ sân. Đối với niềm vui của hữu tình v.v… bị tổn hại, với tướng không lợi ích, như hạt giống cay đắng, cho nên gọi là sân. Vì sân chính là kiết, nên gọi là kiết sân.

Kiết mạn, nghĩa là sự kiêu mạn của ba cõi. Vì mình khác với đức độ của người khác, nên sinh tâm khinh rẻ, ý đây gọi là mạn, như kẻ kiêu ngạo, lấn át, khinh miệt người khác. Mạn này lại có bảy thứ:

1. Mạn.

2. Quá mạn.

3. Mạn quá mạn.

4. Ngã mạn.

5. Tăng thượng mạn.

6. Ty mạn.

7. Tà mạn.

Nghĩa là nhân những việc về dòng họ, tài sản, địa vị, sắc lực, giữ giới, học rộng, nghề nghiệp, nên đối với người yếu kém thì cho là mình hơn, hoặc đối với kẻ ngang bằng mình thì cho mình là ngang bằng. Do quan niệm này, nên làm cho tâm cao cử, gọi là mạn.

Nếu đối với người ngang bằng với mình mà cho là mình hơn, hoặc đối với những kẻ giỏi hơn mình, mình lại cho là bằng họ. Do quan niệm này khiến tâm cao cử gọi là Quá mạn. Nếu đối với người hơn mình mà cho là mình hơn. Do ý nghĩ này nên làm cho tâm tự cao, cử gọi là Mạn quá mạn.

Nếu đối với năm thủ uẩn chấp ngã và ngã sở, do sự chấp này khiến tâm cao cử gọi là ngã mạn.

Nếu chưa chứng được các đức thù thắng trong quả Dự-lưu mà cho mình đã chứng được, do đó khiến cho tâm cao cử gọi là tăng thượng mạn.

Nếu cho mình là phần tử kém cỏi trong phần đông dòng họ đều vượt hơn, do đó đã khiến tâm cao cử gọi là Ty mạn.

Nếu thật sự không có đức mà cho mình có đức, do đấy khiến tâm cao cử gọi là tà mạn.

Bảy sự khinh mạn như thế, gọi chung là kiết mạn

Kiết vô minh: Nghĩa là ba cõi không biết, lấy sự không hiểu rõ làm tướng, như kẻ đui mù. Vì trái với ánh sáng, nên gọi là vô minh.

Lời ngăn cấm này là dựa vào nghĩa đối trị, như không phải bạn thân, lời nói không thật v.v..., tức là nói kẻ thù, lời nói dối trá, v.v...Vì vô minh tức là kiết, nên gọi là kiết vô minh.

Kiết kiến: Là ba kiến, tức hữu thân kiến, biên chấp kiến và tà kiến.

Không có ngã, ngã sở trong năm thủ uẩn mà chấp là thật có tướng của ngã, ngã sở, tuệ nhiễm ô này gọi là hữu thân kiến. Vì thân là nghĩa nhóm họp, vì có mà là thân, nên gọi là hữu thân, tức năm thủ uẩn. Ở ngay thân này khởi lên kiến chấp, gọi là hữu thân kiến, tức năm thủ uẩn không phải đoạn, không phải thường, qua đó lại chấp có hai tướng đoạn, thường. Tuệ nhiễm ô này gọi là biên chấp kiến, vì chấp cả hai bên.

Nếu quyết định chấp không có nghiệp, không có quả của nghiệp, không có sự giải thoát, không có ai được đạo giải thoát, bác bỏ không có sự thật thì tuệ nhiễm ô này gọi là tà kiến. Ba kiến như vậy gọi là kiết kiến.

Kiết thủ, nghĩa là hai thủ, tức kiến thủ, giới cấm thủ. Nghĩa là ba kiến trước và năm thủ uẩn. Thật sự không phải là mình hơn mà chấp cho là hơn. Tuệ nhiễm ô này gọi là kiến thủ, thủ là nghĩa tìm tòi và chấp khư khư.

Giới: Xa lìa các thứ phá giới cấm ác, nghĩa là thọ trì các giới của quạ, gà, nai, chó, hoặc lõa thể, nhổ tóc, bỏ ăn, nằm trên tro. Hoặc vọng chấp sinh phước, diệt tội, hoặc thường tắm gội dưới ao. Hoặc ăn rễ, trái cây, cỏ, rau cải, vật thuốc để tự nuôi sống. Hoặc bôi tro vào mình, để búi tóc trên đầu v.v... đều gọi là cấm. Cả hai thứ này đều không phải là đạo thanh tịnh mà vọng chấp là đạo thanh tịnh. Tuệ nhiễm ô này gọi là giới cấm thủ. Các Bàla-môn có người học rộng, phần đông chấp pháp này cho là đạo tịnh mà họ không thể rốt ráo thanh tịnh. Hai thủ như vậy, gọi là kiết thủ.

Kiết nghi: Khiến tâm do dự đối với bốn Thánh đế, như đến khoảng đường rẽ, thấy một người đang bó cỏ một cách rụt rè không quyết định.

Như vậy, vì đối với khổ, tâm sinh ra do dự, không biết là phải hay quấy, cho đến nói rộng. Vì nghi tức là kiết, nên gọi là kiết nghi.

Kiết tật: Thấy người khác hơn mình khiến tâm bất nhẫn, cho là đối với người khác được sự cung kính, cúng dường, tài sản, địa vị, sự học rộng và pháp vượt hơn khác, nảy sinh lòng ganh ghét không nhịn. vì sự ganh tị tức là kiết, nên gọi là kiết tật.

Kiết san: Nghĩa là đối với tài pháp của mình, khiến tâm bỏn xẻn, luyến tiếc, cho vật của ta, đừng đến với người, vì sự keo kiệt tức là kiết, nên gọi là kiết san.

Nghĩa kiết là nghĩa ràng buộc. Như Đức Thế Tôn nói: "Không phải mắt buộc lấy sắc, không phải sắc buộc lấy mắt. Trong việc này, lòng tham dục được gọi là kiết. Như không phải trâu đen buộc với trâu trắng, cũng không phải trâu trắng buộc với trâu đen, cho đến nói rộng".

Kiết đã nói ở trước cũng tức là sự ràng buộc, vì chính nghĩa kiết là nghĩa buộc ràng. Tuy nhiên trong khế kinh lại nói có ba sự trói buộc:

Tham trói buộc: Nghĩa là tất cả tham, như nói về tướng của kiết ái.

Sự giận dữ trói buộc: Tất cả giận, như nói về tướng của kiết giận. Sự ngu si trói buộc: Nghĩa là tất cả sự ngu si, như nói về tướng của kiết vô minh Tùy miên có bảy thứ:

1. Dục tham.

2. Sân.

3. Hữu tham.

4. Mạn.

5. Vô minh.

6. Kiến.

7. Nghi.

Về tướng riêng của bảy tùy miên này đã nói trong kiết. Nhưng nên dựa vào bộ riêng biệt của hành tướng giới.

Sự phân biệt bảy thứ tùy miên như vậy, nghĩa là vì tham các dục, nên gọi là dục tham. Vì dục tham này tức là tùy miên, nên gọi là tùy miên dục tham. Tùy miên dục tham này chỉ có năm bộ cõi Dục có năm thứ, đều gọi là kiến khổ dứt trừ, cho đến tu đạo dứt trừ.

Tùy miên sân cũng chỉ có năm bộ của cõi Dục là năm thứ. Hữu tham tùy miên chỉ có cõi Sắc, Vô Sắc, mỗi cõi đều có năm bộ là mười thứ. Vì sự chuyển biến bên trong, vì ngăn che tưởng giải thoát của tĩnh lự Vô Sắc, nên tham của hai cõi là hữu tham.

Tùy miên mạn chung có ở cả ba cõi, mỗi cõi có năm bộ thành mười lăm thứ, tùy miên vô minh cũng vậy.

Tùy miên kiến có ở cả ba cõi, mỗi cõi có mười hai thứ thành ra ba mươi sáu thứ. Nghĩa là cõi Dục kiến khổ dứt trừ, đủ năm kiến, kiến tập, diệt dứt trừ chỉ có hai là tà kiến và kiến thủ. Kiến đạo dứt trừ chỉ có ba thứ là tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, tổng cộng là mười hai thứ. Hai cõi trên cũng vậy là ba mươi sáu thứ.

Tùy miên nghi chung có ở cõi ba cõi, mỗi cõi đều có bốn bộ, thành mười hai thứ, là kiến khổ, tập, diệt, đạo dứt trừ. Dục tham trong đây và tùy miên sân chỉ có bộ riêng, không có hành tướng riêng của cõi.

Tùy miên hữu tham, nghi, mạn, vô minh có giới, bộ riêng, không có hành tướng riêng, tùy miên kiến có đủ bộ, hành tướng, giới riêng.

Hành tướng riêng nghĩa là ngã và ngã sở.

Sự chuyển biến của hành tướng, nghĩa là hữu thân kiến. Sự chuyển biến của hành tướng đoạn, thường gọi là biên chấp kiến, không có hành tướng chuyển biến, gọi là Tà kiến.

Hành tướng chuyển biến vượt hơn, gọi là kiến thủ, chuyển biến của hành tướng tịnh, gọi là giới cấm thủ.

Nghĩa vi tế là nghĩa tùy miên, vì lúc nó hiện khởi rất khó hay biết. Hoặc theo nghĩa trói buộc là nghĩa tùy miên, tức là tùy theo sự tiếp nối nhau của thân tâm mà chuyển biến. Như người đi trên hư không, bóng của họ sẽ đi theo dưới nước. Hoặc nghĩa theo đuổi là nghĩa tùy miên, như dầu trong hạt vừng, chất nhờn trong nắm tay.

Hoặc nghĩa tùy tăng là nghĩa tùy miên. Nghĩa là đối với năm thủ uẩn, vì tương ưng với đối tượng duyên mà tùy tăng. Nói tùy tăng, có nghĩa tùy theo đối tượng duyên và môn tương ưng mà tăng trưởng.

Bảy thứ tùy miên như vậy đều do sự khác nhau của bộ, của hành tướng giới, nên thành chín mươi tám tùy miên. Nghĩa là cõi Dục kiến khổ dứt trừ mười tùy miên, tức hữu thân kiến, biên chấp kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, nghi, tham, sân, mạn, vô minh.

Kiến tập dứt trừ có bảy tùy miên, trừ hữu thân kiến, biên chấp kiến, giới cấm thủ, trong mười tùy miên trước, kiến diệt dứt trừ có bảy tùy miên cũng vậy.

Kiến đạo dứt trừ có tám tùy miên, nghĩa là tức bảy tùy miên ở trước cộng thêm giới cấm thủ.

Tu dứt trừ có bốn tùy miên, đó là tham, sân, mạn, vô minh.

Như vậy, ở cõi Dục có ba mươi sáu tùy miên, cõi Sắc có ba mươi mốt tùy miên. Nghĩa là trừ năm bộ sân trong ba mươi sáu tùy miên của cõi Dục. Cõi Vô Sắc cũng vậy, nên có chín mươi tám tùy miên, trong đó tám mươi tám thứ do kiến dứt trừ, mười thứ do tu dứt trừ.

Có ba mươi ba tùy miên là biến hành. Nghĩa là các kiến nghi do Kiến khổ, tập dứt trừ trong mỗi giới, và vô minh bất cộng tương ưng với tùy miên đó. Số tùy miên còn lại đều không phải là biến hành.

Mười tám tùy miên là duyên vô lậu. Nghĩa là mỗi giới, kiến diệt, đạo dứt trừ tà kiến, nghi và vô minh bất cộng tương ưng với nó. Vì mười tám thứ này duyên diệt, đạo, nên gọi là duyên vô lậu, ngoài ra đều duyên hữu lậu.

Duyên hữu lậu trong đây, nghĩa là do tương ưng với đối tượng duyên cho nên tùy tăng.

Duyên vô lậu chỉ ở nhóm mình, vì tương ưng, nên tùy tăng. Có chín thứ là duyên vô vi, nghĩa là trong mỗi cõi, kiến diệt dứt trừ tà kiến nghi và vô minh bất cộng tương ưng với nó.

Vì duyên diệt đế, nên gọi là duyên vô vi. Ngoài ra, đều là duyên hữu vi.

Mười thứ tùy miên theo thứ lớp sinh ra, nghĩa là trước đây do vô minh nên không hiểu rõ đế lý. Nghĩa là đối với khổ không ham muốn, cho đến đối với Đạo cũng không mong muốn. Vì không hiểu nên sinh nghi ngờ. Nghĩa là vừa nghe hai phẩm tà, chánh là ôm lòng nghi, do dự là khổ hay không phải khổ, cho đến là đạo hay không phải đạo. Từ sự do dự này dẫn sinh tà kiến, nghĩa là gặp phải bạn ác, do nghe, nghĩ quấy, nên sinh ra quyết định tà, không có bố thí, không có ưa thích, không có cúng tế, cho đến nói rộng. Từ tà kiến này sinh ra hữu thân kiến, đó là bác bỏ không có lý khổ trong thủ uẩn, rồi chấp là có ngã, hoặc có ngã sở. Từ thân kiến, biên chấp kiến sinh ra, nghĩa là chấp ngã có đoạn, có thường biên. Từ biên chấp kiến, giới cấm thủ nảy sinh, cho là lối chấp một bên này là năng tịnh.

Từ giới cấm thủ nảy sinh kiến thủ, cho là năng tịnh, vì là hơn hết.

Từ kiến thủ kế dẫn sinh tham, cho là vì đó sinh ra yêu tiếc sâu nặng trong kiến chấp của mình. Từ lòng tham này, kế là dẫn sinh ra mạn. Nghĩa là yêu đắm trong kiến chấp sâu đậm của mình rồi, tỏ thái độ ỷ thị, tự cao, lấn hiếp người khác. Từ mạn này sau đó dẫn sinh nóng giận. Nghĩa là cậy vào kiến chấp của mình, lòng không thể chịu được cho nên ganh ghét. Hoặc trong phần vị thủ, xả kiến chấp của mình mà khởi ra ganh ghét, nên mười thứ tùy miên theo thứ lớp như vậy.

Do ba nhân duyên mà khởi các phiền não:

1. Vì chưa dứt trừ tùy miên.

2. Vì tác ý phi lý.

3. Vì cảnh giới hiện ở trước.

Do ba sức của cảnh giới gia hạnh mà phiền não biểu hiện ở trước, đó là nói đủ. Nghĩa là cũng có trường hợp chỉ dựa vào sức của cảnh giới mà khởi phiền não rối loạn, gây nên nỗi bứt rứt thân tâm liên tục, nên gọi là phiền não, phiền não tức tùy miên.

Tùy phiền não: Chính các phiền não cũng gọi là tùy phiền não, lại còn có tùy phiền não, nghĩa là tâm sở nhiễm ô thuộc về tất cả hành uẩn khác, cùng với các phiền não đều thuộc về uẩn.

Ở đây là thế nào? Nghĩa là đã có vô lượng thứ, như: Cuống, kiêu, hại, não, hận, siểm v.v... như Thánh giáo nói: "Cuống là mê hoặc người".

Kiêu là đắm nhiễm tất cả sắc lực của tự thân nên về dòng họ tịnh giới, học rộng, biện tài, khôn khéo của mình rồi, khiến tâm kiêu ngạo, buông lung bất kể người khác.

Hại: Làm bức bách người khác. Do đó có những hành động đánh, mắng v.v…

Não: Chấp chặt mọi việc có tội, do đó không chịu nghe lời can ngăn đúng.

Hận: Trong việc mình duyên, sinh ra tức giận, thường tầm, tứ, kết oán không bỏ.

Siểm: Nghĩa là tâm cong vạy.

Sáu thứ như vậy đều sinh ra từ phiền não với tướng cấu uế, thô bỉ, gọi là phiền não cấu. Trong sáu thứ phiền não cấu uế này, hai thứ cuống, kiêu là đẳng lưu của tham, v.v… vì thuộc loại tham. Hai thứ hại và hận là đẳng lưu của sân, vì thuộc loại sân.

Vết nhơ của não, tức là đẳng lưu kiến thủ. Vì chấp kiến thức của mình là hơn người nên gây não loạn mình và người.

Vết nhơ của siểm là đẳng lưu của các kiến, vì các kiến gia tăng là đa số dua nịnh, như nói: "Sự dua nịnh tà vạy là các ác kiến".

Những vết nhơ này và triền, các nhiễm ô khác thuộc về hành uẩn.

Các tâm sở pháp vì từ phiền não sinh, nên gọi là tùy phiền não.

Triền có mười thứ: Hôn trầm, thùy miên, trạo cử, ác tác, tật, san, vô tàm, vô quý, phẫn, phú. Thân, tâm nối tiếp nhau, không có tính chất kham nhậm, gọi là hôn trầm. Nghĩa là mờ tối nặng nề, không thể gánh vác được việc gì. Thân tâm nối tiếp nhau làm cho tâm tối tăm, yếu ớt, gọi là thùy miên. Sự thùy miên này được gọi là triền, vì chỉ dựa vào sự nhiễm ô.

Trạo cử: Khiến tâm không vắng lặng, của nó là ác tác, gọi là ác tác. Có tâm sở riêng duyên ác nảy sinh, đặt tên là ác tác. Nghĩa là ăn năn, thể của quả giả đặt tên nhân. Như duyên với hư không, gọi là duyên không, bất tịnh gọi là bất tịnh.

Thế gian cũng lấy xứ sở để nói: "Dựa nơi xứ, như nói: Tất cả thôn, ấp, đến v.v…". Ở đây được đặt tên triền, cũng chỉ dựa vào nhiễm mà có hai tướng là tật và san, như đã nói qua trong kiết.

Đối với các công đức và người có đức, khiến tâm không cung kính, gọi là vô tàm (không hổ), tức là pháp trái lại với cung kính.

Không hề cảm thấy sợ hãi đối với các tội, gọi là vô quý (không thẹn) có thể chiêu cảm đường ác, bị người thiện quở trách, gọi là tội.

Trừ sân và hại, đối với tình, phi tình, khiến tâm nổi cơn giận dữ, gọi là phẫn.

Che giấu tội mình, gọi là phú.

Mười điều này ràng buộc thân, tâm nối tiếp nhau, nên gọi là triền.

Hôn trầm, thùy miên, vô quý trong đây là đẳng lưu của vô minh.

Ác tác là đẳng lưu nghi. Vô tàm, san, trạo cử đều là đẳng lưu của tham. Tật, phẫn là đẳng lưu của sân. Phú là đẳng lưu của tham và vô minh.

Hành tướng của pháp tâm sở rất nhỏ nhặt. Sự phân biệt của mỗi hành tướng nối tiếp nhau còn khó khăn, huống chi trong một sát-na cùng có, mà người trí rất tinh tế, kín đáo, dựa vào lời Phật đã nói, quán sự khác nhau của quả, biết tánh nó khác, vì các người học mà tuyên nói không điên đảo. Kẻ có trí tuệ yếu kém, các sự chưa chính mình làm việc giải thích không điên đảo về lời Phật nói, nên tâm họ bị mê lầm, rồi bài bác, hoặc nói chỉ có ba thứ, hoặc là hoàn toàn không có.

Lậu có ba thứ: Dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Phiền não và triền của cõi Dục, trừ vô minh, gọi là dục lậu. Có bốn mươi mốt vật là ba mươi mốt tùy miên và mười triền. Phiền não và triền của cõi Sắc, cõi Vô Sắc, ngoại trừ vô minh, gọi là hữu lậu. Có năm mươi bốn vật là ở cõi trên, mỗi cõi có hai mươi sáu tùy miên và hôn trầm, trạo cử, vì đồng là vô ký, vì chuyển biến bên trong và vì dựa vào địa định.

Hai cõi được lập chung một tên hữu lậu, vô minh ba cõi gọi là Vô minh lậu, có mười lăm vật. Vì vô minh là gốc của các hữu, lập riêng lậu v.v… để lại cho hữu tình trụ ba cõi lâu dài. Vì ngăn trở hướng đến sự giải thoát, nên gọi là lậu. Hoặc làm cho lưu chuyển từ trời Hữu Đảnh đến ngục Vô gián, nên gọi là lậu. Hoặc hữu lậu kia tiếp nối với sáu thứ ung nhọt tiết ra không cùng, nên gọi là lậu.

Bộc lưu có bốn thứ: Dục, hữu, kiến, vô minh. Bộc lưu trừ kiến trong dục lậu, gọi là Dục bộc lưu. Có hai mươi chín vật, trừ kiến trong hữu lậu, gọi là bộc lưu, có ba mươi vật, các kiến của ba cõi, gọi là bộc lưu kiến. Có ba mươi sáu vật, vô minh bất cộng tương ưng với ba cõi, gọi là bộc lưu vô minh. Có mười lăm vật làm trôi nổi, cướp đi sự tốt đẹp của tất cả hữu tình, nên gọi là như thác nước (bộc lưu). Ách có bốn thứ, như thuyết nói về bộc lưu. Hòa hợp hữu tình, khiến chịu đau khổ ở các đường, các sanh, các địa, nên gọi là ách. Nghĩa là hòa hợp, khiến cảm nhận mọi thứ thọ khổ nhẹ, nặng.

QUYỂN HẠ

Thủ có bốn thứ: Thủ dục, thủ kiến, giới cấm thủ và ngã ngữ thủ. Tức dục bộc lưu thêm vô minh, gọi là dục thủ. Có ba mươi bốn vật là tham, sân, mạn, vô minh, mỗi thứ đều có năm loại, Nghi có bốn, triền có mười, hữu bộc lưu thêm vô minh, gọi là ngã ngữ thủ.

Có bốn mươi vật là tham, mạn, vô minh, mỗi thứ có mười loại, Nghi có tám thứ và hôn trầm, trạo cử, trừ giới cấm thủ trong các kiến, số còn lại gọi là kiến thủ.

Có năm mươi vật: Giới cấm thủ, gọi là giới cấm thủ, có sáu vật. Do đó, riêng làm oán của Thánh đạo, vì dối gạt cả hai chúng tại gia, xuất gia. Đó là lập riêng thủ trong năm kiến. Nghĩa là chúng tại gia do sự dối gạt này, nên chấp rằng tự nhịn đói, chỉ hớp không khí và từ đỉnh núi cao gieo mình xuống vực thẳm v.v... là đạo trời. Các chúng xuất gia do sự mê hoặc lừa dối này mà cho bỏ cảnh đáng yêu, thọ công đức đỗ-đa (đầu-đà) là đạo thanh tịnh.

Nghĩa củi là nghĩa của thủ, có thể khiến lửa nghiệp đốt cháy nối tiếp nhau mà sinh trưởng. Như vì có củi, nên lửa mới được cháy bùng. Như vậy, vì có phiền não, nên nghiệp của hữu tình mới được sinh trưởng.

Lại, nghĩa mạnh mẽ, nhạy bén là nghĩa của thủ, hoặc nghĩa ràng buộc bên trong là nghĩa của thủ, như con tằm ở trong kén tự ràng buộc mình rồi chết. Như vậy hữu tình bị bốn thủ buộc ràng, trôi lăn trong sự sống chết, đánh mất tuệ mạng.

Sự trói buộc thân có bốn thứ: Nghĩa là tham dục trói buộc thân, giận dữ trói buộc thân, giới cấm thủ trói buộc thân, chấp thân này có thật trói buộc thân. Năm bộ tham của cõi Dục, gọi là sự trói buộc thân ban đầu. Năm bộ sân, gọi là sự trói buộc thân thứ hai. Sáu giới cấm thủ, gọi là sự trói buộc thân thứ ba. Mười hai kiến thủ, gọi là sự trói buộc thân thứ tư. Các thứ triền ràng buộc hữu tình, vì tự trói buộc lấy mình, nên gọi là trói buộc thân. Những thứ này đều có nghĩa trói buộc thân hữu tình.

Cái có năm thứ: cái dục tham, cái sân hận, cái hôn trầm thùy miên, cái trạo cử ác tác, cái nghi.

Năm bộ tham của cõi Dục, gọi là cái ban đầu. Năm bộ sân, gọi là cái thứ hai. Hôn trầm và thùy miên bất thiện của cõi Dục, gọi là cái thứ ba. Trạo cử và ác tác bất thiện, gọi là cái thứ tư. Bốn bộ nghi của cõi Dục, gọi là cái thứ năm. Do ngăn che Thánh đạo và lìa nhiễm cõi Dục và hai thứ căn thiện gia hạnh này, nên gọi là cái.

Trước đây đã nói các giới, các đường, các sinh, các địa chịu khổ, nên nói.

Thế nào là sinh về giới đường? Giới địa có ba thứ: Là cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô Sắc. Cõi Dục có hai mươi xứ, đó là tám địa ngục lớn:

1. Đẳng hoạt.

2. Hắc thằng.

3. Chúng hợp.

4. Hào kiếu.

5. Đại hào kiếu.

6. Viêm nhiệt.

7. Đại viêm nhiệt.

8. Vô gián cùng Bàng sinh, cõi quỷ là mười.

Người có bốn châu:

1. Châu Thiệm-bộ.

2. Châu Thắng-thân.

3. Châu Ngưu-hóa.

4. Châu Câu-lô.

Có sáu trời Dục:

1. Trời Tứ đại vương chúng.

2. Trời Tam Thập Tam.

3. Trời Dạ-ma.

4. Trời Đỗ-sử-đa.

5. Trời Lạc-biến-hóa.

6. Trời Tha-hóa-tự-tại.

Kết hợp là hai mươi xứ.

Cõi Sắc có mười sáu xứ: Sơ Tĩnh lự có hai xứ: Là trời Phạm Chúng và trời Phạm Phụ. Đệ nhị tĩnh lự có ba tầng trời:

1. Trời Thiểu Quang.

2. Trời Vô Lượng Quang.

3. Trời Cực Quang Tịnh.

Đệ tam Tĩnh lự có ba tầng trời:

1. Trời Thiểu Tịnh.

2. Trời Vô Lượng Tịnh.

3. Trời Biến Tịnh.

Đệ tứ Tĩnh lự có tám tầng trời:

1. Trời Vô Vân.

2. Trời Phước Sinh.

3. Quảng Quả thiên.

4. Trời Vô Phiền.

5. Trời Vô Nhiệt.

6. Trời Thiện Hiện.

7. Trời Thiện Kiến.

8. Trời Sắc Cứu Cánh. Kết hợp là mười sáu xứ. Vì Đại Phạm, Vô tưởng không có chỗ riêng, nên không phải mười tám.

Cõi Vô Sắc dù không có chỗ trên, dưới mà vẫn có bốn chỗ sinh khác nhau:

1. Không vô biên xứ.

2. Thức vô biên xứ.

3. Vô sở hữu xứ.

4. Phi tưởng Phi phi tưởng xứ.

Thú (đường) có năm thứ:

1. Nại-lạc-ca.

2. Bàng sinh.

3. Cõi quỷ.

4. Trời.

5. Người.

Sinh có bốn thứ: Noãn sinh, Thai sinh, Thấp sinh, Hóa sinh.

Địa có mười một thứ: Tĩnh lự cõi Dục, Vị chí, Trung gian ở cõi Dục, bốn Tĩnh lự, bốn Vô Sắc là mười một địa. Cõi Dục và Hữu đảnh hoàn toàn hữu lậu, chín địa kia có cả hữu lậu và vô lậu. Giới, thú, sinh nói ở trước hoàn toàn là hữu lậu.

Trí có mười thứ: Pháp trí, loại trí, trí thế tục, trí tha tâm, khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí, tận trí và trí vô sinh.

Các hành của cõi Dục và nhân của các hành đó diệt, đạo Gia hạnh, đạo thắng tiến, đạo Vô gián, đạo Giải thoát và trí vô lậu đã có trong địa Pháp trí, gọi là Pháp trí. Từ vô thỉ đến nay, thường ôm ấp chấp ngã, nay vì mở ra thấy pháp, nên gọi là Pháp trí. Các hành của cõi Sắc, Vô Sắc và nhân của các hành đó diệt, đạo Gia hạnh, Vô gián, Giải thoát, thắng tiến và trí vô lậu đã có trong địa loại trí, gọi là loại trí. Vì tùy theo pháp trí nẩy sinh nên gọi là loại trí. Các tuệ hữu lậu gọi là trí thế tục. Trí này phần nhiều phân biệt sự chuyển của thế tục, như bình, y v.v…, nên gọi là trí thế tục. Trí thế tục này có hai thứ là nhiễm ô, không nhiễm ô. Nhiễm ô lại có hai thứ là kiến tánh và phi kiến tánh.

Kiến tánh có năm loại: Hữu thân kiến, biên chấp kiến, tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ.

Phi kiến tánh: Là tuệ tương ưng với nghi, tham, sân, mạn, vô minh, phẫn, hại, v.v… Không nhiễm ô cũng có hai thứ:

1. Thiện.

2. Vô phú vô ký.

Vô phú vô ký nghĩa là không phải kiến, vì không suy luận, cân nhắc là tuệ và trí.

Thiện: Như năm thức đều có, cũng không phải kiến mà là tuệ và trí. Nếu ý thức đều có là chánh kiến thế tục, vừa là tuệ, vừa là trí. Các định phát sinh trí, có thể biết rõ sự trói buộc của cõi Dục, cõi Sắc ở người khác. Một phần vô lậu hiện tại, giống như tâm, tâm sở pháp gọi là trí tha tâm. Trí này có hai thứ:

1. Hữu lậu.

2. Vô lậu.

Hữu lậu có thể biết rõ pháp tâm, tâm sở thuộc về cõi Dục, cõi Sắc khác.

Vô lậu có hai thứ:

1. Pháp trí phẩm.

2. Loại trí phẩm.

Pháp trí phẩm: Biết pháp tâm, tâm sở của phẩm pháp trí. Loại trí phẩm biết pháp tâm, tâm sở của phẩm loại trí. Trí này không biết sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành và quá khứ, vị lai thuộc về cõi Vô Sắc. Tất cả tâm, tâm sở thù thắng của Bổ-đặc-giàla nơi địa căn đều không thể biết. Ở phần quả của năm thủ uẩn, có trí vô lậu, tạo nên hành tướng phân biệt vô thường, khổ, không, vô ngã, gọi là khổ trí. Về phần nhân của năm thủ uẩn, có trí vô lậu, với hành tướng quán sát tập làm nhân sinh ra duyên, gọi là tập trí. Ở diệt kia có trí vô lậu, tạo nên hành tướng phân biệt của diệt, tịnh, diệu, ly gọi là diệt trí. Đối trị ở nơi kia được đạo Niết bàn, có trí vô lậu với hành tướng phân biệt của đạo, như hành, chuyển gọi là đạo trí.

Có trí vô lậu suy nghĩ: "Khổ ta đã biết, tập ta đã đoạn, diệt ta đã chứng, đạo ta đã tu". Hết thảy hành tướng đều chuyển, gọi là tận trí.

Có trí vô lậu suy nghĩ: "Khổ ta đã biết, không còn biết nữa, cho đến đạo ta đã tu, không còn tu nữa, hành tướng vô sinh chuyển gọi là trí vô sinh.

Hai trí sau này vì không suy luận đắn đo, nên không phải là tánh kiến. Trí tha tâm chỉ là kiến tánh. Sáu trí khác có cả kiến tánh và phi kiến tánh. Trí thế tục chỉ có hữu lậu. Trí tha tâm có cả hữu lậu, vô lậu. Tám trí khác chỉ là vô lậu. Diệt trí chỉ duyên vô vi. Trí tha tâm, khổ, tập, đạo chỉ duyên hữu vi. Năm trí còn lại duyên cả hữu vi và vô vi. Khổ trí, tập trí chỉ duyên hữu lậu. Diệt trí, đạo trí chỉ duyên vô lậu. Sáu trí còn lại duyên cả hữu lậu và vô lậu.

Pháp trí ở sáu địa, đó là bốn Tĩnh lự, thiền Vị chí và Trung gian.

Loại trí ở chín địa, đó là sáu địa trước và ba Vô Sắc dưới.

Trí tha tâm ở bốn địa là bốn tĩnh lự. Trí thế tục ở tất cả địa.

Pháp trí phẩm và sáu trí còn lại là ở sáu địa, loại trí phẩm thì ở chín địa.

Nhẫn có tám thứ: Pháp trí nhẫn khổ, tập, diệt, đạo và loại trí nhẫn khổ, tập, diệt, đạo. Tám trí này có thể dẫn sinh trí quyết định và tuệ thù thắng. Do nhẫn có thể đạt được lý bốn Thánh đế như khổ v.v… nên gọi là Nhẫn. Trong các nhẫn, tám trí này chỉ là quán sát pháp nhẫn, là kiến và tuệ, không phải tự tánh của trí. Nghĩa quyết định là nghĩa của trí. Ý ưa tìm tòi, ý lạc của tám trí này chưa dứt. Vì chưa thể xem xét, quyết đoán, nên không gọi là trí. Khổ pháp trí nhẫn và mười tùy miên do kiến khổ dứt trừ ở cõi Dục đều được trừ diệt. Khổ pháp trí đều sinh với sự dứt trừ kia.

Nhẫn là đạo Vô gián, trí là đạo Giải thoát. Đối trị với mười thứ tùy miên ở cõi Dục do kiến khổ dứt trừ. Như có hai người: một người ở trong nhà đuổi giặc ra, còn một người thì đóng cửa lại không cho chúng vào nữa. Khổ loại trí nhẫn và mười tám thứ tùy miên của cõi Sắc, cõi Vô Sắc do kiến khổ dứt trừ đều được cùng diệt. Khổ loại trí và sự dứt trừ kia được sinh chung với trí khác, như trước đã nói.

Bốn tâm như vậy, có thể hiện quán khổ đế ở ba cõi. Ở tập, diệt, đạo đều có bốn tâm, nên biết cũng vậy. Mười sáu tâm này có thể hiện quán bốn đế ở ba cõi, dứt trừ tám mươi tám kiết do kiến dứt trừ mà được quả Dự lưu. Mười thứ tùy miên khác do tu đạo dứt trừ. Nghĩa là cõi Dục có bốn thứ, cõi Sắc, Vô Sắc, mỗi cõi đều có ba thứ, nên thành ra mười thứ. Bốn thứ của cõi Dục ví như bó cỏ lau được chia đều thành chín phần, là từ thượng thượng cho đến hạ hạ. Đạo đối trị vô gián, giải thoát kia cũng có chín phẩm. Đó là đạo của phẩm hạ hạ, có thể đối trị tùy miên của phẩm thượng thượng, cho đến đạo của phẩm thượng thượng có thể đối trị tùy miên của phẩm hạ hạ. Lúc sáu phẩm tùy miên dứt hết là được quả Nhất lai. Lúc chín phẩm tùy miên dứt hết thì được quả Bất-hoàn. Như cõi Dục có bốn thứ được chia đều thành chín phần, cũng có Vô gián, giải thoát của chín phẩm có thể là đạo Đối trị.

Cõi Sắc, Vô Sắc đều có bốn địa, chủ thể đối trị, đối tượng được đối trị trong mỗi địa đều có chín phẩm, nên biết cũng vậy. Lần lượt dứt trừ tùy miên của tám địa kia, cho đến khi dứt hết phẩm hạ hạ của Hữu đảnh, được quả A-la-hán. Ở giữa bốn quả đã có các đạo và kiến đạo trước kia, gọi là bốn hướng. Tùy theo ở quả nào trước gọi là hướng của quả đó.

Như vậy có tám Bổ-đặc-già-la là hành bốn hướng và trụ bốn quả. Quả hướng như vậy là do phần riêng của chủng tánh mà chia làm sáu thứ là chủng tánh của phàm phu, căn cơ châm hụt, nhạy bén. Nếu nhập mười lăm tâm của Kiến đạo gọi là Tùy tín hành và Tùy pháp hành, tức hai thứ này đến quả vị tu đạo, là từ tâm thứ mười sáu cho đến định Kim Cương dụ, gọi là Tín thắng giải và được gọi là Kiến chí, nghĩa là hai thứ này đến quả vị vô học. Từ tận trí ban đầu, cho đến tâm sau cùng, gọi là Thời giải thoát và Bất thời giải thoát, v.v… đó là những chủng loại khác nhau của tâm sở mà có vô lượng thứ.

Vì dựa vào tâm mà có, nên gọi là pháp tâm sở, cũng như ngã sở.

Tâm sở như vậy gọi là hành tương ưng.

Hành bất tương ưng trái với hành tương ưng này, nghĩa là các đắc v.v... Đắc là xưng gọi có pháp, tức pháp của nhân có ba thứ:

1. Tịnh.

2. Bất tịnh.

3. Vô ký.

Tịnh là tín, v.v…, bất tịnh là tham, v.v…, vô ký, tâm biến hóa v.v... Nếu thành lập pháp này, gọi là pháp có, nghĩa là xưng gọi pháp này là nhân nhất định, gọi là đắc được thành tựu. Nếu không có đắc thì lúc các phiền não như tham v.v… hiện khởi ở trước, người hữu học đã không có tâm vô lậu nên không phải bậc Thánh. Nếu phàm phu khởi tâm thiện, vô ký, thì bấy giờ nên gọi là người đã lìa nhiễm! Vả lại, các bậc Thánh với các phàm phu đều không có đắc của Niết-bàn. Vì giống nhau nên đều gọi là phàm phu, hoặc đều gọi là bậc Thánh! Như đấng Pháp Vương nói: "Vì khởi đầu được thành tựu mười pháp vô học, nên gọi là bậc Thánh, dứt hẳn năm chi", cho đến nói rộng.

Lại nữa, Đức Thế Tôn nói: "Bí-sô nên biết! Nếu có ai thành tựu pháp thiện, bất thiện, ta nhận thấy các loài hữu tình như vậy, pháp thiện, bất thiện trong tâm họ nối tiếp nhau sẽ được tăng trưởng vô biên". Ngài nói rằng: "Bí-sô các thầy không nên so sánh, cân nhắc sự hơn, kém của hữu tình. Không nên vọng chấp về chất lượng của đức Bổ-đặc-giàla là cạn, sâu", cho đến nói rộng.

Vì vậy, nên biết ngoài pháp thì nhất định có đắc thật.

Đắc này có hai thứ:

1. Chưa được, đã mất nay được.

2. Được rồi không mất, nay thành tựu.

Nên biết, không phải đắc là trái với đây. Vì có đắc, phi đắc trong pháp nào, tức đối với sự nối tiếp nhau của mình và trong hai diệt, có đắc, phi đắc, không phải là sự nối tiếp của người khác. Vì không có pháp thành tựu ở thân người khác, không phải là chẳng nối tiếp nhau, vì không có thành tựu pháp phi tình, cũng chẳng phải hư không, vì không có ai thành tựu hư không, vì cái đắc kia đã không có thì phi đắc cũng không có.

Đắc có ba thứ:

1. Như bóng theo hình.

2. Như bò đầu đàn dẫn đi trước mà đắc.

3. Như nghé con theo sau mà đắc.

Pháp đắc thứ nhất, phần nhiều như pháp vô phú vô ký. Pháp đắc thứ hai, phần nhiều là như lúc qua đời ở địa trên, sinh xuất cõi Dục, lúc kiết phát sinh, đắc pháp thiện của cõi Dục, pháp đắc thứ ba, phần nhiều như văn, tư, tạo thành tuệ, v.v… trừ những pháp đắc khác cùng sinh.

Trong đây, nên tóm tắt Tỳ-bà-sa, nghĩa là sắc thiện, bất thiện thuộc cõi Dục, không có đắc của đời trước, chỉ có đắc cùng sinh và theo sau, trừ sự thông minh của mắt, tai và tâm năng biến hóa, đồng thời ngoại trừ phần ít, nếu là đường oai nghi, hoặc xứ công xảo, người thường xuyên tập luyện. Tất cả pháp vô phú vô ký khác và Biểu sắc của hữu phú vô ký chỉ có đắc cùng sinh. Vì uy lực yếu kém, nên không có đắc trước, sau. Các pháp khác, mỗi pháp đều có đắc trước sau và cùng sinh. Đắc của pháp thiện chỉ là thiện, đắc của pháp bất thiện chỉ là bất thiện. Đắc của pháp vô ký chỉ là vô ký. Đắc của pháp cõi Dục chỉ là cõi Dục. Đắc của pháp cõi Sắc chỉ là cõi Sắc. Đắc của pháp cõi Vô Sắc chỉ là cõi Vô Sắc. Đắc của pháp vô lậu chung cho cả ba cõi và vô lậu. Pháp vô lậu, nghĩa là đạo đế, ba vô vi đều không bị ràng buộc. Đắc của đạo đế chỉ là vô lậu. Đắc của Phi trạch diệt chung cả ba cõi. Đắc của trạch diệt tức là đạo lực của cõi Sắc, Vô Sắc khởi lên, tức là liền theo cõi đó. Đạo lực vô lậu khởi lên là vô lậu.

Đắc của pháp vô lậu nói chung có bốn thứ: Đắc của pháp học chỉ có học, đắc của pháp vô học chỉ có vô học, đắc của pháp phi học phi vô học có ba thứ:

Pháp phi học phi vô học, nghĩa là các hữu lậu và hữu lậu vô vi và đắc của phi trạch diệt chỉ có phi học phi vô học.

Đắc của trạch diệt do sức của đạo học khởi, chỉ là học-sức của đạo vô học khởi, chỉ là vô học. Sức của đạo thế gian khởi chỉ là phi học phi vô học.

Đắc của pháp do kiến dứt trừ, chỉ là kiến dứt trừ. Đắc của pháp do tu dứt trừ, chỉ là tu dứt trừ.

Đắc của pháp phi sở đoạn có hai thứ: tu sở đoạn và phi sở đoạn.

Pháp phi sở đoạn, nghĩa là đạo đế và vô vi. Đắc của đạo đế chỉ là phi sở đoạn. Đắc của phi trạch diệt chỉ do tu dứt trừ, vì không nhiễm ô. Vì là hữu lậu, nên đắc của trạch diệt, khi sức của đạo thế gian khởi chỉ là tu đạo đoạn. Sức của đạo vô lậu khởi, chỉ là phi sở đoạn.

Tất cả phi đắc đều chỉ thuộc về tánh vô phú vô ký, không phải như đắc trước đây có nghĩa khác nhau. Nhưng pháp quá khứ, vị lai, mỗi pháp đều có phi đắc của ba đời. Pháp hiện tại không có hiện tại là phi đắc, vì tánh của đắc và phi đắc trái nhau. Không có pháp hiện tại có thể thành tựu vì không thành tựu. Nhưng có phi đắc của quá khứ, vị lai. Cõi Dục, Sắc, Vô Sắc và pháp vô lậu, mỗi pháp vô lậu đều có phi đắc của ba cõi.

Không có phi đắc là vô lậu. Nghĩa là trong phi đắc có tánh phàm phu. Như nói: Thế nào là tánh của phàm phu? Nghĩa là không được Thánh pháp. Không được là tên khác của phi đắc. Vả lại, vì các phi đắc chỉ là tánh vô ký, nên không phải vô lậu.

Đã lìa nhiễm của đệ tam tĩnh lự, chưa xa lìa nhiễm của đệ Tứ tĩnh lự, nên tâm, tâm sở của địa đệ Tứ Tĩnh lự diệt. Có pháp bất tương ưng gọi là định Vô tưởng. Dù diệt tất cả pháp tâm, tâm sở mà vẫn khởi định này. Vì chuyên trừ tưởng, nên gọi là

Vô tưởng, như trí tha tâm. Định Vô tưởng này là thiện, thuộc về đệ Tứ tĩnh lự, vì chỉ có chẳng phải Thánh. Trong sự nối tiếp nhau đã khởi sự cầu tưởng giải thoát, vì khởi hiện định này. Bậc Thánh đối với định ấy, như tưởng cõi ác, tâm nhàm chán lìa bỏ thật sâu xa. Ở đây, chỉ có thuận thọ định, nghĩa là thuận theo thứ lớp sinh ra đời sống kế tiếp là gia hạnh đắc, không phải diệt định lìa nhiễm đắc: Nghĩa là đã lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ. Pháp tâm, tâm sở của Hữu đảnh diệt. Có pháp bất tương ưng làm cho đại chủng bình đẳng nối tiếp nhau, nên gọi là định diệt. Đó là thuộc về gia hạnh thiện của địa Hữu đảnh. Hoặc thuận theo thứ lớp sinh thọ, hoặc thuận theo hậu sinh thọ, hoặc thuận theo thọ bất định. Khởi định này rồi, chưa được dị thục là nhập Niết bàn, nên là thọ bất định.

Định này có thể cảm nhận dị thục bốn uẩn trong địa Hữu đảnh, vì cõi kia không có. Bậc Thánh có thể khởi hiện không phải các phàm phu, vì do sức của Thánh đạo khởi định ấy. Bậc Thánh vì được hiện pháp lạc trụ, nên khởi định này. Phàm phu đối với định ấy rất sợ đoạn diệt. Vì không có sức của Thánh đạo, nên không thể khởi. Đối với định này, bậc Thánh do gia hạnh đắc, không phải lìa nhiễm đắc. Chỉ có Phật Thế Tôn đối với định diệt này gọi là lìa nhiễm đắc. Lúc tận trí ban đầu đã có định này có thể khởi hiện tự tại, nên gọi là đắc. Công đức của Chư Phật không do gia hạnh mà, vì hễ muốn thì liền khởi hiện ở trước. Nếu sinh trong trời hữu tình Vô tưởng, pháp có thể khiến tâm, tâm sở diệt gọi là sự Vô tưởng, là vật thực có, là vì quả dị thục của định Vô tưởng. Đó gọi là dị thục sinh, thuộc về tánh vô ký, tức là có chỗ vượt hơn trong cõi trời Quảng Quả. Như tĩnh lự trung gian, gọi là trời Vô Tình, lúc sinh, lúc chết đều có tâm tưởng. Vì trung gian không có, nên đặt tên Vô tưởng. Lúc người kia sắp chết, như ngủ lâu vừa tỉnh giấc, trở lại khởi lên tâm tưởng. Khởi rồi không bao lâu thì qua đời, sinh ở cõi Dục. Người sắp sinh cõi Dục kia sẽ có thuận hậu thứ họ của cõi Dục, vì nghiệp quyết định, như người sắp sinh ở châu Câu-lô ở phía Bắc kia rất có thể chiêu cảm nghiệp sinh lên cõi trời.

Nghiệp trước kia đã dẫn phát nhân của sáu xứ nối tiếp nhau không dứt. Dựa vào nghiệp nhân đó, đặt ra bốn thứ sinh trong năm đường, đó là mạng căn. Vì cũng gọi là tuổi thọ, nên Đối pháp nói: Thế nào là mạng căn? Nghĩa là tuổi thọ của ba cõi. Tuổi thọ này có thật thể, có thể duy trì thức, noãn, như già-tha nói:

Thọ, noãn cùng với thức Lúc ba pháp bỏ thân.

Thân bỏ cứng đờ ra Như cây không biết gì.

Khế kinh cũng nói: "Tiếp nhận dị thục rồi, gọi là Na-lạc-ca, cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, nên biết cũng thế. Nếu mạng căn khác, sẽ không có pháp riêng mà là thuộc về căn tánh ở khắp cả ba cõi. Trong một thời kỳ nối tiếp nhau không gián đoạn, có thể dựa vào sự đặt ra bốn loại sinh, năm đường sinh cõi Vô Sắc, khởi từ tâm thiện nhiễm ô của địa trên, hoặc khi khởi tâm vô lậu của địa dưới, dựa vào sự lập bày nào mà hóa sinh cõi trời? Lúc khởi thiện nhiễm, lẽ ra gọi là chết. Nếu khởi vô ký, lẽ ra gọi là sanh. Bác bỏ không có mạng căn sẽ có lỗi lớn này!

Các loại hữu tình đồng làm sự nghiệp, đồng là nhân của sự ưa muốn, nên gọi là Chúng đồng phần.

Chúng đồng phần này có hai thứ:

1. Không khác.

2. Có khác.

Không khác, nghĩa là các hữu tình đều có ngã ái, đồng nhờ vào thức ăn, ưa muốn giống nhau. Nhân bình đẳng này được gọi là chúng đồng phần. Trong mỗi thân đều có một riêng, có khác nhau, nghĩa là sự của các cõi hữu tình, ở giới, địa, đường sinh, chủng tánh nam, nữ, cận sự, Bí-sô, Học, Vô Học, v.v... Trong mỗi thân đều có nghiệp đồng sự, nhân nhất định của lạc dục gọi là chúng đồng phần. Nếu không có chúng đồng phần này thì Thánh không phải Thánh, đồng như tiếng nói của thế tục lẽ ra đều lẫn lộn!

Các tánh phàm phu với đồng phần phàm phu có gì khác nhau không? Vì đồng nhân ưa muốn, v.v… nên gọi phàm phu kia là đồng phần.

Tánh của phàm phu, nghĩa là phàm phu có thể làm tất cả nhân vô nghĩa lợi. Như Khế kinh nói: "Bí-sô nên biết! Ta nói ngu phu phàm phu ít học không có chút nghiệp ác, bất thiện, vì họ không thể gây tạo". Lại Đức Thế Tôn nói: "Nếu đến trong cõi người sẽ được đồng phần của người, không phải tánh của phàm phu, thì khi chết, sống sẽ có nghĩa được xả. Vì vậy, tánh của phàm phu khác với đồng phần".

Lúc các pháp sinh là đã có lực của nhân bên trong, khiến pháp đó được công năng riêng. Chính nhân bên trong này gọi là tướng sinh. Nghĩa là nhân của pháp sinh, gồm có hai thứ:

1. Trong.

2. Ngoài.

Trong là tướng sinh, ngoài là sáu nhân, hoặc là tánh của bốn duyên. Vì nếu không có tướng sinh thì các pháp hữu vi lẽ ra đều như hư không, v.v… dù có đủ nhân duyên bên ngoài, cũng không có nghĩa sinh. Hoặc hư không, v.v… lẽ ra cũng có nghĩa có thể sinh, trở thành tính hữu vi, là có lỗi lớn. Do đó nên biết, có tướng sinh riêng, có thể dẫn sinh quả riêng.

Nhân tạm thời trụ nói là trụ tướng. Nghĩa là lúc tạm trú, pháp hữu vi đều có thế lực, có công năng dẫn đến quả riêng, khiến cho tạm thời trụ, đây là dẫn quả riêng, thế lực nội nhân gọi là tướng trụ. Nếu không có tướng trụ, thì các pháp hữu vi trong lúc tạm trú, lẽ ra cũng không thể dẫn đến quả riêng. Do vậy nên biết có tướng trụ riêng.

Già, nghĩa là sự hao mòn, yếu kém, công năng dẫn đến quả khiến cho sự già kia không thể còn dẫn đến quả riêng. Nghĩa là pháp hữu vi nếu không có tưởng đổi khác thì công năng của sự suy yếu, sẽ phải do duyên nào mà không thể dẫn đến quả riêng, rồi lại không dẫn nữa? Đã dẫn rồi, lại dẫn nữa, lẽ ra sẽ trở thành lỗi vô cùng! Và nếu vậy, lẽ ra lại không phải là tính chất của sát-na. Chính vì lý do này, nên biết phải có riêng tướng đổi khác.

Vô thường, nghĩa là công năng gây tổn hại cho mình, khiến pháp hiện tại nhập nhân quá khứ. Nghĩa là có pháp riêng gọi là tướng diệt, khiến từ hiện tại rơi vào quá khứ. Nếu không có vô thường này, thì pháp lẽ ra sẽ không diệt. Hoặc hư không v.v… cũng có nghĩa diệt. Tướng hữu vi của bốn hữu vi ấy, nếu có bốn tướng hữu vi này gọi là hữu vi, chẳng phải hư không, v.v... Nhưng Đức Thế Tôn nói: "Có tướng hữu vi của ba hữu vi". Sự sinh khởi của hữu vi cũng có thể biết rõ, tận và trụ, dị cũng có thể biết rõ. Vì được hóa ra sinh, nhàm chán hữu vi, như nói dị cùng với sự tốt lành chung khởi. Hai tướng trụ, dị hợp lại gọi là một. Thế nên, nhất định có bốn tướng hữu vi, chẳng phải tức "Sở tướng" (Đối tượng tướng) là thể của pháp hữu vi. Vì nếu có "Sở tướng" hữu vi là thể, tất nhiên như thể của "Sở tướng" và "Năng tướng" (chủ thể tướng) là một, "Năng tướng" lẽ ra cũng lần lượt không khác. Nếu vậy, thì khi các pháp diệt lẽ ra nên sinh, lúc sinh lẽ ra diệt, hoặc hoàn toàn bất sinh.

Bốn tướng gốc này vì là hữu vi, như pháp "sở tướng" có bốn tướng theo, đó là sinh sinh, cho đến diệt diệt, nhưng chẳng phải vô cùng, vì bốn tướng gốc này mỗi tướng đều có tám pháp tùy tướng. Vì chỉ có thể mỗi tướng sinh một, nghĩa là lúc pháp sinh và chín pháp tự thể của nó đều khởi. Tự thể là một tướng và tám tùy tướng. Sinh trong tướng gốc, ngoại trừ tự thể của nó, sinh ra tám pháp kia. Trong tùy tướng sinh trong chín pháp, chỉ có sinh ra từ sự sinh gốc, vì thế lực yếu kém. Tướng trụ, dị, diệt, nên biết cũng vậy. Tướng gốc dựa vào pháp, tùy tướng dựa vào tướng. Vì pháp nhân tướng, nên được có tác dụng. Tướng nhân tùy tướng mà được có tác dụng.

Tác dụng là sao? Nghĩa là sinh, trụ, dị, diệt.

Sở sinh, v.v… (đối tượng sinh) nghĩa là vì công năng dẫn sinh quả, nên thể của pháp hữu vi dù luôn luôn có mà dụng không phải thường. Chỉ tạm nhờ sức của nhân trong, ngoài của bốn tướng này mà tác dụng được hoàn thành, nên gọi là danh thân, cú thân. Văn thân v.v… Nghĩa là dựa vào ngôn ngữ mà sinh như trí kèm theo nghĩa ảnh tượng mà hiện. Có thể giải thích (năng thuyên) về nghĩa của mình, gọi là. Cú văn, tức là mục khác của tưởng chướng tự. Như nhãn thức, v.v… dựa vào mắt, v.v… mà sinh, là của nghĩa kèm sắc v.v… mà ảnh tượng khởi hiện, có thể phân biệt rõ sinh, v.v của cảnh mình cũng vậy. Không phải tức tiếng nói có thể giải thích được nghĩa, chớ nói lửa là bị cháy ở miệng, trình bày trực tiếp nghĩa đó. Vì cần phải dựa vào lời nói, thì danh từ lửa, v.v mới phát sinh, vì danh từ lửa, v.v giải thích rõ ràng về nghĩa của lửa, v.v…

Chữ thuyên, nghĩa là có thể làm rõ nghĩa làm nẩy sinh sự hiểu biết của người khác, không phải kết hợp với nghĩa, vì tiếng có chất ngại.

Các Ký luận giả chấp tiếng là thường còn. Vì lý không thành, không nên lìa ba thứ: Danh, cú, văn này mà để chấp là có pháp nào có thể nói rõ nghĩa. Nhưng sự giống nhau của bốn thứ pháp là đồng một tướng:

1. Âm thanh.

2. Danh.

3. Nghĩa.

4. Trí.

Trong đây, danh là tưởng như sắc v.v... Cú là rốt ráo nghĩa năng thuyên. Như nói: Bài tụng: "Các điều ác đừng làm, v.v…". Thế gian cũng nói: "Đềbà-đạt-đa lùa bò trắng đến, vắt lấy hết sữa, v.v…". Văn, tức là hợp nhất các chữ lại v.v. Ba thứ này đều khác, tập hợp đồng loại, nói là thân. Như Đại Tiên nói: "Bí-sô nên biết! Như Lai xuất hiện ở thế gian là có danh thân, cú thân và văn thân, có thể biết rõ, nghĩa là ý gọi uẩn, xứ, giới của đế thật. Pháp duyên khởi, v.v của quả Sa-môn là danh, cú, văn thân".

Lại, Đức Thế Tôn nói: "Như Lai đã được danh, cú, văn thân kia". Nghĩa là ý nói Như Lai được những pháp danh, cú, văn thân, v.v... kia không chung với Phật pháp.

Trong đây, giải thích khác về cú, nghĩa của các hành giống như đây nên biết.

Cú nghĩa của thức: Phân biệt cảnh sự như sắc, v.v… gọi là thức, tức trong sáu thứ cảnh như sắc, v.v… do sự giúp đỡ của nhãn căn v.v mà khởi tác dụng hiện tại. Chỉ có phân biệt chung về sự cảnh của sắc v.v, gọi là thức. Nếu có thể phân biệt tướng khác nhau, thì gọi là các pháp tâm sở như thọ, v.v... Thức không có tác dụng đó, chỉ làm nơi nương tựa. Tác dụng của thức chỉ có một khoảng sát-na ngay trong đời hiện tại, có thể phân biệt rõ ràng. Thức này vừa gọi là ý, vừa gọi là tâm, cũng là đặt ra bổn sự của hữu tình, có tác dụng phân biệt rõ về các cảnh sắc, v.v...

Do căn cảnh riêng, nên lập ra sáu thức, đó là nhãn thức cho đến ý thức. Trong kinh, Đức Phật tự nói tướng của thức kia, nghĩa là vì có thể phân biệt rõ, nên lập tên thức. Do vậy, nên biết, sự phân biệt rõ là tướng.

Trước đây ở phần suy chọn tướng hữu vi đã có nói về nhân của pháp sinh, gồm có hai thứ:

1. Trong.

2. Ngoài.

Trong là tướng sinh, ngoài là sáu nhân. Hoặc là tánh của bốn duyên, nay nên suy nghĩ lựa chọn:

Nhân duyên là sao? Nhân có sáu thứ:

1. Nhân tương ưng.

2. Nhân câu hữu.

3. Nhân đồng loại.

4. Nhân biến hành.

5. Nhân dị thục.

6. Nhân năng tác.

Pháp Tâm, tâm sở lần lượt tương ưng nhau, đồng nhận lấy một cảnh, gọi là nhân tương ưng. Như tâm và thọ v.v... thọ v.v... và thọ v.v. Thọ v.v... lại với tâm đều bỏ đi tự tánh của mình.

Các pháp hữu vi lại làm quả lẫn nhau, hoặc đồng một quả, gọi là nhân câu hữu, như các đại chủng, sở tướng năng tướng. Tâm, tâm chuyển biến theo, lại đối lẫn nhau.

Hai nhân riêng: Như các người đi buôn, nhờ ra sức hỗ trợ lẫn nhau, nên họ có thể vượt qua chặng đường nguy hiểm, đó là nhân câu hữu.

Các thức uống ăn lần lượt đồng nghĩa, là nhân tương ưng.

Tâm chuyển biến theo, nghĩa là các tâm sở và các tĩnh lự, luật nghi vô lậu, các tướng hữu vi, vì những pháp đó đều có với tâm, rơi vào một đời, một khởi, một trụ, một diệt, một quả, một đẳng lưu, một dị thục, đồng nhân thiện, bất thiện, vô ký.

Do mười nhân này nên gọi là tâm tùy chuyển. Các pháp của đời trước thuộc bộ mình, địa mình, như pháp hạt giống tương tợ với pháp sau là nhân đồng loại. Các pháp biến hành của đời trước kia thuộc địa mình, cùng đi với pháp nhiễm ở đời sau, là nhân biến hành. Tất cả pháp bất thiện, thiện hữu lậu đều làm nhân dị thục cho dị thục của mình.

Lúc các pháp sinh, ngoại trừ tự tánh của chúng, lấy tất cả pháp làm nhân năng tác, hoặc chỉ có, vô chướng ngại, hoặc vì có thể sinh.

Sáu nhân như vậy, đều lấy tất cả hữu vi làm quả. Vì do đó sinh ra, nghĩa là nhân tương ưng nên câu hữu được quả Sĩ dụng. Do uy lực này, nên quả kia được sinh, đó gọi là sĩ dụng, đó gọi là quả.

Nhân đồng loại, biến hành được quả Đẳng lưu. Vì quả giống với nhân, nên gọi là đẳng. Vì từ nhân sinh, lại nói là lưu. Quả tức đẳng lưu, nên gọi là quả Đẳng lưu.

Nhân dị thục được quả Dị thục, vì quả không giống nhân nên nói là dị thục. Nghĩa là vì thành thục, có thể thọ dụng, quả tức dị thục, gọi là quả dị thục, chỉ thuộc về số hữu hình.

Tánh vô phú vô ký có thể làm nhân được quả tăng thượng. Do sức tăng thượng này mà quả kia mới được phát sinh như nhãn căn, v.v đối với nhãn thức, v.v… và nông phu đối với việc cày cấy v.v… Do tăng thượng trước, pháp sau mới được sinh, quả tăng thượng gọi là quả Tăng thượng.

Trạch diệt vô vi, gọi là quả Ly hệ. Quả này do đạo mà được, chứ không phải do đạo quả sinh tức lìa sự lệ thuộc, gọi là quả Ly hệ.

Duyên có bốn thứ: Nhân duyên, duyên đẳng vô gián, duyên sở duyên và duyên tăng thượng. Ngoài nhân năng tác, năm nhân khác gọi là Nhân duyên.

Pháp tâm, tâm sở trong quá khứ, hiện tại, trừ tâm sau cùng, v.v... của A-la-hán, gọi là duyên đẳng vô gián.

Tất cả pháp gọi là duyên sở duyên. Tánh của nhân năng tác, gọi là duyên tăng thượng.

Dung chứa vật có trở ngại là tướng hư không. Nhờ sức tăng thượng này mà vật kia mới được sinh, vì có khả năng dung nạp là tánh hư không. Nếu không có tính chất này của hư không thì mọi vật có thể có trở ngại, lẽ ra không được phát sinh, vì không có chỗ chứa. Như Đức Thế Tôn nói: Phạm chí nên biết! Gió dựa vào hư không. Bà-Lamôn nói: Hư không dựa vào đâu? Đức Phật lại bảo: Ông hỏi phi lý. Vì hư không Vô Sắc, vô kiến, vô đối thì sẽ dựa vào chỗ nào? Nhưng có hư không sáng rõ, có thể hiểu được, cho nên biết là thật có hư không vô vi. Vì nếu không có tự thể của hư không này thì gió sẽ dựa vào đâu mà trụ! Nói Vô Sắc v.v là nói dựa vào đâu? Nhân có sáng suốt thì phân biệt rõ những thứ nào? Biết rõ về lông rùa, v.v... vì không có gì để so sánh.

Các khổ dứt hẳn, gọi là trạch diệt. Các khổ là sao? Là các sự sống, chết. Như Đức Thế Tôn nói: "Bí-sô nên biết! Nếu các hữu sinh, thì nói là khổ. Các hữu là tên khác của sự sống, chết. Nếu hữu bất sinh, gọi là khổ dứt hẳn. Như đê ngăn nước, như vách chắn gió, khiến cho khổ bất sinh, gọi là trạch diệt. Trạch nghĩa là lựa chọn, tức là tuệ thiện vượt hơn, thường phân biệt bốn Thánh đế. Vì sự khổ được diệt, nên đặt tên trạch diệt. Trạch diệt này tùy theo thể của đối tượng đoạn có vô lượng, vì lượng pháp bị đoạn là vô biên. Nếu thể là một thì đạo ban đầu đã được tu các đạo sau sẽ trở nên vô dụng. Nếu nói lần đầu tiên chúng phần ít không phải toàn phần, thì một thể diệt, lẽ ra sẽ có nhiều phần, một thể có nhiều phần là trái với lý. Tùy theo pháp hữu lậu mà có ngần ấy số lượng. Trạch diệt vô vi, nên biết cũng vậy".

Thuyết này là tốt, vì thích hợp với chánh lý. Ở đây tùy theo đạo mà lập riêng tám mươi chín thứ. Tùy theo biến tri dứt trừ mà có chín thứ. Nếu tùy theo năm bộ mà lập có năm thứ. Lại nữa, tùy theo quả khác nhau mà lập chung bốn thứ. Nghĩa là Dự lưu v.v... Do đoạn, lìa cõi diệt, lập riêng ba thứ. Do dứt trừ khổ, tập và hữu dư y, vô dư y khác nhau mà lập chung hai thứ. Y theo sự dứt trừ sinh tử, được lập chung là một.

Như vậy, Trạch diệt có nhiều tên khác nhau, nghĩa là tận, ly, diệt, Niết-bàn, v.v... Như Nhân kinh nói: "Bí-sô nên biết! Bốn uẩn Vô Sắc và nhãn sắc, v.v... gọi chung là con người. Trong đó giả tưởng nói tên là hữu tình, cũng gọi là ý sinh cũng gọi là người, Ma-nạp-bà, v.v... Trong đây, tự cho mắt, v.v... của họ là thấy sắc, v.v... rồi phát sinh các thứ ngôn luận thế tục. Nghĩa là Tôn giả này có danh như vậy, dòng họ như vậy, cho đến nói rộng". Bísô nên biết! Điều ấy chỉ có tưởng, chỉ có lời nói, các pháp như vậy, đều là vô thường. Pháp hữu vì duyên sinh do vô thường này nên khổ, nghĩa là lúc sinh khổ rồi trụ, v.v... cũng khổ. Các khổ này dứt hẳn không sót, ngoại trừ từ bỏ sự đổi thay, loại trừ, đều dứt lìa hẳn nhiễm, diệt, vắng lặng, ẩn mất. Pháp khác không khởi nối tiếp nữa, gọi là không sinh. Đấy là phép mầu nhiệm yên tĩnh cùng cực, nghĩa là tất cả sự nương dựa, ngoại trừ bỏ hết ái, lìa diệt Niết bàn.

Đã nói tất tất cả sự nương tựa trừ bỏ, nghĩa là trong diệt này, vì được sự diệt này là đã vĩnh viễn lìa pháp nhiễm, nên gọi là lìa. Chứng diệt này rồi, mọi khổ đều dứt hết, nên gọi là diệt. Chứng diệt này xong, tất cả lửa tai họa phiền não đều tắt mất, nên gọi là Niết-bàn.

Phi trạch diệt, nghĩa là có pháp riêng hoàn toàn chướng ngại sự sinh của pháp vị lai, chỉ do thiếu duyên không phải do lựa chọn mà được. Như mắt với ý lúc chuyên chú vào một sắc, sẽ loại trừ các sắc, tiếng, hương, vị, xúc v.v... khác. Năm thức thân v.v... khi duyên cảnh giới đó cũng thế. Do được sự diệt này có thể vĩnh viễn bị ngăn cách hẳn, trụ đời vị lai là hoàn toàn không sinh. Duyên thiếu cũng do uy lực diệt này, nên phi trạch diệt quyết định thật có. Như Đức Thế Tôn nói: "Nếu bấy giờ lạc thọ biểu hiện trước, hiện tiền thì hai thọ kia liền diệt".

Nói sự diệt đó nghĩa là ngoại trừ sự diệt này là gì? Nhất định không phải vô thường và trạch diệt lại nữa. Khế kinh nói: "Bí-sô nên biết! Nếu được Dự lưu thì đã hết địa ngục, đã hết cõi Quỷ và đã hết Bàng sinh. Nói dứt hết ở đấy là phi trạch diệt. Lúc ấy, pháp dị thục chưa được, vì trạch diệt là nghiệp ban đầu. Nghĩa là ưa thích, siêng học, tránh các vấn đáp, tóm tắt tạo ra luận này. Các người chưa biết khắp tướng thân mật của A-tỳ-đạt-ma, theo ý mình, gom góp các tụ hý luận đặt để ở trước, rồi câu kết với tà mạn, muốn chê bai nhau. Chính họ đã chê bai chánh giáo mà Đức Phật đã nói. Như Đức Thế Tôn nói: "Có hai hạng người chê bai chánh giáo của Phật:

1. Không tin, sinh ra sự oán ghét.

2. Dù tin mà vẫn thọ trì điều ác".

SỐ 1555 - LUẬN NGŨ SỰ TỲ BÀ SA

Tác giả: Tôn giả Pháp Cứu. Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng, Đời Đường vâng chiếu dịch.

QUYỂN THƯỢNG

Phẩm 1: PHÂN BIỆT SẮC (Phần đầu)

Kính lạy Phật, Pháp, Tăng Nay con theo sức mình Muốn ở biển Đối pháp Chọn ít nghĩa chân thật.

Xót thương các đệ tử Giải thích tuệ năng sinh Năm sự luận diệt ngu Khiến họ được hỏi pháp.

Tôn giả Thế Hữu vì tạo lợi ích cho hữu tình, nên soạn luận Ngũ Sự, nay con sẽ giải thích:

Hỏi: Giải thích Luận Ngũ Sự này để làm gì?

Đáp: Vì muốn khai pháp nghĩa sâu ẩn. Nếu chưa khai phát nghĩa sâu ẩn này thì khác nào như có "Kho báu trong lòng đất" chưa khai phát, thế gian không thể vui mừng thọ dụng. Nếu vì khai phát nghĩa sâu ẩn này, như có "Kho báu trong lòng đất" khi ta được khai phát thì thế gian có thể vui mừng thọ dụng.

Lại nữa, như mặt trời, mặt trăng dù có đủ ánh sáng uy nghi, nhưng lúc bị mây, v.v... che khuất thì không được chiếu rõ. Nếu loại trừ mọi thứ che khuất kia, thì việc chiếu sáng sẽ thành. Văn từ của luận này nên biết cũng vậy. Mặc dù dùng biện luận đơn giản các thứ thắng nghĩa, nhưng nếu không được giải thích rộng, e sẽ không được sáng tỏ lắm. Vì muốn được sáng tỏ, nên tôi sẽ giải thích.

Hỏi: Đã biết cần phải giải thích nguyên nhân của Luận Ngũ Sự, vậy vì sao Tôn giả soạn ra luận này?

Đáp: Vì có một số đệ tử lo sợ do phải nhớ giữ rộng, vì muốn giúp họ dựa vào sự tóm tắt đơn giản này mà biết được tự tướng, cộng tướng. Nghĩa là Tôn giả kia thường nghĩ: Mình phải làm sao cho các đệ tử, v.v... sẽ nương tựa vào văn tóm tắt được hiểu rõ tự tướng, cộng tướng của tất cả pháp.

Vì hiểu biết rõ, thí dụ như núi Kim Cương, các gió ác kiến thổi đến cũng không nghiêng động. Nếu không hiểu biết rõ như hoa cỏ lau bị gió ác kiến thổi tung. Ngọn gió ấy xoay vần, thổi tốc lên trong hư không do dự.

Như vậy vì muốn cho các chúng đệ tử được hiểu biết vững chắc, nên soạn luận này.

Hỏi: Thế nào là tự tướng, cộng tướng của các pháp?

Đáp: Các chất cứng, ẩm ướt, ấm v.v... là tự tướng các pháp. Vô thường, khổ v.v... là cộng tướng các pháp. Dù thế gian này có thể nhận biết về tự tướng của các pháp, nhưng về cộng tướng đều không thể biết. Như vậy, vì muốn do các chúng đệ tử đối với các pháp của hai tướng có thể biết như thật, nên soạn luận này.

Hỏi: Đã biết lý do cần phải soạn Luận Ngũ Sự, tại sao luận này lại gọi là Luận Ngũ Sự?

Đáp: Vì trong luận này phân biệt năm việc, cho nên được gọi là Luận Ngũ Sự, nghĩa là dựa vào xứ có thể sinh ra nghĩa việc không khác.

Các đại luận sư A-tỳ-đạt-ma đều nói rằng: Việc có năm thứ:

1. Sự tự tánh.

2. Sự sở duyên.

3. Sự trói buộc.

4. Sự sở nhân.

5. Sự nhiếp thọ.

Nên biết, trong đây chỉ nói về sự tự tánh.

Hỏi: Nếu vậy vì sao nói có năm pháp?

Đáp: Vì nghĩa của pháp và sự cũng không khác.

Hỏi: Vì sao luận này chỉ nói về năm pháp?

Đáp: Có thuyết nói: Câu hỏi này thật phi lý, vì nếu bớt, nếu thêm đều khó khăn.

Có thuyết nói: Nói gọn về thể loại khác nhau của các pháp, không lẫn lộn, gồm thâu tất cả pháp, nên chỉ nói có năm. Nếu tổng số là năm mà lập tên một pháp, thì dù là nói tóm tắt gồm thâu hết các pháp, nhưng không thể làm sáng tỏ về thể loại khác nhau của năm pháp như tâm, v.v… khiến không lẫn lộn

Nếu nói hữu lậu, vô lậu là hai thì Hữu học, Vô học sẽ không phải hai mà là ba thứ. Cõi Dục, Sắc, Vô Sắc, không lệ thuộc là bốn, nên biết cũng vậy.

Hỏi: Sao không nêu tên để biết có năm việc? Vì sao ở đầu luận, trước lại nêu số năm?

Đáp: Như sợi chỉ buộc hoa, vì để dễ cầm. Nghĩa là như dùng sợi chỉ xâu suốt các đóa hoa, dễ cầm, dễ làm đẹp cho đầu và thân. Cũng vậy về nghĩa số hoa được kết liền với nhau, có thể cầm dễ dàng, dễ trang nghiêm tâm tuệ. Hoặc trước nêu số, sau nêu tên, đó là vì danh sáng lập theo nghi thức cũ của tác giả. Nên biết nghĩa của pháp thanh có nhiều thứ, nghĩa là, hoặc có chỗ cho điều giảng nói gọi là Pháp. Như Khế kinh nói: Ông nên lắng nghe cho kỹ, ta sẽ vì ông nói rộng pháp mầu nhiệm.

Hoặc có cho nói công đức gọi là Pháp. Như Khế kinh nói: "Bí-sô nên biết, pháp là chánh kiến, tà kiến không phải pháp".

Hoặc lại có chỗ nói: Vô ngã gọi là Pháp. Như Khế kinh nói: "Các pháp vô ngã, nên biết vô ngã trong đây gọi là Pháp. Pháp là năng giữ gìn, hoặc là năng nuôi lớn, năng gìn giữ ở mình, nuôi lớn là nhờ ở người".

Hỏi: Vì sao trong luận này trước nói về sắc pháp?

Đáp: Vì sắc trong tất cả pháp thì sắc là thô nhất, cho nên là cảnh sở duyên của tất cả thức, vì là môn quan trọng cho người mới vào pháp Phật. Nghĩa là người nhập pháp Phật có hai môn cam lộ:

1. Quán bất tịnh.

2. Ghi nhớ hơi thở.

Người dựa vào quán bất tịnh để vào pháp Phật, thì quán sắc được tạo. Kẻ dựa vào ghi nhíp hơi thở, giữ niệm hơi thở để nhập pháp Phật là quán gió năng tạo.

Hỏi: Dựa vào nghĩa nào mà nói là sắc?

Đáp: Lần lượt chứa nhóm, lần lượt tan hoại, gieo trồng sinh trưởng, nghĩa là oán, thân hội ngộ, năng hủy hoại, năng thành lập, đều là nghĩa của sắc.

Đức Phật nói: Vì đổi thay, hư hoại nên gọi là sắc. Sự đổi thay hư hoại tức là nghĩa não hoại.

Có thuyết nói: Vì sự đổi thay, trở ngại, nên gọi là sắc.

Hỏi: Cực vi, vô biểu trong quá khứ, vị lai đều không có biến đổi, trở ngại, lẽ ra không gọi là sắc? Đáp: Cực vi đó cũng là sắc, vì nó có được tướng sắc. Các sắc quá khứ dù không có sự đổi thay, trở ngại, mà vì đã từng đổi thay, trở ngại, nên được đặt tên là sắc. Các sắc ở vị lai dù chưa đổi thay, ngăn ngại, mà chúng sẽ đổi thay, ngăn ngại, nên đặt tên là sắc. Như ở quá khứ, vị lai, dù mắt không thể thấy mà vì đã từng thấy, nên đặt tên là mắt. Vì được tướng của sắc, sắc này lẽ ra cũng như vậy. Mặc dù mỗi cực vi đều không có sự đổi thay, trở ngại, nhưng có thể chứa nhóm thành nghĩa, đổi thay, trở ngại, các sắc vô biểu dù không có sự đổi thay, trở ngại, nhưng vì tùy theo chỗ dựa, nên được gọi là đổi thay trở ngại.

Sở y (đối tượng nương dựa) là gì? Là bốn đại chủng. Do vô biểu kia đổi thay, trở ngại, nên gọi là sắc. Như lúc thân cây xao động, thì bóng cây cũng lay động theo. Hoặc theo phần nhiều, như gọi là đoạn thực, hoặc biểu hiện nội tâm, nên gọi là sắc.

Hoặc biểu lộ nghiệp trước, nên đặt tên là sắc.

Sắc là thế nào?

Hỏi: Vì sao Tôn giả lại nói lời này?

Đáp: Vì ở trước đã nói tóm tắt, nay muốn nói rộng. Hoặc là sắc có thấy, có đối. Hoặc là sắc không thấy, có đối. Hoặc là sắc không thấy, không đối. Gồm thâu chung gọi là tất cả các sắc.

Nói tất cả, nghĩa là các sắc này đều thuộc về sắc, không phải thứ khác.

Bốn đại chủng:

Hỏi: Vì sao đại chủng chỉ có bốn?

Đáp: Hiếp Tôn giả nói: Câu hỏi này thật phi lý, vì nếu có bớt hoặc thêm đều có sự nghi ngờ. Vì không trái với pháp trướng, gọi là bốn không lỗi.

Có thuyết nói: Để ngăn với năm đại chủng của ngoại đạo nên chỉ có nói bốn thứ, vì ngoại đạo kia chấp hư không cũng là đại chủng.

Hỏi: Vì sao hư không chẳng gọi là đại chủng?

Đáp: Vì hư không chẳng có tướng đại chủng, nghĩa là hư không là rộng lớn, không phải chủng, vì là pháp thường trụ, không có tạo tác.

Đại đức Diệu Âm cũng nói như vầy: Tướng của hư không và đại chủng đều khác nhau. Hư không dù lớn, nhưng không thể là chủng. Vả lại, nếu các đại chủng có thể hình thành thân thì đa số là nghiệp hữu tình thuộc về dị thục. Hư không, chẳng có tướng của nghiệp dị thục đó. Vì vậy nên hư không nhất định không phải đại chủng.

Hỏi: Đã nói đại chủng, nghĩa ấy thế nào?

Đáp: Vì vừa là chủng, vừa là lớn nên gọi Đại chủng. Như thế gian nói đại địa, đại vương.

Hỏi: Chủng đã nói ở đây là nghĩa gì?

Đáp: Là nghĩa chứa nhóm nhiều, làm chướng ngại lớn, vì làm xong việc lớn, nên gọi là Chủng. Hỏi: Bốn đại chủng đã làm nên sự nghiệp gì?

Đáp: Bốn đại chủng này có thể tạo ra các sắc được tạo, nghĩa là dựa vào các sắc chứa nhóm của bốn đại, sắc chướng ngại lớn đều được sinh trưởng, như vậy gọi là sự nghiệp của đại chủng.

Hỏi: Tạo là nghĩa gì? Là nhân hay duyên? Nếu là nghĩa nhân thì bốn đại chủng này đối với năm nhân của sắc được tạo đều là không, vậy làm sao có thể nói sự tạo tác là nghĩa nhân? Nếu là nghĩa duyên thì các sắc được tạo, ngoài pháp khác của mình đều là duyên tăng thượng. Điều này không hợp lý, vì chỉ có bốn năng tạo này.

Có thuyết nói: Sự tạo ra là nghĩa của nhân. Mặc dù đối với sắc được tạo, bốn đại chủng không có nghĩa của năm thứ nhân như tương ưng, v.v... mà lại có riêng năm nhân là sinh, nương, lập, trì, dưỡng.

Lại có thuyết nói: Sự tạo ra là nghĩa của duyên. Mặc dù sắc được tạo, ngoài tự tánh của nó, tất cả các pháp đều là duyên tăng thượng gần, không phải pháp nào khác. Như nói sắc của mắt duyên của là nhãn thức. Thuyết kia nói thắng duyên ở đây cũng nên như vậy.

Hỏi: Có khi nào sắc này không phải là bốn đại chủng, cũng không phải là sắc của bốn đại chủng tạo ra hay chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là một, hoặc hai, ba đại chủng. Vì một, hai, ba này không gọi là bốn. Vả lại, vì các đại chủng không phải là đối tượng được tạo.

Hỏi: Vì sao đại chủng không phải là đối tượng được tạo?

Đáp: Vì quả của sắc, tướng của sắc đều khác nhau, hoặc các đại chủng nếu thuộc về đối tượng được tạo, là bốn tạo ra một hay ba tạo ra một? Nếu các đại chủng bốn có thể tạo ra một thì đất, v.v... lẽ ra cũng lại tạo ra đất, v.v... Đấy là tự tánh các pháp nên đối đãi nhau. Nhưng tự tánh tất cả pháp không đối đãi nhau, chỉ nhờ duyên khác mà có tác dụng. Nếu các đại chủng ba có thể tạo ra một thì số lượng nhân đã thiếu, nên không thể tạo được. Như nhân của sắc được tạo phải có đủ bốn.

Hỏi: Đã biết rõ chung về những gì đại chủng và đối tượng được tạo đã tạo ra, lại muốn nghe tướng riêng của hai chủng này? Những gì là đại chủng? Tướng của chúng ra sao?

Đáp: Giới của đất, v.v... gọi là đại chủng, tính chất cứng, v.v... là tướng của chúng.

Hỏi: Nếu tính chất cứng, v.v... là tướng của đất, v.v... thì đối tượng tướng và chủ thể tướng há không thành một chăng?

Đáp: Cho dù tánh, tướng này thành một đi nữa cũng nào có lỗi gì! Vì vậy nên Tỳ-bà-sa nói rằng: Tự tánh ngã, vật, tướng, bản tánh v.v... về danh ngôn dù khác mà nghĩa không khác, vì không thể nói các pháp lìa tự tánh mà có tướng được. Như nói: Sự vắng lặng của Niết-Bàn là tướng tất nhiên, không phải lìa sự vắng lặng mà có Niết-Bàn riêng. Đây cũng nên như vậy, vì thế không có lỗi. Tính chất cứng trong đây, tức là thể cứng của phần cứng. Nói theo chủng loại thì tánh cứng là giới đất, nhưng tính chất cứng này có vô biên sự khác nhau. Nghĩa là sự khác của móng tay, tóc, v.v... của pháp bên ngoài. Vả lại, chất cứng đổi khác của tay, chân trong pháp bên trong. Pháp ngoài cũng vậy, nên tính chất cứng là vô biên.

Hỏi: Nếu vậy, tánh cứng lẽ ra thuộc về cộng tướng, sao lại nói là tự tướng của đất, v.v…?

Đáp: Mặc dù tính chất cứng có nhiều, mà tiêu biểu chung như đất, thường đổi thay, ngăn ngại, nêu chung là sắc uẩn, vì sự tiêu biểu đã là một thì không phải cộng tướng.

Có thuyết nói: Tánh cứng bao gồm hai tướng và quán ba đại chủng là tự tướng. Nếu quán về loại cứng, sẽ có vô biên sự khác nhau của trong, ngoài, lại trở thành cộng tướng, như tánh đổi thay trở ngại thuộc chung cả hai tướng. Quán bốn uẩn khác là thành tự tướng. Nếu quán mười một thứ phẩm loại khác nhau của tánh sắc lại thành cộng tướng. Lại như khổ đế, tướng của nó là ép ngặt khi quán ba đế, đây thành ra tự tướng. Nếu quán năm uẩn hữu lậu khác nhau, thì sự bức bách này lại thành cộng tướng, vì tánh cứng cũng vậy nên chung cho cả hai thứ.

Hỏi: Nếu thế thì làm sao kiến lập tự tướng, cộng tướng riêng biệt không lẫn lộn nhau?

Đáp: Vì quán đối đãi, nên không có lỗi lẫn lộn. Nghĩa là nếu quán kia, thì lập làm tự tướng. Chưa từng quán kia, kiến lập thành cộng tướng. Nếu lại quán tự tướng đây kiến lập thành cộng tướng. Chưa từng quán đây mà lập là tự tướng. Cho nên quán tự tướng, cộng tướng đối đãi nhau.

Hỏi: Đã biết tướng của đại chủng đều khác nhau, sự của đại chủng tạo nghiệp khác nhau như thế nào?

Đáp: Giới đất có công năng gìn giữ hai thứ đi đứng, để không bị té ngã. Giới nước có tánh thể hay gom những việc trái nhau, khiến không lìa tan. Giới lửa có tánh hay nung những vật loại không chín để không bị hư rã. Giới gió có tánh giúp mọi vật được tăng trưởng, hoặc lại lưu dẫn, đó là sự nghiệp đều khác nhau của mỗi đại chủng.

Hỏi: Đất, nước, gió, lửa đều có hai tánh: Tánh cứng, v.v... và thuộc về tự tướng của giới đất, v.v... Tánh của sắc làm sao một pháp được hai tướng?

Đáp: Một pháp có nhiều tướng, điều này đâu có lỗi gì? Như Khế kinh nói: Mỗi thủ uẩn có vô lượng chủng tướng, như bịnh, v.v... Hoặc tánh cứng, v.v... là giới đất, v.v... thuộc về tự tướng. Trong đó tánh của sắc là thuộc về cộng tướng của giới đất v.v... Nên ở một pháp có hai thứ tướng:

1. Tự tướng.

2. Cộng tướng.

Điều này cũng trái lý.

Hỏi: Như vậy bốn giới có thể lìa nhau không?

Đáp: Bốn giới này lần lượt quyết định không lìa nhau. Làm sao biết được? Vì Khế kinh nói: Kinh Nhập Thai nói: Lúc Yết-lạt-lam, nếu có giới đất không có giới nước, thì tánh của nó sẽ khô ráo, sẽ phải phân tán, vì đã không phân tán, nên biết nhất định có giới nước có công năng thâu nhiếp.

Nếu có giới nước mà không có giới đất thì tánh của nó là dung hòa, lẽ ra phải chảy tan! Đã không chảy tan nên biết nhất định có giới đất để giữ lại.

Nếu có giới nước mà không có giới lửa thì tánh của nó thấm nhuần ẩm ướt, lẽ ra phải hư mục. Vì không hư mục, nên biết chắc chắn là có giới lửa, làm cho chín nhừ.

Nếu có giới lửa, không có giới gió, thì tánh của nó lẽ ra không có nghĩa tăng trưởng. Vì đã tăng trưởng dần nên biết nhất định có giới gió làm lay động.

Hỏi: Nếu vậy, theo Khế kinh nói, phải hiểu như thế nào? Như Khế kinh nói: Bí-sô nên biết, giới lửa trong thân này nếu phát ra, hoặc làm cho chết, hoặc làm cho khổ gần chết.

Đáp: Kinh là nói theo sự tăng thạnh và không tăng thạnh mà nói, chứ không nói thể của lửa trong thân vốn không.

Hỏi: Giới đất và đất có gì khác nhau không?

Đáp: Giới đất là tánh cứng, đất là hình thể bên ngoài, giới đất là chủ thể tạo, đất là đối tượng được tạo. Địa giới là xúc xứ tiếp xúc do thân thức nhận biết.

Đất là sắc xứ do nhãn thức nhận biết, đó là sự khác nhau giữa giới đất và đất. Nước, lửa cũng vậy, gió hoặc giới gió cũng thế.

Hỏi: Đã biết rõ đủ tướng của bốn đại chủng: Cứng, ẩm ướt, ấm, động, đều lần lượt chống trái nhau. Như bốn con rắn độc cùng ở trong một thân. Lại thế nào muốn hỏi tướng sắc của nó tạo ra, lại là sắc của nó tạo ra?

Đáp: Sắc được tạo đó là nhãn căn, v.v... Vì nhãn tức căn nên gọi là nhãn căn. Như hoa sen xanh, căn khác cũng vậy.

Hỏi: Năm thứ như nhãn, v.v... cũng thuộc về giới, xứ, vì sao trong đây chỉ nói về căn?

Đáp: Vì muốn phân biệt ngoại cảnh như sắc, v.v... nghĩa là nếu nói giới, xứ là nhãn, v.v... thì nghĩa của căn sai khác, khó biết, cho nên trong luận này chỉ nêu tên căn. Đấy là chỉ bày rõ trong sắc được tạo, phần bên trong gọi là căn, bên ngoài gọi là nghĩa của căn.

Hỏi: Trong đây nói nghĩa của căn là thế nào?

Đáp: Tăng thượng, hơn hết, thấy rõ, sáng suốt, thích thú quán mầu nhiệm, v.v... đều là nghĩa của căn.

Hỏi: Nếu nghĩa tăng thượng là nghĩa của căn, thì các pháp hữu vi lần lượt tăng thượng, vô vi cũng là hữu vi tăng thượng, tức tất cả pháp lẽ ra đều là căn?

Đáp: Vì dựa vào sự vượt hơn để kiến lập căn, nên không có lỗi này. Nghĩa là duyên tăng thượng có hơn có kém, nên biết phần nào vượt hơn được gọi là căn.

Hỏi: Căn nào ở đâu, có bao nhiêu tăng thượng? Đáp: Trong năm căn, mỗi căn đều có bốn việc tăng thượng:

1. Trang nghiêm thân.

2. Dẫn dắt nuôi dưỡng thân.

3. Phát sinh thức, v.v...

4. Việc không chung.

Trước nói về nhãn căn. Trang nghiêm thân, nghĩa là mặc dù thân có đủ các căn khác, nếu thiếu nhãn căn thì trở nên xấu xí.

Dẫn dắt nuôi nấng thân, nghĩa là mắt có thể thấy các sắc an hay nguy, vì được bền lâu.

Phát sinh thức v.v..., nghĩa là dựa vào nhãn căn, tất cả nhãn thức và pháp tương ưng đều được phát sinh.

Việc không chung, nghĩa là tác dụng thấy sắc, chỉ thuộc về nhãn căn, vì hai mươi mốt căn khác không có tác dụng này.

Kế là phân tích về nhĩ căn: Trang nghiêm thân nghĩa là kẻ tai điếc không thể yêu thích.

Dẫn dắt nuôi dưỡng thân, nghĩa là tai có thể nghe tiếng tốt, xấu, vì tránh khỏi chỗ xấu, đến với nơi tốt đẹp, thân được bền lâu.

Phát sinh thức, v.v... nghĩa là vì dựa vào nhĩ căn, tất cả nhĩ thức và các pháp tương ưng đều được phát sinh.

Việc không chung: Nghĩa là tác dụng nghe tiếng chỉ thuộc nhĩ căn, vì hai mươi mốt căn khác không có tác dụng này. Tỷ, thiệt, thân căn, về trang nghiêm thân giống như nhãn căn nhĩ căn.

Dẫn dắt nuôi dưỡng thân, nghĩa là ba căn này thọ dụng đoạn thực, (ăn vốc) thân mới bền trụ lâu. Phát sinh thức, v.v..., nghĩa là dựa vào ba căn tỷ thức, thiệt thức, thân thức và pháp tương ưng đều được phát sinh.

Việc không chung, nghĩa là tác dụng ngửi, nếm, cảm giác về hương, vị, v.v... tiếp xúc thuộc về tỷ, thiệt, thân căn, không phải căn nào khác.

Hỏi: Năm căn như vậy, có đức tốt gì? Cái gì là tự tánh? Nghiệp dụng thế nào?

Đáp: Đức của nhãn căn, nghĩa là cùng với nhãn thức và pháp tương ưng của nó làm chỗ dựa. Tự tánh của nhãn căn tức là sắc tịnh. Khả năng thấy sắc là nghiệp dụng của nhãn. Ba việc của căn kia, giống như nhãn, nên biết. Vả lại, trong đây nói căn có nghiệp dụng, không phải là chỗ nương dựa của tất cả căn thức. Vì sắc này lắng sạch, nên gọi là sắc tịnh. Hoặc trong đấy làm chỗ nương dựa cho nhãn thức, v.v... làm sáng tỏ cho căn đồng phần nên nói sắc tịnh là nói rõ phần đồng đó.

Hỏi: Sao gọi là đồng phần bỉ đồng phần, căn như vậy hai tên đều gọi là nhãn thì đâu có khác gì nhau?

Đáp: Có nghiệp dụng gọi là căn đồng phần, căn không có nghiệp dụng gọi là bỉ đồng phần. Như có thể thấy sắc gọi là mắt đồng phần, không thấy sắc gọi là bỉ đồng phần.

Sự khác nhau của bỉ đồng phần ở mắt có bốn thứ sai khác.

1. Có nhãn đồng phần kia trong quá khứ, nghĩa là không thể thấy các sắc đã mất.

2. Có nhãn đồng phần kia trong hiện tại, không thể thấy các sắc đã mất trong hôm nay.

3. Có mắt đồng phần kia ở vị lai, nghĩa là không thể thấy các sắc sẽ mất.

4. Có mắt ở vị lai nhất định không sinh.

Sự khác nhau của mắt đồng phần chỉ có ba thứ. Nghĩa là trừ vị lai nhất định mắt không phát sinh. Bốn thứ như nhĩ căn, v.v... cũng giống như mắt nên biết. Hoặc còn có năm thức, đều có hai chỗ dựa:

1. Sinh cùng lúc, nghĩa là năm căn như mắt, v.v...

2. Không gián đoạn tiêu mất, nghĩa là ý căn, chỉ nói thức dựa vào ý buông lung không gián đoạn, chỉ có năm thể của sắc tịnh lẽ ra đồng nhau. Do vậy nên nói sắc tịnh là để phân biệt với. Ý không gián đoạn, làm chỗ nương cho nhãn thức, v.v... sự khác nhau của nhãn căn, v.v... có năm thứ.

Do đấy, nên nói chỗ dựa của năm thức với duyên đẳng vô gián khác nhau đều có bốn trường hợp:

Nhãn căn v.v... đều cùng phát sinh là trường hợp thứ nhất.

Tâm sở không gián đoạn diệt là trường hợp thứ hai.

Tâm gián đoạn diệt là trường hợp thứ ba.

Trừ các pháp đã nêu ở trước là trường hợp thứ tư.

Hỏi: Cái gì có thể thấy sắc? Là nhãn căn thấy, hay nhãn thức thấy? Là tuệ tương ưng với nhãn thức thấy sắc hay tâm, tâm sở hòa hợp mà thấy?

Tất cả những gì ông đã hoài nghi đều có lỗi, vì nếu nhãn căn thấy thì lúc thức khác hoạt động sao không thấy sắc? Sao không đều cùng nhận lấy tất cả cảnh?

Nếu nhãn thức thấy, các thức chỉ lấy sự phân biệt rõ làm tướng, không phải trông thấy làm tướng, đâu thể thấy sắc? Nếu tuệ tương ưng với nhãn thức mà thấy, nên thừa nhận văn tuệ tương ưng với nhĩ thức. Tai kia đã chẳng nghe thì mắt này làm sao thấy? Nếu tâm, tâm sở hòa hợp mà thấy được thì các tâm, tâm sở hòa hợp không nhất định. Nghĩa là nhãn thức thiện tương ưng với hai mươi hai tâm sở. Nhãn thức bất thiện tương ưng với hai mươi mốt tâm sở, nhãn thức hữu phú, vô ký tương ưng với mười tám thứ tâm sở.

Đã không quyết định thì làm sao hòa hợp?

Đáp: Nhãn căn có thể thấy, nhưng phải hợp vị với nhãn thức, chứ không phải pháp khác. Ví như nhãn thức có tác dụng biểu thị nêu bày sắc là do dựa vào mắt mới có. Vả lại, như thọ, v.v... có tác dụng lãnh nạp, v.v... tất nhiên dựa vào tâm. Nhãn thức đây lẽ ra cũng như vậy. Do lý thú này, nên lúc thức khác hoạt động, mắt đã nhận thức hư không, chẳng có khả năng thấy sắc, cũng không cùng nhận lấy tất cả cảnh mất mát, vì trong một sự nối tiếp nhau không có chuyển biến của hai tầm.

Hỏi: Vì sao có đủ sáu chỗ dựa, đối tượng duyên, lại không có sáu thức đều chuyển biến trong một sự nối tiếp nhau?

Đáp: Vì duyên đẳng vô gián chỉ có một, lại có nghĩa khác, nếu nhãn thức thấy thì cái gì có khả năng nhận thức? Nếu tuệ thấy, thì cái gì lại có thể biết? Nếu tâm, tâm sở hòa hợp có thể thấy thì mỗi nghiệp dụng của các pháp sẽ không đồng nhau. Trong đó nhất định sẽ không có nghĩa hòa hợp mà thấy. Lại nữa, lẽ ra trong một thể có hai tác dụng, tức thừa nhận có tác dụng thấy và nhận lãnh, v.v... Lại có nghĩa khác, nếu thức thấy, thức không có đối thì khả năng thấy sẽ bị các sắc gây trở ngại!

Tuệ và sự hòa hợp, nên biết cũng vậy. Thế nên nhãn căn được gọi riêng là năng thấy.

Hỏi: Đã biết tác dụng thấy chỉ thuộc về nhãn căn, vậy lúc mắt thấy là hai, hay một?

Đáp: Việc này không quyết định. Nếu lúc mở hai mắt đều thấy các sắc, thì lúc một mắt mở, một mắt che lại, thì ở trước mặt thấy hai mặt trăng, v.v... Nếu nhắm một mắt, che một mắt thì việc này sẽ là không, cho nên, có lúc cả hai mắt đều cùng thấy.

Lại nữa, Luận Phát Trí nói: Nhãn đều thấy. Nghĩa là lúc mở cả hai mắt thì sự trông thấy sẽ rõ ràng v.v... Hai tai, hai mũi, nên biết cũng vậy.

Hỏi: Vì sao hai mắt, hai tai, hai mũi, mặc dù đều có hai chỗ mà lập một căn?

Đáp: Hai vị trí nhưng vì thể loại chỉ có một. Vì hai cảnh sở chấp thuộc về một giới, hai thức năng y vì thuộc về một thức. Lại nữa, cả hai đều, có thể chấp cảnh. Mặc dù có hai xứ mà lập một căn. Như căn nữ, căn nam tức thuộc về thân căn, thế nên ở đây không lập riêng căn. Cực vi của nhãn căn tỏa khắp trên tròng mắt, đối với cảnh mà trụ như hoa hương lăng. Cực vi của nhĩ căn ở trong lỗ tai xoay vòng mà đứng như vỏ cây hoa, cực vi của tỷ căn ở trong sống mũi, trên lưng, chúc xuống như hai móng tay. Cực vi của thiệt căn ở khắp trên lưỡi hình bán nguyệt. Nhưng ở trong lưỡi có lượng như lông, tóc, không có thiệt căn. Cực vi của nhãn căn ở khắp các thân phần.

QUYỂN HẠ

Phẩm 1: PHÂN BIỆT SẮC (Phần cuối)

Hỏi: Sắc được tạo thuộc về căn bên trong, tôi đã biết rõ. Nay tôi lại muốn nghe sắc không phải thuộc về căn, xưa ông giải thích cho.

Đáp: Sắc, thanh, hương, vị thuộc tiếp xúc thuộc về vô biểu. Sắc trong đấy là khéo hiển sắc v.v... Nếu xanh, vàng, v.v... là sắc không đổi thay, hư hoại gọi là hiển sắc đẹp. Nếu sắc này hư hoại, đổi thay gọi là hiển sắc xấu. Nếu bình đẳng gọi là hai trung gian giống như sắc xứ hiển bày Hỏi: Sắc xứ có hai thứ:

1. Hiển.

2. Hình.

Vậy sao trong đây chỉ phân tích hiển sắc?

Đáp: Nay ở trong đây nên nói thế này: Sắc có hai thứ:

1. Hiển.

2. Hình.

Hiển sắc: Là màu xanh, vàng, v.v... Hình sắc là dài, ngắn v.v... Nhưng không nói là có ý gì? Nghĩa là hiển sắc thô sơ và dễ biết. Như vậy các sắc là đối tượng nhận thức của hai thức trong sáu thức. Nghĩa là mắt và ý, trước dùng nhãn thức chỉ phân biệt về tự tướng, sau dùng ý thức để phân biệt rõ cả cộng tướng và tự tướng. Nghĩa là các sắc kia lúc an trụ trong hiện tại, nhãn thức chỉ có thể hiểu rõ tự tướng của sắc đó. Nhãn thức không gián đoạn phát sinh ý thức phân biệt, lại phân biệt rõ về tự tướng hoặc cộng tướng của sắc trước. Tuy nhiên, ý thức phát sinh phân biệt này đã dựa vào nhãn thức trước, duyên cảnh của sắc trước. Như vậy lúc ý thức đang trong hiện tại, thì đối tượng nương dựa và đối tượng duyên đều ở quá khứ, do năm cảnh này lúc trụ trong hiện tại, ý thức không thể phân biệt tự tướng của năm cảnh đó, cho nên cảnh của sắc là đối tượng nhận thức của hai thức. Nghĩa là lúc các nhãn thức hiện khởi ở trước mặt chỉ phân biệt rõ về tự tướng ở hiện tại, chứ không phải cộng tướng. Nếu khi các ý thức hiện ở trước thì phân biệt chung các tự tướng và cộng tướng của ba đời vì các cảnh giới của ý thức đều hiện bày cùng khắp, vì có sự phân biệt. Nhãn thức không gián đoạn, không nhất định khởi ý thức, vì đối với sáu thức thân, chỉ chấp nhận tùy khởi một thứ nào đó. Nếu nhãn thức không gián đoạn, nhất định sinh khởi ý thức, thì khổ căn lẽ ra không phải khổ v.v... mà không gián đoạn, khổ căn chỉ có ở năm thức thân. Nếu vậy thì trái với phần Uẩn căn đã nói: Khổ căn làm nhân đẳng vô gián tăng thượng cho khổ căn. Nhưng dựa vào nhãn thức phân biệt sắc rồi, dẫn khởi không gián đoạn ý thức phân biệt, nên nói như vậy: Nhãn thức nhận biết trước, nhãn thức thọ nhận rồi ý thức mới nhận thức theo. Thanh có hai thứ, cho đến nói rộng.

Có chấp thọ đại chủng, nghĩa là các đại chủng trong sát-na hiện tại thuộc về số hữu tình.

Không chấp thọ đại chủng, nghĩa là các đại chủng quá khứ, vị lai, thuộc số hữu tình và ba đời không phải thuộc số hữu tình. Trong đây, âm thanh có chấp thọ đại chủng phát sinh, gọi là có chấp thọ đại chủng làm nhân. Có chấp thọ đại chủng với âm thanh đã sinh này là năm thứ nhân trước sinh ra, v.v... Không chấp thọ đại chủng làm nhân phát sinh âm thanh cũng như thế. Nếu từ miệng phát ra, tay v.v… cùng kết hợp sinh, gọi là âm thanh có chấp thọ đại chủng làm nhân. Nếu từ rừng, nước, gió v.v... mà phát sinh gọi là âm thanh không có chấp thọ đại chủng làm nhân, ngoài ra như trước đã giải thích.

Tất cả các mùi hương, cho đến nói rộng, vừa ý gọi là mùi hương tốt, không vừa gọi là mùi hương xấu. Theo xả thọ xứ, gọi là mùi hương bình đẳng.

Đối tượng ngửi các mũi, nghĩa là cảnh của tỷ căn, ngoài ra như trước đã giải thích. Tất cả các vị cho đến nói rộng. Có thích ý gọi là vị vừa ý. Không thích ý gọi là vị không vừa ý, trái với hai thứ này gọi là vị thuận xả xứ.

Đối tượng nếm của lưỡi, nghĩa là cảnh của thiệt căn, ngoài ra như trước đã giải thích.

Hỏi: Nếu lúc nếm vị, là khởi thiệt thức trước hay khởi thân thức trước?

Đáp: Nếu đối tượng nếm là chất lạnh, ấm, v.v... tăng, thì khởi thân trước thức. Nếu đối tượng nếm là chất mặn, chua, v.v... tăng thì khởi thiệt thức trước. Nếu vị xúc bình đẳng thì cũng khởi thiệt thức trước, vì vị dục mạnh hơn, một phần được tiếp xúc cho đến nói rộng.

Tánh trơn láng là mềm mỏng, tính chất nhám rít là khô nặng. Tánh nhẹ là không thể cân lường. Tánh nặng là có thể cân lường.

Lạnh, nghĩa là có thôi thúc muốn ấm, đói là muốn ăn. Khát là muốn uống, bảy thứ như vậy là thuộc xúc xứ, do sắc được tạo làm tự tánh. Bốn đại chủng trước dù thuộc xúc xứ, nhưng không phải do sắc được tạo làm tự tánh. Thế nên, xúc xứ có mười một thứ, nay vì có bảy thứ được tạo nên gọi là một phần.

Đối tượng tiếp xúc của thân, nghĩa là cảnh của thân căn, ngoài ra như trước đã giải thích.

Hỏi: Tăng thêm đại chủng nào nên có tính chất trơn, cho đến tăng thêm đại chủng nào mà có tính chất khát?

Đáp: Có thuyết nói: Không sự thêm bên nào, nhưng tánh của bốn đại chủng, theo loại có khác nhau có thể tạo nên tánh trơn láng. Nói rộng cho đến có thể tạo nên tính chất khát.

Lại có thuyết nói: Vì giới nước, lửa tăng thêm, nên có thể tạo ra tính chất trơn láng. Vì giới đất và gió thêm, nên có thể tạo ra tánh nhám rít. Vì giới lửa, gió thêm nên có công năng tạo ra tính chất nhẹ. Vì giới đất, nước tăng thêm nên có thể tạo ra tính chất nặng. Vì giới nước, gió tăng thêm nên có thể tạo ra tính chất lạnh. Vì chỉ thêm giới gió nên có khả năng tạo ra tính chất đói.

Chỉ thêm giới lửa nên có thể tạo ra tính chất khát. Đấy là nói sự tăng thêm, nghĩa là nghiệp dụng tăng thêm, không phải sự thể tăng thêm.

Như tâm, tâm sở, vô biểu là thế nào? Cho đến nói rộng. Rơi vào sắc pháp xứ, rơi (đọa) có sáu thứ:

1. Giới đọa.

2. Thú đọa.

3. Bổ-đặc-già-la đọa.

4. Xứ đọa.

5. Hữu lậu đọa.

6. Tự thể đọa.

Giới đọa như trong phần Kiết uẩn nói: Các kiết đọa cõi Dục, kiết đó ở cõi Dục, v.v...

Thú đọa, nghĩa là nếu thuộc về thú đường như vậy, gọi là thú.

Bổ-đặc-già-la đọa: Như Tỳ-nại-da nói: Có hai Bổ-đặc-già-la, rơi trong tăng số, khiến tăng hòa hợp.

Xứ đọa: Như trong đây nói: Vô biểu sắc là thế nào? Nghĩa là sắc rơi vào pháp xứ.

Hữu lậu đọa: Như luận này nói: Thế nào là đọa pháp? Đó là pháp hữu lậu.

Tự thể đọa: Như Đại chủng uẩn nói: Có chấp thọ nghĩa là gì? Đây là tăng ngữ đã làm sáng tỏ pháp của tự thể đọa.

Sắc vô biểu: Giới thiện, ác nối tiếp nhau không dứt. Sắc vô biểu này do một thức nhận biết trong tất cả thời, đó là ý thức. Nghĩa là vì không có đối, năm cảnh như sắc, v.v... ngay trong lúc hiện tại, là đối tượng nhận biết của năm thức, đối tượng nhận biết của ý thức trong ba đời, đó là lúc nào ý thức cũng biết năm căn như nhãn, v.v... cũng là đối tượng nhận biết của ý thức trong tất cả thời.

Sắc vô biểu này gồm có hai thứ: thiện, bất thiện, không có vô ký. Nghĩa là do sức mạnh, tâm có thể phát sinh vô biểu. Tâm vô ký yếu kém, không phát sinh vô biểu. Các vô biểu thiện gồm có hai thứ:

1. Thuộc về luật nghi.

2. Không thuộc về luật nghi.

Vô biểu bất thiện cũng có hai thứ:

1. Thuộc về bất luật nghi.

2. Không thuộc về bất luật nghi.

Vô biểu thuộc về luật nghi lại có bốn thứ: a. Luật nghi biệt giải thoát.

b. Luật nghi tĩnh lự.

c. Luật nghi vô lậu.

d. Luật nghi đoạn.

Luật nghi biệt giải thoát, nghĩa là giới của bảy chúng. Luật nghi tĩnh lự là giới của cõi Sắc. Luật nghi vô lậu là giới của bậc Hữu học, Vô học. Luật nghi đoạn, nghĩa là dựa vào một phần của hai luật nghi để kiến lập, đó là luật nghi tĩnh lự và luật nghi vô lậu.

Lìa nhiễm cõi Dục thuộc về tùy chuyển của chín đạo Vô gián gọi là luật nghi đoạn. Vì có thể đối trị hết thảy giới ác và có thể đối trị phiền não do giới ác khởi, nên gọi là đoạn. Thuộc về phần tùy chuyển của tám đạo Vô gián trước, nghĩa là chỉ có thể đối trị sự khởi lên phiền não của giới ác. Thuộc về phần tùy chuyển của đạo Vô gián thứ chín có thể đối trị giới ác khởi lên và có thể đối trị phiền não của giới ác ấy dấy khởi.

Hỏi: Luật nghi biệt giải thoát do đâu mà được, do đâu mà xả?

Đáp: Do sự giáo hóa của người khác nên được, do bốn duyên nên xả. Bốn duyên là:

1. Xả giới đã học.

2. Sinh ra hai hình.

3. Căn thiện bị cắt đứt.

4. Làm mất chúng đồng phần.

Hỏi: Luật nghi tĩnh lự do đâu mà được, do đâu mà xả?

Đáp: Tâm thiện cõi Sắc nếu được liền được, nếu xả liền xả.

Luật nghi này lại có hai thứ:

1. Do thối lui.

2. Do giới, địa có sự chuyển dời.

Hỏi: Luật nghi vô lậu do đâu mà được, do đâu mà xả?

Đáp: Cùng được với đạo, không hoàn toàn xả.

Nếu tùy phần xả thì do ba duyên:

1. Do thối lui.

2. Do được quả.

3. Do chuyển căn.

Hỏi: Luật nghi đoạn do đâu mà được, do đâu mà xả?

Đáp: Vì thuộc về luật nghi tĩnh lự, nghĩa là nói như luật nghi tĩnh lự. Thuộc về luật nghi vô lậu, nghĩa là nói như luật nghi vô lậu. Như nói về luật nghi vô lậu, thuộc về luật nghi thiện vô biểu, nếu tâm sở thanh tịnh, mạnh mẽ sẽ phát sinh việc thiện, sẽ biểu hiện được vô biểu này. Nếu tâm sở thanh tịnh yếu kém phát khởi thiện biểu, thì không được vô biểu này.

Xả vô biểu này do ba duyên:

1. Ý lạc dứt.

2. Xả gia hạnh.

3. Lỗi thế lực bị hạn chế.

Thuộc về bất luật nghi bất thiện vô biểu, nghĩa là các bất luật nghi như giết mổ dê, v.v... Bất luật nghi này do hai duyên mà được:

1. Do tạo nghiệp.

2. Do nhận việc.

Bất luật nghi này do bốn duyên xả:

1. Do thọ giới biệt giải thoát.

2. Do được luật nghi tĩnh lự.

3. Do sinh hai hình.

4. Do mất chúng đồng phần.

Nhưng tất cả sắc lược có bốn thứ:

1. Dị thục.

2. Nuôi lớn.

3. Đẳng lưu.

4. Sát-na.

Nhãn xứ trong đây chỉ có hai thứ:

1. Dị thục.

2. Nuôi lớn. Không có đẳng lưu riêng, vì lìa hai thứ trước, không có tánh đẳng lưu riêng ba. Xứ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, nên biết cũng vậy. Xứ của sắc chỉ có thứ: dị thục, nuôi lớn và đẳng lưu. Xứ hương, vị, xúc, nên biết cũng vậy.

Thanh xứ chỉ có hai thứ: Tức ở ba thứ trước, trừ dị thục. Sắc thuộc pháp xứ chỉ có hai thứ: Tâm vô lậu đầu tiên đi chung thuộc về sát-na. Những thứ khác thuộc về đẳng lưu.

-------------------------

Phẩm 2: PHÂN BIỆT TÂM

Hỏi: Đã biết sự mê lầm lừa dối của sắc tướng, người ngu không thể nắm bắt, tiếp xúc được, cũng như chùm bọt nước, muốn được nghe tâm pháp thì tướng ấy thế nào?

Đáp: Tâm, ý, thức, không nên nói là tâm đó là câu hỏi.

Hỏi: Tâm, ý, thức, có gì khác nhau không?

Đáp: Tâm, ý, thức này không khác gì nhau, như việc thế gian.

Một nói là nhiều, nhiều nói là một.

Một nói là nhiều. Như nói: Sĩ phu là người, Nho đồng, v.v...

Nhiều nói là một. Như nói: Con chim, hạt đậu, v.v... đồng gọi là tái sinh, nên biết trong đây cùng dựa vào một việc mà nói. Tâm, ý, thức cũng giống như vậy.

Lại có thuyết nói: Cũng có khác nhau: Quá khứ gọi là ý, vị lai gọi là tâm, hiện tại gọi là thức.

Lại nữa, giới đặt ra tâm, xứ đặt là ý, Uẩn đặt ra thức.

Có thuyết nói: Dựa vào hành nghiệp xa, nói là tâm. Dựa vào hành nghiệp trước, nói là ý. Dựa vào nghiệp nối tiếp sinh gọi là thức.

Lại nữa, do nghĩa gom góp lại là tâm, do nghĩa dựa vào đường, cõi gọi là ý, do nghĩa phân biệt, gọi là thức, việc này thế nào? Nghĩa là sáu thức thân

Hỏi: Tại sao chỉ có sáu mà không bớt, không thêm?

Đáp: Vì là chỗ nương dựa bằng nhau, v.v... Nghĩa là chỗ nương dựa của thức chỉ có sáu thứ. Nếu bớt thức đến năm thì sẽ có một chỗ nương dựa không có thức. Nếu thêm thức đến bảy là sẽ có một thức không có chỗ nương dựa, v.v... Sáu đối tượng duyên nên biết cũng vậy. Nhưng nói thức khác là chỉ y cứ vào chỗ dựa của thức là thân. Nghĩa là một thức có nhiều, không phải một nhãn thức gọi là nhãn thức thân, cần phải có nhiều nhãn thức, gọi là nhãn thức thân. Như không phải một con voi mà có thể gọi là thân voi, cần phải có nhiều voi mới gọi là thân voi, thức này cũng như vậy.

Thế nào là nhãn thức? Nghĩa là dựa vào nhãn căn, làm sáng tỏ chỗ dựa của nhãn thức. Đều liễu biệt sắc, nghĩa là làm sáng tỏ đối tượng duyên của nhãn thức. Lại nữa, nói nương nhãn căn, là nói nhân của nhãn thức. Sắc là nói duyên của nhãn thức. Như Đức Thế Tôn nói: Bí-sô nên biết, nhân mắt duyên sắc, nhãn thức mới được sinh.

Hỏi: Nhãn và nhãn thức là những nhân nào?

Đáp: Nhãn và nhãn thức này là những nhân gì? Đáp: Đây là y nhân, ví như đại chủng và sắc được tạo là nghĩa y nhân.

Đều liễu biệt: Nghĩa là nói tướng của nhãn thức, vì thức lấy sự phân biệt rõ làm tướng. Ý trong đây nói, dựa vào mắt duyên sắc, có tướng liễu biệt gọi là nhãn thức. Nói rộng, cho đến dựa vào ý, duyên nơi pháp có tướng liễu biệt gọi là ý thức.

Hỏi: Vì sao không chỉ nói là dựa vào nhãn căn, v.v... hoặc không chỉ nói đều liễu biệt sắc, v.v...?

Đáp: Vì nói biết cứ một nghĩa nào cũng không thành, nghĩa là nếu chỉ nói dựa vào nhãn căn, v.v... thì các pháp như thọ, v.v… được tương ứng với nhãn thức kia cũng dựa vào nhãn căn, v.v... lẽ ra gọi là thức như nhãn, v.v... Nếu lại chỉ có đều liễu biệt sắc, v.v... đã có ý thức cũng liễu biệt sắc, v.v... thì ý thức cũng nên gọi là thức như nhãn, v.v... Tuy nhiên, trong đây nói dựa vào nhãn căn, v.v... là nhằm ngăn ngừa ý thức có thể liễu biệt sắc, v.v...

Lại nói đều có khả năng liễu biệt sắc, v.v... là để ngăn ngừa thọ, v.v... tương ưng với thức như nhãn, v.v...

Hỏi: Nhãn, sắc làm rõ tác ý làm duyên sinh nhãn thức, vì sao chỉ nói nhãn thức, không phải thức khác?

Đáp: Vì nhãn căn tốt đẹp hơn, như sách Vũ nhiễm, vì mắt không chung. Như mầm giống nào đó, là chỗ nương dựa của mắt, như tiếng trống, v.v... Vì mắt rất gần gũi, như nói giác chi. Nhãn thức, nhĩ thức, thân thức, đều có bốn thứ: thiện, bất thiện, hữu phú vô ký, vô phú vô ký.

Bất thiện: Chỉ có ở cõi Dục. Hữu phú vô ký, chỉ ở cõi Phạm thế, thiện, vô phú vô ký chung cho Phạm thế, cõi Dục, không có ở địa trên, vì có tầm, tứ.

Hai thức tỷ, thiệt đều có ba thứ, trừ hữu phú vô ký, chỉ ở cõi Dục, vì duyên theo đoàn thực. Ý thức có bốn thứ chung cả ba cõi, không lệ thuộc.

Hỏi: Nếu sơ tĩnh lự trở lên, các địa không có ba thức thân, thì lúc sinh lên cõi đó, làm sao có được sự thấy, nghe, và xúc?

Đáp: Vì do sức tu, nên ba thức của địa sơ tĩnh lự hiện ở trước, khiến ba căn của thức có được sự thấy, nghe, xúc.

Dựa vào nghĩa như vậy, nên có người hỏi: Từng có thân của địa khác, mắt của địa khác, sắc của địa khác và nhãn thức của địa khác có sinh thức chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là người sinh địa tĩnh lự thứ hai, vận dụng mắt của địa tĩnh lự thứ tư để thấy sắc của tĩnh lự thứ ba. Thân của địa tĩnh lự thứ hai kia, với mắt của địa tĩnh lự thứ tư để thấy sắc của địa tĩnh lự thứ ba. Nhãn thức của địa Sơ tĩnh lự sinh thức, trong tĩnh lự thứ hai này.

Năm thức thân đều có hai thứ:

1. Dị thục.

2. Đẳng lưu.

Thân ý thức có ba thứ:

1. Dị thục.

2. Đẳng lưu.

3. Sát-na.

Trong sát-na này, ý thức tương ưng với khổ pháp trí nhẫn.

Hỏi: Từng có một nhân, đạo hiện ở trước, đã xả tâm trong một sát-na. Hoặc có nhân đồng loại này, tự tính không phải có nhân đồng loại. Hoặc có khi nào có nhân đồng loại, không phải là tự tánh của nhân đồng loại, hoặc có bao giờ là tự tánh của nhân đồng loại, cũng có nhân đồng loại. Hoặc có trường hợp không phải tự tánh của nhân đồng loại, cũng không phải nhân đồng loại?

Đáp: Lúc đạo loại trí nhẫn nên chia làm bốn trường hợp:

1. Khổ, pháp, trí, nhẫn đã sinh tương ưng với tâm.

2. Nghĩa là tâm tương ưng với kiến đạo ở vị lai.

3. Nghĩa là trừ tâm tương ưng với khổ pháp trí nhẫn đã sinh, các tâm tương ưng với kiến đạo đã sinh.

4. Trừ các thuyết trước.

Hỏi: Từng có một nhân, đạo hiện ở trước, đã xả tâm trong một khoảng sát-na. Hoặc có khi hữu lậu này duyên hữu lậu. Hoặc có khi hữu lậu này duyên vô lậu. Hoặc có khi vô lậu này duyên vô lậu. Hoặc có khi vô lậu này duyên hữu lậu chăng?

Đáp: Có, lúc đạo loại trí nhẫn sinh nên chia làm bốn trường hợp:

1. Tâm tương ưng với tùy miên duyên hữu lậu do kiến đạo dứt trừ thuộc cõi Sắc, Vô Sắc.

2. Tâm tương ưng với tùy miên duyên vô lậu do kiến đạo dứt trừ thuộc cõi Sắc, Vô Sắc.

3. Tâm tương ưng diệt đạo nhẫn trí.

4. Tâm tương ưng với khổ tập nhẫn trí.

Hỏi: Từng có vô sự phiền não, đạo đối trị được hiện ra ở trước, đã xả tâm trong một khoảng sátna. Hoặc có khi duyên vô lậu, chẳng phải duyên với duyên vô lậu. Hoặc có khi duyên với duyên vô lậu không phải là duyên vô lậu. Hoặc có khi duyên vô lậu cũng không duyên với duyên vô lậu. Hoặc có khi không phải duyên vô lậu, cũng không phải duyên với duyên vô lậu?

Đáp: Bốn trường hợp như vậy dựa theo nghĩa nên suy nghĩ.

Hỏi: Từng có tâm đã diệt của tâm sát-na hiện ở trước, hoặc có khi không phải định, không phải định duyên, hoặc có khi không phải định là định duyên, hoặc có khi là định là định duyên, hoặc có khi là định không phải định duyên.

Đáp: Bốn trường hợp như vậy y theo nghĩa nên suy nghĩ.

Hỏi: Từng có tâm đã diệt của tâm sát-na hiện ở trước, hoặc có tâm đã sinh, không phải là đã sinh làm nhân. Hoặc có tâm đã sinh làm nhân không phải đã sinh, hoặc có tâm đã sinh, cũng đã sinh là nhân. Hoặc có khi không phải đã sinh, cũng không phải tâm đã sinh làm nhân.

Đáp: Bốn trường hợp như vậy y theo nghĩa nên suy nghĩ.

---------------------

Phẩm 3: PHÂN BIỆT TÂM SỞ PHÁP

Hỏi: Đã biết hành tướng lưu chuyển không phải một chỗ dựa, một một đối tượng duyên giống như huyễn hóa, thật khó điều phục như voi, ngựa dữ, do có tâm tham, v.v... khác nhau.

Hôm nay tôi muốn được nghe nói đến tướng của pháp tâm sở làm sao biết được có tâm sở riêng? Đáp: Tất cả thọ, v.v... gọi là pháp tâm sở. Vì kinh là lượng, nên biết có tự thể riêng. Như Thế Tôn nói: Do hai duyên là nhãn, sắc nên sinh ra nhãn thức, vì ba sự hòa hợp nên xúc và xúc cùng khởi, có thọ, tưởng, tư, cho đến nói rộng.

Trong kinh Tát-tha-phiệt-để nói: Lại có suy nghĩ: Các pháp tâm sở dựa vào tâm mà khởi, lệ thuộc theo tâm. Lại nữa, Xá-lợi-tử hỏi Câu-chi-la: Vì sao tưởng, tư mà gọi là ý hành?

Câu-chi-la nói: Hai pháp tâm sở này đều dựa vào tâm khởi, thuộc về tâm, cho đến nói rộng.

Do vô lượng khế kinh đều nói như vậy, nên biết pháp tâm sở nhất định có tự thể riêng.

Lại nữa, nếu pháp tâm sở không có tự thể riêng thì Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na, thức căn thiện, trụ các thực niệm, trụ các uẩn, sáu giác chi, đạo chi, các pháp kiết học, các chi hữu mà Khế kinh nói nên giảm. Vả lại, không nên kiến lập pháp địa đại, v.v... Nhưng kinh đã nói: Pháp môn không giảm, pháp của địa đại, v.v... thật sự có thể kiến lập, nên biết có các pháp tâm sở riêng.

Hỏi: Dựa vào đâu mà biết được tâm sở tương ưng với tâm?

Đáp: Vì dùng kinh để xác định. Như Đức Thế Tôn nói: Kiến là căn tín, tương ưng với chứng trí, nên biết tâm sở có nghĩa tương ưng.

Hỏi: Tương ưng là nghĩa gì?

Đáp: Các Đại Luận sư của A-tỳ-đạt-ma đều nói rằng: Nói tương ưng có nghĩa là bình đẳng.

Hỏi: Có phần vị của tâm sinh khởi pháp tâm sở nhiều, lúc có tâm sinh phát, tâm sở ít, làm sao lại nói bình đẳng là nghĩa tương ưng?

Đáp: Vì dựa vào thể bình đẳng, nên nói như vậy. Nếu có hai thọ, một tưởng trong một tâm thì không phải nghĩa bình đẳng mà là nghĩa tương ưng. Nhưng trong một tâm có một thọ, một tưởng, tư v.v... cũng vậy, nên nói bình đẳng là nghĩa tương ưng.

Lại nữa, bình đẳng không trái nhau là nghĩa tương ưng, bình đẳng không ly tán là nghĩa tương ưng, bình đẳng vận chuyển là nghĩa tương ưng, như các bộ phận của xe, nên gọi là tương ưng.

Lại nữa, đồng một thời phần, đồng một chỗ dựa, đồng một hành tướng, đồng một đối tượng duyên, đồng một quả, đồng một đẳng lưu, và một đồng vị thục, là nghĩa tương ưng.

Việc này lại thế nào? Nghĩa là thọ, tưởng, tư cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao trước nói thọ, không nói tưởng trước, v.v…?

Đáp: Vì hành tướng thô. Dù thọ không trở ngại, không trụ ở nơi chốn mà hành tương thô như sắc đặt bày ra, nên thế gian nói: Hôm nay tôi đau tay, đau chân, nhức đầu, cho đến nói rộng. Tưởng, tư, xúc, v.v... thì không có việc như vậy.

Thọ là thế nào? Nghĩa là tánh lãnh nạp. Có dụng lãnh nạp, gọi là tánh lãnh nạp, tức là nghĩa lãnh thọ cảnh của đối tượng duyên.

Thọ này có ba thứ: là lạc thọ, khổ thọ và bất khổ bất lạc thọ. Nếu hay nuôi lớn đại chủng của các căn với tánh bình đẳng thọ nhận gọi là lạc thọ. Nếu có thể gây tổn giảm đại chủng của các căn với tánh chẳng bình đẳng thọ nhận, v.v... gọi là khổ thọ. Với cả hai đều trái nhau, tánh không phải bình đẳng, chẳng phải không bình đẳng, gọi là bất khổ bất lạc thọ.

Lại nữa, nếu thọ này làm sinh ra hai duyên nơi tham tùy miên tùy tăng. Nghĩa là vì đối tượng duyên hoặc là tương ưng, đây gọi là lạc thọ. Nếu ở thọ này, khiến hai duyên ở sân tùy miên tùy tăng, nghĩa là vì đối tượng duyên, hoặc vì tương ưng, gọi là khổ thọ. Nếu đối với thọ này khiến hai duyên nơi si tùy miên tùy tăng, nghĩa là vì đối tượng duyên hoặc vì tương ưng, gọi là bất khổ bất lạc thọ. Tuy tùy miên si, đối với tất cả thọ tùy tăng hai duyên, nhưng chúng không cùng sinh tự dựa mà khởi tự lực mà chuyển, thường đi chung với bất khổ bất lạc thọ. Vì các pháp khác rõ ràng nên không nói về điều này.

Do vừa ý không vừa ý, cảnh thuận hoặc xả, có khác nhau, mà lập ra ba tánh lãnh nạp như vậy. Cho nên chỉ có ba thứ thọ mà thật sự thì tính chất thọ có vô lượng thứ. Ngoài ra là dục khiến không có lạc thọ chân thật và bất khổ bất lạc thọ.

Hỏi: Do duyên nào nói không có lạc thọ thân thật?

Đáp: Vì lấy kinh để xác định. Nghĩa là Khế kinh nói các thọ đều là khổ Lại Khế kinh nói: Ông nên dùng khổ để quán sát lạc thọ. Nếu tánh của lạc thọ là thật có thì tại sao Thế Tôn lại dạy các đệ tử quán vui là khổ?

Lại, Khế kinh nói: Vì đối với khổ mà cho là vui, gọi là điên đảo. Nếu có lạc thọ chân thật thì lẽ ra không có khổ. Nghĩa là vui là tưởng đảo, tâm đảo, kiến đảo.

Lại, Khế kinh nói: Vì các thọ hữu lậu thuộc về khổ đế.

Thuộc về trong đấy là thuộc về tự tánh, không phải lạc thọ chân thật, là tự tánh của khổ. Làm sao có thể nói thuộc về khổ đế? Vì đã nói là thuộc khổ đế nên không có lạc thọ chân thật.

Lại, vì khác nhau, nghĩa là tướng ép ngặt gọi là khổ. Không phải lạc thọ chân thật có tướng ép ngặt, tức có thể nói các thọ hữu lậu đều thuộc về khổ đế. Lại, vì hiện quán: Nghĩa là quán tất cả hữu lậu đều khổ, gọi là hiện quán. Nếu tính chất của lạc thọ là thật có thì việc quán vui là khổ sẽ trở thành kiến điên đảo, kiến lẽ ra chẳng phải hiện quán. Chính vì vậy, nên biết chắc chắn không có lạc thọ chân thật. Các Luận sư A-tỳ-đạt-ma đều nói: Thật có lạc thọ, vì lấy kinh để xác định. Nghĩa là Khế kinh nói: Phật bảo Đại Danh: Nếu sắc hoàn toàn là khổ, không phải vui, không phải là niềm vui đã theo, thì hữu tình không nên tham đắm các sắc, cho đến nói rộng.

Lại, Khế kinh nói: Điều lạc cùng vui đối với bốn Thánh đế, ta nói là hiện quán.

Lại, Khế kinh nói: Có ba thứ thọ: lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ.

Lại, Khế kinh nói: Lúc lạc thọ sinh, lúc lạc trụ lạc, do vô thường mà có lỗi. Lúc các khổ thọ sinh, lúc khổ trụ, khổ do vô thường nên có lỗi.

Nếu tánh của lạc thọ không thật có thì lẽ ra không nói khổ là một loại lẽ ra nói lạc thọ là một loại khác. Lý ưng đối với khổ thọ là một loại khác. Lại, nếu lạc thọ không thực có tánh, thì lẽ ra không có khinh an, vì vô nhân, như khế kinh nói: Vì có hỷ nên thân tâm khinh an. Nếu không có khinh an, thì lẽ ra cũng không có lạc. Lần lượt cho đến, nếu không có Niết-bàn thì sẽ không có thứ lớp nhân quả, vì lần lượt vì không phải có, các sư kia tra cứu về nghĩa này, nói: Như trong địa trên dù không có hỷ mà chẳng phải không có thân tâm khinh an, nên họ dẫn chứng: Không phải là quyết định.

Sự tra cứu của các sư đó là phi lý. Vì sao? Vì trong địa trên đều không có hỷ. Ta nên quán nghĩa này như kiền-đạt-phược do ba sự hòa hợp: Thức ăn, danh sắc, thức. Như Khế kinh nói: Cha mẹ giao hội có kiền-đạt-phược đang hiện ở trước. Mà lúc thấy hữu không có sự giao hội của cha mẹ, kiềnđạt-phược cũng hiện ở trước mặt. Như thọ thấp sinh và hóa sinh, không thọ hai thứ thai sinh, noãn sinh. Loài hữu tình rời ngoài sự giao hợp của cha mẹ, vẫn có nghĩa vào thai.

Lại như khế kinh nói: Ba sự hòa hợp đó là tuổi thọ, hơi ấm và thức. Nhưng cõi Vô Sắc dù không có hơi ấm mà có tuổi thọ và thức, không phải thân cõi Dục, cõi Sắc, vì tuổi thọ, thức lìa hơi ấm.

Lại như khế kinh nói: Thân nương vào thức ăn mà trụ, không phải trụ của hai cõi trên, do ba thứ ăn nơi cõi Dục cũng vậy, không phải trụ trong cõi Dục, do bốn thứ ăn cõi trên cũng vậy.

Lại như kinh nói: Danh sắc duyên thức, thức duyên danh sắc, không phải cõi Vô Sắc. Dù không có sắc mà danh và thức lần lượt duyên nhau, khiến trong cõi Dục, cõi Sắc cũng có nghĩa này. Trong đây cũng vậy, nếu có hỷ xứ, vì có hỷ nên có được khinh an. Nếu ở xứ có hỷ không có khinh an, cũng có khi do duyên khác, không nên tránh nạn.

Duyên khác là sao? Nghĩa là trước hết, cõi Dục có hỷ thọ vượt hơn dẫn đến khiến cho, định Vị chí khinh an sinh khởi. Tĩnh lự thứ hai có hỷ thọ vượt hơn, dẫn đến khinh an trong địa trên, khiến cho sinh khởi.

Nếu khiến không có hỷ thì không có khinh an, do đó chứng biết chắc chắn có lạc thọ.

Lại như Sơ quả ở hai cõi trên, dù không thể được, mà người kia có thể được quả A-la-hán, do sức trước dẫn dắt, ở đây lẽ ra cũng như vậy, không nên trách cứ.

Lại như dùng cây, gậy, trước quay bánh xe, sau đó, lúc quăng gậy đi, bánh xe nọ vẫn còn quay. Thọ này lẽ ra cũng như vậy. Do sức của hỷ trước dẫn đến cảm giác khinh an về sau. Thế nên, sự khinh an nhất định là do có hỷ, hỷ chính là hỷ thọ thuộc về lạc thọ, cho nên, nhất định biết thật có lạc thọ.

Lại, do lạc thọ, vì có hy vọng. Như khế kinh nói: Nếu người có niềm vui là đối với pháp có hy vọng. Nếu không có lạc thọ, thì lẽ ra đối với pháp không có hy vọng. Thế nên, biết chắc chắn thật có lạc thọ.

Lại vì nghiệp đáng yêu, lẽ ra không có quả. Nếu không có lạc thọ, thì các nghiệp đáng yêu lẽ ra là không, chẳng có quả. Vì các nghiệp đáng yêu nhất định do lạc thọ, là quả của nghiệp đó. Cũng không nên nói các nghiệp đáng yêu đều lấy lạc cụ để làm quả dị thục, vì lạc cụ chỉ là quả tăng thượng. Nghĩa là lạc thọ chính là quả tăng thượng, không phải quả dị thục. Vì sao? Vì tất cả nhạc cụ thọ dụng chung với người khác, vì sau khi mình chết rồi, chúng không hư mất. Nghĩa là mọi nhạc cụ đều có thể cùng thọ dụng chung với hữu tình khác, còn các quả dị thục thì nhất định không có nghĩa thọ dụng chung với người khác được.

Vì như thế sẽ rơi vào sự tự nối tiếp, vì không chung với người khác.

Lại nữa, các nhạc cụ từ khi chết rồi, như voi, ngựa, v.v... hãy còn không hư mất, các quả dị thục đều có với thân mạng. Nếu thân mạng đã không thì quả dị thục kia nhất định sẽ hư hoại mất. Cho nên, nếu nghiệp đáng yêu không có thì lạc thọ sẽ không có quả. Đó là lẽ quyết định.

Lại, vì bao gồm lợi ích, nên không có lạc thọ, thì đại chủng các căn lẽ ra không bao gồm lợi ích. Nếu cho, việc bao gồm lợi ích là do giới mà hữu tình phân biệt cảnh giới, chứ không phải do lạc thọ, thì lý này cũng không đúng. Nên biết là thuộc về lợi ích, như do khổ thọ, vì có tổn hại. Lại chính gia hạnh, phải có quả. Nếu không có lạc thọ, thì chánh gia hạnh lẽ ra không có quả. Chánh gia hạnh, nghĩa là lấy khổ thọ làm quả dị thục. Vì không có lạc thọ, như tà, như hành, tất nhiên lấy khổ thọ làm quả dị thục. Chánh gia hạnh lẽ ra dùng lạc thọ làm quả dị thục, lại vì trái nhau, như sáng và tối, ảnh và ánh sáng, v.v... Lại, do lạc thọ khởi hành vi ác. Nếu không có lạc thọ thì hành vi ác lẽ ra không có. Vì các hữu tình đều tham đắm lạc thọ, nên khởi hành vi ác sẽ cảm thọ quả khổ. Nếu hành vi ác không có, thì sẽ không có thọ khổ. Khổ thọ đã có thì hành vi ác chẳng phải không có. Đã có hành vi ác rồi, nhất định sẽ có lạc thọ.

Lại, vì pháp thọ, như Khế kinh nói: Có bốn pháp thọ: hoặc có pháp thọ hiện tại vui về sau khổ. Hoặc có pháp thọ hiện tại khổ, về sau vui. Hoặc có pháp thọ hiện vui, sau vui, hoặc có pháp thọ hiện khổ về sau, khổ nếu không có lạc thọ, thì pháp thọ lẽ ra có một, không nên có bốn. Do các nhân duyên như vậy, nên nhất định có lạc thọ.

Hỏi: Nếu có lạc thọ thì lời Đức Thế Tôn nói trái với lạc thọ, vậy, kinh có lý sâu xa gì?

Đáp: Vì có lý thú riêng. Vả lại kinh đầu nói: Tất cả các thọ đều là khổ. Nên biết, kinh ấy nói là dựa vào ba khổ. Ba khổ là:

1. Khổ khổ.

2. Khổ hoại.

3. Khổ hành.

Như các khổ thọ thì do khổ khổ, nên gọi là khổ. Nếu lạc thọ do nhiều hoại khổ mà khổ, nên nói là khổ. Như Khế kinh nói: Vì vô thường nên khổ, cho nên biết kinh kia có lý thú này.

SỐ 1556 - LUẬN TÁT BÀ ĐA TÔNG NGŨ SỰ

Hán dịch: Đại Đức Tam Tạng Pháp Sư Sa-môn Pháp Thành nước Đại Thiên.

Pháp có năm thứ:

1. Sắc pháp.

2. Tâm pháp.

3. Pháp sở hữu của tâm.

4. Pháp bất tương ưng hành của tâm.

5. Pháp vô vi.

Thế nào là sắc pháp? Nghĩa là tất cả thứ đó đều từ bốn đại chủng, tức do bốn đại tạo tác sinh ra các sắc.

Bốn đại là gì? Đó là: giới đất, giới nước, giới lửa và giới gió.

Sao gọi là sắc tạo? Nghĩa là các căn nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân. Các sắc là âm thanh, mùi hương, các vị và một phần xúc, gồm vô biểu sắc. Thế nào là tâm pháp? Là tâm, ý, thức. Tâm pháp đó là thế nào? Nghĩa là thân sáu thức: nhãn thức, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức.

Sao gọi là pháp sở của tâm? Nghĩa là các pháp tương ưng với tâm, các pháp ấy là gì? Là thọ, tưởng, tư, xúc, tác ý, dục, thắng giải, tín, tinh tiến, niệm, định, tuệ, tầm, từ, buông lung, không buông lung, căn thiện, căn bất thiện, căn vô ký, các kiết phược hẹp, rộng, các tùy phiền não, triền nhiễu, an trụ, biết, thấy, tất cả hiện quán. Lại có pháp khác, những loại như vậy tương ưng với tâm, gọi là pháp sở hữu của tâm.

Sao gọi là hành pháp bất tương ưng của tâm? Nghĩa là có các pháp không tương ưng với tâm. Đó là: Đắc, đẳng chí vô tướng, đẳng chí diệt tận, vô tướng sở hữu, mạng căn, chúng đồng phần, đắc xứ sở, đắc sự, đắc xứ, sinh, già, trụ, tánh vô thường, danh thân, cú thân, và văn thân.

Lại có pháp khác không tương ưng với tâm, các loại như vậy, gọi là hành pháp bất tương ưng của tâm.

Sao gọi là pháp vô vi? Đó là ba thứ vô vi: hư không, phi trạch diệt và trạch diệt, đó gọi là pháp vô vi.

Thế nào là giới đất? Là tánh cứng chắc.

Thế nào là giới nước? Là tánh thấm nhuần.

Thế nào là giới lửa? Là tính chất nóng, ấm.

Thế nào là giới gió? Là tính chất nhẹ lay.

Thế nào là nhãn căn? Nghĩa là nhãn thức dựa vào sắc thanh tịnh.

Thế nào là nhĩ căn? Là nhĩ thức dựa vào sắc thanh tịnh.

Thế nào là tỷ căn? Nghĩa là tỷ thức nương sắc thanh tịnh.

Thế nào là thiệt căn? Nghĩa là tỷ thức dựa vào sắc thanh tịnh.

Thế nào là thân căn? Nghĩa là thân thức dựa vào sắc thanh tịnh.

Thế nào là các sắc? Nghĩa là các sắc đẹp, sắc không đẹp, các sắc ở giữa hai sắc đó và hiển sắc, v.v...

Một thức đầu tiên là nhãn thức đã biết, nhãn thức đã tiếp nhận, ý thức có thể biết, cho nên, các sắc do hai thức: Nhãn thức, ý thức biết rõ.

Thế nào là các âm thanh? Âm thanh có hai thứ: Chấp thọ nhân đại chủng sinh ra và không phải chấp thọ nhân đại chủng sinh ra.

Một thức đầu tiên là nhĩ thức đã biết, nhĩ thức đã tiếp nhận, ý thức có thể biết, cho nên, các âm thanh do hai thức: Nhĩ thức, ý thức biết rõ.

Thế nào là các mùi hương? Đó là mùi hương tốt, mùi hương xấu, mùi hương không tốt không xấu.

Một thức đầu tiên là tỷ thức đã biết, tỷ thức thọ nhận, ý thức có thể biết, cho nên, các mùi hương do hai thức: tỷ thức, ý thức biết rõ.

Thế nào là các vị? Đó là vị nếm vừa ý, không vừa ý và bình thường.

Một thức đầu tiên là thiệt thức đã biết, thiệt thức thọ nhận, ý thức có thể biết. Cho nên, các vị do hai thức: Thiệt thức, ý thức biết rõ.

Thế nào là một phần của xúc? Là tính chất trơn, nhám, nhẹ, nặng, lạnh, đói, khát, v.v...

Một thức đầu tiên là thân thức đã biết, thân thức đã tiếp nhận, ý thức có thể biết, cho nên, một phần của mọi sự tiếp xúc do hai thức: thân thức, ý thức đều biết rõ.

Những gì gọi là các sắc vô biểu? Nghĩa là thuộc về pháp xứ sắc.

Trong bất cứ lúc nào, chỉ có một ý thức đã biết rõ.

Thế nào là nhãn thức? Dựa vào nhãn căn, phân biệt riêng về sắc.

Thế nào là nhĩ thức? Dựa vào nhĩ căn, phân biệt riêng về tiếng.

Thế nào là tỷ thức? Dựa vào tỷ căn, phân biệt riêng về mùi.

Thế nào là thiệt thức? Dựa vào thiệt căn, phân biệt riêng về vị.

Thế nào là thân thức? Dựa vào thân căn, phân biệt riêng về xúc.

Thế nào là ý thức? Dựa vào ý căn, phân biệt riêng về pháp.

Thế nào là thọ? Nghĩa là tánh nhận lãnh. Thọ này có ba thứ: khổ, vui, không khổ không vui.

Thế nào là tưởng? Nghĩa là tánh biết khắp, tánh này có ba thứ: nhỏ, lớn, vô lượng.

Thế nào là tư? Nghĩa là tâm tạo hành động, nghiệp do ý đã gây tạo, nghiệp này có ba thứ: thiện, bất thiện và vô ký.

Thế nào là xúc? Nghĩa là ba sự hòa hợp. Sự này gồm có ba thứ: Thọ lạc, thọ khổ, thọ bất khổ bất lạc.

Thế nào là tác ý? Nghĩa là tâm sở chuyển biến, tâm sở này có ba thứ: học, vô học, phi học phi vô học.

Thế nào là dục? Nghĩa là tánh ưa tạo tác.

Thế nào là thắng giải? Nghĩa là tâm sở ưa vui, tánh ưa làm.

Thế nào là tín? Nghĩa là tâm rất thanh tịnh.

Thế nào là tinh tiến? Nghĩa là tâm ưa vui.

Thế nào là niệm? Tánh ghi nhớ rõ của tâm.

Thế nào là định? Tánh một cảnh của tâm.

Thế nào là tuệ? Liêm khiết lựa chọn pháp.

Thế nào là tầm? Tâm tra xứ là tánh.

Thế nào là tứ? Tâm tế nhị là tánh.

Thế nào là buông lung? Không tu các điều thiện. Thế nào là không buông lung? Tu các điều thiện.

Các căn thiện: Có ba căn thiện: Căn thiện không tham, căn thiện không sân, căn thiện không si.

Căn bất thiện: Có ba căn bất thiện: căn bất thiện tham, căn bất thiện sân, căn bất thiện si.

Căn vô ký: Có bốn căn vô ký: Vô ký ái, vô ký kiến, vô ký mạn, vô ký vô minh.

Thế nào là vô ký ái? Nghĩa là năm thứ sở tạo cõi Sắc, Vô Sắc.

Thế nào là vô ký kiến? Nghĩa là thân kiến và biên kiến hoạt động trong cõi Dục. Năm kiến đã hoạt động trong sắc, Vô Sắc.

Thế nào là vô ký mạn? Nghĩa là năm thứ hoạt động ở cõi Sắc, Vô Sắc.

Thế nào là vô ký vô minh? Nghĩa là thân kiến hoạt động cõi Dục và do vô minh trong tương ưng với biên kiến, năm thứ hoạt động trong cõi Sắc, Vô Sắc.

Nói các kiết: Có chín thứ kiết: Kiết tham, kiết sân, kiết mạn, kiết vô minh, kiết kiến, kiết thắng chấp, kiết nghi, kiết san, kiết tật.

Thế nào là kiết tham? Sự tham trong ba cõi.

Thế nào là kiết sân? Dựa vào tánh giận dữ của các hữu tình làm tánh.

Thế nào là kiết mạn? Là bảy thứ mạn gọi là kiết mạn: Mạn, quá mạn, mạn quá mạn, ngã mạn, tăng thượng mạn, ty mạn, tà mạn.

Thế nào là mạn? Người thua mình mà chấp mình là hơn, người bằng mình chấp mình là bằng, chấp đó làm nhân. Mạn, là giữ tánh kiêu ngạo, tâm, tánh tự đề cao, tâm cố chấp, tâm kiêu mạn, đó gọi là mạn.

Thế nào là quá mạn? Đối với người bằng mình, mà chấp là mình hơn mà hoặc đối với người hơn, chấp là mình bằng, lấy đó làm nhân, giữ tánh khinh thường, tâm kiêu mạn, tâm cố chấp, đây gọi là mạn quá mạn.

Thế nào là ngã mạn? Nghĩa là đối với năm thủ uẩn, quán bất cứ một uẩn nào làm ngã, hoặc cho là thuộc về ta. Lấy đó làm nhân cho sự khinh mạn, ỷ thị, tâm cao cỡ, tâm kiêu mạn, tâm cố chấp, đó gọi là ngã mạn.

Thế nào là tăng thượng mạn? Chưa chứng được quả tốt đẹp trên hết mà cho là mình đã chứng được. Hoặc chưa xúc chứng, cũng chưa hiện tiền, chấp ta đã chứng. Những việc thù thắng ở trên lấy đó làm nhân. Sự khinh mạn, tánh kiêu mạn, tâm tự cao cử, tâm kiêu mạn, tâm cố chấp, đó gọi là tăng thượng mạn.

Thế nào là ty mạn? Nghĩa là đối với nhiều phần tốt đẹp, đặc biệt, chấp cho mình có một phần ít thấp kém đó, lấy đó làm nhân kiêu mạn, khinh miệt, tánh khinh mạn, tâm tự cao cử, tâm kiêu ngạo, tâm cố chấp, đó gọi là ty mạn.

Thế nào là tà mạn? Nghĩa là không có đủ đức mà chấp là mình đã có đủ đức, lấy đó làm nhân, với tánh kiêu mạn, khinh miệt, tâm, tự cao cử, tâm tự cố chấp, đó gọi là tà mạn.

Bảy thứ kiêu mạn trên đây gọi là kiết mạn.

Thế nào là kiết vô minh? Nghĩa là ba cõi vô tri, đó gọi là kiết vô minh.

Thế nào là kiết kiến? Nghĩa là ba thứ kiết gọi là kiết kiến.

Ba thứ đó là:

1. Thân kiến.

2. Biên chấp kiến.

3. Tà kiến.

Thế nào là thân kiến? Nghĩa là đối với năm thủ uẩn, quán bất cứ một uẩn nào là ngã, hoặc cho là của ta, lấy đó làm nhân, nhận vui tuệ quán và các chấp kiến gọi là thân kiến.

Thế nào là biên chấp kiến? Nghĩa là đối với năm thủ uẩn, quán bất cứ một uẩn nào là đoạn, thường, lấy đó làm nhân, nhẫn vui, tuệ quán và các chấp kiến, gọi là biên chấp kiến.

Thế nào là tà kiến? Nghĩa là chê bai nhân quả và tác dụng của nó, hoại hữu rồi lấy đó làm nhân, nhẫn vui, tuệ quán và các chấp kiến, gọi là tà kiến. Ba thứ kiến này gọi là kiết kiến.

Thế nào là kiết thắng chấp? Có hai thứ thắng chấp, gọi là kiết thắng chấp. Đó là:

1. Kiến thắng chấp.

2. Giới cấm thắng chấp.

Thế nào là kiến thắng chấp? Đối với năm thủ uẩn, quán bất cứ một uẩn nào là cao, là hơn hết, lấy đó làm nhân, nhẫn vui, tuệ quán. Các thứ chấp này, gọi là kiến thắng chấp.

Thế nào là giới cấm thắng chấp? Nghĩa là dựa vào năm thủ uẩn, quán bất cứu một uẩn nào là tịnh, là giải thoát, là xuất ly, lấy đó làm nhân, nhẫn vui, tuệ quán. Hai thứ chấp này, gọi là kiết thắng chấp. Thế nào là kiết nghi? Đối với các đế lấy do dự làm tánh. Thế nào là kiết tật? Tâm rối loạn làm tánh.

Thế nào là kiết san? Tâm chấp làm tánh, cho nên nói là các kiết.

Nói ràng buộc: Nghĩa là đã nói các kiết. Kiết đó cũng gọi là sự ràng buộc. Nhưng sự ràng buộc có ba thứ:

1. Tham ràng buộc.

2. Sân ràng buộc.

3. Si ràng buộc.

Nói nhỏ, rộng, nghĩa là bảy thứ nhỏ, rộng, bảy thứ đó là:

1. Tham nhỏ, rộng.

2. Sân nhỏ, rộng.

3. Hữu dục nhỏ, rộng.

4. Mạn nhỏ, rộng.

5. Vô minh nhỏ, rộng.

6. Kiến nhỏ, rộng.

7. Nghi nhỏ, rộng.

Thế nào là tham nhỏ, rộng? Năm thứ nhỏ, rộng gọi là tham nhỏ rộng. Năm thứ đó là: Tất cả tham dục thuộc cõi Dục do kiến khổ dứt trừ. Những tham dục thuộc cõi Dục do kiến tập, diệt, đạo dứt trừ. Năm thứ nhỏ, rộng này gọi là tham nhỏ, rộng.

Thế nào là sân nhỏ, rộng? Sân nhỏ, rộng có năm thứ: Đó là tất cả sân hận do kiến khổ dứt trừ. Tất cả sân hận do kiến tập, diệt, đạo và tu đạo dứt trừ. Năm thứ nhỏ, rộng này gọi là sân nhỏ rộng.

Thế nào là hữu dục nhỏ, rộng? Mười sự nhỏ, rộng này gọi là hữu dục nhỏ, rộng. Người thứ đó là năm thứ thuộc cõi Sắc, năm thứ thuộc cõi Vô Sắc.

Thế nào là hữu tham nhỏ, rộng? Thuộc cõi Sắc có năm thứ. Nghĩa là lệ thuộc cõi Sắc do kiến khổ dứt trừ. Tất cả tham dục và thuộc cõi Sắc, do kiến tập, diệt, đạo và tất cả dục tham do tu đạo dứt trừ. Như năm thứ thuộc cõi Sắc, năm thứ lệ thuộc cõi Vô Sắc cũng giống như vậy. Mười thứ nhỏ, rộng này gọi là nhỏ, rộng của hữu dục.

Thế nào là mạn nhỏ, rộng? Mạn nhỏ, rộng có mười lăm thứ nhỏ rộng gọi là mạn nhỏ rộng. Mười lăm thứ ấy là: Năm thứ thuộc cõi Dục, năm thứ thuộc cõi Sắc và năm thứ thuộc cõi Vô Sắc.

Năm thứ mạn nhỏ, rộng thuộc cõi Dục: Nghĩa là tất cả các mạn cõi Dục, do kiến khổ dứt trừ, tất cả các mạn cõi Dục do kiến tập, diệt, đạo và tu đạo dứt trừ. Các thứ mạn như năm thứ thuộc về cõi Dục, cõi Sắc năm thứ, cõi Vô Sắc năm thứ cũng giống như vậy. Mười lăm thứ nhỏ, rộng này gọi là mạn nhỏ rộng.

Thế nào là vô minh nhỏ, rộng? Mười lăm thứ nhỏ, rộng này là vô minh nhỏ, rộng. Mười lăm thứ ấy là: Cõi Dục có năm thứ, cõi Sắc có năm thứ và cõi Vô Sắc có năm thứ.

Năm thứ vô mạn nhỏ, rộng thuộc về cõi Dục. Nghĩa là tất cả vô minh thuộc về cõi Dục, do kiến khổ dứt trừ. Tất cả vô minh thuộc cõi Dục do kiến tập, diệt, đạo dứt trừ. Cũng như năm thứ thuộc cõi Dục, năm thứ thuộc cõi Sắc và năm thứ thuộc cõi Vô Sắc cũng giống như vậy. Mười lăm thứ nhỏ rộng này gọi là vô minh nhỏ, rộng.

Thế nào là kiến nhỏ, rộng? Có ba mươi sáu thứ nhỏ rộng, gọi là kiến nỏ rộng ba mươi sáu thứ ấy là: Có mười hai thứ thuộc cõi Dục, mười hai thứ thuộc cõi Sắc, và mười hai thứ thuộc cõi Vô Sắc.

Mười hai kiến nhỏ, rộng thuộc cõi Dục: Nghĩa là thân kiến, biên kiến thuộc cõi Dục và tất cả tà kiến, kiến thủ thuộc cõi Dục, do kiến khổ dứt trừ. Và tà kiến, cho đến kiến thủ thuộc cõi Dục do kiến diệt dứt trừ. Tất cả tà kiến cho đến kiến thủ, chấp cấm giới thủ thuộc cõi Dục do kiến đạo dứt trừ. Giống như cõi Dục, mười hai thứ thuộc cõi Dục, mười hai thứ thuộc cõi Sắc và mười hai thứ thuộc cõi Vô Sắc cũng vậy. Ba mươi sáu thứ nhỏ, rộng này gọi là kiến nhỏ, rộng.

Thế nào là nghi nhỏ, rộng? Nghi nhỏ, rộng có mười hai thứ, mười hai thứ ấy là: Cõi Dục có bốn thứ, cõi Sắc có bốn thứ và cõi Vô Sắc cũng có bốn thứ. Thế nào là bốn nghi nhỏ, rộng thuộc cõi Dục? Nghi thuộc cõi Dục do kiến khổ dứt trừ. Các nghi thuộc cõi Dục do kiến tập, diệt, đạo dứt trừ, cũng như thuộc cõi Dục có bốn thứ, cõi Sắc và cõi Vô Sắc mỗi cõi đều có bốn thứ, cũng giống như vậy. Mười hai thứ nhỏ, rộng này gọi là nghi nhỏ, rộng.

Nói các tùy phiền não, nghĩa là tất cả sự nhỏ, rộng, sự nhỏ rộng đó được gọi là các tùy phiền não. Có tùy phiền não này không phải nhỏ, rộng, nghĩa là dứt trừ sự nhỏ, rộng ấy, tâm khác sinh ra hành uẩn nhiễm ô.

Thế nào là ràng buộc ở yên? Có tám thứ ràng buộc ở yên, tám thứ ấy là:

1. Hôn trầm.

2. Thùy miên.

3. Trạo cử.

4. Ác tác.

5. Ganh ghét.

5. San (keo kiệt).

6. Vô tàm (không hổ).

7. Vô quý (không thẹn).

Thế nên gọi là ràng buộc ở yên.

Nói nhận biết, nghĩa là mười thứ trí:

1. Pháp trí.

2. Trí tùy loại.

3. Trí tha tâm.

4. Trí thế tục.

5. Khổ trí.

6. Tập trí.

7. Diệt trí.

8. Đạo trí.

9. Tận trí.

10. Trí vô sinh.

Thế nào là pháp trí? Nghĩa là trí vô lậu biết rõ các hành của cõi Dục, các trí vô lậu của nhân hành cõi Dục, các trí vô lậu của hành diệt thuộc cõi Dục, các trí vô lậu trong đoạn đạo thuộc cõi Dục.

Lại nữa, pháp trí, các trí vô lậu trong địa pháp trí, đây gọi là pháp trí.

Thế nào là trí tùy loại? Các trí vô lậu trong các hành thuộc cõi Sắc Vô Sắc. Các trí vô lậu trong các hạng mục thuộc cõi Sắc, Vô sắc. Các trí vô lậu trong hành diệt thuộc cõi Sắc, Vô sắc. Các trí vô lậu trong đoạn đạo thuộc cõi Sắc, Vô sắc.

Lại nữa, tùy thuận trí đã biết rõ, tùy thuận các trí vô lậu hiểu rõ trong địa. Những pháp này gọi là tùy loại trí.

Thế nào là trí tha tâm? Từ tu sinh trí, quả của pháp đã tu, dựa vào pháp đã tu, đã được không thối lui. Do trí tuệ của người đó, biết rõ sự ham muốn đã làm và sắc đã làm, giống như tâm, tâm pháp của người khác, chứng được một phần pháp vô lậu hiện tiền. Các pháp này được gọi là trí tha tâm biết rõ.

Thế nào là trí thế tục? Là trí hữu lậu, đó là trí thế tục.

Thế nào là khổ trí? Nhận biết rõ tính chất vô thường, tánh khổ, tánh không, tánh vô ngã ở năm thủ uẩn. Sự tác ý đã phát sinh trí vô lậu, đây gọi là khổ trí.

Thế nào là Tập trí? Ở nhân hữu lậu mà sinh khởi, nhân tập sinh duyên, tác ý trí vô lậu, đây gọi là tập trí.

Thế nào là diệt trí? Sinh, diệt trong diệt. Tác ý trí vô lậu, tịnh diệu, xuất ly. Trí vô lậu này gọi là diệt trí.

Thế nào là Đạo trí? Khởi đạo ở trong đạo, như hành nẩy sinh ra tác ý trí vô lậu, đây gọi là Đạo trí. Thế nào là Tận trí? Nghĩa là tự biết khổ khắp, tự biết dứt tập, tự biết chứng diệt, tự biết tu đạo, lấy đó làm nhân, tri kiến, giác tuệ, biết rõ phân minh, chứng đắc hiện tiền, đó gọi là Tận trí.

Thế nào là trí vô sinh? Nghĩa là tự biết rõ khắp các khổ. Lại, trí không thể biết, vì tự dứt trừ tập, lại không là trí không thể dứt trừ, vì tự chứng diệt. Lại trí không thể chứng, vì tự tu đạo. Lại trí không thể tu, lấy trí đó làm nhân, tri kiến, giác tuệ, biết rõ phân minh, chứng đắc hiện tiền. Đây gọi là trí vô sinh.

Nói kiến: Dù là trí của người đó cũng là kiến của họ, cũng lại có kiến, không phải tức là trí, từ bên hiện quán sinh ra tám thứ nhẫn, đó là biết khổ pháp nhẫn, biết khổ tùy loại nhẫn, biết tập pháp nhẫn, biết tập tùy loại nhẫn, biết diệt pháp nhẫn, biết đạo tùy loại nhẫn, biết đạo pháp nhẫn, biết đạo tùy loại nhẫn cho nên gọi là kiến.

Nói tất cả hiện quán, tức tri kiến kia cũng là hiện quán, cho nên nói là hiện quán.

Thế nào là đắc? Nghĩa là các pháp đã được.

Thế nào là đẳng chí Vô tưởng? Nghĩa là đã lìa tham biến tịnh, chưa lìa tham cõi trên. Do tác lý của tưởng xuất ly là trước lấy tâm pháp diệt làm tánh.

Thế nào là đẳng chí diệt tận? Nghĩa là đã lìa tham của vô sở hữu xứ, do ngừng dứt tác ý của tưởng là trước hết, và tâm lấy tâm pháp diệt làm tánh.

Thế nào là Vô tưởng sở hữu? Nghĩa là hữu tình sinh lên cõi trời Vô tưởng, tâm lấy tâm pháp diệt làm tánh.

Thế nào là mạng căn? Nghĩa là tuổi thọ của ba cõi.

Thế nào là chúng đồng phần? Nghĩa là tự loại của các hữu tình giống nhau.

Thế nào là đắc xứ sở? Nghĩa là được các cảnh.

Thế nào đắc sự? Nghĩa là được các uẩn.

Thế nào là đắc xứ? Nghĩa là được xứ trong, ngoài.

Thế nào là sinh? Nghĩa là thành tựu uẩn.

Thế nào là già? Nghĩa là các uẩn đã chín muồi. Thế nào là trụ? Nghĩa là các hành không hư hoại.

Thế nào là tánh vô thường? Nghĩa là các hành hư hoại.

Thế nào là danh thân? Tức là tăng ngữ kia.

Thế nào là cú thân? Nghĩa là văn đầy đủ.

Thế nào là văn thân? Tức chữ thân kia, gọi là văn thân.

Thế nào là xứ không? Là nhân của sở hành, tức là hư không, chẳng có chướng ngại. Chủng loại của các sắc không thể che khắp, gọi là hư không.

Thế nào là phi trạch diệt? Nghĩa là diệt chẳng lìa.

Thế nào là trạch diệt? Nghĩa là diệt cũng lìa, cho nên nói pháp có năm thứ:

1. Pháp sắc.

2. Pháp tâm.

3. Pháp sở hữu của tâm.

4. Hành pháp bất tương ưng của tâm.

5. Pháp vô vi.

SỐ 1557 - KINH A TỲ ĐÀM NGŨ PHÁP HÀNH

Hán dịch: Tam Tạng An Thế Cao, người nước An Tức, Đời Hậu Hán.

Trí khổ pháp, trí có thể đạt khổ pháp. Trí tập pháp, trí có thể đạt tập pháp. Trí tận pháp, trí có thể đạt tận pháp. Trí đạo pháp, trí có thể đạt đạo pháp. Pháp khổ: Nghĩa là hình thể muôn vật đều phải già suy, chết đi, đó là khổ. Người ngu si cho cơ thể thường còn, nên bảo vệ, gìn giữ. Đây là trí lạc, có thể biết đó là khổ nên không còn hướng về sinh tử, đó là trí khổ pháp.

Pháp có thể đạt tập, nghĩa là tập ham muốn, tập được, tập dâm, tập oán giận, tập ngu si, tập tốt đẹp. Trí có thể đạt như vậy là tập. Từ tập được tận (diệt) là không ham muốn, đây là trí tập pháp.

Pháp có thể tận, nghĩa là người, vật hội hợp sẽ phải tiêu tan, diệt hết. Tức là được cũng không mừng, mất cũng không lo, đây là trí tận pháp.

Pháp có thể được đạo, hành đạo được đạo, làm điều thiện được sinh lên cõi trời, làm việc ác đi vào đường ác.

Người có thể đến được đạo là người biết từ bỏ việc ác, đến với điều thiện, đó là trí đạo pháp.

Trí có thể đạt được, nghĩa là giác có thể nên biết, vốn không biết đó là khổ. Khổ là một ý, biết là khổ, đó là hai ý. Tập là một ý, biết là tập, đó là hai ý. Tận là một ý, biết là tận, đó là hai ý. Đạo là một ý, biết là đạo, đó là hai ý. Tám ý này ở bên ngoài.

Phi thường, khổ, không, phi thân, vốn tập phát sinh, nhân duyên dứt hết, chỉ như ý tiếp nhận quán chỗ đạo cốt yếu.

Tận, khổ, không, phi thân, do đâu mà được tận? Tận từ khổ đến, từ khổ được tận, nhân tận liền được không. Được không là biết thân là phi ngã (vô ngã). Bốn ý này là theo khổ đế.

Những gì là khổ? Tất cả ở trong sự sinh tử đều là khổ, gặp gỡ, ham muốn, cũng không ham muốn. Nghĩa là những điều ham muốn của người cũng không ham muốn, nghĩa là những cái không ham muốn của con người đều là khổ.

Tham từ tập mà ra, tùy theo ý phi thường, mong cầu diệt hết khổ từ tập được.

Những gì là pháp? Nghĩa là nhân duyên tạo ra cái đó, được cái đó, đó là pháp. Sẽ biết, đã biết, vì không vừa ý, phải biết trừ. Đó là khổ đế trong bốn đế.

Tập đế là chứng có đạo. Kiến khổ, biết từ tập khởi ra, kiến tập biết khổ, kiến tập đế, biết chẳng thường.

Những gì là có thể? Nghĩa là vui đạo không quên đạo, thường cầu đạo, vì đạo là có thể.

Những gì là trí tuệ? Thường hỏi đạo là trí tuệ. Đã hỏi xong, còn có thể thọ nhận, có thể thực hành, đó là trí tuệ. Tập cũng vậy, Tận, diệt đạo cũng như vậy, đạo cũng như vậy.

Khổ là pháp của tội, là kiết của hành vi, trí tuệ là ba mươi bảy phẩm kinh, có thể làm người thực hành, vì làm nên đạo trọn vẹn, vì tập như vậy, vì tận như vậy, vì đạo như vậy, đều vì tăng thượng.

Thứ nhất là khổ. Những gì là khổ? Tất cả điều ác không vừa ý là khổ. Đã biết khổ, không ham muốn liền hành đạo, không lìa đạo là có thể đạt được. Khổ sinh có gốc. Khổ là những gì? Gốc từ vạn vật. Vạn vật không có, cũng không tận cùng. Đã không tận cùng thì con người cũng không lo, đã không lo thì con người cũng không có khổ.

Thứ hai là tập. Những gì là tập? Ý thuận theo ái là tập, nếu cắt đứt ái, sẽ không có tập. Như vậy giữ lấy hành vi nào để cắt đứt ái? Muôn vật đều từ nhân duyên sinh, cắt đứt nhân duyên sẽ không sinh nữa. Nên dùng gì để cắt đứt nhân duyên? Giữ ý niệm đạo, đã giữ ý niệm đạo, ý không được có hai niệm là ở nơi đạo, đó là tập.

Thứ ba là tận (diệt). Pháp khổ là muôn vật. Vì sự thất bại là phải lo. Đã phải lo là già. Đã già là phải ốm đau, bệnh tật rồi chết. Đó gọi là pháp của khổ tận cùng bên ngoài. Vì sao? Vì pháp của khổ tận cùng bên ngoài, là do tội của mình chưa dứt bỏ. Vì sao? Vì tội của mình chưa trừ, vì sinh tử chưa diệt. Vì sao? Vì sinh tử chưa diệt vì không phải một ý. Vì sao? Vì không phải một ý thì không rơi vào thiền khí. Vì sao? Vì không rơi vào thiền khí thì không thọ hành như lời Phật dạy, đó gọi là ngoài tận. Thế nào là trong tận? Ý rơi vào sự giữ gìn, đã rơi vào sự giữ gìn rồi, thì ý khác sẽ không được sinh. Ý khác đã không sinh, đó là tiêu mất kiết. Kiết đã diệt rồi, thì tội sẽ hết. Tội đã hết, không còn hữu, đó là trong tận.

Thứ tư là đạo. Những gì là đạo? Đạo của khổ vừa ý, gọi là tám thứ, thứ tám là gì, An-ban-thủ-ý nói tám hành như vậy ý không rơi vào sanh tử, chỉ có rơi vào đạo, rơi vào đạo là đoạn ba việc đầu ở trên. Ba việc đó là khổ, tập, tận. Đã dứt khổ, tập, tận thì được định. Đã định, đã hướng đến là được đạo.

Những gì là được đạo? Khổ đã diệt, không còn sinh nữa, đó là được.

Có năm pháp hành:

1. Sắc.

2. Ý.

3. Sở niệm.

4. Lìa riêng ý hành.

5. Vô vi.

Sắc là những gì? Tất cả đối tượng sắc đều ở bốn hành. Cũng từ chỗ bốn hành, bốn hành là: Địa chủng, thủy chủng, hỏa chủng, phong chủng. Sắc được sinh ra nhân từ bốn hành này là: Nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, sắc, thanh, hương, vị, tế hoạt (xúc), cũng một xứ không đổi.

Ý là những gì? Ý, tâm, thức là gì? Là sáu thức thân. Sáu thức thân là những gì? Là nhãn thức, nhĩ thức, thiệt thức, thân thức và tâm thức.

Pháp sở niệm là những gì? Nếu pháp sở niệm và ý đi thì đó là những gì? Đó là thống (thọ), tưởng, hành, dương niệm dục và ý, định, tuệ, tín, tinh tiến, kế, niệm, tham, bất tham, thiện bổn, ác bổn, bất phân biệt bổn. Tất cả kiết phược đều làm cho nhọc mệt, từ đó khởi lên trí nhận biết, kiến giải, chỗ cần yếu, cũng sẵn có, ý của pháp đều cùng chung, đó gọi là pháp sở niệm của ý.

Ý hành biệt ly là những gì? Ý đã biệt ly không chung, đó là những gì? Được, không tư tưởng chính là hết, chánh là bất tư, tưởng, niệm tưởng đến chúng dưới, khổ đắc, xứ đắc, chủng đắc, nhập sinh, già chết, phi thường, danh tự. Tuyệt, đủ, đúng như vậy và phân biệt những pháp ý hành khác, gọi là phân biệt ý hành.

Vô vi là những gì? Không diệt, chưa lìa diệt, không cần thọ.

Địa chủng là những chất nào cứng chắc. Thủy chủng là những chất nào ẩm ướt, Hỏa chủng là những chất nào ấm. Phong chủng là những chất nào nổi dậy.

Nhãn căn là sắc căn mà nhãn thức nương gá. Nhĩ căn là sắc căn mà nhĩ thức nương gá, tỷ căn là sắc căn mà tỷ thức nương gá. Thiệt căn là sắc căn mà thiệt thức nương gá. Thân căn là sắc căn mà thân thức nương gá.

Thế nào là sắc? Nếu sắc đoan nghiêm, không đoan nghiêm, đều cùng có tưởng sắc trung ương. Từ trên đó, thức biến ra một hình tượng. Sắc của nhãn thức chính là ảnh tượng của tâm thức, là sắc của hai thức này. Lại biết như thế nào? Là hai thứ nhãn thức, tâm thức.

Thế nào là thanh? Có tiếng do hành động phát ra, cũng có tiếng không do hành động phát ra, từ bản thanh của thọ hành, cũng không từ bổn thọ của thọ hành. Nếu ở đấy phát ra thức liền biết, thì khi nhĩ thức biết rồi, tâm thức bèn biết đó là tiếng. Đối tượng đó do nhĩ thức và tâm thức biết.

Thế nào là hương? Hoặc rễ thơm, cộng thơm, hoa thơm, hoặc hương thật, mùi hương tốt, xấu, đó gọi là mùi. Nếu một thức ở trên ấy biến ra đối tượng để biết, thì đó là tỷ thức biết. Tỷ thức biết rồi, tâm thức biết. Hương như vậy là do tỷ thức, tâm thức biết.

Thế nào là vị? Hoặc vị chua, ngọt, mặn, đắng, cay, nhám, cũng là vị giác. Nếu ở trên ấy biến ra một đối tượng để biết thì đó là thiệt thức biết. Thiệt thức đã biết rồi, tâm thức biết là Vị, hai thức bèn biết thiệt tâm thức.

Thế nào là xúc (tế hoạt)? Hoặc trơn, hoặc thô, hoặc nhẹ, nặng, hoặc lạnh, nóng, hoặc đói, khát, ở trên đó, một thức biết thân thức, thân thức đã biết rồi, thì tâm thức liền biết. Một xứ lạc này là hai thức liền biết thân thức, tâm thức, tâm thức xứ không còn.

Sắc là thế nào? Nếu thức tưởng đắm chấp sắc pháp thì như thế nào? Nếu thân thiện, bất thiện không thay đổi, hoặc là thường một thức biết tâm thức.

Nhãn thức là thế nào? Nhẫn nương nhân sắc mà biết. Nhĩ thức là thế nào? Nhĩ căn nương thân hanh mà biết. Tỷ thức là thế nào? Tỷ căn nương hân mùi mà biết.

Thiện thức là thế nào? Nhân nương nơi thiệt căn mà biết được vị. Thân thức là thế nào? Thân căn nương lạc trước mà biết.

Tâm thức là thế nào? Tâm căn nương nhân pháp mà biết.

Thống (Thọ) là thế nào? Là niềm vui, đây cũng chia làm ba hạng, ít, nhiều, không có số lượng.

Tưởng là thế nào? Là đối lập với hành vi, những gì đã làm. Đây cũng là ba thứ, thiện, ác, không phân biệt phước hay họa.

Nguyện lạc là thế nào? Ba sự hội, cũng là ba hạng. Ưa thiện, ưa ác, cũng không thiện, cũng không ác, ý ưa thích niệm.

Ý niệm là những gì? Đây cũng là ba hạng: thiện, ác, không phân biệt thiện ác.

Dục là những gì? Dục là như thế nào? Vừa ý, không vừa ý là những gì?

Niệm tư duy là gì? Là một ý.

Tuệ là gì? Là pháp quán.

Tín là gì? Là vừa ý.

Tinh tiến là gì? Là quán niệm.

Kế (suy tính) là gì? Sở niệm, khiến mong cầu tăng thêm hy vọng, mong muốn. Mong muốn ở đây là suy tính.

Phân biệt niệm là gì? Sở quán, chủ thể quán tùy thuận nhau không đoạn tuyệt, đó gọi là niệm.

Chấp niệm là những gì? Ý khác to lớn, chấp ý nhỏ là niệm.

Tham là gì? Không theo pháp thiện, không tin chí thành. Không làm việc không nên làm, đó gọi là tham.

Không tham là những gì? Thuận theo pháp thiện, tin tưởng chí thành, làm những việc đáng làm, đó gọi là không tham.

Thiện bổn là gì? Có ba thiện bổn: Thiện bổn không tham, thiện bổn không sân, thiện bổn không si, đó gọi là thiện bổn.

Bất thiện bổn là gì? Bất thiện bổn có ba thứ: Tham là bất thiện bổn, sân hận là bất thiện bổn, ngu si là bất thiện bổn, đó gọi là bất thiện bổn.

Bất phân biệt bổn là những gì? Có năm thứ không phân biệt: Ái không phân biệt, kiến không phân biệt, kiêu mạn không phân biệt, si không phân biệt, nghi không phân biệt, đó gọi là bất phân biệt bổn.

Kiết là những gì? Có chín kiết:

1. Kiết trì niệm.

2. Kiết tắng.

3. Kiết kiêu mạn.

4. Kiết si.

5. Kiết tà.

6. Kiết thất nguyện.

7. Kiết nghi.

8. Kiết tật.

9. Kiết san.

Kiết trì niệm là gì? Là tham trong ba cõi.

Kiết tắng là gì? Là ở nhân gian không thể dứt.

Kiết kiêu mạn là gì? Kiết kiêu mạn có bảy thứ:

1. Kiêu mạn.

2. Mạn.

3. Tự mạn.

4. Tự chấp mạn.

5. Khi mạn.

6. Mạn không bằng.

7. Tà mạn.

Kiêu mạn là những gì? Không bằng ta, cho ta là hơn. Nếu bằng ta cho ta là bằng, từ đó, kiêu mạn, ý tự chấp khởi lên ý thức hợp với ý đó, gọi là kiêu mạn.

Mạn là những gì? Trong đồng nhóm cho ta là hơn. Trong hơn, cho ta là bằng, từ đó, sinh ra kiêu mạn, cũng tự chấp, tự chấp cho mình hơn là hơn, đó là tự mạn, cũng nói là kiêu mạn mạn, vì là hợp hội của tất cả, đó gọi là tự mạn.

Tự chấp mạn là những gì? Là năm ấm tự thân là ngã thân chấp tự niệm. Từ đó, tự khởi ra mạn mạn, tự biết ý sinh, ý khởi, hợp ý, đó là tự chấp mạn.

Khi mạn là những gì? Chưa được chấp là được, chưa biết chấp là biết, chưa hết chấp là hết. Từ sự kiêu mạn này, ý tự chấp, ý quán khởi hợp ý, đó là khi mạn.

Mạn không bằng là những gì? Mình thua người xa mà chấp là thua ít, hoặc hào phóng, hoặc nghề nghiệp, hoặc nghề nghiệp như thế nào. Hoặc tội, hoặc bệnh không bằng gấp mười lần, gấp trăm lần. Tự chấp như vậy là không bằng. Từ đó mà kiêu mạn, ý sinh ra tự chấp, tự thấy, ý khởi hợp ý, tự vì mình, đó gọi là mạn không bằng.

Thế nào là tà mạn? Người không hiền, tự chấp là người hiền, từ đó có sự kiêu mạn. Tự sinh ra ý, tự nghĩ, tự chấp, ý khởi hợp với niệm, đó gọi là tà mạn.

Bảy thứ mạn này gọi là kiết kiêu mạn.

Thế nào là kiết si? Những ngu si trong ba cõi, đó gọi là si kiết.

Thế nào là kiết tà? Kiết tà có ba thứ gọi là kiết tà:

1. Thân tà (thân kiến).

2. Biên tà (biên kiến).

3. Tà tà.

Thế nào là thân tà (thân kiến)? Cho thân này là thân ta, đó gọi là thân tà (thân kiến).

Biên tà (biên kiến) là gì?

1. Đoạn diệt.

2. Thường còn, đó gọi là biên tà (biên kiến).

Tà tà là gì? Tà tà là gốc của sự tranh cãi, làm hư hoại phước.

Trên đây là ba thứ tà.

Thế nào là kiết mất nguyện? Mất gốc, không thọ nhận công ân, đó gọi là kiết mất nguyện. Hai sự mất này gọi là kiết mất nguyện.

Thế nào là kiết trộm? Hai thứ trộm gọi là kiết trộm:

1. Vì trộm thọ.

2. Vì trộm giới.

Thế nào là trộm thọ? Là năm ấm nghĩ cho là tôn trọng không có chi hơn. Từ đó ý dục nẩy sinh, cho là có thể dùng, đây gọi là kiết trộm.

Thế nào là trộm giới? Từ đây tịnh, từ đây xuất ly, từ đây giải thoát, từ đây được dụng xuất ly, cho nên chỗ nhân, chỗ ý, chỗ khả, chỗ nguyện, chỗ có thể làm, đó là trộm giới. Hai thứ trộm này gọi là kiết trộm.

Thế nào là kiết nghi? Là nghi bốn đế, đó gọi là kiết nghi. Thế nào là kiết tật? Ý loạn là kiết tật.

Thế nào là kiết san? Là không thể chế phục ý, đó gọi là kiết san. Đó là tất cả kiết.

Vậy thế nào là phược? Bị cột chặt là phược, nên nói là phược.

Thế nào là sử? Có bảy sử, bảy sử gồm:

1. Sử dục.

2. Sử bất khả.

3. Sử dục thế gian.

4. Sử kiêu mạn.

5. Sử si.

6. Sử tà.

7. Sử nghi.

Thế nào là sử dục? Sử dục gồm năm sử: Năm sử ấy là: Từ kiến khổ dứt trừ dục, chấp trước dục từ kiến tập dứt trừ dục. Tham đắm dục từ kiến tận dứt trừ dục. Chấp trước dục từ kiến đạo dứt trừ dục, tham đắm dục là từ kiến tư duy dứt trừ dục. Đó gọi là năm sử, gọi là sử dục. Thế nào là sử bất khả? Có năm sử, gọi là sử bất kha, năm sử đó là: Từ những thứ kiến khổ không thể dứt trừ. Kiết tập không thể dứt trừ. Từ kiến tận không thể dứt trừ. Từ kiến đạo không thể dứt trừ. Từ kiến tư duy không thể dứt trừ, đó là năm sử, được gọi là sử bất khả.

Thế nào là sử thế gian dục khả? Có mười sử, gọi là sử thế gian dục khả mười sử ấy là Đắm chấp sắc là dục do kiến khổ dứt trừ. Đắm chấp sắc là dục do kiến tập dứt trừ. Đắm chấp sắc là dục do kiến tận dứt trừ, mê đắm sắc do kiến hành đạo dứt trừ. Nhân sắc đắm sắc là dục do tư duy dứt trừ. Từ nhân không có sắc đắm sắc là dục do kiến khổ dứt trừ. Từ nhân không có sắc mê đắm là dục do kiến tập dứt trừ. Từ nhân không có sắc mê đắm là dục do kiến tận dứt trừ. Từ nhân không có sắc mê đắm là dục do kiến đạo dứt trừ. Nhân không có sắc mê đắm là dục do tư duy dứt trừ. Đó là mười sử, gọi là sử dục thế gian.

Thế nào là sử kiêu mạn? Sử kiêu mạn có mười lăm thứ, mười lăm thứ ấy là: Mê đắm ham muốn do kiến khổ dứt trừ kiêu mạn. Mê đắm ham muốn do kiến tập dứt trừ kiêu mạn. Vướng mắc ham muốn do kiến tận dứt trừ kiêu mạn. Vướng mắc ham muốn do kiến đạo dứt trừ kiêu mạn. Vướng mắc ham muốn do tư duy dứt trừ kiêu mạn. Vướng sắc do kiến khổ dứt trừ kiêu mạn. Vướng sắc do kiến tập dứt trừ kiêu mạn. Vướng sắc do kiến tận dứt trừ kiêu mạn. Vướng sắc do kiến đạo dứt trừ kiêu mạn. Vướng sắc do tư duy dứt trừ kiêu mạn. Vướng không có sắc do kiến khổ dứt trừ kiêu mạn. Vướng không có sắc do kiến tập dứt trừ kiêu mạn.

Vướng không có sắc do kiến tận dứt trừ kiêu mạn. Vướng không có sắc do kiến đạo dứt trừ kiêu mạn. Vướng không có sắc do tư duy dứt trừ kiêu mạn. Mười lăm sử này gọi là sử kiêu mạn.

Thế nào là sử si? Có mười lăm sử gọi là sử si. Mười lăm sử ấy là: Vướng mắc ham muốn do kiến khổ dứt trừ si. Vướng mắc ham muốn do kiến tập dứt trừ si. Vướng mắc ham muốn do kiến tận dứt trừ si. Vướng mắc ham muốn do kiến đạo dứt trừ si. Vướng mắc ham muốn do tư duy dứt trừ si. Vướng sắc do kiến khổ dứt trừ si. Vướng sắc do kiến tập dứt trừ si. Vướng sắc do kiến tận dứt trừ si. Vướng sắc do kiến đạo dứt trừ si. Vướng sắc do tư duy dứt trừ si. Vướng không có sắc do kiến khổ dứt trừ si. Vướng không có sắc do kiến tập dứt trừ si. Vướng không có sắc do kiến tận dứt trừ si. Vướng không có sắc do kiến đạo dứt trừ si. Vướng không có sắc do tư duy si mà dứt trừ. Mười lăm sử này, gọi là si sử.

Thế nào là sử tà? Ba mươi sáu sử là sử tà: Trong đó gồm mười hai sử vướng mắc cõi Dục, mười hai sử vướng mắc cõi Sắc và mười hai sử vướng mắc cõi Vô Sắc. Đây gọi là ba mươi sáu sử.

Mười hai sử vướng mắc cõi Dục là gì? Vướng mắc cõi Dục do kiến khổ dứt trừ thân tà. Vướng mắc cõi Dục do kiến khổ dứt trừ yếu tà. Vướng mắc cõi Dục do kiến khổ dứt trừ tà tà. Vướng mắc cõi Dục do kiến tận dứt trừ tà tà. Vướng mắc cõi Dục do kiến tận dứt trừ tà tà. Vướng mắc cõi Dục do kiến đạo dứt trừ tà tà. Vướng mắc cõi Dục do kiến khổ dứt trừ trộm kiến. Vướng mắc cõi Dục do kiến tập dứt trừ trộm kiến. Vướng mắc cõi Dục do kiến tận dứt trừ trộm kiến. Vướng mắc cõi Dục do kiến đạo dứt trừ trộm kiến. Vướng mắc cõi Dục do kiến khổ dứt trừ trộm giới. Vướng mắc cõi Dục do kiến đạo dứt trừ trộm giới, đó gọi là mười hai sử vướng mắc cõi Dục.

Mười hai sử vướng mắc cõi Sắc là gì? Thân tà vướng mắc cõi Sắc do kiến khổ dứt trừ. Yếu tà vướng mắc cõi Sắc do kiến khổ dứt trừ. Tà tà vướng mắc cõi Sắc do kiến khổ dứt trừ. Tà tà vướng mắc cõi Sắc do kiến tập dứt trừ. Tà tà vướng mắc cõi Sắc do kiến tận dứt trừ. Tà tà vướng mắc cõi Sắc do kiến đạo dứt trừ. Trộm kiến vướng mắc cõi Sắc do kiến khổ dứt trừ. Trộm kiến vướng mắc cõi Sắc do kiến tập dứt trừ. Trộm kiến vướng mắc cõi Sắc do kiến tận dứt trừ. Trộm kiến vướng mắc cõi Sắc do kiến đạo dứt trừ. Trộm giới vướng mắc cõi Sắc do kiến khổ dứt trừ. Trộm giới vướng mắc cõi Sắc do kiến đạo dứt trừ. Đây là mười hai sử do vướng mắc sử cõi Sắc.

Mười hai sử vướng mắc cõi Vô Sắc là gì? Thân tà vướng mắc cõi Vô Sắc do kiến khổ dứt trừ, yếu tà vướng mắc cõi Vô Sắc do kiến khổ dứt trừ. Tà tà vướng mắc cõi Vô Sắc do kiến khổ dứt trừ. Tà tà vướng mắc cõi Vô Sắc do kiến tập dứt trừ. Tà tà vướng mắc cõi Vô Sắc do kiến tận dứt trừ. Tà tà vướng mắc cõi Vô Sắc do kiến đạo dứt trừ. Trộm kiến vướng mắc cõi Vô Sắc do kiến khổ dứt trừ. Trộm kiến vướng mắc cõi Vô Sắc do kiến tập dứt trừ. Trộm kiến vướng mắc cõi Vô Sắc do kiến tận dứt trừ. Trộm kiến vướng mắc cõi Vô Sắc do kiến đạo dứt trừ. Trộm giới vướng mắc cõi Vô Sắc do kiến khổ dứt trừ. Trộm giới vướng mắc cõi Vô Sắc do kiến đạo dứt trừ. Đó gọi là mười hai sử vướng mắc sử Vô Sắc.

Trên đây là ba mươi sáu sử, gọi là ba mươi sáu sử tà.

Thế nào là sử nghi? Mười hai sử gọi là sử nghi. Nghi vướng mắc cõi Dục do kiến khổ dứt trừ. Nghi vướng mắc cõi Dục do kiến tập dứt trừ. Nghi vướng mắc cõi Dục do kiến tận dứt trừ. Nghi vướng mắc cõi Dục do kiến đạo dứt trừ. Nghi vướng mắc cõi Sắc do kiến khổ dứt trừ. Nghi vướng mắc cõi Sắc do kiến tập dứt trừ. Nghi vướng mắc cõi Sắc do kiến tận dứt trừ. Nghi vướng mắc cõi Sắc do kiến đạo dứt trừ. Nghi vướng mắc cõi Vô Sắc do kiến khổ dứt trừ. Nghi vướng mắc cõi Vô Sắc do kiến tập dứt trừ. Nghi vướng mắc cõi Vô Sắc do kiến tận dứt trừ. Nghi vướng mắc cõi Vô Sắc do kiến đạo dứt trừ. Đó gọi là mười hai sử nghi.

Sử là trần, hay là trần não. Có lúc có trần không có não. Trừ trần, những thứ khác là những pháp loạn ý niệm, đây là não không phải trần. Từ khởi đầu là tám thứ:

1. Thùy.

2. Minh.

3. Lạc.

4. Nghi.

5. Ỷ.

6. Tứ thái.

7. Bất quý. 8. Bất tàm.

Vì thế nói là tám thứ khởi.

Sở hiệt (trí) là những gì? Có mười trí:

1. Pháp trí.

2. Tỷ trí.

3. Tri nhân tâm trí.

4. Xảo trí.

5. Khổ trí.

6. Tập trí.

7. Diệt trí.

8. Đạo trí.

9. Tận trí.

10. Vô vi trí.

Pháp trí là gì? Ở sinh tử, ham muốn những gì không có kiết trí ở sanh tử dục bản sở vô mà có kiết trí, sanh tử sắp diệt mà không có kiết trí. Ở sinh tử dục hoại đạo hành không có kiết trí, cũng ở pháp trí, cũng ở địa pháp trí mà không có kiết trí, đó gọi là pháp trí.

Tỷ trí là gì? Ở sự hoạt động của cõi Sắc, Vô Sắc không có kiết trí, ở nơi gốc cõi Sắc, Vô Sắc không có kiết trí. Hành ở cõi Sắc, Vô Sắc diệt không có kiết trí. Ở đạo dứt hành sắc, Vô Sắc không có kiết trí, cũng ở tỷ trí, cũng ở tỷ địa không có kiết trí. Đó là tỷ trí.

Tri nhân tâm trí là gì? Hành động của trí, phước của trí, sự hòa hợp của trí. Đã được không mất, thường hiện ở trước, luôn nhớ không quên vì người nêu, vì người khác, vì tự hoạt động. Thế nên, ý niệm mà biết, gọi là tri nhân tâm trí.

Xảo trí là gì? Trí mà thế gian thực hành gọi là xảo trí. Khổ trí là gì? Thọ năm ấm niệm không phải thường, khổ không, phi thân, không có kiết trí, đó gọi là khổ trí.

Tập trí là gì? Gốc của thế gian, cũng vốn tập sinh nhân duyên tư duy, nhớ nghĩ không có kiết trí, đó gọi là tập trí.

Diệt trí là gì? Diệt trí là trí niệm, rất quan trọng, là trí không ràng buộc, gọi là diệt trí.

Đạo trí là gì? Đạo là đạo, như người nêu thọ quán thì niệm muốn xuất ly, không có kiết trí, đó gọi là đạo trí.

Tận trí là gì? Đã biết khổ, đã bỏ tập, tận đã chứng, đạo đã thật hành, từ trí này thấy biết, ý được đúng, đó gọi là tận trí.

Vô vi trí là gì? Khổ đã hết không còn nữa, tập đã xong, không còn nữa, tận đã chứng, không còn chứng nữa. Đạo đã thực hành không còn thực hành nữa. Từ trí này đã thấy, đã nhận biết, đã ý thức được, đó gọi là trí vô vi, nên nói là trí.

Thế nào là tất cả kiến? Nếu kiến có trí là có kiến. Có lúc kiến không phải trí là sao?

Tám cánh (tám nhẫn) có thể làm những gì? Tám cánh có thể là gì?

Khổ pháp trí có thể là khổ, thí như trí đạt được. Tập pháp trí có thể là tập, thí như trí đạt được. Tận pháp trí có thể là tận, thí như trí đạt được.

Đạo pháp trí có thể là đạo, thí như trí đạt được, nên nói là kiến.

Nếu được, đấy là trí, có lúc không được, không phải trí. Tám cánh đạt được như trên đã nói, nên nói là cánh.

Đức là những gì? Được pháp là đức. Không có tư tưởng, tư duy là gì? Một xứ trên cõi trời, gọi là tất cả tịnh, trước khi có dục, không có dục, có tư tưởng xuất ly, pháp ý đã nhớ nghĩ diệt, không thuận theo, đó gọi là không tư tưởng, tư duy.

Diệt tư duy là gì? Hai mươi tám tầng trời, gọi là sự đắc đạo trong không có dục. Nghĩa là trên hành ý niệm muốn pháp diệt đó gọi là diệt tư duy.

Không tư tưởng là sao? Người không có tư tưởng, hóa sinh trên cõi trời. Trên ý niệm cũng theo, khi ở trên cõi trời thì ý niệm dứt trừ, đó gọi là không tư tưởng.

Niệm căn là gì? Mạng trong ba cõi. Hội là gì?

Là người ta đồng ở.

Đắc xứ là gì? Là đồng quận, huyện.

Chủng đắc là gì? Là năm ấm.

Nhập đắc là gì? Là nội, ngoại đắc nhập, đó gọi là nhập đắc.

Sinh là gì? Được ấm.

Già là gì? Ấm chín muồi.

Chỉ hành là gì? Sự hoạt động của đời trước ngắm về tương lai.

Chẳng thường là gì? Là đã sinh lại mất.

Danh tự là gì? Biết phân biệt. Tuyệt là gì? Chữ đầy đủ.

Chánh dung là gì? Các chữ gom lại.

Không là gì? Hư không chẳng có gì cả, không có vướng mắc, không có màu sắc, đó là không.

Tận mà còn chưa lìa là gì? Đã hết, không còn nữa, không còn vướng mắc.

Tận là sao? Độ thế gian đến vô vi, đó gọi là năm pháp, năm hành, hành là nói đủ.


[Đầu trang][Mục lục bộ A-Tỳ-Đàm][Mục lục tổng quát]