TẠNG LUẬN
Tác giả: Bồ tát Di Lặc giảng thuật, Bồ tát Vô Trước ghi. Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.
Phần 12: Nhiếp Sự, Sự Khế Kinh Hành Lựa Chọn, Thâu Tóm Thứ Nhất
Phần 13: Nhiếp Sự, Sự Khế Kinh, Xứ Lựa Chọn, Gồm Thâu Thứ Hai
Phần 14: Nhiếp Sự, Sự Khế Kinh: Duyên Khởi, Thực, Đế, Gồm Thâu Thứ Ba
Phần 15: Nhiếp sự, Sự Khế kinh. Bồ đề phần pháp: lựa chọn, gồm thâu thứ tư
Phần 16: Nhiếp Sự: Sự Điều Phục. Lựa Chọn Gồm Thâu Chung Thứ Năm
Lại nữa, tụng nêu:
Tưởng hành, tướng ngu, nhãn thắng lợi
Chín trí, không si cùng thắng tiến
Ngã kiến sai biệt ba tướng hành
Pháp tổng các phẩm ba sâu rộng.
Ở trong các hành, tu hành tưởng vô thường có năm thứ. Nghĩa là do:
1. Tánh vô thường.
2. Tánh không hằng.
3. Tánh không trụ lâu.
4. Tánh không thể giữ.
5. Tánh của pháp biến hoại.
Ở đây, sát na, sát na hoại diệt nên vô thường. Tự thể hệ thuộc, trụ thọ có giới hạn, nên là không hằng. Ngoại sự trước sau quyết định không trụ nên là không trụ tâm.
Thọ lượng chưa đủ, lại bị duyên hoại, phi thời mà chết, nên là không thể giữ. Cho đến lúc trụ như thế, nơi khoảng giữa, an lạc chẳng định, nên là pháp biến hoại.
Lại nữa, hạng ngu tối lược có ba loại tướng. Những gì là ba? Nghĩa là những kẻ ngu đối với tất cả hành như trên đã nói. Năm tánh vô thường không thể tư duy, ở trong tánh hơn kém không chân thật, phân biệt hơn kém, nêu xét về tự tha, cho mình là hơn. Đó gọi là tướng thứ nhất của kẻ ngu.
Như cho mình hơn, thì cho mình bằng, cho mình kém, nói rộng cũng thế. Cùng với đây trái nhau nên biết là kẻ trí, cũng có ba thứ tướng của kẻ trí.
Lại nữa, do hai thứ tướng, nên biết huệ nhãn của Thánh giả thanh tịnh. Nghĩa là do xa trần cũng lìa cấu. Do thấy chỗ đoạn trừ các phiền não triền, lìa mọi trói buộc, nên gọi là xa trần. Do lìa được trói buộc của tùy miên kia, nên gọi là lìa cấu. Lại, lúc hiện quán, có ngã mạn thô cùng nhập tác ý, chuyển có gián đoạn không gián đoạn. Nếu nhận biết rõ khắp về đối tượng giữ lấy, chủ thể giữ lấy nơi đối tượng duyên đều bình đẳng, tức chúng liền đoạn trừ. Do chúng được đoạn trừ nên gọi là xa trần. Hết thảy tùy miên của phiền não do kiến đạo đoạn đã được đoạn trừ nên gọi là lìa cấu.
Lại nữa, xa trần lìa cấu, ở trong các pháp, lúc được pháp nhãn, nên biết tức được mười thứ thắng lợi. Đó là:
1. Nơi bốn Thánh đế đã khéo thấy rõ, nên gọi là thấy pháp.
2. Theo đấy, đạt được một loại quả Sa-môn, nên gọi là đắc pháp.
3. Đối với chỗ đã chứng đắc, có thể tự nhận biết rõ: Ta nay đã dứt hết nghiệp nơi ba nẻo ác. Ta đã chứng đắc quả Dự lưu cho đến nói rộng. Do như thế nên gọi là biết pháp.
4. Được bốn chứng tịnh, đối với Phật Pháp Tăng nhận biết đúng như thật, nên gọi là kiên pháp khắp.
5. Đối với chỗ tự chứng đắc không lầm lạc.
6. Đối với chỗ chứng đắc của kẻ khác không nghi.
7. Lúc tuyên thuyết giáo pháp tương ưng với Thánh đế, không dựa vào duyên khác.
8. Không quán xét về hình tướng cùng ngôn thuyết của kẻ khác. Ở trong Chánh pháp Tỳ-nại-da này, hết thảy luận khác đều không thể chuyển.
9. Ký biệt về tất cả chỗ chứng đắc, giải thoát đều là vô sở úy.
10. Do hai nhân duyên nên tùy nhập Thánh giáo. Tức là thế tục chân chánh cùng đệ nhất nghĩa.
Lại nữa, có chín thứ trí, có thể đối với các hành nhận biết khắp, siêu vượt.
1. Trí của các hành lưu chuyển.
2. Trí của các hành hoàn diệt.
3. Trí của nhân duyên tạp nhiễm.
4. Trí của nhân duyên thanh tịnh.
5. Trí thanh tịnh.
6. Trí Khổ.
7. Trí Tập.
8. Trí Diệt.
9. Trí Đạo.
Ở đây:
- Trí của các hành lưu chuyển: Lược do ba thứ nhân duyên tích tập, nên tất cả hành tích tập nơi chánh trí hiện có. Đó là hỷ tập, xúc tập, danh sắc tập. Theo chỗ ứng hợp, hoặc sắc tập, hoặc thọ v.v… tập, hoặc thức tập.
Tức do ba thứ nhân duyên này diệt, nên ba thứ hành diệt. Đó gọi là trí của các hành hoàn diệt.
- Trí của nhân duyên tạp nhiễm, trí của nhân duyên thanh tịnh, cùng trí thanh tịnh: Nghĩa là đối với ái vị, lỗi lầm tai họa cùng nẻo xuất ly, như trước đã nói, nên biết. Bốn trí như Khổ v.v… trong bốn Thánh đế: Như trước, nơi đạo lý phân biệt Thánh đế, nên biết về tướng của chúng.
Đối với phần vị phàm phu tu năm trí trước, có thể mau chóng chứng đắc bốn trí Thánh đế sau. Do chứng đắc chúng, nên có thể đối với các hành nhận biết rõ như thật.
Lại, nếu đối với các trí trước có thiếu sót, tất định không thể dùng đạo lý của đế nhận biết khắp các hành, phải nên chứng đắc mới có thể nhận biết khắp. Hoặc nơi đế lý, trí nhận biết khắp về hành có chỗ thiếu sót, tất định không thể đối với tu đạo trên dùng lực đối trị đoạn trừ các phiền não, vượt tất cả hành. Cùng với đây trái nhau, mới có thể siêu vượt. Thế Tôn nói là có chín thứ trí, có thể đối với các hành nhận biết khắp cùng siêu vượt.
Lại nữa, hành giả tu Quán, do ba xứ nêu ở trong các hành trụ không ngu si. Những gì là ba? Đó là:
1. Đối với các hành quá khứ nhận biết rõ đúng như thật, là tánh vô thường.
2. Đối với các hành hiện tại nhận biết rõ đúng như thật, là tánh của pháp diệt.
Đối với các hành hiện tại nhận biết rõ đúng như thật, là tánh của pháp sanh diệt.
Hành giả do đối với hành của ba đời như thế không có ngu si, tâm không nhiễm ô, an lạc mà trụ, gắn liền nơi số sáng tỏ. Cùng với đây trái nhau, nên biết tức là có ngu si mà trụ, rơi vào số vô minh.
Lại có ba thứ dị danh của phiền não, phần nhiều được nói trong phẩm phiền não:
1. Dị danh của tham.
2. Dị danh của sân.
3. Dị danh của si.
- Dị danh của tham: Cũng gọi là hỷ, cũng gọi là tham, cũng gọi là luyến tiếc, cũng gọi là vui mừng, cũng gọi là dục, cũng gọi là thân quen, cũng gọi là lạc, cũng gọi là cất chứa, cũng gọi là giữ, cũng gọi là vướng mắc, cũng gọi là trông mong, cũng gọi là đam mê, cũng gọi là ái, cũng gọi là nhiễm, cũng gọi là khao khát.
- Dị danh của sân: Cũng gọi là khuể (giận), cũng gọi là ghét, cũng gọi là sân, cũng gọi là phẫn, cũng gọi là tổn hại, cũng gọi là không nhẫn, cũng gọi là vi lệ (chống trái), cũng gọi là bạo ác, cũng gọi là nọc độc châm chích, cũng gọi là cự đối, cũng gọi là thảm độc, cũng gọi là phẫn phát, cũng gọi là nộ hám (thù giận), cũng gọi là mang lo lắng mà trụ, cũng gọi là sanh nóng nảy bừng bừng.
- Dị danh của si: Cũng gọi là không trí, cũng gọi là không kiến, cũng gọi là không phải hiện quán, cũng gọi là hôn muội, cũng gọi là ngu si, cũng gọi là vô minh, cũng gọi là hắc ám. Những tên gọi như thế, nên biết như nơi phần Nhiếp dị môn ở trước phần nhiều đã biện biệt. Về sự sai biệt của hỷ, tham, ở đây sẽ nói. Duyên dựa nơi vui thích do thọ sanh ra, gọi là hỷ. Duyên nơi cảnh giới sanh thọ, dấy khởi nhiễm đắm, gọi là tham.
Lại, đối với cảnh sắp đạt được sanh gọi là hỷ. Nếu đối với cảnh đã đạt được sanh khởi,gọi là tham.
Lại, đối với pháp đã đạt được sắp sửa thọ dụng, gọi là hỷ. Tức đối với sự việc ấy, lúc đang thọ dụng, gọi là tham.
Lại, đối với cảnh giới, có thể dùng phương tiện dể đạt được, gọi là hỷ. Tức đối với cảnh giới ấy, gọi là tham. Lại, đối với hữu sau, gọi là hỷ. Đối với cảnh giới hiện tại, gọi là tham.
Lại, đối với chỗ yêu thích lợi, tốt của hữu tình khác, gọi là hỷ. Đối với chỗ lợi tốt của mình đạt được, gọi là tham.
Lại nữa, ở trong các hành, tu tập như lý, có bốn thứ thắng tiến.
Nghĩa là tưởng thắng tiến lược có ba loại:
1. Chưa được khiến được.
2. Chưa hợp khiến hợp.
3. Chưa chứng khiến chứng.
Nếu đạt được hiện pháp lạc trụ, gọi là thắng tiến thứ tư.
Đầu tiên có thể đạt được chỗ trước chưa được quả Dự lưu, nên biết đó gọi là chưa được khiến được.
Tức ở đây làm chỗ dựa, lại có thể khế hợp với quả học trên, nên biết đó gọi là chưa hợp khiến hợp.
Tức dùng đấy làm chỗ dựa, lại có thể chứng đắc quả A-la-hán, đối với các hoặc đoạn trừ, có thể tác chứng, nên biết đó gọi là chưa chứng khiến chứng.
Nếu đã chứng đắc quả A-la-hán, lại không "chưa được khiến được, chưa chứng khiến chứng", nên chánh cần tu tập, chỉ nhằm đạt hiện pháp lạc trụ.
Chánh cần tu tập, lại dựa vào tự nghĩa, có ba tưởng thắng tiến. Nghĩa là ở trong các hành có tưởng chán bỏ, tưởng lỗi lầm tai họa, tưởng nghĩa thật.
- Tưởng chán bỏ lại có bốn hành: Nghĩa là đối với các hành tư duy như bệnh, như ung nhọt, như mũi tên, như não hại.
- Như bệnh: Tức như có một hữu tình, nhân nơi cảnh giới thác loạn, sanh ra bệnh khổ, tu tưởng chán bỏ.
- Như ung nhọt: Nghĩa là như có một hữu tình, nhân nơi nghiệp từ trước, sanh khởi ung nhọt khổ não, tu tưởng chán bỏ.
- Như mũi tên: Tức như có một hữu tình, nhân nơi sự oán đối của kẻ khác, bị khổ vì mũi tên bắn trúng, tu tưởng chán bỏ.
- Như não hại: Nghĩa là ở trong sự thiếu thốn về của cải thân thuộc, nhân nơi tà chấp của chính mình sanh ra các khổ, tu tưởng chán bỏ.
Như thế gọi là hành giả tu Quán, ở trong các hành tu tưởng chán bỏ.
- Tưởng lỗi lầm tai họa: Lại có hai hành, nghĩa là đối với các hành tư duy về vô thường, cùng tư duy về khổ.
- Tưởng nghĩa thật: Cũng có hai hành, nghĩa là đối với các hành, tư duy về tánh không cùng tánh vô ngã.
Ở đây, trước đối với tưởng lỗi lầm tai họa, cùng tưởng nghĩa thật tu tập đúng đắn rồi, sau đấy mới có thể trụ nơi tưởng chán bỏ. Nên biết, trong đây trước nói về quả, sau là nói về nhân.
Lại nữa, có bốn thứ ngã kiến làm chỗ nương dựa, có thể sanh ra ngã mạn:
1. Ngã kiến có phân biệt: Tức là chỗ dấy khởi của các ngoại đạo.
2. Ngã kiến câu sanh: Nghĩa là, dưới đến loài cầm thú v.v… cũng có thể sanh khởi.
3. Ngã kiến duyên nơi chính mình làm chỗ dựa. Nghĩa là đối với nội thân đều riêng khác đã dấy khởi.
4. Ngã kiến duyên nơi kẻ khác làm chỗ dựa: Là đối với thân kẻ khác đã dấy khởi.
- Ngã kiến có phân biệt, làm chỗ dựa sanh ngã mạn: Nghĩa là do kiến này, quán xét thân tự tha, chấp có thật ngã. Do hai thứ ngã kiến này làm chỗ dựa, phát sanh ngã mạn. Ví như tấm gương tròn thanh tịnh, trên mặt có tượng thật làm chỗ dựa phát sanh ảnh tượng. Ảnh tượng làm chỗ dựa, đối với chỗ dựa của chính mình phát sanh tưởng kém, vừa, hơn. Như thế do phân biệt tà vạy, nên ngã kiến duyên nơi chính mình làm chỗ dựa, làm duyên phát sanh. Ngã kiến duyên nơi kẻ khác làm chỗ dựa. Như dựa nơi tượng thật phát sanh ảnh tượng. Lại do đấy làm duyên phát sanh ngã mạn, đối với kẻ khác, cho mình hoặc hơn hoặc bằng hoặc kém.
- Ngã kiến câu sanh làm duyên sanh ngã mạn: Nên biết thí dụ so với trước có sai biệt. Như người mắt sáng, đi đến chỗ vật đựng nước trong, tự xem xét tai mắt. Phần còn lại như trước, nên biết về tướng.
Tất cả thứ Tát-ca-da-kiến này, chỉ dựa nơi pháp. Tỳnại-da khéo thuyết giảng mới có thể vĩnh viễn đoạn trừ, chẳng phải là tà giáo khác.
Lại nữa, do ba thứ tướng nơi các hành diệt, nên gọi là cảnh giới Niết-bàn Vô dư y. Đó là:
1. Các hành diệt đã sanh khởi trước.
2. Các hành diệt của tự tánh diệt hoại.
3. Tất cả phiền não, đã vĩnh viễn lìa trói buộc của chúng.
- Các hành diệt đã sanh khởi trước: Tức là nơi đời trước, có thể chiêu cảm chỗ tạo tác các nghiệp phiền não của hữu sau, cùng do chỗ xét cầu của nguyện trước, nay các hành sanh khởi đã vĩnh viễn dứt trừ.
- Các hành diệt của tự tánh diệt hoại: Nghĩa là các hành kia sanh rồi nhận lấy tánh diệt hoại, không phải là các hành vĩnh viễn diệt trụ nơi cứu cánh.
- Tất cả phiền não, đã vĩnh viễn lìa trói buộc của chúng: Nghĩa là các phiền não đã được đoạn dứt hoàn toàn, do nay diệt nên sau không sanh nữa.
Thế nên, do ba tướng nơi các hành diệt này, nên gọi là tịch diệt, không phải là hoàn toàn không có tướng, vì tướng kia là khác. Nếu hoàn toàn không có tướng, thì không thể thiết lập để gọi là tịch diệt.
Lại nữa, do sức tăng thượng của ba môn giải thoát, nên biết đã kiến lập bốn thứ pháp Ốt-dà-nam. Ba môn giải thoát là môn Giải thoát Không, môn Giải thoát Vô nguyện, môn Giải thoát Vô tướng.
- Tất cả hành vô thường, tất cả hành khổ: Là dựa nơi môn Giải thoát Vô nguyện, kiến lập pháp Ốt-dà-nam thứ nhất, thứ hai.
- Tất cả pháp vô ngã: Là dựa nơi môn Giải thoát Không, kiến lập pháp Ốt-dà-nam thứ ba.
Niết-bàn tịch tĩnh: Là dựa nơi môn Giải thoát Vô tướng, kiến lập pháp Ốt-dà-nam thứ tư.
Lại nữa, nên biết có hai thứ pháp Ốt-dà-nam nơi hành dục tăng thượng:
1. Thắng giải cùng hành dục.
2. Ý lạc cùng hành dục.
-Thắng giải cùng hành dục: Do bốn thứ pháp Ốt-dànam, nên ở trong các hành sanh khởi lạc dục.
Lại, đối với các hành tịch tĩnh, sanh lạc dục: Là do ý lạc nên ở riêng nơi chốn vắng lặng, tác ý tư duy. Do bốn thứ tướng, nên đối với hành tịch tĩnh kia, tâm thối chuyển:
1. Ở trong ấy, do thấy thắng lợi, không hướng nhập.
2. Không tin kẻ kia đạt tin không thanh tịnh.
3. Nơi đối tượng duyên kia không sanh hỷ lạc, không an trụ.
4. Đối với pháp kia, khởi thắng giải không vui thích.
Cùng với đây trái nhau, nên biết tức là ý lạc cùng hành dục.
Lại do hai duyên, nương dựa nơi dục của thắng giải vô ngã, đối với Niết-bàn kia, do kinh sợ nên tâm thối chuyển:
1. Do đối với dục này, không khéo luôn hành tập, chưa đạt đến cứu cánh.
2. Nơi lúc tác ý, do nhân duyên kia, nên niệm quên mất.
Lại, nhân dục này chưa thường xuyên hành tập, nên bấy giờ, ở trong các hành, hiểu rõ chỉ là trí của hành. Tâm kia ngu tối, luôn luôn tư duy về ngã: Ta lúc này nên ở tại đâu để tìm cầu về hành của ngã, vi tế cùng hành, chướng ngại mà chuyển. Do duyên ấy nên kẻ kia khởi suy nghĩ: Ngã sẽ không có chăng? Khởi niệm ấy chỉ có các hành, vị lai không có. Kẻ kia do theo đuổi thân kiến như thế làm chỗ dựa, nên phát sanh nhận thức về tùy chuyển biến dị. Do kinh sợ nên đối với nẻo tịch diệt kia, tâm thối chuyển.
Lại nữa, vì nhằm đoạn trừ sự kinh sợ như thế, nên có hai thứ pháp có nhiều chỗ tạo tác:
1. Ở chỗ các bậc có trí đồng phạm hạnh, tự hiển bày đúng như thật.
2. Nhân nơi pháp thiện, muốn phát khởi, hiểu rõ về tâm, cùng tâm điều hợp.
Lại phát khởi, hiểu rõ về tâm như thế: Là lắng nghe Chánh pháp, do ba thứ tướng nên phát sanh hoan hỷ:
1. Do hữu tình tăng thượng.
2. Do pháp tăng thượng.
3. Do tự tăng thượng.
- Hữu tình tăng thượng: Là do trông thấy đại sư đoan nghiêm, đủ uy lực lớn, đáng tán thán, kính ngưỡng sâu xa, cùng chỗ khen ngợi về pháp khéo thuyết giảng.
- Pháp tăng thượng: Nghĩa là pháp được thuyết giảng có thể khiến xuất ly khỏi khổ của nghiệp phiền não, cùng khiến tin hiểu về nghĩa thâm diệu tối thượng.
- Tự tăng thượng: Tức có năng lực, đối với pháp đã nêu giảng có thể tùy thuận giác ngộ.
Lại phát khởi tâm điều hợp như thế. Nghĩa là có ba kiến:
1. Hoặc dựa nơi tâm kia mà chuyển.
2. Hoặc do tâm kia nhận biết khắp.
3. Hoặc ứng hợp chỗ dẫn phát.
- Dựa nơi tâm kia mà chuyển: Là đối với các đế chưa được hiện quán, vì nhằm đạt được, nên dựa vào thắng giải cùng hành kia, hết sức khéo thường xuyên hành tập, chánh kiến mà chuyển.
- Do tâm kia nhận biết khắp: Tức dựa vào sự tùy thuận nơi chánh kiến hiện quán, đối với ba sự nơi Tátca-da-kiến của ngã chấp, cùng tánh là chỗ nương dựa của hai kiến đoạn, thường nơi tùy miên kia, và quả đã đạt được, có thể nhận biết rõ khắp. Nói ba sự:
1. Hoặc là đối tượng được nhận lấy.
2. Hoặc là chủ thể nhận lấy.
3. Hoặc nhận lấy như thế.
Đối tượng được nhận lấy là gì? Là năm thủ uẩn. Cái gì là chủ thể nhận lấy? Là bốn thứ.
Vì sao nhận lấy? Nghĩa là bốn thức trụ, tùy theo thứ lớp, như trước nên biết. Vì hai thứ nhận lấy là nơi chốn nương dựa của tâm.
Lại, đối với các triền hiện có kia đã dẫn dắt phi lý, duyên nơi cảnh giới kia, Tát-ca-da-kiến sanh khởi chấp trước cùng tùy miên, như trước nên biết.
-Thế nào là ứng hợp với chỗ dẫn phát? Tức là trụ nơi pháp kia, có thể đoạn trừ vĩnh viễn ba sự chấp trước của Tát-ca-da-kiến, cùng với tùy miên, đối với trí Thánh đế không dựa vào duyên khác.
Lại, nếu dựa vào chỗ nên nhận biết khắp kia, lúc chánh kiến chuyển, đối với ba xứ khởi chấp trước về ngã, cùng có tùy miên, nên ở trong các hành, hoặc tích tập hoặc ẩn mất, không khéo nhận biết. Ở trong xứ, hành hãy còn không thể nhập, huống chi là được xuất ly. Nếu tùy thuận hiện quán, lúc chánh kiến an trụ, ở trong ba sự. Ngã chấp hiện có, đều đã lìa trói buộc, cũng như bị tùy miên trói buộc. Ở trong các hành, hoặc tích tập hoặc ẩn mất, có thể khéo nhận biết, nên xa lìa hai biên, nhập hành ở giữa, tuy chưa xuất ly, đều có thể xuất ly.
Nếu đã dẫn phát hiện quán Thánh đế, do chánh kiến nên ở trong ba sự không chấp trước ngã, xa lìa tùy miên. Ở trong xứ, hành trước là hướng nhập, sau do đấy mới được xuất ly. Nên biết ba kiến lúc chuyển như thế, có sai biệt ấy.
Lại nữa, tụng nêu:
Mau thông tự thể, cảnh giới trí
Lưu chuyển, biết đủ, hành thuận dòng
Biết đoạn tướng tưởng lập trái lương
Sự tạo tác các phẩm sau rộng.
Vì nhằm chứng đắc giải thoát cứu cánh chân thật, chưa đạt được, lược có ba pháp, có thể khiến đạt được thông huệ nhanh nhạy:
1. Lực của trí.
2. Lực không phóng dật.
3. Lực luôn hành tập.
- Lực của trí: Nghĩa là, nếu trụ nơi trí kia, tức có thể nối tiếp vĩnh viễn dứt hết các lậu. Nên biết tức là trí kiến của hàng hữu học.
- Lực không phóng dật: Tức đã đạt được tri kiến như thế, dựa vào đạo đã đạt được như vậy, theo phương tiện siêng tu, phòng hộ pháp ác bất thiện đối với tâm.
- Lực luôn hành tập: Tức dựa nơi phương tiện ấy, siêng tu, thường tạo, thường chuyển, trọn không cho ta là đối với hôm nay được dứt hết các lậu, tâm giải thoát chăng? Là nơi ngày tiếp, là nơi ngày sau? Do tư duy tà ấy khiến tâm chán mệt. Không chán mệt rồi liền không khiếp sợ.
Không khiếp sợ rồi, nên không bỏ gia hạnh, có thể dứt hết các lậu.
Hỏi: Trí, kiến có gì sai biệt?
- Đáp: Nếu soi chiếu quá khứ cùng do vị lai, không phải là cảnh hiện thấy, thì huệ này gọi là trí.
Soi chiếu về cảnh hiện tại, huệ này gọi là kiến.
Lại, đối tượng được nhận lấy làm duyên, huệ này gọi là trí. Chủ thể nhận lấy làm duyên, huệ này gọi là kiến.
Lại, do Văn, Tư tạo thành, huệ ấy gọi là trí. Do Tu tạo thành, huệ ấy gọi là kiến.
Lại, có thể đoạn trừ phiền não, huệ ấy gọi là kiến. Phiền não đoạn trừ rồi, có thể chứng đắc giải thoát, huệ ấy gọi là trí.
Lại, duyên nơi cảnh của tự tướng, huệ ấy gọi là trí. Duyên nơi cảnh của cộng tướng, huệ ấy gọi là kiến.
Lại, do giả thiết lập ở trong khắp các hành nội ngoại kia, hoặc lập làm ngã, hoặc lập làm hữu tình như Trời, Rồng, Dược xoa… Hoặc lập làm quân binh, nhà cửa v.v… Do các hành của lý thế tục như thế, duyên nơi cảnh được nhận thức, huệ ấy gọi là trí. Nếu là chủ thể nhận lấy nơi tự tướng, cộng tướng, huệ ấy gọi là kiến.
Lại, tìm cầu các pháp, huệ ấy gọi là trí. Đã tìm cầu rồi, quán xét các pháp, huệ ấy gọi là kiến.
Lại, duyên nơi ảnh tượng không phân biệt làm cảnh, huệ ấy gọi là trí. Duyên nơi ảnh tượng có phân biệt làm cảnh, huệ ấy gọi là kiến.
Lại, ảnh tượng của cảnh giới có sắc làm duyên, huệ ấy gọi là kiến.
Ảnh tượng của cảnh giới vô sắc làm duyên, huệ ấy gọi là trí.
Hành giả do hoặc trí hoặc kiến như thế làm chỗ nương dựa, lúc theo phương tiện tu tập, lại siêng năng tu bốn sự thiện xảo:
1. Sự quan sát.
2. Sự lấy, bỏ.
3. Sự xuất, nhận.
4. Sự phương tiện.
- Sự quan sát: Là bốn niệm trụ. Vì nhằm đối trị bốn điên đảo, nên nhận biết khắp đúng như thật về tất cả cảnh.
- Sự lấy, bỏ: Nghĩa là bốn chánh đoạn. Vì nhằm đoạn trừ pháp bất thiện cùng vì tu tập các pháp thiện.
- Sự xuất, nhận: Tức là bốn thần túc. Dựa nơi bốn Tĩnh lự, thứ lớp vượt ra khỏi, khởi đầu từ ưu căn, cho đến lạc căn.
- Sự phương tiện: Nghĩa là các căn, lực, giác chi, đạo chi. Nên biết tức là chánh phương tiện có thể đoạn trừ các phiền não do kiến đạo, tu đạo đoạn dứt.
Siêng năng tu tập sự thiện xảo như thế, nên biết có bốn thứ nghĩa của đối tượng nương dựa và chủ thể nương dựa.
- Nghĩa của đối tượng nương dựa: Nghĩa là hành giả hành Quán, chánh cần tu tập.
- Nghĩa của chủ thể nương dựa: Tức là thành tựu việc tu học các pháp vô lậu, nhưng chưa thanh tịnh, vẫn bị màng lưới vô minh còn lại vây bọc.
Lại, các pháp kia do đạo thanh tịnh, sau mới thanh tịnh. Đạo thanh tịnh này, nên biết có bốn thứ sai biệt:
1. Quen gần với Chánh pháp. Tĩnh lự thẩm định đúng đắn.
2. Sự thân, bạn thân.
3. Dùng gốc Thi-la để giữ gìn các pháp như thiểu dục v.v…, huân tập, căn ngăn nơi tâm.
4. Ở riêng nơi chốn vắng lặng, dùng hai pháp Chỉ, Quán thù thắng, đạt an lạc chân chánh, làm sự hỗ trợ.
Lại, thanh tịnh là dựa vào đạo hành thanh tịnh kia, tu tập nhiều, khiến cho pháp hữu học phá trừ lưới vô minh, hướng đến địa vô học.
Lại, vì nhằm đạt được giải thoát cứu cánh chân thật, nên biết lược có năm thứ lần lượt:
1. Trước tích tập tư lương dùng làm chỗ dựa.
2. Dùng đấy làm chỗ dựa, tu Chỉ, Quán.
3. Dùng đấy làm chỗ dựa, hiện quán đầy đủ về đế, thắng giải về Niết-bàn.
4. Dùng đấy làm chỗ dựa, nơi chỗ chứng đắc còn kém, thiếu, không sanh biết đủ, cũng không an trụ, đối với pháp đáng chán, sanh sự chán bỏ sâu xa.
5. Dùng đấy làm chỗ dựa, chứng đắc định Kim cang dụ sau cùng, tương ưng nơi tâm học.
Lại nữa, do bốn nhân duyên, nên biết tất cả các hành, tự thể thảy đều là vô thường:
1. Tất cả tự thể nơi thọ lượng đều hữu hạn.
2. Tất cả tự thể đều do nhân sanh ra. Sự tạo tác của nhân kia là vô thường.
3. Lại có tự thể rộng lớn, hưng thạnh, nhưng chung quy cũng bị bào mòn, hoại diệt.
4. Lại do A-cấp-ma thuận hợp, nghĩa là Đức Phật, Thế Tôn, đối với pháp tánh vô thường của các tự thể, hiện thấy hiện chứng mà tuyên thuyết.
Lại có ba thứ viên mãn sai biệt của các kẻ thọ dục: Do nhân duyên này, nên các kẻ thọ dục luôn mãi tạo hý luận. Những gì là ba? Đó là:
1. Tài sản viên mãn.
2. Tự thể viên mãn.
3. Hữu tình rộng lớn thù thắng, cung cấp viên mãn.
Nên biết lại có ba thứ nhân duyên, có thể đạt được viên mãn sai biệt như thế. Nghĩa là thí, giới, điều phục các căn cùng hành, cùng quả do tu đạt được của từ thuộc cõi Dục. Từ là sự dẫn dắt đi trước. Từ là nơi chốn của nhân, đối với các hữu tình bị tổn hại, cùng chuyển nơi hành tịch tĩnh.
Lại nữa, nên biết đối với sự của đối tượng nhận thức, có bảy thứ trí hành thông đạt như thật:
1. Trí đã đạt được.
2. Trí chưa đạt được.
3. Trí không điên đảo.
4. Trí của xứ ấy, không có nhận biết là không có.
5. Trí của xứ ấy, nhận biết chỗ còn lại là chẳng không.
6. Trí nhận biết về khổ, bất tịnh.
7. Trí nhận biết về sự diệt hoại mau chóng.
Lại do mười lăm thứ tướng biết rõ về các hành, có thể mau chóng đoạn dứt tất cả hành ngu. Những gì là mười lăm? Nghĩa là do thủy giới sanh ra nên vô ngã. Giống với ngã mà hiển hiện nên không trụ. Theo dục mà tạo tác, nên biết rõ các sắc cũng như bọt nước tụ lại. Do ba hòa hợp sanh pháp tương tợ, như mây, đất, mưa theo phương tiện hòa hợp, biết rõ các thọ dụ như bọt nước nổi. Nơi cảnh của đối tượng nhận thức, pháp tương tợ có thể hiển bày, có thể thiêu đốt, có thể khiến mê loạn, nên biết rõ các tưởng đồng như dợn nắng. Tát-ca-da-kiến là gốc rễ đã đoạn trừ. Nhiều thứ nhân của tự thể có sai biệt. Pháp tương tợ nơi lượng sát na, thời gian sau không tạm dừng, nên biết rõ các hành ví như thân cây chuối. Thức của hữu thủ dựa nơi bốn thức trụ, phát khởi đủ loại tự thể, tùy chuyển theo pháp tương tợ, nên biết rõ các thức giống với sự huyễn.
Phân biệt rộng các điều ấy, nên biết như nơi phần Nhiếp dị môn ở trước.
Lại nữa, có hai thứ thế gian thâu tóm tất cả hành:
1. Hữu tình thế gian.
2. Khí thế gian.
Hữu tình thế gian gọi là chủng loại sanh tử. Khí thế gian gọi là khí sanh tử (vật chứa đựng sanh tử). Chủng loại sanh tử không đồng với pháp sanh tử khác. Đối chiếu với khí sanh tử, nên biết lược có năm phần không đồng: Nghĩa là khí sanh tử cùng với nhân sanh ra. Chủng loại sanh tử thì chỉ do không cùng. Đó gọi là nhân, là phần thứ nhất không đồng.
Lại, khí sanh tử, ở nơi biên vực không đầu cuối, trước sau, đoạn. Chủng loại sanh tử, ở nơi không đầu cuối nối tiếp lưu chuyển, không đoạn dứt. Đó gọi là thời, là phần thứ hai không đồng.
Lại, khí sanh tử, hoặc bị lửa nước gió đoạn hoại. Chủng loại sanh tử thì không như thế. Đó gọi là đối trị, là phần thứ ba không đồng.
Lại, khí sanh tử, nhân không vĩnh viễn đoạn trừ, chủng loại sanh tử thì đoạn rồi không nối tiếp. Đó gọi là nối tiếp, là phần thứ năm không đồng.
Lại, đối với sanh tử do năm thứ tướng, khiến tất cả hàng ngu tối lưu chuyển không dứt:
1. Do nhân của ái.
2. Do quả của ái.
3. Do tự tánh của ái.
4. Do nhân lần lượt.
5. Tức nhân lần lượt nương dựa nơi đời trước không cùng tận.
Ở đây, vô minh đó gọi là nhân của ái. Các nghiệp khiến có thể sanh nơi nẻo thiện nẻo ác, đó gọi là quả của ái. Do nghiệp khiến đi đến nẻo thiện, bị ái kiết trói buộc, kẻ ngu tự nhiên vui thích đi tới. Do nghiệp khiến đi tới nẻo ác, bị vòng xích ái cột chặt, kẻ ngu tuy không muốn đến, nhưng bị cưỡng bức khiến đến.
Tự tánh của ái: Lược có ba thứ:
1. Ái của hữu sau.
2. Ái cùng hành với hỷ, tham.
3. Ái của các thứ hỷ lạc kia. Ba ái như thế lược gồm thâu làm hai:
1. Ái hữu.
2. Ái cảnh.
Ái của hữu sau, đó gọi là ái hữu. Ái cùng hành với hỷ, tham.
Nghĩa là lúc sắp đạt được cảnh giới hiện tiền, cùng đã đạt được cảnh nhưng chưa thọ dụng, và đối với cảnh hiện tiền đang thọ dụng với những tham ái hiện có.
Ái của các thứ hỷ lạc kia: Là tham ái hiện có đối với cảnh được mong cầu của vị lai. Nên biết ở đây do ái cùng hành với hỷ tham nên gọi là ái kiết buộc. Do ái của hữu sau cùng ái của các thứ hỷ lạc kia, nên gọi là vòng xích ái cột chặt. Nếu đối với sự việc kia, ái kiết trói buộc, gọi là dong ruổi. Nếu ở nơi sự việc kia, vòng xích ái cột chặt, gọi là lưu chuyển.
Lại, đối với đời lâu xa, nhân lần lượt dẫn đến các hành nối tiếp, biên vực trước khó nhận biết nẻo vô cùng tận của sau, do năm tướng khiến kẻ ngu lưu chuyển ấy, nên biết lại do năm tướng trói buộc:
1. Trói buộc nơi xứ kia.
2. Do xứ kia mà bị trói buộc.
3. Chính là chủ thể trói buộc.
4. Dựa nơi xứ kia nên bị trói buộc.
5. Có chỗ lãnh nhận.
- Trói buộc nơi xứ kia: Tức do nghiệp nên có thể đi đến nẻo thiện, trụ nơi nẻo thiện mà bị trói buộc Hoặc do nghiệp nên có thể đi tới nẻo ác, ở nơi nẻo ác, bị gắn chặt mà trói buộc.
Lại do ái cùng hành với hỷ tham, nên đối với sự của chính mình, trụ mà bị trói buộc. Do ái của các thứ hỷ lạc kia, cùng ái của hữu sau, nên đối với sự việc của chính mình, gắn chặt mà bị trói buộc.
- Do xứ kia mà bị trói buộc: Tức là phàm phu ngu tối bị vô minh trói buộc.
- Chính là chủ thể trói buộc: Là pháp tương tự của tự đồng loại đối với khổ không chán.
Dựa nơi xứ kia mà bị trói buộc: Là dựa nơi uẩn sau mà bị trói buộc.
Có chỗ lãnh nhận: Là lãnh nhận các khổ như sanh v.v…
Lại nữa, phàm phu ngu tối, đối với các sự hữu lậu có bốn thứ biết đủ, nên biết phần nhiều là các ngoại đạo. Đó là:
1. Biết đủ đối với thân người.
2. Biết đủ đối với thân Trời thuộc cõi Dục.
3. Biết đủ đói với việc sanh cõi Phạm thế.
4. Biết đủ đối với việc đạt đến biên vực Hữu đảnh.
Kẻ ngu đối với các thứ kia, theo thứ lớp, hoặc đi hoặc trụ, hoặc ngồi hoặc nằm.
Lại có năm thứ khiến tất cả kẻ ngu yêu thích đường đi:
1. Hữu sau.
2. Cảnh giới mong cầu của vị lai.
3. Cảnh giới hiện tiền sắp được.
4. Cảnh giới hiện có đã được.
5. Cảnh giới hiện tiền đang thọ dụng.
Nên biết, đối với các pháp kia, như thứ lớp, đi đến v.v… có sai biệt.
Ở đây, đi tới có hai thứ:
1. Đối với hữu sau.
2. Đối với cảnh giới mong cầu của vị lai. Lại có bốn thứ yêu thích đường đi:
1. Cảnh giới do ý nghiệp mong cầu.
2. Hai nghiệp thân, ngữ.
3. Đạt được.
4. Ở trong chỗ đạt được, theo sự mong muốn, hoặc chuyển hoặc hành tập.
Đây là phát nghiệp yêu thích đường đi, hoặc cầu cảnh giới, hoặc lại các hữu, nên biết đối với bốn thứ đường đi kia, như thứ lớp của chúng, đi đến v.v… có sai biệt.
Như nói về đi đến v.v…, đối với các sự hữu lậu khác đã nói, với sự biết đủ hiện có, yêu thích đường đi, vui thích hý luận, nhiễm chấp tham đắm bốn xứ có sai biệt, như thứ lớp của chúng, nên biết cũng thế.
Lại có hai thứ sai biệt nơi quả tướng của sự yêu thích đường đi:
1. Sai biệt của tâm.
2. Sai biệt của thân.
Sai biệt của tâm lại có hai thứ:
1. Sai biệt của phẩm loại. 2. Sai biệt của tạp nhiễm.
- Sai biệt của phẩm loại: Là do tự tánh, chỗ dựa, đối tượng duyên, trợ bạn.
- Sai biệt của tạp nhiễm: Là do hiền não hiện có như Tham-sân-si cùng các tùy phiền não.
Sai biệt của thân cũng có hai thứ:
1. Vô số thân có sai biệt.
2. Một loại thân có sai biệt.
Nên biết ở đây, sai biệt của tạp nhiễm hiện có nơi tâm, có thể làm nhân cho hai thứ sai biệt của thân.
Vì nhằm đoạn trừ chúng, các người tu hành nên dùng thường xuyên tác ý không điên đảo, siêng tu hành Quán.
Lại do bốn thứ nhân sai biệt, nên khiến quả sai biệt:
1. Hoặc đối với sai biệt ấy.
2. Hoặc do sai biệt ấy.
3. Hoặc tức sai biệt ấy.
4. Hoặc như sai biệt ấy.
- Đối với sai biệt ấy: Là đối với sai biệt hiện có của nẻo thiện, nẻo ác.
- Do sai biệt ấy: Tức do Tham-sân-si làm nhiễm ô tâm khiến có sai biệt kia.
- Tức sai biệt ấy: Nghĩa là vô số sai biệt của năm thứ hành gồm thâu thân thọ nhận.
- Như sai biệt ấy: Tức đối với nhân duyên thanh tịnh, tạp nhiễm của các hành lưu chuyển cùng thể thanh tịnh, không nhận biết đúng như thật, sanh vui thích v.v… cùng vô số sai biệt, như đi chạy tới v.v…
Lại nữa, không thể thông tỏ các hành vô thường, Tátca-da-kiến làm chỗ dựa, thuận theo dòng chảy mà hành, các hàng ngu tối, do năm thứ tướng, nên biết là thuận theo dòng chảy mà bị chìm nổi:
1. Hoặc ở nơi sự chìm nổi ấy.
2. Hoặc do sự chìm nổi ấy.
3. Hoặc dựa vào sự chìm nổi ấy.
4. Hoặc như sự chìm nổi ấy.
5. Hoặc các tướng hiện có lúc chìm nổi.
- Ở nơi sự chìm nổi ấy: Là ở nơi nẻo thiện, nẻo ác mà bị chìm nổi.
Như từ hai bờ kia đây qua lại đều bị chìm nổi.
- Do sự chìm nổi ấy: Là do tánh nhận chìm của sông ái nên bị chìm nổi. Nên biết ái này có năm thứ tướng:
1. Đi đến các cảnh giới, thuộc phần kém của nẻo, cõi.
2. Tùy hành vi tế, khó nhận biết rõ.
3. Nơi các cảnh giới khó xoay chuyển.
4. Cho đến cõi Hữu đảnh, cũng là chốn theo đuổi của vô số các hành lớn rộng.
5. Tướng không tịch tĩnh, làm loạn thân tâm.
- Dựa vào sự chìm nổi ấy: Là dựa vào năm thứ các hành như sắc v.v… mà bị chìm nổi. Tức ở nơi hai bờ của nẻo thiện, nẻo ác, có năm thứ hành với phẩm loại sai biệt, thường xuyên duyên vịn, thuận dòng chìm nổi.
- Như sự chìm nổi ấy: Thế nào là chìm nổi? Nghĩa là đối với các hành, như trước đã nói về sự lưu chuyển, theo thứ lớp của chúng không nhận biết đúng như thật, hoặc chấp là ngã cùng ngã sở.
- Các tướng hiện có nơi lúc chìm nổi: Nghĩa là kẻ kia, lúc bị chìm nổi như thế, tuy thân rất yêu quý muốn khiến được dài lâu, nhưng do tự tánh diệt, nên không thể khiến trụ.
Như bị chìm nổi, cùng với đấy trái nhau, nên biết tức là ngược dòng chảy mà hành.
Lại, bậc thông huệ, có mười thứ tướng, nên biết là gồm thâu đủ tướng của các thông huệ. Đó là:
1. Thành tựu Huệ câu sanh.
2. Thành tựu Huệ phương tiện do Văn-Tư-Tu tạo thành.
3 Thành thục nên không dao động. Khéo tư duy về chỗ nên tư duy. Khéo thuyết giảng về chỗ nên nêu giảng. Khéo tạo tác chỗ nên tạo tác.
4. Có thể tự dựa nơi tánh hiện có của mình, chưa từng vì sự sống mà nhờ cậy kẻ khác.
5. Có chỗ cầu mong, không gì là không an lạc.
6. Có chỗ cầu đạt, có thể dựa nơi hành chân chánh, thảy đều dùng pháp, không dùng phi pháp.
7. Các thứ vật dụng, của cải thích hợp với mình, có thể phòng giữ đúng đắn không khiến mất mát.
8. Quán xét lỗi lầm, tai họa mà thọ dụng.
9. Đối với thuốc men hiện có của duyên bệnh, luôn quan sát, xét chọn, sau đấy mới sử dụng.
10. Có thể khéo tránh được duyên chết phi thời.
Mười thứ tướng của thông huệ như thế, nên biết là gồm thâu đủ tướng của các thông huệ.
Lại nữa, ở trong các hành, dựa nơi lý vô ngã, để nhận biết, đoạn trừ, nên biết lược do ba tướng sai biệt.
Nghĩa là, đối với các hành, có thể nhận biết rõ khắp về Tát-ca-da-kiến, nhưng chưa đoạn trừ. Hành giả kia đối với các hành có hành quên niệm, nhưng phần nhiều là hiện hành ít không quên niệm. Tát-ca-da-kiến đã vĩnh viễn dứt trừ: Nên biết tướng ấy cùng với phần kia trái nhau. Đó gọi là tướng sai biệt thứ nhất.
Lại, nơi các hành, tuy nhận biết rõ khắp về Tát-cada-kiến, nhưng chưa đoạn trừ, ở trong các sự việc rộng lớn, khả ái, sanh nhiều hỷ lạc. Đối với các cảnh giới thấp kém không đáng yêu thích, sanh nhiều sầu khổ. Hai cảnh giới kia lúc hiện tiền, người không phóng dật, tự mình hãy còn không thể buộc giữ chánh niệm, huống hồ là kẻ phóng dật. Kẻ kia bấy giờ bị Tát-ca-da-kiến vây buộc nơi tâm, do đấy khiến tâm không thể hiểu rõ.
Tát-ca-da-kiến nơi người đã đoạn trừ vĩnh viễn: Nên biết về tướng, so với trường hợp kia là trái nhau. Đó gọi là tướng sai biệt thứ hai.
Lại, đối với các hành, Tát-ca-da-kiến chưa đoạn trừ vĩnh viễn: Tác chưa có thể ở trong tất cả hành nội, hiện tiền an lập lìa tướng hữu tình, như đối với sự vật bên ngoài, như cỏ cây lá v.v…
Người đã đoạn trừ vĩnh viễn Tát-ca-da-kiến: Nên biết tướng ấy cùng với trường hợp kia trái nhau. Đó gọi là tướng sai biệt thứ ba. Như thế là đã đoạn trừ Tát-cada-kiến, có ba thứ tướng sai biệt ấy, nên biết lại có ba thứ thắng lợi:
1. Đoạn trừ vĩnh viễn tất cả phiền não có thể chiêu cảm hữu sau.
2. Dựa vào đấy, không lâu sẽ đạt được sự tích tập mau chóng đạo đối trị.
3. Đã tạo nghĩa lợi cho mình rồi, tức dựa vào đạo kia, theo phương tiện siêng tu hiện pháp lạc trụ, do đấy đạt được an lạc trụ cùng tột.
Lại nữa, do bốn sai biệt, nên biết tu tập tưởng vô thường, khổ não của tất cả thứ hành. Những gì là bốn? Đó là:
1. Sai biệt về quả.
2. Sai biệt về tự tánh.
3 Sai biệt về phẩm loại.
4. Sai biệt về phương tiện.
- Sai biệt về quả: Là tu tập tướng này, có thể trừ bỏ tất cả tham của ba cõi Dục, Sắc, Vô sắc, cùng trạo, mạn, vô minh. Nên biết ở đây hiển thị ba thứ phiền não gốc được đoạn trừ, cùng hiển bày ba thứ tùy phiền não được đoạn trừ. Phiền não tham của cõi Dục, trạo cử là trợ bạn. Phiền não tham của cõi Sắc, mạn là trợ bạn. Hoặc tham của cõi Vô sắc, vô minh là trợ bạn.
Lại có sai biệt: Tức ở trong ấy, hiển thị kiết hạ phần, thượng phần đã dứt hết.
- Sai biệt về tự tánh: Nghĩa là ở trong đó, do tu tập đúng đắn về huệ do Văn tạo thành, gọi là thân cận. Do tu tập đúng đắn về huệ do Tư tạo thành, có thể nhập tu, gọi là tu tập. Do tu tập đúng đắn về huệ do Tu tạo thành, gọi là tu tập nhiều.
Lại do tu tập tác ý liễu tướng, gọi là thân cận. Chỉ trừ tác ý gia hạnh cứu cánh, do tu tập đúng đắn các tác ý còn lại, gọi là tu tập. Do tu tập tác ý gia hạnh cứu cánh, gọi là tu tập nhiều, đó gọi là loại sai biệt thứ hai, thứ ba. Lại, do tác ý ề chỗ dựa, đối tượng duyên, tùy theo thứ lớp, nên biết đó gọi là thừa, là sự, là tùy kiến lập.
Lại, do trong thời gian dài, thường xuyên tu tập, nên gọi là thuần thục. Luôn luôn tu tập theo phương tiện thuận hợp, nên gọi là khéo thọ nhận cùng khéo phát khởi.-Sai biệt về phẩm loại: Tức lúc tu tưởng vô thường như thế, có thể mau chóng dứt trừ vĩnh viễn hết thảy tùy miên, lìa bỏ tất cả pháp thiện của địa dưới, thâu nhận tất cả pháp thiện của địa trên. Đối với hết thảy tưởng bất tịnh khác, tánh rất cao rộng, có thể khéo trụ giữ. Hành khắp tất cả, cũng như quán xét sự việc của đối tượng nhận lấy. Tức quán sự việc của chủ thể nhận lấy như thế, tướng giải thoát kia có thể đạt được tưởng vô thường, vô lậu. Hoặc tướng hữu lậu, hoặc tưởng vô lậu, như vậy tất cả đều đối với Niết-bàn khéo có thể tùy thuận, hướng đến, sắp nhập. Đều có thể đối trị bóng tối lớn của vô minh, hết thảy đều vĩnh viễn đoạn trừ. Do được đoạn trừ nên thanh tịnh, tươi trắng. Các tưởng vô học đều do tất cả tưởng học vô lậu tăng thượng nên được.
- Sai biệt về phương tiện: Là ở riêng nơi chốn vắng lặng, do thường xuyên tác ý không điên đảo, quán xét các hành, tánh là vô thường, do tưởng vô thường trụ nơi tưởng vô ngã. Ở trong kiến đạo đã trụ nơi tưởng vô ngã vô lậu rồi, đối với tu đạo trên, do tưởng hữu học vĩnh viễn loại trừ ngã mạn, theo đấy đạt được hai thứ Niếtbàn đều đủ.
Lại nữa, vì trụ nơi Niết-bàn, nhưng chưa tích tập tư lương thiện, lược có năm thứ pháp trái với tư lương:
1. Nhớ nghĩ về các sự việc vui cười, thừa phụng, hoan lạc ngày trước, nhân đấy phát khởi tác ý suy xét luyến mộ cùng hành, sanh sầu não.
2. Do vô số các thứ ấy làm chỗ dựa, nên ở trong pháp được lãnh nhận rốt ráo, sanh nhiều quên niệm, khiến đối với các pháp không thể hiển bày rõ.
3. Do ăn uống hoặc quá hoặc thiếu, vì thế khiến thân nặng nề hoặc suy yếu, đối với các phạm hạnh không thích tu trì.
4 Vui thích ngủ nghỉ, không thường xuyên hành đoạn dứt, nên bị thùy miên phẩm thượng trói buộc.
5. Gần gũi với các thứ hỗn tạp mà trụ, xa lìa nẻo gia hạnh tư duy chắc thật về Chánh pháp.
Năm thứ pháp trái với tư lương như thế, lại có năm thứ pháp tùy thuận nơi chúng:
1. Đối với việc lìa hai thứ dục, tùy theo một thứ cũng chưa có thể lìa. Nghĩa là nơi các triền, là lìa dục phần xa, siêng tu phẩm thiện, cùng đối với tùy miên được vĩnh viễn loại trừ, là lìa dục đạt được đối trị đúng đắn.
2. Không giữ gìn căn môn.
3. Ăn uống không biết lượng.
4. Đầu đêm, cuối đêm không thể gắng sức siêng tu tỉnh giác.
5. Không thể quán xét pháp thiện một cách rốt ráo.
Cùng với trên trái nhau, nên biết đó gọi là pháp thuận với tư lương, và pháp tùy thuận có thể thuận theo tư lương kia.
Lại, các Thanh văn tu hành pháp thuận tư lương như thế, cùng Do nhân duyên ấy, nên trong thời gian đó, lúc cầu đạt Niết-bàn, Đại sư đã vì các vị chế lập năm thứ ngôn giáo chánh đạo:
1. Do dựa nơi sự quán xét pháp như đã lãnh hội, đối khắp tất cả các hành vô thường, các pháp vô ngã, Niếtbàn tịch tĩnh, lại do tác ý thế gian mà được không nghi hoặc.
2. Vào lúc trụ, không vướng mắc nơi ba sự để tầm tư bất chánh. Ba sự là:
- Các vật dụng nuôi sống thân mạng.
- Tướng tổn hại kẻ khác.
- Hoặc bị kẻ khác hủy nhục.
Hoặc tùy có một thứ không yêu thích hiện hành, là pháp không đồng phần của các vị đồng phạm hạnh.
3. Chỉ dạy, trao truyền là trước hết. Do dựa nơi âm thanh kẻ khác, tác ý như lý, nên có thể sanh chánh kiến, có thể đoạn trừ tà kiến. Nên biết ba thứ ấy gọi là ngôn giáo của chánh đạo lúc trụ.
Lại có hai thứ ngôn giáo của chánh đạo nơi lúc hành. Nghĩa là các bậc đồng phạm hạnh có trí, lúc vì kẻ khác tuyên thuyết về xứ phi xứ, không sanh giận dữ. Lại do các vật dụng nuôi sống thân mạng thô xấu, hoặc được hoặc không được, cùng do Giới v.v… hiện có tai hại, nhưng tâm không nhiệt não. Đó là loại thứ nhất.
Đối với việc đạt được lợi dưỡng, sự cung kính thù thắng, tâm không lo lắng. Đó là loại thứ hai.
Hành giả do lúc trụ lúc hành như thế, nên có thể tu tập đúng đắn diệu đạo Niết-bàn, do đấy không lâu sẽ chứng đắc Niết-bàn, trọn không hủy mất.
Lại nữa, bậc Đại sư đối với các Thanh văn, lược có năm thứ sự việc tạo tác của bậc Thầy:
1. Điều phục đúng đắn.
2. Thâu nhận chính đáng.
3. Quở trách đúng đắn.
4. Nêu đúng đắn về tạp nhiễm.
5. Nêu đúng đắn về thanh tịnh.
Lại nữa, do hai nhân duyên, đối với các sự việc tranh biện trái vượt nơi Thanh văn, che giấu cùng "ký biệt" sự việc đã tranh luận kia. Đó là:
1. Nhiễu loạn tăng rộng.
2. Tương ưng với luật.
Lại nữa, do bảy nhân duyên nên bậc Đại sư từ bỏ các chúng Thanh văn:
1. Thấy tất cả loại đều hành theo hành tà.
2. Thấy các hành kia chiếm phần nhiều.
3. Do vì đứng đầu của chúng kia tạo phương tiện để thành “thượng tòa” đối với A-già-lợi-da, Ô-ba-đà-da.
4. Không kham nhẫn cùng trụ.
5. Bị đuổi hẳn.
6. Lẩn tránh lỗi lầm hiện tiền.
7. Khiến lỗi lầm vị lai không sanh khởi.
Lại nữa, do mười nhân duyên, nên Đức Như lai đi vào xóm làng khất thực:
1. Sẽ hiển bày công đức của hạnh Đầu-đà.
2. Vì muốn dẫn dắt phần của chúng kia khiến nhập khất thực.
3. Vì muốn dùng hành đồng sự để thâu tóm một phần của chúng kia.
4. Vì muốn cùng với chúng sanh đời vị lai làm ánh sáng tỏa chiếu rộng lớn, cho đến khiến họ tạm khởi xúc chứng.
5. Vì muốn dẫn dắt chúng sanh thô kém kia thắng giải về các ngoại đạo.
6. Vì các chúng sanh kia dựa theo âm thanh, khởi hủy báng, nên hiện bày sắc diệu nơi oai nghi tịch tĩnh khiến họ kinh ngạc, tâm sanh quy hướng.
7. Vì khiến cho chúng sanh trong xứ kia, dùng công sức ít mà gieo trồng nhiều phước đức.
8. Vì khiến cho kẻ phóng dật hủy hoại niềm tin, sanh khởi xấu hổ sâu xa, tuy dùng công sức nhỏ mà đạt được phước lớn. Như vì kẻ phóng dật, thì đối với kẻ biếng nhác cũng thế.
9. Vì vô số tai hại của các chúng sanh đui điếc, điên cuồng, tâm loạn, đều khiến tĩnh dứt.
10. Vì khiến cho tám chúng hộ pháp như Trời, Rồng, Dược xoa v.v… với uy đức rộng lớn vô biên, tháp tùng với Đức Như lai đến các nơi chốn khất thực, sanh sự kính ngưỡng tốt đẹp, sâu xa, siêng năng tăng thêm việc bảo vệ khách, không bị não hại.
Lại nữa, do tám nhân duyên, nên Đức Như lai nhập nơi thiên trụ tịch tĩnh:
1. Vì dẫn dắt kẻ ưa thích tạp trụ, khiến họ nhập vào nẻo xa lìa.
2. Vì muốn dùng hành đồng sự thâu tóm kẻ xa lìa.
3. Tự thọ nhận hiện pháp lạc trụ.
4. Vì cùng với chư Thiên đại tộc, chỉ rõ là đồng tập hội.
5. Vì dùng Phật nhãn quan sát mười phương thế giới, hiện đại thần hóa, theo chỗ ứng hợp, tạo các sự việc lợi ích.
6. Vì khiến cho các chúng Thanh văn, đối với việc gặp Như lai sanh khởi sự khát ngưỡng sâu xa.
7. Vì nhằm hiển bày các vị Đại Thanh văn đối với pháp đã lược nêu, khéo có thể ngộ nhập.
8. Khuyên xả bỏ việc ưa thích, chấp trước nơi hý luận, tạo tác ngôn từ.
Lại nữa, do năm thứ tướng, nên bậc Đại sư thâu nhận các chúng Thanh văn:
1. Do pháp.
2. Do tài sản.
3. Do cùng nương dựa.
4. Do sự thâu nhận ban đầu.
5. Do giúp sức để thâu nhận.
Lại nữa, do bảy nhân duyên, nên Đế Thích Phạm Thiên đi đến trụ xứ của Như Lai:
1. Vì để cúng dường Như lai.
2. Vì để được nghe Chánh pháp.
3. Vì để quyết đoán chỗ sanh nghi.
4. Vì thuận theo người khác mà làm kẻ tùy tùng.
5. Vì thương xót kẻ khác, muốn tạo lợi ích.
6. Do quý trọng Thánh giáo của Như lai.
7. Nhận biết Đức Như lai khởi tâm thế tục, muốn khiến mình phó hội.
Lại nữa, do năm thứ tướng, nên biết tánh của tất cả người mới tu tập:
1. Do xuất gia muộn.
2. Do xuất gia từ ấu thơ.
3. Do xuất gia từ thiếu niên.
4. Do khó nhọc thúc đẩy xuất gia.
5. Do xuất gia thọ cụ giới.
Lại nữa, do ba thứ tướng, nên sanh khởi ố tác:
1. Trái vượt đối với sở học tăng thượng.
2. Nguyện thọ nhận Pháp-Luật tăng thượng.
3. Dứt bỏ cuộc sống gia đình tăng thượng.
Lại nữa, Đức Như lai sắp sửa vì các Thanh văn tuyên thuyết Chánh pháp, hiện bày bốn thứ tướng:
1. Từ nơi chỗ ngồi rất thấp, thong thả khởi lên tòa ngồi rất cao, an nhiên mà ngồi.
2. An trụ thuận theo oai nghi thuyết pháp.
3. Phát khởi âm thanh vui vẻ, chỉ rõ là sắp thuyết pháp.
4. Diện mục ngắm nhìn khắp cả, như long tượng vương.
Lại nữa, Thanh văn phạm giới, nên an trụ nơi ba xứ, xấu hổ khi đi đến trụ xứ của Đại sư:
1. Biết rõ điều đã phạm, là xứ tăng thượng.
2. Thờ sư, mất oai nghi là xứ tăng thượng.
3. Do sự việc sai trái, tức nên dùng phương tiện điều phục oai nghi, đi đến trụ xứ của Đại sư là xứ tăng thượng.
Lại nữa, do ba thứ tướng, nên chính thức quở trách Thanh văn phạm giới:
1. Ông chỉ trông mong về cuộc sống thấp kém.
2. Ý lạc của ông không thanh tịnh.
3. Ý lạc của ông là dùng đời sống để hành phi pháp. Lại nữa, ở trong Pháp-Luật khéo thuyết giảng, lược do sáu tướng, nên biết là thâu tóm khắp tất cả hành tà:
1. Lỗi lầm của hiện hành.
2. Lỗi lầm của ý lạc.
3. Lỗi lầm của gia hạnh.
4. Lỗi lầm của tầm tư.
5. Lỗi lầm của nương dựa.
- Lỗi lầm của hiện hành: Nghĩa là do triền tham nên nhiễm, do triền sân nên ghét. Đã mang giữ tham sân mãnh liệt, nên hầu như không biết xấu hổ. Do không xấu hổ nên trụ nơi ác không bỏ.
- Lỗi lầm của ý lạc: Nghĩa là đối với biên nhiễm thí ý lạc của tham ấy là hết sức thấp kém. Như vậy, đối với biên ghét bỏ, ý lạc của sân ấy cũng hết sức thấp kém.
- Lỗi lầm của gia hạnh: Tức hoặc có khi không phát khởi tinh tấn, hoặc có lúc tinh tấn chậm chạp.
- Lỗi lầm của trí huệ: Nghĩa là hoặc ở trong huệ do Văn Tư tạo thành quên mất chánh niệm, trụ nhiều nơi ngu tối. Đối với huệ do Tu tạo thành, tâm không tịch định.
- Lỗi lầm của tầm tư: Nghĩa là đối với các thứ giác ác, bất thiện hiện có của việc thuận theo đời sống gia đình, phần nhiều tầm tư, nên đối với Chánh pháp-luật, tâm bị tán loạn.
- Lỗi lầm của nương dựa: Tức kẻ kia nương dựa nơi nhân không tu tập từ thời xa xưa. Do nhân không tu tập, nên tạo thành tự tánh hẹp kém, tin nhỏ, tạo thành tự tánh tu trụ nơi Giới nhỏ, tạo thành tự tánh trụ giữ niệm nhỏ, tạo thành tự tánh cùng sanh huệ nhỏ.
Lại nữa, do bốn thứ tướng, nên có thể khiến kẻ kia tuy nhập nơi Thánh giáo nhưng hành theo hành tà:
1. Do ý lạc thấp kém, không tịnh.
2. Do xét tìm những tỳ vết của Thánh giáo, là giặc của Chánh pháp.
3. Do chuyên vì nhân duyên ăn uống, y phục, đời sống.
4. Do sợ hãi vua quan, giặc cướp, chủ nợ tăng thêm sự bức bách. Nếu hành theo các hành tà như thế, nên ở nơi hai sự có chỗ trở ngại:
1. Trở ngại vì hoại mất tự nghĩa của tại gia.
2. Trở ngại vì hoại mất tự nghĩa của xuất gia.
Lại nữa, hành tà như thế có hai nhân duyên. Nghĩa là đối với ba sự không tầm tư đúng đắn, cùng các tướng bất chánh của hành trước kia. Về ba sự, như trước đã nói, nên biết.
Đối với việc phát khởi các tưởng bất chánh kia, theo đấy giữ lấy tướng tốt. Từ đấy về sau, đối với tùy pháp kia, phần nhiều tùy theo tầm tư, dò xét.
Lại nữa, vì nhằm đoạn trừ nhân duyên của hành tà như thế, nên biết cũng có hai thứ đối trị:
1. Vì nhằm đoạn trừ tầm tư bất chánh, nên thường xuyên dùng hai hành không điên đảo, đối với các niệm trụ khéo khiến tâm an trụ.
2. Vì đoạn dứt các tưởng không đúng đắn, nên tâm tu tập Tam-ma-địa vô tướng.
Tu đối trị này, chính yếu là do ở trong việc tu đối trị kia, cần vui thích mong muốn mãnh liệt mới có thể thành tựu đầy đủ, không phải là sự vui thích mong muốn không mãnh liệt.
Sự mong muốn mãnh liệt ấy do hai duyên sanh. Nghĩa là sự đối trị ấy có quả lớn, nên không chung với tất cả các ngoại đạo. Có quả lớn: Nghĩa là lúc tu tập liền có thể khắc phục, chứng đắc định tâm vô tướng, cùng trụ nơi môn cam lồ vi diệu của hai cảnh giới. Đó là cảnh giới đoạn trừ và cảnh giới không dục, hoặc Hữu dư y và Vô dư y. An trụ nơi ấy là gần với hai Niết-bàn, hiện tại chưa được, nhưng tất cả đều được.
Nói không chung: Tức định vô tướng chỉ nội pháp có, các ngoại đạo không có. Vì sao? Vì do ngoại đạo kia nếu có chỗ đạt được, tức liền tăng ích quán không đúng như lượng. Nếu không chỗ đạt được, tức vọng phân biệt. Do ngã kiến nên ngu tối đối với các hành. Hoặc chỉ nơi thân, hoặc chỉ là vô sắc, hoặc gồm chung cả hai, sanh chấp trước về ngã. Do chấp ngã, cho ngã sẽ là không, nên đối với Niết-bàn, tâm không vui thích, hãy còn chưa có thể đi vào, huống hồ là an trụ, chỉ tăng thêm kinh sợ khiến tâm thối lui. Người trụ nơi nội pháp, cùng với ngoại đạo kia trái nhau, ở nơi Bát Niết-bàn tâm không thối chuyển, biết rõ chỉ là khổ diệt, thấy chỉ là đức tĩnh. Nếu các vị hữu học chỉ cầu nơi nội diệt, không vì đạo sanh, lại từ kẻ khác cầu chỉ dạy trao truyền, khuyên bảo. Hoặc các bậc vô học chỉ vui mừng nơi nội diệt, rốt cuộc lại không cầu dứt hết các phiền não. Chỉ có nhân trước đã sanh các hành, tự nhiên quy diệt mà Bát-niết-bàn.
Lại nữa, tụng nêu:
Nhân thắng lợi, hai trí
Kẻ ngu phần vị năm
Hai thứ kiến sai biệt
Đối với Thánh giáo ấy.
Nhân của tất cả hành lược có hai thứ:
1. Chung.
2. Không chung.
- Nhân chung: Nghĩa là hỷ làm nhân trước. Do hỷ ấy nên đối với các xứ sanh kia ngăn chặn sự chán lìa, làm nhuần thấm tự thể. Vì dục sắp sanh nơi xứ đã sanh, tuy có tất cả phiền não làm nhân, nhưng ở nơi xứ sanh, kẻ sanh hỷ sanh, không phải kẻ ở nơi xứ kia khởi tưởng chán nghịch.
Lại, tức hỷ này chỉ dựa nơi sắc mà nói. Nhân trước sanh rồi, không đợi nhân khác mới hoàn toàn chuyển.
- Nhân không chung: Nghĩa là thuận theo xúc khổ vui, không khổ vui, đối chiếu nơi tâm pháp hiện có như thọ v.v…, ý diệt vô gián, cùng câu sanh, gọi là mười thứ sắc v.v… so với sáu thứ thức. Do các pháp kia tuy từ nhân trước sanh ra, từng sát na sát na riêng đợi nhân khác mới được sanh khởi.
Lại nữa, các vị A-la-hán tâm có giải thoát, trí kiến có thanh tịnh, có bốn thắng lợi, nên biết không cùng chung với các ngoại đạo:
1. Lúc hành trì, tánh luôn thường trụ.
2. Lúc trụ, tánh trụ nơi vô tướng.
3. Nhân trước xa sanh khởi các hành tự nhiên quy diệt.
4. Nhân hiện tại của hành hữu sau đã đoạn trừ nên sẽ không sanh nữa.
Vì chứng đắc bốn thứ thắng lợi như thế, có ba thứ lần lượt: Nghĩa là tu học trí kiến làm chỗ dựa, nên người đạt được chán lìa, ở trong các hành không sanh hỷ lạc, cho đến không sanh tham đắm mà trụ. Chán lìa là ưu tiên nên được lìa dục. Lìa dục là ưu tiên nên tâm khéo giải thoát. Từ đó trở về sau, tức do tâm khéo giải thoát như thế, nên luôn thường an trụ, không thuận, không nghịch. Lại, nơi lúc hành hoặc lúc trụ, đối với tất cả tướng không tác ý nữa. Đối với cảnh giới vô tướng tác ý tư duy, trụ nơi vô tướng. Tất cả kiến thú này có thể ngăn cản, vì trước đã đoạn trừ vĩnh viễn, huống chi là nay sẽ gây trở ngại. Hành giả kia, do hai thứ hoặc hành hoặc trụ ấy, cho đến thọ mạng dứt, nên dùng nội Bát-niết-bàn vô học mà nhập Niết-bàn. Hữu đã sanh trước, hiện tại vĩnh viễn dứt từ, các hành của vị lai không còn sanh nữa.
Lại do ba phần, nên biết Tát-ca-da-kiến được kiến lập, dùng làm căn bản nơi tất cả kiến thú:
1. Do cùng hành với thời gian trước.
2. Do cùng hành với thời gian sau.
3. Do cùng hành với cả hai.
- Cùng hành với thời gian trước: Nghĩa là như có một hữu tình khởi tư duy: Ta nơi đời quá khứ là từng có chăng? Là từng không có chăng? Từng là người nào? Vì sao từng có?
- Cùng hành với thời gian sau: Nghĩa là như có một hữu tình, khởi tư duy: Ta nơi đời vị lai là sẽ có chăng, là sẽ không có chăng? Sẽ là người nào? Vì sao sẽ có?
- Cùng hành với cả hai: Tức như có một hữu tình, khởi tư duy như vầy: Ta từng có cái gì? Cái gì sẽ có nơi ta? Hữu tình này nay từ nơi nào đến? Ở đây chết rồi, đi tới chốn nào?
Lại, Tát-ca-da-kiến của các ngoại đạo dùng làm căn bản, có sáu mươi hai thứ các kiến thú ác. Nghĩa là:
- Bốn luận thường kiến.
- Bốn luận một phần thường kiến.
- Hai luận không nhân.
- Bốn luận tưởng hữu biên, vô biên.
- Bốn luận kiểu loạn bất tử.
Mười tám thứ kiến thú ác như thế, là luận chấp nói về ngã của thời trước.
Lại có mười sáu thứ luận tưởng hữu kiến, tám thứ luận vô tưởng, tám thứ luận phi hữu tưởng phi vô tưởng, bảy luận đoạn kiến, năm luận hiện pháp Niết-bàn. Bốn mươi bốn thức các kiến thú ác này là luận chấp nói về ngã của thời sau.
Như vậy, luận suy chấp về thời sau, lược thâu tóm có năm:
1. Luận hữu tưởng.
2. Luận vô tưởng.
3. Luận phi hữu tưởng phi vô tưởng.
4. Luận đoạn kiến.
5. Luận hiện pháp Niết-bàn. Năm thứ như thế lại tóm lược làm ba:
1. Luận thường kiến.
2. Luận đoạn kiến.
3. Luận hiện pháp Niết-bàn.
Lại, tất cả các kiến thú ác này, do sáu nhân duyên mà được kiến lập:
1. Do nhân duyên.
2. Do dựa nơi giáo pháp.
3. Do dựa vào Tĩnh lự.
4. Do dựa vào đời.
5. Do dựa vào các kiến.
6. Do xứ sanh.
- Do nhân duyên: Nghĩa là tất cả Tát-ca-da-kiến kia dùng làm nhân duyên.
- Do dựa nơi giáo pháp: Tức là do dựa nơi pháp tạng bất chánh, có thể hiển bày kiến thú. Sư đệ truyền nghe, lần lượt cùng trao làm phương tiện.
- Do dựa vào Tĩnh lự: Tức dùng Tĩnh lự làm chỗ dựa, nên đối với chỗ được nghe trước, chỗ tin hiểu trước mà được quyết định.
Lại, Tĩnh lự này lại có hai thứ:
1. Cùng hành với túc trụ tùy niệm.
2. Cùng hành với thiên nhãn đã đạt được.
-Cùng hành với túc trụ tùy niệm: Là trong ba luận thường, là chấp về thời gian trước. Do thanh tịnh của hạ trung thượng có sai biệt, cùng đối với bốn thứ luận hữu biên vô biên. Do kẻ kia nhớ nghĩ về hai kiếp thành hoại của các khí thế gian, theo phương tiện xuất hiện. Nếu lúc nhớ nghĩ về phần vị của kiếp thành, bấy giờ liền sanh ba thứ vọng tưởng: Hoặc có trường hợp hoàn toàn nhớ nghĩ về trên dưới. Dưới cho đến dưới địa ngục Vô gián, trên cho đến trên Tĩnh lự thứ tư. Nhớ nghĩ về biên vực, phần lượng như thế, nên đối với thế gian, trụ nơi tướng hữu biên. Hoặc có trường hợp hoàn toàn nhớ nghĩ về một bên không biên vực, nên đối với thế gian trụ nơi tưởng vô biên. Hoặc có kẻ nhớ nghĩ về hai thứ cùng hành, nên đối với thế gian trụ nơi tưởng cùng hành cả hai. Hoặc lúc nhớ nghĩ về phần vị của kiếp hoại, lúc ấy liền trụ nơi tưởng phi hữu biên, tưởng phi vô biên, các khí thế gian không chỗ đạt được. Lại có trường hợp nương dựa nơi các Tĩnh lự, nên biết hoặc nói là luận một phần thường, hoặc nói là luận không nhân, hoặc nói là luận kiểu loạn bất tử.
Nên biết ở đây có hai Trời tịnh:
1. Không khéo thanh tịnh.
2. Khéo thanh tịnh.
Nếu chỉ có thể nhập định thế tục, nên biết là Trời không khéo thanh tịnh. Ở trong các đế không thông tỏ, tâm chưa được khéo giải thoát.
Nếu có thể chứng nhập định của nội pháp, nên biết là Trời khéo thanh tịnh. Ở trong các đế đã thấu đạt, tâm đã được hoàn toàn giải thoát. Nên biết không loạn cũng có hai loại:
1. Vô tướng, không phân biệt.
2. Hữu tướng, có phân biệt.
Ở đây, loại thứ nhất là Trời khéo thanh tịnh. Loại thứ hai là Trời không khéo thanh tịnh. Loại Trời khéo thanh tịnh trước, đối với bất tử của chính mình không loạn mà chuyển, thế nên gọi là bất tử không loạn. Loại Trời không khéo thanh tịnh sau, nếu có kẻ dựa nơi bất tử không loạn có chỗ cật vấn, liền vin vào sự kiểu loạn khác để lẩn tránh. Do đối với các đế vô tưởng, tâm định không thiện xảo, nên trước dấy khởi tâm lo nghĩ, tư duy: Chúng ta đã xưng là bất tử không loạn, ngoài ra lại có bất tử không loạn. Đối với các Thánh đế vô tướng, tâm định đã được thiện xảo…
- Do dựa vào đời: Nghĩa là dựa vào đời quá khứ cùng hiện tại, khởi phân biệt, gọi là chấp về thời trước. Dựa vào đời vị lai khởi phân biệt, gọi là chấp về thời sau.
- Do dựa vào các kiến: Nghĩa là dựa vào ba kiến, như trước đã nói, nên biết. Do dựa vào kiến thứ nhất, nên ở trong hiện pháp chấp ngã có sắc, sau hoặc có sắc có tưởng hoặc không có tưởng, hoặc phi hữu tưởng phi vô tưởng. Dựa vào kiến thứ hai, nên ở trong hiện pháp chấp ngã không sắc, về sau, chỗ chấp như trước nên biết, dựa vào kiến thứ ba, luận về ngã có hai:
1. Nói ngã có sắc không sắc.
2. Nói ngã phi có sắc, phi không sắc. Phần còn lại như trước đã nói.
Lại, tức chấp ngã là có sắc: Hoặc nói nhỏ hẹp, hoặc nói vô lượng.
Chấp ngã không sắc nên biết cũng vậy.
Hai luận về ngã này, dựa vào kiến thứ ba, lập làm hai luận:
1. Chấp ngã nhỏ hẹp.
2. Chấp ngã vô lượng.
Do bốn thứ ấy, nên luận về ngã nói có sai biệt:
- Nói ngã là hữu biên.
- Nói ngã là vô biên.
- Nói ngã cũng hữu biên cũng vô biên.
- Ngã phi hữu biên phi vô biên. Tùy theo thứ lớp, như trước nên biết.
Lại, tức nương dựa nơi các kiến như thế, cùng dựa nơi luận về ngã, lại tuyên thuyết ngã giải thoát thành tịnh. Đối với dục, Tĩnh lự đều được tự tại, tùy theo chỗ dục, trụ nhiều nơi biến hóa. Như nơi chỗ dục, Tĩnh lự an trụ. Do kiến thanh tịnh nên tự tại thọ dụng pháp lạc theo phương tiện. Như thế gọi là dựa nơi các kiến, nên biết đã an lập.
- Do xứ sanh: Nghĩa là ngã có một tưởng, cho đến nói rộng.
Có một tưởng: Là tại xứ Không vô biên, xứ Thức vô biên của cõi Vô sắc.
Có vô số tướng: Nghĩa là tại địa dưới. Tức như đã nói, tùy theo thứ lớp, nói ngã có tưởng nhỏ hẹp, có tưởng vô lượng.
Hoàn toàn có lạc: Là tại ba Tĩnh lự dưới.
Hoàn toàn có khổ: Là tại Nại-lạc-ca (địa ngục).
Có lạc có khổ: Là tại nẻo Quỷ, Bàng sanh, Người, chư Thiên cõi Dục.
Có không khổ không lạc: Là tại Tĩnh lự thứ tư trở lên, cho đến xứ Phi tưởng phi phi tưởng.
Lại, đối với xứ của các ngoại đạo như thế, nên biết gồm có ba thứ suy tổn:
1. Suy tổn của luận kiến cùng dục lạc lần lượt trái nhau.
2. Duy tổn của luận dựa nơi ngã vô trí hỏi, ghi.
3. Suy tổn của chứng đắc dựa nơi pháp tùy pháp hành.
Ở đây, ba thứ ấy, hoặc chấp có tưởng, hoặc chấp không tưởng, hoặc luận chấp phi có tưởng phi không tưởng cùng luận đoạn kiến.
Hoặc luận dựa nơi sự vấn nạn kẻ khác làm thắng lợi. Hoặc luận dựa nơi sự tránh khỏi vấn nạn làm thắng lợi, mà khởi suy chấp. Nên biết đó gọi là suy tổn thứ nhất. Do các luận kia suy lường chấp nơi thời sau, dựa nơi đời vị lai, vọng chấp nơi ngã là có không.
-Suy tổn của luận dựa vào ngã vô trí hỏi, ghi: Nghĩa là đối với, hoặc các tạp nhiễm, hoặc xứ tạp nhiễm, hoặc chủ thể tạp nhiễm, như vậy, tất cả đạo lý của hai đế thế tục, thắng nghĩa đều không nhận biết như thật. Do vô trí ấy có chỗ hướng tới cho là ưu tiên, nên phần đạt được có sai biệt.
Từ vô trí này, hướng đến chốn nào? Nghĩa là ba, bốn lượt chuyển:
1. Thường, vô thường v.v…
2. Hữu biên, vô biên v.v…
3. Tự tạo, tha tạo v.v…
Vì sao? Vì do vô trí nên trước tiên là hướng tới, sai biệt như thế sau mới hỏi, ghi.
Lại, ở trong Thánh pháp Tỳ-nại-da, kẻ trí hiện có không thể ghi sự. Nơi hai đạo lý, không chịu ghi nhận. Nghĩa là đạo lý của hai đế thế tục, thắng nghĩa.
Trong đây, bốn thứ hoàn toàn là luận thường, chấp về thời trước, cùng luận không nhân chấp về thời trước: Hai thứ có sai biệt, đều trước là chấp ngã, sau mới duyên nơi ngã, hoàn toàn là sự sai biệt của các luận về thường v.v…
Lại, tức bốn thứ luận một phần thường chấp về thời trước, chúng có sai biệt. Nghĩa là có luận một phần duyên nơi thường vô thường, hoặc có luận một phần duyên nơi phi thường-phi vô thường. Các luận về hữu biên vô biên, như trước đã nói về hữu biên vô biên, nên biết về tướng của chúng. Hoặc muốn tất cả đều là sự tạo tác của nhân đời trước, gọi là luận tự tác. Hoặc muốn tất cả đều là sự tạo tác của nhân biến hóa như Trời Tự Tại v.v…, gọi là luận tha tác. Hoặc muốn một phần là sự tạo tác của nhân biến hóa như Trời Tự Tại, một phần thì không như thế, gọi là luận câu tác. Hoặc luận không có nhân tạo tác, gọi là luận câu phi tác. Nên biết đó gọi là suy tổn thứ hai của các luận dựa nơi ngã không trí để hỏi, ghi.
Do các luận kia suy chấp về thời trước, dựa vào đời quá khứ hiện tại để phân biệt sai lạc.
Suy tổn của chứng đắc dựa nơi pháp tùy pháp hành: Nghĩa là có Sa-môn hoặc Bà-la-môn, không xem luận vấn nạn kẻ khác làm thắng lợi, không xét luận tránh khỏi sự vấn nạn làm thắng lợi, cũng không vui muốn mở bày, xiển dương các luận dựa vào ngã vô trí, vì cầu lợi dưỡng, sự cung kính v.v…, cũng không. Ở trong Pháp-Luật thuyết giảng xấu ác mà cầu xuất gia, chỉ trừ vui cầu xuất ly giải thoát. Nên biết họ là chủng loại Bạc trần, vì tánh ngu độn chuyên tu hành chỉ. Các vị này do vì đạt được Tĩnh lự thứ nhất, nhất định do sự chỉ dạy, trao truyền, khuyên bảo, có thể đối với cả hai thời sau, trước đều cùng hành nơi kiến thú. Do không chấp nhận như thế mà có thể vượt qua. Ở trong hiện pháp lại có thể vượt qua các kiết của cõi Dục, chứng đắc hỷ xa lìa. Từ đấy trở lên không nghe không biết, tức ở trong ấy sanh tưởng Niếtbàn. Như do các pháp kia nên chứng đắc hỷ xa lìa, cũng vậy, hoặc có trường hợp do nhân duyên riêng nên chứng đắc Tĩnh lự thứ hai, thứ ba, không ái lạc nơi vị, Tĩnh lự thứ tư không khổ lạc thọ. Từ đấy trở lên cho đến xứ Phi tưởng phi phi tưởng, nên biết cũng thế.
Đối với vô số tưởng cùng hành với khổ lạc thọ có sai biệt, đã vượt qua. Như thế, các vị ấy, đối với các hành thủ của cõi, nẻo, là không thể vượt khỏi, vui thích pháp thối chuyển, chưa Bát-niết-bàn mà khởi mạn Niết-bàn.
Nên biết đó gọi là suy tổn thứ ba.
Ở đây, Đức Như lai tự nhiên chứng biết diệu tích tịch tĩnh, đối với tất cả hành tướng nơi ba thứ suy tổn như đã nêu giảng, do năm thứ tướng nên nhận biết rõ đúng như thật. Nghĩa là, hoặc tự tánh kia. Hoặc các kiến kia. Hoặc do không trí nên chúng được sanh khởi. Hoặc nơi đối tượng duyên chuyển. Hoặc các lỗi lầm thô xấu của đối tượng duyên kia cùng nẻo xuất ly chúng. Nơi các sự như thế đều nhận biết rõ đúng như thật, tức trong xuất ly thường tự xuất ly.
Lại nữa, có hai trí, có thể khiến kiến thanh tịnh cùng kiến hoàn toàn thanh tịnh. Nghĩa là trí pháp trụ cùng đây là trí Niết-bàn trước.
- Trí pháp trụ: Là khả năng nhận biết rõ về chủng loại sai biệt nơi tự tướng của các hành, cũng có thể nhận biết rõ những lỗi lầm, tai họa sai biệt nơi cộng tướng của các hành. Tức đối với phương tiện của các hành, thuận theo ba phần vị hoặc khổ hoặc lạc thuộc không khổ không lạc, nhận biết rõ về tánh của ba khổ.
- Trí Niết-bàn: Nghĩa là, ở trong tất cả hành như thế, trước khởi tưởng khổ, sau suy xét như vậy. Tức hết thảy các hành có khổ ấy, đều vĩnh viễn đoạn trừ rốt ráo, nói rộng cho đến gọi là Niết-bàn. Nhận biết rõ như thế gọi là trí Niết-bàn. Tức hai trí này khiến kiến thanh tịnh cùng hoàn toàn thanh tịnh. Chính là do hai môn chánh cần tu tập mới khiến kiến được thanh tịnh:
1. Hữu tình tự không có lực, nhân nơi sự chỉ dạy, trao truyền của kẻ khác, mới có thể khiến kiến được thanh tịnh.
2. Hữu tình tự có lực, đa văn, xét tìm, nên có thể khiến kiến được thanh tịnh.
Ở đây, loại hữu tình thứ nhất là không thông lợi, các căn như tín v.v… chỉ là một vị. Đối tượng duyên của Chỉ Quán, đối với phần ít pháp xét kỹ nhận chuyển. Cùng với đấy trái nhau, nên biết là loại hữu tình thứ hai.
Lại có ba trí hiện quán biên, do tu tập trí ấy nên kiến được thanh tịnh:
1. Trí có thể thuận sanh trí vô lậu.
2. Trí vô lậu.
3. Trí nối tiếp sau trí vô lậu.
Trí thứ nhất thuộc về đệ nhất pháp của thế gian. Trí thứ hai, nếu trụ nơi ấy tức có thể đoạn trừ tất cả phiền não do kiến đạo đoạn. Trí thứ ba là trí giải thoát nối tiếp sau phiền não được đoạn trừ. Nếu trụ trong trí đó, liền gọi là đã nhập chánh tánh ly sanh, vượt quá địa phàm phu, chưa đắc quả Dự lưu. Tuy chưa kịp chứng trí của quả Dự lưu giải thoát thứ ba, ở trung gian ấy, trụ nơi sát na, như chưa chứng nhập, trọn không bỏ dở giữa chừng do thời gian thiếu. Từ đấy không gián đoạn, tất chứng trí thứ ba, trụ trong phần vị ấy, hiện thấy đúng như thật về cảnh của đối tượng nhận thức, nên gọi là kiến thanh tịnh, các hoặc còn lại nên không phải là hoàn toàn thanh tịnh. Nếu đối với trí này, lại tu tập nhiều thành A-la-hán, tất cả phiền não đều lìa trói buộc, nên gọi là hoàn toàn thanh tịnh.
Lại, trí đoạn trụ rốt ráo có ba tương ưng:
1. Do không hiện hành.
2. Do cõi.
3. Do sự.
- Không hiện hành: Là tuy sanh khởi nhưng không nhiễm vướng, tuy chưa hoàn toàn đoạn trừ, nhưng do luôn tu tập các pháp thiện, nên khiến thành phần xa, các triền phiền não không còn hiện hành.
- Cõi: Là ba cõi, như trước đã nói nên biết.
- Sự: Nghĩa là hai sự:
1. Sự phiền não.
2. Sự khổ.
Lại, ở trong năm thứ cảnh giới của các phẩm ly hệ theo đuổi an lạc, lợi ích, có công đức tịch tĩnh, vi diệu, thù thắng, cho đến Niết-bàn là sau cùng, có sai biệt nên biết.
Lại, ở trong ấy, tất cả nương, giữ đều dứt bỏ. Nên biết về sự dứt bỏ cha mẹ v.v…
Lại, ở trong ấy có sanh, có hữu sau không sanh lại nữa. Như thứ lớp ấy, nên biết gọi là không có tương tục, không thủ, không sanh.
Lại, đối với ba phẩm, do ba thứ môn làm chướng ngại, nên biết đã kiến lập ba kiết sai biệt. Nghĩa là chưa phát khởi hướng tới, tuy đã phát khởi hướng tới, thành lập sai lạc, nên ở trong Chánh pháp hành không đúng đắn. Tức phẩm tại gia, ở trong Pháp, Luật không khéo thuyết giảng, những phẩm xuất gia thì ở nơi phần Pháp, Luật khéo thuyết giảng.
Lại, hành hướng tới hành ngược dòng, là giải thoát khỏi nẻo ác thành tựu hai thứ quyết định giải thoát:
1. Quyết định giải thoát phiền não.
2. Quyết định giải thoát hữu sau.
Do nhân duyên này nên gọi là Dự lưu, cho đến nói rộng.
Lại, nếu chứng đắc quả A-la-hán, trước tại địa học, ở trong các hành đã không chấp thọ ngã cùng ngã sở, sau, đối với các lậu đều được giải thoát.
Lại, cùng với bốn thứ nghĩa tương ưng, nên biết đó gọi là tướng A-la-hán:
1. Nghĩa của tự sự đã cứu cánh, nên hành tác tha sự.
2. Nghĩa nên đạt được đạo lý tất cả đủ khắp của tự nghĩa.
3. Nghĩa của nhân nơi hành vị lai đã vĩnh viễn đoạn dứt nên chứng đạt hiện pháp lạc trụ.
4. Nghĩa tương ưng, vượt địa hữu học nhập địa vô học.
Lại nữa, phần vị ngu có năm, hoặc ở trong ấy chuyển rơi vào số ngu tối. Những gì là năm? Đó là:
1. Không đạt được huệ câu sanh.
2. Không đạt được huệ duyên sanh, từ việc nghe âm thanh của kẻ khác.
3. Không đạt được huệ chân thánh.
4. Bị triền ngu si trói buộc.
5. Bị tùy miên kia theo buộc. Lại, có bốn thứ luận vọng chấp ngã:
1. Tuyên thuyết các hành là ngã.
2. Tuyên thuyết ngã có các hành.
3. Tuyên thuyết các hành thuộc về ngã.
4. Tuyên thuyết ngã ở trong hành.
Do hai nhân duyên nên luận vọng chấp ngã tạo các tạp nhiễm:
1. Chấp trước.
2. Tùy miên.
- Chấp trước: Nghĩa là các ngoại đạo tuy cầu giải thoát, do chấp trước kia làm chướng ngại, nên đối với tất cả loại đều không thể đạt được.
- Tùy miên: Tức các nội pháp bị đắm vướng nơi cảnh giới, tạm thời bị chướng ngại nên không đạt cứu cánh.
Lại nữa, hoặc có ngã kiến, hoặc không ngã kiến, cùng duyên nơi các hành làm sự cảnh, nên gọi là đồng phận. Nhưng đối với sự kia, nhận lấy tà, nhận lấy chánh, nhiễm ô, thanh tịnh với các nghĩa sai biệt, nên gọi là không đồng phận.
Lại do bốn tướng nơi sự của đối tượng duyên, với sức tăng thượng của chấp trước sai lạc, nên có thể khiến cho ngã kiến tạo các tạp nhiễm:
1. Nhân duyên.
2. Tự tánh.
3. Do quả.
4. Đẳng lưu.
-Nhân duyên: Nghĩa là hai thứ ngu si:
1. Ngu si của sự.
2. Ngu si của kiến.
Ngu si của sự: Do ngu về sự, nên trước nghe pháp tà, sau khởi ngã kiến.
Ngu si của kiến: Do ngu về kiến, nên đối với kiến tương ưng với các xúc vô minh sanh khởi thọ, vọng chấp là ngã. Do đấy làm duyên, nên luôn là chỗ theo đuổi của ngã ái. Lại do đấy nên thường đối với ngã kiến không thể lìa bỏ.
- Tự tánh: Là chỗ thâu nhận của hai nhân duyên, cùng tùy quan sát, đối với tùy miên kia không thể xa lìa.
- Do quả: Tức do Tát-ca-da-kiến kia làm chỗ dựa, nên không thể xa lìa tùy miên ngã mạn. Là sức tăng thượng của hai tùy miên, nên có thể dẫn phát khiến khởi các căn của vị lai. Do chúng lãnh nhận nhân của hai thọ khổ lạc, lại phát khởi chấp ngã, ngã sở, không tư duy tương ưng như chánh lý, ý lời phân biệt cho ngã, ngã sở có sự nhận lãnh kia.
- Đẳng lưu: Nghĩa là do sức của nhân trước được duy trì, tức chủng tử của kiến đã gắn liền nơi ý.
Sau có ý giới, do sức huân tu của nhân duyên trước mà được thành tựu đầy đủ. Tức ở trong ý của hữu sau như thế, có chủng vô minh cùng giới vô minh, là hai chủng tử đã theo đuổi pháp giới là đối tượng duyên của ý. Kẻ kia do đời trước dựa nơi Pháp-Luật không khéo thuyết giảng, Tát-ca-da-kiến sanh phân biệt làm chỗ dựa, tập thành Giới hiện nay. Tức do sức tăng thượng của cảnh giới này, nên phát khởi Tát-ca-da-kiến câu sanh, ở trong Pháp-Luật khéo thuyết giảng cũng lại hiện hành, có thể tạo chướng ngại.
Lại, tức kiến này do hai thứ tướng nên hiện hành sáu chuyển:
1. Do đời.
2. Do mạn.
- Do đời: Nghĩa là ta ở nơi quá khứ là từng có chăng, là từng không có chăng? Cho đến nói rộng, như chỗ ứng hợp nên biết.
- Do mạn: Nghĩa là cho ta là hơn, cho đến nói rộng.
Kẻ kia, đối với tất cả nẻo như thật như thế không biết không thấy.
Vì nhân duyên ấy nên khởi quán tà vạy không như lý chánh.
Lại, phần vị minh có ba: Nghĩa là nghe âm thanh của kẻ khác, tác ý như lý, là phần vị thứ nhất của minh. Đã có thể chứng nhập chánh tánh ly sanh, là phần vị thứ hai của minh. Quả A-la-hán, tâm hoàn toàn giải thoát, là phần vị thứ ba của minh.
Phần vị vô minh kia lại có hai thứ:
1. Trước.
2. Sau.
Vị tùy miên là trước, các phần vị triền là sau.
Lại, căn cứ nơi sự đoạn trừ của kiến đạo tu đạo có khác, nên biết đó gọi là sai biệt thứ hai.
Lại nữa, nơi xứ này, Đức Thế tôn, dựa nơi tự Thánh giáo, vì muốn hiển thị sự phát khởi của pháp khéo thuyết giảng. Dựa nơi tà giáo khác, vì nhằm hiển thị sự rơi mất của pháp không khéo thuyết giảng, nên tự có chỗ nêu giảng. Người kết tập sau này, ở trong pháp môn, cho là Đức Thế tôn nói Ốt-dà-nam. Do hai nhân duyên, nên Pháp, Luật khéo thuyết giảng gọi là phát khởi quả lớn lợi lớn. Pháp, Luật không khéo thuyết giảng thì không có gì cả:
1. Ở trong Pháp, Luật khéo thuyết giảng, tất cả các khổ đều có thể vĩnh viễn lìa bỏ, tức là tánh của ba thứ khổ.
2. Tất cả các kiết đều có thể vĩnh viễn đoạn trừ, tức là kiết của phần trên, dưới.
Ở trong Pháp-Luật không khéo thuyết giảng, hai thứ như thế đều không thể đạt được. Kẻ kia do dựa nơi Tátca-da-kiến, ở trong các hành, tâm chán Khổ khổ. Dục lạc làm chỗ dựa, khởi thắng giải về điều ấy, nguyện nơi đời vị lai không có khổ nơi ta, ta không có khổ. Hoặc lại đã đoạn, tức nhân của khổ kia, cùng quả hiện có. Đối với đời vị lai, do hai thứ tướng mà sanh thắng giải. Nghĩa là khổ vị lai sẽ lìa nơi ta, và ta nơi vị lai sẽ không có khổ. Tuy do bốn thứ hành tướng vui thích đoạn trừ như thế làm chỗ dựa, lìa dục của cõi dục, sanh Tĩnh lự thứ nhất, thứ lớp cho đến nơi xứ Phi tưởng phi phi tưởng kia, hoặc định hoặc sanh. Vì nhân duyên ấy nên vượt khỏi Khổ khổ, nhưng chưa có thể đoạn trừ các kiết phần dưới. Chưa đoạn trừ chúng, nên biết Khổ khổ chưa hoàn toàn vượt khỏi. Kẻ kia ở trong việc đoạn trừ hai khổ hoại và hành, hãy còn không sanh mong muốn, huống hồ là có thể đoạn trừ. Do tùy thuận chỗ chưa đoạn kia, nên biết đối với các kiết thuận phần trên cũng chưa có thể đoạn.
Người trụ nơi nội pháp, lúc bắt đầu tu Quán, tuy ở nơi cõi Dục chưa được lìa dục, chưa là hữu tình thù thắng, nhưng đối với ba khổ, tâm chán lìa sâu xa. Dựa nơi lạc đoạn dục, ở trong các hành, lấy kiến vô ngã làm chỗ nương dựa, phát khởi thắng giải về điều ấy, mong nơi đời vị lai không có ba khổ nơi ta, ta không có ba khổ.
Kẻ ấy, đầu tiên tu tập hành như thế rồi, đối với dục của cõi Dục được xa lìa, vĩnh viễn đoạn trừ Khổ khổ. Như trước, lại sanh thắng giải như vậy, nên không có khổ kia nơi ta, ta sẽ không có khổ kia. Hành giả như thế, đối với Khổ khổ đã giải thoát rốt ráo, cũng vĩnh viễn vượt khỏi các kiết thuận phần dưới. Tức đối với đạo ấy lần lượt tiến tu, cho đến có thể đạt quả A-la-hán.
Hoặc các hạng ngu tối, do Tát-ca-da-kiến làm chỗ dựa, đối với việc vĩnh viễn vượt khỏi hai khổ hoại, hành, cùng đoạn dứt hoàn toàn các kiết thuận phần trên. Tức là ta không nên đối với điều không nên sợ hãi vọng sanh sợ hãi, hãy còn không khởi vui thích, huống chi là sẽ có thể đoạn.
Lại, ở nơi xứ này, do hai nhân duyên, không nên sanh sợ hãi. Tức là chỉ có tâm trụ nơi bốn thức trụ, có chuyển có nhiễm. Lại chỉ có tâm đoạn nơi bốn thức trụ, không chuyển không nhiễm.
Lại có bốn thứ nương dựa, nghĩa là sắc thọ tưởng hành.
Lại có bốn thủ: Nghĩa là dục tham hiện có của dục, kiến, giới cấm và ngã ngữ.
Lại có hai duyên: Tức hoặc là đối tượng duyên, cùng hoặc là chủ thể duyên.
Lại có hai thức trụ: Là triền phiền não trụ và tùy miên trụ.
Ở đây, sức tăng thượng của các thủ, do phân biệt không như lý làm trước, do nhận lấy cảnh giới tà của ngã, ngã sở, do duyên nơi thủ của cảnh giới tự tướng, do cùng có chỗ dựa. Ba nhân duyên này khiến các thức chuyển, cùng khiến nhiễm ô.
Lại do ba thứ: Nghĩa là đối với hiện pháp hướng tới Tập đế. Duyên nơi khổ của vị lai, ta sẽ nói ái như thế, như thế. Đối với nhân trước kia đã sanh hiện khổ mà an trụ.
Lại do ba thứ: Là hướng tới phần vị lạc, duyên nơi phần vị khổ, an trụ nơi phần vị không khổ không lạc.
Lại do ba thứ: Là hướng tới đời sau, duyên nơi đời quá khứ, trụ nơi đời hiện tại.
Lại do ba thứ: Là do ái của hữu sau hướng đến hữu sau. Do ái của các thứ hỷ lạc kia duyên nơi cảnh giới của vị lai. Do ái cùng hành với hỷ tham. Trụ nơi hiện tại rồi, được cảnh giới.
Lại do ba thứ: Do thân tham dục, bị trói buộc, hướng tới sự của xứ tùy thuận tham. Do thân giận dữ bị trói buộc, duyên nơi sự kia. Do thân của hai thủ ấy thuộc giới cấm bị trói buộc, trụ nơi sự kia.
Tụng nêu:
Quả nhân cùng thọ
Thế ái cùng buộc.
Hỷ ái làm tươi nhuận, như trước đã nói nên biết. Nghĩa là như trong nhân của các hành đã nêu rõ.
Lại, tức thức kia lúc chuyển như thế, nơi hai xứ sanh, nên biết kiết sanh tương tục tăng rộng:
1. Nơi có sắc.
2. Nơi không sắc.
Nơi xứ có sắc, nương dựa nơi trung hữu mà có đi, lại. Nơi xứ không sắc, chỉ có sanh theo. Tức nơi hai xứ cho đến thọ mạng dứt, nối tiếp mà trụ, nên gọi là trụ. Nên biết trụ này, trong nẻo người thuộc cõi Dục, có ba phần vị. Nghĩa là mới vào thai, thức được tươi nhuận. Phần thai viên mãn, từ thai mà ra. Nên biết ba phần vị này lại có sai biệt. Dục, Sắc, Vô sắc, như thứ lớp ấy.
Lại, mười sắc giới gọi là cõi Sắc. Nên biết lại có sáu thứ thọ giới, tưởng giới, hành giới.
Lại, đối với ba phần vị, nên biết các thức giải thoát khỏi phiền não. Nghĩa là đối với các hành, thấy rõ lỗi lầm tai họa, có thể khiến xa lìa các triền. Ở trong địa biến, tất cả các tùy miên trói buộc của ngoại đạo đều vĩnh viễn đoạn dứt, nương dựa nơi tu đạo, đạt được cứu cánh. Lại, các ngoại đạo đối với tất cả xứ sanh đều là vọng chấp, cho là đại tự tại, na-la-diễn-noa, cùng vô lượng phẩm loại như các chủ v.v… Vui thích sanh nơi đấy, nên gọi là thân tham bị trói buộc, ở trong pháp dị phần của các kiến khác, ghét ganh sâu xa, nên gọi là thân giận dữ bị trói buộc. Dựa nơi nguyện tà, tu phạm hạnh, ở trong pháp đáng vui thích của đồng phạm hạnh, khởi ghét bỏ. Do hai duyên ấy, nên đối với Giới học tăng thượng có thể bị tạp nhiễm. Do thân được chấp giữ là thật ấy bị trói buộc, nên đối với huệ học tăng thượng, có thể bị tạp nhiễm.
Bốn pháp như thế có thể ở trong sắc thân, danh thân hướng tới sự được an lập của đối tượng duyên, khiến tâm bị trói buộc nên danh thân hệ thuộc.
Lại, pháp kia ở nơi ý địa, nên ý phân biệt, ý tương ưng, là tùy miên của ý nên ý bị nhiễm ô, gọi là ý tạo thành.
Lại, pháp kia được đoạn trừ, nghĩa là duyên nơi cảnh ấy, các phiền não được đoạn trừ, không phải là đối tượng duyên kia, tức ở nơi cảnh ấy lý giải không điên đảo.
Lại, do chỗ thâu giữ của các nghiệp phiền não thuộc hữu sau, chủng thức của hữu sau, nên biết ở nơi chỗ dựa ấy đã kiến lập. Pháp kia không có, nên ba thứ của vị lai như trước đã nói về nghĩa lý sâu xa sinh trưởng rộng lớn có sai biệt. Nên biết tất cả thảy đều diệt hết.
Lại, do thức kia không chỗ trụ, phần nhân phần quả không sanh trưởng lại, nên các đạo đã gồm thâu được sanh trưởng.
Lại, nên giải thoát không kia làm chỗ dựa, nên gọi là không chỗ tạo tác. Môn Giải thoát vô nguyện làm chỗ dựa, nên gọi là biết đủ. Môn Giải thoát vô tướng làm chỗ dựa, nên gọi là trụ. Đối với ái lạc kia luôn tu tập nên được khéo giải thoát. Tất cả tùy miên vĩnh viễn đoạn dứt nên tâm hoàn toàn giải thoát. Từ đấy về sau đạt được hằng trụ, tuy trụ nơi các hành mà không hề sợ hãi. Đã được các uẩn tự nhiên mà diệt, nhân khác được đoạn trừ nên không sanh trở lại nữa. Thức hữu lậu kia do đã hoàn toàn vắng bặt rồi, nên khắp mười phương đều không chỗ hướng tới, chỉ trừ các thọ như bóng cùng với thức uẩn kia nhân biết, gieo trồng, nên biết như đèn đều quay về nẻo tịch diệt. Tức ở trong Giới Niết-bàn Hữu dư, dựa vào triền thứ nhất được đoạn trừ, gọi là tịch tĩnh. Dựa vào triền thứ hai được đoạn trừ, gọi là trong lành mát mẻ. Dựa vào loại thứ ba được đoạn trừ, gọi là yên lặng.
Lại do ba duyên, nên thức thú thức trụ đều không chỗ có:
1. Do tự nhiên không nhiễm ô.
2. Do chỗ còn lại không nhiễm ô.
3. Do thức khác trợ bạn không có.
Lại nữa, tụng nêu:
Đoạn chi thật hiểu rõ
Hành duyên giáo vô đẳng
Bốn thứ chúng hữu tình
Đạo bốn, cứu cánh năm.
Các thứ tu đoạn, lược do năm chi thâu nhận, đối với việc đoạn trừ, có thể ở nơi các hành hiển bày rõ như thật:
1. Do thân xa lìa.
2. Do tâm xa lìa.
3. Do Tam-ma-địa của phẩm Xa-ma-tha.
4. Do Tam-ma-địa của phẩm Tỳ-bát-xá-na.
5. Do thường gắn bó với chỗ tạo tác.
Lại nữa, nên biết có mười hai thứ hành tướng hiển bày rõ như thật, như nơi phần Nhiếp dị môn đã nêu. Nghĩa là lắng nghe đều riêng khác, nhận lấy thiện, nhận lấy ác, chánh giáo, hiện lượng, tỷ lượng, cảnh giới, tự tướng, cộng tướng, như tánh hiện có, toàn bộ tánh hiện có, nhập nơi địa kiến cứu cánh.
Lại nữa, lược có bốn thứ hành tướng hiển bày rõ như thật về sự nơi đối tượng duyên của trí theo đạo lý. Nghĩa là phàm phu trụ nơi nội pháp, ở trong cảnh giới đột nhiên gắn bó đã khởi thọ, do sức tăng thượng của sự nhận biết không như thật, nên có thể khiến các hành lưu chuyển theo tạp nhiễm. Nhận biết đúng như thật nên có thể khiến thanh tịnh.
Lại có phàm phu tại gia, ở trong chỗ nương dựa, như vui thích hữu sau v.v…, do sức tăng thượng của sự nhận biết không đúng như thật, nên có thể khiến các hành lưu chuyển theo tạp nhiễm. Cùng với đấy trái nhau, là có thể khiến thanh tịnh.
Lại có các ngoại đạo, đối với chỗ ái lạc đã phân biệt hư vọng, định sanh hỷ ái, ở trong chỗ dựa là hành, vì sức tăng thượng của sự nhận biết không như thật, nên có thể khiến các hành lưu chuyển theo tạp nhiễm. Cùng trái với đây, tức có thể khiến thanh tịnh.
Lại có hàng hữu học trụ nơi nội pháp, dựa vào vọng niệm hiện có của các cảnh, căn, đối với các hành còn sót lại, do sức tăng thượng của sự nhận biết không như thật, nên lưu chuyển theo tạp nhiễm. Đoạn dứt các thứ tàn dư kia, nên liền được thanh tịnh. Nên biết, ở trong tất cả phẩm ấy, các phẩm thanh tịnh đều trụ nơi nội pháp. Như thế gọi là bốn sự của đối tượng duyên.
Lại nữa, do ba nhân duyên, nên Đức Như lai đã thuyết giảng giáo pháp không gì sánh bằng:
1. Tuyên thuyết pháp không chung.
2. Tuyên thuyết pháp không điên đảo.
3. Tuyên thuyết pháp tự giác.
Ở đây, tuyên thuyết, nếu hướng đến hành của Tátca-da-tập, tức là hướng đến hành của Khổ tập. Nếu hướng đến hành của Tát-ca-da-diệt, tức là hướng đến hành của Khổ diệt. Đó gọi là tuyên thuyết về giáo pháp không chung.
Nếu lại thuyết nêu:
Đây là có chân thật, đó gọi là tuyên thuyết về giáo pháp không điên đảo.
Nếu lại thuyết nêu:
Ta đã nhận biết như thật. Đó gọi là tuyên thuyết về giáo pháp tự giác.
Lại có ba thứ khiến các hành lưu chuyển có sai biệt:
1. Tát-ca-da là nghĩa thuộc nơi chốn an túc của các hữu tình nhiễm chấp.
2. Thế gian là nghĩa hư hoại của xứ nhiễm chấp.
3. Hữu là nghĩa lại sanh của kẻ nhiễm chấp.
Lại nữa, chúng hữu tình kia lược có bốn thứ. Đó là:
1. Hoàn toàn an trụ nơi quả của nghiệp khả ái. Tức ở nơi quả ấy tham đắm thọ dụng, nghĩa là sanh nơi cõi Trời chuyên hành phóng dật.
2. Hoàn toàn nhân nơi chuyển. Nghĩa là các Sa-môn hoặc Bà-la-môn hiện có mong cầu về pháp kia.
3. Các chúng hữu tình vui thích Bát-niết-bàn.
4. Các chủng loại xen tạp. Nghĩa là trụ ở đây, hoặc trụ nơi quả, tham đắm thọ dụng, hoặc vui thích thọ nhận quả yêu thích của vị lai. Hoặc thường xuyên tu tập tạo tư lương quả Niết-bàn, lìa các phóng dật.
Ở trong ba thứ chúng hữu tình trước, theo chỗ ứng hợp, nên biết đó là biên Tập diệt kia của thế gian cùng biên Tập diệt kia của Tát-ca-da. Ở trong chúng hữu tình thứ tư sau, nên biết là Tát-ca-da nơi Tập kia, Diệt kia, hướng đến Đạo có sai biệt.
Lại nữa, dựa nơi hai thứ đạo, nên biết đã thiết lập bốn thứ hành tướng.
Thế nào là dựa nơi hai thứ đạo? Tức là dựa nơi kiến đạo và dựa nơi tu đạo.
Thế nào là thiết lập bốn thứ hành tướng? Đó là:
1. Hành tướng nên nhận biết khắp.
2. Hành tướng nên vĩnh viễn đoạn trừ.
3. Hành tướng nên tác chứng.
4. Hành tướng nên tu tập.
Bốn thứ hành tướng như thế, ba là dựa nơi kiến đạo, một là dựa nơi tu đạo. Lúc nhập kiến đạo, hiện quán đế cùng có thể nhận biết khắp về Khổ, đoạn một phần Tập, chứng một phần Diệt, đối với một phần kia có thể đoạn, chứng. Ở trong tu đạo, vì cầu đoạn cùng chứng rốt ráo, nên như chỗ đạo đạt được, cần siêng năng tu tập. Nhân tu tập các đạo xét chọn như thế, cùng với tu đạo, nên đoạn trừ vĩnh viễn phần Tập còn lại, chứng đắc phần Diệt còn lại.
Lại nữa, chứng đắc hết sức rốt ráo như thế, do năm thứ tướng, nên biết là rốt ráo. Những gì là năm? Đó là:
1. Đã chứng đắc Khổ cùng nhân của Khổ được dứt trừ trọn vẹn.
2. Hết thảy tự nghĩa đều được viên mãn, nên có thể hành tác tha nghĩa.
3. Chứng đắc rốt ráo về đoạn và trí.
4. Có thể nhập nơi thành Niết-bàn cứu cánh.
5. Đã được nhập rồi, có thể an trụ nơi Thánh trụ.
Nơi tướng thứ nhất, có bốn thứ sai biệt như cắt dứt ái v.v…, như trước đã nói, nên biết. Nơi tướng thứ hai, có A-la-hán dứt hết các lậu nơi những sai biệt hiện có, như trước đã nêu, nên biết.
Nơi tướng thứ ba, có tất cả hành sự cứu cánh thảy đều đoạn trừ hoàn toàn. Có vô cấu hoàn toàn, vì hết thảy phiền não đều đoạn trừ rốt ráo. Có phạm hạnh rốt ráo dùng làm hậu biên, tức đã đạt được sự đối trị kia.
Nơi tướng thứ tư, ví như thế gian gồm đủ năm thứ tướng, gọi là đi vào cung thành, theo đấy nếu thiếu một thứ thì không gọi là vào. Như thế, cần phải đủ cùng tương tợ nơi năm thứ tướng kia, nên biết gọi là nhập cung thành Niết-bàn. Những gì gọi là đủ năm tướng của thế gian? Đó là:
1. Cửa của cung thành đã mở rộng.
2. Vượt qua hào thành mà không bị rơi xuống nước.
3. Dấy khởi sự quả quyết sâu xa mà vượt qua.
4. Vượt qua hào thành rồi liền tới cung điện.
5. Không phải tự, không phải là chỗ trông mong nào khác, trụ cờ cao nhất đã ngã thì từ từ mà vào trong cung. Như thế là đi vào cung không có các thứ trở ngại.
Nhập nơi cung Niết-bàn cũng lại như vậy. Trước tiên là đoạn trừ năm kiết thuận phần dưới, như cửa đã mở rộng kia. Tiếp theo, đối với Niết-bàn khởi tưởng về hầm sâu, vô minh, sợ hãi, đã được dứt bỏ trọn vẹn, như vượt qua hào thành mà không bị rớt xuống nước, thân có thể đến bờ kia, nên có thể giữ lấy thân sau cùng. Như kẻ kia quả quyết vượt qua, sắp vào cảnh giới Niết-bàn Vô dư y như sự thúc bách vào cung khuyết. Đã đoạn hữu ái, đối với các cảnh giới, ái không còn sanh nữa, đối khắp tất cả kiêu mạn không khởi mà nhập Niết-bàn. Như không phải chỗ trông mong của tự, tha, trụ cờ cao nhất đã ngã thì từ từ vào trong cung. Như trước đã nói về năm thứ nhân duyên, nhập cung Niết-bàn nên biết cũng vậy.
Lại, đã nhập rồi, do hai thứ tướng nên an trụ nơi Thánh trụ:
1. Do hành.
2. Do trụ.
Hành do ba tướng, nên nhận biết rõ đúng:
1. Không chung.
2. Không nhiễm.
3. Nương dựa đúng đắn nơi chỗ nương dựa.
Đoạn trừ vĩnh viễn năm kiết thuận phần dưới, ở trong các dục lìa dục rốt ráo, tức ở nơi xứ ấy mà du hóa, nên gọi là không chung. Nơi sáu hằng trụ luôn thâu nhận, nên gọi là không nhiễm. Đối với một phần pháp xét chọn xa lìa, nghĩa là voi ngựa dữ v.v… Nơi một phần pháp xét chọn quen gần, nghĩa là y phục, thức ăn uống v.v… Đó gọi là nương dựa đúng đắn nơi chỗ dựa.
Như vậy, đối với hành khéo thanh tịnh rồi, lại do năm tướng nên nhận biết rõ là trụ:
1. Hoặc do đấy mà trụ.
2. Hoặc đây là nương dựa.
3. Hoặc do đấy mà lìa trói buộc.
4. Hoặc đây là chỗ nương dựa.
5. Hoặc do đấy nên tương ưng.
Nên biết ở đây, do giải thoát, tâm bất động mà trụ. Nơi một phần pháp xét chọn trừ bỏ, nghĩa là nhân duyên du hành tán loạn, khó nhọc, nên thân tâm mệt mỏi, biếng trễ. Nơi một phần pháp xét chọn nhẫn thọ, nghĩa là nóng lạnh v.v… Đó gọi là nương dựa.
Do nơi ba thứ tạp nhiễm ly hệ:
1. Kiến tạp nhiễm.
2. Ái tạp nhiễm.
3. Tầm tư tạp nhiễm.
- Do kiến tạp nhiễm nên được ly hệ: Ở trong hữu sau, tâm không dao động.
- Do ái tạp nhiễm nên được ly hệ: Tức ở nơi các cảnh giới không bị chìm nổi.
- Tầm tư tạp nhiễm nên được ly hệ: Tầm tư chỉ là thiện, không có bất thiện.
Như vậy gọi là do đấy mà lìa trói buộc. Ở đây, dựa vào Tam-ma-địa không động của bốn thứ Tĩnh lự, an trụ nơi hiện pháp lạc trụ thứ nhất. Đó gọi là nương dựa, do cùng với bậc vô học, tâm hoàn toàn giải thoát, huệ hoàn toàn giải thoát mà cùng tương ưng.
Lại, người lìa ái, nơi thân thứ hai không còn sanh nữa, đối với nhà Niết-bàn không còn thối chuyển, nên tất chứng đức viên mãn vô thượng. Do năm tướng này, nên biết trụ nơi trụ thứ nhất viên mãn.
Lại nữa, tụng nêu:
Hai phẩm tổng lược ba có khác
Thắng giải đoạn lưu chuyển có tánh
Bất thiện thanh tịnh, thiện thanh tịnh
Thiện nêu, ác nêu sư cùng riêng.
Lược do ba xứ gồm thâu chung tất cả phẩm đen phẩm trắng:
1. Do pháp của đối tượng nhận biết khắp.
2. Do nhận biết khắp.
3. Do nhận biết khắp thành tựu.
- Pháp của đối tượng được nhận biết khắp: Nghĩa là Khổ đế, Tập đế, nên biết là gồm thâu chung tất cả phẩm đen.
- Nhận biết khắp: Nghĩa là Diệt đế, nên biết đây là gồm thâu một phần phẩm trắng.
- Nhận biết khắp thành tựu: Nghĩa là hữu tình cùng Đạo đế. Hữu tình là giả có, nên biết cũng là thuộc về phẩm bạch.
Đây tức là các Thánh đệ tử của Đức Như lai, ở nơi Thế tục đế cùng Thắng nghĩa đế, thảy đều thiện xảo. Dựa nơi hai đạo lý, tùy quán như thật, cùng không thể ghi. Nghĩa là Như lai sau diệt độ, hoặc có hoặc không, cũng có cũng không, chẳng phải có chẳng phải không, đều không thể nhận lấy, cũng không thể ghi. Vì sao? Vì dựa đủ nơi Thắng nghĩa, các thứ kia không thể thủ đắc, huống hồ là sau khi diệt độ hoặc có hoặc không. Nếu dựa nơi thế tục, là đối với các hành giả lập Như lai. Là đối với Niết-bàn, hoặc đối với các hành, Như lai sau khi diệt độ, không có một hành lưu chuyển có thể thủ đắc, bấy giờ xứ nào giả lập Như lai. Đã không Như lai, thì sao còn có không v.v… Nếu đối với Niết-bàn, Niết-bàn chỉ là chỗ hiển bày không hành, dứt hẳn các hý luận, tự nội chứng đắt, tuyệt hẳn hý luận, nên thiết lập là có là không hợp đạo lý. Cũng lại không nên thiết lập không có. Chớ nên tổn hủy việc thiết lập Niết-bàn diệu hữu tịch tĩnh.
Lại, Niết-bàn này là hết sức khó nhận biết, rất vi tế, nên gọi là vô cùng sâu xa. Vô số chẳng phải là một, là chỗ hiển bày phiền não của các hành đã đoạn trừ, nên gọi là rộng lớn. Hiện lượng, tỷ lượng, chánh giáo lượng đều không lường, nên gọi là vô lượng.
Lại nữa, do ba nhân duyên, nên bên trong và bên ngoài gánh chịu khổ não có sai biệt:
1. Đối tượng được gánh chịu.
2. Chủ thể gánh chịu.
3. Thời gian gánh chịu.
Nghĩa là bên ngoài gánh chịu một phần gồm thâu của sắc. Hoặc cây lúa hoặc cỏ dại, hoặc chủng loại khác, là đối tượng được gánh chịu. Kẻ ngu mới dùng tất cả các hành làm đối tượng gánh chịu.
Lại, bên ngoài gánh chịu là thuộc ở vai thân, là chủ thể gánh chịu.
Kẻ ngu mới cho tất cả ái nơi uẩn là chủ thể gánh chịu.
Lại, bên ngoài gánh chịu chỉ do nơi vai hiện tại gánh vác chỗ phải gánh chịu. Kẻ ngu mới cho tất cả ái nơi uẩn đã gánh vác chỗ phải gánh chịu.
Muốn xả bỏ đối tượng được gánh chịu, cần kết hợp với việc dứt trừ uẩn. Không có phương tiện riêng mà có thể trừ bỏ, cho đến chưa có thể xả bỏ đối tượng được gánh chịu, dẫn tới việc phải thường xuyên gánh chịu gánh nặng lớn.
Nắm giữ đôi vai không tịch tĩnh, lại yếu kém, nhỏ bé, trong thời gian phải gánh vác không gián đoạn đối tượng được gánh chịu, nên bên trong có ba đức lãnh nhận, gánh chịu các khổ như thế. Bên ngoài thì không như vậy. Đó gọi là hai thứ gánh chịu có sai biệt.
Lại nữa, do năm thứ tướng, kẻ ngu bị trói buộc, cùng với sự trói buộc bên ngoài có sai biệt.
Nghĩa là, bên ngoài bị trói buộc là chỗ trói buộc của một phần sắc, hoặc bị trói buộc của cây gỗ, hoặc sắt thép, hoặc dây chỉ. Kẻ ngu mới bị các hành trói buộc.
Lại, sự trói buộc bên ngoài là bị kẻ khác trói buộc. Kẻ ngu mới tạo sự trói buộc cho chính mình.
Lại, sự trói buộc bên ngoài dễ có thể nhận biết rõ về nhân duyên của sự trói buộc cùng phương tiện giải thoát. Sự trói buộc bên trong của kẻ ngu, tất cả đều khó nhận biết.
Lại, sự trói buộc bên ngoài kia, sau khi chết tức không. Sự trói buộc bên trong của kẻ ngu, sau khi chết, các hành vẫn theo đuổi, lui tới, xoay vòng không bỏ.
Lại, sự trói buộc bên ngoài, người xuất gia hiện có có thể xả bỏ các dục, liền được giải thoát, hết thảy oán địch đều không thể gây trở ngại. Sự trói buộc bên trong của kẻ ngu tuy được lìa dục, cho đến cõi Hữu đảnh hãy còn chưa có thể giải thoát, huống là chỉ xuất gia. Nên biết ở đây, tại phần vị lìa dục, mà là đối với điều ấy không được tự ý. Ở phần vị chưa lìa dục thì chúng tự ý, mặc sức. Nơi phần vị xuất gia chưa thoát khỏi tay Ma, hoặc phần vị tại gia hành tác thuận theo dục, chưa lìa nẻo dục nên còn bị Ma trói buộc. Do đạo thế gian, tuy sanh nơi cõi Hữu đảnh nhưng vẫn chưa thoát khỏi lưới Ma.
Lại nữa, lược do bốn tướng, nên biết Đức Như lai cùng với A-la-hán huệ giải thoát có phần đồng phần khác.
Do một thứ tướng, nên gọi là phần đồng, tức là giải thoát v.v… Do ba thứ tướng, nên gọi là phần khác:
1 Hiện bày đẳng giác.
2. Có thể thuyết pháp.
3. Hành chánh hành.
Ở đây, Đức Như lai không thầy, tự nhiên tu ba mươi bảy pháp phần Bồ đề, hiện Đẳng Chánh Giác. Đẳng Chánh giác đã dựa khắp nơi thắng nghĩa. Hoặc đối với hiện pháp có năng lực, không năng lực. Hoặc là pháp hiện thấy, pháp không hiện thấy, nơi tất cả thức thảy đều thấu đạt. Đó gọi là đẳng giác Bồ đề tự nhiên.
Thấu đạt về pháp Thắng nghĩa như thế rồi, đối với hai chướng kia khéo được giải thoát. Nghĩa là, cùng tập khí nơi các phiền não chướng và sở tri chướng, với chúng chư Thiên và thế gian khác, vì sự giải thoát chỉ là một, không hai. Nên biết thấu đạt bốn tướng như thế, đó gọi là đẳng giác Bồ đề tự nhiên. Do đấy không cùng chung với các Thanh văn.
Lại, dựa nơi sự tạo tác của tha nghĩa để hành tác, có thể thuyết giảng Chánh pháp, do năm thứ tướng, nên biết là không chung. Những gì là năm? Đó là:
1. Như Lai nhận biết rõ như thật về tất cả loại đạo là đạo, tất cả loại phi đạo là phi đạo.
2. Nhận biết rồi thì tuyên thuyết đúng như thật là đạo, là phi đạo, vì khiến hướng tới đạo, không hướng tới phi đạo.
3. Hoặc có đạo như chỗ đã nêu giảng, vui muốn siêng hành, vì khiến cho hành kia thâu nhận phương tiện, tác ý như lý dẫn đến chánh đạo, nên dùng môn chỉ dạy, trao truyền để tuyên thuyết.
4 Người kia, lúc hành như Thánh giáo, nếu có lỗi lầm của Chỉ Quán làm chướng ngại đều khiến trừ bỏ.
5. Hoặc có sự tùy thuận với pháp kia đều khiến thâu nhận. Đó gọi là có thể thuyết pháp, là phần không đồng. Ở đây, hành chánh đáng là phần không đồng: Nghĩa là các Thanh văn, trước dựa nơi Như lai, sau hành chánh hành. Phàm là Như lai thì không thiếu đối tượng nương dựa.
Lại, chư vị kia thành tựu chủng tánh Thanh văn, hành nơi hành chân chánh, nhưng Phật Như lai thì thành tựu tánh tự chúng.
Lại, các Thanh văn kia, hoặc đã thành thục hoặc sẽ thành thục, không phải là trong thân Bồ tát của hữu sau cùng, hai hành có thể đạt được. Nếu chưa thành thục, các vị kia tùy theo đạo hành có thể thành thục nối tiếp sự thành thục của vị lai.
Nếu đã thành thục: Tức chư vị kia ở nơi hiện pháp thành bậc Đại sư, chỉ dạy như hai thứ ấy, như Thánh giáo kia, tức hành như thế. Hoặc tùy đạo hành, thì chư vị kia, nơi đời vị lai sẽ chứng Niết-bàn. Nếu ở nơi hiện pháp, thành bậc Đại sư, giáo hóa chư vị kia dựa vào thân này liền chứng Thánh đạo, là đạo quả Niết-bàn, tức Thánh đạo này cùng với quả của Thánh đạo. Không tổn hại an lạc, nên gọi là pháp như thật, tánh tạo lợi ích nên lại nói là thiện.
Lại nữa, ở trong các hành, lược có hai thứ thắng giải vô ngã:
1. Thắng giải của Văn, Tư tăng thượng.
2 Thắng giải của Tu chứng tăng thượng.
Ở đây, thắng giải của Văn, Tư tăng thượng có thể cùng với thắng giải của Tu chứng tăng thượng, tạo sanh nương dựa. Các thiện nam tịnh tín xuất gia, tuy lại ở nơi cực thiện này đạt đến đủ, nhưng ở trong ấy không nên tri túc. Chính ở đây là dựa trong các hành, lần lượt tu tập các tưởng như vô thường, chứng đắc thắng giải vô ngã tăng thượng. Vì khiến cho chư vị kia chứng chuyển thiên thắng, nên siêng năng tu Quán, Giải.
Lại nữa, do bốn thứ tướng, nên biết các hành có hai thứ đoạn. Bốn tướng đó là:
1. Các triền được đoạn.
2. Tùy miên được đoạn.
3. Tánh nhân của các hành thuộc hữu sau được đoạn.
4. Hành nhiễm của các hành hiện tại được đoạn.
Bốn thứ như vậy, nên biết là nói chung về hai thứ đoạn trừ: Là phiền não được đoạn dứt cùng do sự đoạn. Hai tướng trước gọi là phiền não được đoạn. Hai tướng sau gọi là sự đoạn.
Lại nữa, ở trong cõi Dục, các hành lưu chuyển nơi phần vị đầu giữa sau, nên biết lược có ba thứ khổ gắn liền:
1. Lúc sanh, vì thai tạng kia che ngăn, nên có khổ bị che ngăn.
2. Sanh rồi, ở nơi phần vị trẻ con, khổ vì nhiều bệnh tật.
3. Các căn thành thục, suy già, có khổ về già, chết.
Lại, các hành kia lưu chuyển sanh khởi đầu giữa sau diệt, nên biết tức là ba thứ khổ diệt.
Lại nữa, có ba tánh hữu, vì đoạn trừ chúng nên các Thánh đệ tử phải siêng năng tu học:
1. Tánh hữu dựa nơi quá khứ làm nhân. Do nhân duyên ấy, chư vị tịnh tín bỏ nhà, hướng tới đời sống không nhà, phải thấy rõ về lỗi lầm, chán bỏ các dục.
2. Tánh hữu, dựa nơi vị lai sanh khởi các hành làm nhân.
3. Tánh hữu, dựa nơi ý lạc chưa đoạn tạp nhiễm của hiện tại.
Vì đoạn trừ ba thứ tánh hữu như thế, nên có ba đoạn. Nghĩa là không luyến tiếc. Không vui thích. Đoạn lìa dục, diệt cảnh giới tập thành.
Lại nữa, ở trong các hành, lược có hai thứ lìa tăng thượng mạn, quán không ngã kiến. Những gì là hai?
1. Không khéo thanh tịnh.
2. Hoàn toàn thanh tịnh.
Thế nào gọi là không khéo thanh tịnh? Nghĩa là như có một hữu tình xa lìa mà trụ, dựa nơi quán các hành là tánh vô thường, nhẫn. Do trí thế gian, đối với tánh vô ngã phát sanh thắng giải. Nhân nơi thắng giải ấy, đối với mắt nhận biết về sắc, cho đến ý nhận biết về pháp, theo đấy quan sát về tướng của ngã, ngã sở không hiện hành, nên gọi là đoạn.
Lại có thể chế phục ba thứ tham-sân-si hiện có thuộc về bốn thứ trói buộc bên ngoài. Nghĩa là thân tham dục bị trói buộc gồm thâu tham hiện có. Thân giận dữ bị trói buộc gồm thâu sân hiện có.
Thân của hai thứ còn lại bị trói buộc gồm thâu si hiện có. Nên biết trong ấy, nghĩa thấp kém cấu uế là nghĩa hiện có.
Trí vô ngã lìa tăng thượng mạn, tác ý như lý cùng tương ưng nên thuộc về địa định. Nên biết trí này do hai nhân duyên không khéo thanh tịnh:
1. Tức nơi thời gian này. Tức lúc phần vị thiện căn đối với việc hướng nhập phần thuận quyết trạch, có ngã mạn thô tùy nhập nơi tác ý vi tế hiện hành, chuyển biến gián đoạn không gián đoạn. Do nhân duyên ấy, nên khởi niệm: Ta nay đối với không có thể tu có thể chứng. Không là ta có. Do không ấy nên chấp ngã là hơn. Như không, thì vô tướng, vô sở hữu nên biết cũng thế.
2. Có thể khiến cho nhân duyên của pháp kia hiện hành. Nghĩa là đối với các dục hoặc Tát-ca-da có thức nhiễm ái. Do ở nơi thức có nhiễm ái như thế, không nhận biết rõ khắp về lực tăng thượng, liền bị Tát-ca-da ái của các dục làm cho chìm nổi. Do ý lạc ấy nên đối với Niếtbàn kia không thể hướng nhập, tâm thối chuyển như trước đã nói.
Lại do tám tướng, nên có thể nhận biết rõ khắp. Nhận biết rõ khắp nên dứt trừ các thứ lỗi lầm tai họa. Nên biết đó gọi là hết sức khéo thanh tịnh, là chân trí vô ngã lìa tăng thượng mạn.
Lại, ở trong đó đã diệt hoại, là pháp diệt hoại nên là pháp vô thường. Các nghiệp phiền não đã tập thành nên gọi là hữu vi. Do nguyện lực từ xưa được tập thành, nên gọi là Tư tạo nên. Từ tự chủng tử hiện tại nơi duyên ngoài đã tập thành, nên gọi là duyên sanh. Đối với pháp suy già của đời vị lai, nên gọi là pháp tận. Pháp chết mất nên gọi là pháp mất. Già chết chưa đến, vì vô số tai họa ngang trái như tật bệnh v.v… bức não, nên gọi là pháp hủy hoại. Do dựa nơi hiện lượng có thể lìa dục, có thể đoạn dứt, nên gọi là đối với hiện pháp đạt được pháp lìa dục cùng do pháp diệt. Nên biết ở đây, trừ pháp lìa dục cùng do pháp diệt, do tướng còn lại, lược quán về lỗi lầm tai họa hiện có của ba đời. Do tướng đã trừ quán nẻo xuất ly kia. Hoặc do xuất ly, nhận biết khắp lỗi lầm tai họa như thế, sự nhận biết kia gọi là khéo nhận biết khắp trong tất cả pháp không có tánh ngã. Gọi là các pháp ấn, tức pháp ấn này theo luận đạo lý pháp vương tạo nên. Đối với các Thánh thân không bị não hại, tùy hỷ có thể đạt được tất cả Thánh tài, do đấy tự nhiên an lành, vượt qua quãng đường dài đầy hiểm nạn của sanh tử rộng lớn, thế nên cũng gọi là pháp ấn của các Thánh. Nên biết ở đây, do trước gọi là trí thông đạt, do sau gọi là kiến hoàn toàn thanh tịnh.
Lại nữa, nên biết do năm thứ tướng, đối với pháp trong ngoài, sư cùng đệ tử, cao thấp có sai biệt:
1. Do trụ.
2. Do chế ngự chúng.
3. Do luận quyết trạch.
4. Do kiến lập, mở bày làm rõ đạo.
5. Do hành.
Nghĩa là các sư ngoại đạo cùng đệ tử thường xuyên trụ nơi trụ xứ ồn ào. Sư của nội pháp cùng đệ tử luôn luôn trụ nơi trú xứ tịch tĩnh hết mực. Đó gọi là sự sai biệt về cao thấp thứ nhất.
Lại, sư ngoại đạo, do tự có lượng đệ tử xuất gia, các Tăng ngoại đạo gọi là Tăng hữu. Do tự có lượng đệ tử tại gia, các chúng ngoại đạo gọi là chúng hữu. Hết thảy chúng ít ỏi kia cùng nhận là sư, nên gọi là các sư. Chúng sanh loại ngu tối, cùng cho là có đức, thế nên gọi là cùng suy tìm sắc thiện. Nên biết Như lai cùng với các pháp kia trái nhau, tuy là bậc Đại sư vô thượng của tất cả hàng Trời cùng thế gian, nhưng đối với hàng đồng tôn kia không hề mong muốn.
Lại, sư ngoại đạo và đệ tử của mình, lúc cùng dấy khởi luận bàn, quyết chọn, phàm có chỗ nói, lần lượt ý giải, mỗi mỗi thứ đều sai biệt, không cùng phù hợp, càng thêm ngu tối, không phải là trí được thanh tịnh. Nên biết nội pháp là trái hẳn với đây.
Lại, sư của ngoại đạo, vì các đệ tử, nương dựa nơi không nhân, nhân không bình đẳng để nêu đặt, kiến lập mở rộng, hiển bày về đạo. Lắng nghe pháp không chân chánh như thế, là Đại-la-sát nhiễu loạn nơi tâm.
Lại do tác ý phi lý, tương ưng với tầm tư không đúng đắn, nên tâm kia tán động, do đối với kẻ khác đã mang sẵn tâm hơn thua, chê trách kẻ khác. Nếu kẻ khác hỏi vặn lại liền khởi hung bạo. Không xét chọn kỹ, ngôn từ khinh xuất, tự bị không nhân, nhân không bình đẳng che giấu, nên gọi là tạp nhiễm. do kẻ ngu ấy, đối với nhân duyên nhiễm, hoặc tự hoặc tha không nhận biết đúng như thật, nên gọi là ngu muội. Lìa thanh tịnh nên gọi là không sáng rõ. Đối với nhân thanh tịnh không khéo léo, nên gọi là bất thiện.
Lại, cho đến đối với ngôn ngữ nên thuyết giảng, như ngôn ngữ đã nêu bày, ngôn ngữ của xứ ấy, hết thảy như thế đều không nhận biết đúng như thật. Do đó gọi kẻ kia là không biết lượng, là không biết ân. Nên biết nội pháp là trái hẳn với các thứ kia.
Lại, các sư ngoại đạo cùng đệ tử, tuy không nêu bày khác, chỗ nói không giảm, không nói về điên đảo. Tuy không lưu tán, nhưng chỗ nói không thêm, không tăng ích. Tuy cùng được nói, nhưng nghĩa chỉ tương tợ. Tuy là pháp, văn nêu bình đẳng. Tuy lại là pháp ký biệt cùng tùy pháp, nhưng đối với đồng pháp lại là bạn nhóm. Nên biết kẻ kia, đối với pháp tùy pháp hành, chứng đắc tự nghĩa, người không phóng dật hãy còn không thể đạt được, huống chi là người phóng dật. Kẻ kia do không đạt được tự nghĩa như thế, nên bị tha luận chế phục, chê bai về chỗ thọ nhận các pháp tà ác. Nên biết nội pháp cùng với kẻ kia trái nhau. Đó gọi là năm thứ cao thấp sai biệt.
Lại nữa, do bốn thứ tướng, nên biết các hành không nhất định là khổ nhiễm. Lại do bốn tướng, không nhất định là lạc, tịnh bốn tướng như thế là dựa chung nơi ba sự. Những gì là ba sự? Đó là:
1. Dựa nơi xứ sanh.
2. Dựa nơi thọ.
3. Dựa nơi đời.
Ở đây, lạc: Là ở nơi Tĩnh lự thứ ba.
Lạc đã thuận theo: Là ở trong cõi người, nhận có hai thứ. Hỷ lạc khắp: Là ở tại hai Tĩnh lự đầu.
Chưa vĩnh viễn lìa lạc: Là ở Tĩnh lự thứ tư trở lên. Trong ấy, khổ: Là tại nẻo Ngạ quỷ cùng do Bàng sanh. Khổ được tùy theo: Là ở trong nẻo người.
Ưu khổ khắp: Là tại Na-lạc-ca.
Chưa vĩnh viễn lìa khổ: Là ở trong Thiên chúng trên, nên khổ đã thuận theo.
Lại nói lạc: Là phần vị của thọ không khổ không lạc hiện tiền. Lạc đã tùy thuận: Là phần vị của khổ thọ hiện tiền.
Hỷ lạc khắp: Là phần vị của lạc thọ hiện tiền.
Không vĩnh viễn lìa lạc: Là chỗ tùy thuận của nhân lạc nơi tất cả phần vị.
Nếu cùng với đây trái nhau, nên biết là sai biệt của khổ. Lại, nói lạc: Nghĩa là thuận các hành lạc cùng lạc đã diệt.
Lạc được tùy thuận: Là có nhân lạc, nên ở đời vị lai sẽ sanh khởi lạc.
Hỷ lạc khắp: Là đối với hiện tại tùy thuận xứ lạc. Chưa vĩnh viễn lìa lạc: Là hai đời còn lại.
Cùng với đây trái nhau là bốn sai biệt của khổ, như chỗ ứng hợp nên biết.
Lại nữa, tụng nêu:
Hai trí cùng sự kia
Lạc cùng hành chuyển biến
Thỉnh không thỉnh nói kinh
Niết-bàn có hai thứ.
Trí có hai loại:
1. Trí chánh.
2. Trí tà.
Ở đây, trí chánh dựa nơi có sự sanh khởi; trí tà cũng vậy.
Tuy hai trí này cùng dựa nơi có sự, nhưng trí chánh thì nhận lấy sự đúng như thật; trí tà thì phân biệt tà vạy, không nhận lấy sự đúng như thật. Do có tác ý như lý của chánh giáo làm hành trước, nên ở nơi cảnh của đối tượng nhận thức, trí chánh được sanh. Do có tác ý phi lý của tà giáo làm hành trước, nên ở nơi cảnh của đối tượng nhận thức, trí tà được sanh. Không phải là trí chánh sanh, hủy hoại cảnh được nhận thức, chỉ ở nơi cảnh này xả bỏ chấp tà mà khởi trí chánh. Như màu sắc trong bóng tối, lúc đèn sáng sanh không hủy hoại sắc này, chỉ có thể soi chiếu rõ. Nên biết nghĩa ấy cũng lại như thế.
Lại nữa, các hành thuận theo lạc thọ, cùng với tướng vô thường cùng tương ưng. Nếu đến phần vị khổ, bấy giờ gọi là tổn não bức bách. Nếu tới phần vị không khổ không lạc, lúc ấy mới đối với hành khổ gọi là khổ bức thiết. Nếu không đến phần vị kia, tức nên hoàn toàn chỉ thuận nơi lạc thọ, chớ đến các phần vị khác.
Lại, các pháp như sanh, lão v.v… thuận theo các hành thảy đều là khổ. Chúng nếu đến phần vị tật bệnh, gọi là tổn não bức bách. Nếu tới phần vị khổ như sanh v.v…, gọi là khổ bức thiết. Nếu không tới phần vị kia thì ở trong các hành, là chỗ theo đuổi của nhân khổ như sanh v.v…, chớ khiến đến quả vị.
Lại, bản tánh nơi các hành là các duyên sanh, nên không được tự tại, cũng không có chủ đề. Nếu có chủ tể thì tất cả hành kia, tuy tánh là vô thường, nên tùy chỗ vui thích lưu chuyển không dứt, hoặc không khiến sanh, nói rộng cho đến đối với tử.
Lại nữa, có hai thứ Khế kinh:
1. Nhân thỉnh cầu mà thuyết giảng.
2. Không nhân thỉnh cầu mà thuyết giảng.
- Nhân thỉnh cầu mà thuyết giảng: Nghĩa là nếu có hữu tình do các hành cùng giáo ấy mà được điều phục, nhân sự thỉnh cầu kia, vì nhằm chuyển các hành cùng giáo như thế.
- Không nhân thỉnh mà thuyết giảng: Nghĩa là hoặc ở trong hàng trăm chúng kia, dùng vô lượng môn tạo sự thuyết giảng tốt đẹp. Hoặc vì đệ tử ở gần bậc Đại sư là A-nan-đà thưa nói như vầy: Vì khiến cho Chánh pháp được trụ lâu.
Lại nữa, nên biết do ba phần, nên thâu nhận Niết-bàn viên mãn:
1. Do thuận theo sự chỉ dạy, trao truyền.
2. Do quan sát đúng đắn về tất cả hành.
3. Do đoạn trừ vĩnh viễn các phiền não.
-Thuận theo sự chỉ dạy, trao truyền: Tức là ghi, nói, dạy, khuyên, thuộc về thần biến. Đức Như Lai theo chỗ mong muốn, ghi nói về tâm kia, do định ý của mình, dùng ba hành tướng soi chiếu khắp tâm kẻ khác. Hoặc lần lượt, lâu xa khiến tâm vắng lặng. Hoặc tâm vô gián diệt. Hoặc ở nơi đối tượng duyên hiện tại, chuyển tâm. Từ định khởi rồi, theo niệm phân biệt, tư duy định nội thọ nhận tâm kẻ khác. Như chỗ thọ nhận kia, tức ghi như vầy: Ông có tâm như thế: Nghĩa là lâu xa diệt. Ý như thế: Nghĩa là vô gián diệt. Thức như thế: Nghĩa là hiện tại, ở đây căn cứ nơi chủng loại, không căn cứ vào sát na. Tức do ghi, nói như vậy, thần biến làm chỗ dựa, nên ở nơi ba xứ kia mà làm việc dạy khuyên:
1. Ở nơi cảnh giới hiện tiền của xứ hành, mở, thuận cho tác ý như lý, ngăn chặn tác ý không như lý.
2. Ở nơi trụ xứ, ngăn chặn tầm tư bất chánh, mở bày, thuận cho tầm tư chân chánh.
3. Ở nơi xứ Chỉ, Quán siêng năng tu hành: Mở bày, thuận cho khiến đoạn các hành chưa đoạn, cùng khiến vĩnh viễn được lìa trói buộc của phiền não, chứng đắc Niết-bàn.
Tuyên thuyết như thế, khiến từ nơi các tùy phiền não của ba xứ, tâm được thanh tịnh. Nghĩa là xứ hành, xứ trụ, xứ dựa.
Lại, quán xét đúng đắn về các hành của quá khứ, hiện tại, vị lai, gọi là chánh quan sát.
Tất cả các hành lại có ba lậu. Ba lậu là trước mà có dục hại. Dục hại là trước mà có tầm tư nhiệt não. Tầm tư nhiệt não là trước mà có truy cầu ưu khổ. Tất cả như thế đều vĩnh viễn đoạn trừ, nên gọi là vĩnh đoạn hết thảy phiền não. Tâm định trụ khéo giải thoát như thế là lạc trụ vô tướng. Lúc không sợ hãi, ở trong hiện pháp, gọi là nhập nơi xứ Bát Niết-bàn viên mãn. Lại dựa vào ba pháp, nương nơi tự nghĩa, gọi là trụ nơi quy y. nương nơi tha nghĩa, gọi là trụ nơi châu, bãi. Những gì là ba? Đó là:
1. Dựa nơi nội, tác ý như lý làm trước nơi pháp tùy pháp hành.
2. Dựa nơi Phật, lắng nghe Chánh pháp được thuyết giảng.
3. Dựa vào bậc Thiện sĩ bên trong gần gũi với Chánh pháp.
Ba pháp như thế, nên biết là hiển thị bốn thứ pháp tạo tác nhiều trong cõi Người: Thân cận bậc Thiện sĩ, lắng nghe Chánh pháp, tác ý như lý, pháp tùy pháp hành. Lại do ba duyên cùng năm thứ tướng, nên biết là chứng đắc phần Niết-bàn kia. Những gì là ba duyên? Đó là:
1. Nhận biết khắp về Khổ.
2. Thấy rõ các thứ lỗi lầm tai họa của tất cả hành thuận theo Khổ.
3. Vượt quá tất cả Khổ như sầu v.v… Những gì là năm tướng? Đó là:
1. Nhận biết về chủng loại của Khổ cùng thời gian liên hệ phát sanh sầu não v.v… Đó gọi là nhận biết khắp về tự tánh của Khổ kia.
2. Nhận biết có chủng tử nên pháp kia được sanh. Đó gọi là đối với Khổ kia, nhận biết khắp về tánh của nhân. 3. Nhận biết về cảnh giới của đối tượng tự nhận thức, hành trì. Đó gọi là đối với Khổ, nhận biết khắp về tánh của duyên.
4. Tùy quán chỗ chấp trước ngã cùng ngã sở, đều là các hành có thể thuận theo các Khổ. Đó gọi là đối với Khổ, nhận biết khắp về tánh của hành.
5. Tùy quán những lỗi lầm tai họa của các hành nơi ba đời hệ thuộc cõi Dục, có thể đoạn trừ hết thảy các khổ như sầu não v.v…
Nên biết, do ba duyên, năm tướng này, nên đạt được phần Niết-bàn như vậy. Do sự khả ái, vì vô thường chuyển biến khiến tâm bi thương buồn lo nên gọi là sầu. Do kẻ kia phát khởi ngôn ngữ thở than, sùi sụt, nên gọi là than. Nhân đấy bị đánh đập nên gọi là khổ. Trong lòng ôm giữ oan kết, nên gọi là ưu. Do đấy mà mê loạn nên gọi là não.
Lại, do mất mát của cải, vật báu, bệnh tật, không thân thích v.v…, các sự như thế tùy một thứ hiện tiền mới sanh ưu não, gọi là sầu. Do dựa vào đấy, nên tiếp theo bèn phát khởi ngôn ngữ bi ai, toàn thân phiền nhiệt, gọi là than. Phần vị khổ vượt hơn sầu than này. Thân phiền nhiệt rồi, trong thiêu đốt, ngoài tĩnh, tâm cũng chưa bình, gọi là phần vị ưu. Qua ngày đầu rồi, hoặc hai, ba, năm, mười ngày đêm, một tháng, do nhân duyên kia, nên ý hãy còn chưa yên, gọi là não.
Lại nữa, kệ nêu:
Mầm tranh kiến nhiễm lớn
Một hướng học, bốn sợ
Trong thiện thuyết, ác thuyết
Túc trụ niệm sai biệt.
Do bốn nhân duyên, Đức Như lai không cùng với sự mê loạn của thế gian chung tạo tranh oán, nhưng thế gian kia khởi phân biệt tà vạy, nghĩa là tạo tranh oán. Những gì là bốn nhân duyên? Đó là:
1. Tuyên thuyết về nghĩa của đạo lý.
2. Tuyên thuyết về nghĩa chân thật.
3. Tuyên thuyết về nghĩa lợi ích.
4. Có lúc tùy thuận thế gian chuyển.
Ở đây, Đức Như Lai dựa nơi bốn đạo lý như trước đã nói để tuyên thuyết Chánh pháp. Đó là:
- Đạo lý quán đãi.
- Đạo lý tác dụng.
- Đạo lý nhân thành.
- Đạo lý pháp nhĩ.
Do đấy, Như lai gọi là bậc Pháp ngữ (Bậc nói pháp). Như lai trọn không cố ý đi đến trú xứ của kẻ khác để mong dấy khởi sự tranh biện. Vì sao? Vì do các thế gian đều trái phản với tha nghĩa, tức vì tự nghĩa nên dấy khởi tranh luận. Như lai đều cho hết thảy tha nghĩa tức là tự nghĩa, nên không có chỗ tranh luận, chỉ trừ vì thương xót khiến họ được nghĩa lợi, nên đi đến trú xứ của kẻ khác, vì họ thuyết giảng Chánh pháp. Nhưng các thế gian tà chấp, ngu si điên đảo, vọng cho là tự nghĩa, tha nghĩa mà có sai biệt, nên cùng với Như lai tranh luận. Do nhân duyên này, nên biết Như lai gọi là "Bậc nói đạo lý".
Lại nữa, Như lai gọi là "Bậc nói chân thật". Nghĩa là nếu các bậc thông tuệ của thế gian cùng chấp nhận là có, Như lai đối với sự việc ấy cũng nói là có, tức như tất cả đều là vô thường. Hoặc các bậc thông tuệ của thế gian cùng thừa nhận là không, thì Đức Như lai đối với sự việc ấy cũng nói là không, tức như tất cả các hành đều là thường trụ.
Lại nữa, Đức Như lai gọi là "Bậc nói điều lợi ích". Nghĩa là các thế gian có những kẻ mù lòa tăm tối, tự họ đối với thế pháp không thể nhận biết rõ. Đức Như lai đối với những trường hợp ấy tự hiện Đẳng Giác, vì họ mà mở bày, xiển dương.
Lại nữa, Đức Như lai hoặc có lúc tùy thuận thế gian mà chuyển. Nghĩa là như A-tử-la, Ma-đăng-kỳ v.v… chỉ dựa nơi phần ít sự nghiệp để tự sanh sống, nhưng các người đời vì những vị ấy đã giả lập danh tưởng: giàu có lớn, tài sản lớn v.v… Như các người đời kia đã giả lập danh tưởng, Đức Như lai cũng tùy theo họ để nói như vậy.
Lại như một sự việc nơi một cõi nước được giả lập danh tưởng, thì đối với cõi nước khác, tức nơi sự việc ấy cũng lập danh tưởng khác. Đức Như Lai tùy theo sự việc kia cũng nêu bày như thế. Nếu ôm giữ sự tranh oán để dấy khởi tranh oán, tức không được gọi là Bậc nói về đạo lý, Bậc nói chân thật, Bậc nói điều lợi ích, Bậc thuận theo thế gian chuyển. Do gồm đủ bốn thứ nhân duyên như thế, vì vậy nên biết Như Lai là không tranh.
Lại, Đức Phật Thế Tôn tự nhiên quán xét về nghĩa nên hành tác, tuy không thỉnh vấn, nhưng tự tuyên dương hiện pháp Đẳng Giác, có thể dùng danh cú văn thân tương xứng để nêu đặt, kiến lập các pháp sai biệt, nói rộng như nơi phần Nhiếp dị môn ở trước. Như vậy, nên biết cho đến gọi là bình đẳng khai thị.
Lại nữa, một nhân hai duyên, khiến mầm của hữu sau sẽ được sanh trưởng. Nghĩa là trong năm phẩm hành, chủng tử của phiền não luôn gắn chặt nơi thức, được gọi là nhân. Bốn thứ thức trụ cũng với nhân tương tợ gọi là duyên. Lại do hỷ tham làm tươi nhuận thức kia, khiến đối với các pháp ấy sẽ thọ nhận xứ sanh, kiết sanh nối tiếp, chiêu cảm Tát-ca-da, cũng gọi là duyên.
Ở đây có một hữu tình, do bốn thức trụ thâu nhận làm chỗ dựa. Do hỷ tham nên ở trong hiện pháp luôn tạo tác, tích tập cùng khiến tăng trưởng. Người kia, vào thời gian sau thành A-la-hán, khiến chủng tử của thức thảy đều hủy hoại, hết thảy mầm của hữu vĩnh viễn không được sanh.
Lại nữa, có một hữu tình gồm đủ tất cả trói buộc, siêng năng tu tập hành chân chánh, vui thích Niết-bàn, đối khắp hết thảy các xứ thọ sanh đều khởi tưởng chán nghịch. Người kia, do có đủ trói buộc nên chủng tử không hoại mất. Thức trụ hòa hợp. Nhưng ở nơi các hữu khởi tưởng chán nghịch, nên không hỷ tham. Người kia do tu tập hành chân chánh như thế, nên ở trong hiện pháp có thể đạt Bát-niết-bàn, mầm của hữu sau kia cũng không thể sanh.
Lại nữa, có một hữu tình trụ nơi địa học, đắc quả Bất hoàn, chỉ có các hành của xứ Phi tưởng phi phi tưởng là phần còn lại, nơi định Hữu đảnh an trụ đầy đủ. Hết thảy chủng tử của thức kia cũng chưa thảy đều diệt tận, nhưng nơi thức trụ có thể nhận biết rõ khắp, có thể thông đạt khắp. Người kia do sức tăng thượng của quên niệm, nên tham ái của địa trên chỉ còn sót lại phần ít. Là quả Bất hoàn, nên tất cả mầm hữu nơi địa dưới của vị lai không sanh lại nữa. Cùng với đây trái nhau, nên biết tất cả mầm của các hữu sau đều được sanh trưởng.
Lại nữa, tạp nhiễm có hai:
1. Tạp nhiễm của kiến.
2. Tạp nhiễm của phiền não khác.
- Tạp nhiễm của kiến: Là Tát-ca-da-kiến đối với các hành chấp ngã, ngã sở, chuyển theo chấp tà vạy. Do kiến này nên hoặc chấp các hành cho là ngã thật, hoặc chấp các hành cho là ngã sở thật.
- Lại có trường hợp khác: Đây là căn bản nơi kiến thú của các ngoại đạo, là các phiền não hiện có còn lại như tham v.v… Nên biết đó gọi là tạp nhiễm thứ hai.
Lại, tạp nhiễm của kiến, lúc được giải thoát, cũng có thể giải thoát rốt ráo đối với các thứ tạp nhiễm khác, không phải các tạp nhiễm khác khi được giải thoát, tức có thể giải thoát các tạp nhiễm của kiến. Vì sao? Vì do sanh khởi giải thoát ấy là dựa nơi đạo thế gian, cho đến có thể lìa tham dục hiện có của xứ vô sở hữu, đối với các phiền não còn lại của những địa dưới, tâm được giải thoát, nhưng chưa thể thoát khỏi Tát-ca-da-kiến. Do kiến này, nên đối với các hành hiện có của địa trên dưới, đã cùng xen lẫn với tự thể, không thấy có sai biệt, chấp chung là ngã, hoặc chấp là ngã sở. Do nhân duyên ấy, nên tuy lên tới cõi Hữu đảnh mà lại thối hoàn.
Nếu đối với tất cả tự thể như thế, nhận biết khắp là khổ, do đạo xuất thế trước đoạn tất cả Tát-ca-da-kiến, sau mới có thể đoạn trừ vĩnh viễn các phiền não còn lại. Do nhân duyên này, tức không còn thối chuyển. Vì thế nên biết, chỉ tạp nhiễm của kiến là tạp nhiễm lớn.
Lại nữa, nên biết do ba thứ tướng, đạo gọi là một nẻo. Nghĩa là đối với địa phàm phu, dùng năm hành tướng quan sát các hành có năm xứ sai biệt. Tức quan sát này, ở trong hai thời, tu trị khiến tịnh, nghĩa là nơi hành hướng tới địa học cùng địa vô học
Thế nào gọi là năm thứ hành tướng quan sát các hành? Đó là:
1. Quan sát tự tánh của các hành.
2. Quan sát nhân duyên của các hành.
3. Quan sát nhân duyên của tạp nhiễm.
4. Quan sát nhân duyên của thanh tịnh.
5. Quan sát về thanh tịnh.
Lại nữa, nên biết nơi phần vị phàm phu, trước đối với năm xứ, đạt được thiện xảo rồi, sau ở nơi phần vị học, tức đối với năm thứ xứ sở như thế, lại dùng năm thứ hành tướng sai biệt để quan sát, xét kỹ, có thể khiến mau chóng đạt được thông huệ.
Những gì gọi là năm thứ hành tướng? Nghĩa là quán xét các hành, nhân duyên của các hành, nhân duyên tạp nhiễm, nhân duyên thanh tịnh, tịch tĩnh vắng bặt, hướng đến nẻo xuất ly của đạo thanh tịnh.
Các hành có vô số chúng, nhiều tánh, đều từ chủng tử sanh khởi, đều đợi duyên khác mới sanh khởi.
Lại nữa, nên biết do bốn nhân duyên, nên đối với hai xứ phát sanh sợ hãi, có thể bị chướng ngại. Những gì là bốn? Đó là:
1. Hoặc ở nơi phần vị này sanh khởi.
2. Hoặc dựa nơi pháp ấy sanh khởi.
3. Hoặc chúng đã sanh khởi như thế.
4. Hoặc hành tướng kia sanh khởi.
- Nơi phần vị này sanh khởi: Tức là ở trong phần vị không phải Thánh sanh khởi, đối với các Thánh đế chưa được thiện xảo. Lại, không phải Thánh này, đối với năm xứ sở cũng chưa thiện xảo.
- Dựa nơi pháp ấy sanh khởi: Nghĩa là đối với các hành khởi tướng của hành ta, chấp ngã, ngã sở, dùng Tátca-da-kiến làm chỗ dựa để sanh khởi.
- Đã sanh khởi như thế: Nghĩa là do hai thứ biến hoại có sai biệt của các hành nên sanh khởi:
1. Do chỗ biến hoại của duyên khác.
2. Do tự tâm khởi phân biệt tà vạy mà biến hoại.
- Hành tướng sanh khởi: Tức đối với chỗ yêu thích, lo sợ nơi vị lai sẽ biến hoại, nên sanh hành tướng sợ hãi.
Đối với sự vật đang biến hoại, khởi hành tướng tổn não. Nghĩa là ở trong chỗ yêu thích đã biến hoại, vốn được vui mừng, tôn trọng, sanh khởi hành tướng luyến tiếc. Lại, đối với Niết-bàn, phân biệt về tự thể vĩnh viễn biến hoại, nên khởi hành tướng sợ hãi.
Hành tướng sai biệt như thế, lúc chuyển, đối với kẻ yêu thích Thánh giáo cùng yêu thích Niết-bàn, có thể bị chướng ngại.
- Lại, do hai thứ môn, ở nơi cảnh của đối tượng duyên, từ nơi xứ đã hành, chấp ngã, ngã sở có sai biệt mà chuyển. Nghĩa là suy cầu cũng lãnh nhận, tức kiến cùng thọ. nữa, do ba thứ tướng, nên pháp khéo thuyết giảng, pháp không khéo thuyết giảng, ở trong các sự nơi túc trụ tùy niệm, nên biết nhiễm tịnh có sai biệt. Những gì là ba? Đó là:
- Túc trụ tùy niệm của pháp không khéo thuyết giảng, đối với tự tướng cộng tướng của các hành, không nhận biết đúng như thật, nên ở nơi các hành, hoặc hoàn toàn chấp thường, hoặc chấp một phần là thường, hoặc chấp không phải thường, hoặc chấp không nhân.
- Túc trụ tùy niệm của pháp khéo thuyết giảng, do nhận biết đúng như thật nên không phân biệt tà vạy. Đó gọi là hai niệm có sai biệt thứ nhất.
- Lại, pháp không khéo thuyết giảng, tùy dựa nơi định não phát khởi túc trụ niệm, không thể nhận biết rõ đúng như thật là khổ, liền sanh ái vị. Do ái vị, nên đối với hành quá khứ sanh khởi luyến tiếc sâu xa. Đối với hành vị lai, sanh khởi sự vui thích sâu xa. Đối với hành hiện tại, không thể tu hành chán lìa dục diệt.
Pháp khéo thuyết giảng, nên biết tất cả cùng với các pháp kia là trái nhau. Đó gọi là hai niệm có sai biệt thứ hai.
- Lại, pháp không khéo thuyết giảng, hành tà vạy như thế, nên bị bốn thứ tạp nhiễm làm cho tạp nhiễm, có thể chiêu cảm hữu sau. Những gì gọi là bốn thứ tạp nhiễm? Đó là:
1. Tạp nhiễm của nghiệp.
2. Tạp nhiễm của triền kiến, ngã mạn.
3. Tạp nhiễm của triền ái.
4. Tạp nhiễm của tùy miên kia.
Nếu các nghiệp mới tạo tác tăng trưởng, hoặc các nghiệp cũ thường xuyên tiếp xúc mà không biến đổi, đó gọi là tạp nhiễm của nghiệp. Hoặc đối với các hành phân biệt tà vạy khởi Tát-ca-da-kiến. Nơi hữu tình khác, dùng các Sa-môn Bà-la-môn cùng với mình đối chiếu, cho mình là hơn, hoặc bằng hoặc kém. Đó gọi là tạp nhiễm của triền kiến, ngã mạn. Đối với trong, ngoài dấy khởi tạp nhiễm, ở trong hành ái nên biết về tướng. Đó gọi là tạp nhiễm của triền ái. Ở trong sự nối tiếp ba phẩm Kiến, Ngã mạn, Ái, thô trọng luôn theo đuổi, đó gọi là tạp nhiễm của tùy miên kia.
Bốn thứ như thế, gồm thâu chung làm hai, là nghiệp, phiền não.
Phiền não lại có hai, là triền và tùy miên.
Ở trong các hành, trước khởi chấp tà, sau sanh tham vướng: Do sức tăng thượng của hai thứ ấy, nên tuy lại có tạp nhiễm của phiền não khác nhưng chỉ giữ lấy chúng. Từng ấy phiền não ở trong các hành không đối chiếu với kẻ khác, tự khởi chấp tà, được gọi là kiến. Đối chiếu nơi kẻ khác, gọi là ngã mạn. Chấp tà như vậy là phẩm Vô minh. Do đấy làm trước để phát khởi tham chấp, gọi là phẩm Ái. Do hai thứ phiền não căn bản ấy, nên ở trong sanh tử lưu chuyển không dứt.
Nếu trong pháp Tỳ-nại-da khéo thuyết giảng, tu hành đúng đắn, có thể đoạn trừ bốn thứ tạp nhiễm như thế, ở trong hiện pháp có thể Bát Niết-bàn. Lại do đấy nên có thể trụ nơi Niết-bàn viên mãn rốt ráo. Nếu không như vậy, thì hãy còn không thể trụ nơi phần Niết-bàn kia, huống hồ là đạt rốt ráo. Đó gọi là hai niệm có sai biệt thứ ba.
Lại, ở trong đó, kiến cùng ngã mạn gọi là nhìn cao. Ái gọi là khói. Vì sao? Vì ở trong các hành, bị kiến, ngã mạn che ngăn, không nhận biết đúng như thật về thể tướng của các hành, tánh vốn xấu kém, đối với thân Người, Trời, cùng các vật dụng của họ, cho là cao, hơn. Thế nên hai thứ ấy gọi là nhìn cao.
Ái cũng như khói, khiến tâm nhiễu loạn không được an ổn, do đó gọi là khói.
Lại nữa, tụng nêu:
Không chán bỏ không dục
Không loạn hỏi, ghi tướng
Chướng, kỳ lạ, không nhân
Hủy, thuần nhiễm, cùng sau.
Có hai thứ tin, nhưng không xứng hợp với chỗ tạo tác của người tin. Những gì là hai? Đó là:
1. Tin của người tại gia: Tin có Niết-bàn, cùng tánh của tất cả hành là vô thường. Nhưng đối với các hành không quán về lỗi lầm tai họa, không trụ nơi chán lìa, không biết nẻo xuất ly mà thọ dụng chúng.
2. Người có tịnh tín, lìa bỏ pháp nhà, hướng đến đời sống không nhà. Những người này đối với Niết-bàn không thể an trụ với sự mong muốn mãnh liệt. Không dùng sự mong muốn ấy làm chỗ nương dựa để thường siêng tu tập pháp thiện hiện có, ở trong hiện pháp không Bát Niết-bàn.
Cùng với đây trái nhau, nên biết là xứng hợp với chỗ tạo tác của người tin tưởng.
Lại nữa, ở trong nội pháp, lược có hai thứ gồm đủ thông minh. Nếu có người tịnh tín, hoặc các ngoại đạo lúc tìm đến thỉnh vấn, có thể ghi nhận không loạn. Tức là dựa nơi Trung đạo, ở trong các hành, khi hỏi về sanh diệt, không thêm về hữu tình, không bớt về sự thật. Chỉ ở nơi các hành an lập sanh diệt không loạn mà ghi nhận. Hoặc lập hữu tình có sanh có diệt. Đó gọi là một biên, là biên tăng ích. Hoặc lập sanh diệt đều không thật có, là biên thứ hai, tức biên tổn giảm. Chỉ ở nơi các hành an lập sanh diệt, đó gọi là Trung đạo, xa lìa hai biên. Do đó, hoặc có thể "ký biệt" như thế, là khéo ký biệt, Như Lai tán thán.
Hoặc lại có ngôn thuyết: Do nhân duyên nào, nên đối với Sa-môn Kiều Đáp Ma đã tu tập phạm hạnh. Nếu có được câu hỏi ấy, nên ghi nhận như trước, xa lìa hai biên tăng ích và tổn giảm, dựa nơi Trung đạo để ghi nhận, gọi là ký biệt không loạn.
Hoặc cho là hữu tình tu tập nhiễm tịnh, đó gọi là một biên, là biên tăng ích. Hoặc cho tất cả đều không tu tập, là biên thứ hai, tức biên tổn giảm. Hoặc vì các hành, chán lìa dục diệt mà tu tập, đó gọi là Trung đạo, xa lìa hai biên. Thế nên, ghi nhận này gọi là ký biệt không loạn, gọi là khéo ký biệt. Nên biết ký biệt này được chư Phật khen ngợi.
Lại nữa, pháp có hai loại:
1. Hữu vi.
2. Vô vi.
Ở đây, hữu vi là tánh vô thường. Ba tướng hữu vi nêu đặt có thể đạt được:
1. Sanh.
2. Diệt.
3. Tánh trụ, dị.
Ba tướng như thế dựa nơi hai thứ hành lưu chuyển để an lập:
1. Dựa nơi sanh thân lần lượt lưu chuyển.
2. Dựa nơi sát na lần lượt lưu chuyển.
- Dựa nơi lưu chuyển thứ nhất: Nghĩa là ở trong chúng đồng phận của các hữu tình kia, mới sanh gọi là sanh, chung cuộc mất gọi là diệt. Trung gian của hai thứ kia, là các phần vị như hài nhi v.v… được lập là tánh trụ, dị. Cho đến thọ mạng trụ, gọi là trụ. Các phần vị càng về sau thì chuyển biến sai biệt, gọi là tánh trụ dị.
- Dựa vào lưu chuyển thứ hai: Nghĩa là các hành kia nơi từng sát na, sát na thay đổi mà sanh, gọi là sanh. Sau sát na sanh không trụ gọi là diệt. Chỉ sanh sát na trụ nên gọi là trụ. Tánh dị có hai:
1. Tánh dị của tánh dị.
2. Tánh dị chuyển biến.
- Tánh dị của tánh dị: Là các hành tương tợ nối tiếp mà chuyển.
- Tánh dị chuyển biến: Là các hành không tương tợ nối tiếp mà chuyển.
Không phải tánh dị này lìa tướng trụ, ngoài ra có thể riêng có thể đạt được. Thế nên hai thứ gồm thâu chung làm một, thiết lập một tướng. Cùng với đây trái nhau, nên biết là ba tướng của vô vi thường trụ.
Lại nữa, nên biết tu tập tư lương của Niết-bàn, lược có ba chướng:
1. Dựa nơi sự nghiệp lớn, của cải, vật báu đầy đủ, hành nhiều phóng dật.
2. Không có các bậc thiện tri thức tạo phương tiện để hiểu dụ.
3. Chưa nghe Chánh pháp, chưa được Chánh pháp, hốt nhiên gặp phải duyên tử phi thời mạng yểu.
Cùng với đây trái nhau, nên biết là không chướng ngại, cũng có ba thứ.
Lại, các Thánh giả, lúc sắp mạng chung, lược có hai thứ tướng của Thánh giả. Nghĩa là lúc lâm chung, các căn lắng trong, tịch tĩnh, mong được Phật thọ ký.
Do hai thứ tướng, nên Phật vì tất cả Thánh giả quá khứ ký biệt. Chủng tánh của Thánh tánh đầy đủ, nên chỉ thọ ký vật loại. Ta đã nhận biết rõ về pháp cùng tùy pháp. Pháp tức là chánh kiến, trước hành Thánh đạo. Nói tùy pháp: Là dựa nơi pháp kia, lắng nghe âm thanh của người khác, tác ý như lý.
Lại, ta chưa từng não loạn nơi chốn nương dựa của Chánh pháp: Nghĩa là vì nghĩa này, nên Đức Như lai "cáo mệnh", cùng vì nghĩa này nên có chỗ tuyên thuyết, cho đến vì khiến cho các lậu vĩnh viễn dứt hết. Kẻ kia do pháp này nên đã dứt được hết các lậu.
Lại nữa, chư Phật Như lai lược có hai thứ pháp hết sức kỳ diệu, ít có: Nghĩa là người chưa tin khiến tin. Người đã tin rồi khiến tăng trưởng, mau chóng ở nơi Thánh giáo khiến được ngộ nhập. Tức là tướng Đại sư, hoặc tướng giáo pháp, hoặc tướng đã chứng đắc đức bậc nhất. Đối khắp mười phương với âm thanh hay đẹp đã xưng tụng, tán thán rộng lớn, không đâu là không đầy đủ. Lại có thể trừ bỏ luận nói không nhân, cùng luận nhân ác, thâu nhận tất cả luận thuyết nhân chánh. Vì sao? Vì luận nói không nhân cùng luận nhân ác, các bậc thông tuệ, thắng giải về xứ nương dựa hãy còn không muốn đi đến nẻo thiện Trời, Người, cùng vui thích giải thoát, huống chi là các hạng khác. Nên chỗ hướng nhập nơi luận nói nhân chánh, nên biết về tướng là cùng với các thứ kia trái nhau.
- Tướng Đại sư: Nghĩa là Đức Bạc-già-phạm là bậc Như lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cho đến Thế Tôn, giải thích rộng như nơi phần Nhiếp dị môn ở trước.
- Tướng giáo pháp: Tức là thuyết giảng Chánh pháp, đầu giữa sau đều thiện, cho đến nói rộng, nên biết cũng như nơi phần Nhiếp dị môn.
Tướng chứng đắc đức bậc nhất: Nghĩa là đối với hết thảy đời này đời khác tự nhiên thông đạt, hiện Đẳng Chánh Giác, cho đến nói rộng. Ở đây, cõi Dục gọi là đời này, cõi Sắc, Vô sắc gọi là đời khác. Hai đời hiện tại, quá khứ khác biệt. Nên biết đó gọi là sai biệt thứ hai.
Không do thầy, nên gọi là tự nhiên. Sáu thứ thông huệ hiện chứng đắc nên gọi là tác chứng. Đối với các hữu tình là tối thượng đệ nhất, nên gọi là viên mãn. Tánh bậc nhất này tự nhiên nhận biết, hiển bày, chỉ rõ cho kẻ khác nên gọi là khai thị.
Lại nữa, do hai thứ tướng, nên luận không nhân, ở trong các hành, chấp là không nhân chuyển. Nghĩa là, nhân duyên sanh khởi, nhân duyên diệt tận nơi các hành không nhận biết rõ: Do đây sanh nên các hành kia sanh. Do đây diệt nên các hành kia diệt. Nơi hai sự này không thể chứng đắc.
Lại, không chứng đắc tánh tướng của các hành, khởi kiến như thế, lập luận như thế. Có là nhất định có. Không là nhất định không. Không chẳng thể sanh. Có chẳng thể diệt. Tức luận này ở trong ba phần vị, hiện có thể chứng đắc các hành sanh diệt, cùng chỗ thông tỏ về tất cả thế gian với hiện lượng thô cạn, hủy báng, trái nghịch. Vì sao? Vì hiện thấy nhân duyên hòa hợp của nam nữ hiện có nơi các nhà như hoặc Sát đế lợi, hoặc Bà-la-môn, Phệxá v.v…, hoặc quá tám tháng, hoặc chín tháng rồi liền sanh nam, nữ. Như thế là sanh rồi hoặc có một loại, sẽ vào lúc ấy thọ mạng hết, yểu mạng.
Lại có một loại, cho đến thọ mạng trụ, ứng phó để sống còn. Hoặc phần vị khổ hoặc lạc, hoặc không khổ không lạc thọ có sai biệt. Tâm, các tâm pháp, đều là đổi thay mới mẻ, không phải là xưa cổ.
Lại nữa, lược có hai thứ tự khen ngợi mình, chê bai kẻ khác. Nghĩa là chỉ ngôn ngữ cùng thuyết pháp hành chân chánh.
Nếu chỉ là ngôn ngữ mà tự xưng tán, chê bai kẻ khác: Người kia chỉ do nơi pháp không phải bậc Thiện sĩ, vây buộc nơi tâm. Đó gọi là tự hủy báng, chớ không phải là hiền thiện thù thắng.
Nếu do thuyết pháp hành chánh hành: Tuy không khen, chê, nhưng là tự khen ngợi, chê bai kẻ khác đích thực.
Lại, chư Như lai tuyên thuyết Chánh pháp, mau chóng có thể diệt trừ hai thứ vô trí. Nghĩa là nghe pháp không chân chánh, sanh thắng giải, cùng trong thời gian dài tích tập vô trí kiên cố, cùng không phải quen gần lâu sanh vô trí.
Lại do "câu sanh" không thể nhận biết rõ đường đi đến nẻo thiện, cùng không nhận biết rõ có thể đi tới đạo Niết-bàn của hiện pháp.
Lại nữa, nên biết có mười một thứ tướng, gồm thâu chung các hành lập làm hành tụ. Nên biết nghĩa của tụ là nghĩa của uẩn.
Lại, do hoàn toàn là sức tăng thượng của nhân duyên tạp nhiễm nên kiến lập thủ uẩn. Nên biết thủ uẩn chỉ là hữu lậu.
Lại, do hai sức tăng thượng của nhân duyên tạp nhiễm, thanh tịnh nên kiến lập uẩn chung, nên biết uẩn ấy là chung cho hữu lậu, vô lậu.
Lại, do ba tướng, nên ở trong các hành, phiền não sanh khởi:
1. Chỗ dựa.
2. Đối tượng duyên.
3. Trợ bạn. Lại nữa, tụng nêu:
Thiểu dục tự tánh cùng ký ba
Tợ Chánh pháp nghi xứ sở nghi
Không khởi biến hoại, đại sư ký
Ba kiến đủ ngoài, và tướng ngu.
Do ba thứ tướng, nên tâm của Như lai hội nhập trong trụ thiểu dục:
1. Do bấy giờ sự hóa độ rốt ráo, vì muốn an trụ nơi hiện pháp lạc trụ.
2. Do đệ tử đối với môn chánh hành có thể chán bỏ sâu xa.
3. Vì hóa độ, dẫn dắt nên thường vui thích tạo tác nhiều sự việc nơi hữu tình được giáo hóa.
Lại, như trước đã nói, tất cả nhân duyên khiến Đức Như lai nhập nơi Thiên trụ tịch tĩnh. Nên biết ở đây cũng lại như thế.
Lại nữa, các đối tượng được hóa độ, lược có ba thứ tánh đã điều phục:
1. Tánh ngu si phóng dật.
2. Tánh của tâm hết sức thấp kém.
3. Tánh có thể tu tập hành chân chánh.
Lại nữa, do bốn thứ tướng, nên ở nơi bốn xứ sở, sanh cung kính trụ, mau chóng chứng đạt vô thượng:
1. Đối với chỗ nên chứng đắc, sanh khởi sự mong muốn mãnh liệt.
2. Đối với phương tiện đạt được pháp tùy pháp hành, sanh yêu thích mãnh liệt.
3. Đối với trụ xứ của bậc Đại sư, sanh yêu kính mãnh liệt.
4. Đối với pháp được thuyết giảng, sanh tịnh tín mãnh liệt. Lại nữa, có ba thứ vô thượng:
1. Trí diệu vô thượng.
2. Hành chân chánh vô thượng.
3. Giải thoát vô thượng.
- Trí diệu vô thượng: Là trí tận, trí vô sanh, trí chánh kiến vô học.
- Hành chân chánh vô thượng: Là lạc tốc thông hành.
- Giải thoát vô thượng: Tức là giải thoát tâm không động.
Nên biết ở đây là nói chung về trí đoạn nơi hiện pháp lạc trụ. Trí diệu hữu học, hành chánh, giải thoát, không gọi là vô thượng, cũng như hữu thượng. Nên biết tất cả hành của A-la-hán đều được gọi là "Lạc tốc thông hành". Hết thảy mọi thứ thô trọng đều vĩnh viễn biệt. Hết thảy việc cần làm đã làm xong.
Dựa nơi Bồ đề phần để lựa chọn các hành, nên ở trong hai thời, do bốn thứ tướng, đã nhận biết khắp đúng như thật về Tát-ca-da-kiến. Tức ở trong hai thời không gián đoạn chứng đắc các lậu vĩnh viễn dứt hết.
Thế nào là hai thời? Đó là:
1. Tại địa phàm phu.
2. Tại địa kiến.
Thế nào là do bốn thứ tướng? Tức:
1. Do tự tánh.
2. Do xứ sở.
3. Do đẳng khởi.
4. Do quả.
- Do tự tánh: Nghĩa là tự tánh của các hành, tức Tátca-da-kiến cùng năm thứ hành, kẻ kia chấp là ngã hoặc là ngã sở.
- Do xứ sở: Tức là cảnh của đối tượng duyên.
- Do đẳng thức: Là vô minh thuộc về kiến thủ, tiếp xúc sanh thọ làm duyên cho ái. Đây lại có năm duyên khởi theo thứ lớp. Nghĩa là, vô số tánh của Giới làm duyên, sanh vô số tánh của xúc. Vô số tánh của xúc làm duyên, sanh vô số tánh của thọ. Vô số tánh của thọ làm duyên, sanh vô số tánh của ái. Vô số tánh của ái làm duyên, sanh vô số tánh của thủ.
Phàm là duyên sanh, thể tất là vô thường.
- Do quả: Nghĩa là nơi ba thời, Tát-ca-da-kiến đều có thể làm chướng ngại:
1. Thời dựa nơi vô ngã xét kỹ về pháp nhẫn.
2. Thời hiện quán.
3. Thời chứng đắc A-la-hán.
Ở đây, thời 1, do sức tăng thượng của Tát-ca-da-kiến nơi tùy miên kia, nên có hoặc có nghi. Do tu tập nhiều, quán xét kỹ về pháp nhẫn làm nhân duyên, nên tuy đối với nghi, hoặc ít có thể trừ bỏ hẳn, nhưng nơi sự tu tập, lúc hiện quán đế, do ý lạc nên e sợ đối với Niết-bàn, ngã sẽ không có.
Do sức tăng thượng của tùy miên Tát-ca-da-kiến này, nên ở trong các hành khởi phân biệt tà vạy, tức cho ngã sẽ đoạn, sẽ hoại, sẽ không, nên đối với Niết-bàn phát sanh kiến đoạn cùng kiến vô hữu. Do nhân duyên này, nên đối với Bát Niết-bàn, tâm kia thối lui, không vui thích hướng nhập.
Kẻ kia, vào thời khác, tuy từ lỗi lầm ấy, tịnh tu nơi tâm, lại đối với Thánh đế đã được hiện đế, nhưng cho ta là có thể chứng đế hiện đế. Kẻ kia, nơi mạn này, do tùy miên nên chưa có thể lìa. Lại thường xuyên gián đoạn do quên niệm, nên quán ngã khởi mạn, nhân nơi triền mạn này có sai biệt mà chuyển, cho ta là hơn, hoặc bằng hoặc kém. Trong hai phần vị trước, do sức của tùy miên nên có thể tạo ra chướng ngại. Đối với phần vị thứ ba, do sức của tập khí nên có thể tạo ra chướng ngại. Lại do ba duyên nên các hành sanh trưởng:
1. Do sức của nghiệp phiền não nơi đời trước.
2. Do sức của nguyện.
3. Do sức của các nhân duyên hiện tại.
Đối với địa phàm phu có thể nhận biết khắp, nên ở trong địa kiến, không gián đoạn, có thể chứng đắc các lậu vốn do kiến đạo đoạn trừ đã vĩnh viễn dứt hết. Ở trong địa kiến có thể nhận biết khắp nên tiếp theo là đoạn trừ các kiết còn lại, đắc A-la-hán, nối tiếp chứng đắc các lậu vĩnh viễn dứt sạch.
Lại nữa, do năm thứ tướng, nên ở trong các hành, hỏi, ghi như lý. Những gì là năm? Đó là:
1. Tự tánh.
2. Căn bản của lưu chuyển, hoàn diệt.
3. Hoàn diệt.
4. Lưu chuyển.
5. Phương tiện của lưu chuyển, hoàn diệt.
Tự tánh: Nên biết là tự tánh của năm thứ như sắc v.v…
- Căn bản của lưu chuyển, hoàn diệt: Nghĩa là dục. Do pháp thiện dục, cho đến có thể chứng đắc các lậu hoàn toàn dứt sạch. Thế nên dục này gọi là căn bản của hoàn diệt. Nếu do dục ấy, nguyện ta sẽ được loại thấp trong nẻo Người, cho đến sẽ sanh trong chúng đồng phận của cõi Trời Phạm Chúng. Do nơi tâm ấy, thân cận tu tập, tu tập nhiều, nên được sanh lên cõi kia. Vì thế, dục này gọi là căn bản của lưu chuyển.
- Hoàn diệt: Ở trong các hành, chính là dục tham thủ được đoạn dứt. Nếu tức các hành là tánh của thủ, nên không thể diệt, do A-la-hán cũng còn có các hành hiện có thể đạt được. Hoặc khác với các hành có tánh của thủ, nên là vô vi, vô vi nên thường, cũng không thể diệt. Do đó, tánh của thủ chỉ thuộc về một phần của các hành, tức một phần này đã được đoạn dứt, rốt ráo không hành nên có thể hoàn diệt.
- Lưu chuyển: Lại có ba thứ:
1. Nhân của hữu sau.
2. Phẩm loại khác biệt.
3. Nhân của hiện tại.
- Nhân của hữu sau: Nghĩa là như có một hữu tình nguyện mong muốn tạo các nghiệp nơi vị lai. Kẻ ấy khởi niệm: Nguyện cho ta đời sau sẽ thành tựu hành ấy. Do nhân duyên này nên có thể dẫn phát nhân sanh các hành của hữu sau, không dẫn nơi hiện tại. Kẻ kia, đối với hiện tại không thể dẫn, nên thiết lập các hành chỉ có hai loại.
- Phẩm loại khác biệt: Là phẩm loại của các hành có mười một thứ, như trước đã nói, nên biết.
- Nhân của hiện tại: Tức bốn đại chủng là nhân của sắc được tạo. Tâm pháp như thọ v.v…, do xúc làm duyên. Các thức hiện có, danh sắc làm duyên.
- Phương tiện của lưu chuyển: Nghĩa là Tát-ca-dakiến làm chỗ dựa, nên ở trong các hành phát sanh ngã mạn, cùng các ái vị nơi ngã kiến, ngã sở kiến.
- Phương tiện của hoàn diệt: Tức là đối với các hành, xa lìa ngã mạn, cùng lỗi lầm của kiến, và nẻo xuất ly là không có ngã, ngã sở.
Lại, phương tiện của lưu chuyển, là phẩm vô minh, ái, theo chỗ ứng hợp, nên biết về tướng của chúng.
Phương tiện của hoàn diệt: Là sự đối trị các thứ kia.
Lại do hai duyên, nên các đệ tử Thanh văn không thông tuệ, trái vượt giáo pháp của bậc Đại sư, rơi vào trong ác kiến, hoặc dấy khởi ngôn thuyết. Những gì là hai duyên? Đó là:
1. Ngu đối với Thế tục đế.
2. Ngu đối với Thắng nghĩa đế.
Do ngu này nên trái vượt hoàn toàn với lý của Thế tục đế, cùng trái vượt hoàn toàn với lý của Thắng nghĩa đế, nơi hành lưu chuyển tư duy không đúng đắn.
Lại nữa, nơi ba thứ xứ, chỉ là các Thánh giả, theo chỗ vui thích, có thể ghi nhận đúng như thật, không phải là các phàm phu, trừ việc theo kẻ khác lắng nghe. Nghĩa là trong các hành, ngã kiến, ngã sở kiến về ngã không như thật. Nếu pháp kia làm chỗ dựa, có ngã mạn chuyển thì các thứ kia tuy đã đoạn, nhưng hết thảy ngã mạn ấy chưa đoạn. Nếu không khởi, dựa, ngã mạn không bị đoạn như đã hiện hành. Nên biết ở đây có hai thứ ngã mạn:
1. Đối với các hành chấp trước hiện hành.
2. Do mất niệm nên đột nhiên hiện hành.
Trong ấy, ngã mạn chấp trước hiện hành, Thánh giả đã đoạn, không hiện hành nữa. Ngã mạn thứ hai do tùy miên, nên tuy Tát-ca-da-kiến đã lại vĩnh viễn đoạn trừ, vì đối với Thánh đạo chưa khéo tu tập, nên vẫn còn khởi hiện hành. Tát-ca-da-kiến chỉ có tập khí là luôn gắn chặt, vào lúc mất niệm, có thể cùng với ngã mạn làm chỗ nương dựa, nên tạm hiện hành. Do đó, mạn này cũng gọi là chưa đoạn cũng được hiện hành.
Lại, các Thánh giả, nếu đối với các hành, tư duy về tự tướng, hãy còn khiến cho ngã mạn không hiện hành trở lại, huống chi là còn quán xét về cộng tướng. Hoặc đối với pháp giả tác ý tư duy, trụ nơi chánh niệm, cũng khiến cho ngã mạn không được hiện hành. Hoặc đối với pháp giả tác ý tư duy, không trụ nơi chánh niệm, bấy giờ ngã mạn liền được hiện hành. Hoặc các phàm phu, tuy đối với các hành, tư duy về cộng tướng, hãy còn bị ngã mạn loạn tâm tương tục, huống hồ là trụ nơi phần vị khác.
Lại, Tát-ca-da-kiến, trong sự nối tiếp của bậc Thánh, tuy tùy miên cùng triền đều đã đoạn dứt hết, nhưng ở trong quả vị hữu học, do tập khí gắn chặt, nên chưa thể vĩnh viễn đoạn trừ. Hoặc các tùy miên và triền của ngã mạn đều chưa có thể đoạn trừ. Lại chấp về ngã dục, nên biết tức là thuộc về triền của ngã mạn. Vì sao? Vì do mất niệm, nên đối với dục, đối với định đã bị các thứ ái vị làm cho chìm nổi, dựa nơi môn dục ấy, các triền của ngã mạn thường xuyên hiện khởi.
Nói chưa đoạn: Là do nơi tùy miên. Nói chưa nhận biết khắp là do nơi triền. Hành giả kia, bấy giờ có quên niệm.
Nói chưa diệt: Là tuy đối với triền ấy tạm được xa lìa, liền lại hiện hành.
Nói chưa loại bỏ hẳn: Là do tùy miên kia chưa vĩnh viễn nhổ sạch.
Lại nữa, bậc đồng phạm hạnh, đối với trụ xứ của bậc đồng phạm hạnh khác, lược có hai thứ thăm hỏi:
1. Hỏi về bệnh khổ.
2. Hỏi về an lạc.
Các loại thăm hỏi với những ngôn từ sai biệt, như nơi địa Thanh văn, trong phần nói về ăn uống cần biết về lượng đã giải thích. Nên biết hỏi ấy ở trong bốn phần vị:
1. Phần bên trong bị bức.
2. Phần bên ngoài bị bức não.
3. Phần trụ về tâm.
4. Phần trụ về ngày.
Lại nữa, như có thuyết nói, các A-la-hán, ở trong hiện pháp, đối với vật dụng ăn uống cần cho uẩn xứ giới, hoặc thuận không thuận, không nhận biết như thật.
Nói A-la-hán không thuận là không thuận nơi phân biệt hư vọng không như lý, không phải A-la-hán không thuận nơi hiện pháp. Vì sao? Vì A-la-hán ấy, đối với vật dụng ăn uống cần cho uẩn xứ giới, hiện có thể thấy. Do nhân duyên ấy, các A-la-hán, đối với trường hợp sau diệt độ nọ, không thuận các hành, không rõ về chấp trước. Do đó, Đức Thế Tôn nói A-la-hán là kẻ không thuận, nhất định là mật ngữ. Nên biết đây là kiến tợ Chánh pháp. Do uy lực của hai thứ nghĩa làm duyên, các vị đồng phạm hạnh hoặc Đại Thanh văn, vì nhằm đoạn dứt chỗ sanh khởi "kiến tợ Chánh pháp" như thế, đã tạo công dụng hết mực, cho khiến người kia hoặc tự nêu bày, hoặc chỉ rõ cho kẻ khác. Do nhân duyên ấy, sẽ bị đọa vào nẻo thấp kém nhất. Hoặc do ái kính Thánh giáo của Như lai, chớ nhân nơi "kiến tợ Chánh pháp" như thế, khiến Thánh giáo của Phật mau chóng bị mai một.
Lại có hai nhân, có thể sanh khởi "kiến tợ Chánh pháp" như thế:
1. Bên trong, Tát-ca-da-kiến chưa có thể vĩnh viễn đoạn trừ.
2. Dựa vào đấy, vọng chấp về sĩ phu lưu chuyển, hoàn diệt.
Vì để đoạn trừ hai thứ nhân như thế, nên nói hai Chánh pháp dùng làm đối trị. Nghĩa là đối với các hành thứ lớp tuyên thuyết về vô thường, vô ngã. Ở trong bốn trường hợp suy cầu về sĩ phu lưu chuyển, hoàn diệt đều không thể thủ đắc. Tức dựa nơi hữu vi, hoặc dựa nơi vô vi, ngã của Thanh văn, Độc giác, Phật, Thế Tôn gọi là Như lai. Nên biết ngã này có hai thứ giả lập: Trong Hữu dư y giả lập hữu vi, trong Vô dư y, giả lập vô vi.
Nếu dựa nơi thắng nghĩa phi hữu vi, phi vô vi, cũng phi vô vi, phi hữu vi. Do nêu bày giáo pháp chân chánh như thế, nên đối với sáu thứ tướng giác ngộ lúc sanh khởi, nên biết đã đoạn trừ vĩnh viễn "kiến tợ Chánh pháp". Nghĩa là A-la-hán đối với pháp diệt hoại thuộc về chỗ dựa, nên giác ngộ về vô thường. Ở trong hiện pháp, là các thứ khổ như già, bệnh v.v…, nên giác ngộ là khổ. Đối với nẻo diệt tự nhiên nơi cõi đoạn, cõi lìa cùng với cõi diệt, giác ngộ là diệt, tịch tĩnh, trong mát cùng vĩnh viễn vắng bặt. Nếu gồm đủ sự giác ngộ chân chánh như thế, là A-la-hán. Tăng thượng mạn tà vạy cùng hành với vọng tưởng hãy còn không thể có, huống hồ là đối với trường hợp sau diệt độ kia, hý luận chấp trước hoặc thuận, không thuận. Nên biết chưa đoạn trừ Tát-ca-da-kiến, có hai lỗi lầm tai họa:
1. Đối với các hành có khổ, có thể não hại, đã chấp ngã, ngã sở. Do nhân duyên ấy, nên có thể chiêu cảm khổ não lớn của sanh tử lưu chuyển.
2. Đối với hiện pháp, có thể gây chướng ngại cho mạng căn của Thánh huệ vô thượng.
Lại nữa, các nhóm ngoại đạo, đối với xứ sở của hai thứ pháp luật thuộc nội giáo, đã ngu si nghi hoặc. Những gì là hai? Đó là, Đức Phật, Thế Tôn đã bác bỏ kiến chấp hữu kiến và vô kiến, nhưng đối với đệ tử, sau khi qua đời, ghi một có sanh, ghi một không sanh. Lại nói về ngã thường trụ của thắng nghĩa, hiện pháp, đương lai đều không thể thủ đắc. Đời có ba sư hiện có thể đạt được:
1. Thường luận.
2. Đoạn luận.
3. Như lai.
Nghi hoặc này có hai thứ nhân: Nên biết như trước nói về "kiến tợ Chánh pháp", có hai thứ giáo pháp có thể đoạn trừ nhân ấy, cũng như trước nói do hai nhân duyên, tức ở đây nói về tánh của pháp vô ngã. Các ngoại đạo kia khó nhập, khó rõ, nghĩa là tự tánh này khó nhận biết rõ, nên tuy tướng mạo ấy dễ có thể nhận biết rõ, nhưng tướng mạo kia không tương tợ. Nên biết ở đây, nghĩa không hư dối, nghĩa tự chứng đắc, là nghĩa không chung. Tự tánh kia khó có thể ngộ nhập, tức thể của tự tánh ấy là rất sâu xa, giống như rất sâu xa hiện bày, thế nên gọi là nghĩa không hư dối.
Lại, tự tánh ấy, nơi bên trong khó thấy. Từ ngôn âm của kẻ khác cũng khó nhận biết rõ, do đó gọi là nghĩa tự chứng đắc.
Lại, tự tánh ấy không phải là đối tượng tầm tư của kẻ tầm tư, không phải là cảnh giới nơi đối tượng hành của người suy lường, vì thế nên gọi là nghĩa không chung.
Lại, tức pháp vi diệu này là chỗ chứng đắc từ bên trong của bậc trí thông sáng, xét kỹ, nên gọi là khó rõ. Các thứ sai biệt ở đây, nên biết như nơi phần Nhiếp dị môn ở trước đã nói. Do hai thứ tướng, nên tất cả nghĩa Như Lai đã thuyết giảng, trí đều nên nhận biết rõ. Những gì là hai? Đó là:
1. Trí giáo.
2. Trí chứng.
- Trí giáo: Là huệ do Văn-Tư-Tu tạo thành của các phàm phu.
- Trí chứng: Là huệ của bậc hữu học, vô học, cùng các huệ thế gian đạt được về sau.
Ở đây, hàng phàm phu không phải đối với tất cả nghĩa do Phật thuyết giảng, đều có thể nhận biết rõ. Cũng không phải đối với mạn xét biết là mạn, lại chưa có thể đoạn trừ. Hoặc các vị hữu học không phải ở trong tất cả nghĩa của ngã kiến đều không nhận biết rõ, lại có thể đối với mạn xét biết là mạn, mà chưa có thể đoạn. Hoặc các bậc vô học có thể tạo tác tất cả.
Lại nữa, chư Phật, Như lai, đối với Thế tục đế cùng Thắng nghĩa đế đều nhận biết đúng như thật, chánh quán nơi hai thứ kia, theo đạo lý không nên ký biệt. Nếu ký biệt, có thể dẫn đến vô nghĩa. Không ký biệt cũng không chấp trước, nghĩa là đối với trường hợp "sau diệt độ", hoặc có hoặc không, cũng có cũng không, phi có phi không. Nếu đối với trí kiến như thế của Như lai, là trước không ghi. Nghĩa là kẻ vô trí, nên biết là tự hiển bày vọng kiến cùng hành với tánh vô trí.
Lại nữa, nên biết lược có hai thứ biến hoại:
1. Biến hoại của các hành già cỗi, suy kém. Nghĩa là như có một hữu tình sống đến 120 tuổi nên hình tướng suy yếu. Do nhân duyên ấy, nên gọi là thân già bệnh.
2. Biến hoại của tâm sầu não: Do nhân duyên này nên gọi là tâm giả định.
Biến hoại thứ nhất, hoặc ngu hoặc trí đều ở trong ấy, không theo sự mong muốn của mình. Biến hoại thứ hai, người trí ở trong đó có thể tùy theo chỗ mong muốn của mình, không phải là các kẻ ngu.
Lại, các kẻ ngu, nếu thân già bệnh, nên biết tâm của họ nhất định cũng thuận theo sự già bệnh ấy. Còn người có trí, thân tuy già bệnh nhưng tâm tự tại, không tùy theo già bệnh. Đó gọi là ở đây, ngu trí có sai biệt.
Lại nữa, khéo nhận lấy pháp do Văn, Tư, khéo tư duy do tu huệ, khéo hiển bày rõ, như tánh hiện có, khéo thông tỏ là trọn hết tánh hiện có, do hai thứ tướng, nên các Thánh đệ tử có thể thỉnh văn đúng đắn bậc Đại sư khéo thọ ký, nghĩa là đối với các thủ, luận bàn, đoạn trừ, nhận biết khắp. Những gì là hai tướng? Đó là:
1. Đối với các thủ ấy, luận bàn, đoạn trừ, nhận biết khắp.
2. Vì các thủ ấy, luận bàn, đoạn trừ, nhận biết khắp.
Nên biết ở đây, đối với tất cả hành, luận bàn, đoạn trừ, nhận biết khắp, đó là Đức Như lai.
Lại, các thủ này, nếu chưa đoạn dứt theo Quán, chúng có ba thứ lỗi lầm tai họa. Nếu đã đoạn dứt theo Quán, chúng có ba thứ công đức:
1. Ở trong các hành sanh khởi các hành thủ, nếu biến hoại liền sanh sầu não v.v… Nên biết đó gọi là lỗi lầm tai họa thứ nhất nơi các hành đã được tạo tác bị biến hoại.
2. Ở trong các hành đã sanh khởi các thủ, vì được, chưa được các hành hợp ý, nên vào lúc truy cầu, hành rộng không phải một mà là rất nhiều thứ bất thiện sai biệt. Do sự truy cầu hành bất thiện ấy, nên trụ nơi bốn thứ khổ:
- Một là: gần gũi với chỗ khởi sắp hiện tiền.
- Hai là: hiện ở nơi chỗ khởi đang hiện tiền.
- Ba là: chỗ khởi do sự bức bách tăng thượng của kẻ khác.
- Bốn là: chỗ khởi do tạp nhiễm tăng thượng của chính mình.
Nên biết đó gọi là lỗi lầm tai họa thứ hai.
3. Tức do pháp ác bất thiện như thế, ái tập làm nhân, nên sau khi thân hoại mạng chung, phải đi đến các nẻo ác. Nên biết đó gọi là lỗi lầm tai họa thứ ba.
Cùng với đấy trái nhau, là ba thứ công đức thắng lợi đối với các thủ được đoạn trừ theo Quán, như chỗ ứng hợp nên biết.
Lại nữa, nên biết lược có ba thứ Thánh giả, ba kiến viên mãn nên có thể vượt khỏi ba khổ.
Thế nào gọi là ba thứ Thánh giả? Đó là:
1. Chánh kiến đầy đủ. Nghĩa là phần vị phàm phu đối với pháp không điên đảo, vô ngã nhận, trụ.
2. Đã thấy Thánh đế. Đã có thể hướng nhập chánh tánh ly sanh. Đã nhập hiện quán, đã đạt đến quả, trụ nơi bậc hữu học.
3. Đã chứng đắc quả A-la-hán bậc nhất, rốt ráo sau cùng, trụ nơi quả vị vô học.
Thế nào gọi là ba kiến viên mãn? Tức:
1. Kiến viên mãn của Thánh giả thứ nhất tùy thuận nơi vô lậu, hữu lậu.
2. Kiến viên mãn của vô lậu chưa khéo thanh tịnh.
3. Kiến viên mãn của vô lậu khéo thanh tịnh.
Ba viên mãn này dựa nơi ba thứ hữu tình đã nêu, theo thứ lớp như trước nên biết.
Thế nào gọi là vượt qua ba thứ khổ? Nghĩa là kiến viên mãn thứ nhất có thể vượt qua ngã kiến tranh chống của ngoại đạo, sanh khởi các khổ.
Kiến viên mãn thứ hai, có thể vượt khỏi các khổ của tất cả nẻo ác.
Kiến viên mãn thứ ba, có thể vượt khỏi tất cả các khổ của hữu sau.
Ở đây, thế nào gọi là ngã kiến tranh chống của ngoại đạo, sanh ra các khổ? Nghĩa là, ngoài Chánh pháp Tỳnại-da này, vô số dị đạo hiện có nơi thế gian đều do Tátca-da-kiến làm căn bản, sanh khởi hết thảy kiến thú điên đảo. Như thế, tất cả được gọi chung là ngã kiến. Nghĩa là luận về ngã, luận về ngã tương ưng với hết thảy kiến thú. Hoặc tất cả thường luận. Hoặc một phần thường luận. Hoặc luận không nhân. Hoặc luận về biên vô biên. Hoặc luận đoạn diệt. Hoặc luận hiện pháp Niết-bàn, luận ấy tương ưng với hết thảy kiến thú. Hoặc luận về hữu tình, luận ấy tương ưng với tất cả kiến thú. Nghĩa là các tà kiến bác bỏ cho không có tất cả hữu tình hóa sanh, phỉ báng đời khác. hoặc luận về mạng, luận ấy tương ưng với hết thảy kiến thú. Tức luận về mạng, cho mạng là thân hoặc khác với thân v.v… Hoặc luận cát tường, luận ấy tương ưng với hết thảy kiến thú. Nghĩa là vô số tà kiến như bói toán, bói cỏ thi, lịch số v.v… vọng cho tụng chú, thờ cúng lửa v.v… sẽ đạt được cảnh giới khả ái, có thể sanh an lành, có thể đoạn trừ vô nghĩa. Lại cho xem tướng là lành, không lành. Các thứ kia lại là thế nào? Nghĩa là hai mươi trường hợp Tát-ca-da-kiến làm chỗ nương dựa, phát khởi sáu mươi hai thứ kiến thú ác, chấp về biên vực trước, sau v.v…, cùng khởi tất cả tà kiến hủy báng chung.
Thế nào là tranh chống sanh khởi các khổ? Nghĩa là ngã kiến kia lần lượt thấy dục trái nhau, cùng dấy tranh luận, phát khởi vô số khổ của tâm sầu não, khổ của ái sâu được cất giữ, khổ do hơn kém cùng đối nhau, khổ của chấp trước sâu dày. Nên biết ở đây, nếu kẻ khác hơn mình liền sanh sầu não. Đó gọi là khổ thứ nhất. Nếu hơn kẻ khác, bèn tạo phương tiện, khiến phẩm kiến của mình lại càng tăng thạnh, khiến phẩm kiến của kẻ khác lại dần ẩn mất, chỉ có ngã kiến là tịnh, không phải các kiến khác. Tà kiến chấp trước, khởi yêu giữ sâu xa, do nhân duyên này, nên phát sanh vô số tầm tư bất chánh cùng khởi vô số ý không tịch tĩnh, tổn hại nơi tâm, gọi là khổ thứ hai. Do sức tăng thượng của tà kiến yêu giữ, nên lấy kẻ khác so sánh với mình, cho mình là hơn hoặc bằng hoặc thua. Nhân nơi việc tự đề cao, khinh miệt kẻ khác. Đó gọi là khổ do hơn kém cùng đối nhau, là khổ thứ ba.
Kẻ kia dựa nơi đây nên truy cầu lợi dưỡng, tức là truy cầu chỗ tiếp xúc của khổ, phàm có chỗ tạo tác đều là não loạn.
Luận vấn nạn kẻ khác cùng với tự luận nhằm thoát khỏi vấn nạn của kẻ khác. Đó gọi là khổ thứ tư: Khổ chấp trước sâu, chặt.
Bốn thứ như thế gọi là kiến tranh chống sanh khởi các khổ.
Phàm phu của nội pháp an trụ nơi thắng giải vô ngã phẩm thượng, nên biết là đã đoạn trừ các khổ như thế. Vì sao? Vì các kẻ kia, đối với vị lai, do ý lạc, nên ở nơi các kiến thú ác như vậy đều có thể gắng trừ diệt hết. Do đó, hoặc trụ nơi kiến viên mãn thứ nhất, có thể vượt khỏi khổ thứ nhất. Lại, tức dựa nơi kiến viên mãn thứ nhất ấy, thân cận tu tập, tu tập rất nhiều, đối với các hành bên trong phát sanh pháp trí. Nơi các thứ không hiện thấy phát sanh loại trí. Gồm thâu chung làm một trụ, do không duyên nơi trí khác mà nhập hiện quán. Nghĩa là do hành vô thường, hoặc tùy một hành khác, người kia bấy giờ có thể tùy thuận chứng đắc kiến viên mãn thứ hai, cùng có thể vượt khỏi khổ thứ hai. Người kia trụ ở đây rồi, như trước đã được bảy pháp giác phần, gần gũi tu tập, tu tập rất nhiều, tức có thể đoạn trừ bốn thứ tạp nhiễm như nghiệp đã nói ở trước, có thể tùy thuận chứng đắc kiến viên mãn thứ ba, vượt khỏi khổ của hữu sau.
Ở đây, hữu tình thứ nhất cũng còn lại hai khổ, cùng thân khổ là chỗ dựa của tàn dư nơi hiện tại. Hữu tình thứ hai chỉ còn lại một khổ cùng thân khổ là chỗ dựa. Hữu tình thứ ba, hết thảy khổ đều dứt, chỉ dựa nơi thân khổ tạm thời còn lại, ví như huyễn hóa.
Lại, dựa nơi Tát-ca-da-kiến phân biệt, lập hai mươi câu (trường hợp), không dựa nơi câu sanh.
Lại, nội pháp không hành như thế, mà dựa nơi định Biến xứ. Nghĩa là địa là ngã, ngã tức là địa, cho đến nói rộng, tất cả nên biết.
Lại nữa, các nhóm ngoại đạo, lược có năm thứ tướng của kẻ ngu tối. Do các tướng ấy, nên rơi vào số lượng của kẻ ngu:
1. Các ngoại đạo thuộc tánh thông tuệ, hãy còn không tránh khỏi việc ôm giữ kiêu mạn về thông tuệ, huống chi là kẻ không thông tuệ. Đó gọi là tướng thứ nhất của kẻ ngu.
2. Lại, các ngoại đạo phần nhiều vì tham cầu lợi dưỡng, sự cung kính, nên tự tán thán, chê bai kẻ khác. Đó gọi là tướng thứ hai của kẻ ngu.
3. Lại, các ngoại đạo, nếu các bậc Thánh vì họ thuyết giảng Chánh pháp, chánh giáo cùng những khuyên răn chánh đáng, tức liền chống trái, hủy báng. Đó gọi là tướng thứ ba của kẻ ngu.
4. Lại, các ngoại đạo vui thích tự nêu bày luận tợ Chánh pháp, hoặc chỉ rõ cho kẻ khác. Đó gọi là tướng thứ tư của kẻ ngu.
5. Lại, các ngoại đạo, tuy được Như Lai, đệ tử của Như Lai hàng phục, cũng nhận biết Pháp-Luật do Như Lai giảng nói là chân thiện, nhận biết Pháp-Luật của mình là vọng ác, nhưng do sức tăng thượng của ngã mạn, nên đều không tin, nhận, cho đến không tích tập nhân duyên quán xét. Đó gọi là tướng thứ năm của kẻ ngu.
Lại nữa, Đức Như Lai thành tựu sáu phần, được gọi là Sư tử vương của luận Vô gián. Những gì là sáu? Nghĩa là đầu tiên đi đến trụ xứ của ngoại đạo địch luận, cho đến tự ý đưa ra câu hỏi về tất cả nghĩa. Phàm chỗ dấy khởi luận không phải vì tranh luận. Chỉ trừ do thương xót các hữu tình, kẻ chưa tin khiến sanh tin, kẻ nếu đã tin rồi khiến càng thêm tăng trưởng.
Lại, khi dấy khởi luận, các căn tịch tĩnh, hình sắc không đổi, cũng không sợ hãi vì tập khí theo đuổi, lại chung cuộc không bị chư Thiên, thế gian vượt hơn, chế phục. Hết thảy luận giả vô địch của thế gian nếu có thể vượt qua, chỉ bằng một lần, thì chỉ nói một lần, đều có thể hàng phục.
Lại, các vị rất thông tuệ của thế gian, đạt vô úy hết mực, nếu lúc cùng với Đức Như lai khởi luận, thì mọi biện tài hiện có thảy đều trở nên lúng túng, gượng ép, sợ hãi tăng thêm, thân tâm bị bức bách, các thứ thủ thuật hư trá nơi ngôn luận đều không thể nêu đặt.
Lại, tất cả đại chúng trong cùng một xứ hội tọa, đều ở nơi chỗ Phật dấy khởi tâm thắng kẻ khác, nên đối với địch luận của ngoại đạo kia đều dấy khởi tâm thắng kẻ khác.
Lại, Đức Phật Thế Tôn, ngôn từ biện giải luôn có uy lực, nghiêm túc, còn kẻ địch luận thì ngôn từ xuất phát không có uy lực, nghiêm túc.
Lại nữa, có hai thứ luận. Đó là:
1. Luận hữu ngã.
2. Luận vô ngã.
Luận vô ngã có lực, luận hữu ngã không lực. Luận hữu ngã thường bị luận vô ngã hàng phục, chỉ trừ khi luận giả uy lực yếu kém.
Thế nào gọi là luận hữu ngã? Nghĩa là như có một hữu tình khởi kiến như thế, lập luận như thế, đối với hành như sắc v.v… kiến lập làm ngã. Tức là ngã có hành, hành là ngã sở, ngã ở trong hành không trôi không tan, theo khắp chi tiết, không nơi nào là không đến. Thế nên, các hành như sắc v.v… tánh là ngã. Dựa nơi ruộng của các hành, sanh phước phi phước, nhân đấy lãnh nhận quả ái chẳng ái. Ví như nông phu, dựa vào ruộng tốt để thực hiện các công việc nhà nông, cùng trồng trọt các thứ cỏ thuốc, cây cối. Đó gọi là luận hữu ngã.
Thế nào gọi là luận vô ngã? Nghĩa là có hai loại:
1. Luận phá ngã.
2. Luận lập vô ngã.
- Luận phá ngã: Nếu cho thật ngã có thể có tác dụng, ở trong các nghiệp của quả ái, phi ái được tự tại, thì ngã này lúc nào cũng thích lạc, chán khổ. Do đó, ngã này chỉ nên sanh phước, không sanh phi phước. Lại, tác dụng của ngã thường hiện tiền nơi các hành trong ngoài. Nếu lúc biến hoại, không nên phát sanh sầu ưu buồn than. Lại, ngã là thường, do nhận biết làm trước. Phàm chỗ sanh khởi, luôn nên tùy chuyển, không có biến đổi. Nhưng đều không thể đạt được. Như thế gọi là luận phá hữu ngã.
- Luận lập vô ngã: Do tất cả hành từ các duyên sanh, nếu gặp duyên phước thì phước liền sanh khởi. Cùng với đấy trái nhau là sanh khởi phi phước. Do đây làm duyên, nên có thể chiêu cảm tất cả quả ái phi ái. Dựa nơi các duyên nên đều là vô thường, chỉ ở nơi các hành lưu chuyển thuộc về nhân quả như thế, giả lập ngã v.v… Nếu dựa nơi thắng nghĩa thì tất cả các pháp đều là vô ngã. Như vậy gọi là luận lập vô ngã.
Lại nữa, do năm thứ tướng, nên hai loại hữu học, vô học có sai biệt. Nghĩa là các vị vô học đã thành tựu trí gọi là vô thượng. Hết thảy vị hữu học đã thành tựu trí, gọi là hữu thượng. Như trí vô thượng, nên biết hành chân chánh cùng với giải thoát vô thượng cũng vậy.
Lại, các vị vô học, dùng huệ nhãn của các Thánh hoàn toàn thanh tịnh quán xét về Pháp thân của Phật. Chư vị hữu học thì không thể như thế.
Lại, chư vị vô học, dùng hành không điên đảo khéo viên mãn để phụng sự Như lai. Các vị hữu học thì không như thế. Đó gọi năm tướng.
Như thế là đã nói về hành lựa chọn, gồm thâu. Xứ lựa chọn gồm thâu nay sẽ nói. Tụng tổng quát nêu:
Đầu an lập đẳng trí đồng bậc
Sau cùng nên biết là lìa dục.
Tụng riêng nêu:
An lập cùng sai biệt
Ngu, chẳng ngu, dạy trao
Giải thoát phiền não nghiệp
Đều nói rộng, nên biết.
Do năm thứ tướng, nên biết an lập các thọ có sai biệt:
1. Tự tánh.
2. Chỗ dựa.
3. Đối tượng duyên.
4. Trợ bạn.
5. Tùy chuyển.
-Tự tánh: Nghĩa là có ba thọ:
1. Khổ.
2. Lạc.
3. Không khổ không lạc.
- Chỗ dựa: Tức có sáu thứ, là nhãn nhĩ tỷ thiệt thân và ý.
Đối tượng duyên: Là sáu cảnh giới của đối tượng duyên như sắc v.v…
- Trợ bạn: Nghĩa là tưởng, tư, hoặc tâm pháp thiện, bất thiện, vô ký khác, cùng với đây tương ưng.
- Tùy chuyển: Là tâm tương ưng ấy, do dựa nơi pháp kia, nên ba thọ tùy chuyển. Pháp kia là nơi chốn nương dựa đồng sanh đồng diệt của các thọ.
Lại nữa, năm tướng như thế đã an lập các thọ, nên biết lại có tám thứ sai biệt:
1. Sai biệt về nội xứ.
2. Sai biệt về ngoại xứ.
3. Sai biệt của sáu thức thân.
4. Sai biệt của sáu xúc thân.
5. Sai biệt của sáu thọ thân.
6. Sai biệt của sáu tưởng thân.
7. Sai biệt của sáu tư thân.
8. Sai biệt của sáu ái thân.
Nên biết ở đây, do ba nghĩa hòa hợp, nên lập ba sai biệt trước. Do nghĩa nhân duyên của thọ, nên lập sai biệt thứ tư. Do nghĩa của quả nơi ba xúc hòa hợp, nên lập sai biệt thứ năm. Do nghĩa phân biệt thọ tùy theo ngôn thuyết, nên lập sai biệt thứ sáu. Vì sao? Vì lúc nhận các thọ, khởi tưởng như vầy: Ta nay lãnh nhận khổ này, lạc này, không khổ không lạc này. Cũng lại vì kẻ khác tùy khởi ngôn thuyết. Do nghĩa của hai thứ tạp nhiễm là nghiệp, phiền não, nên biết kiến lập hai thứ sai biệt thứ bảy, thứ tám. Vì sao? Vì do đối với thọ kia hoặc hợp hoặc lìa, khởi tư tạo tác. Như như phát khởi chỗ tạo tác của tư, như vậy như vậy sanh ái cầu nguyện.
Lại nữa, nên biết lược có hai thứ tất cả:
1. Tất cả của phần ít.
2. Tất cả của tất cả.
Như nói: Tất cả đều vô thường, nên biết đây là dựa nơi tất cả của phần ít, chỉ tất cả hành, không phải là vô vi.
Nói tất cả pháp đều vô ngã: Nên biết đây là dựa vào tất cả của tất cả.
Lại do ba tướng nên biết là ngu:
1. Do tự tánh.
2. Do nhân duyên.
3. Do quả.
- Ngu do tự tánh: Nghĩa là do triền, tức là quên mất. Nơi đời hiện tại, do tùy miên, nên tức là pháp quên mất của vị lai.
- Ngu do nhân duyên: Nghĩa là ở trong năm tướng, an lập thọ, không thể biết rõ là vô thường v.v…, cùng các não loạn hiện có khắp phần vị đầu giữa sau của tự thể đều biết rõ. Nên biết tức là đối với tánh của pháp sanh lão bệnh và tử không thể nhận biết rõ.
Não loạn đầu: Nghĩa là do sanh. Não loạn giữa: Là do bệnh. Não loạn sau: Nghĩa là do hai thứ pháp lão, tử.-Ngu do quả: Là khổ như sầu v.v… do tạp nhiễm như ái v.v… Lại nữa, do ba thứ tướng, nên biết là không ngu:
1. Do tự tánh.
2. Do ngại.
3. Do chướng.
- Không ngu do tự tánh: Là ở trong năm tướng, an lập thọ, khéo có thể nhận biết rõ về tự tướng, cộng tướng, do đấy, có thể đoạn trừ tất cả phiền não, có thể giác ngộ về Thánh đế, có thể chứng đắc Niết-bàn.
- Không ngu do ngại: Do bốn thứ ma: Tức do uẩn ma hiện hữu khắp tất cả xứ với nghĩa gắn chặt. Do thiên ma kia, nơi mọi thời gian có thể luôn nhận giữ với nghĩa gây chướng ngại. Tử ma, phiền não ma, có thể cùng với các khổ do sanh tử sanh khởi, với nghĩa tạo ra vật chứa đựng.
- Không ngu do chướng: Là phiền não thuộc cảnh của duyên không hiện thấy, cùng triền thuộc cảnh của duyên không phải là không hiện thấy, hoặc tùy miên kia.
Lại nữa, chư Phật Thế Tôn, đối với Thánh đệ tử của Phật, do ba thứ tướng nên có thể chỉ dạy, trao truyền đúng đắn cho các chúng đệ tử. Những gì là ba tướng? Đó là:
1. Dẫn dắt, chỉ dạy, trao truyền.
2. Tùy chỗ ứng hợp, nơi cảnh của đối tượng duyên an xứ dạy, trao.
3. Khiến cho đối tượng được hóa độ đạt được tự nghĩa nơi sự dạy, trao.
Như thế là sự chỉ dạy trao truyền, như thứ lớp ấy, nên biết tức là ba thứ thần biến.
Lại nữa, do hai thứ tướng, nên cầu có thể thành tựu diệu huệ giải thoát:
1. Huệ nối tiếp lâu xa của Văn, Tư như lý, có thể thành tựu giải thoát của bậc hữu học.
2. Huệ nối tiếp lâu xa của bậc hữu học, có thể thành tựu giải thoát của bậc vô học.
Lại nữa, lược có hai thứ giải thoát thành tựu:
1. Hữu học.
2. Vô học.
Hữu học: Là cùng với Tam-ma-địa Kim cang dụ. Vô học: Là từ đấy trở lên.
Lại nữa, Bí-sô tâm hành thanh tịnh, có năm thứ pháp có nhiều tạo tác. Những gì là năm? Đó là:
1. Chỉ dạy, trao truyền đúng đắn.
2. Chi Xa-ma-tha.
3. Chi Tỳ-bát-xá-na.
4. Gia hạnh cẩn trọng, không gián đoạn.
5. Huệ xuất thế gian.
-Chỉ dạy, trao truyền đúng đắn: Nghĩa là có ba thứ bạn chân chánh được hiển bày:
1. Đại sư.
2. Bậc quỹ phạm được tôn trọng.
3. Bậc đồng phạm hạnh cùng hàng tại gia thông sáng, trụ nơi nội pháp.
Như thế gọi là ba thứ bạn chân chánh. Các vị có trí, từ nơi chư vị kia nên cầu sự tích tập môn thiện, để chỉ dạy, trao truyền chân chánh.
- Chi Xa-ma-tha: Nghĩa là như có một hành giả, gồm đủ Thi-la an trụ, nói rộng nên biết như nơi địa Thanh văn. Như thế là Thi-la đầy đủ, an trụ rồi, liền không có hối. Không hối nên hoan hỷ, nói rộng cho đến vui thích nên tâm định.
- Chi Tỳ-bát-xá-na: Tức đạt được ba thứ ngôn giáo theo sự mong muốn:
1. Ngôn giáo chân chánh của bậc Thánh.
2. Ngôn giáo chán lìa.
3. Ngôn giáo khiến tâm lìa các thứ ngăn che, hướng tới ái.
- Thế nào là ngôn giáo chân chánh của bậc Thánh? Nghĩa là dựa nơi ngôn giáo hiện có của năm uẩn vô học nơi các Thánh. Tức là ngôn thuyết các Thánh đã thành tựu Giới như thế, định như thế, huệ như thế, giải thoát như thế, giải thoát tri kiến như thế.
- Thế nào là ngôn giáo chán lìa? Nghĩa là ngôn giáo dựa nơi ba thứ khiến cho thiểu dục tri túc được tăng trưởng, cùng ngôn giáo dựa nơi sự vui thích đoạn trừ, vui thích tu tập, khiến lìa nẻo tối tăm, loạn động.
- Thế nào là ngôn giáo khiến tâm lìa các thứ ngăn che, hướng tới ái? Nên biết Giới này lại có ba môn:
1. Ngôn giáo của tất cả phiền não cái, lìa các thứ ngăn che hướng tới ái.
2. Ngôn giáo của năm cái lìa các thứ ngăn che, hướng tới ái.
3. Ngôn giáo của cái vô minh lìa các thứ ngăn che hướng tới ái.
Nên biết ở đây, dựa vào ngôn thuyết hiện có chứng đắc cảnh giới đoạn, lìa, diệt, là ngôn giáo thứ nhất.
Dựa vào, tức đối với công đức thù thắng của kiến kia, cùng đối với ngôn thuyết hiện có, đã đối trị các hành của xứ ngăn che, thấy rõ lỗi lầm, tai họa của chúng, nên biết đó gọi là ngôn giáo thứ hai.
Tùy thuận ngôn thuyết hiện có của duyên khởi nơi tánh duyên như thế, nên biết đó gọi là ngôn giáo thứ ba. Ba thứ ngôn giáo như vậy, gọi chung là chi Tỳ-bátxá-na. Lại, ngôn giáo này, do lược nói, lại có ba thứ:
1. Ngôn giáo có thể sanh khởi vui thích mong muốn.
2. Ngôn giáo có thể ở yên đúng đắn nơi tư lương.
3. Ngôn giáo có thể ở yên đúng đắn nơi tác ý.
Tức, ngôn giáo chân chánh của bậc Thánh có thể sanh khởi ngôn giáo vui thích mong muốn. Ngôn giáo chán lìa gọi là ngôn giáo ở yên đúng đắn nơi tư lương. Ngôn giáo khiến tâm lìa các thứ ngăn che, gọi là ngôn giáo ở yên đúng đắn nơi tác ý.
Dựa nơi ngôn giáo này, Xa-ma-tha thù thắng thâu nhận huệ, gọi là Tỳ-bát-xá-na. Thế nên nói ngôn giáo này là chi Tỳ-bát-xá-na.
-Thế nào là gia hạnh cẩn trọng không gián đoạn? Nghĩa là thường tạo tác. Gắn bó tạo tác. Siêng năng, tinh tấn trụ. Nên biết tức là dựa nương nơi gia hạnh quán.
Lại, siêng năng tinh tấn, nên biết có năm thứ:
1. Tinh tấn mặc áo giáp.
2. Tinh tấn gia hạnh.
3. Tinh tấn không hạ thấp.
4. Tinh tấn vô động.
5. Tinh tấn không biết đủ.
Ở đây, đầu tiên nên biết là phát khởi vui thích, mong muốn mãnh liệt. Tiếp theo, tùy chỗ mong muốn phát khởi phương tiện dũng mãnh kiên cố. Thứ đến, vì nhằm chứng đắc các pháp đã thọ, không tự xem thường, cũng không khiếp sợ. Tiếp nữa, có thể gắng nhẫn đối với các khổ như lạnh nóng v.v… Sau cùng, đối với phần thấp kém không sanh biết đủ. Vui cầu càng về sau càng có thêm các công đức thắng diệu, an trụ. Hành giả kia, do siêng năng tinh tấn trụ như thế, nên nhập hiện quán đế, chứng đắc huệ xuất thế gian của các Thánh, ở trong tu đạo, dựa nơi huệ này, hoặc hành hoặc trụ, có thể chính thức dứt trừ các tùy phiền não trong thân là chỗ dựa, khiến tâm thanh tịnh. Nghĩa là ở nơi xóm làng, hoặc bên xóm làng, nếu gặp những người trẻ tuổi đoan nghiêm, đẹp đẽ, hình sắc quen thuộc, tức nên tác ý tư duy về bất tịnh, vì nhằm trừ bỏ duyên nơi tham kia. Nếu gặp kẻ khác bức bách não loạn, tức nên tác ý tư duy về tướng từ, vì nhằm trừ bỏ duyên nơi sân kia. Lúc hành như thế, có thể chính thức trừ bỏ các tùy phiền não, khiến tâm thanh tịnh.
Nếu ở nơi xa lìa, tu tập hai thứ niệm hơi thở ra vào, dứt trừ các tầm tư ác như dục v.v… Khi trụ như vậy, có thể chính thức đoạn dứt các tùy phiền não, khiến tâm thanh tịnh.
Hành giả kia dựa nơi huệ xuất thế gian đã được chứng đắc như vậy, ở nơi tất cả hành tu tập tưởng vô thường, có thể chính thức trừ bỏ ngã mạn còn lại. Như thế, bậc Thiện sĩ là chỗ nương dựa, lại có được sự chỉ dạy, trao truyền thuận hợp nơi hành trước, do đấy lần lượt có thể chứng Giải thoát viên mãn của bậc hữu học, đắc Tam-ma-địa Kim cang dụ, nên cũng chứng Giải thoát viên mãn của bậc vô học, đều lìa mọi trói buộc của tất cả phiền não.
Thế nào là giải thoát? Nghĩa là dấy khởi sự đối trị, đoạn trừ rốt ráo, tất cả các thứ thô trọng nơi phẩm loại của phiền não đều vĩnh viễn dứt diệt, chứng đắc chuyển y, khiến các phiền não quyết định hoàn toàn thành pháp không sanh. Đó gọi là giải thoát. Nếu Thánh đệ tử nơi xứ Vô sở hữu đã được lìa dục, chỉ trừ các hành hiện có của xứ Phi tưởng phi phi tưởng. Lại có thể an trụ nơi định thù thắng của cõi Hữu đảnh. Bấy giờ không gián đoạn, có thể tùy thuận chứng đắc các lậu vĩnh viễn dứt hết. Nếu ở nơi phần vị khác, tuy có thể dần đoạn các thứ lậu kia, nhưng không tương tục để có thể chứng đắc các lậu hoàn toàn dứt sạch, như thế cho đến xứ Vô sở hữu chưa được lìa dục.
Lại nữa, tất cả phiền não hệ thuộc cõi Dục, chỉ trừ vô minh gọi là lậu dục, hết thảy phiền não hệ thuộc hai cõi Sắc, Vô sắc, chỉ trừ vô minh gọi là lậu hữu. Nếu các hữu tình hoặc chưa lìa dục, hoặc đã lìa dục, trừ các ngoại đạo, với những ngu si, phân biệt tà vạy hiện có, sanh khởi ác kiến che lấp nơi tâm, dựa nơi ác kiến ấy, đối với các dục kia, một phần tìm cầu, một phần thì lìa dục, cho đến xứ Phi tưởng phi phi tưởng, nơi vô trí hiện có đối với ba cõi ấy gồm thâu chung làm một, lập làm lậu vô minh.
Lại nữa, có chín thứ sự có thể hòa hợp, nên biết đã kiến lập chín kiết có sai biệt. Thế nào là chín sự? Đó là:
1. Sự của tất cả cảnh giới thuộc số hữu tình, phi hữu tình dựa nơi phẩm tại gia đáng yêu thích, bị tham ái trói buộc.
2. Sự của tất cả cảnh giới thuộc số hữu tình phi hữu tình tức dựa nơi phẩm ấy, đáng ghét bỏ, bị sân hận trói buộc.
3. Sự dựa nơi số hữu tình, bị kiêu mạn trói buộc.
4, 5, 6: Sự của các phẩm xuất gia dựa nơi pháp không khéo thuyết giảng, bị ba thứ thắng giải tà vạy trói buộc. Nghĩa là dựa vào sự lắng nghe pháp không chân chánh, dựa nơi tư duy không như lý, dựa nơi sự tu tập thuộc về phương tiện sai trái. Sai biệt như thế tức là ba thứ.
Sự đối với pháp luật khéo thuyết giảng, bị không thắng giải trói buộc.
Sự dựa nơi phẩm xuất gia, trí bị nghèo cùng.
Sự dựa nơi phẩm tại gia, tài sản bị bần cùng.
Do chín sự ấy, như chỗ thích ứng, nên biết đã phối hợp nơi chín kiết như ái v.v… Ở đây, do tâm ganh ghét biến hoại, nên đối với Chánh pháp, bên trong phát khởi sự keo kiệt về pháp, do đấy về vị lai trí huệ bị nghèo thiếu. Các thứ còn lại, theo chỗ ứng hợp phối kết nên biết.
Lại nữa, do bị phược tham trói buộc, nên đối với cảnh giới có thể tùy thuận lạc thọ, tâm không thể xả bỏ. Như thế, do bị phược sân hận trói buộc, nên đối với cảnh giới có thể thuận theo khổ thọ, tâm không thể xả bỏ. Do phược ngu si trói buộc, nên đối với cảnh giới có thể thuận theo thọ không khổ không lạc, tâm không thể xả bỏ. Do nhân duyên ấy,, nên lập ba phược.
Lại nữa, phần thô trọng hiện có của phẩm phiền não, tùy thuộc dựa nơi thân, gọi là tùy miên, có thể làm chủng tử sanh khởi tất cả triền phiền não, nên biết đây lại kiến lập bảy thứ, vì do chưa lìa phẩm dục có sai biệt, do đã lìa phẩm dục có sai biệt, do hai phẩm cùng có sai biệt.
Do chưa lìa phẩm dục có sai biệt, nên kiến lập tùy miên dục tham, sân hận. Do đã lìa phẩm dục có sai biệt, nên kiến lập tùy miên hữu tham,. Do hai phẩm cùng có sai biệt, nên kiến lập tùy miên mạn, vô minh, kiến, nghi. Như thế là gồm thâu chung tất cả phiền não.
Lại nữa, tùy phiền não: Nghĩa là căn bất thiện tham, sân, si, hoặc phẫn hoặc hận. Như thế nói rộng là các sự tạp uế. Nên biết ở đây có thể khởi tất cả pháp bất thiện, như tham gọi là căn bất thiện tham. Sân, si cũng vậy.
Hoặc triền sân hận có thể khiến cho diện mạo bực tức phát khởi quyết liệt, gọi là phẫn, bên trong ôm giữ oán kết, gọi là hận. Ẩn giấu các ái nên gọi là phú. Nhiễm ô khiến kinh hãi nên gọi là nhiệt não. Tâm ôm giữ nhiễm ô, không vui thích thấy kẻ khác tốt đẹp, gọi là tật.
Đối với các vật dụng sanh sống mang giữ sự tham tiếc, hẹp hòi sâu xa, nên gọi là xan. Vì lừa dối ẻ kia nên bên trong ôm giữ mưu khác, bên ngoài hiện tướng riêng, gọi là cuống. Tâm không chánh trực, không sáng không hiển, hành giải tà vạy nên gọi là siểm. Nơi tội đã tạo, đối với chính mình không xấu hổ, nên gọi là vô tàm. Nơi tội đã tạo, đối với kẻ khác không biết hổ thẹn, gọi là vô quý. Đối với chỗ thấp kém của kẻ khác cho mình là hơn, hoặc lại ở nơi không bằng, cho mình là bằng khiến tâm cao ngạo, nên gọi là mạn. Đối với chỗ bằng cho mình là hơn, đối với chỗ hơn cho mình là bằng, khiến tâm cao ngạo, nên gọi là quá mạn. Đối với chỗ hơn cho mình là hơn, khiến tâm cao ngạo, gọi là mạn quá mạn. Vọng quán các hành là ngã, ngã sở, khiến tâm cao ngạo, nên gọi là ngã mạn. Ở trong pháp thù thắng có thể chứng đắc, chưa được cho là được, khiến tâm cao ngạo, gọi là hạ liệt mạn. Thật không có đức, cho mình có đức, khiến tâm cao ngạo, nên gọi là tà mạn. Tâm ôm giữ nhiễm ô, tùy cậy nơi hình tướng đẹp đẽ được khen ngợi, bày rộng, nên gọi là kiêu. Đối với các phẩm thiện không thích siêng tu, đối với các pháp ác, tâm không phòng giữ, gọi là phóng dật. Nơi các sự cần tôn trọng cùng với phước điền, tâm không cung kính, nên gọi là ngạo. Hoặc triền phiền não có thể khiến phát khởi việc cầm nắm đao gậy tranh chấp, đánh đập, kiện tụng, nên gọi là phẫn nộ. Khởi tâm ôm giữ nhiễm ô, nhằm hiển bày đức của mình nên giả hiện oai nghi, nên gọi là kiểu. Tâm mang nhiễm ô, vì để hiển bày đức của mình, hoặc hiện việc thân, hoặc nói lời dịu dàng, gọi là trá. Tâm ôm giữ nhiễm ô, muốn có được chỗ cầu đạt nên dối hiện bày oai nghi, nên gọi là hiện tướng. Hiện hành ngăn chặn, bức hiếp, để có chỗ cầu xin, nên gọi là nghiên cầu. Đối với chỗ được lợi không sanh biết đủ, nói đạt được lợi tha lại cầu thắng lợi, do đó gọi là dùng lợi cầu lợi.
Tự hiện đức mình, xa lìa sự cung kính, đối với chỗ đáng tôn trọng thì không tôn trọng, nên gọi là bất kính. Nơi lời nói không thuận, tánh không gắng nhẫn gọi là ác thuyết. Như có đám bạn bè dẫn dắt, khiến tạo sự việc không lợi ích, gọi là bạn ác. Tham đắm của cải, lợi dưỡng, hiển bày đức không thật muốn khiến cho kẻ khác biết, nên gọi là ác dục. Nơi trú xứ của bậc đại nhân muốn cầu lợi dưỡng, sự cung kính rộng lớn, nên gọi là đại dục. Tâm mang nhiễm ô, hiển bày đức không thật, muốn khiến cho kẻ khác biết, gọi là tự mong cầu dục. Đối với sự mạ lỵ đáp trả bằng mạ lỵ, gọi là không nhẫn. Đối với giận dữ đáp lại bằng giận dữ, đánh đập đáp lại bằng đánh đập, đùa cợt đáp lại bằng đùa cợt, nên biết cũng thế. Đối với các dục của mình, sanh tham ái sâu xa, gọi là ham thích tham đắm khắp. Đối với chỗ hơn chỗ kém, theo sự thích ứng, nên biết cũng thế. Nơi các cảnh giới khởi sự đam mê sâu xa, gọi là tham. Đối với các hành ác sanh tham chấp sâu xa, gọi là tham phi pháp. Đối với các thứ tài sản, vật báu của cha mẹ mình, thọ dụng không chánh đáng, gọi là chấp trước. Đối với các tài vật hiện có của người khác giao gởi, mưu toan muốn chống cự để giữ lấy nên gọi là ác tham. Vọng quán về các hành là ngã, ngã sở, hoặc là phân biệt khởi, hoặc là câu sanh, được gọi là kiến, kiến Tát-ca-da là chỗ nương dựa. Ở trong các hành phát khởi thường kiến gọi là hữu kiến, phát khởi đoạn kiến, gọi là vô hữu kiến. Nên biết năm cái, như địa định trước đã nói. Về tướng không như chỗ mong muốn, trái thời bị tùy buộc của triền ngủ nghỉ, nên gọi là tối tăm. Không phải nơi chốn để mến mộ, gọi là không vui thích. Thô trọng cứng chắc, khiến tâm không thuận hợp, hòa dịu, toàn thân như dang rộng ra, gọi là tần thân. Đối với sự ăn uống không khéo thông tỏ, hoặc quá hoặc giảm, thế nên gọi là ăn uống không biết lượng. Nơi chỗ nên làm mà không làm, không phải chỗ nên làm, lại làm. Như ở trong chỗ hành tập pháp của Văn, Tư, Tu, phóng dật là trước hết, không khởi công dụng, gọi là không tác ý. Ở nơi cảnh của đối tượng duyên, sanh khởi hệ thuộc sâu xa, cũng như ham thích ngủ nghỉ nên tâm bị che lấp, thế nên gọi là không hợp lý. Chuyển tự xem thường, nên gọi là tâm thấp kém. Vì tánh não hại kẻ khác, nên gọi là xung đột. Tánh ưa thích giận trách nên gọi là soi mói. Lừa dối các bậc sư trưởng vốn là phước điền tôn quý, cùng hàng đồng pháp, gọi là không thuần trực. Hai nghiệp thân ngữ thảy đều kiêu căng, tâm cứng cỏi lại không thanh khiết, gọi là không hòa nhã. Đối với các Giới, kiến, phép tắc, chánh mạng đều không đồng phận, gọi là không tùy thuận. Đồng phận mà chuyển, tâm ôm giữ ái nhiễm, vin duyên nơi các dục phát khởi ý lời, tùy thuận tùy chuyển, gọi là tầm tư dục. Tâm mang ghét bỏ, đối với kẻ khác vin duyên nơi tướng không lợi ích, phát khởi ý lời, tùy thuận tùy chuyển, gọi là tầm tư giận. Tâm ôm giữ sự tổn não, đối với kẻ khác vin duyên nơi tướng não loạn, phát khởi ý lời, phần còn lại như trước đã nói, gọi là tầm tư hại. Tâm mang nhiễm ô, vin duyên nơi thân thích, phát khởi ý lời, phần còn lại như trước đã nói, gọi là tầm tư về thân thuộc. Tâm mang nhiễm ô, vin duyên nơi cõi nước, phát khởi ý lời, phần còn lại như trước đã nói, thế nên gọi là tầm tư về cõi nước.
Tâm mang nhiễm ô, vin duyên nơi tự nghĩa, tìm dựa lần lữa, thời gian sau mong đạt, phát khởi ý lời, phần còn lại như trước đã nói, do đó gọi là tầm tư bất tử.
Tâm mang nhiễm ô, dựa duyên nơi mình người, hoặc kém hoặc hơn, phát khởi ý lời, phần còn lại như trước đã nói. Đó gọi là tầm tư tương ưng với khinh miệt.
Tâm ôm giữ nhiễm ô, vin duyên nơi thí chủ, tới lui nơi gia thế, phát khởi ý lời, tùy thuận tùy chuyển, đó gọi là tầm tư tương ưng với gia thế. Các sự sầu than, như trước nên biết.
Lại nữa, tất cả phiền não đều có triền kia, do hiện hành nên đều gọi là triền. Nhưng có tám thứ nơi các tùy phiền não, ở trong bốn thời thường xuyên hiện hành, do đó chỉ lập tám thứ làm triền. Nghĩa là, ở nơi lúc tu học Giới tăng thượng, không hổ không thẹn, luôn luôn hiện hành, có thể tạo chướng ngại. Hoặc khi tu học tâm tăng thượng, hôn trầm, thùy miên thường xuyên hiện hành, có thể làm chướng ngại. Hoặc vào lúc tu học Huệ tăng thượng, vì phân biệt, lựa chọn pháp, nên trạo cử, ố tác luôn luôn hiện hành, có thể gây chướng ngại. Hoặc người đồng pháp, lúc lần lượt thọ dụng tài sản và pháp, tật đố (ganh ghét), xan lận (bỏn sẻn) luôn luôn hiện hành, có thể làm chướng ngại.
Lại nữa, phiền não hệ thuộc cõi Dục như dục tham, sân, hành giả đối với phiền não phẩm thượng hệ thuộc cõi Dục, chưa đoạn trừ, chưa nhận biết, gọi là bộc lưu dục. Ba thứ bộc lưu hữu, kiến, vô minh, như chỗ thích hợp, nên biết cũng thế. Nghĩa là ở nơi cõi Dục chưa được lìa dục, trừ các ngoại đạo, gọi là bộc lưu dục. Đã được lìa dục gọi là bộc lưu hữu. Hoặc các ngoại đạo theo nhiều môn luận, nên biết có hai thứ bộc lưu còn lại. Nghĩa là các thứ ác kiến lược thâu tóm làm một, gọi là bộc lưu kiến. Nhân duyên của ác kiến lược thâu làm một, gọi là bộc lưu vô minh, là bộc lưu thứ tư.
Lại nữa, hoặc đẳng phần của các phiền não, nẻo hành không tăng không giảm, tức trên đã nói, tất cả phiền não được gọi là ách. Lại nữa, nên biết dựa nơi hai phẩm để kiến lập bốn thủ:
1. Phẩm tại gia.
2. Phẩm của các vị xuất gia trong pháp ngoại đạo.
Nên biết ở đây, hoặc là đối tượng được thủ, hoặc chủ thể thủ, hoặc phạm vi tạo tác là thủ. Như thế, tất cả gọi chung là thủ.
Hỏi: Những gì là đối tượng được thủ?
- Đáp: Dục, kiến, giới cấm, ngã ngữ, là đối tượng được thủ. Hỏi: Gì là chủ thể thủ?
- Đáp: Bốn thứ dục tham là chủ thể thủ. Hỏi: Gì là phạm vi tạo tác của thủ?
- Đáp: Vì được các dục cùng thọ dụng, nên khởi thủ thứ nhất. Do sức tăng thượng của tham lợi dưỡng cùng được cung kính, hoặc tạo chỗ lập luận vấn nạn kẻ khác, hoặc để thoát khỏi sự vấn nạn của kẻ khác, nên khởi thủ thứ hai. Chi Tam-ma-địa là chỗ nương dựa, là nơi chốn được kiến lập, vì nhằm đi tới việc lìa dục thế gian, cho đến Tam-ma-bát-để của xứ Phi tưởng phi phi tưởng, nên khởi thủ thứ ba.
Vì nhằm tùy nêu bày phân biệt về chỗ chấp nơi sĩ phu hiện có tạo nghiệp, thọ nhận quả, cùng là tùy nêu bày về tướng của sĩ phu lưu chuyển, hoàn diệt, nên khởi ngã ngữ thủ.
Bốn thủ như thế, dựa nơi hai phẩm, nghĩa là phẩm của các người tại gia thọ dụng dục, cùng phẩm của các vị xuất gia trong pháp luật không khéo thuyết giảng.
Do Đức Phật, Thế Tôn là bậc Đại sư chánh luận, thường tự nói: Ta đối với các thủ đã nhận biết khắp, đã vĩnh viễn đoạn trừ. Hành giả đối với pháp này nguyện tu tập, tuy còn mang phiền não, nhưng thân hoại mạng chung, không đối với chúng kiến lập các thủ. Vì sao? Vì kẻ ấy đối với các dục không hề luyến tiếc mà xuất gia, đối với kiến, giới cấm cùng ngã ngữ, không chấp thọ.
Pháp không khéo thuyết giảng có hai sai biệt:
1. Đối với kiến ái, lần lượt phát khởi luận oán, tranh.
2. Có thể chứng nhập định của thế gian.
Dựa nơi kiến ái, lần lượt phát khởi luận oán, tranh, kiến lập kiến thủ. Dựa nơi việc có thể chứng nhập định của thế gian, lập giới cấm thủ.
Hai phẩm làm chỗ dựa, chấp trước ngã ngữ, nên dựa vào cả hai phẩm lập ngã ngữ thủ. Ở đây, kiến là sáu mươi hai thứ, như trước đã nói nên biết. Chỗ thọ trì của kiến phân biệt tà vạy, được thân hộ ngữ hộ, gọi là Giới. Theo đấy, chỗ thọ nhận y phục, thức ăn uống, hành tướng oai nghi, gọi là cấm. Là đế, là trụ, nên luận nói có ngã, gọi là ngã ngữ. Chấp có vật thật gọi là đế. Chấp có thể an lập, gọi là trụ. Lại, ở trong ấy, dục ái làm duyên kiến lập dục thủ. Nương dựa nơi luận trí, các thứ ái như lợi dưỡng, cung kính v.v… làm duyên, kiến lập kiến thủ. Ái về định làm duyên lập giới cấm thủ. Ái hữu, không hữu làm duyên, lập ngã ngữ thủ.
Lại nữa, nên biết bốn thứ hệ thuộc, chỉ dựa nơi ngoại đạo có sai biệt để kiến lập, như trước đã nói, nên biết.
Lại nữa, năm xứ trái chống, nên biết đã kiến lập năm cái có sai biệt:
1. Tại gia bị chìm nổi nơi cảnh giới của các dục, chống trái với
Thánh giáo, lập cái tham dục.
2. Các vị đồng pháp không gắng nhẫn đối với sự chê trách, can gián, xua đuổi, chỉ dạy, khuyên bảo v.v…, nên chống trái với pháp lạc khả ái hiện có, lập cái giận dữ.
3. Do chống trái với pháp Xa-ma-tha, nên lập cái hôn trầm, thùy miên.
4. Do chống trái với pháp Tỳ-bát-xá-na, nên lập cái trạo cử, ố tác.
Do chống trái với việc luận nghị pháp, quyết trạch thuận không điên đảo, xét kỹ các pháp nơi Thánh giáo của Đại sư, thắng giải về Niết-bàn, nên kiến lập cái nghi.
Lại nữa, hoặc bị triền Tham-sân-si trói buộc, hoặc bị tùy miên kia tạo nên tùy miên, tâm không thuận hợp, nhu hòa, tâm hết sức ngu tối, đối với việc đạt được tự nghĩa có thể gây nên suy tổn, nên gọi là "chu ngột".
Lại nữa, đối với cảnh giới xấu thấp, dấy khởi tham dục, gọi là tham cấu. Đối với sự việc nơi cảnh giới của đối tượng duyên không nên giận dữ, đã khởi giận dữ, gọi là sân cấu. Đối với sự việc hiển hiện ngu si hết mực nơi chúng sanh hãy còn có thể biết rõ, đã khởi ngu si, gọi là si cấu.
Lại nữa, nếu Tham-sân-si luôn luôn hiện hành, thường xuyên trôi đầy, thiêu não thân tâm khiến bị suy tổn hết sức, gọi là thiêu hại.
Lại nữa, nếu Tham-sân-si xa lìa hổ thẹn, không có hổ thẹn, nên hoàn toàn nối tiếp, không thể chế phục, nhất định bị tổn thương, gọi là mũi tên.
Lại nữa, nếu Tham-sân-si có hổ thẹn xen lẫn, do tương tục, không phải là sát na, gọi là "Sở hữu", là thuộc về trói buộc, là nghĩa uế tạp thấp kém hết mực.
Lại nữa, tất cả thân nghiệp bất thiện gọi là hành ác.
Như nói về thân nghiệp, thì ngữ nghiệp, ý nghiệp nên biết cũng thế. Do nghiệp ác ấy luôn hiện hành, nên đối với các nẻo ác, hoặc đã tùy được, hoặc sẽ tùy được, hoặc đang tùy được, do đó các hành kia gọi là hành ác, do đấy chỉ rõ nghĩa tạp nhiễm của nghiệp. Tạp nhiễm của phiền não, trước đã hiển bày rõ.
Lại nữa, có hai thứ luận, an lập nghĩa tạp nhiễm của nghiệp:
1. Luận tà.
2. Luận chánh.
-Nói luận tà: Nghĩa là nói như vầy: Hoặc hữu nên suy xét. Phàm đã tạo tác các nghiệp bất thiện, tất cả quyết định sẽ thọ nhận nẻo ác. Luận này liền hủy báng tu hành phạm hạnh, có thể chứng đắc Niết-bàn. Vì sao? Vì các loài hữu tình, ở trong hiện pháp không dễ có thể đạt được.
Không hữu nên suy xét, tạo nghiệp bất thiện, huống hồ là ở nơi đời khác. nếu luận kia quyết định chiêu cảm nơi nẻo ác, tức nên không có giải thoát có thể đạt được. Vì vậy nên biết đây là luận tà. Hoặc nói như vầy: Các hữu nên suy xét, tạo nghiệp bất thiện, nghiệp này cũng tạo tác, cũng tăng trưởng, nhất định nơi vị lai thọ nhận dị thục không khả ái nơi nẻo ác. Hoặc hữu tuy tạo tác nhưng không tăng trưởng, thì các pháp kia thọ nhận làm chỗ dựa, các chỗ tạo tác hoặc lạc hoặc khổ, nên khi gây tạo ở trong hiện pháp, nghiệp này quyết định hoặc thuận nơi lạc thọ, hoặc thuận nơi khổ thọ.
Các hữu tạo tác nghiệp như thế rồi, nếu hữu tình không truy hối, không tu đối trị, kẻ kia nơi nghiệp hoặc lại tăng trưởng, hoặc không tăng trưởng, nghiệp này tuy định thuận thọ hiện pháp, cũng chuyển khiến thành thuận thọ nẻo ác, ở trong hiện pháp có thể làm chướng ngại giải thoát.
Các hữu tạo tác nghiệp như thế rồi, nếu hữu tình hoặc sanh hối hận, tu tập đối trị, thì đối với nghiệp ấy, hoặc không tăng trưởng, hoặc lại tăng trưởng, nghiệp này tuy là thuận thọ nẻo ác, cũng chuyển khiến thành thuận thọ hiện pháp, không chướng ngại đối với giải thoát. Do đó, luận này không gọi là không phỉ báng việc tu tập phạm hạnh có thể chứng đắc Niết-bàn. Nên biết luận này là chánh luận.
Lại nữa, nếu có thiếu sót nơi mười thứ đối trị thì bị nhiễm ô do sự tạp nhiễm của nghiệp. Nếu có sự gặp gỡ mười thứ như thế, liền được thanh tịnh. Mười thứ đó là:
1. Nếu do đối trị như thế, tuy có tạo nghiệp nhưng không tăng trưởng. Kẻ kia hướng đến vị lai thành tựu thọ không định.
2. Nếu do đối trị như thế, tuy chưa đoạn trừ vĩnh viễn nhưng lại không thọ nhận.
3. Hoặc do đối trị như thế, đã vĩnh viễn đoạn trừ, lìa trói buộc.
4. Giữ gìn các căn môn, nên khéo tu nơi thân, vì nhằm tu tập Giới học tăng thượng.
5. Tu tập Giới tăng thượng rồi, vì muốn tu tập Tâm học tăng thượng.
6. Tu tập Tâm tăng thượng rồi, vì nhằm tu tập Huệ học tăng thượng.
7. Tu tập Huệ tăng thượng rồi, vì nhằm đoạn trừ các lậu.
8. Tu tập với ý lạc mãnh liệt.
9. Tu tập trong thời gian dài.
10. Tu tập vô lượng môn đối trị.
Nếu có hành giả không lãnh hội mười thứ đối trị nghiệp như thế, tức bị chỗ tạp nhiễm của nghiệp làm nhiễm ô. Cùng với đấy trái nhau, nên biết là thanh tịnh.
Lại nữa, ở trong hiện pháp, không khéo ngăn giữ ba nghiệp thân ngữ ý để an trụ, thì hành giả với nghiệp ác bất thiện đã tạo tác từ trước cũng khiến tăng trưởng. Nơi đời vị lai khiến bị tạp nhiễm. Nếu khéo ngăn giữ ba nghiệp thân ngữ ý mà an trụ, kẻ kia không bị tạp nhiễm. Thế nào là ở trong hiện pháp, không khéo ngăn giữ ba nghiệp thân ngữ ý mà an trụ? Thế nào là khéo ngăn giữ ba nghiệp thân ngữ ý mà an trụ?
- Không khéo phòng giữ ba nghiệp thân ngữ ý mà trụ: Nghĩa là như có một hữu tình, đối với triền của các nghiệp thân ngữ ý bất thiện đã phát khởi, có thể nguyện xa lìa, nhưng đối với khả năng phát khởi không tác ý đúng đắn, vô minh tương ưng cũng còn dấy khởi. Lại, đối với các nghiệp thân ngữ ý thiện thọ học tùy chuyển. Do nhân duyên ấy, nên ở trong hiện pháp, đối với các phiền não tìm cầu dục tà tạo ra các khổ, không có sai biệt. Hữu tình kia, tức chỉ đối với pháp đó nguyện nhận xa lìa, liền sanh biết đủ. Ở trong hiện pháp không khởi Thánh đạo, không chứng Niết-bàn. Hữu tình kia, tuy phòng hộ như thế mà trụ, ở trong hiện pháp tạm thời không tạo nghiệp ác bất thiện, nhưng vẫn bị tùy miên của phiền não trói buộc, nên đã mạng chung, hữu sau tiếp tục sanh, theo chỗ thọ thân, dựa vào nghiệp duyên trước, khởi rộng tạp nhiễm.
- Nếu khéo ngăn giữ ba nghiệp thân ngữ ý mà trụ: Tức có sai biệt này: Ở đây dựa vào thệ nguyện kia, nhận xa lìa không tạo nghiệp mới. Nghiệp cũ tuy thành thục, nhưng vừa tiếp xúc với dị thục, liền có thể biến đổi, trút bỏ. Hữu tình kia, chỉ đối với nguyện ấy thọ nhận xa lìa, không sanh biết đủ, ở trong hiện pháp có thể khởi thánh đạo, cũng có thể chứng đắc Niết-bàn của quả kia. Hữu tình ấy, bấy giờ cho đến hữu thức thân nối tiếp trụ, luôn nhận lấy các thọ, chiêu cảm từ các nghiệp trước. Ở trong hiện pháp, hữu tình kia với hữu thức thân cho đến thọ lượng, phần vị chưa diệt tận, nên luôn nối tiếp trụ. Thọ lượng nếu hết thì xả bỏ hữu thức thân, nên mạng căn sau không thành tựu nữa. Do nhân duyên ấy,, nên thức cùng với các thọ đều diệt, sau không tương tục. Hành giả kia như bóng thọ nhận cùng với cây thức, đều dứt hết, khắp nơi tất cả đều không thể thiết lập. Bấy giờ, hành giả kia do hai nhân duyên, nên nghiệp đã tạo từ trước, đối với đời vị lai không thể bị nhiễm:
1. Do phiền não làm trợ bạn kia, khiến tạp nhiễm, đã được đoạn trừ rốt ráo.
2. Do dựa vào các hành ấy nối tiếp thành thục, nên tạp nhiễm đã hoàn toàn dứt hết.
Hành giả kia, lúc ấy, ở nơi trụ xứ của các hữu tình, ý lạc của bạn lành tương tục chuyển, gọi là tâm không oán. Nơi đối tượng duyên kia giận dữ đã đoạn, gọi là tâm không giận. Đối với dị thục của nghiệp, thấy rõ lỗi lầm tai họa. Do sức của duyên tăng thượng, nên nguyện xa lìa, gọi là tâm không nhiễm. Đã đạt được chủ thể đối trị là các Thánh đạo kia, nên gọi là tâm không điên đảo, hoàn toàn giải thoát.
Hành giả kia do có thể chứng đắc đủ sáu thứ hằng trụ như thế, nếu có hữu tình đối với các thứ ấy an trụ nhiều, thì ở trong hiện pháp, tuy có vô số duyên của các nghiệp ác bất thiện xen tạp, vì đã xa lìa phần đó nên hoàn toàn thánh thiện.
Do nhân duyên này, nên biết ở đây, so với sự ngăn giữ an trụ ở trước có sai biệt.
Lại nữa, nên biết, luận thiết lập, lãnh nhận dị thục của tất cả nghiệp, do năm thứ tướng nên thành tạp nhiễm, do năm thứ tướng nên thành không tạp nhiễm.
-Thế nào gọi là do năm thứ tướng nên thành tạp nhiễm? Đó là:
1. Do luận thiết lập nhân ác.
2. Do luận thiết lập không nhân.
3, 4, 5: Do thiết lập nhân ác, không nhân có ba lỗi lầm.
Ở đây, luận thiết lập nhân ác: Nghĩa là như có một hữu tình, khởi kiến như thế, lập luận như thế. Hoặc có sĩ phu, Bổ-đặc-già-la, với các chỗ lãnh nhận tất cả đều là nhân đã tạo của đời trước. Như thế, hoặc cho là nhân đã tạo của tự tại biến hóa v.v…
Luận thiết lập không nhân: Nghĩa là như có một hữu tình, khởi kiến như thế, lập luận như thế. Hoặc có sĩ phu, Bổ-đặc-già-la, với các chỗ lãnh nhận, nên biết tất cả là không nhân không duyên.
Thế nào là thiết lập nhân ác, không nhân có ba thứ lỗi lầm? Nghĩa là, trong hiện pháp cùng hành với bất thiện, các thọ bất thiện. Nghiệp của đời trước làm nhân cũng có lỗi lầm. Nghiệp của hiện pháp làm nhân cũng có lỗi lầm.
Nếu nói thọ này là do nhân của nghiệp ác nơi đời trước, tức là có một hữu tình, dựa nơi sự thọ nhận các pháp lạc bất thiện mà có lạc kia, nên thọ sanh bất thiện. Đây là dùng các nghiệp bất thiện của đời trước làm nhân nên sanh, là không hợp đạo lý. Vì sao? Vì không phải các nghiệp bất thiện của đời trước kia, ở trong hiện pháp chiêu cảm dị thục vui, nên đúng với đạo lý.
Nếu nói thọ này dùng nghiệp ác trong hiện pháp làm nhân, tức là thối mất tự ý nơi luận các nhân ác và luận không nhân đã lập. Nghĩa là, các chỗ thọ nhận đều là nhân đời trước đã tạo tác, cho đến nói rộng. Đó gọi là lỗi lầm thứ nhất.
Lại, nếu cho rằng các pháp bất thiện đều dùng nghiệp ác của đời trước làm nhân, tức là quyết định pháp thiện hiện có cũng dùng pháp thiện của đời trước làm nhân. Như thế, đối trị các pháp bất thiện hiện có, là các thiện gia hạnh, tinh tấn câu sanh, đều thành vô dụng. Như thế gọi là lỗi lầm thứ hai.
Lại, nếu hiện tại không có sĩ dụng, tức là nên không dựa vào thiện, bất thiện để quán xét kỹ lưỡng, đúng đắn là chỗ nên tạo tác, không nên tạo tác. Lại, trí như thật nên thành vô dụng. Nghĩa là nhận biết rõ rồi, ngã này nên chuyển, ngã này nên thành, kia không phải có, đây cũng không phải có. Về lý của trí như thật không thành tựu. Trí không thành tựu nên niệm không an trụ. Niệm không an trụ nên không có Tam-ma-địa, không có định, tầm tư không đúng đắn khiến tâm mê loạn. Tâm mê loạn, tức nên các căn vui mừng mến mộ cùng ý với chỗ vui thích của kẻ ngu. Do kẻ kia đạt được pháp lạc cùng ý với kẻ ngu, tức là thối thất cùng với pháp Sa-môn và luận Sa-môn. Như vậy gọi là lỗi lầm thứ ba.
Hoặc lược nói đây có ba thứ lỗi lầm:
1. Lỗi lầm của nhân thọ nhân các thứ bất thiện của đời hiện tại không thành.
2. Lỗi lầm hủy báng tinh tấn.
3. Lỗi lầm hủy báng chánh trí.
-Thế nào là luận thiết lập, lãnh nhận dị thục của tất cả nghiệp, do năm thứ tướng nên thành không tạp nhiễm? Nghĩa là, hoặc có thể lãnh nhận, hoặc do lãnh nhận ấy, hoặc lãnh nhận như thế, hoặc lúc lãnh nhận, tạp nhiễm như vậy, thanh tịnh như vậy, nên biết ở đây dựa nơi năm thủ uẩn, nêu đặt giả danh hữu tình là người lãnh nhận. Tức kẻ giả này, do sáu xúc xứ nên có thể lãnh nhận. Ở trong thai mẹ có bốn thứ sai biệt… Tiếp theo có danh sắc, rồi có sáu xứ, tiếp nữa là xúc, thọ. Thứ lớp như thế mà có lãnh nhận.
Lại, tức thọ này cũng dùng xúc của hiện tại làm nhân. Cũng dùng nghiệp v.v… của đời trước làm nhân. Hữu tình kia nếu lắng nghe các pháp không chân chánh, tác ý phi lý dùng làm nhân duyên, liền tiếp xúc với vô minh xúc sanh khởi thọ. Thọ làm duyên nên lại sanh khởi ái. Ái làm duyên nên lại sanh khởi thủ, cho đến các khổ như sanh lão tử của vị lai có sai biệt. Lúc lãnh nhận các vô minh xúc sanh khởi thọ như thế, liền có hai đế thuộc về tạp nhiễm. Cùng với đấy trái nhau, là lắng nghe Chánh pháp, tác ý như lý làm nhân duyên, nên có thể lãnh nhận minh xúc sanh khởi các thọ có sai biệt. Lúc nhận lấy thọ này liền có hai đế thuộc về thanh tịnh.
Lại nữa, nên biết trong việc thiết lập nghiệp tà, thanh tịnh cùng hành tà, có hai lỗi lầm tai họa. Những gì là hai?
Đó là:
1. Lỗi lầm tai họa gây trở ngại cho nội chứng.
2. Lỗi lầm tai họa do bị kẻ khác hủy báng.
- Thế nào là thiết lập nghiệp tà thanh tịnh? Nghĩa là như có một hữu tình, thật sự không phải là đại sư, vọng phân biệt về mình, tự xưng là đại sư, tuyên thuyết luận thiết lập tà vạy như thế, cho trong hiện pháp, các khổ đã thọ nhận, tất cả đều là chỗ tạo tác của nhân đời trước. Người kia thấy các nghiệp bất thiện của đời trước là hai thứ thân. Nghĩa là trong hiện pháp, các thiện bất thiện đều là chỗ dẫn dắt của nghiệp đời trước thường xuyên hành tập. Các khổ đã thọ cũng là chỗ tạo tác của nghiệp kia. Do nhân duyên ấy, tu hành tự khổ, khiến cho quả khổ được chiêu cảm từ nghiệp ác cũ thảy đều biến đổi dứt sạch. Lại không tạo tác nghiệp bất thiện đương thời, nên ở trong hiện pháp lại có thể ngăn giữ thân ngữ ý để an trụ. Sau sẽ siêng tu hoàn toàn nghiệp thiện, khiến pháp bất thiện chuyển thành không lậu. Do nhân duyên này, nên nghiệp bất thiện dứt hết. Do nghiệp kia hết nên các khổ cũng dứt hết, chứng đắc biên vực tận cùng của khổ.
- Thế nào là hành tà? Nghĩa là như có một hữu tình không thể nhận biết rõ về tạp nhiễm của tự nghiệp, không thể nhận biết rõ về pháp đối trị nghiệp kia. Lại đối với chỗ chứng đắc trước sau có sai biệt, không nhận biết đúng như thật. Kẻ kia thành hình pháp ngu si như thế, nên đối với chỗ chứng đắc của thầy, không căn cứ vào đấy để tin tưởng. Đối với xứ không nên tin thì vọng sanh là Thánh giáo chân thật để thắng giải.
Kẻ kia do rơi vào luận tà phi thật phi lý, nên các bè nhóm nơi người khác, lúc xoay động đối với xứ đáng nghi thì không sanh nghi, không tìm cầu thầy, đích thân đi đến thỉnh vấn. Là có thể ký biệt đúng đắn, cho là không thể ký biệt. Là có thể đạt thanh tịnh, nghi là không thể đạt được. Là Nhất thiết trí, thì cho không phải Nhất thiết trí. Đại sư qua đời, đối với nơi chốn nghi hoặc thì tùy chuyển rốt ráo. Vì sao? Vì khi đại sư ở đời có thể quyết định rõ Nhất thiết trí này không phải là Nhất thiết trí. Đại sư diệt độ rồi, thì nơi nào để thỉnh vấn, làm sao quyết đoán? Đó gọi là hành tà.
Do duyên nào nên biết thiết lập như thế khiến nghiệp thanh tịnh là không hợp đạo lý? Do hai duyên: Nghĩa là hành khổ kia tức chỗ tạo tác của nhân đời trước là không hợp lý. Do đấy nên có thể dứt hết nghiệp bất thiện đời trước, là không hợp lý.
Lại, hành khổ này không có công năng, khiến chỗ tạo tác từ trước có thể chiêu cảm khổ thọ, các nghiệp bất thiện thành thuận nơi lạc thọ. Do đó, kẻ kia dấy khởi định kiến như thế. Do hành tự khổ, khiến nghiệp ác đã tạo từ đời trước đều biến đổi, loại bỏ. Nếu có sự việc ấy thì chỗ tạo tác của đời trước kia có thể thuận theo khổ thọ, các nghiệp bất thiện là có thể chiêu cảm được các quả của khổ thọ do tự khổ bức bách trong hiện pháp chăng?
Nếu nói chiêu cảm được quả của khổ thọ ấy thì tu hành tự khổ tức là uổng công. Thọ nhận quả kia rồi, tự nhiên biến đổi, loại bỏ hẳn. Nếu như thế thì các nghiệp bất thiện đã tạo từ đời trước, không phải là chỗ có thể biến đổi, loại bỏ hẳn của hành tự khổ.
Lại, nếu thọ nhận sự chiêu cảm của nhân nơi nghiệp đời trước thì kẻ kia tự thừa nhận, khiến một phần của nghiệp giảm dứt, có thể đạt được phần ít thắng lợi. Do nhân duyên này, như chỗ thừa nhận phần ít thắng lợi ấy cũng không thật có. Như thế tức là hết sức trở ngại cho chính mình vì bị nghiệp trói buộc nên chung cuộc không được giải thoát. Do đạo lý ấy nên gọi luận tà hành tà này là lỗi lầm tai họa thứ nhất, tức là trở ngại cho tự nghĩa của nội chứng.
Thế nào là lỗi lầm tai họa do bị kẻ khác hủy báng? Nghĩa là kẻ kia nương dựa nơi hai thứ luận tà, phát khởi ba thứ hành tự khổ não, hoặc nói: Các sự lãnh nhận của Bổ-đặc-già-la, sĩ phu hiện có, hết thảy đều là chỗ tạo tác của nhân từ trước. Đó gọi là luận tà thứ nhất, tức luận nhân ác.
Lại có thuyết nói: Như Trời Tự Tại biến hóa đầu tiên kia, từ đó về sau, các sự lãnh nhận, tất cả đều là chỗ tạo tác của nghiệp đời trước. Đó gọi là luận tà thứ hai, tức luận nhân ác.
Ba thứ hành tự khổ: Nghĩa là phòng hộ thân ngữ ý.
Phòng hộ thân: Là không đem thân cùng với hữu tình khác chung trụ lẫn lộn, chỉ đi đến chốn rừng núi, Aluyện-nhã, ở một mình nơi tĩnh lặng, đều không ai thấy mà tu khổ hạnh.
Phòng hộ ngữ: Nghĩa là người kia thọ trì giới cấm im lặng không nói.
Phòng hộ ý: Tức tâm nhẫn thọ các khổ bức bách mình. Người kia khởi ngôn thuyết vui thích mong muốn như thế, vì kẻ khác hiển bày chỉ rõ. Do hai thứ được thấy ấy viên mãn, cùng do ba thứ hành khổ viên mãn, nên có thể vượt khỏi các khổ, nhưng với tự khổ thì không thể vượt qua, thế nên bị kẻ khác hủy báng.
Nếu các sự thọ nhận tất cả đều là chỗ tạo tác của nhân từ trước, cũng là nhân của Trời Tự Tại biến hóa tạo tác, cũng là chỗ tạo tác thuộc nhân của ba thứ hành khổ có thể vượt khỏi, tức là ba thứ tu hành khổ, cùng chỗ thọ nhận các khổ nhất định là được chiêu cảm từ nghiệp đen của đời trước, cũng là chỗ biến hóa của tự tại bạo ác, ba thứ hành khổ đều không thể vượt qua, thế nên hiện tại nhận lấy khổ thọ ấy.
Nếu kẻ kia tuy lại bị trở ngại cho việc nội chứng, nhưng có được kẻ khác xưng tán, cũng hãy còn không thể, huống hồ đây là xưng tán kẻ khác, nên thắng lợi cũng không thật có. Thế nên gọi là lỗi lầm tai họa thứ hai. Do phân này nên chỉ có thể chê trách.
Lại nữa, cùng với trên đây trái nhau, nên biết là thiết lập chánh nghiệp nhiễm tịnh cùng trong hành chánh đáng có hai thắng lợi:
1. Thắng lợi của nội chứng không vướng mắc.
2. Thắng lợi được kẻ khác xưng tán.
Thế nào là luận thiết lập phần tạp nhiễm của nghiệp? Nghĩa là có hai nghiệp:
1. Nghiệp thiện.
2. Nghiệp bất thiện.
Đối với đời quá khứ đã từng tạo tác nghiệp thiện, bất thiện, khiến trong hiện tại thọ nhận quả dị thục, ái, phi ái. Lúc thọ nhận quả ái phi ái có sai biệt, lại tạo tác nghiệp thiện, bất thiện, do đấy, đương lai sẽ thọ nhận quả dị thục ái phi ái. Như thế gọi là luận nên phần tạp nhiễm của nghiệp.
- Thế nào là luận thiết lập phần thanh tịnh của nghiệp? Tức là như có một hữu tình, không tạo nghiệp mới, nên nghiệp cũ tiếp xúc rồi liền lại biến đổi, loại bỏ, do sức đối trị nên vĩnh viễn đoạn trừ rốt ráo, đạt được thanh tịnh. Như thế gọi là luận khiến nghiệp tạp nhiễm được thanh tịnh. Như vậy, thiết lập phần nhiễm tịnh của chánh nghiệp, gọi là luận vô thường.
- Thế nào là hành chân chánh? Nghĩa là như có một hữu tình, ở trong Chánh pháp thành tựu đa văn, đối với phần tạp nhiễm cùng thanh tịnh của nghiệp, nhận biết đúng về tướng tạp nhiễm, thanh tịnh rồi, xả bỏ nghiệp bất thiện, tu tập nghiệp thiện. Hữu tình kia, đối với Văn, Tư, tác ý như lý, siêng tạo phương tiện rồi, vì nhằm chứng Tu, nên ở nơi chốn vắng lặng, tịnh tu tâm đối trị, khiến lìa các cái cùng với pháp các khổ. Vì muốn đoạn trừ tham dục, giận dữ, trạo cử, ố tác, nên dùng chín thứ hành, khiến tâm an trụ, khiến tâm dứt bỏ chỗ đối trị của Chỉ. Vì muốn đoạn trừ cái hôn trầm, trạo cử và nghi, nên phân biệt về sáu sự, tác ý như lý, tu trị nơi tâm, dứt bỏ chốn đối trị của Quán. Từ chỗ đối trị Chỉ Quán kia xuất rồi, có thể tu học đúng đắn, để trừ bỏ, chế phục các khổ. Người kia đã tịnh tu về tâm như thế rồi, khiến lìa pháp chúng khổ của các cái, lại đối với các thứ y phục, thức ăn uống, ngọa cụ thọ dụng đúng phép tắc, tịnh tu nơi tâm. Nếu do quen gần với các thứ y phục cho đến ngọa cụ như thế, pháp bất thiện tăng, pháp thiện thối giảm, tức liền xa lìa, đâu có thể thọ dụng. Y phục thô xấu, khâu vá như thế là để tự tồn tại, nhẫn thọ các khổ, tiến tu hành chân chánh.
Lại do hai duyên, nên thọ dụng các thứ y phục thắng diệu, nhân đấy có thể khiến sanh trưởng pháp ác bất thiện, tức là các vọng tưởng, các tầm tư bất chánh.
Những gì là hai duyên? Đó là:
1. Nơi các thứ thiện, chưa có thể trong thời gian dài thường xuyên tu tập, nên tâm không dịu dàng, thuận hợp. 2. Đối với các sự như y phục, thức ăn uống v.v… dục tham chấp chặt. Do nhân duyên ấy, nên tu hành chân chánh, tâm được thuận hợp, khiến có thể gắng sức tạo tác. Nơi các thứ như y phục v.v… dục tham chấp chặt, cùng các pháp duyên sanh vô thường, luôn luôn buộc giữ niệm để thấy rõ lỗi lầm tai họa. Bấy giờ tuy lại thọ dụng các thứ như y phục v.v… thắng diệu, nhưng ở trong ấy không có tạp nhiễm. Hành giả như thế cũng thọ nhận an lạc, cũng không có tội.
Do lực tu tập Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na, nên tịnh tu nơi tâm, lìa bỏ các cái. Do diệu lực của sự xét chọn, nên việc thọ dụng sai lạc, tuy lúc ấy đã giảm thiểu, thành tựu tâm tánh một cảnh, nhưng tùy miên dục tham vẫn chưa đoạn dứt, nơi đời vị lai lại bị tạp nhiễm.
Hữu tình kia do diệu huệ thông tỏ như vậy rồi, liền tu gia hạnh, đoạn trừ rốt ráo, thọ dụng như pháp về biên vực nơi các thứ ngọa cụ, lìa những tham chấp, trước khéo tu trị tư lương của chánh định, lần lượt cho đến có thể nhập nơi Tĩnh lự thứ tư thanh tịnh, dùng đấy làm chỗ dựa, chứng hiện quán đế, theo đó được lậu dứt hết, tâm hoàn toàn giải thoát, lìa mọi trói buộc của tất cả khổ, là chỗ thâu nhận của tịch tĩnh rốt ráo, thanh tịnh vi diệu, tất cả thân tâm nối tiếp viên mãn. Vĩnh viễn lìa buộc nơi hết thảy phiền não, có thể lãnh nhận khắp các thọ vô lậu. Đó gọi là hành chân chánh.
Như thế nên biết, nội chứng không vướng mắc, cùng với năm thứ sai biệt kia trái nhau, là được kẻ khác xưng tán. Người kia, bấy giờ từ các triền cái cùng tất cả khổ, tâm hoàn toàn giải thoát. Ở trong hiện pháp, các tùy miên kia vĩnh viễn đoạn trừ rốt ráo. Nghiệp của đời trước đời sau, cùng tạp nhiễm hiện có của dị thục đều khéo giải thoát. Do nơi hiện pháp, đạt được Thánh đạo cùng quả của đạo.
Lại nữa, lược có ba thứ hữu tình:
1. Phàm phu chưa nhập Thánh giáo.
2. Hàng hữu học đã nhập Thánh giáo.
3. Hàng phàm phu đã nhập Thánh giáo.
Do ba thứ tướng, nên biết về hữu tình đầu tiên. Hữu tình thứ hai, thứ ba nên biết cũng thế.
- Thế nào là ba tướng nên biết hữu tình đầu tiên? Nghĩa là, trước hết có một hữu tình, đã thành tựu được chánh kiến của thế gian, nhận biết rõ là có bố thí, cho đến nói rộng. Người kia, vào một lúc khác nghe pháp bất chánh làm nhân duyên, nên liền phát khởi tác ý phi lý, chánh kiến của thế gian sắp sửa muốn diệt. Lại, chỗ đối trị kia lại phỉ báng, nên tà kiến sắp sanh. người ấy, trong thời gian đó đã lắng nghe Chánh pháp làm nhân duyên, bèn trở lại phát sanh tác ý như lý. Hữu tình kia, lúc sắp muốn sanh phỉ báng, tà kiến không hiện hành, nên gọi là đoạn. Nhưng chánh kiến kia, trước đã thành tựu nên không gọi là sanh. Thứ hai, có một hữu tình không thành tựu chánh kiến, cùng do tà kiến, lắng nghe Chánh pháp, tác ý như lý làm nhân duyên nên mới có thể phát sanh chánh kiến của thế gian. Kẻ ấy, đối với tà kiến không gọi là đoạn, vì trước không thành.
Thứ ba, có một hữu tình, gây tạo tà kiến, lắng nghe Chánh pháp, tác ý như lý làm nhân duyên, nên đoạn dứt tà kiến, sanh khởi chánh kiến.
- Thế nào là ba tướng, nên nhận biết hữu tình thứ hai? Nghĩa là, đối với Đức Phật v.v…, đã đạt chứng tịnh, kẻ kia đối với Phật v.v…, trước đã hiện khởi tất cả vô trí, nên nơi các đế, lúc đạt hiện quán, trước đã đoạn hết, thế nên nay không gọi là đoạn, nhưng đối với Đức Phật v.v…, chứng tịnh cùng hành với minh hiện tiền, nên gọi là sanh. Tức dùng học đạo đoạn trừ phẩm vô minh còn lại, mà đối với minh không gọi là sanh khởi. Đạo này cùng với chủng loại trước là đồng, nên đạo vô học kia sắp hiện tiền, nên vô minh do tu đạo đoạn thảy đều diệt hết, lại có thể sanh khởi các minh vô học.
- Thế nào là ba tướng, nên biết hữu tình thứ ba? Nghĩa là nghe chánh pháp tương ưng với vô ngã, trước hết chỉ do nghe phát sanh tin, hiểu, nhưng chưa ngộ nhập. Hữu tình kia đối với vô ngã sanh tin hiểu, có thể đoạn trừ ngã kiến. Do chưa ngộ nhập nên không được gọi là sanh kiến vô ngã.
Như đã được nghe pháp, lúc lại có thể chánh tư duy, nên đối với lý vô ngã có thể ngộ nhập, nên được gọi là sanh kiến vô ngã, nhưng đối với tùy miên kia chưa có thể đoạn. Từ đấy về sau, do diệu lực của tu đạo, chứng hiện quán đế, mới đoạn tùy miên, phát sanh vô lậu.
Lại nữa, tụng nêu:
Năm hai cùng mười ba
Bốn nghiệp là sau cùng.
Có hai thứ nghiệp:
1. Nghiệp nặng.
2. Nghiệp nhẹ. Lại có hai thứ nghiệp:
1. Nghiệp tăng tiến.
2. Nghiệp không tăng tiến. Lại có hai thứ nghiệp:
1. Nghiệp cố ý suy xét tạo nên.
2. Nghiệp không cố ý suy xét tạo nên. Lại có hai thứ nghiệp:
1. Nghiệp nhất định thọ nhận.
2. Nghiệp không nhất định thọ nhận. Lại có hai thứ nghiệp:
1. Nghiệp của dị thục đã thành thục.
2. Nghiệp của dị thục chưa thành thục. Lại có ba thứ nghiệp:
1. Nghiệp thiện.
2. Nghiệp bất thiện.
3. Nghiệp vô ký. Lại có ba thứ nghiệp:
1. Nghiệp thuận với lạc thọ.
2. Nghiệp thuận với khổ thọ.
3. Nghiệp thuận với thọ không lạc không khổ. Lại có ba thứ nghiệp:
1. Nghiệp thuận hiện pháp thọ.
2. Nghiệp thuận sanh thọ.
3. Nghiệp thuận hậu thọ. Lại có ba thứ nghiệp:
1. Nghiệp học.
2. Nghiệp vô học.
3. Nghiệp phi học phi vô học. Lại có ba thứ nghiệp:
1. Nghiệp do kiến đạo đoạn.
2. Nghiệp do tu đạo đoạn.
3. Nghiệp không đoạn.
Lại có ba thứ nghiệp: Nghĩa là ba thứ nghiệp quanh co, tức thân quanh co v.v…
Lại có ba thứ nghiệp: Nghĩa là ba thứ nghiệp cấu uế, tức thân cấu uế v.v…
Lại có ba thứ nghiệp: Nghĩa là ba thứ nghiệp ô trược, tức thân ô trược v.v…
Lại có ba thứ nghiệp: Nghĩa là ba thứ nghiệp tịnh, tức thân tịnh v.v…
Lại có ba thứ nghiệp: Nghĩa là ba thứ nghiệp im lặng, tức thân im lặng.
Có bốn thứ nghiệp:
1. Nghiệp của dị thục đen đen.
2. Nghiệp của dị thục trắng trắng.
3. Nghiệp của dị thục đen trắng, đen trắng.
4. Nghiệp không đen không trắng, không dị thục, có thể dứt hết các nghiệp.
Nên biết ở đây, do ba nhân duyên khiến nghiệp thành nặng:
1. Do ý lạc.
2. Do gia hạnh.
3. Do ruộng.
- Do ý lạc: Là do chỗ tạo tác của triền mạnh mẽ, nên đối với kẻ đồng pháp thấy rồi hoan hỷ. Đối với phần tùy pháp kia, tùy thuận nhiều nơi tầm tư, tùy thuận nhiều vào dò xét. Như thế gọi là do ý lạc, nên khiến nghiệp thành nặng.
- Do gia hạnh: Là đối với nghiệp kia tạo tác không gián đoạn, tạo các cẩn trọng, tích tập trong thời gian dài. Lại khuyến khích kẻ khác tạo tác. Lại tức đối với nghiệp ấy xưng tán hết lời. Như thế gọi là do gia hạnh nên khiến nghiệp thành nặng.
- Do nơi ruộng: Nghĩa là các hữu tình, đối với người có ân đối với mình, hoặc trụ nơi hành chánh cùng quả của hành chánh, đối với kẻ kia phát khởi hành thiện, hành ác.
Nên biết nghiệp này gọi là nặng. Cùng với đấy trái nhau, được gọi là nhẹ. Nếu nghiệp không phải là sự tạo tác rõ ràng, hoặc tạo tác trong mộng, hoặc do tạo tác vô phú vô ký, hoặc tạo tác không thiện, liền lại hối hận, thâu nhận sự đối trị. Lại, đối với các nghiệp hiện có, hết thảy thanh tịnh tương tục. Như thế đều gọi là nghiệp không tăng tiến. Nên biết, khác với đấy, gọi là nghiệp tăng tiến. Ở đây, nghiệp cố suy xét tạo nên: Nghĩa là, trước hết lường xét rồi, thuận theo tầm tư rồi, tùy thuận dò xét xong, rồi mới tạo tác. Hoặc lại lầm loạn, hoặc không lầm loạn.
Nếu là lầm loạn: Nghĩa là ở nơi xứ khác, suy xét muốn sát hại, hoặc muốn trộm cướp, hoặc muốn biệt ly, hoặc muốn vọng ngữ cùng dối gạt v.v… Suy xét như thế rồi, tức dùng tưởng ấy, nơi xứ riêng tạo thành đầy đủ. Nên biết ở đây, do ý lạc nên gọi là nặng, không do sự nên gọi là nặng.
Không lầm loạn: Nên biết về tướng cùng với đây trái nhau. Nếu khác với nghiệp này, đó tức gọi là nghiệp không cố suy xét tạo nên.
- Nghiệp nhất định thọ nhận: Là nghiệp cố ý suy xét dấy khởi, nặng.
- Nghiệp không nhất định thọ nhận: Là nghiệp cố ý suy xét tạo tác, nhẹ.
- Nghiệp của dị thục đã thành thục: Là dị thục của nghiệp đã cho quả.
- Nghiệp của dị thục chưa thành thục: Là nghiệp cùng với đây trái nhau. Nếu lúc sắp chứng đắc A-la-hán, chỗ tạo tác trước quyết định thọ nghiệp, do quả dị thục hiện tiền, nên có thể bị chướng ngại, không do theo đuổi thân nối tiếp. Vì sao? Vì chỉ do nghiệp kia, sanh chỗ dựa là thân không bình đẳng, nên có thể làm chướng ngại, khiến không thể đắc quả A-la-hán. Nếu không sanh thọ mà có thọ sau, đối với chỗ chứng đắc quả A-la-hán, không thể bị chướng ngại. Nhưng nghiệp kia không phải không là nghiệp nhất định thọ nhận. Vì sao? Vì do, tức dựa vào phiền não kia làm trợ bạn, cùng tức dựa nơi các hành tương tục kia, thiết lập nghiệp ấy là nhất định thọ nhận.
Lại nữa, do hai nhân duyên nên kiến lập nghiệp thiện:
1. Nhận lấy quả yêu thích.
2. Nơi cảnh của đối tượng duyên, nhận biết khắp đúng như thật, cùng với quả kia.
Do hai nhân duyên, nên lập nghiệp bất thiện:
1. Nhận lấy quả không yêu thích.
2. Nơi cảnh của đối tượng duyên, chấp trước tà vạy. Đối với hai thứ hành tướng thiện, bất thiện, không thể ghi nhận, nên lập nghiệp vô ký.
Nghiệp thuận với lạc thọ: Là ba Tĩnh lự 1, 2, 3, hệ thuộc nơi địa, cùng nghiệp thiện hiện có hệ thuộc cõi Dục.
Nghiệp thuận với khổ thọ: Là nghiệp có thể chiêu cảm sanh nơi nẻo ác, là sanh trong Ngạ quỷ hay Bàng sanh.
Nghiệp trước làm nhân, chiêu cảm được lạc thọ, nên biết nghiệp này cũng được gọi là nghiệp thuận lạc thọ.
Nghiệp thuận với thọ không khổ không lạc: Nghĩa là
Tĩnh lự thứ tư, cùng với các nghiệp hiện có của địa trên v.v…
Chỉ trừ nẻo Na-lạc-ca, nơi các xứ còn lại nên biết đều được gọi là thọ nhận khổ lạc lẫn lộn. Tức do lực tăng thượng của nghiệp kia, nên khiến khổ lạc ấy dựa nơi thân trụ, xen lẫn không cùng ngăn ngại.
Nghiệp thuận hiện pháp thọ: Nghĩa là do tướng trạng ý lạc như thế đã tạo các nghiệp. Hoặc do tướng trạng gia hạnh như thế, nghĩa là gia hạnh của sự, hoặc gia hạnh của thân, hoặc gia hạnh của ngữ, đã tạo các nghiệp. Hoặc do tướng trạng ruộng tốt như thế đã tạo các nghiệp, ở trong hiện pháp, dị thục đã thành thục. Như thế gọi là nghiệp thuận hiện pháp thọ.
Nếu nghiệp được tạo, ở trong hiện pháp, dị thục chưa thành thục, nơi đời tiếp theo sẽ sanh dị thục. Như thế gọi là nghiệp thuận sanh thọ. Nếu nghiệp đã tạo, dị thục của hiện pháp và đời tiếp theo chưa thành thục, từ đấy trở về sau, dị thục mới thành thục, nên biết đó gọi là nghiệp thuận hậu thọ.
Nghiệp hữu học: Nghĩa là Thánh đệ tử, nơi mọi thời gian, dựa nơi Giới tăng thượng, dựa nơi Tâm tăng thượng, dựa nơi Huệ tăng thượng, tu học vô lậu, cùng sau đấy đạt được nghiệp hữu lậu thiện, gọi là nghiệp hữu học.
Nghiệp vô học: Nghĩa là ở trong tất cả thân tương tục của A-la-hán, tùy các nghiệp ứng hợp. Các nghiệp còn lại ấy, đó gọi là nghiệp phi học phi vô học.
Nếu phiền não tương ưng do kiến đạo đoạn, hoặc chỗ phát khởi các nghiệp như tư v.v…, tất cả nghiệp ấy có thể đi đến các nẻo ác, thì chúng đều gọi là nghiệp do kiến đạo đoạn.
Nếu phiền não tương ưng do tu đạo đoạn, cùng chỗ phát khởi các nghiệp ấy như tư v.v…, như vậy đều gọi là nghiệp do tu đạo đoạn.
Nghiệp không đoạn: Đó là tất cả nghiệp hữu học, vô học xuất thế gian. Nên biết ở đây do ba thứ tướng, nên các nghiệp do cố ý suy xét tạo nên, tức ở nơi hiện pháp tạo sự tăng trưởng rồi, trở lại đoạn trừ. Những gì là ba tướng? Đó là:
1. Hiện pháp đoạn.
2. Sanh đoạn.
3. Sau đoạn.
- Hiện pháp đoạn: Tức như có một hữu tình, ở trong hiện pháp cố ý suy xét tạo nghiệp, khiến tăng trưởng rồi liền lại chán lìa. Đối với chỗ tạo tác ấy thọ nhận sự chán lìa. Đây là phàm phu chưa được lìa dục, trụ như thế đến mạng chung, nhưng chưa có thể khiến nơi phần vị của đời tiếp theo không tạo nghiệp kia, không thọ nhận dị thục, cũng không thể khiến nơi phần vị sau của đời ấy không có sự việc này, ở trong hiện pháp cũng chưa hoàn toàn có thể khiến không tạo.
- Sanh đoạn: Tức lại có một hữu tình, nhận sự chán lìa rồi, tuy là phàm phu nhưng ở nơi cõi Dục đã được lìa dục, trụ ở đấy đến mạng chung, kẻ kia nơi hiện pháp lại không tạo tác, đối với đời tiếp theo hãy còn không thọ nhận dị thục, huống hồ là lại sanh rồi sẽ có tạo tác, nhưng chưa giải thoát khỏi việc tạo nghiệp cùng nhận dị thục của phần vị sau.
- Sau đoạn: Nghĩa là lại có một hữu tình, tuy là hữu học, nhưng đối với cõi Dục chưa được lìa dục, thọ nhận sự chán lìa xong, đạt được quả Sa-môn đầu tiên, hoặc lại quả thứ hai. Chứng đắc quả rồi, khởi niệm: Phàm chỗ hiện có của ta là do nhiều thô trọng, do nhiều nhiệt não, chỉ nên dứt bỏ, vì đáng chán khinh. Thân tạo tác nghiệp ác, nguyện nơi hiện pháp hết thảy đều nhận. Hoặc ta hiện có thọ nghiệp của hiện pháp, hoặc khổ hoặc vui, cùng với dị thục kia đồng thời thọ nhận. Chớ lại khiến ta sẽ ở nơi phần vị sanh, hoặc nơi phần vị sau, thọ nhận dị thục kia. Chánh tâm phát thệ nguyện như thế rồi, vì đoạn trừ các thứ phiền não, nên lại tu vô lượng, dùng định của phẩm Xa-ma-tha thâu tóm, chánh thức khởi gia hạnh, vì nhằm khiến cho nhân duyên có thể dấy khởi.
Nghiệp kia được dứt trừ rốt ráo, cùng tiến tới lìa dục ái.
Nên biết ở đây, hoặc do ý lạc sân, hoặc do ý lạc hại, hoặc do ganh ghét, hoặc do sự việc đáng yêu thích nên sanh nhiễm chấp sâu xa, do đấy làm nhân, nên đối với các hữu tình phát khởi hành tà, tức là thân ngữ ý phát khởi nghiệp ác cùng vô số việc ác. Nếu có hữu tình vì nhằm đối trị bốn thứ nhân duyên có thể dấy khởi nghiệp ác, nên tu bốn vô lượng nơi Tam-ma-địa thù thắng. Hữu tình kia, cho đến đối với hàng nam nữ nhỏ tuổi, không nơi nào là không thâu nhận. Vừa lại phát khởi suy nghĩ tạo nghiệp ác, thế nên người kia tu gia hạnh như vậy, có thể dứt trừ hết nhân duyên của nghiệp ác hiện có. Nên biết tu tập gia hạnh đúng đắn như thế, do hai nhân duyên, nên đối với chỗ tạo tác cùng tăng trưởng tất cả nghiệp ác đều có thể dứt bỏ. Tức là do tu tập vô lượng định. Vì sao? Vì nghiệp ác được tạo tác chỉ đối với cảnh giới của hữu tình hữu lượng, ý lạc được dấy khởi là muốn không tạo lợi ích. Việc tu tập vô lượng chính là đối với cảnh giới của hữu tình vô lượng, ý lạc được phát khởi là nhằm tạo lợi ích. Lại, tâm có thể phát khởi nghiệp bất thiện thuộc về cảnh giới thấp kém, là đối tượng được đối trị. Do tâm cùng hành với sự tu tập vô lượng, thuộc về cảnh giới thắng diệu, là chủ thể đối trị.
Lại, tâm là thù thắng, đối với các nghiệp được tạo đều thuộc nơi tâm, nên nói thế gian đều là sự nối tiếp đời đời của tâm, đều dựa nơi tâm chuyển. Hành giả như thế, trước phát chánh nguyện làm chỗ nương dựa, sau khéo tu tập định tâm vô lượng, nên lúc tiến đến việc lìa dục ái, liền có thể đạt được an trụ nơi quả Bất hoàn.
Nếu chỉ ở nơi quả ấy liền sanh biết đủ, ở trong hiện pháp không cầu tiến lên trên, thì trong hiện pháp kia hãy còn không tạo nghiệp, huống là nơi phần vị sanh, hoặc nơi phần vị sau. Lại, nhất định không thể sẽ thọ nhận dị thục của phần vị sanh, phần vị sau.
Lại, ngoài Chánh pháp, thì những kẻ rơi vào tà kiến, những kẻ hành tà đạo, với tất cả nghiệp thiện bất thiện hiện có đã khởi tà kiến, do sức tăng thượng của tà kiến sanh khởi, đều gọi là nghiệp quanh co, nghiệp tà vạy.
Các nghiệp do tham sân mãnh liệt dấy khởi đều gọi là nghiệp cấu uế. Kẻ si mãnh liệt, kẻ quên mất niệm thuộc độn căn phẩm thượng, kẻ hết sức ám độn, tức nghiệp do si khởi đều là nghiệp ô trược.
Hết thảy hành diệu có thể đi đến nẻo thiện đều gọi là nghiệp tịnh.
Hết thảy hành diệu có thể đi đến Niết-bàn, gọi là nghiệp im lặng.
Lại nữa, nghiệp ác có thể chiêu cảm nơi chốn Nalạc-ca đều khác biệt, gọi là nghiệp của dị thục đen đen. Nghiệp thiện có thể chiêu cảm nơi chốn là cõi Trời đều khác biệt, gọi là nghiệp của dị thục trắng trắng. Các nghiệp hiện có có thể chiêu cảm nơi chốn khác, gọi là nghiệp của dị thục đen trắng đen trắng.
Nơi xứ sở ấy, có hai nghiệp quả hiện tiền có thể đạt được, thế nên nói chung dùng làm một nghiệp. Nếu là các nghiệp vô lậu xuất thế gian thì đều gọi là nghiệp không bị dị thục không đen không trắng, có thể dứt trừ hết các nghiệp. Nếu đã dứt hết các nghiệp, hoặc sẽ dứt hết các nghiệp, hai thứ được gọi chung là có thể dứt trừ hết các nghiệp, khiến kẻ chưa sanh sẽ không sanh, khiến người đã sanh rồi thì được lìa mọi trói buộc, do căn cứ nơi dị thục của nhân quả khả ái.
Nói không trắng, nên biết xứ sở đều khác biệt nơi nẻo Trời hoàn toàn là trắng: Nghĩa là vượt quá cõi Trời Tha hóa tự tại, vẫn trong cõi Dục, có "kinh đô" của Ma vương với cung điện của chúng Ma, cùng cõi Trời Phạm thế ở trên, cho đến nghiệp thiện hiện có của xứ Phi tưởng phi phi tưởng, gọi chung làm một. Do nơi chốn kia, mắt có thể thấy sắc, cho đến ý nhận biết pháp. Hoàn toàn là khả ái tiếp nối, là nghĩa thù thắng tăng thượng, nên môn ý dẫn phát ý thành nghiệp. Xứ sở Na-lạc-ca đều khác biệt có bốn:
1. Na-lạc-ca lớn.
2. Na-lạc-ca riêng.
3. Na-lạc-ca lạnh.
4. Na-lạc-ca biên.
Nơi xứ sở này, đều riêng thọ nhận thuần thuận theo lạc thọ nơi dị thục của các quả, nghiệp, hoặc đều riêng thọ nhận thuần thuận theo khổ thọ nơi dị thục của các quả nghiệp. Do đó gọi là xứ sở đều riêng.
Lại, hai Tĩnh lự 1 và 2, đối với cung Ma đều thọ nhận thuận vui thích. Nếu ở nơi Tĩnh lự thứ ba trở lên là thọ nhận thuần hỷ lạc.
Nói hỷ lạc: Tức khiến tâm điều hòa, dịu dàng, khiến tâm an vui thích hợp. Cùng tương tợ với hỷ, nên gọi là hỷ, không phải là hỷ thọ. Cùng với lạc tương tợ, nên gọi là lạc, không phải là lạc thọ.
Sáu môn xúc xứ luôn được lãnh nhận, nên biết tức gọi là sáu xúc xứ, cùng với nơi chốn đều riêng, là nghĩa của đạo lý nhân quả cùng tùy thuộc.
Lại nữa, tụng nêu:
Không trí, trí cùng tịnh
Thù thắng, chứng nơi học
Chấp vô ngã, Thánh đạo
Hai biển không đồng phận.
Hoặc các tà kiến, hoặc các ngã kiến, hoặc tức là vô minh, dựa vào chỗ đã nêu ở trước về ba chúng hữu tình không trí làm gốc, nên được sanh khởi. Nếu có thể đoạn trừ gốc rễ vô nghĩa ấy, vì nơi hết thảy chúng, nó có thể dấy khởi tất cả tạp nhiễm nơi một pháp. Nên biết có thể ghi nhận lý giải một cách đúng đắn. Ở đây, tạp nhiễm thứ nhất được dấy khởi là tổn giảm sự thật. Tạp nhiễm thứ hai là tăng ích sự hư. Tạp nhiễm thứ ba, đối với nẻo như thật kia hiển bày rõ về phương tiện, có thể tạo ngu si. Do đối với hai nhân kia có ngu si, nên khởi tăng ích hoặc khởi tổn giảm.
Lại nữa, có hai thứ trí như thật:
1. Do tác ý như lý phát khởi.
2. Do Tam-ma-địa phát khởi.
Nên biết ở đây, tác ý do Văn, Tư đúng đắn tạo thành, với lực tăng thượng của việc lắng nghe Chánh pháp, nên đối với sự chuyển biến, sanh khởi lỗi lầm tai họa của năm thứ phần vị thọ, đều nhận biết đúng như thật.
Lại, tức đối với sự chuyển biến của phần vị ấy, tư duy như lý, gọi là chánh trí như thật của địa chẳng định. Đây là chỗ nương dựa để có thể tùy nhập tu tập.
Thế nào gọi là phần vị chuyển biến dấy khởi lỗi lầm tai họa? Nghĩa là các tánh vô thường của phần vị khổ, lạc. Trong phần vị khổ có tánh của tự tánh khổ. Nơi phần vị lạc, có tánh của pháp biến hoại.
Thế nào gọi là phần vị chuyển biến? Nghĩa là phần vị lạc cùng với phần vị khổ có tánh dị biệt. Như thế, nên biết, tất cả phần vị lần lượt đều dị biệt, và nơi dị biệt ấy đều quán thấy đúng như thật. Ở nơi phần vị ấy, trụ vào tưởng vô thường, quán thấy đúng như thật về lỗi lầm tai họa dị biệt.
Nhận biết thọ hiện có đều là khổ rồi, trụ nơi tưởng khổ, có tưởng như thế, có kiến như thế, đều có thể chứng đắc thanh tịnh. Thế nên cũng được gọi là trí như thật.
Trí như thật dựa vào định phát khởi: Tức là dựa vào hành tướng kia lúc chuyển biến thuộc về khinh an, thanh tịnh không nhiễu loạn, tịch tĩnh mà chuyển. Nên biết hành này cùng với trước có sai biệt.
Lại, tánh vô thường là cộng tướng của tất cả hành. Tánh khổ là cộng tướng của tất cả pháp hữu lậu. Hai trí như thật là chỗ dựa nương. Nên biết có thể hiển bày rõ đúng như thật về hai tướng của pháp kia.
Lại nữa, người trụ nơi nội pháp chưa được tâm định, hãy còn sai biệt so với tâm định của ngoại đạo, do trí hơn hẳn, huống hồ là được tâm định. Vì sao? Vì các ngoại đạo kia tuy được tâm định, cho đến chứng đắc định Phi tưởng phi phi tưởng hết sức lâu xa, nhưng vẫn chưa có thể ở nơi sáu xúc xứ, do năm chuyển biến kia nhận biết rõ như thật, chứng đắc giải thoát. Do đó, pháp định kia so với chánh Pháp-Luật này, cũng như mặt đất với hư không, cách nhau hết sức xa.
Người trụ nơi nội pháp, tuy chưa được định, chỉ do tin nghe thắng giải về vô ngã, liền có thể chứng đắc tâm Tam-ma-địa, đối với sáu xúc xứ có thể đoạn trừ, có thể nhận biết, tâm được lìa dục, cùng chứng giải thoát. Do đấy nên biết đối với chánh Pháp-Luật, ngoại đạo kia có hoại mất, còn người trụ nơi nội pháp thì không hoại mất. Chính là thắng giải chân chánh, lúc nối tiếp chuyển, đối với sáu cảnh giới nương dựa nơi sáu căn, lược có năm thứ hành diệu tịch tĩnh:
1. Đối với các pháp kia thấy rõ lỗi lầm tai họa, nên gọi là khéo điều phục.
2. Đối với các cảnh giới không nên bày biện, tức không bày biện, nên gọi là khéo xét kỹ.
3. Ở trong các cảnh giới nên sắp đặt, bày biện, hoặc ở trên cảnh đột nhiên hiện tiền, khéo trụ niệm, nên gọi là khéo giữ lấy.
4. Tất cả phiền não đều có thể đoạn trừ, nên gọi là khéo bảo hộ.
5. Đã khéo tu tập đạo viên mãn, nên gọi là khéo tu tập.
Lại nữa, ở nơi hai xứ sở, Như lai chứng đắc trí an lập thù thắng, có thể nêu bày, làm rõ đúng đắn, vượt các thứ khổ, lạc, không phải là không chứng đắc trí an lập thù thắng. Trong đó, nếu có kẻ tạo sự lãnh hội như vầy: Đại Sa-môn này là thuộc chủng tộc Kiều-đáp-ma, không biết không hiểu, đối với các thứ hoàn toàn an lạc của thế gian, vì khiến các đệ tử cho an lạc này xen lẫn với các khổ, nên sanh sợ hãi sâu xa, vì nhằm vượt quá khổ lạc lẫn lộn do dựa cậy vào các thế gian, vì nhằm vượt khỏi các khổ lạc, nên tuyên thuyết pháp yếu. Nên biết lãnh hội ấy là tướng tà vạy, là phân biệt sai lạc, là tà kiến lớn. Nhưng Đức Như lai đã khéo nhận biết về thế gian hoặc hoàn toàn là lạc, hoặc hoàn toàn là khổ, hoặc khổ lạc lẫn lộn, nhưng tất cả đều là vô thường. Thế nên, vì khiến cho các chúng đệ tử vượt quá tất cả thế gian vô thường, vượt quá khổ lạc, nên thuyết giảng Chánh pháp thiết yếu.
Do ba thứ tướng, nên nhận biết rõ, đúng về các sự hợp ý. Nghĩa là các sự khả ái của đời vị lai, gọi là đối tượng được truy cầu. Hoặc các sự khả ái của đời quá khứ, gọi là đối tượng được tầm tư. Hoặc cảnh giới bên ngoài đáng yêu thích của đời hiện tại, gọi là đối tượng được thọ dụng. Nếu là nội thọ khả ái của đời hiện tại, thì gọi là tham đắm, vướng mắc. Nên biết ở đây, gắn chặt với ba đời, có bốn hành tướng: Một đối với vị lai. Một đối với quá khứ. Hai đối với hiện tại.
Nơi hành tướng này có thể tùy thuận ngộ nhập, là tướng hợp ý, tướng vui thích của ý, tướng của sắc khả ái, tướng của sắc bình an, như chỗ ứng hợp nên biết. Tức là bốn thứ hành tướng: Đáng mừng, đáng vui, đáng yêu, hợp ý.
Lại nữa, người siêng năng tu định, lược do hai môn, hai thời, hai địa, với các mong muốn hiện có. Ở chỗ dẫn phát ba thứ đẳng trì, có thể gây tạo chướng ngại. Vì nhằm đoạn trừ chướng ngại như thế, nên siêng năng tu tập đúng đắn năm thứ đối trị. Tức biết ở đây, trước tiên là chỗ thọ dụng các dục quá khứ, nơi xứ xa lìa, do môn tầm tư khiến tâm phóng dật.
Lại có cư gia hiện tại với các thứ lợi dưỡng, cung kính hiện có cùng hành với các dục, do môn tầm tư khiến tâm tán loạn. Ở đây, lợi dưỡng, cung kính cùng hành với các dục hiện có, vào lúc hành trì khiến tâm phóng dật. Cư gia thọ dụng các dục trước tiên, vào lúc an trụ khiến tâm tán loạn. Tức các dục này đối với các địa phàm phu có thể gây chướng ngại, đối nơi địa hữu học cũng tạo chướng ngại.
Lại, đối với việc tu tập vô lượng cùng hành với đẳng trì của các phàm phu, có thể gây chướng ngại. Cũng đối nơi hàng hữu học, tu tập đẳng trì rộng lớn hay khéo thông đạt về sự của Nhất thiết trí, có thể tạo chướng ngại. Cũng đối với hàng vô học hết sức khéo tu tập đẳng trì cứu cánh, có thể gây chướng ngại. Nên biết, các chỗ sanh khởi hết thảy đẳng trì như thế, đều cùng hành với hỷ. Ở đây, thứ nhất là ở trong môn ý lạc tạo lợi ích an lạc cho các hữu tình, cùng hành với hỷ. Thứ hai là hàng hữu học lãnh nhận hỷ giải thoát, nên cùng hành với hỷ. Thứ ba là hàng vô học lãnh nhận hỷ giải thoát, nên cùng hành với hỷ.
Hành giả kia, do sự nhận thức như mắt v.v… nơi đối tượng duyên như sắc v.v… là riêng biệt, nên lại có sáu thứ.
Lại, đẳng trì này gồm đủ các tướng, nên gọi là viên mãn.
Lại, đẳng trì này là biên vực rốt ráo, nghĩa là có thể đi đến thế gian lìa dục, hoặc có thể đi đến nẻo xuất thế lìa dục. Vượt quá giới hạn ấy thì không thể hướng tới đẳng trì thanh tịnh có thể đạt được. Thế nên gọi đấy là không có khuyết giảm.
Hoặc muốn mau chóng chứng đắc quả Sa-môn, đối với thân mạng v.v… không hề luyến tiếc, thường xuyên cẩn trọng gia hạnh không gián đoạn, tinh tấn mãnh liệt, ở trong các dục nhận biết rõ về tự tướng, giữ vững chánh niệm, nhận biết rõ về lỗi lầm tai họa, không trông mong v.v… Chánh tri hiện tiền, chánh niệm, chánh tri làm chỗ nương dựa, tạo phương tiện siêng tu bốn thứ không phóng dật. Nghĩa là nơi phần ngày, hoặc đi hoặc ngồi, đối với các pháp chướng ngại, tu tịnh nơi tâm, cho đến nói rộng. Phát khởi tinh tấn dũng mãnh như vậy, đối với đối tượng chứng đắc không hề khiếp nhược. Do chín thứ tướng nên tâm được an trụ. Hoàn toàn tu tập định Xama-tha, thân được khinh an, không có ái vị, nên không có nhiễm ô, không bị hai thứ tùy phiền não là hôn trầm và thùy miên nhiễu loạn. Toàn bộ niệm trụ là chỗ nương dựa, siêng năng tinh tấn tu tập Tỳ-bát-xá-na, giữ vững chánh niệm, xa lìa tùy phiền não trạo cử, nên không có ngu si. Đã nhập nơi đạo cả hai cùng vận hành của Chỉ, Quán, tâm được chánh định. Tức hai phần ấy là tùy hành một cảnh, vì đoạn trừ chướng ấy, nên tu tập năm thứ đối trị như thế làm chỗ dựa, nên có thể đối với chướng kia, nhận biết khắp cùng đoạn trừ vĩnh viễn. Nơi ba đẳng trì, dựa nơi sáu cảnh sự với sai biệt hiện có, hỷ cùng hành có thể dẫn đến định viên mãn. Do hai nhân duyên nên chư Phật Thế Tôn, vì các đệ tử, tuyên thuyết pháp, tự mình có thể phát khởi, dẫn dắt:
1. Đối với những lỗi lầm hiện có của phẩm đen, khiến sanh hiểu rõ.
2. Đối với những công đức hiện có của phẩm trắng, khiến sanh hiểu biết.
Lại nữa, ở trong Chánh pháp Tỳ-nại-da này, lược có hai thứ hữu tình:
1. Đã được ý.
2. Chưa được ý.
Đã được ý lại có hai loại:
1. Đã thấy đế, đã được tâm hữu học, ý giải thoát.
2. A-la-hán đã được tâm vô học, ý giải thoát.
Chưa được ý: Là hàng phàm phu đối với ba học, bắt đầu sự việc tu tập hữu học, họ hoàn toàn chưa được tất cả hai thứ tâm ý giải thoát, thế nên mong cầu sau thể phàm phu là cảnh diệt Hữu dư y, và sau tự thể là giới Niết-bàn của diệt Vô dư y, lúc ấy, ở trong ba học, tu nhiều học trụ. Nếu các bậc vô học, tuy đã chứng đắc tâm ý giải thoát, nhưng hoặc bị mất niệm, khi hành phóng dật liền có thối thất nơi hiện pháp lạc trụ. Các vị kia, tuy đối với hiện pháp lạc trụ, hoặc thối chuyển không thối chuyển, nhưng không gắng sức nên thối thất giải thoát.
Nếu có người tu hành không phóng dật, thì tất cả đều vì chứng đắc giải thoát. Nhưng đã chứng đắc giải thoát không thối chuyển, thì tu không phóng dật lại có công dụng gì? Nếu vì chứng đắc hiện pháp lạc trụ, siêng tạo công dụng, như tạo tác công nghiệp, không phải là không phóng dật.
Nếu các hàng hữu học, trước đã chứng đắc tâm ý giải thoát, các vị ấy cũng quyết định hướng đến ba Bồ đề. Nơi chỗ tu đạo, không do duyên khác, tự nhiên có thể tu hành không phóng dật, ở trong hiện pháp vẫn chưa dứt trừ phóng dật rốt ráo. Nếu có tất cả hữu tình chưa được ý, thì họ nên quyết định tu không phóng dật. Lại do ba tướng làm rõ chỗ nên tạo tác:
1. Do các căn được tập thành, nên tư lương viên mãn.
2. Do quen gần thuận theo các ngọa cụ như pháp, nên tâm được an trụ.
3. Do nương dựa, gần gũi nơi bậc Thiện sĩ, nghe phạm âm của kẻ khác, tác ý như lý nơi các nhân duyên, cho đến đạt được hai tâm giải thoát.
Lại, tức ở đây nên không phóng dật, lúc tạo tác chuyển biến, do hai thứ tướng nên biết, đối với sáu xứ tịch diệt kia, có tăng thượng mạn, không có tăng thượng mạn. Nghĩa là, ở nơi chưa diệt, khởi phân biệt tà vạy, vọng chấp là diệt. Do đối tượng duyên, nên ở nơi chưa đạt được, khởi phân biệt tà vạy, vọng chấp là đạt được.
Kẻ kia, tuy khởi phân biệt sai lạc như thế. Tức là giải thoát của diệt, nhưng chưa thể khiến thân hoại trở về sau, thọ mạng vĩnh viễn dứt hết. Sáu xứ vĩnh viễn diệt cũng không thể lìa tưởng của các cảnh giới.
Lại, kẻ kia do đối với sáu xứ tịch diệt, hoặc duyên hoặc chứng lãnh nhận tà vạy, nên có sự như thế. Hai thứ tướng ấy, nên biết gọi là có tăng thượng mạn. Cùng với đây trái nhau, nên biết gọi là không có tăng thượng mạn. Lại nữa, trụ nơi nội pháp, đối với hai thứ chấp trước, phải nên nhận biết rõ về hai thứ lỗi lầm tai họa. Nghĩa là các phàm phu, đối với hai duyên thức cùng có thể nương nhận, không thể nhận biết rõ về tánh vô ngã.
Người chưa lìa dục, đối với nghiệp duyên tăng thượng của lợi dưỡng, sự cung kính, đã khởi các thọ, có chấp trước thứ nhất.
Người đã lìa dục, đối với việc lìa duyên của các dục, đã khởi các thọ, có chấp trước thứ hai. Chấp trước này làm nhân sanh khởi vị lai, nên gọi là sanh.
Lại, các ngoại đạo, do chấp giữ nên sanh các thứ trói buộc. Do trói buộc sanh, nên có thể sanh tất cả pháp ác bất thiện. Nên biết, đó gọi là lỗi lầm tai họa thứ nhất.
Lại, do sức tăng thượng của chấp trước ấy, nên đối với Chánh pháp Tỳ-nại-da bị mai một, cùng các khổ như sanh v.v… của đời vị lai, sai biệt mà sanh. Ở trong hiện pháp, do sức tăng thượng ấy làm duyên, nên không Bát Niết-bàn. Nên biết, đó gọi là lỗi lầm tai họa thứ hai. Cùng với đấy trái nhau, nên biết tức là phẩm trắng sai biệt.
Lại nữa, do bốn nhân duyên, nên đối với pháp vô ngã, có thể đạt đến cứu cánh. Nghĩa là, tất cả pháp đều là vô ngã, trừ tự tánh của thức, các nhân duyên của thức, các trợ bạn của thức, ngoài ra, các thứ hiện có đều không thể đạt được.
Lại, tự tánh của thức là vô thường. Lại, nhân duyên ấy là vô thường. Lại, trợ bạn ấy là vô thường.
Lại nữa, do pháp của tám chi Thánh đạo cùng quả của pháp ấy nên hiển phát Chánh pháp và Tỳ-nại-da. Do năm thứ tướng nên biết pháp của tám chi Thánh đạo là tối thắng, không tội. Nghĩa là, đối với phiền não có không của hiện pháp, khéo phân biệt, nên gọi là hiện thấy. Có thể khiến cho phiền não được lìa trói buộc, nên gọi là không bùng cháy. Hoặc đi hoặc đứng, hoặc ngồi hoặc nằm, trong tất cả thời đều có thể tu tập, dễ tu tập nên gọi là hợp thời. Dẫn dắt đến Niết-bàn, nên gọi là dẫn đạo. Không chung với tất cả các ngoại đạo, nên gọi là Chỉ. Kiến ấy xa lìa hành tướng vui thích tin theo kẻ khác, tầm tư đủ khắp, tùy theo nghe, lãnh hội dấy khởi kiến, xét kỹ nhẫn chỉ là tự thế, nên gọi là chỗ chứng đắc bên trong. Pháp của đạo quả này cũng có năm tướng, nên biết, như nơi phần Nhiếp dị môn ở trước đã phân biệt về tướng.
Lại nữa, biển có hai loại:
1. Biển nước.
2. Biển sanh tử.
Do ba thứ tưởng, nên biết biển nước, cùng với biển sanh tử, không đồng phận. Những gì là ba tướng?
1. Tự tánh không đồng phận.
2. Chìm đắm không đồng phận.
3. Vượt qua không đồng phận.
Ở đây, tự tánh không đồng phận: Nghĩa là biển nước lớn, dùng một phần sắc làm tự tánh, nên có biên giới, là có lượng. Biển sanh tử lớn, dùng tất cả hành làm tự tánh, nên không có biên giới, là vô lượng. Chìm đắm không đồng phận: Nghĩa là, hoặc chìm đắm hiện có, hoặc do sự chìm đắm này, hoặc chìm đắm như thế, đều không đồng phận. Tức nơi biển nước lớn, hoặc loài Bàng sanh hướng đến, hoặc có người hướng tới, chìm đắm trong đó.
Biển sanh tử lớn, chư Thiên, thế gian cũng thường chìm đắm.
Lại, biển nước lớn, chỉ do thân nên bị chìm đắm trong đó. Không do ngữ, không do ý, không do tham, không do sân, không do si. Không do các pháp khổ như sanh v.v… chìm đắm trong đó.
Ở đây, tuyên thuyết về các nghiệp, phiền não, ba phần của quả kia như thứ lớp ấy, nên biết về tướng của chúng.
Biển sanh tử lớn, cũng do thân, cho đến cũng do các khổ như sanh v.v… nên chìm đắm trong ấy.
Các người xuất gia, do vọng tầm tư, do vọng quan sát, do tự ấy khởi các thứ phân biệt tà vạy, phát khởi vô số tầm tư bất chánh khiến tâm nhiễu loạn, nên nơi biển sanh tử thường xuyên chìm đắm.
Lại, các ngoại đạo khác, luôn bị các phiền não trói buộc, nên đối với biển sanh tử luôn bị chìm đắm.
Các người tại gia thường xuyên bị các khổ bức bách không gián đoạn, luôn bị phiền não thiêu đốt mà không thể chán lìa, nên gọi là chìm đắm. Ngoài ra, đều dựa nơi phiền não của các nghiệp, nên đối với các xứ sanh tới lui không dứt, tức gọi là chìm đắm.
Về biển nước lớn, chỉ rơi vào trong ấy, tạm thời suy tổn. Hoặc nẻo Bàng sanh, do sức mạnh nơi một phần phiền não, nghiệp, nên sanh trong đó, tạm thời chìm đắm mà không phải cứu cánh. Nên biết, đó gọi là chìm đắm không đồng phận.
Vượt qua không đồng phận: Nghĩa là nơi biển nước lớn, các loài phàm phu chưa lìa dục tham hãy còn có thể vượt qua, huống chi là các loài khác.
Biển sanh tử lớn, kiến lập ba phần:
1. Hạng chưa lìa dục: Do năm cảnh khả ái nên có sai biệt.
2. Hạng đã lìa dục: Do cảnh của các pháp khả ái được ý nhận biết, nên có sai biệt.
3. Hàng hữu học: Do sáu xứ bên trong nên có sai biệt.
Về các loài phàm phu chưa lìa dục, đối với năm cảnh giới khả ái nơi biển lớn chưa có thể vượt qua.
Các loài phàm phu đã lìa dục: Đối với sáu xứ bên trong đều có sai biệt nơi biển lớn chưa có thể vượt qua.
Do các hữu tình kia đối với biển lớn này chưa có thể vượt qua, nên đối với hai thứ cảnh giới trước nơi biển lớn cũng chưa vượt qua.
Về hàng hữu học: Đối khắp sáu xứ đều nhận biết rõ là khổ, tức nơi đối tượng duyên tu tập chánh đạo. Chư vị ấy do an trụ nơi trụ như thế, nên đối với hai thứ cảnh giới của địa chưa lìa dục, đã lìa dục, theo tâm ý hiện có nơi cảnh tướng của đối tượng duyên, đều hiện tiền sáng rõ.
Lại, do tác ý quan sát mạnh mẽ, nên ở nơi các chỗ đã thấy từ trước v.v… đều tùy thuận nhớ nghĩ. Do nhân duyên ấy nên đối với các pháp kia, mau chóng dùng huệ thông đạt, cũng có thể trừ bỏ hẳn.
Lại, chư vị ấy đối với biển lớn của sáu xứ kia, có thể mau chóng vượt qua. Có thể vượt qua, nên đối với biển lớn của hai thứ cảnh giới trước đều vượt qua rốt ráo, cùng có thể vượt qua các thứ phiền não:
Có thể phát khởi sự dứt bỏ pháp đã học. Có thể phát khởi tầm tư loạn tâm.
Có thể phát khởi sự tham đắm, chấp trước nơi lợi dưỡng, sự cung kính của thế gian.
Có thể phát khởi tất cả hành ác. Tụng nêu:
Đạo sư không đồng phận
Vương quốc hai thế gian
Hữu vi ngăn thân hành
Chấp chặt ba tánh không.
Lược có hai thứ đạo không đồng phận:
1. Tự tánh không đồng phận.
2. Hành tướng không đồng phận.
Nếu hành hướng đến Khổ Tập, hoặc hành hướng tới Khổ Diệt, đó gọi là tự tánh không đồng phận. Nên biết loại thứ nhất có thể hướng tới tạp nhiễm, loại thứ hai có thể hướng tới thanh tịnh. Ở đây, đó gọi là nghĩa không đồng phận. Tức hành hướng đến diệt ấy, hoặc có hữu vi là hành chuyển của cộng tướng. Hoặc có hữu vi, vô vi là hành chuyển của cộng tướng. Đó gọi là hành tướng không đồng phận.
Nên biết ở đây, nếu các hữu vi là hành tướng của cộng tướng thì chúng đối chiếu với đạo quả gọi là không đồng phận. Nếu hữu vi, vô vi là hành tướng của cộng tướng, thì chúng đối chiếu với đạo quả cũng gọi là đồng phận. Vì sao? Vì đạo quả Niết-bàn là thường vô ngã.
Lại nữa, ở trong Chánh pháp, lược có năm thứ sư, giả lập câu. Các sư của ngoại đạo trong chỗ tạo luận đều không thể đạt được. Nghĩa là hành hướng tới các thủ. Hành hướng tới các thủ dứt hết. Hoặc tất cả pháp đều nhận biết khắp, vĩnh viễn đoạn trừ, tạo biên vực của khổ. Nếu đối với năm tướng thọ nhận xứ kiến lập, thì trong mỗi mỗi tướng, không nương nơi bốn tướng Tát-ca-dakiến. Dùng chúng làm chỗ dựa, có thể loại trừ kiêu mạn của bốn thứ hành tướng. Nếu mạn làm nhân thì có ba lỗi lầm tai họa. Lìa mạn làm nhân thì có ba thắng lợi.
Nên biết ở đây, kẻ ôm giữ kiêu mạn, thì đối với cảnh giới Niết-bàn, tâm sẽ thối chuyển, do sợ hãi. Đó gọi là lỗi lầm tai họa thứ nhất.
Ở trong các hành ác thường luôn hiện hành, cùng đối với các sự tạp nhiễm đáng yêu thích, tâm lại hướng nhập. Đó gọi là lỗi lầm tai họa thứ hai.
Đối với cảnh giới Niết-bàn sanh sợ hãi sâu xa, với sức tăng thượng ấy nên liền có thể sanh khởi trọng bệnh sanh tử như sanh v.v… ở vị lai. Như do sức tăng thượng của sợ hãi, như vậy, cũng do sức tăng thượng đối với các hành ác, cùng sức tăng thượng của các sự tạp nhiễm đáng yêu thích, khiến tâm hướng nhập, nên có thể sanh khởi trọng bệnh sanh tử như sanh v.v… ở vị lai. Như các trọng bệnh như sanh v.v…, xứ ung nhọt như mắt v.v…, mũi tên độc như tham v.v…, nên biết cũng thế. Đó gọi là lỗi lầm tai họa thứ ba. Cùng với đấy trái nhau, nên biết tức là ba thứ thắng lợi của lìa mạn làm nhân.
Nếu theo sức tăng thượng của duyên khởi, ở trong hiện pháp, chủng tử của hữu sau hoặc tăng hoặc giảm, do đấy làm nhân, nên hữu sau của vị lai hoặc sanh hoặc không sanh. Do có thể thâu nhận chủng tử phiền não, hoặc có tập khởi, hoặc diệt mất, nên tất cả giáo pháp hiện có của thế gian cùng xuất thế gian, đều kiến lập đúng như thật. Chỉ ở nơi nội pháp có đại sư ấy, vì các đệ tử, đã tuyên thuyết đúng đắn về câu giả lập sư, có thể đạt được chân thật, không phải là các ngoại đạo.
Lại nữa, ở trong cõi Dục, với các khí thế gian nên biết ví như vương quốc của vua. Hữu tình thế gian ví như thần dân. Thiên ma ác kia ví như chủ vua.
Lại nữa, có hai thế gian:
1. Hữu tình thế gian.
2. Khí thế gian.
Về khí thế gian thì bị tai họa về lửa v.v… hoại diệt. Còn hữu tình thế gian thì trong từng sát na nơi nội thân hoại diệt.
Lại nữa, Không có hai thứ:
1. Hữu vi.
2. Vô vi.
Ở đây, Không hữu vi là pháp không thường hằng, không an trụ lâu, là pháp biến đổi cùng ngã, ngã sở.
Nếu các vô vi chỉ là không, thì không có ngã cùng ngã sở.
Lại, tánh của Không này lìa các nhân duyên, thuộc về pháp tánh, đạo lý pháp nhĩ làm nơi chốn nương dựa. Ở đây hoặc như thế, hoặc khác, hoặc không. Khắp tất cả xứ, không đâu là không đồng quy nơi đạo lý pháp nhĩ.
Lại nữa, Như lai không ngăn chặn việc có thể đạt được biên vực của tất cả thế gian, chỉ ngăn chặn thân hành theo đấy đi đến, có thể đạt được biên vực của thế gian.
Ở đây, nên dựa nơi đạo lý của Thắng nghĩa, nên biết thế gian. Nếu tạo phương tiện đạt được biên vực của thế gian, cùng biên vực của đời, tức ở nơi phương xứ có tưởng thế gian, do sức tăng thượng của giả danh, nêu đặt. Nghĩa là do sức tăng thượng của hoặc trí, hoặc tưởng, nên nói có thế gian. Do sức tăng thượng của hoặc tưởng hoặc trí, nên đối với các thế gian khởi rộng về ngôn thuyết. Do sức tăng thượng của hoặc thấy nghe, hoặc hiểu biết, nên đối với sáu xúc xứ, do năm chuyển kia, khởi trí như thật, gọi là tạo phương tiện đạt được biên vực của thế gian. Nhân của các hành vị lai vĩnh viễn dứt hết, nên gọi là có thể đạt đến biên vực của thế gian. Nơi nhân quả của đời đều nhận biết như thật, nên gọi là thế gian giải. Có thể nhận giữ đúng đắn về thân sau cùng, nên gọi là khéo vận hành nơi biên vực của thế gian.
Ở trong hiện pháp, hết thảy cảnh giới tham ái đều vĩnh viễn dứt hết, nên gồm đủ hằng trụ, gọi là có thể vượt khỏi ái của thế gian. Do các hành tướng được nêu bày như thế, nên biết gọi là đạt được biên vực của thế gian.
Lại nữa trong Pháp Tỳ-nại-da không khéo thuyết giảng, các vị xuất gia, theo đấy có một vị ác, bất thiện, chưa sanh tầm tư, lúc sanh thì hoàn toàn có thể tạo chướng ngại cho phạm hạnh. Như kẻ kia sanh rồi thì chấp chặt không bỏ. Ở đây, không hành là thù thắng hơn hết. Nếu như có hành thì không nên chấp giữ chặt, ở trong sự nối tiếp, không nên tạo chốn cư trú, nương dựa. Vì sao? Vì sát na tạp nhiễm không thể làm nghiêng động chỗ tu phạm hạnh, nhưng chính nơi sự tương tục có thể làm nghiêng động.
Lại nữa, nên biết lược có hai thứ Không trụ:
1. Không trụ tôn thắng.
2. Không trụ dẫn khởi.
Các vị A-la-hán quán trụ vô ngã, như thế gọi là Không trụ tôn thắng. Do "pháp nhĩ" tôn thắng của A-lahán, quán trụ vô ngã, ở trong các trụ là tôn thắng hơn hết. Như vậy, hoặc chỗ trụ tôn thắng, hoặc tức trụ tôn thắng, do nhân duyên ấy, nên gọi là Không trụ tôn thắng. Không trụ dẫn khởi: Nghĩa là như có một hữu tình, hoặc hành hoặc trụ, đều nhận biết rõ như thật về phiền não có không. Nhận biết có phiền não, liền tu hành đoạn trừ. Biết không có phiền não, liền sanh hoan hỷ. Do sanh hoan hỷ, cho đến khiến tâm chứng đắc Tam-ma-địa. Vì tâm chứng đắc Tam-ma-địa, nên quán xét như thật về các pháp vô ngã, ngày đêm tùy học từng không biếng trễ. Như thế gọi là Không trụ dẫn khởi.
Nên biết ở đây, đối với phiền não bên trong nhận biết đúng như thật, có biết là có, không biết là không, đó gọi là Không tánh.
Lại nữa, các Thánh đệ tử chánh kiến viên mãn, đã kiến đế tích đều có thể đúng như thật vượt khỏi tà không kia. Cũng có thể đúng như thật hội nhập Bất không chân chánh kia.
Dùng đạo thế gian và đạo xuất thế gian tu tập Không tánh, nghĩa ấy như thế nào? Tức là ở nơi xứ này, pháp kia không có nên chánh quán là không. Nếu đối với xứ ấy, các thứ khác là có, nên nhận biết đúng như thật là có. Như vậy, chỗ nương dựa của tự thể là thân, cũng gọi là thọ thú, cũng gọi là tưởng thú, cũng gọi là tư thú. Nhưng thân là chỗ dựa của tự thể ấy, nơi một thời gian, do không có một loại, hoặc thọ hoặc tưởng, hoặc lại tư, cùng tất cả phiền não, tùy phiền não, nên gọi là không. Nơi một thời gian do có một loại, nên gọi là chẳng không. Hoặc tức chỗ nương dựa của thể là thân, nơi một thời gian do không có một loại, hoặc mắt hoặc tai hoặc mũi hoặc lưỡi, hoặc một phần của thân, hoặc một phần của ý, nên gọi là không, nhưng không phải chỗ nương dựa của tự thể là thân, tức thể của tự thân hết thảy đều không. Nên biết ở đây là lược nêu chung về nghĩa. Hoặc quán tự tánh hiện có của các pháp rốt ráo đều không, đó gọi là đối với không hướng nhập điên đảo. Cũng gọi là trái vượt với pháp Tỳ-nại-da khéo thuyết giảng của Phật. Hoặc quán các pháp, do tự tướng, nên một loại là có, một loại là không có, thì có không có ấy nên hoàn toàn xa lìa. Lại quán có tánh, nơi một thời gian, một phần xa lìa, nơi một thời gian, một phần không lìa. Như thế gọi là, đối với Không tánh kia không có điên đảo, hướng nhập đúng như thật.
Do đạo thế gian tu Không tánh: Nghĩa là Thánh đệ tử trụ nơi xứ xa lìa, trước đối với tưởng về xóm làng, thành ấp, người, tác ý tư duy. Tiếp theo, lại tư duy về tưởng A-luyện-nhã. Các vị kia tức quán xét ở trong tự thân, tưởng ấy là không, nghĩa là các tưởng như người, thành ấp. Tưởng này chẳng không, tức là tưởng A-luyệnnhã.
Lại, các thứ khác chẳng không, nghĩa là tưởng Aluyện-nhã làm duyên nơi tưởng A-luyện-nhã, tương ưng với các thọ, tư v.v… Hoặc tức tưởng này do một loại, nên quán là không, nghĩa là không trụ thô trọng, chẳng tịch tĩnh, cùng sáng rõ v.v… Do một loại nên quán là chẳng không, nghĩa là có trụ hết sức tịch tĩnh, vi tế, lìa sáng rõ v.v…
Lại, tức nơi pháp kia có thể chọn lấy tưởng về các chốn A-luyện-nhã như núi rừng, cây cỏ, cầm thú v.v…, với tướng sai biệt, không tư duy nữa, chỉ tư duy về tưởng nơi đất không có tướng riêng.
Lại, tức nơi pháp kia, có thể chọn lấy tưởng về vùng đất hiểm ác cao thấp không bằng phẳng, có nhiều gai góc, gạch đá v.v… với tướng sai biệt, không tư duy nữa, chỉ tư duy về tưởng nơi vùng đất bằng phẳng, mịn màng, giống như trong lòng bàn tay, không có tướng riêng. Từ đấy, theo thứ lớp, trừ bỏ tưởng về sắc v.v…, lần lượt tư duy về tưởng nơi xứ Không, xứ Thức, xứ Vô sở hữu, tướng có sai biệt. Sau, nơi tưởng của tưởng hiện có thuộc xứ Phi tưởng phi phi tưởng, tác ý tư duy nơi tất cả xứ như trước đã nói. Thứ đến là quán Không tánh, quán các địa dưới có tưởng thô v.v.., quán các địa trên có tưởng tĩnh. Như thế gọi là các Thánh đệ tử dùng đạo thế gian tu tập Không tánh, nên biết là hướng tới, cho đến trên cùng là xứ Vô sở hữu, lần lượt lìa dục. Từ đó trở về sau, tu hành Thánh đạo, thứ lớp loại bỏ hành vô thường v.v…, có thể hướng đến xứ Phi tưởng phi phi tưởng, lìa dục hoàn toàn.
Các vị ấy, bấy giờ tự quán trong thân hoàn toàn không có các tưởng, nghĩa là toàn bộ tất cả lậu đều tịch tĩnh, vĩnh viễn lìa mọi nẻo sáng rõ. Lại quán trong thân có pháp chẳng không. Nghĩa là các pháp thanh tịnh này nương dựa làm duyên, sáu xứ lần lượt hỗ tương nhận giữ, cho đến thọ mạng an trụ làm duyên, không có hoại diệt. Nên biết Đức Thế Tôn, nơi thời xưa tu tập hành vị Bồ tát, tu nhiều về Không trụ, nên có thể mau chóng chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Bồ đề Vô thượng, không phải như tư duy vô thường khổ trụ. Thế nên, nay chứng đắc Bồ đề, trụ thượng diệu rồi, do diệu lực của việc thường xuyên hành tập tùy chuyển từ xưa, nên dựa nhiều nơi Không trụ.
Lại nữa, có hai thứ Không:
1. Không, nên chứng đắc.
2. Không, nên tu tập.
Nếu các Bí-sô vui thích dựa nơi tạp trụ, thì đối với hai thứ này không thể thành tựu đầy đủ: Không, nên chứng đắc chẳng thể chứng đắc. Không, nên tu tập, không thể tu tập. Do nơi hai thứ không thành tựu, nên biết thối mất bốn thứ diệu lạc. Nghĩa là: Diệu lạc xuất ly đối với tất cả việc ác được thâu nhận, các khổ thôi thúc thảy đều giải thoát.
Diệu lạc xa lìa trong Tĩnh lự thứ nhất, giải thoát các sự tham dục, giận dữ v.v… Diệu lạc tịch tĩnh của tầm tứ được dừng dứt. Diệu lạc đẳng giác gồm thâu hai giải thoát, gồm thâu không chỗ tạo tác, không sợ hãi.
Hai giải thoát là:
1. Giải thoát của tâm thời ái.
2. Giải thoát của tâm bất động.
Nếu A-la-hán căn tánh chậm độn, đối với định của thế gian là pháp thối chuyển, chưa thể giải thoát chướng ngại hiện có nơi định, gọi là giải thoát của tâm thời ái.
Do pháp thối chuyển, nên thường xuyên thối mất. Luôn luôn hiện tiền nên gọi là thời. Đối với hiện pháp lạc, vui muốn chứng trụ, nên gọi là ái.
Giải thoát của tâm bất động: Là A-la-hán căn tánh lanh lợi, là pháp không thối chuyển, tất cả đều do diệu lực của đạo vô lậu mà được giải thoát, nơi tất cả loại đều không thối mất. Nên biết ở đây, nghĩa quyết định là nghĩa Tam muội da, phần còn lại như trước đã nói.
Không chỗ tạo tác, không sợ hãi: Nên biết không có dị loại có thể chứng đắc, khiến tâm của A-la-hán, ở đấy bị nhiễm nơi sự biến dị kia, nên sanh sầu than.
Không, nên chứng đắc, lược có hai loại:
1. Ngoại không.
2. Nội không.
Ngoại không: Nghĩa là vượt quá tất cả năm thứ tưởng sắc, tức là chỗ dẫn phát của năm thứ dục diệu, đối với việc lìa dục tham có thể tác chứng đúng đắn.
Nội không: Nghĩa là nơi các hành bên trong, đoạn trừ tăng thượng mạn, chính thức có thể tác chứng.
Không, nên tu tập, cũng có hai thứ:
1. Ở trong các cảnh giới trong ngoài, tu tập kiến không ngã.
2. Tức ở đấy, tu kiến vô thường.
Bốn thứ không ấy, nên biết bốn hành là chỗ nương dựa. Ngoại không dùng sức của duyên tăng thượng nơi tâm nội trụ, lìa lạc đã sanh, khiến thân thấm nhuần là chỗ nương dựa, cùng nhận biết khắp về ngã mạn.
Nội không dùng nội ngoại không, đối với pháp trong ngoài, tu tập kiến vô ngã. Do kiến vô ngã làm chỗ nương dựa, tức ở nơi ấy tu tập kiến vô thường, làm chỗ nương dựa. Kiến vô thường do lắng nghe Chánh pháp, tác ý như lý làm chỗ dựa.
Lại, ở trong ấy, nếu các Bí-sô vì nhằm lìa dục tham, nên tinh tấn tu học, do sức tăng thượng của tác ý quan sát, nên đối với các tướng bất tịnh hệ thuộc cõi Dục, đều gắng sức tư duy. Vị kia, đối với ngoại không chưa tác chứng, đối với chánh đạo chưa khéo tu tập, nên hướng tới nhiễm tập. Nơi tánh của ngoại không, tâm không chứng nhập, không yêu thích, nên liền ở trong đó, do môn ngã mạn, tâm không lưu tán, cùng tùy quan sát. Do tướng tịch tĩnh tư duy về nội không, vị kia do ngã mạn chưa vĩnh viễn đoạn trừ, nên đối với chánh đạo chưa khéo tu tập. Cũng ở trong đó tâm không chứng nhập, bèn ở trong tất cả hành trong ngoài tu kiến vô ngã. Đối với kiến vô ngã chưa khéo tu tập, nên cũng ở trong đó tâm không chứng nhập, nên ở trong hết thảy hành trong ngoài tu kiến vô thường, khiến tâm không động. Ở trong các hành thấy rõ vô thường, nên tất cả thứ động đều không có thật, tức kiến vô thường được gọi là cảnh giới bất động. Do đối với xứ này, tâm đều thắng giải, nên dùng chánh huệ thông tỏ đúng như thật. Hoặc duyên nơi bất tịnh, hoặc duyên nơi từ bi, hoặc duyên nơi cảnh giới hiện có của niệm hơi thở, hoặc duyên nơi cảnh giới vô thường của các hành, đối với Tam-ma-địa, dốc sức tu tập nhiều làm nhân duyên, nên khiến tâm điều thuận. Do đấy, lần lượt nơi tất cả xứ đều có thể chứng nhập. Vì nhân duyên này, nên ở nơi Không được chứng, có thể chứng đắc viên mãn. Nhân nơi sự chứng đắc viên mãn, nên tâm giải thoát khỏi tất cả kiết có thể thuận nơi phần trên dưới. Do nhân duyên ấy, nên đối với Không được tu tập có thể tu tập viên mãn.
Nhân ở chỗ tu tập được viên mãn, nên thành tựu các pháp như chánh kiến vô học. Nếu vào lúc ấy, cho đến đối với Không, chưa thể chứng nhập, nên biết lúc này là phần vị phàm phu. Nếu khi chứng nhập, là phần vị hữu học. Nếu lúc tu tập đã được viên mãn, là phần vị vô học. Vì khiến cho sự tu tập ấy được viên mãn, nên siêng tu chánh hành, do khéo tầm tư mà tầm tư đúng đắn, tức ở trong ấy có thể khéo nhận biết lượng, lìa các tạp nhiễm mà khởi ngôn thuyết. Ở chốn kinh hành có thể kinh hành đúng. Ở chốn an tọa có thể an tọa đúng. Nơi hết thảy xứ như thế, đều khéo nhận biết về lượng. Khi hành như vậy, thanh tịnh là trước hết, nơi lúc an trụ cũng được thanh tịnh. Trong khoảng có thể dùng tác ý quan sát, thường xuyên quán xét phiền não hiện hành, tịnh tu trị tâm. Như thế, có thể hoàn toàn hướng đến việc thành tựu các pháp bạch tịnh, hết thảy ma oán đều không thể xâm đoạt, kể cả mọi thứ pháp ác bất thiện kia.
Bốn thứ tạp nhiễm là:
1. Tánh của nhân hữu sau.
2. Thân tâm của hiện pháp bị thiêu đốt khắp.
3. Tánh của nhân thuộc nẻo ác.
4. Tánh của nhân thuộc các khổ như sanh v.v… Ngôn thuyết có hai:
1. Ngôn thuyết thắng giải gắn liền với âm thanh.
2. Ngôn thuyết gắn liền với pháp tùy pháp hành.
Ngôn thuyết thứ nhất là đối với Chánh pháp, thọ trì, đọc tụng, thỉnh vấn, phát khởi nêu xét. Ngôn thuyết thứ hai, là nơi đối tượng duyên khiến tâm an trụ, hoàn toàn giải thoát, phát khởi việc thiết lập, chỉ dạy, trao truyền. Nếu vì nghĩa này, Như lai xuất thế, các chúng đệ tử tùy nhập Thánh giáo, nên siêng năng tu tập pháp thiện như thế. Hoặc ở trong Pháp-Luật kia, tất cả loại không tu phạm hạnh, nên biết cũng không có người tu phạm hạnh. Do ở trong ấy không có phạm hạnh mà xưng là phạm hạnh, tức đều tu tà hạnh, thầy trò lần lượt hỗ tương xúc não. Đều tự chấp nhận có thể thức tôn ti, ở trong Chánh pháp, cả hai cùng có thể đạt được. Nếu có kẻ dứt bỏ quả lớn lợi lớn nơi Không, nên chứng đắc, nơi Không, nên tu tập, là hết sức thấp kém, có tội lỗi lớn, bị lợi dưỡng, sự cung kính, ái vị loạn động, hành tập nhiều theo hành tà. Nên biết kẻ kia là chỗ xúc não của tai họa thuộc phạm hạnh lớn. Kẻ kia do tham đắm, ái chấp về lợi dưỡng, sự cung kính, tự bức não, nên đối với ngôn giáo có thể tùy thuận giải thoát không muốn lắng nghe, tuy là tuyên thuyết nhưng không thể lọt vào tai. Hoặc vì sức tăng thượng của sự tham vướng nơi lợi dưỡng nên miễn cưỡng lắng nghe, nhưng không có tâm cầu hiểu, không muốn tu hành, không vì khéo tự điều phục hoàn toàn, cho đến không vì chứng đắc Bát Niết-bàn. Do sự việc như thế, nên ghét bỏ Đại sư, hành không bình đẳng, do đối với ân đức hiện tiền rộng lớn không thể báo đáp.
Nên biết ở đây, lược nêu chung về nghĩa, tức trong Pháp-Luật khéo thuyết giảng, đã xuất gia rồi, do bốn nhân duyên, như đối với chỗ tự mình nên hành đúng đắn thì không thể hành. Như đối với Thánh giáo của Đại sư, là điều nên hành trì của người xuất gia, cũng không thể hành. Nghĩa là vui thích cùng tạp trụ, tùy thuận gắn chặt với ngôn thuyết thắng giải của âm thanh, tham đắm lợi dưỡng, sự cung kính. Do sức nơi duyên tăng thượng của sự đắm chấp ấy, nên tuy lắng nghe Chánh pháp nhưng không tu tập hành tự lợi, lợi tha.
Lại, Đức Phật, Thế Tôn không muốn tự hiển bày khả năng khéo điều phục chúng, để thâu phục đồ chúng, chỉ là thương xót sâu xa các hữu tình. Do nhân duyên ấy, nên ở trong chúng đệ tử hành theo hành tà, có thể không hộ trì, thương tiếc, nêu rõ phân minh, đâu thể khiến cho đệ tử, do ngôn ngữ tạo lợi ích lớn, phân minh ấy, hiện bỏ Chánh pháp và Tỳ-nại-da, nêu đạt được lợi ích. Chớ khiến trụ nơi hành tà dấy khởi rộng ấy.
Lại nữa, tụng nêu:
Lìa dục, chưa lìa dục
Hỏi đường nhân duyên nhiễm
Giữ lấy mạng, xứ chấp
Đều nói rộng, nên biết.
Nếu có Bí-sô ở nơi cõi Dục, hoặc đã lìa dục, hoặc chưa lìa dục, đối với năm thứ dục diệu, ý nhận biết pháp, ba đời địa định, do ba thứ triền cùng tùy miên căn bản hiện có kia, lúc đang tạp nhiễm, ở trong hiện pháp, không thực hiện việc hướng đến, chứng đắc Niết-bàn rốt ráo. Nên biết ở đây, do đời quá khứ, dựa nơi "thủ thức" kia. Do đời vị lai, thuộc nơi thủ thức kia. Do đời hiện tại, chấp trước thủ thức kia.
Do tùy miên căn bản hiện có kia, gắn chặt tại sự nối tiếp luôn đeo đuổi nên chấp giữ thủ thức kia. Cùng với đây trái nhau, là lúc không tạp nhiễm, ở trong hiện pháp có thể chứng đắc Niết-bàn cứu cánh.
Lại nữa, ở trong Thánh giáo, nên biết có bốn thứ hỏi như lý:
1. Hoặc các trưởng giả, hoặc con của trưởng giả có niềm tin thanh tịnh.
2. Các Bí-sô có đủ thông tuệ, đa văn.
3. Thị giả thân cận vâng hầu Đại sư.
4. Tức Đại sư. Có hai nhân duyên, Phật đối với đệ tử, nhận biết mà vẫn cố hỏi. Nghĩa là xem đệ tử tuy muốn thưa hỏi nhưng không dám, hoặc đối với nghĩa ấy không nhận biết rõ. Vì nhằm ngăn chặn lỗi lầm của hiện tại, vị lai, vì nhằm khiến cho chánh pháp được trụ lâu.
Lại nữa, do hai nhân duyên, nên nói sáu thức thân dùng sáu xứ nội làm nhân, dùng sáu xứ ngoại làm duyên. Nghĩa là sáu xứ nội là chỗ nương dựa của chủng tử thuộc sáu thức kia. Lại, sáu xứ nội nối tiếp một loại. Như trước đã được chuyển biến rốt ráo, nên cảnh giới không đúng, không phải là chỗ nương dựa của chủng tử kia. Lại không phải là một loại nối tiếp chuyển.
Lại nữa, do hai thứ tướng, nên nhận biết rõ chung về tất cả tạp nhiễm:
1. Tự tánh của tất cả tạp nhiễm.
2. Đường đi của tất cả tạp nhiễm.
Nói tự tánh: Đó là dục tham làm gốc rễ cho các tạp nhiễm.
Nói đường đi: Nghĩa là xứ trong ngoài, chủ thể thủ, đối tượng được thủ có sai biệt.
Lại nữa, nếu các Bí-sô, đối với hai xứ sở cùng tùy thuận quan sát, hoặc hành hoặc trụ, tác ý như lý làm chỗ nương dựa, nơi hai thứ tạp nhiễm, tâm nên thoát khỏi.
Thế nào gọi là nơi hai xứ? Đó là tự giữ lấy thân mạng, hốt nhiên chết yểu. Tâm bất thiện, mạng chung, đi đến các nẻo ác.
Thế nào gọi là tác ý như lý làm chỗ nương dựa? Lại đối với những gì là hai thứ tạp nhiễm, tâm nên thoát khỏi?
Nghĩa là ta thà gặp phải vô số khổ sở vì bị đánh đập, tổn hại nơi thân xứ mình, chớ khiến ta với tâm bất thiện, mạng chung, sanh đến các nẻo ác.
Lại, ta phải nên cùng với hỷ lạc, đều quán xét đúng như thật, vì nhằm đối trị các thứ bất thiện hiện hành nên khẩn khoản, gắng sức tu tập các hành vô thường. Hoặc lúc kinh hành, nơi các cảnh giới chấp giữ các tướng, chấp giữ các thứ tùy hảo với tạp nhiễm hiện có, đều khiến tâm giải thoát, xa lìa. Khi trụ, đối với vô số tạp nhiễm hiện có của các tầm tư bất thiện, đều khiến tâm giải thoát. Nên biết ở đây, tạp nhiễm thứ nhất là tâm tương tợ. Tạp nhiễm thứ hai là quả tương tợ.
Lại, lúc hai tạp nhiễm hiện tại chuyển, sanh nơi hai xứ. Nghĩa là tự giữ lấy thân mạng, bấy giờ hốt nhiên chết yểu. Tâm bất thiện, qua đời, đi đến các nẻo ác. Do đó, đối với hai thứ tạp nhiễm kia, trong một sát
-na, nếu thấy rõ lỗi lầm tai họa của chúng, hãy còn là thiện diệu, huống hồ là có thể nối tiếp.
Lại có rất nhiều Ma, đã quy hướng nơi các tạp nhiễm hiện có, chấp trước nơi xứ an túc, kẻ trí nhận biết rõ, phải nên tránh xa. Tức là các loại phàm phu đã lìa dục, hệ thuộc nơi các xứ định sanh hỷ lạc, hiện có ái vị, chấp trước nơi xứ an tục. Kẻ chưa lìa dục, đối với năm dục diệu thọ nhận làm chỗ dựa:
- Vui thích, tranh chấp tham ái, đắm nhiễm, chấp trước xứ an túc.
- Nơi trú xứ của các hữu tình có ân, oán, tất cả yêu thích, giận dữ, chấp trước nơi xứ an túc.
- Cảnh giới rộng lớn, nơi phẩm thượng có thể dẫn dắt thuận theo lạc, khổ, được cầu, tìm chốn có thể tham ái hiện có nơi ba đời, chấp trước xứ an túc. Nên biết ở đây, các trường hợp đáng vui, đáng thích, đáng yêu, hợp ý, có sai biệt, như trước đã biện giải.
- Không đáng vui mừng: Là không thể vui thích đối với đời vị lai.
- Không vui thích: Là đối với đời quá khứ, do thuận theo nhớ nghĩ không đáng vui thích.
- Không đáng yêu thích: Là đối với các cảnh giới, không đáng vui thích.
- Không hợp ý: Do đối với các thọ không đáng vui thích. Lại nói khổ: Tức đối với cảnh giới không thể vui thích. Nói tổn não: Tức đối với các thọ không đáng vui thích.
Nói chống trái: Là đối với đời quá khứ không đáng vui thích. Nói nghịch ý: Là đối với đời vị lai không đáng vui thích.
Lại nữa, có hai tạp nhiễm:
1. Tạp nhiễm của ngoại cảnh.
2. Tạp nhiễm của nội thọ.
Mắt v.v… làm chỗ dựa, đối với cảnh như sắc v.v… khởi các tham chấp, gọi là tạp nhiễm của ngoại cảnh. Các xúc làm chỗ dựa, tham chấp nơi thọ bên trong, gọi là tạp nhiễm của nội thọ.
Hai thứ tạp nhiễm này, ở trong Bát Niết-bàn đã vĩnh viễn vắng lặng, đều không thể thủ đắc, không phải là nơi chốn có thể đi đến của các ma oán.
Lại nữa, do mười lăm thứ tướng, nên nhận biết rõ về tất cả chủng loại ái kiến tạp nhiễm: Nghĩa là, đối với các xứ, do các triền nên gọi là cất chứa. Do tùy miên nên gọi là hỗ trợ. Do ngã kiến nên gọi là che giấu. Các thứ còn lại có sai biệt, nói rộng như nói phần Nhiếp dị môn ở trước.
Lại nữa, tụng chung nêu:
Nhân nơi đồng phận
Chỉ tạo các duyên
Phẩm thượng như tham
Sau là nhiều trụ.
Tụng riêng nêu:
Nhân đồng phận, tư buộc
Giải thoát cùng xúc khắp
Thắng giải hộ căn môn
Giáo thọ cùng là sau.
Các Thánh đệ tử, nhân nơi thức đồng phận, tùy nhập vô ngã, do ba thứ tướng, nên ở trong các thức, chánh quán mà trụ.
Thế nào là nhân nơi thức đồng phận, tùy nhập vô ngã? Nghĩa là do hiện thấy năm xứ có sắc, thân của bốn đại chủng hoặc tăng, hoặc giảm, hoặc lấy, hoặc bỏ. Do tánh vô thường, nên đối với duyên nơi thức kia, tùy nhập vô thường. Vô thường tức khổ, khổ tức vô ngã. Do nhân duyên này nên tùy nhập vô ngã.
Thế nào là tùy nhập tánh vô ngã rồi, do ba thứ tướng, nên ở trong các thứ chánh quán mà trụ? Nghĩa là các thứ tà kiến, tất cả đều lấy ngã kiến làm gốc, thế nên gốc ấy tất phải đoạn trừ trước tiên.
Lại, do chánh huệ tức quán thức kia, về chỗ dựa, về đối tượng duyên, chuyển biến sai biệt có vô lượng thứ.
Lại quán thức ấy, lúc chuyển biến có sai biệt, như lượng sát-na, an trụ chắc thật, hãy còn không thể đạt được, huống hồ là đạt được rốt ráo.
Lại nữa, ở trong sáu xứ diệt tịch tĩnh hoàn toàn không có hý luận. Do hý luận kết hợp với bốn hành tướng, không nên tư duy, không nên phân biệt, không nên cật vấn, chỉ nên dựa vào giác huệ tăng trưởng của kẻ khác, quan sát xét kỹ về ý nghĩa sâu xa chân thật.
Những gì là bốn? Nghĩa là hoặc có, không, hoặc khác, chẳng khác. Do sáu xứ kia có sanh có diệt, lần lượt là tướng khác, thiết lập có thể nhận biết. Do sanh diệt nên có, không có thể thủ đắc. Có tướng khác, nên đối đãi chủng loại khác, tánh khác có thể thủ đắc. Do đối đãi nơi tự chủng loại, trước sau không khác, nên chẳng khác có thể thủ đắc.
Sáu xứ vĩnh viễn diệt, là tướng thường tịch tĩnh. Thế nên, do hý luận kia cùng hành với bốn thứ hành tướng, nên tư duy quan sát không hợp đạo lý. Nên biết ở đây, có thể dẫn đến tư duy, phân biệt về chỗ phát khởi ngôn ngữ vô nghĩa, gọi là hý luận. Vì sao? Vì đối với sự việc như thế, lúc siêng năng gia hạnh, không thể tăng ích phần ít pháp thiện, trừ bỏ pháp bất thiện. Do đó gọi đấy là hý luận.
Lại nữa, đối với xứ trong ngoài, nếu có cảnh giới dục tham hiện tiền hoặc không hiện tiền, nhưng các căn kia không thể dứt bỏ, nên gọi là trói buộc. Nếu không dục tham, cho dù có cảnh giới đang hiện tiền, các căn đối với cảnh giới ấy hãy còn có thể dứt bỏ, huống hồ là cảnh không hiện tiền, nên gọi là giải thoát.
Lại nữa, khéo tu tập phạm hạnh, đối với ngã kiến, ngã sở kiến của các uẩn, xứ đã đoạn trừ vĩnh viễn, nếu thân bị tổn hại, cho đến các khổ thọ xúc não, đoạt mạng, hoàn toàn không bị sắc biến, tâm biến. Như thế gọi là khéo phòng giữ căn tướng thô. Vị kia do khéo giữ lấy các căn như thế, với sức tăng thượng của bốn khổ được giải thoát, nên đạt được bốn thứ hỷ:
1. Do duyên bên ngoài của vị lai sanh khổ, được giải thoát.
2. Do duyên bên trong của vị lai sanh khổ, được giải thoát.
3. Lúc ở nơi hiện pháp Bát Niết-bàn, do hai thứ nương dựa đã tạo các khổ, được giải thoát.
4. Mạng chung rồi, cùng với chỗ thấy của thế gian về tất cả các khổ tương tự như cỏ cây không tương tục.
Do hai thứ tướng, nên tương tợ với cỏ cây:
1. Sáu xứ lìa tưởng hữu tình, cùng với chỗ thấy của thế gian về cỏ cây tương tợ.
2. Sáu xứ là chỗ dựa cho lửa của tham-sân-si, nên mới bùng cháy, cùng với chỗ thấy của thế gian về cỏ cây tương tợ.
Các Thánh đệ tử khéo tu phạm hạnh, khổ nơi hữu sau của vị lai không sanh, cùng với các Như Lai thành tựu lực minh, tương tợ phần ít, không phải là duyên khổ của hiện pháp không sanh, nếu như vừa sanh thì mau chóng đoạn trừ. Nhưng các Đức Như Lai, với hai thứ lực minh thảy đều thành tựu, thế nên gọi là minh trì vô thượng.
Lại nữa, có một Sa-môn hoặc Bà-la-môn, vượt hơn hiện lượng, hạng ngu của thế gian hãy còn không bị mê hoặc, huống là các bậc trí. Hết thảy kẻ ngu si, đối với xứ an túc, suy tính hư vọng dùng làm chỗ dựa, hoặc dựa vào đời trước, hoặc dựa nơi hiện pháp, chấp trước vững chắc để kiến lập bốn thứ luận tà về khổ lạc. Nghĩa là dựa nơi đời trước, suy lường hư vọng nơi nhân đã tạo từ xưa, nên lập các khổ lạc.
Hoàn toàn tự tạo: Suy lường hư vọng về tự tại biến hóa dùng làm nhân để lập các khổ lạc.
Hoàn toàn là tha tạo tác: Suy lường hư vọng cho trước là tự tại tạo tác, sau đấy là chỗ tạo tác của nhân đã gây từ trước, nên lập các khổ lạc.
Cả tự tạo, tha tạo: Suy tính hư vọng cho là không nhân sanh khởi, nên lập các khổ lạc.
Không phải tự, không phải tha đã tạo nhân sanh: Hoặc dựa nơi hiện pháp, suy tính hư vọng. Hoặc tùy theo công dụng của tự dục, tự tạo, đã sanh khởi, lập làm tự tạo tác. Nếu không tùy theo dục, không tự hiểu biết, được kẻ khác dẫn dắt, nên lập làm tha tạo tác. Hoặc tùy chỗ mong muốn, chỗ hiểu biết của tự, được tha dẫn dắt, nên lập làm tự tha tạo tác.
Nếu không phải là công dụng của tự tha làm trước, được sanh khởi, chỉ do cảnh giới hiện tiền, nên không thể thông tỏ xúc của nhân vi tế, liền khởi tà chấp, cho không phải nhân đã tạo tác của tự, tha sanh, nên lập không nhân sanh.
Ở đây, chỉ có các căn, cảnh, thức hòa hợp sanh khởi khổ, lạc có thể thủ đắc, đều không có đời trước. Hoặc trong hiện pháp, hoặc tự hoặc tha, thật có thể đạt được. Chỉ tức đối với ba sự hòa hợp này, giả lập tự tha. Do đó nên biết, chỉ có xúc kia biến hành nơi tất cả, là nhân của khổ, lạc.
Lại nữa, do bốn thứ tướng, nên chính thức phát khởi tinh tấn, mau chóng khiến các lậu vĩnh viễn dứt hết trọn vẹn. Những gì là bốn thứ tướng? Đó là:
1. Phát khởi tinh tấn bình đẳng. Nghĩa là không trạo cử quá mức, phát khởi siêng năng tinh tấn, khiến cho thân tâm kia dù bị mỏi mệt, tổn não cũng không phát khởi tinh tấn quá yếu kém, dối bỏ thân mạng khiến không đạt được. Đó là tướng thứ nhất.
2. Lại không do đấy mà sanh kiêu mạn. Nghĩa là ta riêng có thể phát khởi siêng năng tinh tấn, những kẻ còn lại thì không như thế. Đó là tướng thứ hai.
3. Lại nơi chính thức phát khởi siêng năng tinh tấn về chỗ chứng đắc án xúc của quả thế gian có sai biệt, không có ái vị. Cùng với đây kết hợp hành trì, tu không phóng dật, là tướng thứ ba.
4. Lại, đối với tướng của tinh tấn bình đẳng, có thể khéo thâu nhận, khiến nơi vị lai không có thối mất, là tướng thứ tư.
Như thế là phát khởi siêng năng tinh tấn đúng đắn, nên vĩnh viễn dứt hết các lậu, thành A-la-hán. Nếu muốn ở chỗ các vị đồng phạm hạnh có trí của bậc Đại sư kia, được ký biệt cho tự mình chứng đắc sai khác, chỉ là A-la-hán, với sáu xứ thắng giải mới có thể ký biệt đúng đắn. Nghĩa là dựa nơi ba học, cùng do năm thứ hữu tình. Những gì gọi là sáu xứ thắng giải? Đó là:
1. Thắng giải về xuất ly.
2. Thắng giải về không não hại.
3. Thắng giải về xa lìa.
4. Thắng giải về ái dứt hết.
5. Thắng giải về thủ dứt hết.
6. Thắng giải về tâm không quên mất.
-Thế nào là ba học? Là:
1. Giới học tăng thượng.
2. Tâm học tăng thượng.
3. Huệ học tăng thượng.
-Thế nào là năm thứ hữu tình? Đó là:
1. Phàm phu sinh sống nơi gia đình, chỉ dựa nơi tin tưởng phát sanh vui thích đối với thắng giải về xuất ly. Từ cảnh giới bị trói buộc, tâm cầu xuất ly. Đó gọi là loại hữu tình thứ nhất.
2. Phàm phu đã xuất ly rồi, chỉ dựa nơi Giới, đối với các hữu tình, do hành của thân ngữ ý luôn hành không não hại. Đó gọi là loại hữu tình thứ hai.
3. Hàng phàm phu có thể đoạn trừ tham ái về lợi dưỡng và sự cung kính, ở trong hiện pháp, lìa dục của cõi Dục. Đó gọi là loại hữu tình thứ ba.
Hàng hữu học đã kiến đế tích. Đó gọi là loại hữu tình thứ tư.
4. Hàng vô học, chứng đắc A-la-hán. Đó gọi là loại hữu tình thứ năm.
Nên biết ở đây, hai xứ thắng giải thứ nhất, thứ hai lấy học thứ nhất làm chỗ dựa. Xứ thắng giải thứ ba dùng học thứ hai làm chỗ dựa. Ba xứ thắng giải sau dùng học thứ ba làm chỗ dựa.
Nếu do trí này có thể đoạn trừ phiền não cùng phiền não được đoạn, nên biết đó gọi là tâm không quên mất. Lại, nhân của hữu sau thuộc vị lai đã đoạn, gọi là ái dứt hết. Các tạp nhiễm nơi cảnh giới của hiện pháp đã đoạn, gọi là thủ dứt hết.
Lại, loại hữu tình thứ nhất kia, tuy có chánh tín nơi thắng giải xuất ly, nhưng chưa quyết định đối với vị lai có thể khiến cho tất cả sự trói buộc kia thảy đều dứt bỏ cùng với mọi thứ biến dị. Loại hữu tình thứ hai có thắng giải không não hại, loại hữu tình thứ ba có thắng giải về xa lìa, nên biết cũng thế.
Nếu các bậc hữu học, nơi sáu xứ thắng giải, tuy đối với vị lai không thể gắng dứt bỏ các thứ hệ thuộc cùng những biến dị, nhưng giống như kẻ hành đẳng trì, tức niệm mới bắt đầu, thảy đều yếu kém, tuy sanh nơi xứ Thánh nhưng chưa khéo tu tập, nên đối với Tham-sân-si không thể xa lìa, không vĩnh viễn đoạn trừ trọn vẹn, do huệ còn yếu, cùng do tham v.v… chưa dứt hết, nếu gặp cảnh giới thắng diệu hiện tiền thì thường xuyên quên niệm. Do nhân duyên ấy nên sanh khởi siêng năng học tâm giải thoát cùng huệ giải thoát, dứt hết các phiền não. Thế nên hữu tình hữu học luôn có chỗ tạo tác, do phần ấy mà gọi là giảm, kém.
Hoặc A-la-hán, với sáu xứ thắng giải, hãy còn đối với vị lai, không phải gắng sức nơi các thứ biến dị, huống hồ là có việc dứt bỏ. Vì đã khéo tu tập đạo. Vì Thamsân-si đã vĩnh viễn đoạn trừ trọn vẹn, ái thủ đã dứt hết, thắng giải viên mãn, đã chứng đắc tận trí, vô sanh trí, sáu thứ hằng trụ được thâu nhận, nên trí huệ hiện có không như hàng hữu học thường xuyên quên niệm. Bậc A-lahán, nơi sáu xứ thắng giải, do đệ nhất nghĩa là viên mãn tột cùng, nên cũng gọi là thành tựu thanh tịnh tột bậc, không phải như các hữu tình ở phần vị thấp khác. Do nhân duyên này nên cũng không tự cao đối với chỗ đã hiểu rõ về ký biệt. Nơi đối tượng hành đối tượng duyên của Tam-ma-địa, không hề tán loạn nên gọi là nội tâm trụ, tức Tam-ma-địa đã khéo thành tựu viên mãn, gọi là không hẹp nhỏ. Đều lìa mọi trói buộc của tất cả phiền não, nên gọi là khéo giải thoát. Trí huệ hiện có đều khéo tích tập, nên gọi là khéo tu. Kiến đã diệt tận, không có ái vị, tâm hoàn toàn thiện, không tội.
Lại nữa, lược có hai thứ hữu tình:
1. Loại không thể giữ kín căn môn.
2. Loại khéo có thể giữ kín căn môn.
Thế nào là hữu tình không thể giữ kín căn môn? Nghĩa là như có một hữu tình, đối với các cảnh giới không thể tác ý tư duy đúng như lý. Đối với sắc khả ái đã bị triền tham dục trói buộc. Đối với sắc không khả ái thì bị triền sân hận trói buộc. Lại, đối với cảnh kia, không thể tùy niệm về những lỗi lầm tai họa hiện có, nếu như có tùy niệm thì cũng không khéo tu tập. Do nhân duyên ấy, nên khi tâm bị các triền che phủ, dấy khởi các triền rồi thì không thể điều phục.
Lại, phàm phu này chưa được tâm huệ giải thoát của hàng hữu học, nên đối với tâm huệ giải thoát của bậc vô học ở trên cũng không nhận biết đúng như thật. Do không nhận biết, nên đối với tâm huệ giải thoát của các hàng hữu học cũng không thể có đủ. Bấy giờ, hữu tình kia chưa dùng sức tu tập làm chỗ nương dựa, đối với các thứ thô trọng hiện có của phẩm phiền não chưa thể loại trừ vĩnh viễn. Lại, không dựa nơi sức khéo xét chọn ở trước, nên do niệm không thành tựu làm nhân duyên, tức biết là không thể giữ kín căn môn. Do ba tướng này nơi hữu tình, nên biết là không thể giữ kín căn môn:
Do triền.
Do sự đối trị thuộc về xét chọn có thiếu giảm.
Do sự đối trị thuộc về sức tu tập có thiếu giảm.
Cùng với đây trái nhau, nên biết là phẩm trắng, đối với các căn môn đều khéo có thể giữ kín.
Lại nữa, do hai thứ tướng, các Thánh đệ tử đối với giáo pháp do Đại sư nêu giảng, có thể ký biệt đúng đắn, có thể khéo tuyên thuyết. Tức là có thể giải thích biện biệt về nghĩa chân thật. Những gì là hai tướng? Đó là:
1. Do tuyên thuyết ý nghĩa sâu xa ấy, nên khéo có thể ngộ nhập nơi ý nghĩa sâu xa như thế mà ký biệt đúng đắn.
2. Đức Như Lai dùng vô lượng môn để nêu rộng về Thánh giáo, vì vô lượng phẩm hữu tình, nên có vô số hiện thuyết. Đối với giáo pháp ấy không trái với pháp tánh nên có thể ký biệt đúng đắn.
Lại nữa, đối với Pháp-Luật do Phật khéo thuyết giảng, các Bí-sô mới tu học, thâm tâm yêu thích, do hai thứ tướng nên nhận biết rõ, đúng đắn:
1. Do thân tướng không biến dị.
2. Do tâm tướng không biến dị.
-Thân tướng không biến dị: Nghĩa là do hình sắc hết mực sáng tịnh, diện mạo vui tươi, thanh khiết, căn vui hòa mà tịch tĩnh. Xa lìa tham lạc tích chứa của cải để thọ dụng, đối với gia đình không còn luyến ái. Tâm không biến dị lại có ba thứ đối trị dâm tham, có thể khiến cho dâm tham chưa sanh thì không sanh, đã sanh thì liền đoạn. Đó là:
1. Tư duy về tướng không nên hành.
2. Tư duy về tướng hết sức bất tịnh.
3. Giữ kín tất cả căn môn.
Ở đây, giữ kín tất cả căn môn, tóm lược, nêu rộng nên biết như nơi địa Thanh văn đã nói. Hành giả kia, do khéo giữ gìn về thân, các căn như thế, khéo trụ nơi chánh niệm, nên có thể tư duy về tưởng không nên hành.
Lại có thể tư duy về tưởng hết sức bất tịnh, do đấy, phiền não không thể che phủ tâm, khiến mau chóng hồi chuyển.
Lại nữa, tụng nêu:
Chỉ duyên tầm tư nguyện
Tất cả loại luật nghi
Nhập Thánh giáo không hộ
Tư lương không khéo đủ
Xả sở học xứ chấp
Nghĩa không thiện tùy
Bồ tát hơn thừa khác
Luận thiết lập sau cùng.
Do các nghiệp phiền não đã tạo tác từ trước, cùng chủng tử của chính mình nối tiếp dẫn đến các thọ, sanh khởi sáu xúc xứ kia, chỉ là tạo duyên. Như tâm đã dấy khởi công dụng dẫn phát các thủ thọ nghiệp, tuy chỉ có thể làm sự hỗ trợ cho thủ thọ duyên. Nên biết ở đây, đạo lý cũng như thế.
Lại nữa, các Bí-sô có sự thọ dụng biên vực ngọa cụ đúng như pháp, an trụ nơi chốn vắng lặng, nếu có thể khiến cho tầm tư nhiễu loạn, cảnh tướng thắng diệu hiện đến nơi tâm, nên biết đó là sự tạo tác của phẩm loại Ma. Ở đây Bí-sô nên dùng chín tướng an trụ nơi tâm, từ các cảnh giới tương ưng với tầm tư thâu giữ tâm khiến trụ, không dung nạp tầm tư theo một lại khởi. Nếu do chỗ dựa này, do cảnh giới này có chỗ ái vị, thì nơi cảnh giới đó, theo chỗ đạt được, theo chỗ đã trụ, có thể tự xa lìa chúng. Bấy giờ, đối với sự việc khả ái, hoàn toàn không nương dựa nơi các tầm tư dục mà có chỗ tạo tác. Đối với tầm tư giận cùng tầm tư hại cũng có thể xa lìa. Tịnh tu nơi tâm, ở trong hiện pháp có thể đạt được Niết-bàn. Đạt được Niết-bàn rồi, trọn không cùng với kẻ khác tranh chấp mà trụ. Nghĩa là các thứ tranh chấp, ở trong Chánh pháp Tỳ-nại-da của Phật là tạo sự suy tổn tột cùng. Như thế, tầm tư do ngu si sanh khởi cũng không tầm tư, như ngoại đạo khác. Lại nữa, nếu do nhân khổ của hữu sau, từ đời trước, ở trong hiện pháp, có pháp nơi quả của sáu xúc xứ mà chuyển, do sáu cảnh giới lúc tạo tổn não. Nếu có Bí-sô vì cầu hữu sau, tự phát thệ nguyện tu hành phạm hạnh, vị ấy, bấy giờ, khiến cho nhân khổ của hữu sau thứ bảy lại thêm tăng trưởng bội phần, càng bị tổn não, ở trong hiện pháp có thể làm chướng ngại Niết-bàn. Do nhân duyên ấy, nên nơi vị lai có đạt được sự an nhàn, quyết định là không viên mãn. Nguyện về hữu sau ấy, nên biết ở trong sự trói buộc vi tế kia là vô cùng vi tế. Vì sao? Vì như trong cung của cõi Trời Ba mươi ba kia, có một nhà tù giam cầm chư Thiên hoặc phi Thiên, nhưng theo "pháp nhĩ" thì những kẻ kia tạm được giải thoát, dùng sự vui chơi với cục cõi Trời mà trụ, cho đến chưa khởi tâm chạy trốn. Tâm ấy nếu khởi liền mất dục diệu, trở lại thấy tự thân đang bị trói buộc. Những kẻ kia vừa khởi tâm liền bị sự trói buộc vi tế vây buộc. Do thời phần nên gọi là vi tế, không phải là do khó nhận biết mà nói là vi tế, do lúc bị trói buộc, có thể tự hiểu rõ: Ta nay đang bị trói buộc.
Nếu các Bí-sô tâm nguyện về hữu sau, tâm ấy nếu khởi liền bị trói buộc, đã bị trói buộc rồi thì không thể nhận biết rõ tự thân có trói buộc.
Do đó, trói buộc này là hết sức vi tế. Nên biết thời phần cùng do khó nhận biết đều vi tế, nên gọi là rất vi tế. Lại nữa, nếu các Bí-sô siêng năng tinh tấn hành gia hạnh, giữ gìn các căn, đối với luật nghi cùng phi luật nghi phải nên nhận biết rõ. Đối với luật nghi của hàng hữu học, vô học theo bậc hạ trung thượng nơi thế gian phải nên nhận biết rõ.
Thế nào là luật nghi? Nghĩa là như có một hữu tình, đối với các cảnh giới khả ái có thể khiến tâm tạp nhiễm, không nhẫn, không thọ, không nắm không giữ, nếu như khiến vừa dấy khởi liền dứt bỏ ngay. Đó gọi là luật nghi. Thế nào là phi luật nghi? Tức như một Bí-sô như người làm nông, đã thân cận bậc thiện tri thức, lắng nghe Chánh pháp, tác ý như lý, tu tập đúng đắn nơi cảnh giới của đối tượng duyên, như ruộng tốt, khiến chúng sanh khởi thiện căn, như mạ lúa. Nhưng chủng tánh của Bísô kia là nhiều tham, chưa từng thường xuyên hành tập đối trị tham dục, phát khởi hổ thẹn mạnh mẽ. Cũng chưa từng có hoặc gặp cảnh giới thắng diệu hiện tiền. Bí-sô kia do bản tánh như thế, chất hổ thẹn hiện có đều yếu kém, nên khởi triền tham, chấp chặt không bỏ. Tâm đối với triền tham không thể phòng giữ, lại tự phóng túng tác ý như lý, tương ưng với tâm trâu bò nhập vào cảnh giới là ruộng, tổn hoại thiện căn hiện có là mạ lúa. Do nhân duyên này, nên gọi là phi luật nghi.
Lại, như có một hữu tình, có thể mau chóng tác ý, đối với các cảnh giới luôn tự thâu giữ, nhưng chưa thể quán xét về các lỗi lầm tai họa khiến chúng không dấy khởi trở lại. Đó gọi là luật nghi bậc hạ nơi thế gian.
Lại, như có một hữu tình, có thể mau chóng tác ý, đối với các cảnh giới luôn tự thâu giữ, cũng có thể quán xét về các lỗi lầm tai họa hiện có của cảnh giới kia, khiến chúng không sanh khởi trở lại. Đó gọi là luật nghi bậc trung nơi thế gian. Do đấy làm chỗ dựa, đạt được chín tướng tâm trụ thuộc về bốn thứ tác ý, nên biết như nơi địa Thanh văn ở trước đã nói. Do đạt được những thứ ấy nên gọi là các loại phàm phu đã lìa dục tham.
Vị ấy, trước tu tập gia hạnh quán thời gian như kẻ làm nông, nay được tăng thượng, cũng như Đại vương, trước đã đạt được đẳng chí, sanh khởi các thọ thắng diệu, có thể nhận biết rõ đúng về xứ an lập của sự phóng dật lớn ấy rồi, liền khiến như quán, lắng nghe Chánh pháp, Xa-ma-tha thù thắng được sanh khởi tăng thượng, gồm giữ Tỳ-bát-xá-na, khiến vị ấy quán xét các thọ được sanh, tánh là duyên sanh. Tánh là duyên sanh nên thể là vô thường, do đấy liền dùng các tướng, lỗi lầm tai họa của ý địa cùng hành tác ý mà được lìa dục. Đã lìa dục rồi, lại quán xét chỗ dựa của đẳng chí là riêng biệt, nên có mười thứ sai biệt. Do thời phần khác biệt, nên có nhiều trăm sai biệt.
Ở đây, chỗ dựa của đẳng chí có khác biệt, nên có mười thứ sai biệt:
Có tầm có tứ.
Không tầm chỉ có tứ.
Hoặc hỷ cùng hành.
Hoặc lạc cùng hành.
Hoặc xả cùng hành.
Phần thối. Phần trụ.
Phần thắng tiến.
Phần thuận quyết trạch.
Do thời phần khác biệt, nên có nhiều trăm sai biệt: Tức là quan sát về hành tướng như thế, dựa nơi thời phần sanh trụ diệt đã tạo nên đạo lý sai biệt, nên biết lại có nhiều trăm sai biệt. Như thế, nhận biết rõ về thọ được sanh kia, tánh là vô thường, lưu chuyển, với vô số tánh sai biệt rồi, lược do ba tướng lại quán xét kỹ các pháp kia tánh là vô thường. Nghĩa là về chỗ dựa, hiện hành, nhân.
- Chỗ dựa: Nghĩa là tột bậc cho đến sắc thân hiện có của Tĩnh lự thứ tư, là chỗ dựa của thọ.
- Hiện hành: Tức tột cùng là cho đến định diệt thọ tưởng, trong đó tưởng thọ phần nhiều hiện hành.
- Nói nhân: Là nhân của thọ hiện có nơi đời vị lai, tức tư duy cầu nguyện, quán xét như thế cho đến tánh duyên sanh của các pháp nơi cõi Hữu đảnh, đều là vô thường. Như vậy, quan sát đúng đắn, kỹ lưỡng, như lý về các địa lìa dục. Đó gọi là luật nghi thuộc phẩm thượng nơi thế gian.
Nên biết ở đây, hai luật nghi trước là thuộc về lực xét chọn, một luật nghi sau là thuộc về lực tu tập.
Vị kia đã thành tựu lực không phóng dật thắng diệu như thế, thông tỏ đúng như thật về lý của Thánh đế, nên có thể đoạn trừ vĩnh viễn chấp ngã, ngã sở, dùng làm hành trước, tất cả phiền não do kiến đạo đoạn trừ. Lại có thể đạt được luật nghi hữu học, vị kia tức tu tập luật nghi hữu học. Lại có thể vĩnh viễn đoạn trừ ngã mạn vọng chấp, dùng làm hành trước, hết thảy phiền não do tu đạo đoạn, nên chứng đắc hoàn toàn luật nghi vô học.
Lại nữa, nếu các Bí-sô đã nhập Thánh giáo, nhưng không phòng hộ các căn, tức hoàn toàn tạo tác các khổ. Nghĩa là khổ của hậu pháp, hoặc khổ của hiện pháp.
Ở đây, thế nào gọi là phi luật nghi? Nghĩa là ở nơi hiện pháp hậu pháp như thế, gồm đủ các thứ lỗi lầm tai họa. Cảnh giới hành xử, khởi tưởng tà vạy không như lý vọng chấp về các tướng tùy hảo. Tướng tà vạy là trước hết, nên đối với trụ xứ kia, phát khởi tầm tư tương ưng thuận với các thứ ấy, do đó không thể đối với tất cả lỗi lầm tai họa đã nói ở trước quán thấy đúng như thật. Tuy lại quán thấy các lỗi lầm hiện có, nhưng chưa thể thường xuyên tu tập nhiều, ở trong chỗ dựa, các thứ thô trọng hiện có của phẩm phiền não chưa có thể trừ bỏ. Thân chưa khinh an, tức là thân của sắc tâm. Do hành tướng ấy, nên triền và tùy miên vẫn còn hòa hợp, có thể khiến chống trái với việc xét chọn tu tập hai sức đối trị, gọi là phi luật nghi. Cùng với đây trái nhau, nên biết tức là hành tướng của luật nghi.
Lại, luật nghi này, do ba nhân duyên, nên có thể khiến tu tập mau chóng được viên mãn. Ba nhân duyên đó là: Đầu tiên, ở trong Pháp-Luật khéo thuyết giảng, tịnh tín xuất gia. Đã xuất gia rồi, nên dùng văn huệ tương ưng với thần lực thâu giữ các loài trùng, thú có sáu căn tương tợ. Đã thâu giữ rồi, lại dùng tư huệ tác ý như lý, quán xét đúng kỹ về các thứ lỗi lầm tai họa. Lại tu tập nhiều tư huệ như lý, khiến đạt đến cứu cánh, vượt quá tác ý, lại càng siêng tu, thân theo chánh niệm, nơi chánh niệm này lại khéo tu tập. Vị ấy, không thể lại mỗi mỗi đều dong ruổi, tán loạn nơi các cảnh giới riêng khác. Nên biết, bấy giờ, vị ấy đã khéo điều phục, thần lực đã được tự tại.
Lại nữa, có các Bí-sô, trước đã tu tập tư lương là diệu huệ, lại được gặp gỡ thiện hữu, lắng nghe đầy đủ về ba thứ lỗi lầm tai họa của các hành:
1. Lỗi lầm tai họa của hiện pháp.
2. Lỗi lầm tai họa của hậu pháp.
3. Lỗi lầm tai họa của hiện pháp-hậu pháp.
Nên biết ở đây, đại chủng cùng trái nhau làm chỗ nương dựa cho hết thảy tật bệnh, gọi là lỗi lầm tai họa của hiện pháp. Các hành của nẻo ác luôn luôn đeo đuổi, có thể tạo tác, có thể đi đến, gọi là lỗi lầm tai họa của hậu pháp.
Trước, ở nơi hiện pháp tạo nên hỷ tham dùng làm chỗ dựa, có thể dẫn đến già chết của hậu pháp, hiện pháp, gọi là lỗi lầm tai họa của hiện pháp, hậu pháp. Như thế là lược nêu chung có ba thứ khổ:
1. Khổ của bệnh tật.
2. Khổ của nẻo ác.
3. Khổ của già chết.
Nghĩa là dựa nơi nẻo thiện, cùng dựa nơi nẻo ác, lắng nghe các lỗi lầm tai họa rồi, tinh tấn tu hành nơi pháp tùy pháp hành, nhân đấy có thể nhập hiện quán về Thánh đế.
Tiếp theo, do khéo làm tịnh chân trí vô ngã, như vào ngôi nhà không, hiện quán sáu xứ trong ngoài đều không. Bấy giờ, vị kia do huệ thông tỏ chỗ dựa nơi các cảnh giới quên niệm, đã sanh các triền phiền não có thể gây tổn hại, cùng tùy miên phiền não, tùy miên tham ái còn sót lại.
Lại tự thông tỏ, ở trong sự nối tiếp có các phiền não, có các tham ái, có các khổ bức, có các tổn hại cùng lỗi lầm. Hết thảy phiền não tham ái, khi chứng đắc Giới Bát Niết-bàn Hữu dư y, thì hoàn toàn tịch tĩnh.
Tiếp sau, lại chứng đắc Giới Bát Niết-bàn Vô dư y.
Vị kia, trước tu tập ví như nhánh cành thân lá của cỏ cây. Chánh pháp nơi Thánh đạo được văn huệ tích tập, pháp tùy pháp hành làm chỗ nương dựa, ở trong tu đạo, chánh cần tu tập, lần lượt chứng tâm khéo giải thoát, trụ nơi Giới Bát Niết-bàn Hữu dư y, tất cả phiền não tai họa đều được giải thoát. Đã trụ ở đấy, nên biết là hoàn toàn vượt qua các khổ, đến nơi bờ giác.
Lại nữa, do bảy nhân duyên, nên ở trong Pháp, Luật khéo giảng nói, tuy xuất gia rồi, trở lại thối bỏ chỗ tu học đúng đắn. Những gì là bảy nhân duyên. Đó là:
1. Các phàm phu chưa có thể vượt qua địa của các phàm phu.
2. Đối với các pháp khổ não của năm thủ uẩn không thể nhận biết rõ đúng như thật về năm chuyển.
3. Các phàm phu đối với những dục diệu phẩm thượng đã không thể quán xét về những lỗi lầm tai họa của chúng.
4. Lúc hành, lúc trụ, thường xuyên buông thả nơi các cảnh giới khả ái, chấp giữ những tướng mạo hiện có không như lý.
5. Không buộc giữ niệm, nên luôn tầm tư phi lý, tầm tư phần trái, xấu của phẩm thiện.
6. Do sợ sệt, hoặc vua quan, hoặc sự việc của nhân khác thét mắng, bức bách, vì sợ hãi nên liền đi theo.
7. Do thân ái, nên đối với quyến thuộc có sự lưu luyến sâu đậm. Những thân thuộc kia nếu mời gọi, thì vì ái luyến tức liền theo họ.
Lại, đối với các cảnh giới, hoặc tùy thuận nơi tham, hoặc tùy thuận theo sân, hoặc tùy thuận theo si, phát khởi các triền phiền não mãnh liệt.
Lại, tức ở trong sự nối tiếp của tâm kia luôn có trói buộc theo. Lại do chỉ tạo được những thắng giải thấp kém, không có các thứ thắng giải rộng lớn, nên đối với các cảnh giới, tâm lại hướng nhập. Do đối với các sự việc như cha mẹ v.v…, không thể để cô độc mà không lưu tâm quyến luyến, nên đối với nẻo xuất ly, tâm không hướng nhập. Do đối với tám Thánh đạo chi không có thắng giải, nên nơi nẻo xa lìa, tâm không hướng nhập. Do ở trong sự đoạn trừ phiền não của quả kia không có thắng giải, nên đối với Niết-bàn, tâm không hướng nhập.
Lược do hai xứ gồm thâu tất cả lậu:
1. Do kiến đạo đoạn.
2. Do tu đạo đoạn.
Nên biết ở đây, tác ý phi lý cùng với cảnh của đối tượng duyên gọi là pháp thuận theo lậu. Nếu các hàng hữu học có thể phát khởi tu đạo đoạn trừ các lậu, là tác ý phi lý nơi cảnh giới của đối tượng duyên, tuy chưa đoạn dứt hoàn toàn, nhưng do diệu huệ đã thông tỏ đúng đắn, nên gọi là, ở trong pháp thuận theo lậu ấy, tâm được tịch tĩnh, cũng có mất niệm tăng thượng sanh khởi triền yếu kém, nên chưa gọi là thanh tịnh mát mẻ, chưa gọi là yên lặng. Nhưng chỗ dấy khởi tất cả kiến đạo đoạn trừ các lậu, đều vĩnh viễn đoạn trừ, nên cũng gọi là thanh tịnh, mát mẻ. Do đối với vị lai không sanh khởi pháp, nên cũng gọi là yên lặng.
Các phàm phu kia đã tạo được các thắng giải thấp kém, đối khắp tất cả pháp thuận với các lậu, tâm không tịch tĩnh, nên không gọi là thanh tịnh mát mẻ, không gọi là yên lặng. Nên biết, do bảy nhân duyên ấy nên trở lại thối, bỏ chỗ tu học chính đáng. Cùng với đấy trái nhau, là bảy nhân duyên của phẩm trắng hiện có. Tức ở trong Pháp-Luật khéo thuyết giảng, đã xuất gia rồi, trọn không thối chuyển, từ bỏ chỗ tu học chính đáng.
Lại nữa, hoặc có Bí-sô, dựa nơi bốn xứ chấp trước, nên biết vị ấy hành bốn thứ hành tà.
Những gì gọi là bốn thứ xứ chấp trước? Đó là:
1. Như có Bí-sô, đối với xứ trong ngoài đều có tham ái, nên có thể chiêu cảm hữu sau. Ở trong hiện pháp không vui thích Niết-bàn. Đó là xứ chấp trước thứ nhất.
2. Lại có Bí-sô, trước đã xả bỏ các sự việc hiện có bên ngoài, như cha mẹ v.v…, giờ lại có sự luyến tiếc trói buộc tâm. Như thế gọi là xứ chấp trước thứ hai.
3. Lại, như có một Bí-sô, ở trong hiện pháp mong cầu tất cả lợi dưỡng, sự cung kính. Đối với các chỗ đạt được những thứ ấy, tâm luôn tham đắm không bỏ. Như thế gọi là xứ chấp trước thứ ba.
4. Lại, như có một Bí-sô, là hàng hữu học, đã kiến đế tích, nhưng ngã mạn hãy còn, là chỗ đeo đuổi của phần ít tham ái, đối với việc tu tập để trừ bỏ thì trụ trong phóng dật. Như thế gọi là xứ chấp trước thứ tư.
Thế nào gọi là bốn thứ hành tà? Đó là:
1. Nghĩa là Bí-sô kia đầu tiên là yêu thích hữu sau nơi hữu tình, nên ở trong hiện pháp không vui thích Niếtbàn. Hoặc các hàng hữu học hành nơi phóng dật, do sức tăng thượng của xứ chấp trước ấy, nên vui thích việc tại gia và chúng xuất gia cùng tạp trụ. Như thế gọi là hành tà thứ nhất.
2. Lại có Bí-sô, tức trước yêu thích hữu sau nơi hữu tình. Do sức tăng thượng của việc yêu thích hữu sau, nên phát khởi nguyện tà, hành theo phạm hạnh. Như thế gọi là hành tà thứ hai.
3. Lại có Bí-sô, đối với chỗ xả bỏ sự việc bên ngoài ở trước, đã có luyến tiếc. Do sức tăng thượng của xứ chấp trước kia, nên có thể khiến khởi, bỏ chỗ tu học chân chánh. Như thế gọi là hành tà thứ ba.
4. Lại như có Bí-sô, nơi đời hiện tại mong cầu lợi dưỡng cùng sự cung kính, đối với chỗ đạt được các thứ ấy, tâm tham đắm không bỏ. Do sức tăng thượng của xứ chấp trước ấy, nên hủy phạm giới luật, nói rộng cho đến nói, hành đều sai lạc, công nhiên phạm giới. Như thế gọi là hành tà thứ tư.
Lại nữa, có các Bí-sô, đối với nghĩa, không khéo theo kẻ khác nghe nhận vô số ngôn thuyết về một nghĩa của văn tự, liền mang do dự không sanh hoan hỷ. Nay ở trong ấy, cái gì là thật?
Lại có bốn thứ, có thể sanh môn không điên đảo của trí kiến thanh tịnh vi diệu. Những gì là bốn? Đó là:
1. Hết sức siêng năng, tinh tấn quán xét về Khổ. Đối với nhân thọ sanh, diệu trí nhận biết như thật.
2. Lại, đối với sự nương giữ cùng nhân của chỗ dựa, diệu trí nhận biết như thật.
3. Lại, đối với nhân trụ, diệu trí nhận biết như thật.
4. Lại, đối với tự tánh, trợ bạn của duyên nương, tùy thuận nơi hành khổ vui, không khổ vui, diệu trí nhận biết như thật.
Lại, do hai duyên nên Đức Như Lai diệt trừ nơi nghĩa do dự hiện có của hữu tình bất thiện:
1. Hiển thị vô số văn từ biểu hiện một nghĩa. Văn có sai biệt, nghĩa không sai biệt. Do đấy có thể khiến đoạn trừ do dự.
2. Mở bày làm rõ nghĩa rộng của Thánh giáo, do đấy có thể khiến thông đạt nghĩa kia.
Thế nào gọi là nghĩa rộng của Thánh giáo? Tức là từ địa tư lương cho đến lậu dứt hết, đều gọi là nghĩa rộng của Thánh giáo.
Ở đây, căn của biên vực thánh thục an trụ. Đức Như Lai giáo hóa tương ưng với vô ngã, khéo thọ nhận, văn tư kiên cố tạo thành chánh kiến đã thành tựu. Đây là nương dựa, đây là kiến lập. Ở riêng nơi chốn vắng lặng, duyên nơi xứ trong ngoài theo bốn thứ thức trụ. Vì muốn đoạn trừ các thức có thủ, nên tu tuần tự về thân niệm, là chỗ thâu nhận của Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na thù thắng. Do uy lực của sự thân cận tu tập, nên phát sanh duyên như thật nơi trụ thứ nhất, tiếp cận với hiện quán, Chỉ Quán song hành. Từ đấy, ở trong Thánh đế không gián đoạn, có thể hội nhập nơi hiện quán, lại tu tập nữa, như chỗ đắc đạo do dần tiến tới, nên có thể chứng đắc tất cả các lậu vĩnh viễn dứt hết. Như có thể duyên như thật nơi thức trụ thứ nhất, cho đến duyên như thật nơi thức trụ thứ tư, nên biết cũng thế.
Lại nữa, như trước đã nói, hữu tình không giữ gìn căn môn, các triền phiền não hiện tiền không bỏ, xét chọn của thế gian và xuất thế gian, tu tập hai lực đối trị có chỗ thiếu sót, khiến phiền não sanh rồi, tánh nhiều chấp chặt, nên đi tới trụ xứ dùng các cảnh giới để mê hoặc. Như thế, Ma kia đối với các hữu tình tánh chấp trước nơi các triền phiền não nên có thể thao túng, vì nhằm mê hoặc nơi sự an lập nối tiếp theo đối tượng duyên.
Lại, các hữu tình không gìn giữ căn môn như thế, nên đối với Bát Niết-bàn, sự mong muốn vui thích yếu kém, thân ái yếu kém. Ví như những gian nhà bằng cỏ lau khô mục, Ma liền đối với các chốn ấy tích chứa các cảnh giới khả ái là lửa đuốc để thiêu rụi hết.
Do hai nhân duyên, nên các hữu tình kia thường bị cảnh giới che phủ:
1. Các triền chưa sanh, khiến sanh.
2. Các triền đã sanh, khiến nối tiếp.
Do bị cảnh giới ái che phủ, nên lúc truy tìm rộng khắp các cảnh giới, phần nhiều hành theo vô số hành ác bất thiện. Nơi lúc hành các hành tà ác như thế, lại bị vô số các pháp ác bất thiện che lấp, như trước đã nêu. Hành theo hành tà rồi, thì hành lạc đường, men theo dòng chảy mà đi, gọi là kẻ thuận theo dòng chảy sanh tử. Cùng với đấy trái nhau, là phẩm trắng hiện có, nên biết đó gọi là người không thuận theo dòng chảy sanh tử.
Lại nữa, do tám thứ tướng, nên biết là gồm thâu chung các loại hành đạo chân chánh của Bồ tát hữu sau:
1. Do thương xót.
2. Do dũng mãnh.
3. Quán xét kỹ về tánh của pháp nhẫn hiện tiền.
4. Có thể xuất ly.
5. Tự nội phát khởi hành quán đế.
6. Khéo tu tập chánh kiến thế gian rộng lớn hiện tiền.
7. Do đạt được pháp Bồ đề phần vô lậu nên được thanh tịnh.
8. Do khéo tu tập giác phần thanh tịnh, cùng tiến tu đạo thuần tịnh vô thượng, nương dựa nơi sáu xứ, tu tập đầy đủ, nên đạt được sáu thứ công đức viên mãn tối thắng vô thượng.
Nên biết ở đây, các Đại Bồ tát đối với các hữu tình luôn luôn thương xót, huân tu nơi tâm, trụ nơi hữu sau cùng, thấy những kẻ ngu tối rơi xuống sông tham ái, trôi nổi theo dòng chảy sanh tử, bị năm thứ tướng khổ bức bách. Đã quán thấy rồi, liền khởi đại bi sâu xa. Những gì là năm tướng? Đó là:
1. Thấy các hữu tình kia rơi xuống sông tham ái, không tầm tư đúng đắn, luôn bị thứ nước không đáng yêu thích xô đẩy nhận chìm.
2. Thấy các hữu tình kia, nơi sáu xứ trong ngoài, bị ba thứ lửa độc đốt cháy, khó trụ nơi hai bờ.
3. Thấy các hữu tình kia, ở nơi cõi Dục có rất nhiều sầu khổ, vô số tai họa, các thứ gai nhọn bày khắp bên dưới.
4. Thấy các hữu tình kia, ở nơi cõi Sắc, mắt huệ của thế gian đã được đầy đủ, mắt huệ của các Thánh có chỗ thiếu sót, cũng như cảnh tối tăm ở tại trên ấy.
Đã thấy các loài hữu tình rơi xuống sông tham ái như thế, đối khắp tất cả đều không tịch tĩnh, hoặc xúc chạm, hoặc ở nơi bờ, hoặc bị khổ dưới giữa trên bức bách, nên Bồ tát phát khởi đại bi. Đó gọi là thương xót.
Lại, tức thành tựu tâm thương xót kia, hoặc sanh nơi vương gia, hoặc sanh nơi nhà là thầy dạy của vua, tuy chưa xuất gia, nhưng tâm dấy khởi nguyện dũng mãnh: Ta nay nhất định sẽ thông đạt diệu tích, hướng tu phạm hạnh, trọn không thối chuyển. Như thế gọi là bên trong hưng khởi dũng mãnh.
Lại, Bồ tát kia, tức nơi phần vị chưa xuất gia, ở dưới bóng cây
Thiệm bộ, một mình an tọa tư duy, liền có thể chứng nhập Tĩnh lự thứ nhất. Sau, đối với pháp lão bệnh tử của mình, người, quán xét đúng, kỹ, có thể quyết định nhẫn thọ. Như thế gọi là xét kỹ về pháp nhẫn nơi tự hiện tiền. Lại, Bồ tát kia, từ nơi đời trước đã hành tập thiện căn, là chỗ biết rõ, phát khởi của tất cả hành thiện. Lại, do lực tăng thượng của sự dũng mãnh, xét kỹ về pháp nhẫn, nên liền có thể dứt bỏ dục diệu rộng lớn, tịnh tín xuất gia, tuy không thiết lập phạm hạnh đúng đắn, nhưng có thể tự nhiên thọ trì giới cấm. Do giới cấm này làm chỗ nương dựa, nên lần lượt có thể chứng đắc, cho đến xứ Phi tưởng phi phi tưởng. Như thế gọi là có thể xuất ly.
Lại, Bồ tát kia vì muốn từ bỏ đạo thế gian, chính thức cầu xuất ly. Do đối với bậc Đẳng Chánh Giác của đời trước, đã đạt được nẻo xuất ly rốt ráo vô thượng, lãnh hội, thắng giải đúng đắn, tích tập huân tu, thân nối tiếp, nên đối với đạo thế gian đều không tin, vui. Do nhân duyên ấy, nên đi tới cội bồ đề. Tức dựa nơi thời gian trước, quán về đạo lão bệnh tử giả tưởng, nơi tướng của các đế thứ lớp quán xét, khởi tư duy: Các loài hữu tình của thế gian này, rơi rớt tại vô số các khổ của hiểm nạn, có sanh có lão có bệnh có tử, nhưng họ không thể đối với lão bệnh tử xuất ly rốt ráo, nhận biết rõ đúng như thật về thứ lớp như thế. Quán nơi lão, tử, quán nơi tập của lão, tử. Quán nơi diệt của lão, tử. Quán có thể hướng đến, chứng đắc hành diệt lão, tử. Tác ý như lý làm chỗ dựa, từ lâu đã tích tập tư lương lớn. Do huệ câu sanh nên có thể giác ngộ tánh của tất cả pháp. An trụ nơi pháp trụ pháp giới của các pháp. Như thế gọi là tự nội phát khởi hành quan sát đế.
Lại, Bồ tát kia muốn cầu lậu trên được dứt hết, nên tạo phương tiện phát khởi trí túc trụ niệm, nhớ nghĩ về đời trước, từ trụ xứ của chư Như Lai Chánh Đẳng Giác, nơi đạo lậu tận tích chứa, hành tập văn, tư. Do sự phát khởi ấy, nên trải qua thời gian dài tích tập chánh kiến thế gian khiến được hiện tiền. Nhưng chánh kiến này, như kẻ chỉ dạy, trao truyền, dùng đấy làm chỗ dựa, có thể khiến cho Bồ tát ở yên nơi một chỗ ngồi, cho đến chứng đắc lậu dứt hết rốt ráo. Như thế gọi là khéo tu chánh kiến rộng lớn hiện tiền.
Lại do chánh kiến hiện có của Bồ tát kia, như kẻ chỉ dạy trao truyền, lần lượt thắng tiến, trước đã xa lìa các dục của địa dưới, cho đến xứ Vô sở hữu của cõi Vô sắc. Nên lúc ở nơi Thánh đế đắc hiện quán, liền chứng bốn niệm trụ vô lậu v.v…, cho đến sau cùng là tám Thánh đạo chi nơi tất cả pháp Bồ đề phần hiện có. Được nêu lên sau rốt, nên biết cũng gồm thâu tất cả phần vị trước. Do đạt được pháp kia, nên thành tựu quả Bất hoàn. Do đạt được pháp Bồ đề phần vô lậu, thế nên gọi là đạt được thanh tịnh, mát mẻ. Bồ tát kia, do đạt được an lạc rốt ráo của thế gian như vậy, đạt được an lạc vô lậu xuất thế gian, được thanh tịnh, mát mẻ, nên gọi là lìa mọi bùng cháy. Do đạo thế gian, cho đến đã lìa phiền não hệ thuộc xứ Vô sở hữu, cùng đã xa lìa các thứ phiền não do kiến đạo đoạn, nên gọi là lìa nhiệt não. Vì nhằm đoạn trừ vĩnh viễn, rốt ráo các phiền não hệ thuộc cõi Hữu đảnh, nên lại siêng năng tu tập thuần đạo vô lậu. Đó là tu tập giác chi vô thượng, nên gọi là tiến tu tu đạo vô thượng. Do sự tu tập ấy, nên trong địa vô học có sáu thứ pháp tu viên mãn rốt ráo:
1. Tu thần thông Thánh viên mãn rốt ráo.
2. Tu tịnh năm căn viên mãn rốt ráo.
3. Chứng đắc lìa mọi trói buộc của các phiền não cùng tập khí, hoàn toàn viên mãn rốt ráo.
4. Chứng đắc bốn thứ hiện pháp lạc trụ viên mãn rốt ráo.
5. Chứng đắc Tĩnh lự thế gian cùng các đẳng trì đẳng chí giải thoát viên mãn rốt ráo.
6. Chứng đắc danh thân, cú thân, văn thân, thuận theo chỗ mong muốn, tuyên thuyết Chánh pháp không gặp khó khăn trở ngại, viên mãn rốt ráo.
Nên biết ở đây, tu tịnh tín căn đầy đủ rốt ráo: Nghĩa là đối với Niết-bàn, ý lạc thanh tịnh. Tu căn tinh tấn viên mãn rốt ráo: Tức là có thể dũng mãnh tạo tác nghĩa lợi cho tất cả hữu tình, hoàn toàn thanh tịnh. Tu tập niệm căn viên mãn rốt ráo: Là pháp không quên mất của ba niệm trụ, hoàn toàn thanh tịnh. Tu tập định căn viên mãn rốt ráo: Tức là đối với Thánh trụ, Thiên trụ cùng với Phạm trụ đều khéo thanh tịnh. Tu tập huệ căn viên mãn rốt ráo: Nghĩa là mười trí lực khéo thanh tịnh.
Bồ tát kia do có thể an trụ nơi sáu xứ tu tập nhân viên mãn như thế, nên được gọi là đại vương, là bậc Pháp vương, do chứng đắc sáu thứ viên mãn ấy. Nghĩa là do sức tăng thượng của thần thông bậc Thánh, nên đạt được nhiều của cải, giàu sang tự tại viên mãn. Do sức tăng thượng của các căn thanh tịnh, nên đạt được nhà cửa rộng lớn tự tại viên mãn. Do sức tăng thượng của việc đoạn trừ các phiền não, nên được thọ dụng các tọa cụ, ngọa cụ an lạc tự tại viên mãn. Do sức tăng thượng của hiện pháp lạc trụ, nên ở trong nhà cửa, tọa ngọa cụ, chứng đắc đại an lạc trụ đệ nhất, không có các tổn não, tự tại viên mãn. Do sức tăng thượng của Tĩnh lự, đẳng trì đẳng chí giải thoát, nên chứng đắc có thể thành tựu các sự việc lợi ích chân chánh cho tất cả hữu tình, hỷ lạc diệu dụng tự tại viên mãn. Do sức tăng thượng của việc đối với các thứ danh cú văn thân được tùy theo chỗ mong muốn, tuyên thuyết Chánh pháp không gặp khó khăn trở ngại, nên được gọi là Pháp vương, có thể đối với kẻ khác thể hiện sự bình đẳng, phân bố tác dụng tự tại viên mãn. Như thế gọi là sáu xứ tu tập viên mãn làm chỗ dựa, chứng đắc sáu thứ tự tại viên mãn.
Lại nữa, lược có bốn thứ tìm cầu ngã luận, do luận này nên nơi kẻ Tát-ca-da-kiến chưa được đoạn trừ vĩnh viễn, tầm tư cầu ngã thường xuyên hiện hành. Bốn thứ tìm cầu là:
1. Tìm cầu ngã, ngã dùng cái gì làm tự tánh.
2. Tìm cầu ngã, ngã là thường hay là vô thường.
3. Tìm cầu, vì sao ngã là thường, vô thường?
4. Tìm cầu ngã, ngã sở hữu trụ tại xứ nào? Nên biết ở đây, lược có bốn thứ tìm cầu về ngã:
1. Tìm cầu tự tánh.
2. Tìm cầu về chuyển.
3. Tìm cầu về nhân.
4. Tìm cầu về trụ xứ.
Trong ấy, ba thứ đầu có thể thiết lập được các hành sai biệt. Lại, sự thiết lập này có thể không điên đảo. Một loại thứ tư, do tất cả thứ, hoàn toàn không thể thiết lập được sự sai biệt.
Nên biết, thiết lập về tự tánh của ngã: Tức là thiết lập mười hai thứ xứ đã sanh khởi sáu thức cùng thọ tưởng tư dùng làm ngã. Vượt quá đấy thì ngã còn lại không thể được.
Lại, ngã này thể tức là vô thường, do có sanh, giả, chết.
Lại, các hành ấy do đối với các nẻo, tự thể sanh khởi có vô số sai biệt, không thành thật, nên nói như sự huyễn. Tâm tưởng kiến đảo mê loạn tánh, nên gọi là như dợn nắng. Là pháp sanh khởi, diệt tận, nên gọi là có tăng giảm. Tánh của sát na, nên gọi là tạm thời. Luôn luôn hoại rồi chóng vánh có khác. Thường xuyên nối tiếp, nên gọi là mau hiện tiền tương tục. Lại không từ đâu, tới không chỗ đến, thế nên gọi là xưa không nay có, có rồi tan diệt. Do tướng như thế, nên lược nói thân sanh lần lượt vô thường, cùng có nhân sát na nối tiếp vô thường. Ba thứ như thế, thiết lập như lý về tự tánh của ngã, hoặc chuyển hoặc nhân. Thiết lập về trụ xứ hiện có, trọn không thể đạt được. Do trong các hành, lìa tánh của các hành, riêng có thật ngã trụ trong các hành không thể thủ đắc.
Do nhân duyên này, nên căn cứ nơi Thế tục đế, các hành hãy còn hoàn toàn không thể thiết lập, huống hồ là đối với Thắng nghĩa. Vì vậy, toàn bộ nơi Không lập không. Như thế, do tâm tác ý như lý, nên văn (nghe) hiểu rõ, tư cùng xét rõ, tu chắc thật rõ, như thứ lớp nêu bày có sai biệt, phải nên hoan hỷ, phải nên cùng hoan hỷ, phải nên hoan hỷ khắp.
Lại nữa, tụng nêu:
Trên tham dạy trao cùng khổ trụ
Quan sát, dẫn phát không ứng cúng
Minh giải thoát, tu luận vô ngã
Pháp định kiến Khổ là sau cùng.
Do ba nhân duyên, nên hữu tình đối với cảnh của đối tượng duyên hành tham thuộc phẩm thượng. Những gì là ba? Đó là:
1. Mạnh mẽ chứ không phải yếu kém.
2. Đoan nghiêm chứ không phải xấu xí.
3. Quen với tham chứ không phải xả tham.
Lại do ba thứ đối trị, thâu nhận, hãy còn khiến cho hữu tình ôm giữ tham phẩm thượng như thế, ở trong Pháp-Luật khéo thuyết giảng, siêng tu phạm hạnh, điều phục nơi tâm khiến được tịch tĩnh, huống hồ là chỉ mang giữ tham nhỏ của phẩm trung, hạ, là phần vị bạc trần. Ba thứ đối trị là:
1. Giữ gìn kín, chặt căn môn làm chỗ nương dựa, xa lìa tất cả biên dục lạc.
2. Đối với ăn uống nên biết lượng, đầu đêm cuối đêm giảm thiểu ngủ nghỉ làm chỗ nương dựa, xa lìa tất cả biên tự khổ.
3. Chánh niệm, chánh tri tối thắng làm chỗ nương dựa, hành nơi Trung đạo theo nẻo xuất ly.
Nên biết ở đây, nơi bốn niệm trụ, tâm khéo an trụ. Hoặc vào lúc hành, cảnh giới hiện tiền. Hoặc không giữ lấy nơi tướng cùng với tùy hảo, nhận biết rõ như thật về sanh trụ diệt của thọ. Nếu giữ lấy nơi tướng cùng với tùy hảo, nên nhận biết rõ như thật về sanh trụ diệt của tưởng. Hoặc vào lúc trụ, nhận biết rõ như thật về sanh trụ diệt nơi tầm tư của nhân kia. Do tướng như thế, chánh niệm chánh tri, nơi tất cả thời, nơi tất cả thứ cảnh giới của đối tượng duyên, có thể như phép tắc đúng đắn để giữ gìn tâm. Đó gọi là chánh niệm chánh tri tối thắng.
Lại có chánh niệm chánh tri tối thắng: Nghĩa là đã đạt được định Diệt tận, hoặc đã đạt được định Vô tưởng, hoặc đã đạt được định không tầm tứ. Nên biết, nương dựa nơi Thánh trụ, Thiên trụ, ngoại trừ chánh niệm tri trụ tối thắng này thì không có thứ khác nào có thể vượt hơn.
Hoặc từ nơi diệt định khởi rồi, an trụ, hoặc sắp nhập định, theo phương tiện mà trụ, nhận biết rõ đúng như thật về sanh trụ diệt của thọ, đó gọi là chánh niệm, chánh tri tối thắng.
Như dựa nơi Diệt tận định, nhận biết đúng như thật về thọ, dựa nơi định Vô tưởng để nhận biết đúng như thật về tưởng, dựa nơi định không tầm không tứ để nhận biết rõ như thật về tầm tứ hiện có, nên biết cũng thế. Do chánh niệm chánh tri tối thắng ấy, chỉ nhận lấy pháp, không đối với tầm tứ thọ tưởng như thế khởi phân biệt hư vọng về ngã, ngã sở.
Nếu các kẻ ngu, khi tầm tứ về thọ tưởng sanh khởi sai biệt, đối với pháp như thọ v.v… không thể phát khởi chỉ có tưởng pháp, chỉ tạo niệm: Ta có thể lãnh nhận, cho đến nói rộng. Do nhân duyên ấy, nên kẻ kia hãy còn không có chánh niệm chánh tri, huống hồ là đạt tối thắng.
Ở đây, nói chánh niệm chánh tri, sau là hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A-la-hán, nên biết nói chánh niệm chánh tri trước, là từ chỗ các phần vị phàm phu đạt được tác ý không phóng dật, cho đến quả Nhất lai.
Lại nữa, do hai nhân duyên, Đức Như-lai tự nói, mình tuổi cao, thân lực mỏi mệt, khuyên các Thanh văn thỉnh vị khác thuyết pháp:
1. Vì khiến cho người cậy mình tuổi trẻ, chuyên hành kiêu ngạo, trụ nơi phóng dật tự biết chán sợ.
2. Vì nhằm khiến cho, có các Bí-sô nơi đời vị lai tuổi cao sức yếu, xa lìa nghi hối, khi khuyến thỉnh các Bí-sô tuổi trẻ v.v… tuyên thuyết Chánh pháp. Hoặc có các Bísô tuổi tác đang độ khỏe mạnh, tươi vui, đầy đủ uy lực, không có e ngại vì vị khác thuyết pháp.
Nên biết ở đây lược có hai thứ chốn đại tập hội, tuyên thuyết Chánh pháp:
1. Quyết trạch thuyết.
2. Trực ngôn thuyết.
-Quyết trạch thuyết: Nghĩa là dấy khởi phương tiện để cật vấn nêu xét, thuyết giảng đạo lý diệt trừ nghi hoặc.-Trực ngôn thuyết: Nghĩa là các thính chúng im lặng mà trụ, như Pháp sư thuyết giảng, tuyên thuyết Chánh pháp.
Lại do bốn tướng, gọi là có thể tùy thuận chỉ dạy trao truyền, khuyên răn:
1. Có thể phân tích các xứ sai biệt. Ở trong các hành đạt được trí kiến vô ngã thanh tịnh.
2. Kiến thanh tịnh, đối với các thọ cùng chỗ dựa đều diệt, lìa tăng thượng mạn, đạt tịch tĩnh tột bậc.
3. Kiến thanh tịnh có thể vượt khỏi các khổ của vị lai.
4. Kiến thanh tịnh có thể vượt khỏi các khổ của hiện tại.
Ở đây, phân tích các xứ trong ngoài với các thức xúc thọ tưởng tư ái riêng biệt. Hiển thị vô ngã, do dựa nơi đạo lý của phương tiện duyên khởi, nên có thể dẫn phát chánh kiến thanh tịnh thứ nhất. Như ánh sáng dựa nơi ngọn đèn, như bóng dựa vào cây, kia không có nên đây cũng không có.
Hiển thị các xứ trong ngoài có sai biệt, là nhân nơi các thọ, do các xứ kia vắng lặng rốt ráo, nên các thọ đây cũng tùy diệt. Lìa tăng thượng mạn, đối với Niết-bàn nhận biết rõ đúng như thật là tịch tĩnh tối thắng, có thể dẫn đến chánh kiến thanh tịnh thứ hai. Ở trong hiện pháp, dùng đao trí huệ có thể đoạn dứt vĩnh viễn tất cả phiền não.
Hiển thị sự vượt khỏi rốt ráo các khổ hiện có của vị lai, có thể dẫn đến chánh kiến thanh tịnh thứ ba. Hiển thị ở trong khắp tất cả pháp thuận khổ thuận lạc thuận phi khổ lạc, không khởi tham dục, không khởi sân hận, không khởi ngu si. Hiển thị kiến đạo, đối với niệm trụ tâm khéo an trụ. Hiển thị tu đạo, tu các giác phần. Nghĩa là khiến cho các lậu vĩnh viễn dứt hết. Vượt khỏi khổ trụ của tạp nhiễm nơi hiện pháp, có thể dẫn đến chánh kiến thanh tịnh thứ tư.
Lại nữa, có các Bí-sô, không giữ căn trụ, đối nơi các cảnh giới tâm phần nhiều ái nhiễm, tâm phần nhiều tán loạn, do nhân duyên ấy nên thọ nhận hai thứ khổ:
1. Khổ do thô trọng tạo nên.
2. Khổ do ở trong các pháp nghi hoặc tạo nên.
Vì sao? Vì do phương tiện kia nên siêng năng tu thân. Siêng năng tu thân rồi, nên siêng năng tu chi Xama-tha của Giới. Do không tu thân, cũng không tu chi Xa-ma-tha của Giới làm nhan duyên, nên thân không khinh an, tâm không khinh an. Vì thế, Bí-sô kia nhận lấy khổ do thô trọng tạo nên.
Khinh an thiếu nên không thể xúc chứng Tam-mađịa thù thắng. Do nhân duyên này, nên đối với việc nhận biết đúng như thật, không nhận biết đúng như thật, phần nhiều sanh nghi hoặc. Vì vậy, Bí-sô kia thọ nhận khổ do nghi hoặc đối với các pháp tạo nên. Do trụ nơi hai thứ khổ não ấy, nên gọi là, vì sức nơi duyên tăng thượng của việc không giữ gìn các căn, nên phải chịu các khổ, trụ không an ổn. Như thế gọi là, ở trong hiện pháp, do không giữ gìn các căn, nên có các lỗi lầm tai họa. Cùng với đây trái nhau, nên biết tức là các công đức hiện có do giữ gìn các căn.
Lại nữa, có các Bí-sô vì lìa dục tham nên siêng tu phương tiện. Do tu tập đúng đắn đạo gia hạnh, nên điều phục các phiền não, khởi tư duy: Ta đối với các dục là có dục tham mà không biết rõ, hay là không có? Bèn dùng tướng tịnh tác ý tư duy, đối với việc đoạn trừ chưa đoạn trừ mới được quyết định. Quán sát tác ý làm chỗ dựa, tìm cầu nơi chốn sanh khởi tham dục, nhận biết rõ như thật, nhớ nghĩ phân biệt, các phiền não này là xứ an túc hơn hết, do chúng chưa được đoạn trừ vĩnh viễn. Nêu lúc bị phiền não loạn động nơi tâm, nhận biết rõ có thể hướng tới phần thấp kém nên liền chế phục. Nếu không chế phục, thì đối với phần ít Tam-ma-địa đã được ở trước, hãy còn trở lại thối mất, huống hồ là có thể tiến tới công đức của phẩm thù thắng. Do thâu tóm, chỉnh đốn, nên có thể không thối chuyển, cũng có thể tiến đến công đức của phẩm thù thắng.
Nếu không quán xét, trở lại phát khởi tăng thượng mạn, nên cũng có thối, mất. Do quán xét, nên có thể chứng đạt quyết định. Nếu tâm bị loạn động, có thể nhận biết rõ, đúng, trở lại chỉnh đốn gồm thâu, vì thế không thối chuyển.
Như tu phương tiện, vì lìa dục tham, thì đối với phần vị trên còn lại, theo chỗ ứng hợp, nên biết cũng thế.
Nếu lúc kiến mạnh mẽ, quán xét kỹ, nhưng không sanh khởi, Bí-sô kia liền đạt được thắng giải quyết định: Ta đối với các xứ đã có thể chế phục, hơn hẳn. Nghĩa là đối tượng duyên này nên sanh phiền não, ta ở nơi xứ ấy đã chế phục, hơn hẳn, khiến phiền não không sanh khởi.
Vượt quá học địa. Cũng như vị đại vương có thể tùy theo tâm mình tự tại mà chuyển. Hàng phục tất cả trụ xứ của Ma-la, chứng đắc tận trí, vô sanh trí rốt ráo, phạm hạnh viên mãn.
Lại nữa, đối với sáu căn như trước đã nói, năm tướng tịch tĩnh không được tịch tĩnh, nên biết là phải thâu nhận ba thứ quả khổ. Nghĩa là trong hiện pháp, dựa nơi phần tạp nhiễm tăng thượng của căn mà trụ, do các thứ bất thiện hiện hành làm nhân. Hoặc trở thành thối chuyển, thua kém đối với kẻ khác. Hoặc bị chê trách. Hoặc bị sát hại. Tức thọ nhận các khổ của hiện pháp như thế.
Lại thọ nhận vô số các khổ của sanh lão bệnh tử nơi vị lai. Lại thọ nhận đẳng lưu của vị lai, do trước thường xuyên hành tập, dẫn phát. Các tạp nhiễm do không giữ gìn các căn, cũng gọi là khổ. Cùng trái hẳn với đây, tức là đối với sáu căn, do có năm thứ tướng tịch tĩnh, nên biết là thâu nhận ba quả khổ diệt.
Lại nữa, lược có hai loại Phạm chí thế tục: Thật sự không phải là phước điền, nhưng ôm giữ tăng thượng mạn, tự cho là phước điền, nhưng ôm giữ tăng thượng mạng, tự cho là phước điền, tự xưng ta là phước điền chân thật, nên biết là đã tạo thành tánh và tướng của phước điền không thật, không nên cúng dường. Đó là:
1. Từ nơi kẻ khác đạt được lợi dưỡng, sự cung kính, hiện tiền tham đắm mãnh liệt. Các căn tham lam ăn uống, là tánh nhiễu loạn, trá hiện trước mọi người là hành lìa dục.
2. Thâu nhận tài sản gia đình, cùng với hàng thân thuộc cư trú lẫn lộn. Chuyên tự tu thân theo nẻo thô, uế.
Phàm chỗ hành trì, hành đã không tự lợi, cũng không phải lợi tha. Xa lìa hành chánh pháp chánh của Thi-la. Xa lìa hành thiện có thể trụ nơi nẻo thiện. Xa lìa hành diệu có thể trụ nơi Niết-bàn. Nên biết kẻ ấy, cùng với tất cả hàng phàm phu ngu tối không có sai biệt. Trụ nơi Chánh pháp, cùng với đấy trái nhau, nên biết đó gọi là Phạm chí thắng nghĩa.
Lại nữa, ngoài Chánh pháp này, có các Sa-môn Bàla-môn, lúc về các đệ tử nêu giảng pháp, phần nhiều vì cầu thắng lợi đối với các thứ cật vấn, cùng cầu thắng lợi vì thoát khỏi vấn nạn của kẻ khác, nên biết việc nêu giảng pháp như thế, theo Đệ nhất nghĩa là vô nghĩa vô lợi, không tự lợi ích, cũng không lợi ích cho kẻ khác. Chư Phật Như Lai, vì các đệ tử tuyên thuyết Chánh pháp, chỉ vì chứng đắc thắng lợi của hai quả là Minh và Giải thoát, nên biết việc nêu giảng Chánh pháp như thế là quả lớn, lợi lớn, tự lợi lợi tha thảy đều viên mãn. Hành nơi ba đời không quên mất, trụ nơi nghĩa tối thắng, nên đối với ba thứ cảnh của đối tượng duyên có sai biệt, gọi là ba minh. Hoặc tâm giải thoát, hoặc huệ giải thoát đều gọi là giải thoát, là đối trị thắng vượt tạp nhiễm căn bản của vô minh, ái.
Vì đạt được chưa đạt được Minh cùng với Giải thoát, nên biết lược có bốn thứ tu đạo. Tức là tu căn, nên có thể tu thân đúng đắn. Tu thân đã dẫn đến tu hành thiện, nên có thể tu giới đúng đắn. Tu giới, đã dẫn đến tu niệm trụ, giác chi thuận hợp, nên có thể tu tâm, huệ.
Ở đây, tu căn lại có ba thứ:
1. Tu thế gian.
2. Tu hữu học.
3. Tu vô học.
Nếu do lực xét chọn làm chỗ nương dựa, tuy nhận lấy tướng không như lý của cảnh khả ái không khả ái, nhưng không phát khởi các triền phiền não, nếu như khiến vừa dấy khởi thì liền dứt trừ, là tu thế gian.
Nếu đối với Thánh đế đã được hiện quán, do mất niệm nên hoặc sanh hợp ý hoặc không hợp ý, hoặc gồm cả hai, nhưng tâm không bị trói buộc mà trụ vững, mau chóng đối với tạp nhiễm có thể được giải thoát, là tu hữu học.
Hoặc nơi tâm này an trụ vững chắc, như trước đã nói đối với bên trong không có hẹp hòi, khéo thoát khéo tu, tất cả đều không thấp kém đến mất niệm. Đối với các thứ vừa ý không vừa ý, phát tâm gần gũi, xét kẻ kia có đức nên hướng đến, đó gọi là tu vô học tịnh. Như tu căn, nên biết tu giới, tu tâm, tu huệ, ba thứ cũng vậy.
Ở đây, đầu tiên là chỗ dẫn khởi của tu căn thứ nhất. Tu căn thứ hai là chỗ dẫn khởi thứ hai. Tu căn thứ ba là chỗ dẫn khởi thứ ba.
Tu giới, tu tâm, tu huệ cùng đối chiếu, đều có ba thứ chỗ dẫn khởi, nên biết cũng thế.
Ở đây, cảnh giới hợp ý không hợp ý có sai biệt, nên hữu tình có ân có oán sai biệt. Công đức, lỗi lầm tương ưng nơi hữu tình có sai biệt. Được yêu thích, không được yêu thích nơi hữu tình có sai biệt. Nên biết, hoàn toàn vừa ý, hoàn toàn không vừa ý, vừa ý không vừa ý cùng xen lẫn có sai biệt.
Cảnh giới hợp ý không hợp ý có sai biệt: Tự có cảnh giới hoàn toàn hợp ý. Tự có cảnh giới hoàn toàn không hợp ý. Tự có cảnh giới về loại lẫn lộn, một phần ít hợp ý, một phần ít không hợp ý.
Hữu tình như vậy, hoặc hoàn toàn có ân, hoặc hoàn toàn có oán, hoặc ân oán cùng xen lẫn. Hoặc hoàn toàn có được. Hoặc hoàn toàn có mất. Hoặc được mất cùng đủ. Nếu nơi hữu tinh ái lại sanh ái, nên biết hoàn toàn là đối tượng của ái. Nếu nơi hữu tình sân lại sanh sân, nên biết hoàn toàn không phải là đối tượng của ái. Nếu đối với hữu tình ái đã sanh giận, hoặc nơi hữu tình giận đã sanh ái, nên biết đó gọi là đối tượng của ái, không phải là đối tượng của ái.
Do các nhân duyên sai biệt như thế, nên ba thứ như vừa ý v.v… có sai biệt.
Lại, nơi hành ác tùy quán hiện pháp với lỗi lầm hiện có. Tùy quán vị lai với lỗi lầm hiện có. Thế nên xa lìa chúng, tu tập hành diệu. Nếu đối với sáu xứ, do tất cả môn đều bị phỉ báng, đó gọi là lỗi lầm hiện có của hiện pháp. Vì nhân duyên ấy, nên bị đọa vào nẻo ác, đó gọi là lỗi lầm hiện có của vị lai.
Ở đây, bị kẻ khác hủy báng: Nghĩa là bị ngoại đạo cùng những kẻ có nhiều hiểu biết của thế gian. Nên biết, ngoài ra tức như đã nói.
Lại, ở đây nói tu niệm trụ: Nghĩa là niệm giác phần vừa mới phát khởi, tại địa phàm phu thường nên tu tập. Tại địa hữu học, tu tập viên mãn. Tại địa vô học, tu tập giác phần chưa được giới đoạn. Ở nơi cảnh giới đoạn, lúc đang mong cầu, gọi là dựa nơi xa lìa. Chưa được cảnh giới vô dục, ở nơi giới vô dục, lúc đang mong cầu, gọi là dựa nơi lìa dục.
Chưa được cảnh giới diệt, ở nơi cảnh giới diệt, lúc đang mong cầu, gọi là dựa nơi diệt. Dứt bỏ phần thấp kém, tu phần giác, hồi hướng thắng diệu, tu tập phần giác, nên gọi là hồi hướng dứt bỏ.
Lại, các Bí-sô phòng hộ các căn, có hổ có thẹn, do nhân duyên ấy nên xấu hổ đối với hành ác, tu tập hành diệu. Tu tập hành diệu nên không biến hối. Không có biến đổi, hối hận nên phát sanh hoan hỷ. Đây là điều kiện trước nên tâm được chánh định. Tâm chánh định nên có thể kiến giải đúng như thật. Kiến giải như thật, nên Minh cùng Giải thoát thảy đều viên mãn. Nên biết đó gọi là thứ lớp tu hành.
Lại nữa, như có một Sa-môn hoặc Bà-la-môn, tự mình đã không thể khéo tu tập các căn, nhưng lại vì kẻ khác thiết lập pháp khéo tu căn không như lý, kiến giải chỉ là dứt bỏ cảnh giới hiện có, gọi là phòng hộ các căn. Tuy nhiên vị ấy, tự mình ở nơi các chúng đệ tử, sanh khởi chấp trước sâu xa, một phần khởi yêu thích, một phần sanh ghét bỏ. Nghĩa là đối vơi sự chỉ dạy về nhân duyên thuận nghịch kia, hoặc hợp ý, không hợp ý luôn hiện hành, nơi chỗ vi tế ấy tự mình tạo tạp nhiễm, không thể dùng huệ để ngộ nhập như thật, nhưng cho tự mình có thể khéo tu tập các căn, khởi tăng thượng mạn. Các hữu tình thuận theo kiến chấp như thế, vị kia tuy khiến căn lìa bỏ các cảnh giới, nhưng ở riêng nơi chốn vắng lặng, duyên nơi cảnh giới nọ phát khởi vô số tầm tư tạp nhiễm. Vì không trí huệ mà tự ngộ nhập, nên cũng không gọi là khéo tu các căn. Lại cũng không là khéo tu căn, nên siêng tu hành chánh đáng, chỉ tin theo lời nói của kẻ khác khởi thắng giải sai lạc, cùng dùng tà mạn.
Chư Phật Như Lai, vì các đệ tử, nên thiết lập đúng như lý việc đoạn trừ các phiền não, gọi là khéo tu tập các căn, không phải chỉ hoàn toàn dứt bỏ các cảnh giới.
Lại, các Đức Như Lai đối với ba thứ niệm trụ không chung kia, tâm khéo an trụ, khiến các chúng đệ tử không nhiễm chấp, đối với các hành chân chánh luôn hiện hành vừa ý, nơi các thứ hành tà vạy, hành không vừa ý, do đấy, chỗ sanh khởi tạp nhiễm của tham dục, tạp nhiễm của giận dữ, đều không hiện có. Do nhân duyên ấy, nên tuy chỉ dạy cho đệ tử, cùng đoạn trừ phiền não, nhưng được gọi là bậc khéo tu tập các căn vô thượng.
Lại, việc tu tập căn này, dựa nơi năm nhóm phẩm có sai biệt, nên biết cũng có năm chuyển sai biệt. Nghĩa là Phật, Thế Tôn, hoặc có các đệ tử hoàn toàn hành đúng đắn mà cũng rốt ráo, hoặc có các đệ tử hoàn toàn phóng dật, mà cũng rốt ráo! Hoặc có các đệ tử tu hành chánh hạnh nhưng không rốt ráo. Hoặc có các đệ tử hành nơi hành tà, mà không rốt ráo. Hoặc có các đệ tử có nhiều thứ phẩm loại, một hành chánh hành, một hành phóng dật, một hành một phần hoặc có lúc phóng dật, có lúc không phóng dật. Như thế gọi là nhóm phẩm thứ năm.
Ở đây, Như Lai cho là hợp ý: Nghĩa là các đệ tử, ở trong Pháp-Luật khéo thuyết giảng, đã tu tập các căn được viên mãn, nên tu hành chánh hạnh.
Lại có một loại không hợp ý: Tức là hành theo tà hạnh, hoặc không tu tập. Do đó, Đức Như Lai quán loại chúng sanh thứ nhất, khởi vừa ý. Quán loại chúng sanh thứ hai không vừa ý. Quán loại chúng sanh thứ ba, khởi vừa ý, sanh không vừa ý. Quán loại chúng sanh thứ tư, không vừa ý, sanh khởi vừa ý. Quán loại chúng sanh thứ năm, khởi vừa ý, sanh không vừa ý, cũng lại sanh khởi vừa ý, không vừa ý.
Đức Như Lai tuy đối với năm chúng ấy, phát khởi năm chuyển vừa ý, không vừa ý có sai biệt như thế, nhưng các Đức Như Lai trọn không bị các hành tướng yêu giận kia làm cho cấu nhiễm, do đã vĩnh viễn lìa mọi trói buộc của các phiền não cùng tập khí của chúng, do khéo tu tập các căn. Thế nên, Đức Như Lai, tất cả phiền não cùng tập khí đều đã đoạn trừ hoàn toàn, làm chỗ nương dựa, nên có thể khéo trụ niệm, đối với các chúng đệ tử không có các tạp nhiễm, được gọi là năm chuyển tu tập căn vô thượng.
Lại, đối với tất cả năm chuyển như thế, theo chỗ ứng hợp, nên chánh tư duy về ba thứ đối trị:
1. Tưởng vô thường.
2. Tâm từ.
3. Định vô tưởng.
Ba thứ như thế, tùy chỗ ứng hợp, nên biết về tướng của chúng.
Lại, Đức Phật, Thế Tôn, việc làm đã thành tựu, nơi đệ tử vô học gọi là đã tu tập căn. Do trong đêm dài sanh tử luôn vui thích Niết-bàn. Tuy gặp phải cảnh tướng hiện tiền của các loại hữu tình như trước đã nói, hoặc thuần là khả ái, hoặc thuần là không khả ái, hoặc nhiều tạp loại chung cả ái, phi ái. Do Tham-sân-si đã vĩnh viễn xa lìa.
Do sức tăng thượng của tâm giải thoát cùng huệ giải thoát. Tức do vô tướng khiến tâm đối với cảnh kia liền mau chóng dứt bỏ. Do ý lạc, nên đối với các cảnh giới khởi tưởng chán bỏ.
Lại, đối với Niết-bàn thấy rõ đức tịch tĩnh như thế, nên mau chóng có thể an trụ nơi xả. Do nhân duyên này, nên dù chỉ trong khoảng một sát na mất niệm khiến tâm bị tạp nhiễm, cũng không thể khởi. Nên biết, ngang với sự khéo tu tập này, gọi là khéo tu tập căn.
Nếu các hàng hữu học chưa có thể mau chóng an trụ nơi xả, nên có các phiền não khác huân tập, khiến nối tiếp thành tạp nhiễm. Lại, ở trong tất cả cảnh của ba chuyển, các phiền não ghét bỏ đã khởi, nên khi phiền não hiện hành bức bách, tức có thể theo phương tiện trụ nơi tưởng chán nghịch, cùng tưởng lỗi lầm tai họa. Tu hành như thế, tức có thể khiến tu tập căn mau chóng được viên mãn. Do đó gọi là hành trì đúng đắn. Như thế nên biết, ở trong Pháp-Luật khéo thuyết giảng, các chúng đệ tử tốt đẹp của bậc Đại sư, có thể tu tập hành chân chánh, đạt được nghĩa đã chứng đắc.
Lại nữa, luận sư vô ngã, lược có ba thứ sự việc được tạo tác chân chánh. Những gì là ba? Nghĩa là đối với tự tướng, cộng tướng của hành thuộc về Khổ Tập đế, nên hiển bày rõ, đúng, an lập vô ngã. Nên biết ở đây, hiển bày về tánh đều có rất nhiều thứ khác biệt. Hiển bày rõ về tự tướng, khai thị tánh tương tợ sanh diệt, nên hiển bày rõ về cộng tướng. Đó gọi là sự việc được tạo tác chân chánh thứ nhất. Lại đối với vô ngã chỉ có hành nhân, như nơi tạp nhiễm, thanh tịnh hiện có đều hiển bày rõ như thật. Nên biết ở đây, nơi duyên của ba thứ thọ, sanh ba thứ tùy miên của phiền não, chưa có thể đoạn trừ hoàn toàn. Đối với kiến đạo, tùy miên ngã kiến chưa thể trừ bỏ. Nơi tu đạo, tùy miên ngã mạn cũng chưa thể trừ bỏ. Nơi tu đạo, tùy miên ngã mạn cũng chưa thể trừ bỏ hẳn. Đối với phẩm kiến mạn có thể khởi vô minh, cũng chưa dứt trừ vĩnh viễn, nên chưa thể sanh khởi minh để đối trị chúng, do vậy không thể tạo được biên vực của khổ. Như thế gọi là hiển thị tạp nhiễm. Đó gọi là sự việc được tạo tác chân chánh thứ hai.
Lại, đối với các hành đoạn từ Tát-ca-da-kiến tăng ích ngã, dựa nơi chánh kiến có thể giữ lấy vô ngã thật sự, như tương ưng với thanh tịnh, hiển bày rõ như thật về kiến vô ngã này. Nơi phần vị phàm phu, có thể thâu nhận đúng đắn về hiện quán Thánh đế. Lại có thể chứng đắc huệ nhãn của các hành. Tại phần vị hữu học có thể đạt được tận trí, vô sanh trí của phần vị trên. Nơi phần vị vô học, có thể khiến cho hết thảy hàng hữu học cùng vô học, đối với phiền não hiện có do kiến đạo, tu đạo đoạn từ, đều được dứt hết hoàn toàn, rốt ráo. Vì thế nên biết, kiến vô ngã này có thể khiến đạt thanh tịnh, nên hiển bày rõ. Đó gọi là sự việc được tạo tác chân chánh thứ ba.
Lại nữa, đối với sự thành tựu đa văn của chánh kiến thế gian, không nhất định trụ nơi chánh pháp: Tức thành tựu đa văn của chánh kiến thế gian ấy, có thể nhất định trụ nơi chánh pháp, nên biết lược có năm thứ quả chánh gia hạnh thù thắng, xưng tán lợi ích. Những gì là năm? Đó là: Người thứ nhất trụ nơi chánh pháp kia, trước hết do tâm chưa được định, nên Giới của chi Xa-ma-tha chưa thanh tịnh, cũng chưa trắng, sạch. Tức người thứ hai trụ nơi chánh pháp ấy, tâm được định, nên thanh tịnh, tươi sáng. Nên biết đó gọi là quả chánh gia hạnh thù thắng, xưng tán lợi ích thứ nhất.
Lại, tâm thứ nhất nơi Bổ-đặc-già-la kia chưa được định, nơi tất cả thọ, cùng chỗ dựa, đối tượng duyên, trợ bạn và nẻo tùy chuyển của chúng đều nhận biết không đúng như thật. Do không nhận biết nên tạo ra ba thứ vô trí làm nhân cho sự tiếp xúc của lỗi lầm, tai họa. Những gì là ba? Đó là:
1. Lỗi lầm tai họa được tạo ra do tạp nhiễm của thọ.
2. Lỗi lầm tai họa được tạo ra do tạp nhiễm của ba đời.
3. Lỗi lầm tai họa được tạo ra do tạp nhiễm của hiện pháp và hậu pháp.
Nên biết ở đây, lỗi lầm tai họa được tạo ra do tạp nhiễm của thọ: Nghĩa là kẻ ngu si, đối với lạc thọ cùng nẻo tùy chuyển của nó và chỗ tùy nhiễm có tham ái trói buộc. Đối với Khổ thọ v.v…, có sân hận trói buộc, đối với thọ không khổ không lạc v.v…, có sự trói buộc của ngu ái cùng tùy miên, do có tùy miên của ngu si. Lỗi lầm tai họa được tạo ra do tạp nhiễm của ba đời: Nghĩa là kẻ ngu si, đối với đời hiện tại có tham nhiễm trói buộc. Đối với đời quá khứ có luyến tiếc trói buộc. Đối với đời vị lai có tâm hệ thuộc trói buộc.
Lỗi lầm tai họa được tạo ra do tạp nhiễm của hiện pháp, hậu pháp. Nghĩa là kẻ kia có tâm tạp nhiễm như thế, đối với ba đời, đối với thọ đều có tạp nhiễm, nên có thể sanh trưởng hoặc nơi nghiệp của hữu sau.
Do sự tăng trưởng ấy nên các uẩn của hữu sau khiến sẽ được sanh. Lại có thể tăng trưởng tham ái hiện có. Tức là ái về hữu sau cùng ái về của cải vật dụng. Do ái về hữu sau nên có thể sanh tự thể hiện có của vị lai. Do ái về tài sản vật dụng, nên vào lúc truy tìm, sinh ra mệt mỏi hết sức. Nếu được cảnh giới, liền sanh ái nhiễm. Nếu không đạt được thì chỗ ham muốn không toại nguyện, liền tự thiêu đốt. Nếu được rồi mất, liền bị sầu não tổn hại. Như vậy gọi là lỗi lầm tai họa của hiện pháp.
Hoặc tức do sự tạo tác và tăng trưởng kia, có thể chiêu cảm hữu sau. Do sức tăng thượng của phiền não nơi các nghiệp, nên đối với vị lai, sanh khởi các khổ như sanh lão bệnh tử có sai biệt. Như thế gọi là lỗi lầm, tai họa của hậu pháp.
Bổ-đặc-già-la thứ hai, tâm định, nên biết tất cả cùng trái nhau với những thứ nêu trên. Đó gọi là sự thù thắng thứ hai. Phần còn lại như trước đã nói.
Lại, Bổ-đặc-già-la thứ nhất ấy, tâm chưa định, nên đối với các lỗi lầm tai họa được tạo ra do không trí kia, hoặc tự hoặc tha đều không nhận biết đúng như thật. Bổđặc-già-la thứ hai, tâm định. Đối với các thứ ấy đều có thể nhận biết đúng như thật, nên biết đó gọi là sự thù thắng thứ ba. Phần còn lại như trước đã nói.
Lại, Bổ-đặc-già-la thứ hai kia tâm đã được định, đối với các lỗi lầm tai họa đều nhận biết đúng như thật, đã nhập nơi địa tu, tức chánh kiến hiện có tương ưng với vô ngã đã đạt được ở trước, do sự tu tập ấy, nên ở trong hai thời, dựa vào cảnh giới đoạn và cảnh giới vô dục, cùng với tất cả pháp Bồ đề phần kia, đều được viên mãn, nên biết đó gọi là sự thù thắng thứ tư. Phần còn lại như trước đã nói.
Lại, Bổ-đặc-già-la thứ hai, tâm đã được định, các chi phần trợ bạn của Tỳ-bát-xá-na đa văn hiện có, đều có thể thâu nhận Tam-ma-địa thù thắng, có thể tu trị, làm tịnh Tỳ-bát-xá-na. Do nhân duyên ấy, hai thứ Chỉ, Quán bình đẳng cùng chuyển, tức ở đây đã thành tựu đa văn của chánh kiến thế gian, Bổ-đặc-già-la này được định, trụ nơi chánh pháp, nên biết là có quả chánh gia hạnh thù thắng, xưng tán lợi ích thứ năm. Như thế, tức hữu tình kia do đã đạt được Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xa-na thù thắng, dựa nơi cảnh giới đoạn, đối với những thứ nên nhận biết khắp, đều có thể nhận biết khắp, đúng đắn. Đối với những thứ nên vĩnh viễn đoạn trừ, đều có thể đoạn trừ vĩnh viễn, đúng đắn. Đối với các pháp nên tác chứng, đều có thể tác chứng đúng đắn. Đối với các pháp nên tu tập, đều có thể tu tập đúng đắn. Dựa vào cảnh giới vô dục, nơi tất cả các thứ đã nhận biết, đã đoạn trừ, đã tu tập, đã chứng đắc, đối với đối tượng nương dựa là sắc, và chủ thể nương dựa là danh, nên nhận biết đúng đã nhận biết đúng. Đối với đối tượng nương dựa là vô minh cùng chủ thể nương dựa là hữu ái, nên đoạn trừ đúng đã đoạn trừ đúng. Đối với đối tượng nương dựa là trí sáng, tịnh, cùng chủ thể nương dựa là giải thoát, nên phiền não được đoạn trừ, chứng đắc đúng đắn đã chứng đắc. Đối với đối tượng nương dựa là Xa-ma-tha cùng chủ thể nương dựa là Tỳ-bát-xá-na, nên tu tập đúng đắn, đã tu tập.
Lại nữa, có hai pháp kiến:
1. Pháp kiến hữu vi.
2. Pháp kiến vô vi.
-Pháp kiến hữu vi: Nghĩa là như có một hữu tình, đối với chỗ dựa cùng tự tánh của đế đều nhận biết đúng như thật.
Thế nào gọi là nơi chốn nương dựa của đế? Nghĩa là danh sắc cùng số vật của hữu tình như người, Trời v.v..
Thế nào là đế? Tức là Thế tục đế và Thắng nghĩa đế. Thế nào là Thế tục đế? Tức là đối với chỗ nương dựa của đế kia, giả tưởng an lập ngã hoặc hữu tình, cho đến thọ mạng, và sự sanh.
Lại tự xưng nêu: Mắt của ta thấy sắc, cho đến ý của ta nhận biết pháp. Lại khởi ngôn thuyết: Nghĩa là danh như thế, cho đến biên vực của thọ lượng như thế, nói rộng như trước. Nên biết ở đây chỉ có giả tưởng, chỉ giả tự xưng, chỉ giả ngôn thuyết về tánh tướng hiện có với tác dụng sai biệt, gọi là Thế tục đế.
Thế nào là Thắng nghĩa đế? Nghĩa là tức đối với nơi chốn nương dựa của đế kia có tánh vô thường, nói rộng cho đến có tánh duyên sanh, như trước đã nói rộng. Như tánh vô thường, có tánh khổ, nên biết cũng thế.
Nếu đối với nơi chốn nương dựa của Thắng nghĩa đế, Thế tục đế như thế, về Thế tục đế nhận biết rõ như thật là Thế tục đế. Về Thắng nghĩa đế nhận biết rõ như thật là Thắng nghĩa đế. Như vậy gọi là pháp kiến hữu vi.
Thế nào gọi là pháp kiến vô vi? Nghĩa là đối với nơi chốn nương dựa của đế kia, đã đạt được hai thứ thiện xảo của đế, do sức tăng thượng của thiện xảo ấy, nên đối với tất cả nẻo tận cùng nơi Niết-bàn như Hữu dư y, Vô dư y, đều thấy rõ tịch tĩnh, tâm hướng nhập, như trước đã nói rộng, cho đến giải thoát. Như thế gọi là pháp kiến vô vi.
Lại, pháp kiến này, nên biết ba thứ Bổ-đặc-già-la đều được thành tựu:
1. Hàng phàm phu pháp tùy pháp hành đã được tâm định, thông tuệ, nhận biết rộng, có thể quan sát các pháp như chánh lý.
2. Hàng hữu học đã kiến đế tích.
3. Hàng vô học, các lậu đã đoạn trừ vĩnh viễn.
Lại nữa, nếu có hữu tình mong cầu các sự việc hưng thạnh của hàng Trời, Người, tự phát thệ nguyện hành phạm hạnh, nên biết kẻ ấy đã xưng tán hai thứ lỗi lầm tai họa của hàng Trời, Người. Đó là:
1. Các khổ do phiền não sanh khởi.
2. Các khổ do vô thường sanh khởi.
Thế nào là các khổ do phiền não sanh khởi? Nghĩa là, đối với hàng Trời, Người trụ nơi cảnh giới ái, dựa nơi đời hiện tại nên trụ nơi cảnh giới lạc. Dựa nơi đời quá khứ nên trụ nơi cảnh giới vui. Đối với đời hiện tại, dựa nơi cảnh quá khứ, sanh ái lạc nên trụ nơi cảnh giới hỷ. Nơi đời vị lai, dựa nơi cảnh hiện tại nên sanh ái lạc. Nếu ở trong cảnh của ba đời như thế, trụ nơi nhiễm ô, nên biết kẻ ấy đã xưng tán về khổ của dục có thiếu thốn, cùng các khổ hiện có như sanh, lão v.v… Đó gọi là lỗi lầm tai họa của các khổ được tạo ra do phiền não sanh khởi.
Thế nào là các khổ do vô thường tạo ra? Nghĩa là thuận theo xứ lạc có trái, mất, nên khởi khổ biến hoại. Tùy thuận xứ khổ hiện tiền, nên khởi khổ chán lìa. Tất cả tự thể, vào lúc chung cuộc đều diệt hoại, nên có khổ diệt hoại. Nên biết đó gọi là ba thứ các khổ do vô thường tạo ra.
Ở đây, Đức Như Lai vượt quá hai thứ lỗi lầm tai họa như thế, trụ hoàn toàn nơi lạc. Tức đối với lạc này nên nhận biết đúng như thật, do đấy nên lạc. Lại, nên nhận biết đúng như thật về phương tiện của lạc.
Thế nào là lạc? Nghĩa là an ổn vô thượng của tất cả cảnh tương ưng đều vĩnh viễn dứt hết, tức cảnh giới Bát Niết-bàn Hữu dư y.
Thế nào là phương tiện? Nghĩa là như trước đã nói, đối với năm thứ thọ phát khởi năm trí diệu chuyển biến như thật. Nếu các Thanh văn dứt bỏ chỗ chứng đắc của bậc Đại sư về diệu lạc vượt quá hàng Trời, Người, để mong cầu lạc thấp kém nơi hàng Người, Trời, nên biết các vị ấy, đối với trụ xứ của các bậc trí, phần nhiều nhận lấy sự hủy nhục, cũng tự lừa dối.
Lại nữa, tụng nêu:
Một trụ xa Niết-bàn
Lược nêu nội đã chứng
Biện tướng Nhất Thiết Trí
Xả bỏ nghiệp đã học
Không tùy hành luôn trụ
Sư đệ, hai viên mãn.
Do hai nhân duyên, nên biết gọi là có trụ thứ hai, nghĩa là hữu ái. Vì muốn sanh khởi tự thể thứ hai, thọ hành nhân kia, nên tự thể này diệt thì tự thể thứ ba nối tiếp sanh khởi.
Thế nào là hữu ái? Nghĩa là các cảnh giới nơi đối tượng duyên khả ái sắp được hiện tiền. Đầu tiên là sanh khởi vui thích nhiễm ô, gọi là hữu hỷ lạc. Từ đấy về sau, cho đến khi chưa được các thứ kia, phần nhiều trụ nơi tác ý tư duy. Nếu như đã được nhưng chưa thọ dụng, trong khoảng thời gian ấy, tức do sức tăng thượng của hỷ lạc, nên trụ nơi vui mừng nhiễm ô, gọi là hữu hoan hỷ.
Vào lúc thọ dụng, sanh nhiều tham ái, gọi là hữu nhiễm trước, nên gọi là hữu ái.
Lại, đối với vị lai khởi mong cầu, nên cùng với các thứ đã được sanh lãnh nạp, nên gọi là hữu hỷ lạc. Đối với đời quá khứ tùy theo nhớ nghĩ, nên gọi là hữu hoan hỷ.
Vào lúc đang thọ dụng các thứ đã đạt được, sanh khởi tham ái, nên gọi là hữu nhiễm chấp. Như thế gọi là sai biệt thứ hai.
Thế nào là sanh khởi tự thể thứ hai? Nghĩa là hỷ lạc v.v… là nhân của tập, đối với đời vị lai, sanh lão là gốc sanh khởi các khổ. Cùng với đấy trái nhau, nên biết đó gọi là không có trụ thứ hai.
Lại nữa, có hai thứ pháp, lại cùng trái nhau:
1. Phiền não.
2. Niết-bàn.
Do đó, trụ nơi pháp tạp nhiễm rồi, tức liền tùy thuận nơi hữu sau mà chuyển. Nếu lúc đối với hữu sau tùy thuận mà chuyển, nên biết gọi là cách xa Niết-bàn.
Lại có sáu thứ hành tướng nhỏ, kém của các sĩ phu, Bổ-đặc-già-la hèn kém:
1. Tánh nhiều giận dữ.
2. Hành tác không suy xét.
3. Vui thích bức não kẻ khác.
4. Nếu tiếp xúc với khổ, liền phát khởi ngôn ngữ thô ác, không thật.
5. Hoặc phát khởi ngôn ngữ thô ác, thật sự có thể dẫn đến vô nghĩa.
6. Nhân đấy, lần lượt phát khởi vô lượng ngôn từ xấu ác sai biệt, không phải chỉ một ít lời mà sanh biết đủ.
Do hai nhân duyên, nên các vị xuất gia gắng sức thọ hành, mau chóng có thể chứng đắc nghĩa lợi của Sa-môn: Những người chưa tin thì khiến sanh tịnh tín. Người đã tin rồi thì khiến tăng trưởng bội phần. Những gì là hai? Đó là:
1. Nhẫn nhục.
2. Nhu hòa.
- Nói nhẫn nhục: Nghĩa là đối với điều oán nơi kẻ khác, trọn không đáp trả.
- Nói nhu hòa: Tức tâm không phẫn nộ, tánh không não hại kẻ khác.
Lại nữa, nói tóm tắt, Đức Như Lai lược nương nơi hai thứ xứ sở, thuyết giảng giáo pháp "Không giới":
1. Thuyết giảng giáo pháp về Giới Niết-bàn Hữu dư y.
2. Thuyết giảng giáo pháp về Giới Niết-bàn Vô dư y.
Nếu do đoạn trừ phiền não như thế, nên gọi là hữu tình thành tựu về đoạn trừ, không tạo thành phiền não. Tức do không trụ nơi các khổ của hữu sau thuộc quả kia như thế, nên biết đó gọi là thuyết giảng giáo pháp về Giới Niết-bàn Hữu dư y.
Nếu do không trụ vào quả khổ thuộc phiền não nơi hữu sau, tức do như thế cho đến thọ mạng hết, đã diệt độ xong, hết thảy sự nương dựa
(y) khác đều không thật có, chẳng trụ nơi thân này, không trụ nơi thân khác, chẳng trụ nơi trung hữu, chứng đắc biên vực tận cùng của các khổ. Nên biết đó gọi là nêu giảng giáo pháp về Giới Niết-bàn Vô dư y.
Lược có ba thứ nhân mạnh của niệm lực:
1. Do tuổi trẻ khỏe mạnh.
2. Do đời trước thường xuyên hành tập.
3. Do hiện pháp luôn hành tập.
Lại nữa, do năm thứ tướng, nên biết Niết-bàn là pháp nội chứng. Nghĩa là lìa tín, cho đến lìa kiến, xét kỹ nơi nhẫn, như trước đã nói nên biết. Tức là trong hiện pháp, nơi nội chứng đều riêng, trong ngoài tăng thượng, sanh khởi tạp nhiễm đều nhận biết rõ đúng như thật là có cùng không có.
Lại nữa, do ba nhân duyên, đã hiển thị Bồ đề Vô thượng của chư Phật:
1. Nhận biết rõ về tất cả cảnh.
2. Nhận biết rõ về sự việc như thật của có cùng không có.
3. Nhận biết rõ về tất cả pháp của hai phẩm nhiễm tịnh. Do đấy, kẻ khác đối với ba xứ như thế, thỉnh vấn Đức Thế Tôn.
Lại nữa, các pháp hữu vi lúc cùng có chuyển, khiến tâm mê loạn, có thể khiến đối với tướng phân biệt, chấp giữ sai lạc. Vì thế, Đức Như Lai vì các đệ tử khai thị, phân biệt khiến đối với các tướng kia quyết định ngộ nhập, vì nhằm nhận biết rõ về tướng chân thật. Lại, vì đối với chính mình không có khi dối, vì đối với kẻ khác thản nhiên không sợ, ký biệt đúng đắn.
Lại nữa, các vị xuất gia, dứt bỏ sức tăng thượng của pháp đã học, nên biết là an lập nơi cảnh giới luyến tiếc.
Lại, người xuất gia, hủy phạm sức tăng thượng của Thi-la, nên biết là đã an lập nơi hạng chưa xuất gia, tâm dứt bỏ hướng nhập nơi sự việc che lấp, xa lìa hổ thẹn, hoàn toàn là ái vị. Hoặc chấp giữ chặt nơi cảnh giới của đối tượng duyên, nên biết kẻ ấy gọi là ái vị cùng tột. Do nhân duyên này, nên ở trong việc tu tập phẩm thượng nơi các nghiệp thiện, tâm không thuận hợp, trơ trọi, không thể tạo được nghĩa.
Lại, tức do sức tăng thượng ấy, nên hành các hành ác, bên trong ôm giữ, che giấu các thứ ác được ẩn giấu, nên sanh che lấp. Tất cả như thế lược thâu làm một, gọi là đối với cảnh, tâm ái vị tột cùng, bị che lấp hoàn toàn.
Lại nữa, nếu đối với các căn, hành không phòng hộ, do thích lắng nghe pháp không chân chính, liền sanh vô minh xúc, dấy khởi tác ý nhiễm ô. Tức do sức tăng thượng của tác ý ấy, nên đối với các xứ của đời vị lai sẽ sanh khởi lỗi lầm tai họa hiện có, đều không nhận biết đúng như thật.
Không nhận biết đúng như thật về lỗi lầm tai họa kia, nên liền khởi mong cầu. Mong cầu các pháp kia, nên tạo tác, làm tăng trưởng nghiệp tương ưng. Tạo tác, làm tăng trưởng nghiệp tương ưng, nên nơi đời vị lai, sáu xứ sanh khởi. Như thế gọi là đạo lý thuận theo thứ lớp.
Nghịch với thứ lớp, nghĩa là sáu xứ kia dùng nghiệp làm nhân. Nghiệp dùng ái làm nhân. Ái lại dùng vô minh kia làm nhân. Vô minh lại dùng tác ý không như chánh lý làm nhân. Tác ý không chánh lại dùng vô minh xúc làm nhân.
Lại, ở trong ấy, nghiệp đã tạo từ trước là nhân của sáu xứ nơi thọ của hiện pháp. Nghiệp được tạo của hiện pháp, là duyên của sáu xứ nơi thọ sanh tiếp theo. Hoặc là sáu xứ của thọ sau, do dựa vào ái v.v…, nghiệp v.v…, theo chỗ ứng hợp nên biết cũng thế.
Lại nữa, do hai nhân duyên, nên hữu sau sanh khởi:
1. Nghiệp của hữu sau.
2. Ái của hữu sau.
Nhưng chỉ nói các loài hữu tình theo nghiệp mà hành, không nói theo ái. Vì sao? Vì lược có ba ái:
1. Ái cõi Dục.
2. Ái cõi Sắc.
3. Ái cõi Vô sắc.
Ở đây, ái cõi Dục là bất thiện, tuy có dị thục, nhưng nếu không khởi nghiệp ác, bất thiện, thì hoàn toàn không thể tạo ra dị thục của nẻo ác.
Nếu ái của cõi Dục, đối với vô minh xúc sanh khởi các thọ, khi khởi mong cầu, đối với cảnh khả ái phát sanh tham dục. Đối nơi cảnh đáng ghét phát sanh giận dữ. Đối với cảnh đáng mê lầm phát sanh ngu si. Do sức tăng thượng của ba thứ ấy, nên hành nghiệp bất thiện. Vì nghiệp này, nên sanh nơi các nẻo ác. Không phải chỉ do triền Tham-sân-si kia nhất định bị đọa nơi nẻo ác, nhưng tức ái ấy, đối với lúc sanh dị thục của nghiệp đã tạo, có thể làm trợ bạn.
Lại do sức tăng thượng của việc mong cầu cảnh giới khả ái, nên ba nghiệp thân ngữ ý tu hành hạnh thiện. Dùng đấy làm nhân, nên được sanh nơi nẻo thiện.
Ở đây, các quả dị thục khả ái chỉ nên dùng nghiệp làm nhân dẫn sanh, không phải ái của tánh nhiễm.
Lại, nếu ái này, hệ thuộc cõi Sắc, Vô sắc, tuy không phải là bất thiện, nhưng là nhiễm ô, tất cả đều không có quả dị thục.
Lại, tức do ái của cõi Sắc, Vô sắc ấy, gọi là hữu ái: Kẻ kia do nhân là lắng nghe chánh pháp, nên đối với việc quán tướng thô kém của cõi Dục, chứng đắc minh xúc, sanh khởi các thọ, tương ưng với tác ý như lý của thế gian, điều phục Tham-sân-si của cõi Dục, tu tập tạo thành nghiệp hữu lậu thiện. Do trong thời gian ấy tạo tác nghiệp kia, nên được sanh vào nẻo thiện, không do nơi ái của tánh nhiễm ô kia. Nhưng tức ái này đối với nghiệp đã tạo, lúc sanh dị thục có thể làm trợ bạn, do đó chỉ nói các loài hữu tình theo nghiệp mà hành, không nói theo ái.
Lại nữa, ở trong sự việc bên ngoài, do sức tăng thượng của giả danh nơi thế gian, nên cũng gọi là có quả cùng có người nhận. Nhân cùng với kẻ tạo tác, nên biết cũng thế. Như vậy gọi là Thế tục đế không, chẳng phải là Thắng nghĩa không. Hoặc nói nơi thời gian thường hằng, tất cả các hành chỉ có nhân quả, hoàn toàn không có kẻ nhận, người tạo. Nên biết đó gọi là Thắng nghĩa đế không. Tức Không này lại có bảy thứ:
1. Hậu tế không.
2. Tiền tế không.
3. Trung tế không.
4. Thường không.
5. Ngã không.
6. Người nhận không.
7. Kẻ tạo không.
Ở đây, nên biết không có sáu hành, nơi đời vị lai thật có tự tánh của tụ hành để an lập các hành, lúc sanh từ nơi kia đến. Nếu có sự việc ấy thì các hành kia không nên sanh, vì đối với đời vị lai, tự tánh của các hành đã thật có. Lại không nên có vô thường có thể đạt được. Đã có thể đạt được, do đó nên biết, khi các hành sanh, không từ đâu lại, xưa không nay có. Đó gọi là hậu tế không. Lại, không có các hành đối với đời quá khứ thật có tự tánh của tụ hành để an lập các hành đã sanh đã diệt, đi đến chốn kia tích tập mà trụ. Nếu có sự việc ấy, thì không nên thiết lập các hành có diệt, tánh vô thường kia lẽ ra không thể nhận biết. Nhưng đã có thể nhận biết, do đó các hành vào lúc đang diệt đều không từ đâu đến, tích tập mà trụ. Đã có tan, diệt, không chờ nhân khác, tự nhiên diệt hoại, đó gọi là tiền tế không. Lại, ở trong hành sát na sanh diệt, chỉ có các hành tạm thời có thể đạt được trong ấy, đều không có hành khác có thể thủ đắc, cũng không có vật riêng. Đó gọi là trung tế không. Nên biết cũng là thường không, ngã không. Do vô ngã, nên tánh quả nơi các hành không, là không người thọ nhận. Tánh nhân nơi các hành nghiệp không là không có kẻ tạo tác. Như thế gọi là hai thứ người nhận, kẻ tạo đều không. Vì kẻ tạo, người nhận đều không thật có, chỉ có các hành, đối với đời trước diệt. Chỉ có các hành, đối với đời sau sanh, trong ấy, đều không có việc bỏ đời trước nhận lấy đời sau. Thế nên gọi là chỉ có các hành từ các duyên sanh, có thể sanh các pháp.
Lại, hết thảy pháp đều không tác dụng, không có một ít pháp nào có thể sanh một ít pháp. Do đó nên nói: Đây có nên kia có, đây sanh nên kia sanh. Chỉ chính là ở trong pháp Nhân quả kia, dựa nơi Thế tục đế giả lập tác dụng, tuyên thuyết pháp này có thể sanh pháp kia.
Lại nữa, do năm thứ tướng, nơi cảnh giới của đối tượng duyên có thể thuận theo hỷ, tùy thuận mà hành, tâm vui thích sâu xa, không như chánh lý, chấp giữ lấy tướng, phát sanh tham dục, khởi nhiều tầm tư, tạo phương tiện tìm kiếm, nhân đấy hành rộng hành phước, phi phước.
Như cảnh giới của đối tượng duyên có thể thuận theo hỷ, thì cảnh giới của đối tượng duyên thuận theo ưu, thuận theo xả, với chỗ ứng hợp nên biết cũng thế.
Về sai biệt: Nơi cảnh giới của đối tượng duyên có thể thuận theo ưu, tùy thuận mà hành, tâm chán ác sâu xa, phát sanh giận dữ. Đối với cảnh giới của đối tượng duyên có thể thuận nơi xả, tùy thuận mà hành, tâm ngu muội sâu xa phát sanh ngu si, phần còn lại như trước đã nói.
Lại nữa, có các Bí-sô chứng đắc A-la-hán, các lậu vĩnh viễn dứt hết, nơi tất cả cảnh, tùy thuận mà hành, thường xuyên không kham nổi, cho đến mất niệm, sanh các phiền não, do đó luôn trụ nơi trụ không tạp nhiễm. Do nhân duyên ấy, nên gọi là hằng trụ. Các vị kia nơi phẩm tùy hành, hoặc hỷ hoặc ưu, hoặc vui, hoặc buồn, các vị A-la-hán đều không hề có, cho đến trong pháp thiện cũng không có sự việc ấy.
Lại, chỗ hằng trụ kia là rất khó hành cùng không tội, nên gọi là tối thắng. Người có thể thành tựu hành cực khó, nên gọi là phước điền chân thật bậc nhất, phải nên phụng thỉnh, cho đến nói rộng, nên biết như nơi phần Nhiếp dị môn ở trước đã nêu.
Lại nữa, ở trong Pháp-Luật khéo thuyết giảng, nên biết bậc Đại sư cùng chúng đệ tử, đều do hai tướng, nên tức viên mãn.
Thế nào là hai tướng, nên biết bậc Đại sư về đức viên mãn? Nghĩa là dựa nơi hành lợi tha, muốn khiến ngộ nhập về các thọ hiện có đều là khổ. Nói chỗ dựa của thọ. Nói nhân duyên kia. Nói tùy hành hiện có, có thể tạp nhiễm. Nói về đối tượng được đối trị cùng chủ thể đối trị, an lập trường hợp của Đại sư. Nêu tất cả thứ đều hoàn toàn xuất ly. Đó gọi là đức viên mãn thứ nhất của Đại sư.
Lại dựa nơi hành tự lợi, tuyên thuyết về ba thứ niệm trụ không chung, trụ không tạp nhiễm. Đó gọi là đức viên mãn thứ hai của Đại sư. Thế nào là hai tướng, nên biết về đức viên mãn của chúng đệ tử?
Nghĩa là đối với vô lượng giáo pháp của Như Lai, có thể nhận biết rõ rồi, nhưng chưa lãnh hội được nẻo đến bờ kia. Nếu do đạt được nẻo đến bờ kia, chính là tu tập pháp tùy pháp hành, chứng đắc xuất ly, chẳng phải là nhận biết rõ, thọ trì pháp ấy rồi, như lý tu tập pháp tùy pháp hành. Không phải chỉ theo âm thanh nơi ngôn ngữ được nêu bày, cho là cứu cánh. Đó gọi là đức viên mãn thứ nhất của các chúng đệ tử.
Như thế là tu tập pháp tùy pháp hành, không do thấp kém mà sanh biết đủ, cần phải đi đến trụ xứ của các bậc trượng phu hiền thiện, thông tuệ, là nơi chốn được hướng tới, nhất định sẽ đạt được điều nên chứng đắc. Đó gọi là đức viên mãn thứ hai của các chúng đệ tử.
Lại nữa, ở trong Pháp-Luật khéo thuyết giảng, lại do ba tướng, nên biết bậc Đại sư về đức viên mãn. Lại do hai tướng, nên biết đệ tử về đức viên mãn.
Thế nào là ba tướng, nên biết bậc Đại sư về đức viên mãn? Nghĩa là Đức Phật, Thế Tôn, vì các đệ tử, nên đầu tiên thiết lập hành chánh
Trung đạo, xa lìa hai biên. Đó gọi là đức viên mãn thứ nhất của bậc Đại sư.
Lại, người đối với Thánh giáo chưa sanh tin tưởng, có sự hủy phạm, dùng phương tiện đúng đắn khiến nhập Thánh giáo, lìa các hủy phạm. Đó gọi là đức viên mãn thứ hai của bậc Đại sư.
Lại, đối với Thánh giáo đã hội nhập, do bốn pháp nhiếp, thâu nhận đúng đắn. Đó gọi là đức viên mãn thứ ba của bậc Đại sư.
Thế nào gọi là bốn thứ pháp nhiếp? Đó là:
1. Đối với chỗ bí mật, dùng sự chỉ dạy, trao truyền về nẻo tịch tĩnh như pháp mà chỉ dạy, trao truyền, không dùng phi pháp.
2. Đối với chỗ trái phạm, dùng ngôn ngữ khổ bức như pháp, hiện tiền quở trách, đuổi đi, không phải là không như pháp.
3. Đối với chỗ tầm tư, nương dựa nơi tham đắm chấp trước thì giáo hóa khiến nơi nội pháp siêng tu tịch tĩnh.
4. Khiến thường xuyên lắng nghe chánh pháp, luôn không biếng trễ, bỏ phế.
Lại khiến xa lìa chánh pháp tương tợ, cùng khiến đối trị việc từ bỏ chánh hạnh. Nên biết tức là, đối với chỗ bí mật kia có thể dẫn đến việc chỉ dạy, trao truyền nẻo tịch tĩnh như pháp. Đối với chỗ thật sự hủy phạm, nếu nhận biết rõ, đúng, cần phải quở, đuổi đi, mới điều phục, dùng ngôn ngữ như pháp, hiện tiền quở trách, đuổi đi, tâm không tạp nhiễm.
Đối với chỗ tầm tư, tạo phương tiện khiến thay đổi để có quyết định rõ. Đối với các kẻ phóng dật theo năm dục diệu, thì chỉ rõ các thứ lỗi lầm tai họa, khiến sanh chán lìa, lần lượt tu học cho đến chứng nhập Tĩnh lự thứ tư. Tầm tư hiện có nương dựa nơi tham đắm chấp trước mới có thể đối với nội pháp đạt tịch tĩnh rốt ráo. Tự khiến không phiền não, khiến kẻ khác thâu giữ. Nên biết đó gọi là thường xuyên trong mọi thời, lắng nghe chánh pháp, không hề biếng trễ, bỏ phế.
Thế nào là hai tướng, nên biết các chúng đệ tử, về đức viên mãn? Nghĩa là các đệ tử, đầu tiên nhẫn thọ kiến giải của bậc Đại sư. Tức trong các pháp thấy rõ là không, vô ngã. Do nhân duyên ấy nên đối với các pháp, không tăng ích ngã để dấy khởi chấp trước sai lạc. Cũng không hủy hoại đạo lý thế tục. Ý lạc vượt hơn nên không bị hệ thuộc. Theo ngôn thuyết, cũng không xa lìa. Đó gọi là đức viên mãn thứ nhất của các chúng đệ tử.
Lại, các chúng đệ tử đối với kiến giải đã nhẫn thọ rồi, có thể tu tập pháp tùy pháp hành đúng đắn, do bốn pháp nhiếp lúc đã thâu nhận được. Nếu các pháp kia có khổ có hại, đều nhận biết rõ như thật, nên có thể mau chóng đoạn dứt. Nếu các pháp kia không khổ không hại cũng nhận biết rõ như thật, nên có thể mau chóng tác chứng. Đó gọi là đức viên mãn thứ hai của các chúng đệ tử.
Như vậy, bậc Đại sư cùng các chúng đệ tử đã thâu nhận Thánh giáo của chư Phật, nên biết là hoàn toàn thanh tịnh không nhiễm, là nơi chốn quy hướng của các bậc thông tuệ.
Như thế là đã nói về xứ lựa chọn gồm thâu. Duyên khởi thực đế giới lựa chọn gồm thâu, nay sẽ nói. Tụng tổng quát nêu:
Lập cùng với hai đế
Do xúc để làm duyên
Có diệt cùng với thực
Sau cùng là như lý.
Tụng riêng nêu:
Lập tụ khổ quán đế
Trí gồm thâu Thánh giáo
Quan sát suy lường xét
Sau thượng mạn, sâu xa.
Lược do ba tướng, nên biết kiến lập duyên khởi có sai biệt:
1. Từ tiền tế, trung tế được sanh.
2. Từ trung tế, hậu tế được sanh
3. Nơi trung tế sanh rồi tùy chuyển cùng hướng tới thanh tịnh.
Ở đây, thế nào là từ tiền tế, trung tế được sanh? Cùng nơi trung tế sanh rồi tùy chuyển? Nghĩa là như có một hữu tình, vốn không thông tuệ, vô minh làm duyên, ba nghiệp thân ngữ ý tạo tác, làm tăng trưởng tội, phước, bất động. Do đấy làm duyên, hành thức theo nghiệp cho đến mạng chung tùy chuyển không dứt, có thể làm nhân cho đời sau nối tiếp sanh thức. Như vậy lần lượt có ái trong ngoài, lúc thức sanh quả, có thể làm trợ bạn, hiện tiền mà khởi. Đã mạng chung rồi, do nhân của tiền tế, đối với đời hiện tại tự thể được sanh. Sanh rồi lần lượt ở trong thai mẹ, nhân nơi thức làm duyên, nối tiếp sanh quả thức tùy chuyển không dứt. Nhận giữ phần vị của danh sắc hiện có như Yết-la-lam, càng về sau càng vượt hơn, khởi đầu từ thai tạng cho đến già suy.
Lại, tức thức ấy, lúc nối tiếp sanh, có thể chiêu cảm nghiệp sanh cùng quả dị thục. Dị thục sanh thức, lại dựa nơi danh sắc tương tục mà chuyển. Nghĩa là dựa nơi sáu căn như mắt v.v… để chuyển. Do đấy nên nói danh sắc duyên nơi thức. Năm căn câu sanh được gọi là sắc. Vô gián diệt v.v… được gọi là danh. Theo chỗ ứng hợp, có thể cùng với sáu thức làm nơi nương dựa. Thức dựa nơi chúng, cho đến mạng chung thường xuyên tùy chuyển.
Lại, gốc của năm sắc căn dựa nơi đại chủng. Đại chủng của xứ căn sanh khởi các sắc cùng các danh khác. Do chúng nắm giữ các căn hiện có, nên gắn chặt ở chỗ nối tiếp, lưu chuyển không dứt. Hai thứ ấy gọi chung là nương dựa, tùy chuyển. Do đấy nên nói thức duyên danh sắc, danh sắc duyên thức. Nơi đời hiện tại, cũng như bó lau, cùng dựa nhau mà chuyển, cho đến thọ mạng trụ, như thế gọi là từ nơi tiền tế, trung tế duyên khởi, các hành được sanh, nơi trung tế này, sanh rồi tùy chuyển. Nên biết ở đây, dựa vào thai sanh nói về thứ lớp chuyển. Noãn sanh, thấp sanh, trừ nơi bụng mẹ, có sai biệt khác. Hữu tình có sắc, tại cõi Dục cõi Sắc, thọ hóa sanh: Vào lúc mới sanh, các căn viên mãn, so với sai biệt khác.
Tại cõi Vô sắc, thức của các loài hữu tình, nương nơi danh cùng chủng tử của sắc. Danh cùng sắc chủng, dựa nơi thức mà chuyển. Do trong thức kia có sắc chủng, nên sắc tuy gián đoạn, sau sẽ lại sanh. Như thế gọi là ở đây có sai biệt.
Vì nghiệp phước, nên sanh nơi hai nẻo Trời, Người của cõi Dục. Do nghiệp tội, nên sanh trong nẻo ác. Do nghiệp bất động, nên sanh nơi cõi Sắc, Vô sắc.
Thế nào gọi là từ nơi trung tế, hậu tế duyên khởi, các hành được sanh? Thế nào là không sanh? Do không sanh nên chứng đắc thanh tịnh?
Nghĩa là hữu tình kia, ở nơi trung tế như thế sanh, lãnh nhận chỗ được hai quả của nghiệp trước:
1. Lãnh nhận quả dị thục nội.
2. Lãnh nhận quả tăng thượng của thọ do cảnh giới sanh. Hữu tình kia do lắng nghe không phải chánh pháp, hoặc do sức thường xuyên hành tập của đời trước, nên đối với hai thứ quả phát khởi ngu si. Hữu tình kia do ở trong quả dị thục nội có ngu si, nên không thể nhận biết rõ như thật về sanh khổ của hữu sau nơi vị lai. Do sức tăng thượng của vô minh nơi tiền tế, hậu tế ấy, nên tạo tác làm tăng trưởng các hành như trước. Vì nghiệp mới này huân tập, biến đổi thức, nên ở trong hiện pháp theo nghiệp mà hành. Như thế, vô minh dùng làm duyên, nên các hành được sanh. Hành làm duyên nên khiến thức chuyển biến. Nên biết thức này, ở trong hiện pháp chỉ là tánh của nhân, thâu nhận sẽ sanh quả của các thức. Căn cứ theo tất cả nẻo tương tục làm danh, nói sáu thức thân. Lại, tức thức này là chỗ đeo đuổi của chủng tử danh sắc, nơi hữu sau của vị lai. Chủng tử của danh sắc lại bị chủng tử của sáu xứ nơi hữu sau của vị lai đeo đuổi. Chủng tử của sáu xứ lại bị chủng tử của các xúc nơi hữu sau của vị lai đeo đuổi. Chủng tử của xúc này lại bị chủng tử của các thọ nơi hữu sau của vị lai đeo đuổi. Nên biết đó gọi là nhân dẫn khởi của hữu sau nơi trung tế. Do thức vì thọ trước làm sau cùng, nên có thể dẫn dắt khắp các tự thể. Như thế, do ngu của quả tăng thượng được sanh từ cảnh giới thứ hai, duyên nơi thọ của cảnh giới phát sanh tham ái. Vì ái này, nên hoặc cầu các dục, hoặc cầu các hữu.
Lại, giữ lấy dục thủ, hoặc giữ lấy kiến thủ, giới cấm thủ, ngã ngữ thủ. Giữ lấy các thủ rồi, ái thủ hòa hợp, làm thấm nhuần nhân dẫn khởi trước để chuyển, gọi là hữu, là sẽ sanh khởi thuộc về nhân. Hữu ấy vô gián, đã mạng chung rồi, như chỗ dẫn dắt của nhân dẫn, các hành thức là đầu tiên, thọ là sau cùng, hoặc thứ lớp sanh, hoặc lại tức khắc sanh. Như thế nên biết, ở trong hiện pháp, đầu tiên do vô minh xúc sanh khởi thọ làm duyên sanh ái. Ái làm duyên nên tiếp theo sanh thủ. Thủ làm duyên nên chuyển thành hữu. Hữu làm duyên nên sanh hiện có được sanh. Sanh làm duyên nên các khổ như lão bệnh tử v.v… có sai biệt, thứ lớp hiện tiền. Nên biết ở đây, hoặc có xứ sở xứ sanh hiện tiền, hoặc có xứ sở chủng tử theo đuổi. Như thế, nơi trung tế, vô minh duyên hành, thọ duyên ái v.v…, có thể sanh các hành duyên khởi của hậu tế.
Nếu trong hiện pháp, từ nơi kẻ khác nghe pháp, hoặc nơi đời trước đã tích tập tư lương, do chúng làm nhân, có thể đối với các hành của hai thứ tánh quả, tư duy như lý. Hoặc đối với nhân kia, hoặc đối với diệt kia, hoặc hành hướng tới diệt, tác ý như lý, tư duy về chúng, nên phát sanh chánh kiến.
Lại, đối với các đế thứ lớp đạt được trí kiến hữu học, vô học thanh tịnh. Hữu tình kia do sức của trí kiến như thế, nên có thể đoạn trừ rốt ráo vô minh và ái. Do sự đoạn trừ kia, nên các thọ được sanh khởi từ vô minh xúc, cũng lại theo đấy được đoạn trừ. Vì được đoạn trừ, nên ở trong hiện pháp do lìa vô minh nên chứng đắc huệ giải thoát.
Lại, các thọ, do vô minh xúc sanh khởi, tương ưng với các phiền não tham ái tương ưng hiện có trong tâm. Hữu tình kia, đối với tâm ấy cũng có thể lìa mọi hệ thuộc. Do lìa tham, nên chứng đắc tâm giải thoát.
Lại, tức do vô minh kia diệt, nên các hữu vô minh lúc cũng chưa đoạn trừ, dựa nơi hậu tế nên sanh hành, thức, cho đến các thọ đều không được sanh, thành pháp chẳng sanh. Thế nên gọi là vô minh diệt nên các hành diệt. Thứ lớp cho đến các xúc do dị thục sanh diệt, nên các thọ do dị thục sanh tùy diệt.
Lại, trong hiện pháp, vô minh diệt, nên xúc của vô minh diệt. Do xúc của vô minh vĩnh viễn được diệt, nên các thọ được sanh từ xúc của vô minh đã vĩnh viễn được diệt, nên ái cũng theo đấy mà diệt. Do ái đã diệt, nên như trước đã gọi là các thủ hiện có, cho đến tổn não dùng làm hậu biên, các hành đều diệt, thành pháp chẳng sanh. Ở trong hiện pháp, các hành như thế đều không lưu chuyển. Do không lưu chuyển nên ở trong hiện pháp, trụ nơi Giới Niết-bàn Hữu dư y, gọi là chứng đắc Niết-bàn của hiện pháp. Bấy giờ, hữu tình kia, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên thức, chưa diệt hoàn toàn mà được gọi là thanh tịnh trắng sạch, cho đến có thức thân trụ chưa diệt. Hữu tình kia hằng lãnh nhận các thọ lìa hệ thuộc, không có trói buộc. Hữu tình kia có thức thân, cho đến nghiệp trước dẫn dắt thọ lượng luôn nối tiếp trụ. Thọ lượng nếu hết, có thể nắm giữ thức, xả bỏ chỗ chấp thân, mạng căn cũng bỏ. Từ đấy trở về sau, mạng căn hiện có đều hoàn toàn dứt trừ rốt ráo, đều không chỗ có.
Lại, các thức kia cùng với tất cả thọ, ở trong phần vị ấy, tự nhiên mà diệt. Nhân trước diệt, nên các thứ khác lại không nối tiếp, cũng diệt dứt trọn vẹn. Do đạo lý ấy, nên gọi là Giới Bát-niết-bàn Vô dư y, tịch tĩnh rốt ráo, luôn trụ nơi diệu tích. Vì nghĩa này nên thường tùy Niết-bàn, thường dùng Niết-bàn làm cứu cánh, ở nơi trụ xứ của Đức Thế Tôn tu tập phạm hạnh thành thục. Đó gọi là nói rộng.
Do ba thứ tướng, nên kiến lập duyên khởi. Nghĩa là từ tiền tế, trung tế lưu chuyển, từ nơi trung tế, hậu tế lưu chuyển. Lại nơi trung tế lưu chuyển thanh tịnh.
Lại nữa, an lập chín tướng, cây khổ của hữu sau có thế sanh khởi hữu hiện tại. Nghĩa là có hữu tình không phải là hàng thông tuệ của thế gian, ở trong hiện pháp đã tạo nghiệp mới như cây khổ nhỏ.
Nếu hữu tình kia, nơi thế gian không phải là hàng thông tuệ, có thể tùy thuận nơi xứ sở của các lậu. Dựa nơi đời hiện tại, tùy quán ái vị. Dựa nơi đời quá khứ, sanh luyến tiếc sâu xa. Dựa nơi đời vị lai, chuyên tâm buộc vướng. Trụ như thế rồi, trước hết đối với tất cả tham ái chưa đoạn, do luôn hành tập nên lại càng tăng trưởng. Hữu tình này không phải là hàng thông tuệ, muốn khiến cho cây nhỏ của hữu sau lại thêm tươi tốt như thế, dùng nước tham ái để phun tưới luôn, khiến như trước đã nói, có thể chiêu cảm quả đạt được của thủ nơi vị lai, lần lượt đầy đủ.
Nếu có các Thánh đệ tử đa văn, tuy tạo hữu lậu, có thể chiêu cảm cây nhỏ của các nghiệp nơi vị lai. Nhưng các hành có thể thuận nơi phiền não, tùy quán thuận hợp tánh của pháp sanh diệt, đối với cảnh giới đoạn, cảnh giới vô dục cùng cảnh giới diệt, tùy quán không điên đảo, là tánh tịch tĩnh, tổn giảm nghiệp không khiến tăng trưởng, khiến cho nước ái ấy cũng đều tiêu tan. Kẻ thông tuệ không muốn cây nhỏ của hữu sau xanh tốt, liền đoạn ái kia. Ái duyên nơi thủ v.v… đã tổn hoại. Như thế, cây nhỏ của hữu sau hãy còn khiến cho tất cả đều không thật có, huống hồ là khiến cho hữu sau lại tăng trưởng. Lại như có một hữu tình, đã sanh tự thể, các thứ tạo tác, làm tăng trưởng hiện có ở trước, thuận nơi nghiệp của thọ sau, ở trong hiện pháp, bị chỗ trói buộc kia, tức tự thể ấy cùng chỗ tạo tác trước thuận nơi nghiệp của thọ sau, gồm thâu chung làm một, gọi là hữu sau như cây khổ lớn. Nếu đối với pháp có thể thuận theo các phiền não, như trước đã nói, cho đến chuyên tâm buộc chấp. Trụ như thế rồi, kẻ ấy, với chỗ tạo tác trước thuận nơi nghiệp thọ nhận sau, như rễ cắm sâu vào đất khiến cây lá um tùm. Ở trong hiện pháp, phiền não ái kia như đường dẫn nước bên cạnh tưới vào khiến cây tươi tốt. Dùng đấy làm nhân, khiến tất cả chủng tử nơi thức tùy theo nghiệp hoặc mà hành. Nơi đời vị lai lúc đang tiếp tục sanh, thì trụ nơi danh sắc.
Như vậy, cây khổ khi cao lớn, an lập, nên biết hữu tình như thế là muốn khiến cho cây khổ lần lượt thêm xanh tốt. Ở đây, phẩm bạch như trước đã nói, nên biết.
Lại nữa, Đức Thế Tôn nơi thời xa xưa, lúc làm Bồ tát, đã từ bỏ các đạo thế tục đã đạt được từ trước, cùng các vị thầy thế gian, ở tại tòa Bồ đề, vì thương xót các hữu tình, muốn đem lại lợi ích cho họ là điều trước nhất, nên tự đối với các đế khởi quán xét đúng đắn. Bấy giờ, vì nhằm quán đầy đủ về Khổ đế, do chi lão tử thuộc về Khổ đế, nên đối với duyên khởi đã quán xét theo chiều hướng nghịch. Nên biết ở đây, do ba thứ tướng, nên đối với lão tử quán xét đúng như lý:
1. Quán xét nhân duyên vi tế.
2. Quán xét nhân duyên thô.
3. Quán xét về không phải là không tịnh.
Nhân duyên chiêu cảm sanh, cũng gọi là sanh. Tức tự thế sanh cũng gọi là sanh. Sanh trước là tế, sanh sau là thô.
Ở đây, quán sanh trước là tế, là hữu mà có lão tử.
Cũng quán do sanh sau là thô làm duyên nên được có lão tử. Lão tử của vị lai, sanh tế làm nhân. Lão tử của hiện pháp thì sanh thô làm nhân.
Thế nào gọi là không phải là không quyết định? Nghĩa là, tức trừ hai thứ thể sanh thuộc về xứ sanh kia phần còn lại nhất định không thể cho qua quả lão tử. Như quán về lão tử, thì quán sanh hữu, thủ, ái, đều do hai thứ quán xét như lý, nên biết cũng vậy.
Như thế gọi là khởi đầu từ lão tử, lần lượt theo đạo lý duyên khởi quán xét nghịch về hai đế Khổ, Tập. Nên biết ở đây, thuận theo pháp của Tập đế cũng như tim đèn, tức Tập đế này như là dầu mỡ v.v…, Khổ đế giống như đèn. Các hữu tình không thông tuệ ví như kẻ rót dầu cùng tập hợp tim đèn. Như vậy, đèn khổ được đốt sáng lâu dài ở đời. Nên biết phẩm bạch Cùng với đấy trái nhau. Nghĩa là theo phương tiện thiện xảo, quán Diệt đế, Đạo đế.
Lại có hai thứ hữu tình:
1. Chỉ hành cho mình, không hành lợi ích. Nghĩa là chỉ đối với bản thân, tập hợp tim đèn, rót dầu, khiến một đèn khổ nối tiếp trụ lâu.
2. Lại có hữu tình khác, hành gồm cả tự, tha với vô lượng đại chúng, không phải hành lợi ích. Bị khối lửa của khổ lớn thiêu đốt tự tha, đã thâu nhận pháp tà, trước hết là lắng nghe, ba huệ Văn, Tư, Tu đều dẫn đến hành tà. Ví như người tích chứa củi khô, cỏ khô cùng phân bò khô, do nhân duyên ấy, khiến khối lửa khổ trong thời gian cứ bùng cháy không hề dứt.
Lại nữa, Đức Thế Tôn, vào thời xa xưa, lúc làm Bồ tát, ở nơi tòa Bồ đề, dựa vào môn duyên khởi, thứ lớp theo hướng nghịch mà nhập. Trước duyên nơi hậu tế, tư duy như lý về lão tử nơi Khổ đế, cho đến chi ái. Như vậy là quán xét về Khổ đế của hậu tế, cùng khổ của hậu tế nơi Tập đế hiện có, chưa cho là biết đủ, nên lại quán xét các khổ hiện tại thuộc về nhân duyên của Tập đế nơi hậu tế. Tức là quán nghịch khắp về thọ, xúc, sáu xứ, danh sắc cùng thức.
Nên biết ở đây, quán khổ của vị lai là Khổ đế hiện có. Quán nhân của tập kia là Tập đế hiện có. Quán Tập đế của khổ nơi đời vị lai do đâu mà có? Tức biết do từ nơi Tập trước đã sanh khởi thức làm biên vực, nên Khổ của hiện pháp có. Đã nhận biết từ Tập trước sanh khởi, nên không quán lần nữa khổ ấy vì sao có. Do đó, Đức Thế Tôn vào thời xa xưa, lúc là Bồ tát, vì quán Khổ Tập hiện có của vị lai, quán khổ của hiện tại, cho đến tác ý tương ưng nơi tâm thức, nhưng lại chuyển hoàn. Lại lần lượt quán chốn nương dựa của Tập đế nơi hậu tế kia. Nơi chốn nương dựa của Khổ đế thuộc hậu tế, nên biết tức là Tập đế của hậu tế, nên cho đến thức, lần nữa trở lại thuận với trên. Như thế là quán xét như lý về duyên khởi thuận nghịch nơi Khổ Tập. Từ đấy, không gián đoạn là quán về Diệt đế. Khởi đầu từ lão tử, thứ lớp nghịch nhập, cho đến vô minh. Vì sao? Vì quán xét như thế, thì Khổ đế của hiện tại, vì sao tất cả thảy đều diệt hết? Nghĩa là vô minh không tạo tác làm duyên cho hành của nghiệp mới. Như vậy là quán đầy đủ về ba Thánh đế rồi, tiếp đến lại tìm cầu Thánh đế diệt này do đường nào, hành nào để có thể chứng đắc? Do như trước đã nói về "Túc trụ tùy niệm", nhớ nghĩ về thời xưa, vì cầu chánh kiến của thế gian khiến các lậu vĩnh viễn dứt hết, như sự chỉ dạy trao truyền, khiến hiện tại khởi tư duy: Ta nay chứng đắc chánh đạo xưa trước, đồng với chỗ từng trải qua của các Tiên thời xa xưa.
Như vậy, chỉ dùng tác ý thế gian quán đầy đủ về bốn đế. Lại dùng chánh kiến, ở trong các đế được nhập hiện quán, thứ lớp theo phương tiện, chứng Giác Chánh Đẳng Bồ đề Vô thượng. Hiện thấy phương tiện đạt được trí kiến thiện tịnh vô lậu của hàng hữu học, vô học. Vì ý nghĩa này, nên trong ba A-tăng-xí-da đại kiếp, tu tập tất cả hạnh khó hành, nay đối với nghĩa ấy đều đã chứng đắc. Vì lợi tha, vì thương xót các hàng Người, Trời của thế gian, nên tùy theo người có thể hội nhập Thánh pháp, mở bày bốn Thánh đế khiến sanh Đẳng giác.
Lại nữa, Đức Phật Thế Tôn giáo hóa thuộc về ba xứ. Đó là:
1. Khéo kiến lập các pháp duyên sanh không tác dụng.
2. Vì dựa nơi hành lợi tha.
3. Vì dựa nơi hành tự lợi.
Ở đây, khéo kiến lập các pháp duyên sanh không tác dụng. Nghĩa là từ khổ của hậu tế, quán nghịch về Khổ Tập của tiền tế nơi hiện pháp: Danh sắc duyên thức, thức duyên danh sắc. Ví như bó lau, lần lượt cùng nương mà được đứng yên. Trung gian nơi các pháp duyên sanh đều không phải tự tạo, cũng không phải tha tạo, không phải tự tha tạo, không phải không nhân sinh. Nếu đặt như vậy gọi là khéo kiến lập các pháp duyên sanh không tác dụng. Vì sao? Vì các hành vô thường, nên tiền tế là không, hậu tế là không, trung tế tuy có nhưng chỉ là sát na, nên tác dụng chuyển động, căn cứ theo đệ nhất nghĩa đều không thật có, chỉ dựa nơi thế tục, tạm giả thiết lập. Thiết lập như vậy là thuận hợp như thật, thế nên gọi đấy là khéo kiến lập. Tức dựa nơi tánh của sự khéo kiến lập như vậy, dựa nơi các duyên khởi, vì kẻ khác tuyên thuyết giáo pháp Thánh đế, gọi là Đức Thế Tôn dựa nơi hành lợi tha. Tức ở đây là dựa vào khả năng của chính mình hướng nhập hiện quán về Thánh đế, với pháp tùy pháp hành. Lại có thể chứng đắc Niết-bàn của hiện pháp, nên biết đó gọi là Đức Thế Tôn đã dựa nơi hành tự lợi.
Lại, các chúng đệ tử trước đã tích tập tư lương trí huệ, thành tựu huệ câu sanh mạnh mẽ, nên gọi là thông huệ. Gồm đủ giáo, trí, nên gọi là sáng rõ. Gồm đủ chứng trí nên gọi là khéo điều phục. Không do nơi duyên khác mà tự giác về pháp, nên gọi là vô sở úy. Duyên nơi Niết-bàn, nhận biết như thật, nên gọi là thấy cam lồ. Tận trí, vô sanh trí là chỗ nương dựa, chứng Giới Niết-bàn Hữu dư y, nên gọi là thân chứng, đạt được cảnh giới cam lồ vi diệu, an trụ đầy đủ.
Lại nữa, có các kẻ ngu, là chủng loại ngoại đạo, tuy có thể quán thấy tánh vô thường thô nơi thân của bốn đại chủng, do quán thân này tuy trụ vững lâu nhưng có tăng giảm. Lúc chết lúc sanh có bỏ có lấy, nên đối với thân ấy có thể chán, có thể lìa, có thể dấy khởi thắng giải. Dùng đạo thế gian lìa dục của cõi Dục, lìa dục của cõi Sắc, tột cùng đến cõi Hữu Đảnh. Nhưng kẻ ấy đối với thân, nên biết chỉ gọi là chưa được giải thoát. Vì sao? Vì do ở trong các định đã đạt được kia, thức đã được trong sáng chấp giữ làm ngã, trụ nơi tạp nhiễm. Lại, vào thời gian sau, nghiệp dứt, thọ mạng hết, thối chuyển trở lại sanh xuống cõi dưới, do nơi duyên khởi không đạt thiện xảo.
Các Thánh đệ tử, tuy đối với duyên khởi đã được thiện xảo, nhưng chỉ tùy quán tánh vô thường vi tế nơi thân của bốn đại chủng, tức chưa quán xét tánh vô thường của thức. Vì sao? Vì thân của bốn đại chủng trải qua thời gian dài lâu trụ nơi tướng thường có thể đạt được. Sát na tương tợ nối tiếp tùy chuyển, nên tánh vô thường kia khó có thể đạt được. Tướng vô thường thô của thức hiển bày có thể đạt được. Sát na, sát na nơi đối tượng duyên dễ thoát, còn sự chuyển biến của tướng ấy, với vô lượng phẩm loại có sai biệt, nên tuy tánh tướng của thức này là vô thường, nhưng vô lượng phẩm loại thô hiển bày dễ đạt được, mà lại nói là hết sức vi tế, nên biết tánh ấy khó có thể nhận thức, khó có thể hội nhập. Vì sao? Vì đấy chỉ là cảnh do huệ nhãn nhận thấy.
Thân của bốn đại chủng có tăng có giảm, có bỏ có lấy. Tánh vô thường kia hãy còn là phi lý đối với cảnh giới của nhục nhãn, huống hồ là nhãn khác. Các Thánh đệ tử đối với duyên khởi đạt thiện xảo, lại muốn ngộ nhập tánh vô thường của thức hết sức vi tế. Tức nơi duyên khởi tư duy như lý. Do có thể phân biệt tánh sai biệt nơi phần vị tương tục gắn liền với bản thân, cùng các thọ do xúc sanh khởi, nên có thể ngộ nhập tánh vô thường của thức. Chư vị đã thành tựu trí kiến như thế, dần dần đối với thân là chỗ nương dựa của thọ, là chỗ nhân theo các xúc cùng tất cả hành thuộc về danh còn lại, đều có thể sanh khởi thắng giải, chán lìa, cũng được giải thoát. Đạt giải thoát nên an trụ rốt ráo nơi hai Giới Niết-bàn hoặc Hữu dư y, hoặc Vô dư y.
Lại nữa, Bí-sô đối với pháp duyên khởi đạt được thiện xảo, do ba thứ tướng, nên ở nơi ba đời có thể suy lường đúng đắn, có thể dứt hết khổ một cách chính đáng. Những gì là ba tướng? Đó là:
1. Xứ nương dựa của Khổ.
2. Nhân duyên của Khổ.
3. Chỗ dựa thuộc nhân duyên của Khổ. Đó gọi là ba tướng. Thế nào là ba đời? Đó là:
1. Đời trung gian.
2. Đời quá khứ.
3. Đời vị lai.
Nên biết ở đây, chỗ dựa của Khổ nơi nội thân là nóng, lạnh cùng các khổ như bệnh, chết có sai biệt, là nơi chốn nương dựa của hiện pháp sanh khởi. Vì sao? Vì do có các pháp ấy, nên đối với thân là chỗ dựa, khổ kia được sanh, bên ngoài là cha mẹ, thân thuộc, bạn bè. Chỗ dựa của Khổ thâu nhận là nắm giữ đao gậy như vâng, hầu v.v… cho là hậu biên, là nơi chốn nương dựa của các khổ sai biệt như ưu, sầu, tham v.v… Vì sao? Vì như trước đã nói, hai thứ chỗ dựa ấy dùng việc thâu nhận ái làm nhân, do giống với ái tập, nên từ chỗ dựa ấy sanh khởi, gọi là nhân duyên của Khổ.
Lại, tức ái ấy nương dựa nơi cảnh giới của sắc diệu đáng yêu thích, dùng làm chốn dựa, mới có thể được sanh, gọi pháp đó là chỗ dựa thuộc nhân duyên của Khổ.
Lại, các cảnh giới hiện có nơi hiện tại, do lửa Thamsân-si nhiệt não làm nhân khiến sanh khô, khát, do đó bèn uống. Ví như thức uống ngon ngọt có lẫn với chất độc, là cảnh giới của đối tượng duyên thuộc sắc diệu đáng yêu thích, không thể từ bỏ, nên càng thêm khát ái. Do khát ái nên có chỗ dựa của vị lai. Có chỗ dựa của vị lai nên có các khổ. Như vậy nên biết, do đệ nhất nghĩa, gọi là hướng tới nẻo chết. Tức do đạo lý của hiện tại như thế, phải nên nhận biết rõ về đạo lý của quá khứ, vị lai, nên biết đó gọi là có thể suy lường đúng đắn về đời trung gian, quá khứ, vị lai.
Lại, tức nương dựa nơi bốn thứ ngôn thuyết, nên biết ba lượng là chỗ dựa của tất cả. Hai thứ ngôn thuyết hoặc thấy hoặc biết là dựa nơi hiện lượng. Ngôn thuyết hoặc hiểu rõ là dựa nơi tỷ lượng. Ngôn thuyết hoặc nghe là dựa nơi chí giáo lượng.
Lại nữa, do năm thứ tướng, là phương tiện của chánh cần quán xét về duyên khởi, có thể dứt hết các khổ, có thể tạo biên vực của khổ. Những gì là năm tướng? Đó là:
1. Quán xét nhân duyên sanh khởi của các pháp duyên sanh.
2. Quán xét nhân duyên diệt của các pháp kia.
3. Nhận biết rõ như thật về hành đúng đắn có thể hướng đến nẻo diệt kia.
4. Tu tập pháp tùy pháp hành.
5. Lìa tăng thượng mạn nơi sự chứng đắc.
Như vậy gọi là khéo khởi quán xét cùng sự thành tựu viên mãn của quả. Khởi đầu từ chỗ dựa nơi nhân duyên Khổ của vị lai. Tiếp theo là quán xét nghịch, cho đến thức duyên danh sắc. Do bốn thứ tướng nên quan sát thông tỏ tu tập hành chánh. Nghĩa là do hai tướng, quán xét về vị lai, nhân có nên quả có, nhân không nên quả không. Đã quán xét thông tỏ về nhân không rồi, do tu hành đúng đắn. Đã thông tỏ rồi, theo đấy tu tập đúng đắn về pháp tùy pháp hành.
Lại, quán xét đúng đắn ở trong hiện pháp, vô minh là duyên nơi nghiệp mới phước, phi phước, bất động, nhân nơi pháp có. Tùy theo hành của nghiệp phước, phi phước, bất động, nên quả như thức v.v… có. Kia không có nên đây cũng không có.
Đã quán xét rồi, thông tỏ như trước, cùng tu hành đúng đắn. Lúc tu hành đúng đắn, không tạo vô minh làm duyên cho nghiệp mới nghiệp cũ. Xúc đã may chóng có thể biến đổi hẳn, nên ở trong hiện pháp chứng đắc Thánh đạo hiện thấy như trước, là đạo quả Niết-bàn. Bấy giờ, hành giả kia ví như thợ gốm lành nghề, đem lửa phiền não với tùy miên được chưng đốt, tùy theo bình đựng hữu thức thân được chưng đốt chín, đặt trên bờ Niết-bàn vô cùng trong mát khiến lìa tất cả phiền não nóng bức.
Lại khiến cho hữu thức thân như gạch ngói, thâu dựa được thanh tịnh, mát mẻ. Nên biết như trước đã nói về thân hiện có lãnh nhận biên vực nơi thọ, cho đến nói rộng. Chưa xả bỏ thọ mạng, lại thường ở nơi nẻo hằng trụ, trọn không thối mất quả A-la-hán, cũng không thể tạo vô minh duyên hành.
Thế nào là đối với sự chứng đắc, lìa tăng thượng mạn? Nghĩa là, bấy giờ hành giả kia thành tựu trí kiến có thể duyên nơi duyên khởi thanh tịnh diệu thiện, tư duy: Dựa nơi Thắng nghĩa đế không lưu chuyển, không Niết-bàn, chỉ có các pháp kia sanh, nên khiến các pháp kia sanh. Các pháp kia diệt, nên khiến các pháp kia diệt.
Lại nữa, lược có hai thứ kẻ tăng thượng mạn:
1. Kẻ tăng thượng mạn nơi hàng hữu học.
2. Kẻ tăng thượng mạn nơi hàng vô học.
Nếu là kẻ tăng thượng mạn nơi hàng hữu học, kẻ ấy nói với người khác: Ta đã vượt qua nghi, vĩnh viễn đoạn trừ ba kiết. Đối với việc chứng đắc giải thoát của hàng hữu học, đã lìa do dự, đã nhổ sạch mũi tên độc, đã có thể đoạn trừ hoàn toàn Tát-ca-da-kiến, dùng làm căn bản cho tất cả kiến thú.
Nếu là kẻ tăng thượng mạn nơi hàng vô học, kẻ ấy nói với người khác: Ta không có cái gì ở trên. Sự việc nên tạo tác, chỗ nên "quyết trạch", ta đều đã làm.
Hai thứ như thế, hoặc dựa nơi duyên khởi, hoặc dựa nơi Niết-bàn.
Lại, dựa nơi bậc Thánh nói, lúc dấy khởi ngôn thuyết, nghĩa là nói về Tánh Không thâm diệu, xuất ly thế gian, tương ưng với các sự việc thuận nghịch nơi duyên khởi của tánh duyên. Đối với chỗ nêu giảng không thể hiểu rõ, không theo đấy để ngộ nhập. Do hai thứ nhân ấy cùng duyên, nên đối với chỗ hiểu rõ như thật lại phát khởi hồ nghi. Đối với sự nối tiếp phiền não của chính mình, đã vĩnh viễn đoạn trừ, tác chứng Niết-bàn cũng sanh do dự.
Vì sao? Vì do kẻ tăng thượng mạn nơi hàng hữu học, chấp ngã, ngã sở, luôn đeo đuổi, tác ý tùy nhập, vì ngã mạn vi tế, biến chuyển gián đoạn, không gián đoạn, đều không thể thấu đạt.
Lại, pháp Xa-ma-tha nhận giữ nối tiếp, phòng hộ phiền não thô khiến không tạp loạn. Do nhân duyên này, kẻ ấy đối với pháp chưa đạt được, sanh tưởng đã đạt được. Đối với pháp chưa phòng hộ, sanh tưởng đã phòng hộ, nên bảo với người khác như thế.
Lại, kẻ tăng thượng mạn nơi hàng vô học tự nói: Ta đã đạt tịch tĩnh. Ta đã đạt Niết-bàn. Ta đã lìa ái. Ta đã lìa thủ. Đối với các thứ tăng thượng mạn hiện hành vi tế chưa đoạn ấy, đều không thể thấu đạt. Đối với pháp chưa đạt được, sanh tưởng đã đạt được. Đối với pháp chưa phòng hộ, sanh tưởng đã phòng hộ, nên bảo với kẻ khác như thế.
Lại, kẻ tăng thượng mạn nơi hàng vô học, nên biết có quyết định trước ở nơi hàng hữu học dấy khởi tăng thượng mạn. Vì sao? Vì không phải kẻ ấy với phiền não hiện hành nối tiếp, nhưng tâm bị vây buộc như thế, chấp chặt mà trụ. Do nhân duyên này, nên đối với pháp chưa đạt được, sanh tưởng đã đạt được, khởi tăng thượng mạn, chấp trước sâu chặt, trải qua nhiều thời gian chấp trụ, hoặc nói với người khác. Chỉ có mất niệm, là phiền não nhỏ hẹp tạm thời hiện hành, tức thì lại thông tỏ, mau chóng có thể xa lìa.
Lại, kẻ ấy, như thế là hoặc do thời trước, đối với pháp chưa đạt được khởi tăng thượng mạn đạt được. Hoặc do nơi hiện tại, đối với chỗ đạt được sanh nghi hoặc, do dự hủy hoại tâm, liền sanh lo buồn, khởi tư duy: Nếu pháp ta đã chứng đắc là không thật có, thì chỗ chứng đắc của kẻ khác cũng phải là không có. Như thế liền sanh tà kiến hủy báng Thánh giáo, nhận lấy nhân của nẻo ác, chịu suy tổn lớn.
Thế nào là như trước đã nói, bậc Thánh thuyết giảng pháp thâm diệu? Nghĩa là có thể khai thị pháp duyên khởi thâm diệu, Niết-bàn cứu cánh, ba tướng tương ưng, thể tánh của hữu vi, vô vi có sai biệt. Hữu vi là vô thường. Vô vi thì thường trụ. Các hành đều khổ. Niếtbàn tịch tĩnh. Hết thảy hữu vi, gồm chung chỉ là khổ, cùng chỉ là nhân của khổ. Hết thảy vô vi gồm chung chỉ là các khổ cùng nhân đã vĩnh viễn diệt trừ.
Nếu các Bí-sô, ở trong hiện pháp đạt được Niết-bàn, đoạn trừ vĩnh viễn nẻo nhân của các khổ nơi hữu sau, khiến quả khổ sẽ có của đời vị lai hoàn toàn không chuyển. Lúc nhập Bát Niết-bàn Vô dư y, khổ sau không còn nối tiếp. Nhân trước đã dẫn đến chỗ dựa của khổ hiện tại, tự nhiên liền diệt, đạt đến biên vực của Khổ.
Ở đây, đều không có kẻ lưu chuyển trước, cũng không có người Bát Niết-bàn nơi hiện tại. Nếu có thể khai thị về nghĩa, lời như thế, nên biết đó gọi là như trước đã nói, bậc Thánh thuyết giảng pháp vô cùng thâm diệu. Lại nữa, bản tánh của duyên khởi là thâm diệu cùng tột, nhưng có một bậc có thể khai thị khiến trở nên cạn, nên biết điều ấy do hai nhân duyên:
1. Do bậc Đại sư khéo khai thị.
2. Tức do hữu tình ấy thành tựu trí thông sáng, xét đoán vi tế, thấu đạt rộng khắp. Hoặc nói hoặc nghe, các câu nghĩa ấy, nên biết như nơi phần Nhiếp dị môn ở trước đã nêu.
Ở đây, các pháp duyên khởi lược do bốn tướng nên thâm diệu tột cùng. Đó là:
1. Do nhân quả vi tế khó nhận biết rõ.
2. Do vô ngã khó nhận biết rõ.
3. Do hữu tình ly hệ mà có trói buộc khó nhận biết rõ.
Lại, tức sáu lược chia làm hai phần, tức danh và sắc, cùng với giới xúc làm duyên. Nên biết ở đây, ý xứ phi sắc, cùng với các pháp phi sắc khác tương ưng. Một phần như thế được gọi là danh. Các xứ sắc còn lại gồm chung làm một phần, gọi là sắc.
Lại, danh sắc này, ở trong hiện pháp, do nối tiếp sanh thức làm duyên dẫn dắt, cùng có thể nắm giữ khiến không tan hoại.
Lại, tức thức ấy, nối tiếp sanh rồi, sau lại dựa nơi danh sắc mà trụ. Hoặc nơi đồng thời, hoặc sanh không gián đoạn, dựa nơi danh sắc mà chuyển. Đối với hiện pháp, thức này cũng dùng danh sắc kia làm duyên, nên biết nghiệp trước đã dẫn danh sắc cùng thức mà lần lượt dựa vào nhau. Lần lượt làm duyên như thế, nên biết thức duyên danh sắc dùng làm hậu biên, với chi hữu hiện có, tùy theo tướng của lão tử, như trước đã nói, theo chỗ ứng hợp nơi thể tánh có duyên. Như vậy gọi là nhân quả vi tế khó có thể nhận biết rõ. Vì khó nhận biết rõ, nên biết duyên khởi gọi là thâm diệu, hết sức thâm diệu.
Thế nào là vô ngã khó có thể nhận biết rõ? Nghĩa là an lập duyên khởi của các nhân quả, ngang bằng với từng ấy sự việc, ở trong khắp tất cả chúng hữu tình, khởi tăng ngữ của hữu tình không sai biệt. Tức tăng ngữ này nên biết là đường đi, dựa vào ngôn từ hiện có của xứ ấy đã chuyển biến để thiết lập các chúng hữu tình đều dị biệt. Lại lập danh tự đều có sai biệt… Ngang bằng với từng ấy sự việc, đối với các thứ ngôn thuyết của thế tục, sĩ phu có ngôn luận chuyển biến. Tức là các thọ hiện có, hoặc do xúc minh sanh, hoặc do xúc vô minh sanh ra, hoặc do xúc phi minh phi vô minh sanh ra, tất cả như thế cùng với danh sắc kết hợp.
Nếu các danh sắc đã vĩnh viễn đoạn trừ rốt ráo, thì các thọ hiện có không còn chỗ để được sanh. Nên biết đó gọi là duyên khởi vô ngã khó có thể nhận biết rõ.
Thế nào là hữu tình lìa hệ thuộc mà có trói buộc, tánh khó nhận biết rõ? Nghĩa là như ngoại đạo xúc đối xúc vô minh sanh khởi thọ, do ba môn nên đối với các hành duyên sanh vô ngã, phân biệt có ngã, khởi thiết lập kiến. Những gì là ba môn? Đó là:
1. Đối với cõi Dục chưa được lìa dục, ở trong ba thứ thọ hệ thuộc cõi Dục, vọng chấp một phần là ngã sở sáng rõ, vọng chấp một phần là tánh của kẻ thọ nhận, phân biệt có ngã, khởi thiết lập kiến.
2. Nơi cõi Dục đã được lìa dục, Tĩnh lự thứ ba chưa được lìa dục, chỉ ở lạc thọ là có chỗ đạt được, tức vọng chấp đây là ngã sở sáng rõ, chấp ngoài thọ ấy riêng có thật ngã, là chủ thể thọ nhận, khởi thiết lập kiến. Nghĩa là cho ngã này là pháp có thọ, tức dùng thọ kia lãnh nạp thọ này.
3. Từ Tĩnh lự thứ ba trở lên, các thọ vi tế không khổ không lạc, đều không thể thông tỏ, nên phân biệt có ngã. Tức cho các thọ đều không phải là kẻ thọ nhận, khởi thiết lập kiến.
Như thế, tất cả do ba thứ môn dấy khởi ngã kiến, đều không hợp lý. Vì sao? Vì do ba thứ thọ đều vô thường, nên chỗ chấp ngã cũng là vô thường. Thế nên, kẻ kia thấy ba thứ thọ là ngã là không đúng đạo lý. Lại, nơi Tĩnh lự thứ tư trở lên đều không có lạc thọ, trong ấy cũng không có người có thể thọ nhận lạc. Chấp ngã đối với pháp kia do lạc thọ nên gọi là pháp có thọ, là không hợp đạo lý. Lại, nơi Tĩnh lự thứ tư trở lên tới định Vô sắc, kẻ kia do chấp ngã nên không biết về thọ. Do định tịch tĩnh kia sanh thọ, phát khởi ngã mạn, cho là ngã tịch tĩnh. Mạn ấy nên không, nhưng đã có mạn này, thế nên chấp ấy cũng không hợp lý. Nên biết ở đây, nếu các duyên khởi không phải là thâm diệu, thì mạn kia lẽ ra không có. Như thế là kẻ vô trí vọng chấp đã hoại mất nội pháp. Các Thánh đệ tử đa văn, xúc đối minh xúc sanh khởi các thọ, nhận biết rõ tất cả chỗ dấy khởi ngã kiến đều không hợp lý, thế nên quán thấy các pháp là vô ngã. Chư vị ấy đối với Thế tục đế cùng Thắng nghĩa đế đều được thiện xảo. Như trước đã nói, Đức Như Lai sau khi diệt độ, hoặc có hoặc không, cho đến hoặc không phải là có, không phải là không, đều không chấp trước.
Lại, ngoại đạo kia kiến hành như thế, ở trong hiện pháp, dựa vào như trước đã nói về ba thứ vọng kiến, hoặc thiết lập ngã là có sắc. Hoặc thiết lập ngã là không sắc. Hoặc thiết lập ngã là nhỏ hẹp. Hoặc thiết lập ngã là vô lượng.
Như trong hiện pháp, vọng phân biệt ngã là chân thật, có thể đạt được, nên khởi thiết lập kiến. Như vậy, nơi vị lai phân biệt khởi kiến chấp, vì kẻ khác nêu đặt, nên biết cũng thế.
Tuy có nhiều thứ vọng phân biệt ngã, nhưng chỉ một loại là tùy miên của Tát-ca-da-kiến trói buộc chưa đoạn dứt. Kẻ kia tuy do các đạo thế tục thấp kém lìa dần trói buộc, cho đến cõi Hữu Đảnh, nên biết tức kẻ ấy cũng gọi là trói buộc.
Như thế gọi là do diệu trí thiện xảo của các duyên khởi, nên hữu tình lìa hệ thuộc mà có trói buộc tánh khó nhận biết rõ, có thể tùy thuận ngộ nhập.
Thế nào gọi là hữu tình có hệ thuộc mà lìa trói buộc, tánh khó nhận biết rõ? Nghĩa là có các Thánh đệ tử đa văn, xúc đối minh xúc sanh khởi các thọ, ở trong hiện pháp không đạt được thật ngã, cũng không thiết lập. Thân hoại mạng chung trở về sau, cũng không ở trong bảy thức trụ kia thiết lập tất cả chúng hữu tình. Đã lại đối với cõi dưới nối tiếp sanh thức xứ. Lại đối với cõi kia sanh khởi thức xứ. Chư vị ấy đối với thực trụ cùng với hai xứ, do các duyên khởi nơi đạo lý của Thánh đế, khi quán như thật, thành A-la-hán hoặc huệ giải thoát hoặc cùng giải thoát, gồm đủ tám giải thoát, tĩnh lự, đẳng chí. Chư vị ấy, nơi hiện pháp tuy có thể hiện thấy có sanh già chết, nhưng gọi từ pháp kia mà được lìa trói buộc. Tuy lại hiện thấy các thọ lãnh nạp, nhưng gọi là ở nơi thọ mà được lìa trói buộc. Tuy lại hiện thấy có thức, danh sắc, nhưng gọi là ở nơi pháp ấy mà được lìa trói buộc.
Như vậy gọi là, do diệu trí thiện xảo của các duyên khởi, nên hữu tình có hệ thuộc mà lìa trói buộc, tánh khó nhận biết rõ, đã nhận biết rõ như thật.
Do bốn tướng ấy, nên biết duyên khởi gọi là thâm diệu, thâm diệu tột cùng.
Lại nữa, tụng nêu:
Thế tục, Thắng nghĩa khác
Pháp nhĩ, đây tạo tác
Đại không cùng phân biệt
Tự tạo tác là sau.
Ở trong Chánh pháp Tỳ-nại-da này, tuy kẻ ngu, trí lại cùng từ tiền tế đến nơi trung tế, đều do hai thứ phiền não căn bản, tập thành thân có thức như thế. Thân này làm duyên, đối với số hữu tình phi tình hiện có bên ngoài, nơi cảnh giới của đối tượng duyên thuộc về danh sắc, lãnh nạp ba thọ. Nhưng kẻ trí kia, đối với tất cả tiền, trung, hậu tế, so với kẻ ngu kia có sai biệt lớn.
Nên biết ở đây, đối với trung tế có sai biệt: Nghĩa là do hai thứ phiền não căn bản đã tập thành thân có thức như thế. Ở trong hiện pháp, hai thứ ấy đều đoạn. Đoạn trừ hai thứ ấy, nên nơi đời vị lai không còn có thức kia tùy thuộc thân, đây tức gọi là hậu tế có sai biệt.
Hỏi: Do đâu kẻ trí thành tựu tánh của bậc trí?
- Đáp: Do ở trong hiện pháp, Tập đế hiện có, cùng đối với Khổ đế hiện có của hậu tế, đều lìa trói buộc.
Hỏi: Do đâu kẻ ngu tạo thành tánh của kẻ ngu?
- Đáp: Đối với việc đoạn trừ hai thứ kia đều không có năng lực.
Từng hành tập Thánh giáo, gọi là kẻ trí, trước đã tìm cầu tư lương trí huệ, gồm thâu các phạm hạnh.
Đối với Thánh giáo chưa từng tu tập, gọi là kẻ ngu. Kẻ trí kia là trái nhau, nên biết đó gọi là kẻ trí, người ngu, nơi tiền tế có sai biệt.
Lại nữa, các Thánh đệ tử đa văn, thiện xảo đối với các duyên khởi, nhận biết rõ như thật về đạo lý của hai đế Thế tục và Thắng nghĩa. Do nhận biết như thật, nên ở trong hiện pháp, các pháp hiện có như thân có thức v.v… đều nhận biết rõ là vô ngã, hoàn toàn không chấp chúng là ngã, ngã sở. Do đối với Thắng nghĩa đạt được thiện xảo, nên không có tà chấp ấy. Đối với hữu tình gắn chặt với các hành nối tiếp tạo tác tự nghiệp, đều nhận biết rõ như thật là không có chủ thể, đối tượng lần lượt tạo tác, cũng không phải không tạo có nghĩa an lành. Nhận biết rõ như vậy rồi, nên siêng năng chân chánh, tu tập lìa trói buộc của phiền não. Do đối với thế tục đạt được thiện xảo, nên xa lìa nẻo tăng ích hiện có không thật, nẻo tổn giảm sự thật. Ở trong hiện pháp, đối với thân có thức trước đã tạo tác, tư duy về chỗ cầu nguyện, suy xét về chỗ kiến lập, do thệ nguyện, tức dùng diệu huệ do Văn Tư tạo thành, thiện xảo của duyên khởi làm chỗ nương dựa, dùng hành Chỉ, Quán do Tu tạo thành, nên có thể tùy thuận ngộ nhập. Lại, đối với thân nhận biết xúc thọ tưởng tư, quán đầy đủ là Khổ. Lại, đối với thân của ái, lúc quán có sai biệt, nên biết tức là quán xét về Tập đế. Chư vị kia, trí đối với hai có sanh diệt, đã nhận biết rõ như thật. Do nhân nơi Tập, nên đúng như chỗ Tập. Do nhân nơi Diệt, nên đúng như chỗ Diệt. Nghĩa là do tác ý thế gian của địa định, tu tập nhân duyên của tác ý như thế, nhập hiện quán đế. Chư vị ấy, nơi thời trước, đối với Tập và Diệt của thế gian, do huệ Văn, Tư, nên gọi là nhận thấy, cũng gọi là khéo nhận biết. Do Tu huệ nên gọi là khéo tư duy. Nay đối với Thánh đế, lúc nhập hiện quán, gọi là khéo thông tỏ, cũng gọi là khéo thấu đạt. Do hoàn toàn hiện có như hiện có, nên tùy thuận thứ lớp. Bấy giờ, chư vị kia, do Văn huệ, Tư huệ, gọi là hướng đến Chánh pháp. Do Tu huệ nên gọi là gần Chánh pháp. Do thông tỏ về đế, nên gọi là chứng đắc Chánh pháp.
Lại, do hướng tới, do gần Chánh pháp, nên gọi là đạt đến nguồn đáy. Do chứng đắc Chánh pháp, nên gọi là đến khắp ngọn nguồn. Lại, huệ hữu học gọi là huệ diệu nhập thế gian, hiện ẩn. Huệ này là vô lậu, nên trong sự nối tiếp của bậc Thánh có thể đạt được, gọi là Huệ Thánh. Có thể dứt hết, có thể loại trừ hết thảy phiền não cùng các khổ, nên gọi là Huệ xuất ly. Có thể thông tỏ rốt ráo tột cùng, nên gọi là Huệ quyết trạch. Chư vị ấy đã thành tựu huệ diệu như thế, lại khởi tư duy: Ta nên tinh tấn đoạn trừ tất cả phiền não hiện có về sau. Tức nơi sự việc ấy tu tập nhiều, ở trong tu đạo, ra khỏi các phiền não khác, dứt hết thảy mọi khổ. Như vậy là hiển thị về chánh đạo hiện có, từ địa của nghiệp đầu, cho đến đạt được quả A-la-hán.
Lại nữa, do hai nhân duyên, nên đối với các pháp duyên khởi cùng duyên sanh, kiến lập hai phần đạo lý sai biệt.
Nghĩa là, như lưu chuyển cùng các chốn lưu chuyển, nên biết ở đây có mười hai chi lưu chuyển sai biệt. Các chi ấy, lại như chỗ ứng hợp, xứng với lý nhân quả, thứ lớp lưu chuyển.
Lại, xứng với lý nhân quả thứ lớp, từ vô thủy đến giờ, lần lượt an lập, gọi là Pháp tánh. Do đời hiện tại, gọi là Pháp trụ. Do đời quá khứ, gọi là Pháp định. Do đời vị lai, gọi là Pháp như tánh. Không phải là Tánh không nhân, nên gọi là như Tánh, không phải là không như Tánh. Tánh của chân như thật, nên gọi là Tánh thật. Tánh của quả như thật, nên gọi là Tánh đế. Tánh thật được nhận biết, nên gọi là Tánh chân. Do trí như thật dựa nơi Tánh của xứ, nên gọi là Tánh không đảo, Tánh không điên đảo. Do tất cả duyên khởi tương ưng nơi văn tự, kiếp lập tánh của xứ nương dựa, nên gọi Tánh của duyên khởi này thuận theo thứ lớp.
Lại, các Thánh đệ tử đa văn đạt được hai thứ thiện xảo ấy, ở trong ba đời, đều nhận biết rõ đúng như thật. Xa lìa tất cả tác ý phi lý, đối với các Thánh đế có thể nhập hiện quán. Ở trong các kiến thú của các ngoại đạo, có thể lìa được trói buộc, như trước đã nói rộng về các nẻo, nên biết.
Lại, duyên khởi kia, từ thời vô thủy đến nay, nhân quả lần lượt lưu chuyển nối tiếp. Đức Như Lai, đối với Tánh thật của sự lưu chuyển ấy, hiện bày Đẳng Giác rồi, dùng trí vi diệu, khởi ngôn từ đúng đắn, theo phương tiện khai thị về không sanh không tạo. Nên biết ở đây, từ thời vô thủy đến giờ, nhân quả lần lượt nơi pháp trụ pháp tánh. Do chúng tương ưng nơi danh cú văn thân, nhằm khiến hiểu rõ về chỗ tùy thuận kiến lập xứ nương dựa của chủng tánh thuộc pháp trụ pháp giới.
Lại nữa, do hai nhân duyên, nên đây tạo tác, đây thọ nhận, chỗ khác tạo tác, chỗ khác thọ nhận, không nên ký biệt. Những gì là hai? Đó là:
1. Nhân quả cùng thuộc về một. Các hành nối tiếp, trước sau dị biệt.
2. Kẻ tạo tác, người thọ nhận còn lại, không thể thủ đắc.
Nếu đối với luận ấy không nhận không chấp, do hành Trung đạo, như chỉ có nhân quả mà ký biệt đúng đắn, cũng không lỗi lầm.
Lại nữa, tất cả vô ngã không có sai biệt, gọi chung là Không.
Nghĩa là hữu tình vô ngã cùng pháp vô ngã.
Hữu tình vô ngã: Nghĩa là lìa tất cả hành duyên sanh, ngoài ra còn có riêng ngã thật, là điều không thể đạt được.
Pháp vô ngã: Tức tánh của tất cả hành duyên sanh, không phải là ngã thật, là vô thường.
Hai thứ như thế lược gồm thâu làm một. Xứ kia nói đây gọi là đại không. Nghĩa là như có trường hợp lìa ngôn thuyết thế tục, vọng kiến làm chỗ dựa, khởi kiến như thế, lập luận như thế, cho là có vật riêng khác với pháp duyên sanh. hoặc là pháp duyên sanh khác với vật kia, thuộc vật kia. Ở đây là dựa vào vọng kiến, không phải là trụ nơi phạm hạnh. Vì sao? Vì do kiến như thế nương dựa nơi Không thứ nhất, đối trị kiến chuyển, không phải kiến này nên giải thoát. Hoặc lại tức ở trong pháp duyên sanh thuộc về danh sắc, dựa vào ba thứ vọng kiến như trước đã nói, khởi kiến như thế, lập luận như thế: Mạng tức là thân, cho đến nói rộng. Như vậy cũng không phải an trụ nơi phạm hạnh. Vì sao? Vì do kiến như thế, dựa nơi Không thứ hai, đối trị kiến chuyển, không phải kiến này nên giải thoát.
Xa lìa hai biên là kiến như thế, chỉ thấy nhân quả, gọi là hành Trung đạo. Đối tượng nhận thức là chân như, gọi là Tánh như thật. Chủ thể nhận thức là chân như, gọi là Tánh không điên đảo. Đối với các hành có, giả thiết lập là có, là các hành này, các hành thuộc về pháp kia. Nếu dựa nơi Thắng nghĩa, có như thế, thì tất cả hành kia hoặc diệt hoặc đoạn, làm sao có thể nói đây là các hành? Hoặc hành thuộc pháp kia? Bấy giờ, do đối với hai thứ như thế, đều không thể thủ đắc.
Lại nữa, do hai nhân duyên, nên biết là đã thiết lập tất cả thứ tướng của duyên khởi hiện có, nghĩa là nêu lên chung, hoặc phân biệt riêng. Những gì là hai nhân duyên? Đó là:
1. Như Tánh hiện có.
2. Toàn bộ như Tánh hiện có.
Thế nào là như Tánh hiện có? Nghĩa là các pháp duyên sanh, như vô minh v.v…, lần lượt tương xứng với thể tánh của nhân quả, cùng có nhân này chưa đoạn, nên có quả kia chưa đoạn. Nhân chưa đoạn ấy sanh, nên quả chưa đoạn kia sanh. Như thế gọi là như Tánh hiện có.
Thế nào là toàn bộ như Tánh hiện có? Nghĩa là các hành duyên sanh như vô minh v.v… nơi tất cả thứ tướng như vô minh kia là vô trí của tiền tế, cho đến nói rộng về thể tướng sai biệt. Phân biệt rộng về danh, nên biết như nơi phần Nhiếp dị môn ở trước đã nêu. Phân biệt kiến lập, như trước nên biết. Như thế gọi là hết thảy như Tánh hiện có. Tức dựa nơi như Tánh hiện có như thế, là hết thảy như Tánh hiện có. Nếu nêu lên chung hoặc phân biệt riêng, trước là nêu lên chung, gọi là trước sau. Tức ở đây lại khai thị rộng, gọi là phân biệt.
Lại nữa, do hai nhân duyên, nên tự tạo tác khổ lạc không thể thiết lập, không thể ký biệt. Như vậy, tha tạo tác, cả hai cùng tạo tác, cùng không tạo tác, không nhân mà sanh, nên biết cũng thế. Những gì là hai? Đó là:
Các hành như trước đã nói, là không tác dụng.
Hữu tình tạo tác chưa trọn vẹn, không thể thủ đắc v.v…
Ở đây, các hành không tác dụng, nên thọ này, lãnh nhận này, tự tạo khổ lạc, là không hợp đạo lý.
Lại, sự tạo tác chưa hoàn toàn kia, hữu tình không thể thủ đắc, nên thọ khác, lãnh nhận khác, là không hợp lý. Thọ chỗ khát ái, thâu nhận thọ, kẻ khác thọ cũng không hợp lý. Có các duyên nên các thọ được sanh, tức không nhân sanh cũng không hợp lý. Do đó, xa lìa biên của ba thứ luận nhân ác trước, một thứ sau là biên của luận không nhân. Nhận biết rõ giáo pháp hành Trung đạo như trước, siêng năng tu tập hạnh chánh, có thể dứt hết các khổ.
Lại nữa, tụng nêu:
Xúc duyên kiến viên mãn
Thật hiểu, không ái lạc
Pháp trụ trí tinh tấn
Xứ sanh cùng là sau.
Ở trong tất cả xúc duyên thọ hữu, nếu các Sa-môn hoặc Bà-la-môn tuyên thuyết về luận nhân ác, không nhân, thỉnh vấn như trước, ở đây tạo tác, ở đây thọ nhận, cho đến nói rộng. Đệ tử của bậc Đại sư an trụ nơi Chánh pháp, hoặc hơn hoặc kém, lược có ba thứ ký biệt không điên đảo:
1. Ký biệt mở bày tự tông.
2. Ký biệt hàng phục tông khác.
3. Ký biệt có chấp, không chấp, tạp nhiễm, thanh tịnh.
Nên biết ở đây, đối với điều thưa hỏi của kẻ kia, ghi nhận không sai biệt. Nghĩa là các thứ khổ, lạc đều từ duyên sanh, là tông ta đã nêu dẫn. Đây tức gọi là ký biệt mở bày tự tông. Nếu đối với chỗ thưa hỏi của kẻ kia, tạo ký biệt như thế: Các thứ chấp về khổ lạc là tự tạo, tha tạo, cùng tạo, cùng không tạo, không nhân mà sanh, nơi tất cả xứ do xúc sanh thọ. Sao lại theo cộng chấp về tự tha tạo tác v.v… Nếu xúc nhân nơi thọ hiện không thể đạt được, lại cầu tìm nhân khác, có thể là xảo diệu. Nhưng xúc nhân nơi thọ đã hiện có thể đạt được, nên cầu tìm nhân khác không phải là xảo diệu. Ghi nhận như thế tức gọi là ký biệt hàng phục tông khác. Vì sao? Vì do hai nhân duyên nên kẻ kia bị hàng phục:
1. Trừ căn cảnh thức hợp ra, thì không thể hiển thị người tạo tác khác.
2. Không thể bài bác tất cả hiện lượng của thế gian về chỗ đạt được nhân duyên của xúc như lý.
Lại, kẻ kia không thể lập tự tông, nên cũng lại không thể phá bỏ tha tông, nên gọi là bị hàng phục phá trừ.
Nếu đối với chỗ thưa hỏi của kẻ kia, tạo ký biệt như vầy: Ta cũng chỉ dựa vào thức thuộc cảnh giới của căn, giả lập tự tạo, tha tạo, cùng tạo, hoặc khổ hoặc lạc, nhưng đối với ngã thật đều không có chấp. Ông ở trong ấy có chấp trước tà vạy, nên không thuận chấp nhận. Vì sao? Vì nếu có chấp trước tức là tạp nhiễm. Nếu không chấp trước tức là có thanh tịnh.
Thế nào gọi là nếu có chấp trước tức là tạp nhiễm? Nghĩa là kẻ kia, không phải là hàng thông tuệ của thế gian, nếu đối với tiền tế có chỗ chấp trước, vô minh duyên hành, nói rộng như trước, nên đối với trung tế, về khổ lạc bị tạp nhiễm. Nếu đối với trung tế có chỗ chấp trước, thì cũng như đã nói ở trước, sẽ đối với khổ lạc của hậu tế bị tạp nhiễm.
Thế nào gọi là nếu không chấp trước tức là thanh tịnh? Nghĩa là người thông tuệ, nếu đối với tiền tế hoặc đối với trung tế, không ở nơi các hành chấp ngã, ngã sở. Vị kia, đối với nhân của các thọ nơi tiền tế diệt rồi, là Bát Niết-bàn. Hoặc đối với nhân của các thọ nơi hậu tế diệt, là sẽ Bát Niết-bàn. Đó gọi là ký biệt thứ ba, có chấp không chấp, tạp nhiễm, thanh tịnh.
Lại nữa, nếu có hữu tình dứt bỏ nhân ác, không nhân, đối với pháp do nhân sanh trong năm thứ nhân đạt được chánh kiến, gọi là kiến viên mãn. Đối với Chánh pháp cùng Tỳ-nại-da này không thể chuyển theo, cũng được gọi là thành kiến chánh trực. Do đối với Niết-bàn, ý lạc thanh tịnh, nên cũng gọi là thành tựu chứng tịnh nơi Phật. Đối với cảnh giới được nhận biết, trí đạt thanh tịnh. Do ba duyên ấy, theo như thứ lớp, gọi là đối với Chánh pháp, hướng đến, thân cận, cùng với chứng đắc chân chánh.
Thế nào gọi là năm thứ nhân của pháp từ nhân sanh?
1. Nhân của nẻo ác. Nghĩa là các pháp bất thiện cùng căn bất thiện.
2. Nhân của nẻo thiện. Nghĩa là tất cả pháp thiện cùng các căn thiện.
3. Nhân đối với thức trụ khiến thức trụ. Nghĩa là bốn thứ thực ăn).
4. Nhân tạp nhiễm của hiện pháp, hậu pháp. Nghĩa là tất cả lậu.
5. Nhân thanh tịnh: Nghĩa là đế, duyên khởi.
Nếu có hữu tình đối với tự tánh của các nhân ấy, nhận biết rõ đúng như thật là tự tánh của chúng. Đối với nhân duyên ấy nhận biết rõ đúng như thật là nhân duyên ấy. Đối với nhân duyên diệt, nhận biết rõ đúng như thật, đích thực là diệt. Đối với đạo hướng tới diệt, nhận biết rõ đúng như thật, đích thực là đạo, gọi là kiến viên mãn. Quán sự việc duyên sanh, cho đến vô minh là biên vực tận cùng, vượt quá đấy lại không có nhân của duyên sanh. Quán chỉ do đấy. Quán tự nghĩa rốt ráo.
Lại nữa, lược có ba thứ. Ở trong hiện pháp, tịch diệt chân thật, cho đến thọ lượng chưa dừng dứt vĩnh viễn, các sự của cảnh giới thuộc đối tượng nhận thức, luôn nối tiếp chuyển. Nơi hàng hữu học, lúc đang tu tập, thiết lập tánh học. Đối với hàng vô học, khởi tư duy: Ta, tất cả đã dứt hết, sẽ không còn dứt hết nữa. tận trí, vô sanh trí đã xét chọn, gọi là pháp xét chọn. Những gì là ba thứ? Đó là:
1. Sáu xứ.
2. Sáu xứ duyên xúc.
3. Xúc duyên thọ.
Ở đây nên biết, các Thánh đệ tử đa văn hiện có, tùy theo chỗ nhận lãnh, tức đối với sự thọ nhận kia, nhận biết khắp đúng như thật. Lại, tức đối với pháp kia chán lìa, muốn diệt trừ, nên siêng năng tu tập hành chân chánh. Lại, có thể nhận biết rõ như thật về thọ kia do xúc dẫn sanh. Xúc lại do sáu xứ kia dẫn sanh. Tức đối với xúc kia dẫn nhân nơi sáu xứ, chán lìa, nhằm diệt trừ, nên siêng tu hành chân chánh. Lại, đối với thọ, xúc cùng sáu xứ kia, tất cả sự thật lược gồm thâu làm một, nhận biết rõ hết thảy do vô thường diệt, nên gọi là pháp diệt. Đã ở trong hiện pháp, đối với tất cả ba thứ sự thật nơi pháp vô thường diệt, như trước đã nói, tu hạnh chán lìa, nhằm diệt trừ. Do hành chân chánh ấy, nên gọi là học thường được giao phó.
Lại do tu tập hành chân chánh ấy, nên không còn tạo tác, hoàn toàn giải thoát, thế nên gọi là trạch pháp luôn tin cậy. Vì nhằm chứng đắc pháp chưa từng đạt được, chưa từng chứng đắc, nên tu tập không gián đoạn, với phương tiện cẩn trọng, gọi là học thường được ủy thác.
Vì đối với hiện pháp lạc trụ hiện có, không hề thối chuyển, hao mất. Tạo tác không gián đoạn, tạo tác cẩn trọng, do đấy gọi là trạch pháp luôn tin cậy. Nêu rõ về tất cả sự pháp, nơi danh cú văn thân tăng thượng, gọi là Pháp giới. Các vị đạt được vô ngại giải, nên danh cú văn thân, theo chỗ mong muốn, đều tự tại. Do đó gọi là khéo thông đạt Pháp giới.
Do đối với Pháp giới khéo thông đạt, tức ở nơi nghĩa của tưởng chân thật như thế, lại dùng tên gọi khác, theo chỗ vui thích, tuyên thuyết có sai biệt. Cho đến có thể, nơi bảy ngày bảy đêm, hoặc vượt hơn thời lượng ấy, từ biện luôn đầy đủ.
Lại dùng chủng loại sai biệt như vậy, tuyên thuyết như thật, các pháp kia là hữu vi, là chỗ tạo tác, chuyển động của Tư, yếu kém như bệnh, như ung nhọt, cho đến nói rộng.
Lại nữa, nên biết, các A-la-hán gồm đủ thắng giải, lược có sáu thứ ký biệt đã hiểu rõ:
1. Ký biệt có dị môn.
2. Ký biệt không dị môn.
3. Ký biệt do trí.
4. Ký biệt do đoạn.
5. Ký biệt chung.
6. Ký biệt riêng.
- Ký biệt có dị môn: Nghĩa là như có một hành giả, hoặc do kẻ khác thỉnh vấn, hoặc lại tự nhiên vì nhằm khiến cho người khác, đối với Thánh giáo của Phật khởi nhiều cung kính, nên ký biệt như vầy: Ta nơi hiện tại không còn một nghi hoặc nào!
- Ký biệt không dị môn: Tức nêu ký biệt: Sự sanh của ta đã hết, cho đến nói rộng.
- Ký biệt do trí: Nghĩa là có thỉnh vấn: Thế nào là biết? Thế nào là thấy? Sự sanh của kẻ kia đã hết, nên ký biệt, nói: Duyên của sanh hết, nên sanh kia đã hết. Dùng tướng như thế, ký biệt về tận trí thuộc trí khéo giải thoát của tự mình, gọi là ký biệt do trí.
- Lại, tức ở đây ký biệt riêng: Tức ký biệt nhân duyên kia là có. Lại ký biệt nhân duyên của sanh kia là nhân duyên nơi các thủ. Lại ký biệt tướng của các thủ ấy, nhận biết như thật, nhận thấy như thật khiến thủ không có.
- Ký biệt chung: Nghĩa là, tức ở đây, hết thảy chỗ ký biệt đã nhận biết rõ về các thọ hiện có đều khổ. Đã nhận biết rõ rồi, khiến sự sanh kia dứt hết. Ký biệt như thế gọi là ký biệt chung.
- Ký biệt do đoạn: Tức do nội giải thoát kia, nên tất cả nhân duyên của tham ái đều dứt hết. Ký biệt như vậy gọi là ký biệt do đoạn. Ký biệt do đoạn này, tức như trước nói, gọi là ký biệt riêng.
Ký biệt chung ấy, nên biết lược do ba thứ hành tướng. Nghĩa là Đức Bạc-già-phạm đã nói về các kiết, ta đều không có. Đó gọi là ký biệt chung đầu tiên do đoạn. Nghĩa là các hữu kiết đều vĩnh viễn đoạn trừ.
Lại, ta an trụ nơi chánh niệm như thế. Do ta an trụ nơi chánh niệm ấy, nên tất cả tham, ưu, các pháp ác bất thiện, có thể khiến chúng hoàn toàn không cấu nhiễm nơi tâm. Đó gọi là ký biệt chung thứ hai, do đoạn. Nghĩa là hằng trụ.
Lại, ở trong ấy tự không kiêu mạn. Đó gọi là ký biệt chung thứ ba, do đoạn. Nghĩa là không có tăng thượng mạn khác.
Như vậy là đã nêu chung, có sáu thứ ký biệt.
Lại nữa, có ba thứ pháp là chỗ yêu thích của các thế gian, dựa nơi nội pháp mà nói. Đó là:
1. Thế lực.
2. Diệu sắc.
3. Thọ mạng.
Lại có trái hại với ba pháp như thế, có thể dẫn đến chỗ đối trị, không thể yêu thích ba thứ pháp riêng:
1. Tật bệnh.
2. Già suy.
3. Chết yểu.
Nếu đối với ba học, lúc dấy khởi hành tà, liền không thể gắn nhận vượt khỏi bệnh tật, già suy, mạng yểu. Nếu đối với ba học, lúc phát khởi hành chân chánh, tức có thể vượt khỏi ba sự như vậy. Những gì là ba học? Đó là:
1. Giới học tăng thượng.
2. Tâm học tăng thượng.
3. Huệ học tăng thượng.
Thế nào gọi là nương dựa nơi Giới học tăng thượng hiện có, dấy khởi các hành tà? Nghĩa là như có một hữu tình, ở trong pháp mới học có chỗ hủy phạm. Hoặc quán nơi mình, hoặc quán nơi kẻ khác, đều không có xấu hổ. Đã tự an trụ nơi tâm không biết xấu hổ rồi, liền đối với tất cả pháp ác bất thiện không tự ngăn giữ. Đã đối với pháp kia không tự giữ gìn. Đã đối với Phật Pháp Tăng không khởi cung kính, nên đối với các thứ chỉ dạy, khuyên bảo, trao truyền đã học đều không kính sợ. Do nhân duyên ấy, hoặc đối với sự việc này, kẻ khác chính thức nêu lên, can gián, liền đối với họ cho là không thể nhẫn, thọ. Tự mình đối với các vị kia cũng im lặng, không cùng nói năng. Nơi xứ phi xứ, hữu tình có thể nêu dẫn khuyên can đúng đắn, đều ghét bỏ, xa lánh. Đối với việc làm theo các hành tà, thì những ai đồng với pháp của mình, liền thân cận, giao du, ưa thích cùng ở chung. Do cùng với bạn ác thường ở chung, nên đối với các bậc Hiền Thánh hãy còn sanh tâm ghét bỏ, huống hồ là sẽ đi đến trú xứ, kính cẩn thưa hỏi, lãnh hội, phụng hành. Giả như có đi đến, vì có thuyết giảng Chánh pháp, do ghét bỏ các Thánh Hiền, nên không muốn nghe. Như tạm thời lắng nghe, thì tâm không kính thuận, chỉ mang tâm chống trái, không vì để hiểu biết mà có lắng nghe. Ở trong các trí luận phân biệt hành chân chánh nơi xứ phi xứ, đều không thích an trụ. Kẻ ấy, do bên trong mang tâm chống trái, nên tuy có lắng nghe, nhưng không tin, nhận, cũng không nương vào đấy để hành trì.
Lại, các bậc Hiền Thánh đều im lặng, không cùng với kẻ ấy nói năng, khởi tư duy: Hành giả như thế là không kham nổi những lời chỉ dạy, khuyên bảo, trao truyền. Kẻ kia đã tự nhiên không có pháp để tự chế ngự, lại bị các bậc Hiền Thánh từ bỏ, nên nội tâm luôn không tịch tĩnh, ngoại thân ngôn ý hỗn tạp mà trụ. Tham, ác càng tăng, lời lẽ càng kiêu ngạo, đối với sự việc như thế không thấy tội lỗi, nhiều chỗ hủy phạm không như pháp sám hối. Do luôn hành tập nên lần lượt hủy phạm tất cả Thi-la. Nên biết đó gọi là nương dựa nơi Giới học tăng thượng hiện có, dấy khởi các hành tà vạy. Cùng với đấy trái nhau, nên biết tức là nương dựa nơi Giới học tăng thượng hiện có, phát khởi hành chân chánh.
Thế nào gọi là nương dựa nơi Tâm học tăng thượng hiện có, dấy khởi các hành tà? Nghĩa là vào lúc hành trì không như lý chánh, chấp giữ lấy các tướng tùy hảo của cảnh giới, do nhân duyên ấy, phát khởi vọng niệm. Tức ở trong ấy không quán xét lỗi lầm tai họa, phiền não sanh rồi giữ chặt không bỏ. Do đấy nên trụ không chánh tri. Hoặc khi an trụ thì ở nơi chốn xa lìa, không có người thứ hai. Tức do vọng niệm, trụ không chánh tri làm chỗ nương dựa, tâm dong ruổi tan theo ngoại cảnh. Như thế gọi là y chỉ nơi Tâm học tăng thượng hiện có, dấy khởi các hành tà vạy. Cùng với đấy trái nhau, nên biết tức là nương dựa nơi tâm học tăng thượng hiện có, phát khởi hành chân chánh.
Thế nào gọi là nương dựa nơi Huệ học tăng thượng hiện có, dấy khởi các hành tà? Nghĩa là như có một hữu tình, lìa gần Hiền Thánh, nương gần bạn ác, nghe pháp không chân chánh, thắng giải làm nhân, không như chánh lý để xét chọn các pháp. Đối với các thứ dục ác, kiến ác, vui thích thọ hành. Hoặc ở trong pháp vi diệu rộng lớn đã học, đã đạt được, lại tự khinh thường. Như thế gọi là nương dựa nơi Huệ học tăng thượng hiện có, dấy khởi các hành tà vạy. Cùng với đấy trái nhau, nên biết tức là nương dựa nơi Huệ học tăng thượng hiện có, phát khởi hành chân chánh.
Ở đây, hữu tình phàm phu, nương dựa nơi ba thứ học như thế, đã dấy khởi hành tà, không có khả năng vượt khỏi địa phàm phu, để hướng nhập thuận hợp chánh tánh ly sanh, đoạn trừ hoàn toàn ba kiết. Do không đoạn trừ vĩnh viễn ba thứ kiết, nên không đủ năng lực nương dựa vào Tu đạo, đắc A-la-hán, ở trong hiện pháp đã hoàn toàn dứt trừ hết tất cả phiền não như tham-sân-si, vượt khỏi các thứ bệnh tật, già suy, mạng yểu của vị lai. Cùng với đấy trái nhau, nên biết tức là ở trong ba học, hành đúng như thật nơi tất cả phẩm trắng, nói rộng cho đến siêu vượt các thứ bệnh tật, già suy cùng mạng yểu của vị lai.
Lại nữa, hoặc có Bí-sô, gồm đủ Thi-la thanh tịnh, trụ nơi luật nghi thanh tịnh biệt giải thoát, do sức tăng thượng của Tâm học tăng thượng, nên đạt được Tamma-địa thù thắng thuộc phần gần của Tĩnh lự thứ nhất, dùng làm chỗ dựa. Do sức tăng thượng của Huệ học tăng thượng, nên đạt được trí Pháp trụ cùng trí Niết-bàn. Dùng hai trí ấy làm chỗ dựa, trước do bốn thứ viên mãn, lúc xa lìa nẻo thọ học chuyển, khiến tâm giải thoát tất cả phiền não, chứng đắc A-la-hán, thành Huệ giải thoát.
Ở đây, thế nào là Pháp trụ? Nghĩa là như có một hữu tình, lắng nghe giáo pháp, tùy thuận duyên tánh duyên sanh không điên đảo rồi, đối với phần vị nhân quả của hành duyên sanh, trụ nơi địa phàm phu, liền có thể dùng đúng như thật tác ý do Văn-Tư-Tu tạo thành, tư duy như lý. Có thể dùng huệ diệu ngộ nhập tin hiểu về Khổ đúng thực là Khổ, Tập đúng thực là Tập, Diệt đúng thực là Diệt, Đạo đúng thực là Đạo. Các thứ như thế, như trong pháp an lập nhân quả, với diệu trí hiện có, gọi là trí Pháp trụ.
Lại, thế nào gọi là trí Niết-bàn? Nghĩa là "pháp nhĩ" kia, nếu đối với Khổ Tập Diệt Đạo, do diệu trí khi ngộ nhập, tin hiểu là Khổ Tập Diệt Đạo đế chân thật, liền đối với Khổ Tập trụ nơi tưởng chán, nghịch. Đối với Niếtbàn vắng lặng khởi tưởng tịch tĩnh. Đó là tịch tĩnh rốt ráo, vi diệu, dứt bỏ tất cả chỗ dựa của sanh tử, cho đến nói rộng.
Như thế, nương dựa nơi trí Pháp trụ kia, cùng nhân nơi Khổ hoặc nhân duyên của Khổ, trụ nơi tưởng chán nghịch, nên đối với Niết-bàn có thể dùng diệu huệ ngộ nhập tin hiểu là tịch tĩnh v.v… Diệu trí như vậy, gọi là trí Niết-bàn.
Lại nữa, ở trong Pháp-Luật khéo thuyết giảng, các vị thông tuệ, chánh quán về sáu thứ tròn đủ, nên hiện tiền có thể phát khởi siêng năng tinh tấn trụ. Những gì gọi là sáu thứ tròn đủ? Đó là:
1. Bậc Đại sư tròn đủ.
2. Thánh giáo tròn đủ.
3. Thánh giáo dễ nhập, tròn đủ.
4. Chứng đắc tự nghĩa vô thượng tròn đủ.
5. Tất cả tuyên thuyết như lý, không gián đoạn tròn đủ.
6. Có Thánh ngôn đều tròn đủ.
Thế nào là bậc Đại sư tròn đủ? Nghĩa là các Đức Như Lai thành tựu mười lực, bốn vô sở úy v.v… Như thế gọi là bậc Đại sư tròn đủ.
Thế nào gọi là Thánh giáo tròn đủ? Nghĩa là tự xưng nói: Ta nay đã ở nơi phần vị của bậc Đại tiên tôn quý, có thể chuyển Phạm luân, ở trong đại chúng chánh thức gầm tiếng sư tử, khai thị tất cả nẻo duyên khởi thuận nghịch, Niết-bàn tịch diệt v.v… Như thế gọi là Thánh giáo tròn đủ.
Thế nào gọi là Thánh giáo dễ nhập, tròn đủ? Nghĩa là văn cú hiện có của Thánh giáo này, về tánh thì sáng rõ, về nghĩa thì sâu xa. Do Thánh giáo này có thể khai phát đúng đắn các nghĩa thâm diệu, nêu bày văn cú về tánh thì sáng rõ, về nghĩa thì sâu xa. Như vậy gọi là Thánh giáo dễ nhập, tròn đủ.
Thế nào gọi là chứng đắc tự nghĩa vô thượng, tròn đủ? Nghĩa là không có Sa-môn hoặc Bà-la-môn nào, nơi trụ xứ của Như Lai, có thể chính thức khai giác thông huệ hơn được. Thế nên, đối với kẻ khác, chứng đắc tự nghĩa, về nghĩa nên đạt được, về nghĩa nên giác ngộ, chỉ có Đức Như Lai, với giáo pháp đã thuyết giảng là diệu, là trên. Nếu vượt quá mức ấy thì đường ngôn từ dứt. Như vậy gọi là chứng đắc tự nghĩa vô thượng, tròn đủ.
Thế nào gọi là tất cả tuyên thuyết đều như lý, không gián đoạn, tròn đủ? Nghĩa là các Đức Như Lai thuyết giảng giáo pháp, vì khắp hết thảy hàng Trời, Người, khai thị thuận hợp, khai thị nơi tất cả pháp, khai thị đầy đủ, không làm vị thầy mỏi mệt. Như vậy gọi là tất cả tuyên thuyết đều như lý, không gián đoạn, tròn đủ.
Thế nào gọi là có Thánh ngôn đều tròn đủ? Nghĩa là có thể đoạn trừ tất cả nghi hoặc, cùng có thể sanh khởi hết thảy thiện căn, hết thảy pháp thiện, với chỗ dựa là tin tưởng lớn, hiện lượng có thể đạt được, là chốn an trú, bậc Đại sư hiện tiền. Như vậy gọi là có Thánh ngôn đều tròn đủ.
Các bậc thông tuệ, chánh quán sáu thứ tròn đủ này, hiện tại đủ khả năng phát khởi siêng năng, tinh tấn trụ. Ở trong ba học, dựa nơi Giới tăng thượng, tu tập Du già. Dựa vào Tâm tăng thượng, tu không phóng dật. Dựa nơi Huệ tăng thượng, đối với giáo pháp của bậc Đại sư, tu hạnh Du già.
Nếu có kẻ, tâm trụ nơi sự biếng trễ, nên biết là đã mong cầu hai thứ lỗi lầm tai họa:
1. Mong cầu hiện pháp có thể sanh các khổ của vị lai, hết thảy phiền não tạp nhiễm, ưu khổ, trụ không an ổn.
2. Mong cầu tất cả pháp thiện dã chứng, chưa chứng, hiện có bị thối thất. Tức thối thất khả năng dẫn dắt, khả năng đi đến nẻo thiện, đạt tới nghĩa lớn của Niết-bàn.
Cùng với đấy trái nhau, là kẻ siêng năng tinh tấn, nên biết là đã mong cầu hai thứ thắng lợi. Người tinh tấn ấy, đối với các pháp thiện chưa chứng, có thể chứng đắc, không thối mất, có thể hoàn thành tự nghĩa, tha nghĩa, cả hai nghĩa.
Thế nào gọi là có thể hoàn thành tự nghĩa? Tức là chư vị đã xuất gia rồi, do hai thứ tướng, nên nói là có quả:
1. Chứng đắc, lìa mọi trói buộc của phiền não, đạt Niết-bàn rốt ráo, nghĩa là quả Ly hệ.
2. Có thể phát khởi lạc thù thắng của thế gian. Nghĩa là đi đến nẻo thiện, vui thích với quả Dị thục.
Thế nào gọi là có thể hoàn thành tha nghĩa? Tức là rộng vì kẻ khác tuyên thuyết pháp chính yếu, khiến họ có thể đi đến nẻo thiện của thế gian, đạt Niết-bàn cứu cánh.
Thế nào gọi là có thể hoàn thành cả hai nghĩa? Tức là tự tu trì phước điền thanh tịnh, tánh có thể gắng nhận, thọ dụng từ biên tịnh tín các thứ vật dụng đã đạt được đúng như pháp như y phục v.v… Do thọ dụng ấy gồm thâu, nuôi dưỡng bản thân khiến có thể thuận theo tất cả phẩm thiện. Lại có thể khiến cho kẻ khác đối với mình tạo được quả báo lớn, tức là đi đến nẻo thiện của vị lai. Đạt được lợi thù thắng, nghĩa là sẽ đạt được của cải, vật báu, kẻ hầu hạ đều viên mãn.
Đạt được vinh hiển, hưng thịnh, tức sẽ đạt được thọ mạng, sắc lực, biện tài v.v… tự viên mãn.
Đạt được sự tu tập lớn rộng, tức đối với việc đạt được ba xứ như trên, trải qua thời gian dài luôn gắn liền không gián đoạn.
Do bốn thứ tướng, nên biết Đức Thế Tôn giảng nói Thánh giáo, được gọi là pháp khéo thuyết giảng:
1. Có thể hướng tới tịch tĩnh, có thể khiến chứng đắc Giới Niết-bàn Hữu dư y.
2. Có thể Bát Niết-bàn, có thể khiến chứng đắc Giới Niết-bàn Vô dư y.
3. Có thể hướng đến Bồ đề, có thể khiến chứng đắc ba Bồ đề: Thanh văn, Độc giác, Chánh đẳng Vô thượng.
4. Thiện Thệ phân biệt về hiện lượng rốt ráo tột cùng, hiển bày chỗ khai thị của bậc Đại sư vô thượng.
Lại nữa, gồm đủ bốn viên mãn, có thể sanh nơi xứ Thánh. Nếu theo đấy, thành tựu một thứ viên mãn ấy thì ở trong Pháp-Luật khéo thuyết giảng, lúc tu hành đúng đắn, gọi là: "Thiện lai! Thiện xuất gia". Những gì gọi là bốn thứ viên mãn? Đó là:
1. Ý lạc tăng thượng viên mãn.
2. Căn viên mãn.
3. Trí viên mãn.
4. Tức ở nơi xứ Thánh, có Phật xuất hiện ở đời, được gặp, viên mãn.
- Ý lạc tăng thượng viên mãn: Nghĩa là như có một hành giả, đối với Bát Niết-bàn, ý lạc tăng thượng nhằm tu trị cực tịnh, nên xuất gia, không phải là bị chủ nợ, cùng các thứ sợ hãi bức bách, cho đến nói rộng. Nên biết người đã xuất gia như thế gọi là khéo xuất gia, sanh nơi xứ Thánh.
- Căn viên mãn: Nghĩa là như có một hành giả, mắt tai đầy đủ, không phải là hạng Bán-trạch-ca, chi phần không thiếu. Do có được các căn không thiếu như thế, nên ở trong Pháp-Luật khéo thuyết giảng có thể thực hiện việc xuất gia, lúc giảng nói Chánh pháp có thể nghe nhận.
- Trí viên mãn: Nghĩa là như có một hành giả, tánh không ngu tối, không có chướng ngại do ngu si của phẩm hạ, cũng không câm ngọng. Không có chướng ngại do ngu si của phẩm trung, nên không phải là hạng "tay thay lời nói". Không có chướng ngại do ngu si thuộc phẩm thượng, nên lìa ba thứ chướng ngu si của trí. Có năng lực để hiểu rõ nghĩa của pháp nói về thiện nói về ác hiện có. Tức ở nơi xứ Thánh, có Phật xuất hiện ở đời, được gặp viên mãn. Nghĩa là như hiện tại có Đức Bạc-giàphạm Thích Ca Mâu Ni xuất hiện ở thế gian, là bậc Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, cho đến nói rộng, đã tuyên thuyết Chánh pháp, hướng tới tịch tĩnh v.v…, nói rộng như trước.
Nên biết ở đây, sanh nơi xứ Thánh, nên gọi là "Thiện lai!". Khéo được xuất gia, căn không thiếu, giảm, không ngu tối, không câm ngọng, cũng không dùng tay thay cho lời nói, gọi là khéo đạt được thân người đầy đủ.
Lại nữa, người tu hành Quán, đối với các hành duyên sanh lưu chuyển, lược có hai thứ pháp tạo do dự. Đó là:
1. Vâng tập theo luận nói không nhân.
2. Vâng tập theo luận nói nhân ác.
Ở đây, vâng tập nơi luận không nhân: Tức quán xét tất cả loại đều không có nhân, liền sanh nghi hoặc: Vì sao các pháp không có nhân mà chuyển?
Trường hợp vâng tập nơi luận nhân ác: Cũng sanh nghi hoặc: Vì sao do nhân không tương tợ kia, do nhân không hợp lý mà có các pháp chuyển?
Nếu có các Thánh đệ tử đa văn, xa lài hai thứ luận không chân thật, chánh quán về pháp lưu chuyển là do nhân quyên, được khéo quyết định, không có nghi hoặc, nội chứng chân thật. Nếu đối với xứ này, nói có các Thánh đệ tử đa văn, nên biết ở đây là các phàm phu. Nếu đối với xứ này, nói có các Thánh đệ tử đa văn, nên biết ở đây là các phàm phu. Nếu đối với xứ này, chỉ nói có các Thánh đệ tử, nên biết ở đây là nói các vị đã kiến đế.
Lại nữa, ở trong Chánh pháp, lược có ba thứ hữu tình cũng có khổ não, trụ nơi không an ổn. Những gì là ba thứ? Nghĩa là như có một hữu tình, ở trong Pháp-Luật khéo thuyết giảng, vì cầu đạt Niết-bàn, hướng tới Niếtbàn, dứt bỏ pháp nhà, chọn đời sống không nhà, đã xuất gia rồi, chỉ có thể thọ trí giới cấm hiện có, liền trụ nơi biết đủ, không đối với mọi thời gian chuyển biến, tinh tấn tu tập Tâm học, Huệ học tăng thượng. Vị ấy đã bỏ cảnh giới thọ dụng hiện có lúc còn ở nơi gia đình, nhưng chưa thể tùy thuận, đạt được an ổn vô thượng, chứng đạo Niết-bàn, nên ở nơi khoảng giữa cũng có khổ não, trụ không an ổn. Đó gọi là loại hữu tình thứ nhất.
Lại như có một hữu tình, tuy không chỉ đối với giới cấm đã thọ, biết đủ, an trụ, nhưng chưa thể vượt quá địa phàm phu. Do chưa thể vượt khỏi địa phàm phu, nên đối với tất cả pháp đều duyên dựa vào kẻ khác. Thường xem xét diện mạo, ngôn ngữ của kẻ khác, làm sao có thể nhận biết, thấy rõ đúng như thật về các đối tượng cần được thấy, biết? Luôn ở nơi kẻ khác để cầu trí, cầu được lãnh hội Chánh pháp, được chỉ dạy, khuyên bảo, trao truyền, nhưng nơi tự tâm có nghi có hoặc, cũng có khổ não, cũng có khổ não, trụ nơi không an ổn, đó gọi là loại hữu tình thứ hai.
Lại, như có một hữu tình là học kiến tích, trụ nơi phóng dật, ở trong hiện pháp không thể chứng đắc Niếtbàn cứu cánh, để có thể thâu nhận nhân sanh khởi của hữu thể thứ hai, có được trụ thứ hai, nên cũng có khổ não, trụ không an ổn. Đó gọi là loại hữu tình thứ ba.
Ba loại hữu tình như thế, lại có ba loại hữu tình khác, có các an lạc, khéo trụ nơi an ổn, nghĩa là bậc A-la-hán hoàn toàn lạc trụ.
Lại nữa, tụng nêu:
Có diệt, hoặc Sa-môn
Bà-la-môn thọ trí
Lưu chuyển cùng qua lại
Phật thuận nghịch là sau.
Các vị học kiến tích, tuy đối với Niết-bàn tịch tĩnh có diệt không theo kẻ khác, tin nơi huệ nhãn của Thánh nội, tự có thể quán thấy, nhưng cũng chưa thể do thân xúc chứng. Vì như có người bị khát do nóng bức bách, chạy đến nơi giếng sâu, tuy dùng mắt thường thấy rõ nước trong giếng trong lành không có bụi đất uế tạp, lại thấy cả vật dùng múc nước, nhưng đối với nước kia thân chưa xác chứng. Như vậy, hàng hữu học tuy nương theo huệ nhãn của bậc Thánh, hiện thấy chỗ cầu đạt về sau là đoạn hết phiền não, tịch tĩnh tột cùng, nhưng đối với sự đoạn trừ ấy, thân chưa xác chứng.
Lại nữa, có các Sa-môn hoặc Bà-la-môn, đối với Tham-sân-si đã đoạn dứt trọn vẹn, nhưng về nghĩa Samôn, Bà-la-môn đích thực thì hoàn toàn chưa chứng đắc. Các thế gian đối với họ khởi tưởng Sa-môn, tưởng Bàla-môn, họ cũng tự xưng là Sa-môn, Bà-la-môn đích thực. Thế gian đối với họ tuy khởi tưởng ấy, nhưng họ chỉ là Sa-môn, Bà-la-môn thế tục, không phải là Đệ nhất nghĩa. Nếu nơi Đệ nhất nghĩa có các Sa-môn, Bà-la-môn thì họ đều không tự nhận mình là Sa-môn, Bà-la-môn. Vì sao? Vì do họ không thể nhận biết rõ đúng như thật về các pháp tạp nhiễm. Nhân của pháp tạp nhiễm cũng không nhận biết rõ như thật về nẻo diệt kia, về hành diệt kia. Pháp tạp nhiễm: Nghĩa là các khổ thuộc về chi lão tử cùng do chi sanh. Nhân của pháp tạp nhiễm lại có hai thứ:
1. Do ái tạo tác.
2. Do nghiệp tạo tác.
- Do ái tạo tác: Tức là do lý theo thứ lớp nghịch của duyên khởi có chi thủ, ái, hoặc vô minh xúc sanh khởi các thọ, hoặc vô minh xúc cùng vô minh giới tùy theo sáu xứ.
- Do nghiệp tạo tác: Nghĩa là do lý theo thứ lớp nghịch của duyên khởi là danh sắc, thức, hành, cùng tức đối với chúng không nhận biết như thật, như trí pháp trụ hãy còn chưa thể biết rõ, huống chi là hiện như họ lúc hiện quán đế có thể nhận biết rõ khắp. Hoặc như tu đạo chưa nhận biết rõ khắp. Như địa vô học chưa thể vượt khỏi.
Lại nữa, lược do hai thứ minh xúc sanh pháp, ở trong tất cả hành duyên sanh kia, dựa nơi lý của bốn đế hướng nhập hiện quán.
Những gì là hai thứ minh xúc? Đó là:
1. Minh xúc do lãnh nạp đối tượng duyên làm tánh, sanh thọ.
2. Minh xúc do lựa chọn đối tượng duyên làm tánh, sanh huệ.
Nên biết ở đây, đối với mười một chi an lập bốn đế, dựa nơi mỗi mỗi chi đế ấy kiến lập bốn mươi bốn sự. Tức dựa vào minh xúc sanh các thọ, tuyên thuyết bốn mươi bốn thứ thọ sự sai biệt như thế. Tức dựa vào các huệ do minh xúc sanh, tuyên thuyết bốn mươi bốn thứ trí sự sai biệt như thế.
Trong ấy, lão tử được tạo từ hậu tế, chỉ là quả không phải nhân. Đối với vô minh được phát khởi từ tiền tế, chỉ là nhân không phải quả. Còn các hữu chi khác, cũng là nhân cũng là quả.
Trí hiện hữu khắp ba thời có sai biệt như trước đã nói. Trí quyết định khắp có sai biệt. Do trí pháp trụ đã gồm thâu trí có thể giữ lấy. Do tánh vô thường có sai biệt, nên biết đã kiến lập bảy mươi bảy thứ trí sự có sai biệt.
Như thế là đã hiển thị hành quán đầy đủ về tất cả hành tướng của các tế. Từ đấy, liên tục nhập hiện quán đế, lần lượt tu tập cho đến đạt được quả A-la-hán.
Lại nữa, do ba thứ tướng, nên đối với hành duyên sanh phải nhận biết rõ đúng về thứ lớp lưu chuyển. Những gì là ba thứ tướng? Đó là:
1. Nhân tăng ích.
2. Quả sanh khởi.
3. Quả tăng tập.
Tất cả như thế lược thâu làm một, gọi chung là các pháp, hoặc tăng, hoặc sanh, hoặc tập, dựa nơi nhân quả diệt. Như chỗ ứng hợp nên biết, gọi là hoặc giảm, hoặc diệt, hoặc mất. Như vậy, đạo lý của ý nghĩa sâu xa có sai biệt, không trái với pháp tánh. Lại có nghĩa sai biệt. Thời gian của ba đời có sai biệt. Cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc có sai biệt. Như thứ lớp ấy, hoặc tăng hoặc giảm, hoặc sanh hoặc diệt, hoặc tích tập, hoặc ẩn mất, nên nhận biết rõ đúng.
Lại nữa, nên biết lược có hai thứ tạp nhiễm:
1. Tạp nhiễm của nghiệp ái.
2. Tạp nhiễm của vọng kiến.
Hai thứ tạp nhiễm này, dựa nơi hai phẩm:
1. Phẩm tại gia.
2. Phẩm xuất gia.
Nên biết ở đây, tạp nhiễm của nghiệp ái đã tạo tác, gọi là Tư tạo tác. Tạp nhiễm của vọng kiến từ tà chấp khởi, gọi là chỗ chấp của suy tính. Trong ấy, phàm phu hoặc là phẩm tại gia, hoặc là phẩm xuất gia đều có đủ hai thứ tạp nhiễm. Do các triền cùng tùy miên, nhân nơi đối tượng duyên kia, đối với bốn thức trụ, khiến tâm sanh khởi các thứ tạp nhiễm rồi, thì chiêu tập hữu sau, tuần hoàn qua lại không được giải thoát.
Hàng hữu học kiến tích, đối với tạp nhiễm của vọng kiến đã vĩnh viễn đoạn trừ, chỉ có ngã mạn dựa nơi xứ tập khí hãy còn, chưa đoạn trừ rốt ráo. Chư vị ấy không tạo nghiệp mới, không vui thích hữu sau với tạp nhiễm của nghiệp ái, không có các triền có thể tạo tạp nhiễm, chỉ có tùy miên nương dựa vào sự tương tục, có thể gây tạp nhiễm, nhân nơi đối tượng duyên kia, đối với các thức trụ, khiến tâm tạp nhiễm, chiêu tập hữu sau.
Nếu là các hàng vô học thì triền và tùy miên của hai thứ tạp nhiễm đều đã đoạn trừ hoàn toàn. Tức trong hiện pháp, nơi các thức trụ, tâm bị tạp nhiễm cùng với việc chiêu tập hữu sau của vị lai, tất cả đều không. Lại nữa, chư Phật quá khứ, lúc làm Bồ tát, đã tư duy như lý về pháp duyên khởi rồi, chứng giác Chánh đẳng Bồ đề Vô thượng. Nay, Đức Bạc-già-phạm, cũng đối với pháp duyên khởi chánh tư duy rồi, chứng giác Chánh đẳng Bồ đề Vô thượng.
Như Phật quá khứ, chứng đắc Bồ đề rồi, tức ở nơi duyên khởi tác ý duyên dựa theo đạo lý thuận nghịch, tạo phương tiện tùy tu, hiện pháp lạc trụ rồi, trụ nơi an lạc. Nay, Đức Bạc-già-phạm cũng lại như vậy. Pháp kia tuy là vô lượng, như nói bảy kiếp tương tợ của thế gian, nên chỉ nói bảy. Như vậy, Chánh đẳng Bồ đề Vô thượng hãy còn nhận biết như thật về duyên khởi, chưa chứng có thể chứng, chứng rồi đạt được hiện pháp lạc trụ, huống chi là các pháp Bồ đề hiện có thấp kém khác. Lại vì Đẳng giác như thật về duyên khởi, thâu nhận năm chi, là phương tiện đoạn trừ, như trước đã nói nên biết.
Lại, duyên khởi, về nghĩa tóm lược chung, tức dựa nơi phẩm lưu chuyển có nhân nơi các khổ. Lại dựa vào phẩm hoàn diệt, có nhân nơi các pháp vô lậu hiện có. Lại có nhân khổ, là nhân duyên nơi các lậu. Lại, chỗ nương dựa của các lậu kia, tánh từ vô minh xúc sanh khởi các thọ. Lại, có nhân pháp trụ lập nhân duyên, tức trong hiện pháp, phiền não đã đoạn trừ, chỉ có dựa nơi duyên.
Lại, dựa nơi bảy thứ thanh tịnh, lần lượt tu tập, vì nhằm chứng đắc Niết-bàn cứu cánh không tạo tác, nên biết là đã tuyên thuyết về giáo pháp thâm diệu tùy thuận duyên tánh duyên khởi như thế.
Những gì gọi là bảy thứ thanh tịnh? Đó là:
1. Giới thanh tịnh.
2. Tâm thanh tịnh.
3. Kiến thanh tịnh.
4. Vượt qua nghi, thanh tịnh.
5. Trí kiến đạo phi đạo thanh tịnh.
6. Trí kiến hành thanh tịnh.
7. Trí kiến hành đoạn thanh tịnh.
Thế nào gọi là có được thanh tịnh như vậy, lần lượt tu tập? Nghĩa là có Bí-sô, an trụ đầy đủ nơi Thi-la, giữ gìn luật nghi biệt giải thoát, nói rộng nên biết như nơi địa Thanh văn.
Bí-sô ấy, do gồm đủ Thi-la như thế, nên có thể không hối tiếc, nói rộng cho đến tâm được chánh định, lần lượt đầy đủ, an trụ nơi Tĩnh lự thứ tư. Vị ấy đã đạt được tâm định như thế, lần lượt cho đến đạt được tâm chất trực, nhu hòa, an trụ nơi bất động, vì nhằm chứng đắc lậu tận trí thông, nên tâm định hướng tới bốn Thánh đế, chứng nhập hiện quán, đoạn trừ tất cả phiền não do kiến đạo đoạn, đạt được chánh kiến hữu học vô lậu. Do được chánh kiến, nên có thể đối với Khổ Tập Diệt Đạo cùng Phật Pháp Tăng, dứt trừ hoàn toàn mọi nghi hoặc. Do đoạn trừ rốt ráo, vượt khỏi do dự, nên gọi là vượt qua nghi.
Lại, đối với đạo hành trước của chánh kiến đã nhận biết rõ như thật đó là chánh đạo, do đấy có hể đoạn từ hoặc do Tu đạo đoạn trừ sau khi Tu đạo đã đoạn.
Lại, đối với phi đạo hành trước của tà kiến đã nhận biết rõ như thật đó là tà đạo. Nơi đạo, phi đạo đã đạt thiện xảo rồi, nên xa lìa phi đạo, gắn bó với chánh đạo.
Lại, ở nơi bốn thứ hành tích của tùy đạo đều nhận biết rõ như thật.
Những gì là bốn thứ hành tích? Đó là:
1. Khổ trì thông.
2. Khổ tốc thông.
3. Lạc trì thông.
4. Lạc tốc thông.
Hành tích như thế, đã biện giải rộng, nên biết như nơi địa Thanh văn.
Như thế, bảy thứ thanh tịnh làm chỗ dựa, lần lượt tu tập, cho đến đạt được Niết-bàn không tạo tác, các lậu vĩnh viễn dứt hết. Nên biết ở đây do đối với bảy thứ thanh tịnh như thế, tất cả đều đầy đủ, lần lượt tu tập mới chứng đắc Niết-bàn không tạo tác, chẳng phải là thiếu một thứ. Do đó, nên cầu tất cả như vậy.
Đối với Đức Thế Tôn, việc tu tập phạm hạnh thành thục, không phải chỉ cầu một thứ. Lại, Đức Phật Thế Tôn, do nhân duyên ấy, nên cũng thiết lập đủ tất cả bảy thứ thanh tịnh như thế, vì khiến chứng đắc Niết-bàn không tạo tác, chẳng phải là tùy bỏ một loại.
Lại ở trong ấy, dựa nơi mỗi mỗi thứ mà nói, không phải chỉ do đấy, cũng không phải lìa đấy mà có thể chứng đắc. Như thế nên biết, ở đây duyên tánh duyên khởi là thâm diệu.
Lại nữa, tụng nêu:
An lập cùng nhân duyên
Quan sát nơi nghĩa thực
Rất nhiều các lỗi lầm
Tạp nhiễm cùng ở sau.
Có bốn thứ pháp, ở trong hiện pháp, hoàn toàn có thể nuôi lớn đại chủng của các căn. Bốn pháp đó là:
1. Khí lực.
2. Hỷ lạc.
3. Đối với sự khả ái, chuyên chú trông mong.
4. Khí lực, hỷ lạc, chuyên chú, trông mong, với chỗ nương dựa là đại chủng của các căn, cùng thọ mạng, cùng hơi ấm, an trụ không hoại.
Bốn pháp như thế, theo thứ lớp ấy, nên biết. Biệt dụng nơi bốn pháp là thực (ăn):
1. Đoạn.
2. Xúc thuận lạc thọ.
3. Ý hữu lậu hợp Tư.
4. Thức có thể nắm giữ đại chủng của các căn.
Nên biết ở đây, đoạn cùng với khí lực của hiện pháp là thực (ăn). Do khí lực nên liền có thể nuôi lớn đại chủng của các căn. Các xúc hữu lậu có thể thuận theo lạc thọ, có thể cùng với hỷ lạc là thực (ăn). Do hỷ lạc, nên có thể nuôi lớn đại chủng của các căn. Nếu tại ý địa có thể hợp cảnh nơi Tư, gọi là ý hợp Tư.
Có thể cùng với tất cả cảnh khả ái chuyên chú, hy vọng, là thực (ăn). Do chuyên chú, hy vọng, nên có thể nuôi lớn đại chủng của các căn. Do thức có thể nhận giữ đại chủng của các căn, nên khiến đại chủng của các căn kia, cùng thọ mạng, cùng hơi ấm và thức không lìa thân, làm nhân mà trụ. Thế nên nói thức gọi là nhân trụ kia. Do trụ kia, nên khí lực, hỷ lạc, chuyên chú, hy vọng, dựa vào nhân kia mà chuyển.
Bốn thức thực (ăn) như vậy, có thể khiến cho hữu tình đã sanh, an trụ. Lại do đoạn, mà có khí lực. Có khí lực nên đại chủng các căn đều được tăng trưởng. Do nhân duyên ấy, nên các hàng ngu tối luyến tiếc thân mạng. Vì nghĩa ấy, nên có sự truy tìm. Vào lúc truy tìm đã tạo tác vô số các nghiệp thiện, ác mới, cũng khiến tăng trưởng. Lại có thể tăng trưởng vô số phiền não. Như nói về đoạn, xúc, ý hợp Tư, theo chỗ ứng hợp, nên biết cũng vậy. Do ba môn ấy, thức có thể tích tập nghiệp phiền não của hữu sau. Nơi hiện pháp này, do nghiệp phiền não luôn đeo đuổi, nên tạo thành hữu thủ, liền có thể thâu nhận hữu sau của vị lai. Bốn thực (ăn) như thế, khiến cầu hữu sau, yêu thích hữu sau. Đối với hữu sau ấy, người chưa thể đoạn trừ, thì có thể gồm thâu hữu sau, gồm thâu khắp hữu sau, tùy thuận gồm thâu hữu sau.
Lại, các thứ đoạn thực, nơi cõi Trời thuộc Dục giới, gọi đó là tế. Hoặc trung hữu nơi bụng mẹ, nơi màng trứng, nên biết cũng thế. Phần vị còn lại nơi cõi Dục, đoạn thực gọi là thô.
Xúc, ý hợp Tư cùng với thức thực, tại cõi Vô sắc, nên biết gọi là tế. Các xứ khác gọi là thô. Có sắc làm chỗ dựa dễ phân biệt. Không sắc làm chỗ dựa khó phân biệt. Lại, các thứ thực (ăn) này nên biết, có khác với môn nghĩa thô tế. Tức nếu có thể khiến các hữu tình đã sanh được an trụ, thì gọi là thô. Gồm thâu, làm tăng nơi các hữu tình cầu hữu, nên biết là tế. Như thế là nên biết đã an lập bốn thực (ăn).
Lại nữa, như trên đã nói về đại chủng của các căn, do Tập đế gồm thâu, trước tiên là ái sanh. Vì nhằm khiến cho chúng được tăng trưởng, nên truy cầu bốn thứ thực (ăn). Do đạo lý ấy, nên các hữu tình đã sanh, tuy do bốn thực mà được an trụ, nhưng gốc là dựa vào ái làm duyên nên có.
Lại, có ái, nên ở trong hiện pháp, thân dựa nơi các thực, do ba thứ môn làm tươi lớn nghiệp hoặc, luôn đeo đuổi, có thức của thủ. Ở trong hiện pháp thâu nhận hữu sau. Thế nên tất cả hữu tình cầu hữu, tuy do bốn thứ thực gồm thâu tăng ích, nhưng lại dựa vào ái làm duyên nên có.
Lại, tức ái này, ở trong hiện pháp, do vô minh xúc sanh khởi các ái làm duyên nên khởi. Vô minh xúc này, do trước thường xuyên hành tập các vô minh giới thuận theo sáu xứ làm duyên nên khởi. Sáu xứ này, về sau lại không có nhân khác, nên ở trong hiện pháp chỉ có sáu xứ này lần lượt dựa vào nhau. Các căn có sắc nương dựa nơi thức. Thức cũng nương dựa nơi chỗ chấp thọ của thức là các căn có sắc. Do nhân duyên này, sáu xứ trở về sau lại không nói đến. Hoặc lại có lúc lắng nghe Chánh pháp, là lực của chi ngoài. Tác ý như lý, chánh cần tu tập, là lực của chi trong. Vì nhân duyên ấy, nên chánh kiến sanh khởi. Chánh kiến sanh nên có thể đoạn trừ vô minh, có thể sanh minh. Vị ấy, ở trong hiện pháp, các vô minh giới thuận theo sáu xứ, đều được trừ diệt, minh giới thuận theo sáu xứ được sanh, gọi là chuyển y. Thô trọng của phẩm kia đều dứt bỏ hết. Sáu xứ đã diệt, lần lượt cho đến ái cũng tùy diệt. Do ái diệt, nên các thực (ăn) cũng diệt. Các pháp có thể giữ lấy hữu sau đã diệt, nên biết hữu sau cũng lại tùy diệt. Vì thế nên biết, người ở nơi minh, không cầu hữu sau.
Lại nữa, không có một ít pháp sanh rồi an trụ. Cũng không có ngã thực (ăn) nơi đối tượng thực. Do nhân duyên ấy, pháp kia sao gọi là thực (ăn)? Nhưng chỉ căn cứ nơi cùng với các pháp chưa sanh tạo lý sanh duyên, chỉ có pháp dẫn pháp, được gọi là nghĩa thực (ăn). Chỉ do pháp giả nơi thức kia trên tưởng giả thiết lập hữu tình, đối chiếu với bốn thực ấy, gọi là người thực (ăn), vì nhằm thuận theo ngôn thuyết thế gian. Căn cứ nơi Thế tục đế, nói có hữu tình như thế, có thể thực bốn thứ thực (ăn), không phải căn cứ theo Thắng nghĩa. Vì sao? Vì nếu nói có thức sanh rồi an trụ, thể là hữu tình chân thật, gọi là chủ thể thực (ăn) thì không nên lập thức là tánh của thực kia. Vì chưa từng thấy có hữu tình trở lại tự có thể thực hữu tình. Một trong tương tục, nhất định không có hai thức đồng thời an trụ. Do đó, lập thể của thức là hữu tình chân thật, là người có thể thực (ăn) là không hợp đạo lý.
Vì có chỗ không hợp lý như thế, nên nếu nêu lên câu hỏi: Ai thực (ăn) nơi thức thực? Nên biết đấy là câu hỏi phi lý. Nếu đưa ra câu hỏi: Ai là nhân duyên có thể thực (ăn) nơi thức thực? Nên biết câu hỏi này là câu hỏi như lý, có thể khiến ngộ nhập nơi lý duyên khởi.
Lại có hai hữu:
1. Sanh hữu.
2. Nghiệp hữu.
Nếu là hữu sau của vị lai sanh khởi, nay trong hiện pháp, các phiền não của nghiệp đã đeo đuổi nơi thức làm nhân, có thể dẫn phát sanh hữu của vị lai. Tức hữu kia từng có tánh của nghiệp hành trước, gọi là nghiệp hữu. Ở trong hiện pháp, có hữu ấy nên có thể khiến cho hữu sau thuộc về sanh hữu của vị lai sanh khởi. Vào lúc mạng chung, sáu xứ của tiền tế vừa vô thường diệt, thì sáu xứ của hậu tế liền lại nối tiếp sanh. Tức thức của sáu xứ này, nơi thời trước là duyên có thể dẫn khởi, lại đối với hiện tại là duyên kết sanh. Như thế, do thức nhập nơi thai mẹ, nên được có danh sắc. Danh sắc làm duyên nên có sáu xứ. Do vô minh giới theo đuổi sáu xứ dùng làm duyên, nên có xúc tương tợ. Lần lượt cho đến thủ làm duyên, nên khiến nghiệp của hậu tế chuyển thành hữu. Các pháp như thế trước chưa từng có, tất cả mới từ duyên khởi riêng biệt. Nên biết ở đây đều không có người tiếp xúc, cho đến hữu. Chủ thể hữu nơi đối tượng xúc, cho đến hữu của hữu, chỉ có các pháp gọi riêng là đối tượng thực (ăn), gọi riêng là chủ thể thực (ăn). do đó, nhân quả gắn liền nơi các hành, nối tiếp lưu chuyển không có đoạn dứt.
Do nơi nghiệp hữu của tiền tế đi đến sanh hữu của hậu tế. Lại do nghiệp hữu của hậu tế trở lại hướng tới sanh hữu của tế trước, như thế là duyên khởi chuyển hồi không dứt, từ thế gian này đến thế gian kia, từ thế gian kia trở lại thế gian này. Do vậy, chỉ pháp có thể dẫn nghĩa của pháp. Nên biết ở đây, nói là nghĩa của thực (ăn).
Lại nữa, ba thực (ăn) làm nhân, có thể khiến cho ba thứ nội khổ sanh khởi. Ba thứ nội khổ là:
1. Bệnh khổ do Giới không bình đẳng sanh khởi.
2. Khổ do dục mong cầu.
3. Khổ do cầu không được đáp ứng.
Khổ thứ nhất, đoạn thực làm nhân. Khổ thứ hai, xúc thực làm nhân. Khổ thứ ba, ý hợp Tư thực làm nhân.
Nhân duyên của đoạn thực sanh khởi nội bệnh khổ. Do đấy các Bí-sô nên quán đoạn thực như tưởng về thịt của con mình, không nên tham vướng. Nhân duyên của xúc thực thuận theo lạc thọ, có thể sanh nội khổ do ham muốn mong cầu, vì thế các Bí-sô phải quán việc thuận theo sáu thứ xứ xúc kia như bò không có da, nên khởi quán này: Nếu ta dựa nơi sáu thứ xứ xúc, phát khởi vô số ham muốn mong cầu tham ái, nên lại nương dựa nơi các sắc mà trụ. Dựa vào các sắc, nên khiến ta phát khởi vô số các tầm tư ác, bất thiện, như xứ xúc của bò không da, là chỗ rúc rỉa của các loài trùng, sanh nhiều các khổ, trụ không an ổn.
Quán như vậy rồi, đối với xứ xúc thứ nhất, thấy rõ lỗi lầm nên không nhiễm mà trụ.
Như dựa nơi sắc, thì dựa nơi thanh, hương, vị, xúc pháp, nên biết cũng thế. Như đối với xứ xúc thứ nhất, thấy rõ lỗi lầm, tai họa, không nhiễm mà trụ, thì cho đến đối với xứ xúc thứ sáu, nên biết cũng thế.
Nhân duyên của ý hợp Tư thực là hữu lậu, nên có thể sanh khởi nội khổ do cầu không được đáp ứng. Vì vậy, các Bí-sô nên quán ý hợp Tư thực hữu lậu như một phần lửa. Quán xét chỗ mong cầu không được đáp ứng như thế, có thể dẫn phát thân tâm bị nhiệt não lớn.
Các Bí-sô khởi quán xét đúng đắn như thế rồi, trọn không trông mong về các sự như y phục, thức ăn uống v.v… khi đi tới các nhà khác, do vậy không bị các khổ xúc phát sanh do cầu không được đáp ứng, tâm thản nhiên, an lạc mà trụ. Vì nhân duyên ấy, nên quán xét đúng đắn về ba thứ thực (ăn) như thế, đó là đoạn, xúc, ý hợp Tư thực. Tức do nhân duyên của ba thứ thực như vậy, nội khổ dựa vào thức sanh khởi như đã nêu. Thế nên các Bí-sô phải quán thức thực như ba trăm đầu nhọn của gươm bén đâm chém. Vì sao? Vì nhân duyên của đoạn thực có thể khiến, không phải một mà là vô số rất nhiều phẩm loại bệnh khổ dựa nơi thức mà khởi. Nhân duyên của xúc thực thuận theo lạc thọ, có thể khiến cho khổ do ham muốn mong cầu dựa nơi thức mà khởi càng tăng. Nhân duyên của ý hợp Tư thực hữu lậu có thể khiến cho vô số khổ do cầu mong không được đáp ứng, dựa vào thức mà khởi. Như vậy, hành giả ở trong thức thực, quán đúng đắn các thực do thức làm chỗ dựa đã sanh nhiều lỗi lầm, tai họa. Do nhân duyên ấy, nên không luyến tiếc thân mạng, như lý như thế, nơi bốn thứ thực (ăn) quán xét đúng đắn, tường tận, nên đối với hiện pháp, có thể đoạn trừ vĩnh viễn các thực. Thực đã vĩnh viễn đoạn trừ, nên nơi vị lai đạt đến biên vực tận cùng của khổ nơi hữu sau.
Lại nữa, nếu không quán đúng như thật về bốn thứ thực (ăn) ấy, liền bị hỷ tham làm nhiễm ô. Nếu bị hai thứ ấy cấu nhiễm, nên biết là đã mong cầu hai thứ lỗi lầm tai họa:
1. Nơi vị lai.
2. Nơi hiện pháp.
Ở trong bốn thứ thực, nhân duyên của ý hợp Tư thực hữu lậu, chuyên chú, hy vọng cùng hành nơi hỷ nhiễm gọi là hỷ. Nhân duyên của xúc thực thuận theo lạc thọ, đối với các thực có thể tùy thuận hỷ lạc, sanh nhiều nhiễm chấp, gọi là tham.
Hai loại phiền não này, ở trong hiện pháp, có thể cấu nhiễm nơi thức, khiến chúng ở yên nơi bốn thức trụ, tăng trưởng chủng tử của hữu sau nơi vị lai. Đã tăng trưởng rồi thì dấy khởi các khổ như sanh v.v… của hữu sau. Nên biết đó gọi là hai thứ phiền não của hỷ tham đã tạo ra lỗi lầm tai họa nơi vị lai. Hành giả kia, như thế là ở trong bốn thứ thực (ăn) đã an trụ nơi hai thứ phiền não hỷ tham, nên đối với hiện pháp có các thứ trần nhiễm, do trần nhiễm nên các thứ thực nếu biến hoại, thì ở trong hiện pháp liền sanh sầu lo buồn than, trụ trong khổ não, héo hắt. Nên biết đó gọi là hai thứ phiền não hỷ tham đã tạo các thứ lỗi lầm, tai họa nơi hiện pháp.
Lại nữa, các hữu tình ở trong bốn thứ thực ấy, nếu hỷ tham chưa đoạn, thì sáu xứ kia gồm thâu thân có thức, cũng như đài, lầu, sáu xứ là các cửa sổ cửa lớn, có thể cùng duyên nơi cảnh phiền não là ánh sáng mặt trời, tạo nhập nơi xứ nương dựa. Ánh sáng ấy, ở đây hoặc trụ trên đất, hoặc trụ dưới đất. Đã được trụ rồi, như trước đã nói, nơi bốn thức trụ, có thể tạo nhiễm nơi thức, sanh khởi các khổ của hữu sau nơi vị lai. Nếu có hành giả có thể đoạn trừ hai thứ phiền não hỷ tham như thế, cùng với các thứ kia trái nhau, thì phiền não duyên nơi cảnh hãy còn không được khởi, huống hồ là dựa nơi nhập ấy mà sẽ được trụ.
Lại nữa, nếu có hữu tình, hỷ tham chưa đoạn, liền bị Ma la đi đến trụ xứ, dùng vô số cảnh giới khả ái, cũng như dùng màu sắc rực rõ họa nhiều hình hữu tình kia, khiến chúng biến sanh vô số tướng mạo phiền não hiện rõ. Nên biết hữu tình như thế, vì hỷ tham chưa đoạn, ví như đất kia, có thể bị vô số phiền não là hình vẽ rực rỡ, làm chỗ nương dựa. Hữu tình đã đoạn hỷ tham, Ma đi tới trụ xứ của mình, như trước đã nói rộng, nên biết hữu tình như thế là hỷ tham đã đoạn dứt, cũng như hư không, không bị vô số phiền não là những hình vẽ rực rỡ làm chỗ nương dựa. Nên biết đó gọi là, ở trong các thứ thực (ăn) hỷ tham chưa đoạn, như thứ lớp ấy là lỗi lầm tai họa hiện có. Nên biết đó gọi là, ở trong các thực, hỷ tham đã đoạn, như thứ lớp ấy, là công đức hiện có.
Lại nữa, tụng nêu:
Như lý thâu Tập đế
Được tướng xứ nghiệp chướng
Quá hắc cùng dị thục
Đại nghĩa sau khó đạt.
Nếu đối với đế, trí tăng thượng như lý không như lý cùng không như lý, nhận biết không đúng như thật, thì không thể dứt hết lậu. Cùng với đấy trái nhau, là nhận biết đúng như thật, có thể dứt hết các lậu.
Nên biết ở đây, nghe không phải Chánh pháp, là không tịch tĩnh, là không điều phục, không phải là Niếtbàn, các trí phát khởi, gọi là không như lý. Lắng nghe Chánh pháp, cùng với trên trái nhau, nên biết là như lý.
Lại, ở trong ấy, hữu tình trụ nơi pháp thuyết giảng ác, đối với Phật của Chánh pháp này, đệ tử Phật, các trượng phu chân thiện, không vui thích chiêm ngưỡng. Đối với luật nghi, Thi-la biệt giải thoát, giữ kín căn môn chánh tri mà trụ, các loại như thế, trong pháp Hiền Thánh không tự điều phục, không thọ học chuyển. Đối với các Thánh đế, không Văn, Tư, Tu, quán chiếu, thông tỏ. Lại, ở trong các Pháp-Luật thuyết giảng ác kia nghe pháp bất chánh, khởi Thắng giải tà vạy. Đối với điều không như lý, không nhận biết đúng như thật là không như lý.
Lại, đối với việc lắng nghe Chánh pháp như lý, không nhận biết đúng như thật đó là như lý, do không nhận biết. Đối với các thứ thuyết giảng ác, giải thích ác, có trói buộc không giải thoát hiện có, không nên tư duy, trong pháp điên đảo không thể hiểu rõ mà cố tư duy.
Đối với các thứ thuyết giảng thiện, giải thích thiện, có giải thoát, không trói buộc, đáng nên tư duy, là pháp không điên đảo, đó là khế kinh cùng ứng tụng v.v…, cho đến nói rộng, không thể hiểu rõ mà không tư duy. Như thế cũng gọi là tác ý phi lý.
Do tác ý ấy không phải là tịch tĩnh, không là điều phục, không là Niết-bàn, nên gọi là phi lý.
Lại nữa, lắng nghe pháp không chân chánh, nên dựa vào ba sự ngôn thuyết, với sức của duyên tăng thượng, hiển thị phẩm loại chấp ngã của ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai. Tức do sức tăng thượng như thế, nên đối với cảnh của ba đời, khởi tác ý tư duy không như lý. Nghĩa là đối với quá khứ, phân biệt chấp ngã hoặc có hoặc không. Đối với hiện tại, vị lai, nên biết cũng thế. Hữu tình ấy đã không như chánh lý tác ý tư duy như thế, hoặc duyên nơi sự của đối tượng giữ lấy, hoặc duyên nơi sự của chủ thể giữ lấy, ở đấy tác ý tư duy không như lý.
Hoặc tức nơi các hành phân biệt có ngã. Hoặc lìa nơi các hành phân biệt có ngã. Kẻ ấy, lúc đối với chỗ chấp đạt được quyết định, hoặc duyên nơi sự của đối tượng nhận lấy, phân biệt là ngã. Hoặc thành thường kiến. Do kiến chấp ấy nên khởi tư duy: Ngã là không. Ngã kia, ở trong hiện pháp là thật là thường. Hoặc duyên nơi sự của chủ thể nhận lấy, chấp có ngã kiến, phân biệt là ngã, khởi tư duy: Ta nay dùng ngã quán xét nơi ngã. Hoặc cho là ngã, ngã trước có nay không, khởi tư duy: Ta nay dùng ngã quán xét về không ngã. Hoặc lại tức duyên nơi sự của chủ thể nhận lấy, chấp không có ngã kiến, ở trong hiện pháp, dùng không có ngã kia phân biệt làm ngã, khởi tư duy: Ta nay dùng không có ngã kia, tùy quán về thời xưa từng có ngã. Như thế lại nói về đối tượng nhận lấy, chủ thể nhận lấy, với năm tướng sai biệt không như chánh lý, tác ý tư duy về năm thứ kiến xứ, tức là các hành hiện có của ba đời phân biệt có ngã.
Lại nữa, do nơi tác ý đối chiếu không như chánh lý, lìa nơi các hành phân biệt có ngã, kẻ ấy cho chỗ chấp về thật ngã như thế, hoặc tự mình có thể tạo tác chiêu cảm nghiệp của hữu sau, gọi là chủ thể tạo tác. Hoặc kẻ khác khiến tạo tác, gọi là cùng tạo tác. Hoặc tự mình có thể khởi sĩ dụng của hiện pháp, gọi là chủ thể dấy khởi. Hoặc kẻ khác khiến phát khởi, gọi là cùng dấy khởi. Hoặc tự mình tạo nghiệp của hữu sau. Hoặc kẻ khác khiến tạo nghiệp của hữu sau, chiêu cảm dị thục của quả, gọi là chủ thể sanh. Hoặc tự mình có thể khởi hiện sĩ dụng. Hoặc kẻ khác cùng khởi hiện sĩ dụng, nên đạt được quả sĩ dụng, gọi là cùng sanh. Hoặc do tự mình thấy, hoặc do kẻ khác thấy, theo đấy khởi ngôn thuyết.
Như thế, hoặc do tự mình nghe, hiểu biết, hoặc do kẻ khác nghe hiểu biết, theo đấy khởi ngôn thuyết, gọi là chủ thể nêu thuyết. Hoặc đối với các thứ nơi gia thuộc hiện có như vợ con, nô tỳ v.v…, theo chỗ nên thiết lập, dạy bảo khiến trụ nơi xứ kia. Như thế cũng lại gọi là chủ thể nêu thuyết.
Hoặc lại nghiệp quả của vị lai đã sanh, gọi là chủ thể thọ nhận. Hoặc nơi hiện pháp, các quả sĩ phu đã hiện cùng sanh, gọi là cùng thọ nhận.
Hoặc ở trong các đời quá khứ kia đã tạo ác vô số nghiệp thiện bất thiện, nay nơi hiện pháp nhận lãnh vô số dị thục của quả kia, gọi là lãnh nhận. Hoặc có kẻ, cho đến thọ lượng giảm hết nên liền yểu mạng, có thể bỏ uẩn này, có thể nối tiếp nơi uẩn khác. Nếu dị biệt với đây, đã không có ngã, làm sao có thể thành các sự tạo tác như trên đã nói. Đó gọi là kiến xứ thứ sáu thuộc về tác ý tư duy không như chánh lý. Các kiến như thế vừa nêu, đều do Tát-ca-da-kiến làm tự tánh, có thể sanh các thứ kia. Tát-ca-da-kiến dùng làm căn bản cho kiến thú hiện có, nên gọi là kiến xứ (xứ kiến chấp). Do có thể làm chướng ngại khả năng nhận lấy huệ vi diệu chân thật, nên gọi là kiến trù lâm (rừng rậm kiến chấp). Tổn hại pháp thiện nên gọi là kiến khoáng dã (đồng hoang vắng kiến chấp). Khiến kẻ khác phải khổ nhọc, nên gọi là "kiến chán bỏ". Tạo hành trình cầu dục, cầu hữu, nên gọi là "kiến hành lịch" (hành trình của kiến chấp).
Cật vấn, trách cứ về tha luận, tự luận nhằm tránh thoát những dao động, gọi là "kiến dao động". Có thể khéo kết tạo khổ của hữu sau, nên gọi là kiến kết. Hành tập các thứ hành tà vạy như thế, nên ở trong hiện pháp, các lậu chưa hiện tiền khiến khởi hiện tiền. Các lậu đã hiện tiền rồi, khiến chúng dựa nơi phẩm hạ khởi lên phẩm trung. Khiến dựa nơi phẩm trung khởi lên phẩm thượng. Do đấy làm nhân sanh khởi tất cả pháp khổ như lão bệnh tử nơi vị lai.
Như vậy nên biết, do đối với như lý cùng không như lý, không nhận biết đúng như thật, nên tạo tác tạp nhiễm của Khổ đế, Tập đế. Cùng với đấy trái nhau, là lắng nghe Chánh pháp, khởi thắng giải đúng đắn, ở nơi như lý, không vọng tưởng điên đảo là không như lý. Ở nơi như lý đều nhận biết rõ như thật đó là như lý, nói rộng cho đến, đối với pháp không điên đảo, nên tư duy, có thể chánh tư duy. Do nhân duyên này, nên đối với các hành của ba đời cùng với đối tượng được nhận lấy, chủ thể nhận lấy, đều tùy quán đúng như thật là không ngã, không ngã sở. Đối với Thánh đế, lúc nhập hiện quán, đối với các lậu hiện có do kiến đạo đoạn trừ, đều được giải thoát. Đạt được sự ấy rồi, đối với các lậu trên do Tu đạo đoạn trừ, vì khiến chúng được đoạn trừ vĩnh viễn, rốt ráo, nên siêng năng tinh tấn tu tập bốn thứ nhân duyên. Đó là:
1. Khéo phòng hộ thân.
2. Khéo giữ gìn các căn.
3. Khéo trụ nơi niệm.
4. Như trước đã đạt được đạo xuất thế gian, đạt được diệu huệ hiện ẩn nơi thế gian, nên càng tu tập nhiều.
- Khéo phòng hộ thân: Là an trụ đúng đắn, tránh xa các thứ thú dữ, cho đến nói rộng như nơi địa Thanh văn.
Do lánh xa, nên đối với việc dứt hết các lậu không bị chướng ngại.
- Khéo giữ gìn các căn: Là an trụ đúng đắn, đối với các cảnh giới khả ái hiện tiền, tướng phi lý định, có thể xa lìa đúng, tư duy như lý, chúng là tướng bất tịnh.
- Khéo trụ nơi niệm: Là trụ nơi bốn xứ:
1. An trụ nơi xứ xét chọn, thọ dụng các thứ như y phục v.v…
2. An trụ nơi xứ có thể trừ bỏ đúng các tầm tư xấu ác hiện hành của xứ tĩnh.
3. An trụ nơi xứ có thể nhẫn thọ đúng đắn các thứ khổ sanh ra do:
- Giới không bình đẳng.
- Ngôn ngữ thô ác của kẻ khác.
- Mệt mỏi quá mức vì phát khởi siêng năng tinh tấn.-Nhiễm lậu bất chánh.
4. An trụ nơi xứ đối với nẻo tu đạo dựa nơi không phóng dật, không tạp trụ.
Do an trụ đúng đắn nơi bốn xứ như thế, gọi là khéo trụ nơi niệm.
-Như trước đã đạt được đạo xuất thế gian, nên khéo tu tập: Tức đối với các lậu hiện có do tu đạo đoạn đều được giải thoát, cùng tùy thuận chứng đắc cứu cánh tột bậc.
Lại nữa, nếu có kẻ nói bốn Thánh đế ấy chỉ là cảnh giới, hoặc là có ngã, hoặc có hữu tình. Duyên nơi Thánh đế ấy, tu tập các pháp thiện, nên bảo với kẻ kia: Chớ nói như thế! Vì sao? Vì có vô lượng các pháp thiện thế gian xuất thế gian sanh khởi, tất cả đều quy về bốn Thánh đế gồm thâu. Nên biết các pháp lược có hai thứ:
1. Trí của chủ thể nhận biết.
2. Cảnh của đối tượng được nhận biết.
Vì trí của chủ thể nhận biết cũng là cảnh của đối tượng được nhận biết, thế nên các trí cùng hành pháp thiện, không gì là không gồm thâu trong bốn Thánh đế.
Hành giả kia lại tu tập "tuần thân niệm", nên pháp thiện hiện có nơi phẩm Chỉ phẩm Quán. Khởi đầu tu địa nghiệp, đã hành xong địa được sanh khởi chung.
Thế nào là tu tuần thân niệm? Nghĩa là như có hành giả an trụ, khởi đầu tu địa nghiệp, duyên dựa như lý các đại chủng sắc hoặc trong hoặc ngoài, làm cảnh chánh niệm. Hoặc lại do kẻ khác lúc hiện hành tăng ngữ xúc có đối, duyên dựa như lý nơi xúc thọ tưởng hành cùng với các thức, làm cảnh chánh niệm.
Hoặc như có hành giả an trụ, đã hành xong địa, duyên dựa như lý nơi các sắc được tạo, làm cảnh chánh niệm. Hoặc lại duyên dựa như lý, tác ý cùng với thọ tưởng hành thức đã sanh, làm cảnh chánh niệm. Như vậy, tất cả lược thâu tóm, gọi là tu tuần thân niệm. Nên biết niệm này, hoặc duyên nơi sắc thân, hoặc duyên nơi danh thân.
Thế nào là Quán? Thế nào là pháp thiện của phẩm Quán sanh khởi? Nghĩa là đối với các đại chủng sắc trong ngoài, cùng với các uẩn còn lại, huệ quyết trạch đúng đắn, được gọi là Quán.
Hoặc có hành giả, từ nơi phần đầu tu tập không điên đảo tưởng phân, tụ. Đối với đại chủng bên ngoài, do quán kiếp tận nên tu tưởng vô thường. Đối với đại chủng bên trong hợp thành thân, do quán chỉ là thức ăn dần dần bất tịnh, tu tưởng bất tịnh. Do quán từ ái đã sanh trưởng tánh, cùng tánh của pháp lão tử nơi hậu tế, tu tưởng vô thường cùng tưởng khổ.
Hoặc đối với thân này, hết thảy kẻ ngu đều không thể nhận biết rõ như thật, thể là vô thường, khổ, nên hoặc chấp là ngã, hoặc chấp là ngã sở. Tức nơi thân này, các Thánh đệ tử gồm đủ đa văn đã nhận biết rõ đúng như thật, nên không có chấp trước, tức có thể tu tưởng khổvô ngã. Tưởng vô ngã này, do đối với thân kia chỉ có tưởng giới. Có tưởng này, hoặc lại do kẻ khác hiện hành tăng ngữ các xúc có đối, yêu thích, không yêu thích.
Nói không yêu thích: Tức là tiếp xúc bằng tay chân, gậy, đất, đá v.v… Hành giả kia, tức ở đây, cùng với các hành vô sắc như thọ v.v… hiện có làm duyên quán đúng là vô thường, lìa ái lìa giận, chỉ quán có Giới, tâm duyên nơi thân này, an trụ đúng đắn. Như thế cũng gọi là xa lìa ngu si.
Như vậy, tưởng phân tích, tụ tập hiện có, đối với đại chủng bên ngoài tu tưởng vô thường, đối với đại chủng bên trong tu tưởng bất tịnh. Nếu là tưởng vô thường, thì tưởng vô thường-khổ, tưởng khổ-vô ngã. Đối với các pháp được sanh khởi như thọ v.v…, dựa nơi thân của đại chủng, tu tưởng vô thường, lìa Tham-sân-si. Như vậy, vô lượng pháp thiện của phẩm Quán, khởi đầu tu địa nghiệp, do tu tập đúng đắn về tuần thân niệm, nên đều được sanh khởi.
Thế nào gọi là Chỉ? Thế nào là pháp thiện của phẩm Chỉ sanh khởi? Nghĩa là do tu tập tuần thân niệm, dùng Quán làm chỗ dựa, như lý tu tập Chỉ.
Lại nói: Chỉ, nghĩa là đối với bên trong, tâm an trụ đúng đắn pháp thiện của phẩm Chỉ: Nghĩa là đạt được lực xét chọn chân chánh như thế. Duyên dựa, cắt đứt là dụ cho Sa-môn được chỉ dạy, trao truyền, tu tập nhẫn nhục đúng đắn đối với oán gian.
Lại, tức duyên nơi Chỉ kia tu tập từ thuận hợp. Đã do nhẫn, từ gồm thâu thọ, nên giới luật được thanh tịnh. Quán Giới thanh tịnh, nên khởi tư duy: "Ta nay đã ở nơi Thánh giáo của bậc Đại sư hành tác ít nhiều! Do nhân duyên ấy nên không hề có lo, hối. Không lo lắng, hối tiếc nên sanh hoan hỷ sâu xa, nói rộng cho đến đạt được Tam-ma-địa". Hành giả kia, bấy giờ do tâm tĩnh định, cho đến đạt được Tĩnh lự thứ tư. Tam-ma-địa này, do hành chấp giữ nên chưa có thể cùng vận chuyển không dụng công, chưa hoàn toàn thanh tịnh. Vì nhằm khiến cho định ấy được hoàn toàn thanh tịnh nên tu tập hành không phóng dật thuộc về bốn chi như trước đã nói, phát khởi siêng năng tinh tấn, không có khiếp nhược, cho đến nói rộng.
Hành giả ấy, vào thời gian sau, Tĩnh lự thứ tư đã thanh tịnh, sáng tỏ, nếu lại vì sự tĩnh định này tham ái nơi vị của nó thì tâm trôi chuyển, không thể ở nơi định, xả bỏ đúng đắn mà trụ. Đối với Niết-bàn vắng lặng không quán tịch tĩnh, mới dựa vào Phật hoặc Pháp hoặc Tăng, sanh chán nản, xấu hổ sâu xa, khởi suy niệm: Ta dựa vào Phật bảo là Đức Như Lai đại sư, dựa nơi Pháp bảo là Pháp-Luật khéo thuyết giảng, dựa vào Tăng bảo là sự tu tập hạnh thiện không điên đảo, là không chốn thủ đắc, không phải là có chỗ thủ đắc, nhưng đây là được ác, không phải là được thiện, đối với thân đã tham ái, chứa giữ mà trụ. Đối với Niết-bàn vắng lặng không quán tịch tĩnh. Hành giả này, do nội tâm khéo điều phục nên vừa sanh chán nản xấu hổ, liền có thể an trụ, dẫn đến nghĩa Sa-môn với hành xả vi diệu bình đẳng. Đối với Niết-bàn tịch diệt có thể quán nẻo tịch tĩnh, sanh khởi pháp thiện của phẩm Chỉ như thế, đó là nhẫn, từ, Thi-la thanh tịnh, không hối, hoan hỷ, nói rộng cho đến đạt được hành không phóng dật thuộc về bốn chi của Tamma-địa, dẫn đến nghĩa Sa-môn, bình đẳng, khéo xả, quán công đức tịch tĩnh của Niết-bàn vắng lặng.
Bấy giờ, hành giả này, do hai nhân duyên, nên có nhiều hành tác:
1. Do diệu huệ, đối với giáo pháp của Đại sư, vì nhằm dứt hết các lậu nên có thể tu trị thanh tịnh Tĩnh lự thứ tư.
2. Đối với thân, tâm xả tăng thượng.
Ngang với đây, gọi là khởi đầu tu địa nghiệp, thành tựu đầy đủ, rốt ráo. Từ đấy về sau, đối với sự tu tập không sanh biết đủ, vì muốn hướng nhập địa đã làm xong, tu "tuần thân niệm", quán thân do sắc tạo như cỏ cây bùn đất, cùng các pháp phi sắc khác đã sanh khởi, dùng huệ như thật thông tỏ về duyên khởi, có thể tùy thuận hướng nhập nơi đế như thật.
Trí đã được nhập rồi, dựa nơi tu đạo trên, đối với cảnh giới của các căn nơi ba đời có thể dấy khởi chán bỏ, cho đến giải thoát, có thể nhận biết như thật là ta đã giải thoát. Như vậy gọi là địa đã làm xong, tu tuần thân niệm sanh khởi pháp thiện. Nghĩa là quán sắc thân như cỏ cây bùn đất, tưởng như là quán xét các pháp không sắc. Do diệu huệ chân thật thông tỏ về duyên khởi, có thể tùy thuận hướng nhập bốn Thánh đế. Trí ở trong tu đạo có thể khởi chán bỏ, lìa dục, giải thoát, giải thoát tri kiến. Ngang với đây gọi là đối với giáo pháp của bậc Đại sư, dùng diệu huệ, đối với sự việc nên làm, đều đã làm xong. Vì sao? Vì hết thảy tự nghĩa đều đã rốt ráo.
Từ đấy trở về sau, lại không còn chỗ tạo tác, không phải ở nơi việc đã làm rồi lại cần phân biệt. Nếu có trường hợp hành tác rồi, vào thời gian khác thối mất, nên lại có sự tạo tác, thì hành tác này tuy thực hiện, nhưng không phải là hành tác cứu cánh, như các phàm phu, do đạo thế gian mà được giải thoát. Ở đây, nếu trước mới tu địa nghiệp, đạt pháp thiện hữu lậu, hoặc về sau nơi địa đã làm xong hiện có, đạt được pháp thiện vô lậu. Như vậy, tất cả đều theo chỗ ứng hợp nên biết đều nhập nơi bốn Thánh đế.
Lại nữa, do bốn nhân duyên, nên nhận biết rõ đúng một trăm lẻ tám hành ái thuộc về Tập đế. Bốn nhân duyên là:
1. Do nội ngoại có sai biệt.
2. Do chỗ dựa có sai biệt.
3. Do tự tánh có sai biệt.
4. Do thời phần có sai biệt.
Thế nào gọi là nội ngoại có sai biệt? Nghĩa là do sáu xứ nội ngoại làm chỗ dựa khởi các hành ái.
Thế nào gọi là chỗ dựa có sai biệt? Nghĩa là ái nương dựa nơi năm thứ ngã mạn. Những gì gọi là năm thứ ngã mạn? Tức đối với ngã kiến chưa đoạn trừ hoàn toàn, nên đã có ngã mạn hiện hành như thế. Đối với sáu xứ kia chấp ngã khởi mạn, cho đến chưa bị già suy tổn hại, các hành tương tợ nối tiếp mà chuyển, khởi tư duy: Là ngã như trước.
Kẻ ấy nếu lại bị già suy tổn hại, hoặc vào một thời thành tựu sắc đẹp, hoặc vào một thời tạo thành sắc xấu. Hoặc vào một thời thành tựu đại lực, an lạc, biện tài. Hoặc vào một thời, cho đến không có biện tài. Kẻ kia, nếu lúc thành tựu sắc đẹp, đại lực, an lạc, biện tài, thì khởi tư duy: Ngã nay là đẹp đẽ. Nếu trái với đấy thì khởi tư duy: Ngã không phải là đẹp đẽ. Nếu lúc bị già suy tổn hại thì khởi tư duy: Ngã hiện nay là biến dị.
Thế nào gọi là tự tánh có sai biệt? Nghĩa là năm thứ ngã mạn này làm chỗ dựa, phát khởi có ái cùng không có ái. Lại, có ái kia theo phẩm hạ trung thượng có sai biệt mà chuyển. Nơi không có ái, do xét chọn kỹ mới có thể khởi ái, không phải do ý lạc tự nhiên mà trụ. Thế nên trong đó không có ba phẩm sai biệt được kiến lập.
Nên biết ở đây, có ái thuộc phẩm hạ: Nghĩa là đối với vị lai nguyện ta sẽ có, tức nơi sáu xứ mong ta sẽ có, tức loại như thế, nguyện ta sẽ có. Đối với loại đồng sanh có mong cầu, nên loại khác như thế, nguyện ta sẽ có. Nơi loại khác sanh có mong cầu, nên nếu tự thể trước là khả ái thì mong được tương ưng. Tạo nghiệp thiện, khởi tư duy: Nguyện ta sẽ có chủng loại như thế, như nay hiện có. Nếu tự thể trước là không khả ái, mong được cách lìa chúng. Tạo nghiệp thiện, khởi tư duy: Nguyện ta sẽ có chủng loại như thế, khác với hôm nay hiện có.
Có ái thuộc phẩm trung: Nghĩa là đối với chỗ không có, không sanh mong muốn, vì nhằm đối trị, nên nguyện ta được có. Tức nơi sáu xứ nguyện ta được có, như trước đã nói. Tức nơi loại như thế, nguyện ta được có. Khác loại như thế, nguyện ta được có. Như vậy, tất cả nên biết đều gọi là có ái thuộc phẩm trung.
Có ái thuộc phẩm thượng: Nghĩa là tức hành tướng có sai biệt như thế, khởi niệm: Nguyện ta nhất định có. Suy cầu mãnh liệt bốn thứ tướng ái, nên biết gọi là có ái thuộc phẩm thượng.
Tự tánh của năm thứ ái này có sai biệt, do có chỗ dựa là nội xứ riêng biệt, nên nói mười tám thứ hành ái có sai biệt. Đối với ngoại xứ kia, nên biết cũng thế. Ở đây có sai biệt: Nghĩa là như ở trong sáu xứ nội kia, chấp ngã khởi mạn, như thế, đối với sắc chấp làm ngã sở để dấy khởi mạn. Tức là nơi sắc này, ngã tự tại chuyển, như vậy cho đến ở trong các pháp chấp làm ngã sở mà khởi mạn, tức là nơi pháp này, ngã tự tại chuyển, phần còn lại, theo chỗ ứng hợp như trước đã nói, nên biết. Như thế, mười tám cùng với hành ái nêu trước, hợp nói gồm có ba mươi sáu thứ hành ái sai biệt.
Thế nào gọi là thời phần có sai biệt? Nghĩa là tức ba mươi sáu hành như thế đều có ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai có sai biệt.
Như vậy gọi là do bốn nhân duyên có sai biệt, nên hành ái hợp có một trăm lẻ tám thứ. Lại ở trong ấy, tướng không sai biệt. Phàm các thứ mong cầu nhiễm ô hiện có đều gọi là ái. Lại, tức ái này thuộc về Tập đế, nên gọi là nhân, tức làm thấm nhuần tánh. Thuận theo dòng chảy sanh mà chuyển, trôi, nên gọi là lưu nhuận. Tánh luôn chấp trước nơi các cảnh giới nên gọi là vướng mắc nơi cảnh. Có thể cùng với các khổ hiện có như ung nhọt, bệnh tật v.v… làm nhân duyên sanh rồi, lại dựa nơi năm thủ uẩn, nên gọi là gốc ung nhọt. Khó chế ngự điều phục nên gọi là lưu dật (chảy tràn). Hiện hành vi tế, là chỗ trói buộc của Ma, nên gọi là đâm, bắn. Trên đến cõi Hữu Đảnh, nêu cao hiện bày, nên gọi là cành gốc. Khiến không no đủ, nên gọi là khô kiệt.
Lại, tức chỗ nói về tướng ái như thế là trói buộc chúng sanh, nên gọi là chướng ngại. Do tùy miên nên gọi là che phủ. Tức do triền cùng tùy miên như thế tạo thành phẩm thượng, nên gọi là cao hơn. Thành nơi phẩm trung phẩm hạ, gọi là phát khởi.
Nếu ái của cõi Dục, đối với cảnh được nhận biết khiến mê lầm, gọi là tối tăm. Nếu ái của cõi Sắc, đối với cảnh của đối tượng được nhận biết khiến cho mê lầm, gọi là mờ tối. Nếu ái của cõi Vô sắc đối với cảnh được nhận biết, khiến cho mê lầm, gọi là lờ mờ.
Như có ba người: Người thứ nhất là mù tối. Người thứ hai bị che mắt kín. Người thứ ba mắt bị màng mỏng che. Ở đây, người thứ nhất là hoàn toàn không thấy gì. Người thứ hai, một phần ít tợ như có thấy. Người thứ ba tuy thấy, nhưng mắt không tịnh nên không thấy sắc thật. Như vậy, ba ái tùy theo thứ lớp tối tăm, mờ tối, lờ mờ, nên biết cũng thế.
Lại nữa, do năm thứ tướng, người chuyển Pháp luân, nên biết gọi là khéo chuyển Pháp luân. Đó là:
1. Đức Thế Tôn, thời gian còn làm Bồ tát, vì đạt được cảnh giới của đối tượng duyên cần đạt được.
2. Vì đạt được phương tiện cần đạt được.
3. Chứng đắc điều tự mình nên chứng đắc.
4. Đạt được sự nối tiếp của kẻ khác đã gieo trồng, khiến đối với pháp tự chứng sanh tin hiểu sâu xa.
Nên biết ở đây, cảnh của đối tượng duyên tức là bốn Thánh đế. Bốn Thánh đế này, an lập về thể tướng như trước đã nói, nên biết, hoặc lược hoặc rộng như nơi địa Thanh văn.
Đạt được phương tiện: Tức ở trong bốn Thánh đế ấy, trí ba lượt chánh thức chuyển mười hai tướng.
Chuyển lần đầu tiên: Nghĩa là thời trước, lúc Bồ tát nhập hiện quán nhận biết rõ như thật là Khổ Thánh đế, nói rộng cho đến là Đạo Thánh đế. Trong ấy, Thánh trí của hiện lượng hiện có, có thể đoạn trừ các phiền não do kiến đạo đoạn, bấy giờ gọi là sanh mắt Thánh đế. Tức do dựa vào ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai có sai biệt, theo như thứ lớp ấy gọi là trí minh giác.
Chuyển lần thứ hai: Nghĩa là hàng hữu học, do diệu huệ ấy, thông tỏ đúng như thật, ta nơi phần sau cũng có chỗ hành tác: Phải nên nhận biết khắp về Khổ đế chưa nhận biết. Phải nên đoạn trừ vĩnh viễn Tập đế chưa đoạn trừ. Phải nên tác chứng Diệt đế chưa tác chứng. Phải nên tu tập Đạo đế chưa tu tập. Như thế là cũng có bốn thứ hành tướng như trước, nên biết.
Chuyển lần như ba: Nghĩa là hàng vô học đã được tận trí, vô sanh trí, nói: Chỗ cần tạo tác, ta đều đã làm. Như thế cũng có bốn thứ hành tướng như trước, nên biết. Ở đây có sai biệt: Tức bốn thứ hành tướng của hai lần chuyển trước, là mắt Thánh huệ chân thật của hàng hữu học. Một lần chuyển thứ ba là mắt Thánh huệ chân thật của hàng vô học.
Chứng đắc pháp cần đạt được: Là chứng đắc Chánh đẳng Bồ đề Vô thượng.
Sự nối tiếp do kẻ khác gieo trồng khiến đối với pháp tự chứng đắc sanh hiểu: Tức như Trưởng lão A Nhã Kiều Trần, từ chỗ Đức Thế Tôn, nghe Chánh pháp rồi, đầu tiên tỏ ngộ hiểu rõ về bốn pháp Thánh đế. Lại, trả lời: Con đã hiểu pháp. Từ đấy về sau, như trước đã nói.
Sau cùng, khiến kẻ khác đối với pháp họ đã chứng đắc sanh tin hiểu: Nghĩa là như Trưởng lão A Nhã Kiều Trần, khởi tâm thế gian: Con đã hiểu pháp. Đức Như Lai nhận biết rồi, khởi tâm thế gian: A Nhã Kiều Trần đã lãnh hội pháp của ta!
Địa thần biết rồi liền cất tiếng truyền cáo, trải qua phút chốc, âm thanh kia lần lượt truyền đến cõi Phạm Thế. Nên biết Đức Thế Tôn, chuyển pháp đã hiểu rõ, đặt trong thân của A Nhã Kiều Trần. Ở đây lại tùy chuyển, đặt trong thân khác. Ở đấy cũng lại tùy chuyển, đặt trong thân khác. Do nghĩa này lần lượt tùy chuyển như thế, nên gọi là luân. Các pháp như chánh kiến v.v… đã thành tánh, nên gọi là Pháp luân. Đức Như Lai Ứng Cúng, là "Phạm tăng ngữ" đã chuyển, nên cũng gọi là Phạm luân. Lại nữa, đối với bốn Thánh đế chưa nhập hiện quán, có thể nhập hiện quán nên biết lược có bốn thứ Du già. Nghĩa là, vì nhằm chứng đắc pháp chưa chứng đắc, nên tịnh tín tăng thượng. Phát sanh mong muốn sâu dày, mong muốn sâu dày tăng thượng. Tinh tấn hiện rõ, tinh tấn hiện rõ có phương tiện thiện xảo.
Nói tịnh tín: Là tin, hiểu chân chánh.
Nói mong muốn: Là mong muốn đạt được.
Tinh tấn: Như trước đã nêu, lược có năm thứ: Có uy thế. Có siêng năng. Có dũng lực. Bền chắc, mạnh mẽ, không bỏ gánh nặng kia.
Phương tiện khéo léo: Là tu tập không phóng dật. Không quên mất tướng, gọi là niệm. Đối với các thứ lỗi lầm tai họa hiện có của phóng dật, trí phân biệt, nhận rõ về tướng, gọi là chánh tri. Gồm thâu hai thứ ấy, gọi là không phóng dật, tức đối với các pháp nhiễm, luôn phòng hộ tâm, thường có thể tu tập các pháp thiện.
Lại nữa, Khổ đế như các thứ bệnh tật. Tập đế như nhân dấy khởi bệnh. Diệt đế như bệnh sanh rồi mà được trừ khỏi. Đạo đế như bệnh trừ dứt rồi khiến về sau không sanh.
Các kẻ có bệnh, đến chỗ lương y, chỉ nên tìm cầu từng ấy Chánh pháp. Các vị lương y, cũng chỉ nên trao cho từng ấy Chánh pháp. Do đó, nên lại không có Thánh đế thứ năm. Chư Phật Như Lai là bậc lương y vô thượng, nhổ sạch mũi tên ái lớn, cũng chỉ tuyên thuyết từng ấy Chánh pháp.
Lại nữa, các Sa-môn hoặc Bà-la-môn dứt bỏ trí Thánh đế. Không thành tựu hiện quán, nên biết lược có mười tướng lỗi lầm tai họa. Nghĩa là, có các Sa-môn Thắng nghĩa, ý không chấp nhận họ là Sa-môn. Ngôn từ cũng không được xem là Sa-môn v.v…, đối với các khổ như sanh v.v… của hữu sau, đều chưa giải thoát. Đối với các nẻo ác, cũng chưa giải thoát. Có thể xả bỏ học xứ chân chánh đã thọ nhận. Không thể gắng nhận, chứng đắc các pháp thù thắng xuất thế gian, vượt hơn người. Đó là đạo quả Niết-bàn của Thánh đạo. Hướng tới nẻo thiện. Có thể tìm kiếm các thứ phước điền khác bên ngoài, trừ hàng hữu học, vô học. Đối với quả Bất hoàn, vượt khỏi Khổ khổ, tức đều không thể gắng sức thực hiện được. Ở trong hiện pháp, tỏ ngộ lý giải rốt ráo, giải thoát hết thảy Khổ Hữu dư y, đều không thể làm được. Cùng với đấy trái nhau, nên biết tức là các Sa-môn hoặc Bà-la-môn hiện có không từ bỏ trí Thánh đế, thành tựu hiện quán, đạt mười tướng công đức.
Lại nữa, hướng tới đế trí, vui thích Chánh giác, phải nên nhận biết rõ, dựa nơi sức của duyên tăng thượng thuộc bốn Thánh đế, đạt được nơi chốn nương dựa, đạt được phương tiện. Nên biết xứ này, ở trong Pháp-Luật khéo thuyết giảng, tịnh tín xuất gia, gọi là đạt được chốn nương dựa. Hoặc thọ nhận Bồ đề Thanh văn, thuộc về bốn quả Sa-môn. Hoặc Bồ đề hiện có của các bậc Độc giác. Hoặc Bồ đề Vô thượng của chư Như Lai. Ba thứ như thế, nên biết gọi là ba lượt chánh chuyển Pháp luân như trước đã nói. Tùy theo thứ lớp, nơi trí kiến hiện quán, gọi là đạt được phương tiện. Nên biết, lúc nhập hiện quán đế, nhận biết rõ như thật là Khổ Thánh đế, cho đến nói rộng, là Đạo Thánh đế, gọi là trí vị. Từ đấy về sau, ở trong các đế lại có chỗ tạo tác, phải nên nhận biết khắp, nói rộng cho đến phải nên tu tập.
Do quán này, nên gọi là kiến vị. Đối với địa vô học đã hiểu rõ đúng như thật: Ta đã nhận biết khắp. Ta đã vĩnh viễn đoạn trừ. Ta đã tác chứng. ta đã tu tập, gọi là hiện quán vị.
Lại có sai biệt: Các bậc vô học đạt được tận trí, vô sanh trí, gồm thâu tất cả trí giải thoát tột cùng, gọi là trí vị. Tức trí giải thoát tột cùng của bậc vô học ấy đã dẫn đến chánh kiến, gọi là kiến vị. Từ quả Dự lưu, cho đến cứu cánh, nên biết tất cả huệ học, gọi là hiện quán vị.
Lại nữa, nên biết đế trí lược có sáu thứ tác nghiệp và tướng. Nghĩa là đế trí này là chủ thể diệt trừ vĩnh viễn hành trước của các khổ. Như mặt trời sắp mọc, trước tiên hiện bày minh tướng.
Chánh thức dứt hết khổ: Là đầu tiên kiến đế, đoạn trừ các khổ. Tạo biên vực khổ: Là A-la-hán đã đoạn dứt các khổ.
Lại, đế trí này là chủ thể đối trị vô minh tối tăm lớn, như ánh sáng mặt trời có thể phá trừ các bóng tối lớn hiện có của thế gian.
Lại như có một hành giả, đã chứng đế trí, đoạn trừ hoàn toàn ba kiết, từ đấy thường xuyên do mất niệm, nên liền bị dục tham sân hận cấu nhiễm. Hành giả này, bấy giờ, dựa vào không phóng dật, nhập Tĩnh lự thứ nhất, do xúc đế trí, chứng đắc quả Bất hoàn. Như vậy lần lượt, tuy nhập định Phi tưởng phi phi tưởng, nhưng so với ngoại, phàm có khác biệt. Do đã chứng đắc pháp không thối chuyển, nên đế trí như thế là có dụng rộng lớn, có quả rộng lớn. Ở đây, các hành quá khứ hiện có, gọi là đã sanh. Các hành hiện tại gọi là đang sanh. Các hành vị lai gọi là sẽ sanh. Tất cả như thế gọi chung là Pháp tập. Tức tất cả hành ấy do vô thường diệt, hoặc có thứ đã diệt, hoặc có thứ vừa diệt, hoặc có thứ sẽ diệt, gọi chung là Pháp diệt.
Lại, đối với đế trí đã chứng đắc, như lầu đá lớn đã khéo chạm trổ, tô điểm, thì gió mạnh của tám phương không thể làm cho nghiêng động. Hết thảy dị luận đều không thể dời chuyển các thứ tỏ ngộ, lý giải hiện có, không nhờ vào duyên khác.
Lại, hết thảy trí của bốn Thánh đế, lần lượt hợp thành, gọi là hiện quán đế, không phải tùy thiếu một loại. Hiện quán đế này, cũng như thức ăn ngon quý, các Thánh đệ tử, với huệ mạng vô thượng đều dựa vào đấy để sống, như kẻ thọ dục ăn uống các thứ thức ăn ngon. Đế trí như Khổ, thiếu ba trí kia như lá thiểm di, nên biết phần còn lại giống như cành lá Sa la. Bốn trí Thánh đế lần lượt hợp thành tất cả viên mãn.
Lại, các đế trí, cùng với hỷ lạc đều biết rõ về nghĩa đích thực, nên có thể khiến cho thân tâm hết sức khinh an, gọi là hiện quán đế. Sanh trong Na-lạc-ca, lược có hai khổ:
1. Khổ bị thiêu đốt.
2. Khổ bị trừng phạt.
Do thiếu đế trí, nên phải nhận lấy hai khổ ấy. Hai khổ này sanh vô lượng khổ lớn dữ dội, do trí Thánh đế đều có thể vượt khỏi. Đế trí như thế, giả sử ở trong hiện pháp, nhân bị khổ lớn mãnh liệt thiêu đốt, trị phạt, một thân hoại diệt mà có thể đạt được, nên sanh hoan hỷ tột cùng để nhẫn thọ, cho dù bị hủy hoại trăm thân, hãy còn nên hoan hỷ, huống hồ chỉ là một thân.
Lại nữa, như có hành giả vì tu hiện quán Thánh đế, nên biết lược có bốn thứ chướng ngại. Đó là:
1. Không tin.
2. Thượng mạn.
3. Chờ thời.
4. Phóng dật.
-Nói không tin lại có ba thứ:
1. Đối với hiện quán đế không sanh tin hiểu.
2. Đối với hành thiện của Tăng không sanh tin hiểu.
3. Đối với Bồ đề của Phật không sanh tin hiểu.
Vì nhằm đoạn trừ loại không tin thứ nhất, Đức Thế Tôn đã tự dẫn hiện lượng được chứng đắc nơi hiện quán Thánh đế, bảo các đệ tử: "Ta đã đối với lý của bốn Thánh đế, đạt được hiện quán, chứng giác Chánh đẳng Bồ đề Vô thượng".
Vì nhằm đoạn trừ loại không tin thứ hai, nên Đức Thế Tôn lại nói: "Ta xưa kia cùng với các ông, trải qua nhiều đời mãi lưu chuyển, do chưa chánh tư duy, giác ngộ về chân đế. Ta nay, cùng với các ông, do chánh kiến thông tỏ, dùng chánh kiến làm nhân, dứt hết sanh tử lưu chuyển, nhân duyên kia hết, nên từ nay không có hữu sau, chỉ còn lại thân sau cùng, nhận giữ khiến không mất".
Loại không tin thứ ba, đối với Bồ đề của Phật, cùng chuyển như vậy. Nghĩa là, nếu chủng tánh của Sa-môn
Kiều Đáp Ma là Nhất thiết trí, vì sao có sự thưa hỏi, một loại có thể ghi nhận, một loại không ghi nhận? Vì nhằm đoạn trừ loại không tin như thế, nên Đức Thế Tôn lại nói: Pháp của Ta đã giác ngộ là vô lượng vô biên, ví như lá của các thứ cây cỏ nơi đại địa. Pháp vì người khác thuyết giảng, thì chỉ là phần ít, không nói hết, ví như nắm lá Thăng nhiếp ba hiện có trong tay. Phần nhiều có thể dẫn đến không nghĩa lợi. Phần ít có thể dẫn đến có nghĩa lợi. Nên biết ở đây không phải là không nhận biết, mà là không ký biệt. Chỉ do có thể dẫn phát không nghĩa lợi, nên không ký biệt.
- Nói thượng mạn: Nghĩa là ở trong hiện quán đế kia, khởi tăng thượng mạn. Vì nhằm đoạn trừ thượng mạn như thế, nên Đức Thế Tôn lại nói: Như người tại nơi xa dùng tên bắn ra, đuôi của mỗi mỗi mũi tên nối tiếp nhau không rớt, là điều hết sức hy hữu. Hoặc lại một sợi lông tách ra làm trăm phần, đầu của mỗi mỗi sợi lông được tách ra ấy nối tiếp nhau không rơi xuống, do chúng rất nhỏ, sự việc ấy lại rất khó, nhưng thông tỏ về Thánh đế lại càng khó hơn. Vì sao? Vì do tức dùng tác ý của chủ thể nhận lấy, trở lại tức thông tỏ về chủ thể nhận lấy tác ý. Như vậy mới có chủ thẻ duyên, đối tượng duyên bình đẳng, bình đẳng, khiến trí vô lậu sanh, thông tỏ đế lý. Do đó, sự việc này là hết sức vi tế, hết sức khó khăn.
- Nói chờ thời: Nghĩa là đối với việc làm, xét đợi thời sau. Vì nhằm đoạn trừ chướng ngại này, nên Đức Thế Tôn nói: Thân người không bị đọa lạc là rất khó đạt được. Lại dẫn trường hợp con rùa mù để so sánh với sự việc kia.
Thế nào là phóng dật? Nghĩa là, tóm lược mà nói, hoặc tư duy tà, hoặc tầm tư tà, hoặc hý luận tà, đó gọi là phóng dật. Nên biết, nếu đối với xứ xứ không nên tư duy mà gượng ép tư duy, gọi là tư duy tà. Tức là, hoặc tư duy ngã nơi đời quá khứ là từng có chăng, cho đến nói rộng. Nơi đời vị lai, đối với bên trong do dự. Ngã là cái gì, cái gì sẽ là ngã? Nay, hữu tình ấy từ đâu mà đến? Ở đây mất rồi sẽ đi đến nơi nào? Hoặc tư duy về thế gian, nghĩa là thế gian là thường, cho đến nói rộng. Hoặc tư duy về dị thục nơi nghiệp quả của hữu tình, tức vọng tư duy đây tạo đây thọ nhận, cho đến nói rộng. Hoặc lại tư duy về các Tĩnh lự, cảnh giới của Tĩnh lự. Hoặc tư duy về chư Phật, cảnh giới của chư Phật, Như Lai sau khi diệt độ, hoặc có hoặc không, cho đến nói rộng. Hành giả kia do đối với Thế tục, Thắng nghĩa đều đạt được thiện xảo, nên ở nơi tất cả do hai nhân duyên, nên không nên tư duy:
1. Không phải là cảnh nơi đối tượng duyên của tư duy.
2. Do sự việc ấy là không có thật.
Nếu có kẻ xét cầu sự việc không phải là cảnh tư duy, hoặc có kẻ xét cầu sự việc không có thật, hết thảy như thế đều không đạt được, chỉ có khiến cho tâm càng thêm mê loạn. Nếu ở trong ấy, không như chánh lý mà cưỡng ép tư duy, thì tuy có một loại, do sức của nhân đời trước, nên hoặc khởi chán lìa, hoặc khởi tác ý tương ưng với chán lìa, duyên với cảnh giới thật, ở nơi trung gian tạm thời hiện hành. Nhưng lại đối với chúng thấy rõ lỗi lầm tai họa, sanh trưởng không thật. Tư duy về các pháp như thế gian v.v… như thế, chỉ có thể dẫn đến vô nghĩa.
Tầm tư tà: Nên biết tức là tầm tư dục v.v… Hý luận tà: Lại có sáu thứ:
1. Hý luận điên đảo.
2. Hý luận đường quyền (không thật).
3. Hý luận cạnh tranh.
4. Hý luận đối với kẻ khác phân biệt hơn kém.
5. Hý luận phân biệt công xảo nuôi mạng.
6. Hý luận tham đắm về của cải, vật dụng nơi thế gian. Như thế, tất cả được gọi chung là phóng dật.
Vì nhằm đoạn trừ phóng dật ấy, nên Đức Như Lai đích thân tự làm công việc dạy dỗ, vì các hữu tình có thể thọ nhận sự giáo hóa, nghe rồi có thể mau chóng đoạn trừ các phóng dật. Đệ tử của Đức Thế Tôn, vì đoạn trừ bốn thứ chướng ngại của hiện quán Thánh đế như thế, do ba hành tướng nên nhận giữ Thánh đế. Ba hành tướng là:
1. Do Văn huệ nhận giữ về văn.
2. Do Tư huệ nhận giữ về nghĩa.
3. Do Tu huệ nhận giữ về chứng đắc.
Ở đây, Văn huệ, như chỗ được nghe, có thể nhận giữ đúng đắn là Khổ Thánh đế, cho đến nói rộng.
Lại do Tư huệ nhận giữ về nghĩa. Tức là các Thánh giả nhận biết đó là đế, nên gọi là Thánh đế. Nên biết ở đây do hai duyên nên được gọi là đế:
1. Pháp tánh: Do nghĩa chân thật, nên gọi là đế.
2. Thắng giải: Do tức ở trong nghĩa chân thật ấy, khởi thắng giải về đế, được gọi là đế. Hết thảy kẻ ngu tối, chỉ do pháp tánh nên được gọi là đế, không phải là thắng giải. Nếu là các Thánh giả thì cùng do hai thứ nên được gọi là đế, nói riêng tên gọi này là Thánh đế.
Lại do Tu huệ, ở trong các đế, đạt được đế trí nội chứng hiện lượng, cũng được chứng tịnh. Do nhân duyên này, nên đối với các đế, thật sự xa lìa nghi hoặc, đế trí chứng tịnh lại cúng nương dựa, nếu ở nơi chốn có một tất có pháp thứ hai.
Lại nữa, nếu có Sa-môn hoặc Bà-la-môn, đối với trí Thánh đế chưa đạt tương ưng, nơi các Thánh đế chưa thành tựu hiện quán, nên biết lược có bốn thứ lỗi lầm. Đó là:
1. Đối với trường hợp có thể đi đến phần thấp nơi nẻo ác, sanh trong bản hạnh, đã khởi ái lạc sâu xa, tạo tác, tăng trưởng nghiệp tương ưng với chúng. Do điên đảo ấy nên sanh nơi hầm sâu của nẻo ác.
2. Đối với triền dục nơi hai nẻo trời, người có rất nhiều phiền não luôn thiêu đốt, sanh trong bản hạnh, đã dấy khởi ái lạc sâu xa, tạo tác, làm tăng trưởng nghiệp tương ưng với chúng. Do nhân duyên này, nên đã sanh nơi nẻo kia rồi, nhiệt não lớn liền sanh, luôn bị chúng thiêu đốt.
3. Đối với các triền của của cõi Sắc, Vô sắc cùng với những tương ưng hiện có, như trước đã nói về vô minh tăm tối cùng các thứ màn che, sanh trong bản hạnh, nói rộng cho đến đọa nơi sanh tối tăm.
4. Do thối mất cảnh giới thọ dụng là đạo Niết-bàn, nên nơi trung gian, như sanh vào ba thứ thế giới, trung gian rơi tại ba thứ vọng kiến đen tối:
a. Thường kiến.
b. Đoạn kiến.
c. Kiến chấp hiện pháp Niết-bàn.
Do nhân duyên ấy, nên rơi rớt nơi ba cõi, sanh vào chốn tối tăm. Thâu nhận vọng kiến của chính mình như thế, nên bị vô minh tà vạy hắc ám che ngăn, nên không quán xét đúng như thật. Như trước đã nói về chỗ thâu nhận năm chi để đoạn trừ. Vì thế, nên biết là đã hiển thị như thật về các đế.
Lại nữa, hoặc có một loại hữu tình, đối với các Thánh đế không đạt được thiện xảo, tạo tác, làm tăng trưởng nghiệp của dị thục hắc-hắc rồi, nên có thể chiêu cảm ba nẻo ác. Do nghiệp ấy, nên ví như ném mạnh đầu gậy, hữu tình bị đọa trong Địa ngục, Bàng sanh, Quỷ giới.
Hoặc có một loại hữu tình tạo tác, làm tăng trưởng nghiệp của dị thục hắc-bạch, hắc-bạch rồi, do nghiệp xen tạp ấy, ví như ném mạnh cây gậy, các hữu tình hoặc bị đọa vào xứ không thanh tịnh của nẻo ác, hoặc được sanh vào xứ ít thanh tịnh của nẻo thiện.
Lại có một loại hữu tình tạo tác, làm tăng trưởng nghiệp của dị thục bạch-bạch rồi, do nghiệp ấy, nên sanh tại nơi chốn là chỗ đeo đuổi của các nghiệp sanh tử thuộc năm nẻo, thọ mạng hết, nghiệp hết, tức trở lại từ nơi cõi Sắc, Vô sắc, ở đấy mất rồi, thối đọa nơi chốn sanh tử của năm nẻo, như năm bầu xe với các nan hoa khiến bánh xe xoay vòng không dừng.
Nếu có người vì kẻ khác thuyết giảng về đạo thế gian, cho đến tuy có thể sanh lên cõi Hữu Đảnh, nên biết đạo được nêu giảng ấy không phải là Đệ nhất nghĩa, khiến đạt được giáo pháp vô thượng. Vì sao? Vì sự được sanh lên cõi trên như thế không phải là cứu cánh.
Nếu các Đức Như Lai thuyết giảng giáo pháp tương ưng với Thánh đế, nên biết giáo pháp ấy là Đệ nhất nghĩa, khiến đạt đến giáo pháp vô thượng. Vì sao? Vì sự "thăng thượng" như thế là cứu cánh.
Lại, nếu do đạt được các trí thế tục, cho đến cõi Hữu Đảnh, gọi là kẻ thông tuệ, không phải là thông tuệ của Đệ nhất nghĩa. Nếu do đế trí gọi là kẻ thông tuệ, thì đấy gọi là thông tuệ của Đệ nhất nghĩa, như trước đã nói.
Lại nữa, ở trong bốn thứ trí Thánh đế, trí Thánh đế thứ nhất có thể nhập nơi Thánh đế, lần lượt hiện quán, ví như chân gốc. Trí Thánh đế thứ hai, ví như tường vách. Trí Thánh đế thứ ba như tầng cấp dưới. Trí Thánh đế thứ tư như đài báu ở trên.
Lại, bốn trí Thánh đế như vậy như bốn bậc thềm, có thể khiến đi lên cung điện Đại trí huệ.
Lại, tức bốn trí Thánh đế như thế, như bốn nấc thang, có thể khiến bước lên nẻo giải thoát tịch diệt.
Nên biết ở đây có ba thứ ái, ví như ba cây cọc, các Ma-la ác luôn nắm giữ để quấy động biển lớn sanh tử, khiến cho các loài hữu tình thọ sanh ở đấy theo đó mà xoay chuyển.
Ba thứ Ma-la-ái "cọc gỗ" như thế không thể khiến cho ba loại hữu tình kia theo đấy xoay chuyển:
1. Cứng nhọn, tức là Dự lưu.
2. Xử trung, tức là hàng hữu học còn lại.
3. Nghịch lưu: Đạo hạnh viên mãn. Theo chỗ mong muốn đều có thể tạo tác. Hữu tình đã kiến Thánh đế, đoạn trừ vĩnh viễn mạn hiện có đã tạo tác khổ, mạn đã hình thành khổ. Do nhân duyên ấy, nên các Khổ đa phần đã đoạn trừ, chỉ còn phần ít, tức là các hàng hữu học và A-la-hán.
Như mạn đã tạo, đã hình thành các khổ, thì các ái nơi nghiệp thân ngữ ý, Tham-sân-si v.v… sanh khởi các khổ, nên biết tất cả, phần nhiều đã đoạn trừ, chỉ còn phần ít, ví như đá sỏi cùng với núi Đại Tuyết.
Các mạn như thế là đã tạo tác đã hình thành các Khổ hiện có, hoặc còn lại hoặc đoạn trừ, nên biết cũng thế. Như nơi hồ ao lớn, nước đầy tràn, chỉ lấy vài ba giọt nước, thì nước nơi ao hồ lớn ấy hãy còn rất nhiều. Như vậy, ái của cõi Vô sắc đã sanh khổ, hoặc còn lại, hoặc đoạn trừ, nên biết cũng thế. Như nơi hồ, vũng nước lớn, phần còn lại như trước đã nói. Như vậy, ái nơi cõi Sắc đã sanh khởi Khổ, hoặc còn lại, hoặc đoạn trừ, nên biết cũng thế.
Lại như nơi biển cả, phần còn lại như trước đã nói. Như vậy, ái của cõi Dục đã sanh khởi các Khổ, hoặc còn lại hoặc đoạn trừ, nên biết cũng thế. Lại các dụ về núi Tuyết lớn, hoặc các Kim sơn, hoặc Tô mê lô cùng đại địa. Lại có sáu thứ dụ về sỏi đá, dụ về khối bùn đất, phần còn lại như trước đã nói. Như vậy, các thứ Tham-sân-si của ba nghiệp thân ngữ ý đã sanh các khổ, hoặc còn lại, hoặc đoạn trừ, nên biết cũng thế. Như vậy, nhiều khổ đã xa lìa, ít khổ còn lại, nên biết hiện quán như thật về Thánh đế có nghĩa lợi lớn. Nghĩa là các hàng hữu học tối đa là bảy đời thọ khổ nơi nẻo người, trời, còn khổ nơi các nẻo ác đều đã vượt qua. Hoặc các bậc vô học chỉ còn có khổ của chỗ dựa thuộc hiện pháp, hết thảy các khổ khác đều đã vượt qua.
Lại nữa, nếu trụ nơi thân này nhập hiện quán đế, nên biết là thân ấy hết sức khó đạt được.
Lại, hàng hữu học có mắt thánh minh kiến đế lại càng rất khó đạt được.
Lại, huệ diệu do Văn-Tư-Tu tạo thành, cũng là khó đạt được. Do huệ ấy, nên ở trong Pháp-Luật khéo thuyết giảng, theo như thứ lớp, đã hiểu rõ, hiểu rõ hơn, cùng do quyết định. Nên khi đã hiểu rõ, có thể phân biệt kỹ. Khi hiểu rõ hơn, có thể sanh khởi thắng giải. Vào lúc quyết định rõ thì ở nơi pháp nhập chứng.
Lại, hiện quán đế, với tư lương hiện có là pháp hữu lậu thiện, cũng là khó đạt được. Nghĩa là đối với cha mẹ, nhận biết về ân dưỡng cùng các nghiệp đạo thiện có thư thái viên mãn, cũng là khó đạt được. lại, có chánh kiến thứ nhất của thế gian v.v…, cho đến trí giải thoát là biên sau nơi mười thứ chánh pháp, cũng là khó được.
Các pháp như vậy tức là hàng hữu học, tức là bậc vô học. Nên biết ở đây, hữu tình, sĩ phu hiện có, khéo nhận biết về ân dưỡng, nhận biết rõ như thật về tất cả cha mẹ đều nên hiếu dưỡng. Nhận biết như thế rồi, đối với cha mẹ siêng tu hiếu dưỡng. Đó gọi là khéo nhận biết về ân dưỡng của cha mẹ.
Lại, các hữu tình, sĩ phu hiện có, vui thích nơi lợi ích của mình, đối với kẻ khác có đức như tất cả Sa-môn, Bàla-môn, đều nhận biết rõ như thật là phước điền, như chỗ ứng hợp, siêng tu cúng dường. Đó gọi là khéo nhận biết về Sa-môn hoặc Bà-la-môn hiện có.
Lại, hữu tình, sĩ phu hiện có, không rơi vào tham dục, đối với tất cả hàng thân thuộc như vợ con, nô tỳ v.v… đều nhận biết rõ như thật là họ đã xem ta là nhà cửa, là nơi chốn quy về. Ta nếu có vui thì họ cũng vui theo. Ta nếu có khổ thì họ cũng khổ theo. Nhận biết như thế rồi, nên vào mọi thời gian, chính thức dùng các thức ăn uống, y phục v.v… cấp cho, lại do duyên bệnh nên thâu nhận y dược. Đối với các thứ nghĩa lợi kia, tự nhiên gắng sức mạnh mẽ mà hành tác, không phải đối với tất cả, chỉ mong họ nhớ nghĩ. Bẩm tánh trung thực, bình đẳng, vui thích để phân bố, cũng không phung phí khiến hao tổn tài sản, vật báu. Không ở nơi phi xứ sanh khởi "giới luật", cũng không ở nơi "Phi xứ" dấy khởi phẫn nộ. Đối với các người già cả, cùng những nơi chốn tôn trọng, phải khéo tùy chuyển đúng đắn. Như vậy gọi là vị gia trưởng khéo cai quản gia đình, khéo có thể tạo tác nghĩa lợi của tự, tha.
Các nơi chốn thực hiện đều theo đúng Chánh pháp, không dùng phi pháp. Ở trong hiện pháp, kẻ khác đã tạo hành ác, thấy rõ lỗi lầm, nghĩa là hoặc giết hại, hoặc trói buộc, hoặc trị phạt, hoặc trừ bỏ, hoặc bị chê trách, hủy báng. Xét chọn đúng đắn rồi, trọn không hiện hành. Như thế gọi là, đối với tội lỗi của đời này, cảm thấy sợ hãi sâu xa.
Lại quán xét đúng đắn, thấy rõ việc tạo ác hành ác rồi, đối với đời sau, chiêu cảm các khổ nơi nẻo ác, cùng chiêu cảm các khổ còn lại như thiếu thốn v.v… Xét chọn đúng đắn rồi, trọn không hiện hành. Như thế gọi là, đối với tội lỗi của đời khác, cảm thấy sợ hãi sâu xa.
Lại, trong mọi thời gian, có thể thọ học chính đáng, hành các nghiệp phước, tạo tác vô số hành phước sai biệt. Đó là thăm bệnh, kính thờ Tam bảo, hết lòng hành trì. Các sự việc như thế gọi là hành tạo phước. Trong một ngày đêm, cho đến trọn đời, nơi giới luật hiện, nên thọ học đúng đắn. Như thế gọi chung là huệ thí, tạo phước, thọ trai, học giới.
Mười nghiệp đạo: Nghĩa là về sai biệt, cùng có hai, ba thứ v.v…, tuyên thuyết cho đến vì khiến do Văn huệ, Tư huệ, đối với tác ý hiện có tương ưng, nên tu tập nhiều, đúng đắn.
Lại, các hữu tình sanh nơi nẻo ác rồi, khó có thể giải thoát. Sanh nơi nẻo thiện rồi, mau chóng trái lìa. Nên biết đó gọi là có thư thái viên mãn là rất khó đạt được.
Lại, kiến đế nên không có chánh kiến sai biệt sanh khởi. Đối với đời quá khứ gọi là đã sanh khởi. Đối với đời hiện tại gọi là đang sanh khởi. Đối với đời vị lai gọi là sẽ sanh khởi, như trước đã nói. Hoặc tập hoặc tu, hoặc tu tập nhiều, nghĩa ấy nên biết. Nếu là chánh kiến thế gian, nên tùy thuận phòng hộ. Nếu là chánh kiến hữu học, cùng quả đạt được do đoạn trừ, nên tùy thuận xúc chứng. Nếu là chánh kiến vô học cùng tự quả ly hệ, nên tùy thuận tác chứng.
Như nói về chánh kiến, thì nói về các pháp cho đến trí giải thoát nên biết cũng thế.
Lại nữa, tụng chung nêu:
Nghĩa chung cùng ánh sáng
Thọ cùng ở sau rốt.
Tụng riêng nêu:
Nghĩa chung, tự loại riêng
Giống chuyển sau ba cầu.
Nên biết các Giới (uẩn xứ giới) lược có hai thứ:
1. Giới trụ nơi tự tánh.
2. Giới tập tăng trưởng.
- Giới trụ nơi tự tánh: Nghĩa là mười tám Giới, gắn liền với sự nối tiếp của chính nó, mỗi mỗi thứ đều quyết định có chủng tử sai biệt.
- Giới tập tăng trưởng: Tức là các pháp hoặc là thiện hoặc là bất thiện, ở trong đời khác, trước đã luôn tập quen khiến chúng hiện hành. Hiện tại, các chủng tử mạnh mẽ, nương dựa, nối tiếp, do đấy làm nhân, vừa gặp duyên nhỏ liền có thể hiện khởi, nhất định không thể chuyển. Lại nữa, nói tóm tắt, tuy chủng loại của Giới có thể đạt được là mười tám, nhưng mỗi mỗi Giới, nơi nghiệp, nẻo hữu tình với vô số phẩm loại có sai biệt, nên biết là vô lượng. Ví như "tụ xoa" đại ác của thế gian, ở trong tụ ấy có nhiều phẩm loại. Chủng loại là một, tuy nói là một nhưng có vô lượng. Như vậy, ở trong mỗi mỗi Giới đều có vô lượng phẩm loại sai biệt. Chủng loại là một, tuy đều nói là một nhưng thật sự là vô lượng.
Lại nữa, các Giới như thế, do sức của thắng giải được tập thành.
Nếu trước là thắng giải ác thì tập thành Giới ác, trước là thắng giải thiện thì tập thành Giới thiện. Theo chỗ được tập thành, trở lại cùng với hữu tình tương tợ như thế, đồng pháp mà chuyển, nghĩa là cùng qua lại, đồng tụ tập, đồng trụ, đồng thấy, đồng ý, nơi thắng giải tương tợ. Do đấy nên nói các Giới của hữu tình cùng được tươi nhuận tương tợ mà chuyển.
Lại nữa, do sức tăng thượng của việc cầu phạm hạnh, nên trước nói phát khởi tín, tiếp theo, đối với Giới luật thọ học mà chuyển. Thứ đến, đối với tội lỗi hiện có của hiện hành, quán tự quán tha mà sanh xấu hổ. Sau đấy, đối với pháp thiện tu tập liên tục, phát khởi tinh tấn, đối với việc đã làm, đã nói từ lâu xa có thể không quên mất. Hai thứ ấy làm chỗ dựa khiến tâm được định. Do tâm định, nên được trí như thật. Như thế là vừa nói sức tăng thượng của tín. Lần lượt tu tập ba thứ học: Giới tăng thượng, Tâm tăng thượng, Huệ tăng thượng.
Ba học như vậy là đạo tư lương thù thắng. Nghĩa là chánh kiến thế gian, hành tốt, huệ xả, dễ nuôi lớn, dễ viên mãn, ít dục, biết đủ, cùng bốn nhiếp sự.
Về câu: Dễ nuôi lớn v.v… nghĩa có sai biệt, như nơi địa Thanh văn đã nói về tướng. Như thế nên biết gọi là cầu phạm hạnh đã được viên mãn. Thành tựu việc cầu phạm hạnh như thế, trở lại cùng với các loài hữu tình của Giới ấy, đều được tươi nhuận, tương tợ mà chuyển. Nên biết ở đây, quả dựa nơi nhân, không phải nhân dựa nơi quả.
Giới vô minh đã tùy theo các Giới của sáu xứ làm chỗ dựa của duyên có sai biệt, nên khởi vô số phẩm loại của vô minh xúc. Vô số phẩm loại của vô minh xúc ấy dùng làm duyên, nên dấy khởi vô số phẩm loại của các thọ do vô minh xúc sanh ra. Vô số phẩm loại của các thọ do vô minh xúc sanh ra ấy dùng làm duyên, nên khởi các thọ do vô minh xúc sanh ra làm duyên cho tham ái. Ái làm duyên mà có thủ, nói rộng cho đến khối khổ lớn được tích tập. Nên biết đó gọi là dựa nơi cầu hữu nên kiến lập các Giới.
Lại, vô minh giới đã tùy theo các Giới của sáu xứ làm duyên, khởi vô minh xúc. Vô minh xúc này dùng làm duyên, đối với các cảnh giới khởi các tưởng không như lý, chấp giữ tướng tốt hiện có. Tưởng này làm duyên, đối nơi các cảnh giới phát khởi mong muốn. Mong muốn này làm duyên, dấy khởi tầm tư tùy nhiên theo pháp kia. Do tầm tư ấy làm duyên nên phát khởi luyến mộ, sầu lo, tạo nhiệt não cho thân tâm. Thân tâm nhiệt não này làm duyên, nên đối với vô số phẩm loại của các cảnh giới suy cầu có sai biệt, đều có thể nhận biết rõ. Như thế nên biết là dựa vào cầu dục, đã an lập các Giới.
Lại nữa, tụng nêu:
Ba bảy Giới cùng thâu
Kiến tưởng cùng kỳ lạ
An lập tánh sai biệt
Tịch tĩnh, kẻ ngu sau.
Giới (uẩn xứ giới) có ba thứ:
1. Giới sắc.
2. Giới vô sắc.
3. Giới diệt. Lại có bảy Giới:
1. Giới sáng tỏ.
2. Giới thanh tịnh. 3. Giới Không xứ.
4. Giới Thức xứ.
5. Giới Vô sở hữu xứ.
6, Giới Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
7. Giới diệt.
Nên biết ở đây, do Giới sắc gồm thâu Giới sáng tỏ và Giới thanh tịnh. Do Giới vô sắc gồm thâu bốn xứ vô sắc. Do Giới diệt trở lại gồm thâu Giới diệt.
Lại, các sắc tham do kiến do thọ nên được hiển phát, hiện hữu khắp ở trong tất cả địa của Giới sắc, an lập Giới sáng tỏ và Giới thanh tịnh.
Lại, hành biến tri đối với bảy Giới như thế, phải nên nhận biết rõ. Tức đối với chỗ đạt được phải nên nhận biết rõ. Nơi đối tượng hành tác đã đạt được, phải nên nhận biết rõ. Như vậy, hành biến tri hiện có của các Giới do bốn nhân duyên phải nên nhận biết rõ:
Đối tượng được đối trị, chủ thể đối trị có trái nhau mà cùng đối đãi.
1. Nhỏ hẹp, vô lượng cùng đối đãi.
2. Có, không có cùng đối đãi.
3. Hữu thượng, vô thượng cùng đối đãi.
Đen tối làm duyên để thiết lập ánh sáng. Bất tịnh làm duyên để thiết lập thanh tịnh. Nẻo sắc làm duyên để thiết lập hư không. Như thế gọi là có trái nhau. Đối đãi nơi đối tượng được đối trị kia để thiết lập chủ thể đối trị. Do đối đãi nơi pháp kia, nên có thể ở trong đó giác huệ chính thức chuyển biến. Do duyên nơi cảnh có lượng nhỏ hẹp, thức dùng làm duyên, nên thiết lập xứ Thức vô biên. Do phần ít sở hữu dùng làm duyên, nên thiết lập xứ Vô sở hữu. Do tất cả hữu tối thắng hiện tiền dùng làm duyên, nên thiết lập xứ Phi tưởng phi phi tưởng, là hữu vô thượng. Do Tát-ca-da hiện có tương ưng với các phiền não được đoạn trừ dùng làm duyên, nên thiết lập Giới diệt, là diệt vô thượng. Nên biết cõi Hữu Đảnh là hữu vô thượng. Diệt đối với các pháp đều là vô thượng.
Lại, định hữu tưởng gọi là hữu hành. Ở trong Giới theo thứ lớp, cho đến xứ Vô sở hữu, tất cả đều là định hữu tưởng, đều do hành định tùy thuận đạt được. Nghĩa là giữ lấy tướng minh nơi tưởng quang minh, cùng tu Tam-ma-địa, tùy thuận đạt được định tưởng quang minh. Như vậy, do giữ lấy thanh tịnh, hư không, tưởng thức vô biên, tưởng vô sở hữu, nên biết cũng thế.
Xứ Phi tưởng phi phi tưởng, do tác ý vô tướng làm phương tiện, hướng nhập tưởng hết sức vi tế, nên thủ là bậc nhất. Các hữu tịch tĩnh lúc khởi thắng giải, tùy thuận đạt được định hữu bậc nhất. Nơi tất cả tướng không tư duy, nên đối với Giới vô tướng đã tư duy đúng đắn. Tát-ca-da diệt do vô tướng, nên tùy thuận đạt được định diệt nơi Giới diệt. Hai thứ như thế, không do hành định tùy thuận đạt được. Lại do hoàn toàn diệt trừ tham hiện có nơi Giới sắc, vô sắc, nên không cúi thấp, không ngẩng cao, giải thoát trụ, trụ nơi giải thoát. Các định như thế, được tùy theo chỗ mong muốn, có sức điều thuận, tự tại mà chuyển. Như vậy gọi là tùy được các Giới.
Lại, các Giới này, có thể tùy thuận đạt được tám định giải thoát. Nên biết Giới thứ nhất có thể tùy thuận đạt được hai định giải thoát thứ nhất, thứ hai. Giới thứ hai có thể tùy thuận đạt được giải thoát thứ ba nơi định Tĩnh lự thù thắng. Năm Giới còn lại, theo như thứ lớp, có thể tùy thuận đạt được năm định giải thoát.
Lại nữa, các nhóm ngoại đạo, nhằm khiến cho đệ tử, ở trong ba xứ đạt được thăng tiến, nên lược nói pháp yếu. Nghĩa là có một loại, nơi cõi Dục thấp kém, vì khiến đạt được diệu lạc trong nẻo người, cho đến sanh nơi cõi Trời Tha Hóa Tự Tại, nêu rõ các hành có thể chiêu cảm quả nơi cõi kia.
Lại có một loại, ở nơi cõi Sắc trung bình, vì khiến đạt được sanh trong chúng đồng phận của cõi Phạm Thế, nêu bày các hành có thể chiêu cảm quả nơi cõi kia.
Lại có một loại, nơi cõi Vô sắc vi diệu, vì khiến đạt được, cho đến sanh nơi chúng đồng phận của xứ Phi tưởng phi phi tưởng, nên nêu bày các hành có thể chiêu cảm quả nơi cõi kia.
Như vậy, các nhóm ngoại đạo kia nói Giới thấp kém làm duyên, gọi là lời thấp kém. Giới trung bình làm duyên, gọi là lời trung bình. Giới vi diệu làm duyên, gọi là lời vi diệu.
Các đệ tử kia, nghe pháp ấy rồi, trở lại dấy khởi tưởng lãnh hội sai biệt như thế. Tưởng lãnh hội như vậy cũng gọi là tưởng thấp kém, tưởng trung bình, tưởng vi diệu. Tưởng như như ấy, như thế, như thế phát sanh nhẫn lạc. Nhẫn lạc như vậy phát sanh kiến thấp kém, kiến trung bình, kiến vi diệu.
Chúng do các kiến nhẫn lạc như thế, nên đối với các xứ sanh sai biệt kia, tin hiểu chấp nhận, chấp là tối thắng, tạo tác, làm tăng trưởng nghiệp tương ưng ấy. Tin hiểu như thế gọi là nguyện thấp kém, nguyện trung bình, nguyện vi diệu. Nên biết hành giả của ba thuyết này cũng gọi là hữu tình của phẩm thấp kém, trung bình, vi diệu.
Lại, người nói, người hành kia, cũng vì kẻ khác tuyên thuyết các pháp thấp kém, trung bình, vi diệu, họ cũng đạt được loại sanh như thế. Lại tức sanh ấy, trước sau cùng đối đãi có sai biệt, nên an lập các Giới kém, vừa, diệu khác biệt. Ba thứ như vậy, nếu đối với Niếtbàn, tất cả đều thuộc về Giới thấp kém.
Nếu các Đức Như Lai, do thắng nghĩa, nên Giới vi diệu làm duyên, chỉ nói lời diệu. Pháp còn lại có sai biệt, như chỗ ứng hợp nên biết. Hoặc các Thánh giả, hành, nẻo hiện có, nên biết đều là Niết-bàn của hiện pháp.
Trước có ngoại đạo, sau khi mạng chung, sanh đến cõi này, nhân tăng trưởng, duyên hòa hợp, nên ở trong Pháp-Luật khéo thuyết giảng, liền được xuất gia. Kẻ ấy, do đời trước bị vọng kiến của ngoại đạo làm mê loạn, nên hợp thành vô minh giới lớn lao nơi hiện tại. Do đấy làm nhân, nên đối với Niết-bàn, cùng bậc Đại sư đã sanh nghi hoặc, thối chuyển mất Chánh pháp và Giới luật, trở lại quay về với pháp thuyết ác của ngoại đạo. Kẻ ấy, do sức của nhân thường hành tập từ đời trước, nên trở lại nêu bày lời thấp kém như thế, cho đến nói rộng như trước đã nêu, tất cả nên biết.
Lại nữa, ở trong xứ ngoại đạo, đệ tử của ngoại đạo đều có kiến thú riêng, được thiết lập rộng, lược có ba loại, do chỗ dựa là nhẫn kiến sai biệt, nên có thể đạt được.
Nương nơi Chánh pháp này, có thể khiến lìa bỏ vĩnh viễn triền và tùy miên. Do triền đã bỏ, nên tùy miên cũng theo đấy mà bỏ, phần còn lại cũng không chấp. Nhận biết rõ do chúng, nên ở trong hiện pháp, cùng với kẻ khác tranh, chống, giận dữ mà trụ, có thể dẫn đến cho tự tha, tất cả vô nghĩa. Đã nhận biết như vậy rồi, nên dứt bỏ tùy miên kia. Do bỏ tùy miên ấy, nên các tùy miên còn lại cùng nhân khác nơi các triền hiện có ấy hoàn toàn không chấp giữ. Ở nơi xứ ngoại đạo, đều có kiến thú riêng, được thiết lập rộng: Nghĩa là chấp thế gian hoặc thường, vô thường, nói rộng cho đến Đức Như Lai sau khi diệt độ là không phải có không phải không. Trong đó, một loại đệ tử của ngoại đạo, vì tánh trì độn, như như tự sư, hoặc kẻ khác chỉ dạy, dẫn dắt, như vậy như vậy, không xét lường kỹ, chấp giữ chặt, cho chỉ đế ấy là thật, ngoài ra đều là ngu, vọng. Loại đó, đối với tất cả đều có "kiến thú" riêng, thảy đều nhẫn thọ. Đó gọi là do chỗ dựa là nhẫn kiến thứ nhất.
Lại có một loại đệ tử của ngoại đạo, tánh là trung căn không phải trì độn, không thể tự nhiên đối với pháp mạnh mẽ suy tầm, quán xét. Cũng không tùy theo ngôn thuyết, liền sanh tin hiểu, nhưng lần lượt ở nơi kiến thú trái nhau, theo đấy vui thích một loại. Những kẻ kia đối với một loại kiến thú nhẫn thọ, không nhẫn thọ đối với một loại khác. Đó gọi là do chỗ dựa là nhẫn thọ thứ hai.
Lại có một loại đệ tử của ngoại đạo, tánh là lợi căn, có thể tự nhiên đối với pháp, mạnh mẽ suy tầm, quán xét. Do các kiến thú thiết lập xấu ác, nên họ thấy tất cả đều không hợp lý. Thấy như vậy nên hết thảy đều chẳng vui thích. Vì nhân duyên này nên đối với các kiến thú đều không nhẫn thọ. Đây lại có hai loại hữu tình:
1. Hành tà kiến: Tánh không thể gắng sức, ý không cầu lãnh hội.
2. Hành chánh kiến: Tánh có thể gắng sức, ý có cầu hiểu biết.
Ở đây, hết thảy loại thứ nhất là hữu tình không nhẫn. Tức do tỷ lượng phi lý như thế, nên ở trong Pháp-Luật khéo thuyết giảng, họ không xét lường kỹ, cho là phi lý, hủy báng Thánh Hiền, khởi kiến chấp cho là không có.
Lại, đối với tất cả đều có kiến thú riêng, đều không nhẫn thọ, tạo phương tiện khiến họ không có chỗ nương dựa, cũng khiến hoại diệt, không còn vâng theo tông chỉ mà lại vọng phân biệt, suy lường. Hiển thị không chốn dựa cậy, dẫn đến "kiến thú", luôn cùng với tất cả đều có kiến chấp riêng, cùng tranh, chống, hỗ tương não hại. Đó gọi là do nhẫn kiến làm chỗ dựa thứ ba. Ở đây, tất cả loại thứ hai là hữu tình không nhẫn, đối với hết thảy phần trước không nhẫn, thấy cũng không vui thích, tâm trụ cầu hiểu biết, đi đến trụ xứ khác, tức là Phật, đệ tử Phật trong Pháp-Luật khéo thuyết giảng, đã hiển bày như thật rồi nói: "Tôi, tất cả đều không nhẫn thọ!". Phật, đệ tử của Phật nhận biết rõ kẻ ấy, ý có cầu hiểu biết, giác huệ mãnh liệt, tánh gồm đủ khả năng nhận giữ, tức lo tâm ấy, nhớ nghĩ về tâm của kẻ kia rồi, bèn dựa vào hữu tình trước, lại cật vấn: Ông tức đối với các thứ ấy đều không nhẫn, kiến cũng không nhẫn chăng? Kẻ kia liền vâng dạ rồi đáp đúng như thật. Đức Như Lai bèn nêu rõ về các chúng đệ tử trong Chánh pháp này, rồi khen ngợi, khích lệ kẻ kia và bảo: Ông cùng với nhiều người là giống nhau. Chúng ta, tất cả đối với các kiến thú cùng không nhẫn kiến, đều không nhẫn thọ. Ông nếu được như vậy, như người này, các triền cùng với tùy miên, tất cả chỗ dựa của kiến đều vĩnh viễn đoạn trừ. Nơi đời vị lai, các kiến tạp nhiễm đều không thể gây tạo. Ông nay cùng với họ là hoàn toàn không khác nhau. Ông là một trong số rất ít kẻ đã đến với Chánh pháp. Nếu đối với tất cả triền cùng tùy miên đều không nhẫn kiến, có thể đoạn trừ vĩnh viễn, thì kẻ kia đối với tất cả, rốt ráo không nhiễm.
Như vậy, Đức Như Lai, đệ tử của Đức Như Lai đã tạo phương tiện, khiến đệ tử của ngoại đạo kia, đối với trí kiến chân chánh phát sanh mong muốn, riêng khởi suy niệm: "Ta hoàn toàn không biết đệ tử của Đức Như Lai có thể đoạn trừ triền và tùy miên như thế!".
Đức Như Lai nhận biết kẻ ấy, đối với trí kiến chân chánh, sanh khởi mong muốn rồi, liền lại khuyến khích kẻ ấy phát khởi tâm mong muốn, kẻ kia vâng lời thọ nhận. Đức Như Lai vì muốn khiến kẻ kia nương dựa nơi hai lực đối trị xét chọn, tu tập, đoạn trừ vĩnh viễn tất cả triền và tùy miên, nên nêu giảng pháp yếu, khiến kẻ ấy đạt được trí kiến không điên đảo. Như các vị khác đã an trụ nơi Chánh pháp này, có thể dứt bỏ hết thảy triền cùng tùy miên. Đó là xét chọn chỗ dựa của các kiến kia, có thể khiến lần lượt hỗ tương trừ bỏ. Do nhân duyên này, nên mọi thứ tranh, chống, não hại, có thể dẫn đến hết thảy vô nghĩa cho mình, người, các Thánh đệ tử đối với chúng đều không chấp giữ. Giả như có kẻ đến thưa hỏi, cũng không ký biệt.
Quán xét các thứ lỗi lầm tai họa như thế rồi, dựa nơi diệu lực xét chọn, lìa bỏ các triền. Vì nhân duyên ấy, nên đối với chỗ dựa của kiến chấp kia, có thể trừ bỏ hoàn toàn. Đối với chỗ dựa của kiến chấp còn lại, do chánh kiến nên cũng khiến chúng không còn hiện hữu.
Như vậy, vì nhằm dứt trừ rốt ráo các triền, nhổ sạch các tùy miên, nên tu tập tuần thân niệm. Đối với thân có sắc, quán tánh vô thường. Đối với thân nhiễm chấp, tu làm tịnh nơi tâm. Đối với phần vị của các thọ luôn thuận theo tự thân, do môn vô thường, quán tánh vô thường, nhận biết rõ như thật về các danh sắc, nên đối với các lậu, tâm được giải thoát. Quán thân hoại rồi, các thọ của vị lai thảy đều đoạn dứt.
Lại, đối với thân này trụ nơi tưởng sẽ bị hoại, cho đến thọ mạng hiện tại luôn có thể nhận lãnh các thọ đã lìa trói buộc. Như vậy gọi là dựa nơi sức tu tập, lìa bỏ tùy miên. Nên biết ở đây, do Tham-sân-si v.v… nên khiến cho các khổ nơi đời vị lai như sanh v.v… hòa hợp, trói buộc. Cũng khiến cho hiện pháp khởi nghiệp tạp nhiễm. cũng khiến vui cầu các sự nhiễm của vị lai, chấp giữ các sự việc đã xả bỏ của quá khứ, tham đắm các sự việc đang hiện tiền của hiện tại. Ý tham bướng, gọi là trái. Lời tranh biện gọi là tranh. Do ba thứ tổn hại gọi là hại. Về quán vô thường v.v…, như nơi địa Thanh văn đã nói rõ các tướng.
Lại nữa, tu quán bất tịnh, từ bi, nhằm đối trị dục tham, giận, hại, chưa đoạn trừ hoàn toàn. Các phẩm thô trọng kia, trong chỗ nương dựa, cũng như chủng tử có thể sanh ra chúng. Như chỗ ứng hợp được gọi là Giới dục tham và sân, hại, do có các thứ ấy.
Lúc thuận nơi cảnh của dục, sân, hại hiện tiền, dựa nơi tác ý tư duy không như lý, đối với ba thứ cảnh, có thể chấp giữ phi lý nơi tưởng tướng tốt sanh. Tưởng này sanh rồi, do chấp chặt, nên biết là phát khởi hai thứ lỗi lầm tai họa:
1. Nơi hiện pháp.
2. Nơi hậu pháp.
Ở đây, thế nào là chấp chặt? Thế nào gọi là lỗi lầm tai họa của hiện pháp? Thế nào gọi là lỗi lầm tai họa của hậu pháp? Nếu do sức tăng thượng của tưởng tự mình sanh, tương tợ như trước đã nói về vui muốn phân biệt, nhiệt não hiện có vì tìm cầu sanh khởi. Do nhân duyên ấy, gọi là tưởng chấp chặt.
Lại, lúc tìm cầu, đối với các hữu tình nơi ba xứ kia, phát khởi hành tà vạy. Do đấy làm nhân, hoặc có thể gắng nhận, nên có thể sanh khởi các thứ sầu khổ hiện có của hiện pháp, do nhân duyên này nên gọi là có khổ. Hoặc không thể gắng nhận, nhưng tức do chúng đã hiện tiền, nên gọi là có thiếu thốn.
Lại, có khổ cùng có thiếu thốn này, dùng hai thứ làm duyên:
1. Dùng kẻ khác, tay cầm đao gậy đất đá, cùng lời nói thô ác v.v… làm duyên tăng thượng. Do duyên ấy, nên gọi là có tai họa não hại.
2. Dùng tạp nhiễm bên trong mà trụ, làm duyên tăng thượng. Do duyên ấy, nên gọi là có thiêu đốt não hại.
Như thế gọi là lỗi lầm tai họa của hiện pháp.
Tức do nhân ấy, nên nơi đời vị lai sanh vào các nẻo ác. Như thế gọi là lỗi lầm tai họa của hậu pháp.
Lại, hoặc đối với các học xứ đã thọ, có chấp giữ kiên cố, nên biết đối với kẻ thọ học xứ kia như ngôi nhà cỏ lau khô, trong đó đối tượng được nương dựa, chủ thể nương dựa hiện có như loài sâu bọ. Pháp thiện do tưởng tà vạy là lửa ném vào trong ấy, có thể thiêu đốt rụi. Nên biết, tức hữu tình này hiện có như loài trùng, hết thảy pháp thiện đều bị thiêu hại. Cùng với đấy trái nhau, là không có chấp chặt. Nên biết, chấp như thế là làm thối mất công đức nơi pháp thiện. Cùng với đấy trái nhau, theo chỗ ứng hợp, nên biết là tưởng xuất ly không sân, không hại có sai biệt.
Lại, ở trong đó, huệ Văn, Tư, Tu có thể khiến cho phẩm hắc không chấp kiên cố, có thể khiến cho phẩm bạch có chấp kiên cố. Nếu ba thứ huệ diệu ấy có thiếu, có thể khiến cho phẩm hắc có chấp kiên cố, có thể khiến cho phẩm bạch không chấp kiên cố.
Lại nữa, Đức Như Lai có hai thứ pháp hết sức kỳ diệu:
1. Hiển thị tất cả các pháp đều không có ngã.
2. Hiển thị tất cả hữu tình, tự tạo tha tạo đều không hoại mất.
Ở đây lược có hai thứ hữu tình:
1. Phẩm tại gia.
2. Phẩm xuất gia.
Hữu tình tại gia, vì cầu đạt của cải, vật báu, nên đầu tiên là dấy khởi gia hạnh, gọi là Giới (cảnh giới) phát khởi. Tức ở trong đó, hoặc chưa đạt được, do thuận theo tinh tấn nên nhân duyên chướng ngại khiến các tâm thêm dũng mãnh, tức hướng tới chúng, gọi là Giới uy lực. Hoặc đã đạt được, do thuận theo tinh tấn, nên các chướng ngại, gồm các thứ tai hại hiện có như ruồi, muỗi v.v… đều không thể khiến chuyển, gọi là Giới nhận giữ. Tức các Giới này, từ nơi chốn của mình đến nơi chốn khác, từ chỗ chưa từ bỏ đến chỗ đã từ bỏ, gọi là Giới xuất ly. Tức hữu tình kia, vì của cải, vật báu, nên cùng kết hợp nơi hai xứ. Do khởi gia hạnh cẩn trọng không gián đoạn, gia hạnh không trì hoãn, gọi là Giới dũng mãnh.
Hữu tình xuất gia, trước là vui thích xuất gia, cầu xuất gia, sanh mong muốn quyết định, gọi là Giới phát khởi. Dựa nơi phẩm xuất gia, đối với chỗ nên đạt được là pháp thiện rộng lớn không có khiếp nhược, gọi là Giới uy lực. Vô số các lậu tràn đầy sanh khởi các khổ, phát khởi siêng năng tinh tấn đã sanh các khổ, Giới trái nhau v.v… đã sanh các khổ, đều không thể khiến hư hoại, gọi là Giới nhận giữ. Nếu đối với các thứ thấp kém không sanh biết đủ, gọi là Giới xuất ly. Cho đến thọ mạng hiện còn luôn tu gia hạnh cẩn trọng liên tục, gọi là Giới dũng mãnh. Tất cả như thế phải nên nhận biết rõ, nghĩa là các Giới kia cùng toàn bộ phẩm loại của các Giới hiện có.
Lại nữa, ở trong các Giới lược có hai thứ tánh sai biệt của Giới:
1. Tánh sai biệt của tha loại.
2. Tánh sai biệt của tự loại.
- Tánh sai biệt của tha loại: Nghĩa là nhãn giới khác, sắc giới khác, nhãn thức giới khác, như thế cho đến ý thức giới khác.
- Tánh sai biệt của tự loại: Tức là Giới kia hoặc thuận khổ thọ, hoặc thuận lạc thọ, hoặc thuận nơi thọ không khổ không lạc. Do đấy làm duyên, có thể sanh ba thọ.
Lại nữa, do bốn nhân duyên nên kiến lập ba thứ ba Giới, hai Giới xuất ly. Bốn nhân duyên là:
1. Ngoài không xuất ly mà xuất ly.
2. Trong không xuất ly mà xuất ly.
3. Không xuất ly rốt ráo mà xuất ly.
4. Không có tăng thượng mạn.
Nên biết ở đây, do tham năm thứ dục diệu bên ngoài làm duyên, kiến lập Giới dục. Tức do nghĩa xuất ly của Giới này, nên kiến lập Tĩnh lự đầu tiên của Giới sắc. Do nghĩa xuất ly của tầm hỷ lạc, nên kiến lập ba thứ Tĩnh lự trên đây. Do nghĩa xuất ly của vô số tưởng tánh nơi sắc có đối, nên kiến lập Giới vô sắc thuộc xứ Không vô biên. Do nghĩa xuất ly của tưởng không, thức Vô sở hữu, nên kiến lập Giới vô sắc thuộc về phần trên đây.
Như thế, nghĩa xuất ly của ngoại xứ không xuất ly, nên biết đã kiến lập ba Giới có sai biệt.
Lại, trong Giới sắc gồm đủ sáu xứ, nội xứ viên mãn. Trong Giới vô sắc, năm xứ có sắc đều đã siêu vượt, chỉ trừ ý xứ. Ở trong Giới diệt, tất cả sáu xứ đều đã siêu vượt. Như vậy, nghĩa xuất ly của nội xứ không xuất ly, nên biết đã kiến lập ba thứ Giới khác.
Lại, trong Giới sắc không phải là xuất ly rốt ráo. Trong Giới dục, Giới vô sắc, đối chiếu với Giới sắc, nên biết cũng thế. Nếu các thứ hữu vi thảy đều vắng lặng, nên biết đó gọi là xuất ly rốt ráo.
Như thế, nghĩa xuất ly của xuất ly không rốt ráo, nên biết đã kiến lập ba Giới có sai biệt.
Không có tăng thượng mạn: Nghĩa là do biết khắp, nên biết đã kiến lập năm thứ, sáu thứ các Giới xuất ly, như nơi địa Tam-ma-hý-đa đã biện biệt về tướng.
Lại nữa, nếu các Bí-sô chuyên thích tịch tĩnh, siêng tu Chỉ, Quán, lược do năm tướng nên biết tâm ấy gọi là được giải thoát. Năm tướng đó là:
1. Xa-ma-tha huân tu nơi tâm, dựa nơi phẩm Xa-matha của Tỳ-bát-xá-na, giải thoát các tùy phiền não.
2. Tỳ-bát-xá-na huân tu nơi tâm, dựa nơi phẩm Tỳbát-xá-na của Xa-ma-tha, giải thoát các tùy phiền não.
3. Hai thứ cùng vận hành, lìa tâm thuận theo hoặc, giải thoát tất cả các hành hiện có do kiến đạo đoạn trừ.
4. Tức do đấy nên giải thoát tất cả các hành hiện có do tu đạo đoạn trừ, trụ nơi Giới Niết-bàn Hữu dư y.
5. Giải thoát tất cả các hành là chỗ dựa của Khổ, trụ nơi Giới Niết-bàn Vô dư y.
Ở trong Pháp-Luật khéo thuyết giảng, lược có hai thứ pháp hết sức kỳ diệu của thầy và đệ tử:
1. Kiến giải bình đẳng, tùy thuận phát khởi ngôn thuyết.
2. Kiến giải tối thắng, tùy thuận phát khởi ngôn thuyết.
Hai thứ pháp như thế, trong pháp của ngoại đạo đều không thể đạt được, vì đối tượng tạo tác sai khác, vì họ xa lìa Niết-bàn.
Lại nữa, hạng ngu tối của thế gian lược có hai thứ tướng của kẻ ngu:
1. Vui thích tập hành các hành có thể dẫn đến không nghĩa lợi cho cả mình và người.
2. Đối với bốn xứ không đạt được thiện xảo.
Nên biết, hành có thể dẫn đến không nghĩa lợi, có bốn thứ tướng, nghĩa là có thể sanh khởi bốn thứ khổ:
1. Khổ sai biệt của kẻ khác.
2. Khổ sai biệt bên trong.
3. Khổ sai biệt của thời gian.
4. Khổ sai biệt của thân.
Nên biết ở đây, ba thứ khổ trước, gọi là hành chỉ có thể dẫn đến không nghĩa lợi cho chính mình. Một thứ khổ sau, gọi là hành cũng có thể dẫn đến không nghĩa lợi cho kẻ khác.
Thế nào là bốn xứ không đạt được thiện xảo? Nghĩa là ở trong các Giới, các xứ, xứ Duyên khởi, Phi xứ đều không thấu đạt. Cùng với trên trái nhau, nên biết tức là hai tướng của hàng thông tuệ.
Lại do ý xứ vô sắc, với đối tượng nương dựa, đối tượng duyên theo tự loại lưu chuyển có sai biệt, nên biết đã kiến lập có mười tám Giới.
Do năm xứ sắc, an lập sự vận chuyển, sai khiến, chỗ dựa nơi thể tánh có sai biệt, nên biết đã kiến lập sáu Giới hữu dư.
An lập chỗ dựa nơi thể tánh có sai biệt: Nghĩa là bốn đại chủng như địa v.v…
Vận chuyển, chỗ dựa nơi thể tánh có sai biệt: Tức là Giới không, sai khiến, chỗ dựa nơi thể tánh có sai biệt: Tức là Giới thức.
Do nghĩa nương dựa của tưởng thuộc phẩm nhiễm tịnh cùng tầm tư, nên biết là đã kiến lập sáu Giới hữu dư, nghĩa là dục, sân, hại cùng sự đối trị chúng. Tham-sânsi đã trói buộc, là nghĩa được nương dựa, nên biết đã kiến lập sáu Giới hữu dư, là khổ, vui, lo, mừng, xả, vô minh.
Nếu có tác ý tư duy phi lý, tức liền sanh khởi tưởng tầm tư tà vạy. Nếu có tác ý tư duy như lý, tức liền sanh khởi tưởng, tầm tư chân chánh.
Lại do nghĩa biến hành của hai phẩm nhiễm tịnh nơi ba Giới, nên biết đã kiến lập bốn Giới hữu dư, nghĩa là bốn uẩn như thọ v.v… thuộc về danh.
Lại, do chỗ nhiễm chỗ tịnh được thanh tịnh, tức chỗ bất tịnh ấy được thanh tịnh tăng thượng, như trước đã nói. Do nghĩa xuất ly của ngoài không xuất ly, nên biết đã kiến lập ba Giới hữu dư, là Giới dục, Giới sắc và Giới vô sắc, như trước đã nói.
Do nghĩa xuất ly của nội không xuất ly, nên biết đã kiến lập ba Giới hữu dư, là Giới sắc, Giới vô sắc, Giới diệt.
Lại, tức do hai sự xuất ly trong ngoài ấy tăng thượng, lắng nghe Chánh pháp hoặc không phải Chánh pháp, tư duy như lý hoặc tư duy không như lý, xứ nương dựa là ba thứ ngôn sự có nghĩa sai biệt, nên biết đã kiến lập ba Giới hữu dư, là Giới quá khứ, Giới hiện tại và Giới vị lai.
Lại, do nghĩa ít vừa nhiều của các phiền não khổ nơi đối tượng nhận thức, nên biết đã kiến lập ba Giới hữu dư, là Giới thấp kém, Giới trung bình và Giới thượng diệu. Nếu có khổ và phiền não thuộc phẩm trung, đó gọi là Giới trung bình. Nếu có ít khổ và ít phiền não, đó gọi là Giới thượng diệu. Như thế tức là nhận biết khắp về Giới thấp kém, trung bình và thượng diệu.
Lại, do xa lìa nghĩa nhân duyên ấy, cùng do tu tập nghĩa đối trị này, nên biết đã kiến lập ba Giới hữu dư, là Giới thiện, Giới bất thiện, Giới vô ký. Lại do tu tập thiện thanh tịnh có sai biệt. Với nghĩa thiếu trói buộc, nghĩa không trói buộc, nghĩa đủ trói buộc, nên biết đã kiến lập ba Giới hữu dư, là Giới học, Giới vô học và Giới phi học phi vô học.
Lại, tức do hàng hữu học, vô học kia cùng với các kẻ ngu, hoặc pháp thế gian xuất gian chung, không chung với nghĩa thành tựu, nên biết đã kiến lập hai Giới hữu dư, là Giới hữu lậu và Giới vô lậu.
Lại, tức do nghĩa sai biệt của hữu thượng vô thượng, hữu thường vô thường nơi thế gian xuất thế gian kia, nên biết đã kiến lập hai Giới hữu dư, là Giới hữu vi và Giới vô vi. Tất cả đều là hướng tới Niết-bàn, tất cho Niết-bàn là hậu tế, tu tập phạm hạnh thành thục, thế nên vượt quá giới hạnh này thì không còn lập Giới.
Các thứ thiện xảo hiện có của xứ Duyên khởi cùng xứ Phi xứ, như nơi địa Thanh văn đã biện biệt về tướng. Lại, nếu lược nói về tướng thiện xảo của xứ cùng phi xứ: Nghĩa là hoặc nương dựa nơi hành hướng tới năm nẻo. Hoặc lại nương dựa nơi hành hướng tới Niết-bàn. Hết thảy hành này lược có ba thứ: là kém, vừa và hơn. Hành hướng tới nẻo ác gọi là kém. Hành hướng tới nẻo thiện gọi là vừa. Hành hướng tới Niết-bàn gọi là hơn. Hành hướng tới Niết-bàn, nên biết có thể chứng đắc pháp tánh tối thắng của tất cả hữu tình. Nghĩa là Bồ đề Thanh văn, Bồ đề Độc giác và Bồ đề Vô thượng. Chư Phật, Như Lai, đối với tất cả hữu tình kia là thù thắng tột cùng, hết thảy hữu tình trong tam thiên đại thiên thế giới, không loài nào có thể sánh bằng.
Lại, các hữu tình hiện có khác, an trụ nơi chút ít công đức của Bồ đề, đối với các hữu tình đạt được phần vị tăng thượng của các thế gian, hãy còn là thù thắng, huống chi là Đức Như Lai.
Sự việc kia lại như thế nào? Nghĩa là đối với xứ ấy, các hữu tình đầy đủ chánh kiến đã không thể hiện hành. Các loài phàm phu gắng nhận hiện hành, nên biết tất cả như nơi kinh đã nói rộng.
Lại nữa, tụng nêu:
Tự tánh cùng nhân duyên
Kiến nhiễm sổ thủ thú
Đạo lý sai biệt chuyển
Tịch tĩnh, quan sát sau.
Tự tánh của các thọ phải nên nhận biết rõ. Nhân duyên của các thọ phải nên nhận biết rõ. Chánh kiến đối với thọ phải nên nhận biết rõ. Tạp nhiễm nơi thọ phải nên nhận biết rõ. Đối với chủ thể thọ nhận là các hữu tình thọ nhận hai sức xét chọn, không xét chọn có sai biệt, phải nên nhận biết rõ. Như vậy, đối với thọ giải thoát, không giải thoát, phẩm lưu chuyển có sai biệt, phải nên nhận biết rõ. Các hữu nơi đối tượng thọ nhận đều là đạo lý khổ, phải nên nhận biết rõ. Tịch tĩnh, dừng dứt của các thọ có sai biệt phải nên nhận biết rõ. Quán sát nơi thọ, về tất cả tướng của thọ, phải nên nhận biết rõ.
Lược nói về ba thọ, là tự tánh của thọ. Ba phẩm loại xúc là nhân duyên của thọ.
Lại, các lạc thọ là pháp biến hoại. Là chốn nương dựa của tham. Tham là nhân của các khổ nơi vị lai, do đấy nên quán lạc thọ là khổ. Nếu các khổ thọ lúc đang hiện tiền, là tánh não hại, như trúng tên độc nhưng chưa được nhổ ra, do đấy nên quán khổ thọ như mũi tên. Thọ không khổ không lạc đã diệt hoại, là vô thường. Chúng đang hiện tiền là pháp diệt. Đối với hai thứ lại nối tiếp, có thể tùy thuận. Do đấy, nên quán thọ không khổ không lạc, tánh là vô thường, tánh là pháp diệt.
Như vậy, đối với thọ sanh khởi chánh kiến, có thể tùy thuận ngộ nhập. Các hữu đã thọ nhận thảy đều là khổ. Ở trong lạc thọ, có tùy miên tham. Ở trong khổ thọ, có tùy miên sân. Ở trong thọ không khổ không lạc có tùy miên vô minh. Đó gọi là chỗ dấy khởi tạp nhiễm của thọ.
Khó khăn đối với phần vị hiện tiền của các thọ hiện có như lạc thọ v.v…, là tất cả tùy miên của phiền não chưa được đoạn trừ. Nhưng do duyên nơi các triền của đối tượng hành đều riêng biệt, phiền não như thùy miên sanh khởi sau đấy cũng thuận theo chỗ trói buộc, tức gọi là tùy miên đối với sự nối tiếp của phiền não kia. Vì nhằm loại trừ hoàn toàn các tùy miên, nên tu tập phạm hạnh thành thục, không phải chỉ là dứt bỏ nhân duyên của các triền. Hữu tình không có sức mạnh xét chọn, lúc nhận lấy khổ thọ, tâm hết sức sầu não, tức khổ thọ này, hoặc thân hoặc tâm, hiện tiền lãnh nạp. Lạc thọ, thọ không khổ không lạc còn lại, do chưa đoạn trừ, nên nói có nối tiếp. Do đó gọi là hiện thấy đầy đủ hầm sâu của thọ tối tăm, khó đạt tới tận đáy. Hữu tình có sức mạnh xét chọn nên biết tất cả cùng với trên là trái nhau.
Lại, hữu tình đối với các thọ, tâm chưa giải thoát, chỉ ở nơi khổ thọ lãnh nhận đầy đủ, cũng như một người trúng hai mũi tên độc. Hai mũi tên độc tức dụ cho ba thọ. Hoặc tâm nhiễm lãnh nhận, nghĩa là do Tham-sân-si. Hoặc lãnh nhận tương ưng, tức do khổ như sanh v.v…
Như vậy, kẻ kia do khổ phẩm thượng hiện có của hiện pháp, cùng do các tạp nhiễm của hiện pháp, cũng do các khổ hiện có của hậu pháp, tức do các xứ ấy thọ nhận phiền não cấu nhiễm.
Nếu tâm giải thoát, nên biết tất cả là cùng với trên trái nhau.
Ở đây, có sai biệt, khi lãnh nhận đủ ba thọ. Nếu có thọ, ở trong chỗ nương dựa, sanh rồi thì hủy hoại tiêu tan, không trụ, mau chóng quy về dời chuyển, diệt mất, không trải qua nhiều thời gian, có sự tương tợ nối tiếp mà lưu chuyển, nên quán thọ này cũng như gió lốc. Nếu có các thọ có trải qua một ít thời gian, có sự tương tợ nối tiếp mà lưu chuyển, không mau chóng biến hoại, nên quán thọ này như một loại màu sắc được giữ lại chốc lát trong nhà khác.
Lại, tự tánh, chỗ dựa, phẩm nhiễm tịnh của các thọ kia đều riêng, nên biết gọi là phẩm loại của thọ có sai biệt.
Thọ có vị: là các thọ thế gian. Thọ không vị: là các thọ xuất thế gian. Thọ dựa nơi tham đắm: là các thọ nhiễm ô đối với năm dục diệu. Thọ dựa nơi xuất ly: tức là các thọ cùng hành với các địa định, bất định thiện sanh ra do tất cả sự xuất ly, xa lìa.
Lại, các khổ thọ, hết thảy chúng sanh hiện nhận biết là khổ, không nhờ thành lập. Hai thọ còn lại, do hai nhân duyên, nên biết là khổ.
Thọ không khổ không lạc, cùng có thể tùy thuận các hành của thọ ấy, do vô thường nên biết là khổ. Lạc thọ hiện có, cùng có thể tùy thuận các hành của thọ ấy, là pháp biến hoại, nên biết là khổ. Do đạo lý này, nên biết các thọ thảy đều là khổ.
Lại, các thọ kia, nên biết lược có ba thứ tịch tĩnh:
1. Do nương dựa nơi địa của định trên, nên các thọ của địa dưới đều được tịch tĩnh.
2. Do tạm thời không hiện hành mà được tịch tĩnh.
3. Do nơi vị lai hoàn toàn không chuyển mà được tịch tĩnh.
Nên biết ở đây, tạm thời không hành gọi là tịch tĩnh. Khiến cho chỗ rốt ráo kia thành pháp không hành, gọi là dừng dứt.
Người ưa thích ngôn luận, rộng sanh ngôn luận, nhiễm ô lạc dục, lần lượt phát khởi vô số luận, được gọi là ngôn ngữ. Tức ngôn ngữ này hoặc đang chứng nhập định của Tĩnh lự thứ nhất, liền tịch tĩnh. Lại, tầm tứ thô có thể phát khởi ngôn ngữ, những người chưa đạt được định, hoặc có kẻ đã đạt được rồi, trở lại từ định khởi, có thể phát sanh ngôn ngữ, không phải đang ở nơi định. Đang ở nơi định, chỉ có tầm tứ vi tế tùy chuyển, không thể phát sanh ngôn ngữ hiện có. Thế nên, phần vị này gọi là tất cả ngôn ngữ tịch tĩnh. Đó gọi là môn nghĩa thứ nhất có sai biệt.
Lại, các sư Du già đối với Tham-sân-si, thấy rõ lỗi lầm tai họa, an trụ, lãnh nhận các thọ đã lìa trói buộc như Tham-sân-si v.v… thường xuyên nhận biết khắp, thường xuyên đoạn dứt Tham-sân-si, nên nói tâm ấy đối với Tham-sân-si đã lìa nhiễm, đạt giải thoát.
Lại, do bảy hành, nên ở trong các thọ, quán bảy tướng của thọ.
Nghĩa là quán:
1. Tự tánh của các thọ.
2. Nhân duyên lưu chuyển, hoàn diệt nơi hiện tại.
3. Nhân duyên lưu chuyển nơi vị lai.
4. Nhân duyên hoàn diệt nơi vị lai.
5. Nhân duyên của tạp nhiễm. 6, Nhân duyên của thanh tịnh.
7. Thanh tịnh. Lại nữa, tụng nêu:
Thọ sanh khởi thấp kém
Tướng các thọ sai biệt
Kiến cùng là tối thắng
Biết sai biệt hỏi, ghi.
Hết thảy hữu tình nên đoạn trừ các thọ, lược do ba duyên mà được sanh khởi:
1. Duyên của dục: Nghĩa là đối với đời vị lai.
2. Duyên của tầm: Nghĩa là đối với đời quá khứ.
3. Duyên của xúc: Nghĩa là đối với đời hiện tại, nơi cảnh giới hiện tiền.
Thế nào gọi là tất cả hữu tình? Tức chúng hữu tình lược có tám loại:
1. Chúng tại gia.
2. Chúng xuất gia.
3. Chúng đối với các dục chưa lìa tham.
4. Chúng đối với các dục đã lìa tham.
5. Chúng đối với Tĩnh lự một chưa lìa tham.
6. Chúng đối với Tĩnh lự một đã lìa tham.
7. Từ đấy trở lên cho đến xứ Phi tưởng phi phi tưởng, các chúng ngoại đạo chưa được lìa tham, có thể nhập định thế gian, có đủ tà kiến cho đến trí giải thoát tà vạy.
8. Chúng trụ nơi nội pháp, có thể nhập định thế gian gồm đủ chánh kiến cho đến trí giải thoát chân chánh, cùng chúng trụ nơi nội pháp, có thể nhập định xuất thế gian.
Do tám chúng ấy, dựa nơi khả năng có thể nhận lãnh các thọ, nhận biết khắp về chúng, nên biết là đã gồm thâu khắp các chúng hữu tình.
Lại, chúng tại gia hoặc chúng xuất gia, ở trong các dục chưa lìa tham, do ba nhân duyên, nên các thọ nhiễm ô được sanh khởi:
1. Do lực của sự nhiễm vướng.
2. Do lực của tác ý.
3. Do lực của cảnh giới.
Ở đây, nên biết, các người tại gia, do truy tìm các dục, vì thọ dụng nên phát sanh dục lạc, là do lực của sự nhiễm vướng. Tức tư duy phi lý ấy, từ thời trước từng được lãnh nhận, là do lực của tác ý. Đối với cảnh hiện tiền, hiện tại đang thọ dụng, là lực của cảnh giới. Nên biết, hữu tình như thế là duyên nơi dục, tầm, xúc, do các hiện hành đều không tịch tĩnh, dùng đấy làm duyên nên phát sanh ba thọ.
Lại, do dục tầm bị nhiễm ô đầu tiên hiện hành, lãnh nhận duyên kia nên sanh khởi các thọ. Hoặc chúng sanh rồi, nhiễm chấp không bỏ, cũng không dứt trừ. Như thế là thọ kia, trong thời gian dài nối tiếp tùy chuyển không dứt, không được tịch tĩnh. Không tịch tĩnh làm duyên, trải qua thời gian dài nối tiếp nhận lãnh các thọ.
Lại, các dục kia, do chúng đầu tiên, trải qua thời gian dài nối tiếp, luôn hiện hành, nên các phiền não hiện có của phẩm kia, duyên kia, đã gắn liền với sự tương tục, mà chưa đoạn trừ vĩnh viễn, tức được gọi là duyên không tịch tĩnh. Đó gọi là môn nghĩa thứ hai, có sai biệt.
Nếu các vị xuất gia đã lìa tham, do đối với các dục có thể từ bỏ, nên việc thọ nhận dục thuộc lực của sự nhiễm vướng kia tuy được tịch tĩnh, nhưng các thọ thuộc về lực của cảnh giới, của tác ý, hoặc tầm hoặc xúc lại chưa được tịch tĩnh. Do nhân duyên ấy, chư vị ở nơi chốn riêng lẻ, nơi việc đối trị tầm tứ chưa khéo tu tập, hết thảy việc lìa dục đều chưa thực hành, đối với cảnh từng thọ nhận đã tác ý phi lý, tầm tư hiện hành. Nơi các cảnh giới thắng diệu hiện tiền có xúc hiện hành. Hoặc nơi tầm tư thấy rõ lỗi lầm, đối với việc đối trị chúng đã khéo tu tập, hết thảy sự lìa dục chưa làm xong. Dục như trước nêu đã được tịch tĩnh. Do nhân duyên này, nên tầm cùng tịch tĩnh, chỉ riêng một thứ xúc là chưa được tịch tĩnh, nên khi cảnh thắng diệu hiện tiền, các xúc nhiễm ô liền lại sanh khởi. Nếu đối với các dục đã lìa tham, nên biết tất cả đều được tịch tĩnh. Đó gọi là một thứ môn nghĩa có sai biệt.
Lại, có một loại, ở trong các dục chưa lìa tham, do đối với các dục, tham dục hiện có chưa vĩnh viễn đoạn trừ, các tầm xúc nhiễm cũng chưa đoạn dứt hoàn toàn, do đấy hết thảy đều chưa tịch tĩnh.
Nếu ở nơi các dục, tham dục đã đoạn, chứng Tĩnh lự thứ nhất, dục đã tịch tĩnh, tầm chưa tịch tĩnh, đối với Tĩnh lự thứ nhất đã lìa tham, cho đến xứ Phi tưởng phi phi tưởng chưa lìa tham, hai thứ đã tịch tĩnh, xúc chưa tịch tĩnh. Vượt quá cõi Hữu Đảnh, hết thảy đều tịch tĩnh. đó gọi là môn nghĩa thứ hai có sai biệt.
Nếu các ngoại đạo có thể nhập định thế gian, có đủ tà kiến cho đến trí giải thoát tà vạy, do chúng làm duyên sanh khởi các thọ, nên ở nơi thọ có nhiễm chấp.
Lại, do phiền não của phẩm kia tùy buộc, tức do duyên không tịch tĩnh như thế, khiến các thọ sanh khởi.
Nếu trụ nơi nội pháp, có thể nhập định thế gian, đầy đủ chánh kiến cho đến trí giải thoát chân chánh, do chúng làm duyên, sanh khởi các thọ, nên ở nơi thọ có nhiễm chấp. Lại, do phiền não của phẩm kia tùy buộc, tức do duyên không tịch tĩnh như thế, khiến các thọ sanh khởi.
Lại, trụ nơi nội pháp, có thể nhập định xuất thế gian, hoặc dựa vào đạo ngày trước để chuyển, tự sự chưa rốt ráo, các dục hiện có chưa được cho là được, chưa chứng cho là chứng, chưa xúc cho là xúc, tạo hy vọng này: Ta đối với xứ ấy, vào lúc nào sẽ đạt được, nói rộng như trước. Vị ấy chưa tịch tĩnh, do đấy làm duyên, nên bấy giờ, các thọ sanh khởi.
Nếu nơi tự sự đã được rốt ráo, dục kia tịch tĩnh. do duyên tịch tĩnh, nên có các thọ vô thượng của tịch tĩnh bậc nhất sanh khởi. Vị ấy đối với phương tiện xuất ly của tất cả các thọ hiện có, đều nhận biết rõ như thật. Do đó, như trước đã nói, ở trong các Sa-môn Đệ nhất nghĩa, được xem là Sa-môn, trong các Phạm chí được xem là Phạm chí. Nếu không nhận biết rõ, thì đối với tất cả các pháp kia đều không được chấp nhận. Nên biết ở đây, hết thảy các thọ không có sai biệt, đều do xúc làm duyên. Lại, tức đấy là duyên nơi dục, cũng là duyên nơi tầm, cũng là duyên nơi cảnh giới. Ngu si gồm thâu vô minh cũng là duyên, như thế tất cả là tư duy không đúng đắn, cùng tùy theo sự nối tiếp nơi phẩm phiền não kia đã được tích tập. Do đây diệt nên kia cũng diệt theo. Các đạo như chánh kiến v.v…, nên biết được gọi là có thể hướng tới hành diệt.
Lại nữa, các Thánh đệ tử, đối với hỷ xa lìa, thân tác chứng an trụ, có thể đoạn trừ năm pháp, có thể tu năm pháp khiến được viên mãn, nên biết như nơi địa Tamma-hý-đa ở trước đã biện biệt rộng về tướng.
Lại, phẩm kém vừa hơn của xả hỷ lạc, tức tại cõi Dục cùng bốn Tĩnh lự, như chỗ ứng hợp, nên biết về tướng.
Lại, tại địa của Tĩnh lự thứ tư, xả tất cả lỗi lầm, tức đều xa lìa, gọi là hoàn toàn thanh tịnh. Nếu kẻ trên đây, lại có thể lập là không ái vị hơn hết.
Lại nữa, do mười thứ tướng, nên biết các thọ hiện có sai biệt:
1. Sai biệt do Thắng nghĩa.
2. Sai biệt do chỗ dựa của lưu chuyển.
3. Sai biệt do tự tướng.
4. Sai biệt do toàn bộ tánh hiện có.
5. Sai biệt do phẩm loại của tự tướng.
6. Sai biệt do môn lưu chuyển.
7. Sai biệt do môn tạp nhiễm.
8. Sai biệt do chủ thể đối trị đối tượng đối trị.
9. Sai biệt do thời gian.
10. Sai biệt do sát na lần lượt sanh khởi.
Ở đây, hoặc có người không mở bày hiểu rõ, đã nói: "Thọ chỉ có hai: một là khổ, hai là lạc. Tuy lại nói có thọ không khổ không lạc, nhưng chỉ là khổ, lạc, vì không có tánh được hiển bày. Do đó, Đức Thế Tôn tức dựa nơi khổ lạc tịch tĩnh như thế, giả thiết là có!".
Đức Thế Tôn vì nhằm mở bày, làm rõ đối với trường hợp kia, nên nói: Lạc có hai thứ là dục lạc và viễn ly lạc. Lạc viễn ly này lại có ba loại:
1. Lạc kém.
2. Lạc vừa.
3. Lạc hơn.
- Lạc kém: Là tứ xứ Vô sở hữu trở xuống.
- Lạc vừa: Là hữu thứ nhất.
- Lạc hơn: Là tưởng thọ diệt.
Đã có lý ấy, nên lạc thọ cũng được nói là tịch tĩnh, nghĩa là ở trong Tĩnh lự 1, 2, 3. Thọ không khổ không lạc cũng gọi là tịch tĩnh, nghĩa là tại Tĩnh lự 4 trở lên cho đến cõi Hữu Đảnh. Tất cả thọ không cũng gọi là tịch tĩnh, nghĩa là tại định diệt. Nhưng Đức Thế Tôn, căn cứ nơi Đệ nhất nghĩa, nói có ba thứ lạc hết sức tịch tĩnh. Nghĩa là các Bí-sô, tâm đối với tham đã lìa nhiễm, giải thoát. Như đối với tham, thì đối với sân, đối với si, nên biết cũng vậy. Như thế, tất cả gồm chung làm ba lạc:
1. Lạc nên xa lìa.
2. Lạc nên tu tập, trụ hữu thượng.
3. Lạc giải thoát rốt ráo tột cùng, trụ vô thượng.-Lạc nên xa lìa: Là các dục lạc.
- Lạc nên tu tập: Là các lạc hiện có từ Tĩnh lự một cho đến Hữu Đảnh.
- Lạc trụ hữu thượng: Là định Diệt tận. Đây cũng gọi là lạc nên tu tập.
- Lạc giải thoát rốt ráo, tột cùng, trụ vô thượng: Nghĩa là ba lạc tối thắng như trước đã nói, không phải căn cứ nơi thọ lạc để nói. Định diệt tận cũng cho là có lạc, nhưng đoạn trừ thọ lạc được gọi là lạc. Lại, lạc thắng trụ cùng với lạc tương tợ. Lại, tức dựa nơi có lạc có thể đạt được ấy, gọi là lạc. Nghĩa là như có một hành giả từ nơi định này khởi có chỗ lãnh nhận, nói: "Ta đã trụ nhiều như vậy như vậy nơi sắc loại, là lạc trụ tịch tĩnh tối thắng!". Do dựa vào đấy nên nói là có lạc.
Lại nữa, nếu có Bí-sô, nương dựa nơi kiến văn của sắc loại như thế cùng lạc tưởng là có, tùy thuận liên tục đạt được các lậu vĩnh viễn dứt hết, nên biết kiến ấy gọi là kiến tối thắng, cho đến "có ấy" cũng gọi là có tối thắng.
Từ kiến vô ngã, lại không tìm cầu kiến thù thắng khác, nghĩa là kiến vô thường. Tức ở đây, tùy thuận không gián đoạn, đạt được lậu tận, thế nên kiến này gọi là kiến tối thắng.
Nương dựa nơi kiến ấy, lại do bốn môn, mới có thể tùy thuận đạt được các lậu vĩnh viễn dứt hết:
1. Hoặc từ nơi kẻ khác, lắng nghe Chánh pháp.
2. Hoặc dựa nơi bốn hiện pháp lạc trụ.
3. Hoặc dựa nơi ba thứ định tưởng, nghĩa là từ xứ Không vô biên cho đến xứ Vô sở hữu.
4. Hoặc nơi cõi Trời, hoặc tại cõi Người.
Thế nên, văn (nghe) này, lạc này, tưởng này, hữu này đối với văn khác, lạc khác, tưởng khác, hữu khác, gọi là tối thắng.
Lại nữa, do nhận biết rõ khắp nên nhận biết khắp về sự. Đối với Khổ đế được giải thoát khắp. Đối với Tập đế được giải thoát thù thắng. Đối với Diệt đế có thể tác chứng đúng đắn. Đối với Đạo đế có thể tu tập chân chánh.
Đúng nơi Khổ biên có thể tùy đắc: Nghĩa là đối với Khổ đế, đạt được giải thoát khắp.
Nơi các lậu dứt hết, có thể tùy đắc: Nghĩa là đối với Tập đế, đạt được giải thoát thù thắng.
Nên chán nên lìa nên giải thoát: Nghĩa là đối với Diệt đế có thể tác chứng đúng đắn.
Đối với vô thường v.v… tùy thuận quán trụ: Nghĩa là đối với Đạo đế, có thể tu tập chân chánh.
Lại do mười tướng, phải nên nhận biết rõ về cảnh sự có sai biệt:
1. Các hành đã sanh hệ thuộc mạng căn, trụ nơi nhân có sai biệt.
2. Các hành có sắc không sắc lần lượt cùng nương, trụ lập, lưu chuyển có sai biệt.
3. Các hành vô sắc, tánh là pháp vô thường nhập môn có sai biệt.
4. Tâm nơi các xứ nương dựa tạp nhiễm có sai biệt.
5. Tất cả các hành với tất cả phẩm loại gồm chung đều là khổ có sai biệt.
6. Quả của nghiệp tịnh bất tịnh nơi môn thọ dụng có sai biệt.
7. Biên vực hiện có của thứ hữu hỷ lạc có sai biệt.
8. Xứ nương dựa của ái, sân có sai biệt. biên vực của hữu tình chấp giữ hỷ lạc, xứ sanh an trụ có sai biệt.
9. Biên vực của xứ nương dựa rơi vào nẻo ác có sai biệt.
Lại, sự tăng thượng nên tu tập, nên chứng đắc của phẩm thanh tịnh nên biết có mười thứ sai biệt khác:
1. Tu tập pháp thiện tăng thượng, không gián đoạn, không phóng dật có sai biệt.
2. Chỗ nương dựa của tâm, huệ giải thoát có sai biệt.
3. Biên vực của Tam-ma-địa thù thắng có sai biệt.
4. Biên vực của tâm đối với tất cả cảnh bị trói buộc có sai biệt.
5. Phương tiện giải thoát có sai biệt.
6. Giải thoát có sai biệt.
7. Chân nghĩa của Đẳng giác có sai biệt.
8. Sau hiện Đẳng giác, ở trong ba học, thọ học có sai biệt.
9. Hiện pháp lạc trụ của đang học, đã học có sai biệt.
10. Chứng đắc thần thông Thánh, hành hóa rộng có sai biệt.
Lại nữa, tức dựa vào những sai biệt đã nói như trên, nên sanh luận hỏi đáp:
- Người nêu lên: Tức do chưa thấu rõ về nghĩa lý.
- Người ký biệt: Tức do đã thấu rõ về nghĩa lý.
Nên biết ở đây, do bốn nhân duyên, có thể thỉnh vấn, không nên đáp lại. Do bốn nhân duyên, có thể ký biệt, không nên bày tỏ.
Bốn nhân duyên trước:
1. Đối với hiện lượng.
2. Đối với hợp lý.
3. Đối với nhân.
4. Đối với không phải nhân.
Nghĩa là lúc cùng thị hiện nhưng không nhận hiểu. Lúc so sánh phân biệt, chính thức thiết lập mà không nhận hiểu. Ông tự tu hành, tự nhiên sẽ hiểu rõ, nhưng không nhận hiểu. Chánh trí luận thân hành diễn nói, do chí giáo này, cũng không nhận hiểu. Thế nên ở đây, có thể thỉnh vấn, không nên đáp lại.
Bốn nhân duyên sau:
1. Tất cả hành đều là vô thường.
2. Tất cả các pháp đều không có ngã.
3. Tất cả xứ sanh đều không đáng vui thích.
4. Nghiệp tịnh, bất tịnh trọn không hoại mất.
Là hoàn toàn ký. Cố ý tạo nghiệp sẽ thọ nơi khổ. Đây không phải là hoàn toàn.
Đạt được nơi xả, ở trong hiện pháp, quyết định Bát Niết-bàn, cũng không phải hoàn toàn. Nếu có kẻ hỏi: Tạo tác nghiệp rồi, đi đến nẻo thiện chăng? Nên hỏi trở lại: Ông hỏi về nghiệp nào?
Nếu có kẻ hỏi: Tu tập đạo rồi, đạt được Niết-bàn chăng? Nên hỏi trở lại: Ông hỏi về đạo nào? Là đạo thế gian, là đạo xuất thế gian?
Luận trí ký: Nghĩa là dựa nơi tất cả "kiến thú" hiện có. Bốn thứ như thế, chính thức đáp câu hỏi: Gọi là khéo có thể ký biệt, nên có thể đáp lại. Cùng với đấy trái nhau, là không nên đáp lại.
Lại nữa, chư Phật Như Lai có hai thứ ký biệt:
1. Chung với ngoại đạo.
2. Không chung.
Chung với ngoại đạo: Là ký biệt về xứ sẽ sanh v.v… của các đệ tử.
- Nói không chung: Là trọn không ký biệt. Như có sanh: Là cùng có hai lửa thức sáng rõ làm chỗ dựa:
1. Ái vi tế.
2. Danh sắc thô.
Ái của hai cõi Dục, Sắc sanh khởi thức, danh sắc làm chỗ dựa.
Ái nếu dừng dứt, cho đến thọ lượng, thức kia nối tiếp, tùy chuyển mà trụ. Nếu ái của cõi Vô sắc sanh khởi thức, thì chỉ duyên nơi danh mà được trụ lập. Ái nếu đoạn dứt, cho đến thọ lượng, thức kia nối tiếp, tùy chuyển mà trụ.
Lại, nơi cõi Sắc, ái này làm chỗ dựa sanh thức của trung hữu, tức ái làm chỗ dựa, khiến đối với trung hữu Bát Niết-bàn, tạm an trụ như thế. Ái này nếu đoạn, tức bấy giờ thức kia cũng tàn diệt.
Lại, có hai thứ thân do ý sanh:
1. Thân được sanh do ý của cõi Sắc.
2. Thân được sanh do ý của cõi Vô sắc.
Nghĩa là, do môn phương tiện của ý địa định mà có thể hợp thành do hai sanh thân.
Lại, chư Như Lai lược có hai thứ khéo xa lánh luận của kẻ khác:
1. Có thể xa lánh, nhất định không nên ký biệt, tạo luận bất định.
2. Có thể xa lánh, quyết định nên ký biệt, tạo luận bất định.
Như nói hỷ lạc về nghĩa riêng như sắc v.v… thì hỷ lạc về nghĩa riêng như thủ v.v…, nên biết cũng thế.
Như thế là đã nói về sự lựa chọn, gồm thâu của Duyên khởi, Thực, Đế, Giới. Sự lựa chọn, gồm thâu của pháp Bồ đề phần, nay sẽ nói.
Tụng chung nêu:
Niệm trụ cùng chánh đoạn
Thần túc và căn lực
Giác đạo chi tức niệm
Học chứng tịnh là sau.
Tụng riêng nêu:
Sa-môn, nghĩa Sa-môn
Hỷ lạc tất cả pháp
Phạm hạnh sổ thủ thú
Vượt hai nhiễm là sau.
Dựa nơi bốn niệm trụ tu tập tăng thượng, do bốn nhân duyên nên biết nội pháp có đạo Sa-môn cùng có cứu cánh. Ngoại pháp quyết định không có đạo Sa-môn, cũng không có cứu cánh. Nên biết, các đạo Sa-môn của luận khác, cùng với cứu cánh, tất cả đều không.
Thế nào gọi là bốn thứ nhân duyên? Đó là:
1. Nương dựa nơi bốn xứ, đạt được bốn chứng trí.
2. Giải thoát bốn thứ tùy phiền não ngoài.
3. Đệ tử của nội pháp cùng với đệ tử của ngoại đạo, phẩm loại không đồng.
4. Đại sư của nội pháp cùng với sư của ngoại đạo, phẩm loại không đồng.
Thế nào gọi là Sa-môn của nội pháp? Nghĩa là các Sa-môn lược có bốn loại:
1. Sa-môn thắng đạo.
2. Sa-môn luận đạo.
3. Sa-môn mạng đạo.
4. Sa-môn ô đạo.
Bốn loại Sa-môn này, hoặc lược hoặc rộng, như nơi địa Thanh văn đã biện giải về tướng.
Đạo của nội pháp: Thế nào là đạo? Nghĩa là tám chi Thánh đạo, hoặc nơi chốn thiết lập tám chi Thánh đạo. Xứ ấy thiết lập ô đạo, vì sau bốn thứ Sa-môn, nếu có đạo tự hành theo hành tà, không phải sanh vật dụng của đạo. Do nhân duyên ấy, nên thừa nhận có ô đạo. Như thế, ngoại pháp hãy còn không có ô đạo, huống hồ là đạt được hữu dư.
Cứu cánh của nội pháp: Thế nào là cứu cánh? Nghĩa là đoạn dứt các thủ. Các thủ được đoạn dứt rồi, thì đối với vị lai hoàn toàn không còn nối tiếp.
Thế nào gọi là nương dựa nơi bốn xứ?
Thế nào lại gọi là đạt được bốn chứng trí? Bốn xứ là:
1. Xứ không còn sanh trở lại của ba kiết đã vĩnh viễn đoạn trừ.
2. Xứ uy lực của pháp không thối chuyển.
3. Xứ của chủng loại quyết định hướng tới Bồ đề.
4. Xứ tùy hành của tối đa bảy lần trở lại nẻo sanh tử. Dựa nơi bốn xứ ấy, đối với Phật Pháp Tăng cùng đối với tịnh giới, đạt được trí chứng tịnh.
Thế nào gọi là giải thoát bốn thứ tùy phiền não ngoài? Đó là:
1. Giải thoát tùy phiền não ngoài của hiện pháp.
2. Giải thoát tùy phiền não ngoài của hậu pháp.
3. Giải thoát tùy phiền não ngoài được tạo ra do lần lượt hỗ tương chống trái.
4. Giải thoát tùy phiền não ngoài được tạo ra do đối với các Thánh đế không thể tuyên thuyết, không thể giác ngộ.
Nên biết ở đây, các loại ngoại đạo thiếu niệm trụ, niệm bị quên mất, không trụ nơi chánh tri, lãnh nhận các thọ hoặc lạc, hoặc khổ, hoặc không khổ không lạc. Đối với lạc khởi nhiễm, đối với khổ khởi sân, đối với không khổ không lạc phát khởi ngu si. Như vậy gọi là tùy phiền não ngoài của hiện pháp thứ nhất.
Kẻ kia do nhiễm, sân, si như thế, do thọ làm duyên, sanh ra ái của hữu sau. Do ái làm duyên, phát sanh các thủ. Có ái, thủ nên dùng thủ làm duyên, hình thành nơi hữu, nói rộng cho đến khối thuần là khổ lớn được tích tập, tăng trưởng. Như thế gọi là tùy phiền não ngoài của hậu pháp thứ hai.
Lại, nơi các ngoại đạo, Tát-ca-da-kiến dùng làm căn bản nơi vô số "kiến thú", ý đều riêng biệt, đây kia lần lượt hỗ tương chống trái. Đó gọi là tùy phiền não ngoài thứ ba.
Lại, các ngoại đạo, ở trong khắp tất cả bốn Thánh đế, hãy còn không có thể thiết lập được giáo pháp, huống là sẽ giác ngộ. Thế nên, trí họ tự quy về tông chỉ, tuy được tăng thượng, nhưng thật sự không biết là đã rơi vào nẻo vô minh. Đó gọi là tùy phiền não ngoài thứ tư.
Trụ nơi nội pháp, đối với tất cả đều có thể giải thoát. Thế nào gọi là đệ tử của nội pháp cùng với đệ tử của ngoại đạo, phẩm loại không đồng? Nghĩa là đệ tử của ngoại đạo, hoặc rơi vào biên thường của hữu kiến, hoặc rơi vào biên đoạn của vô kiến, trong đêm dài sanh tử đã tích tập, khởi sự che giấu sâu xa, do Văn thân cận, do Tư nhiễm chấp, do Tu nhiễm vướng.
Đệ tử của nội pháp hành xử nẻo trung, xa lìa hai biên. Thế nào gọi là Đại sư của nội pháp cùng với sư của ngoại đạo, phẩm loại không đồng? Nghĩa là sư của ngoại đạo, đối với tất cả thủ, tuy đồng tuyên thuyết luận biến tri để đoạn trừ, nhưng đối với chúng không thể thiết lập việc nhận biết khắp để đoạn trừ đúng đắn. Do những sư ấy vốn khế hợp với nẻo xuất gia xả bỏ dục, nên đối với dục thủ đã lập nhận biết khắp để đoạn trừ, không phải đối với tự kiến, tự giới, ngã ngữ. Nếu có lúc cùng với kẻ khác, là các Sa-môn, Bà-la-môn khác, kiến không đồng phần, giới cấm đồng phần, họ lại đối với kiến thủ cũng có thể tùy phần, lập nhận biết khắp để đoạn trừ, không phải đối với hai thủ là giới cấm, ngã ngữ. Nếu có giới cấm cũng không đồng phần, thì đối với giới cấm thủ họ cũng có thể tùy phần lập nhận biết khắp để đoạn. Còn ngã ngữ thì nơi tất cả thời, tất cả ngoại đạo thảy đều cùng có. Do đó, ngoại đạo, nơi tự nơi tha, trong ngã ngữ thủ đều không thiết lập luận biến tri để đoạn.
Lại, ngoại đạo tuy có thể phân bỏ các thủ, nhưng nơi vị lai trở lại là chủ thể thủ, vì chưa đoạn trừ vĩnh viễn. Như thế, ngoại đạo ở trong các thủ chưa đoạn trừ hoàn toàn, chưa đoạn dứt vĩnh viễn nên không thể đạt cứu cánh.
Đại sư của nội pháp, nên biết tất cả cùng với trên trái nhau. Như vậy, nên biết Đại sư của nội pháp cùng với sư của ngoại đạo, phẩm loại không đồng.
Lại nữa, dựa nơi bốn niệm trụ, tu tập tăng thượng, lược do ba xứ, ba địa, ba thứ hữu tình, nên biết đã gồm thâu khắp nghĩa của các Sa-môn.
Thế nào là ba xứ? Đó là:
1. Cảnh.
2. Trí.
3. Chứng.
Những gì là ba địa? Đó là:
1. Địa đang gia hạnh gồm thâu các phàm phu.
2. Địa hữu học.
3. Địa vô học. Ba thứ hữu tình là:
1. Hữu tình là hàng phàm phu đang gia hạnh.
2. Hữu tình là hàng hữu học.
3. Hữu tình là hàng vô học.
Thế nào gọi là cảnh? Nghĩa là sáu Giới như địa v.v… cùng với sáu xúc xứ làm chỗ dựa cho Thể. Sáu xúc xứ này cùng mười tám ý hành làm chỗ dựa cho Thể. Mười tám ý hành có thể tạp nhiễm tâm.
Thế nào gọi là trí? Nghĩa là xứ nương dựa của huệ tăng thượng, tâm thanh tịnh.
Thế nào gọi là chứng? Tức là xứ nương dựa của huệ tăng thượng. Hoặc xứ nương dựa của đế. Hoặc xứ nương dựa của xả. Hoặc xứ nương dựa của tịch tĩnh.
Thế nào là xứ nương dựa của huệ? Tức huệ là nơi chốn nương dựa, ở trong địa phàm phu đang gia hạnh tu tập pháp thiện đúng đắn làm nhân duyên, nên có thể không phóng dật, nhập địa hữu học.
Hoặc huệ là nơi chốn nương dựa, chứng A-la-hán, trong địa vô học đạt được tận trí, nhận biết rõ như thật: Sự sanh của ta đã hết v.v… Hoặc các huệ thế gian sau trí xuất thế gian của hàng hữu học, vô học.
Thế nào là xứ nương dựa của đế? Nghĩa là đã đạt được tám chi Thánh đạo, đoạn trừ các phiền não. Do xứ nương dựa ấy, nên các khổ của vị lai rốt ráo chẳng sanh. Do đấy hoàn toàn không quên mất, gọi là xứ nương dựa của đế.
Thế nào là xứ nương dựa của xả? Nghĩa là đoạn trừ sự việc kia. Do nơi chốn nương dựa ấy nên đối với sự việc đã đoạn, hành không tạp nhiễm nơi hiện pháp lạc trụ.
Thế nào là xứ nương dựa của tịch tĩnh? Nghĩa là vì đoạn dứt các sự việc của kiết còn lại, nên tạo phương tiện siêng năng tu tập. Như đã đạt được đạo, thì đây là xứ nương dựa, đối với các kiết còn lại, cùng các sự việc còn lại, có thể xả bỏ trọn vẹn. Hết thảy như thế, nói tóm tắt, vì nhằm được chứng đắc, nên tu tập trí. Đã được chứng rồi nên đạt được Thánh đạo và quả của Thánh đạo. Quả có hai loại: Là phiền não đoạn trừ cùng với sự được dứt bỏ. Ở đây, một loại chứng chỗ chưa chứng. Xứ dựa thứ hai là xả bỏ khổ của vị lai. Xứ dựa thứ ba là có thể tùy thuận quen gần với hiện pháp lạc trụ. Xứ dựa thứ ta là đoạn trừ chưa viên mãn, có thể khiến viên mãn. Ngang với từng ấy xứ, các sư Du già, đối với nơi chốn nên tạo tác đều được cứu cánh. Nghĩa là đối với pháp chưa chứng, do xứ dựa thứ nhất có thể chứng. Đối với khổ của vị lai, xứ dựa thứ hai có thể xả bỏ. Đối với lạc của hiện pháp, xứ dựa thứ ba có thể trụ. Đối với sự đoạn dứt trên chưa được viên mãn, xứ dựa thứ tư có thể viên mãn.
Tất cả như thế, do bốn xứ nương dựa, phải nên nhận biết rõ. Ở đây, chỗ đạt được Thánh đạo trước, gọi là đạo tịch tĩnh. Vì đoạn trừ sự phiền não của phần vị trên, nên lúc đang tu tập nơi sự việc được đoạn dứt, càng hướng tới tăng ích. Đối với phiền não được đoạn, ngăn giữ chưa được đã thối chuyển.
Trong ấy, thế nào là do trí quan sát cảnh giới của đối tượng nhận thức chứng pháp nên chứng? Nghĩa là, trong địa phàm phu đang gia hạnh, hữu tình là phàm phu hành đúng đắn, do trong ngoài riêng, quan sát năm Giới, đối với thân hiện có, trụ nơi quán tuần thân. Nghĩa là tâm giải thoát cùng huệ giải thoát là tăng thượng, nên họ khởi gia hạnh như lý như vậy, ở trong các Giới, trụ chỉ là Giới tưởng quán, chỉ có Giới, hoàn toàn không có ngã. Dựa nơi lực xét chọn, đối với Giới của các sắc đã xa lìa tham, nhưng nơi đối tượng duyên cũng chưa có thể đoạn. Nơi đời vị lai không mong cầu, nên đối với đời hiện tại không tham đắm, gọi là đã lìa tham. Chưa có thể loại bỏ vĩnh viễn tùy miên kia, nên gọi là đối với đối tượng duyên cũng chưa có thể đoạn dứt. Hành giả này, đối với tham đã xa lìa, do tâm giải thoát là lực tăng thượng để xa lìa tham, nên tâm được thanh tịnh, nhưng nơi đối tượng duyên chưa có thể đoạn trừ. Phần vị trên còn lại nên dốc tu trị. Từ đấy trở về sau, đối với cảnh giới thuộc về sáu xúc xứ, quan sát thuận hợp, ở trong các thọ, trụ nơi Tuần thọ quán. Hành giả, như trước đã nói, dựa vào lực xét chọn, nơi cảnh giới của các thọ cũng xa lìa tham. Quán đầy đủ về tánh vô thường của duyên sanh, tức như trước đã nêu, nhưng nơi đối tượng duyên cũng chưa có thể đoạn trừ. Hành giả đối với vô minh đã xa lìa, do huệ giải thoát làm lực tăng thượng, dựa vào các minh xúc sanh khởi tác ý như lý, tương ưng với thọ thiện hiện có, đối với các thọ đã sanh tạp nhiễm đều chán bỏ mà trụ. Vì đã xa lìa tham được khởi từ chỗ duyên của thọ do vô minh xúc sanh ra, nên gọi là được thanh tịnh, nhưng đối với tùy miên chưa vĩnh viễn đoạn trừ, nên các phần vị trên còn lại cần phải tu trị. Từ đấy trở về sau, nơi mười tám ý hành đều quán xét không điên đảo, kết hợp nơi tâm pháp đồng thời an trụ, tuần quán tâm pháp. Hành giả khởi tư duy: Mười tám ý hành này là bậc nhất, hơn hết! Tức là các giải thoát tịch tĩnh hiện có, vượt quá các sắc, ở nơi vô sắc, đối với chỗ có thể tùy thuận xả bỏ, đều khởi các ý hành.
Lại khởi tư duy: Nếu ta dựa vào ý hành thắng diệu ấy, nơi xả thanh tịnh, hoặc định hoặc sanh tham vướng, trói buộc nhớ nghĩ, nhân đấy tâm ta liền thành tạp nhiễm. Nhận biết như thế rồi, xả bỏ, không nhớ nghĩ. Đó gọi là nơi tâm trụ, tuần quán tâm.
Lại, đối với các xứ, quán tánh vô thường. Đó gọi là nơi pháp trụ, tuần quán pháp. Hành giả, bấy giờ, nơi ba tưởng định cùng với xứ Phi tưởng phi phi tưởng, với các hành hiện có nơi hữu thứ nhất còn lại, đã lìa tham, nên gọi là nơi Giới tưởng và Giới hành, tham cũng được xa lìa. Phần khác như trước đã nói. Như vậy, hành giả ở trong địa đang gia hạnh gồm thâu phàm phu, tịnh tu tâm rồi, vì nhằm chứng hợp tâm học giải thoát. Lại, đối với tất cả thân thọ tâm pháp, quán chỉ có pháp, hoàn toàn không có ngã, nơi hết thảy hữu, thâm tâm đều chán bỏ, không khởi gia hạnh. Nghĩa là ngã sẽ có, hoặc ngã sẽ không, đều nhận biết rõ đúng như thật, ở đây không có pháp có pháp không. Hành giả do nhận biết đúng như thật như thế, nên lần lượt đối với ba lậu do kiến đạo, tu đạo đoạn trừ, tâm được giải thoát, chứng đắc tận trí, quán xét tất cả các thọ của vị lai không còn lưu chuyển nữa. Các thọ ấy không lưu chuyển, do tận diệt. Hành giả bấy giờ, dựa vào tận trí đã đạt được do các lậu đã dứt hết, là bậc nhất, là tối thắng. Chỗ dựa của các huệ thuộc phàm phu hữu học cũng còn có cấu uế, nay chỗ đạt được ấy nhất định là không cấu uế. Lại, tức huệ này, ở trong Diệt đế, các phiền não đã đoạn. Do hành tịch tĩnh duyên dựa mà trụ, tạm thời mất niệm cũng không thể động. Như vậy, tâm huệ giải thoát hiện có, không bị quên niệm xâm lấn, xen tạp như hàng phàm phu cùng bậc hữu học trước đây. Do hành giả hãy còn có pháp quên mất, nên đế không viên mãn. Nơi bậc vô học, nơi tất cả thời, tánh đều như thật, nên đế viên mãn, do đó, chỗ dựa của đế thành tựu bậc nhất. Do có thể từ bỏ hết thảy sự việc nương dựa, nên chỗ dựa của xả thành tựu bậc nhất. Hết thảy quả của đạo được hợp thành, nên gọi là khéo tu đạo, không phải như hàng phàm phu cùng các vị hữu học, nên xứ dựa của tịch tĩnh thành tựu bậc nhất.
- Hỏi: Do nhân duyên nào, chỉ tại bậc vô học, bốn thứ xứ nương dựa được gọi là bậc nhất? Không phải ở nơi phần vị của phàm phu cùng hữu học?
- Đáp: Ở trong phần vị ấy, các lậu ngấm thấm vi tế cũng không thể nhận biết, huống chi là có phẩm trung, thượng. Tại địa phàm phu, lậu ngấm thấm hiện bày càng nhiều. Trong phần vị hữu học ít có thể nhận biết là có.
Ở đây, những gì gọi là lậu ngấm thấm? Nên biết như trước đã nói, các cử động v.v…, gọi là lậu ngấm thấm. Nơi phần vị kia, tất cả đều đã đoạn trừ vĩnh viễn, nên hướng đến tánh Mâu ni đại viên mãn. Vì thế gọi Mâu ni là tịch tĩnh tối thắng.
Lại, đã loại bỏ hoàn toàn nhân của vị lai, nên đối với khổ của sanh lão tử nơi đầu giữa sau, đều dừng dứt toàn bộ. Lúc hành hiện pháp, đối với các pháp thế gian, bốn thứ tham ái đã vĩnh viễn dứt bặt. Bốn thứ sân hận vĩnh viễn vắng lặng. Lại, lúc an trụ, không vui thích ồn tạp, vì đã đạt được tịch tĩnh hoàn toàn.
Lại nữa, dựa nơi việc tu tập pháp Bồ đề phần hiện có, viên mãn tăng thượng, do bảy nhân duyên, nên biết là đã kiến lập bảy thứ Chánh pháp. Những gì là bảy? Đó là:
1. Đối tượng duyên của tác ý do Văn tạo thành.
2. Đối tượng duyên của tác ý do Tư, Tu tạo thành.
3. Tức ba thứ tác ý ấy, khi gia hạnh có sai biệt.
4. Đối với việc thọ dụng của cải, thọ dụng khắp của cải đều khéo thông tỏ.
5. Thọ dụng của cải, giáo pháp, nơi mọi thời gian, từ kẻ khác đạt được.
6. Lúc đạt cứu cánh, bên trong lìa thượng mạn, không hoại mất.
7. Cũng ở nơi chốn khác, lìa tăng thượng mạn, không hoại mất.
Ở đây, lúc dựa nơi các tướng chỉ, cử, xả, tu tập nhận biết, như nơi địa Thanh văn cùng địa Tam-ma-hí-đa đã biện biệt về tướng. Về nghĩa ăn uống, như nơi địa Thanh văn, nên biết có sai biệt.
Lại, ở trong ấy, kẻ thọ dụng của cải: Là đối với các chúng Sát đế lợi, Bà-la-môn, Trưởng giả v.v… Người thọ dụng pháp: Là chúng Sa-môn. Ta nên hành như thế: Nghĩa là khéo phòng hộ nơi thân, khéo giữ gìn các căn, khéo trụ nơi chánh niệm. Người nên trụ như thế: Nghĩa là, đi đến nơi đầu cửa, nếu không đồng ý thì không nên vào. Hoặc được vào rồi, nếu không đồng ý thì không nên tự mình đi tới tòa ngồi mà ngồi. Nên ngồi như thế: Nghĩa là không nên buông thả hết thảy phần thân, cho đến nói rộng. Nên nói như thế: Nghĩa là có năm thứ nói năng:
1. Nói năng hợp thời.
2. Nói năng hợp lý.
3. Nói năng đúng lượng.
4. Nói năng tịch tĩnh.
5. Nói năng chánh trực.
Nên im lặng như thế: Nghĩa là nơi năm lúc, phải nên yên lặng:
1. Hoặc là lúc rối loạn.
2. Hoặc là lúc bị phỉ báng.
3. Hoặc lúc tranh chống nhau mà trụ.
4. Hoặc khi mời thỉnh.
5. Hoặc lúc đàm luận.
Thế nào là nói năng hợp thời? Nghĩa là không rối loạn, hoặc vội vã tầm tư. Hoặc không vui thích nghe. Hoặc không an trụ nơi oai nghi đúng lúc, mà có ngôn thuyết.
Lại, nên trước hết là theo thứ tự cho thời gian đầu nơi công việc, sau đấy tán thán, khích lệ rồi mới chính thức khởi ngôn thuyết.
Lại, nên chờ cho kẻ khác bàn luận xong xuôi, mới khởi ngôn thuyết. Hết thảy các loại như thế, nên biết gọi là nói năng hợp thời.
Thế nào là nói năng hợp lý? Nghĩa là nương nơi bốn đạo lý, có thể dẫn đến nghĩa lợi, hợp với sự thật mà nói, gọi là nói năng hợp lý.
Thế nào là nói năng đúng lượng? Nghĩa là văn cú trọn đủ, nói ngang với từng ấy là thích hợp, chỉ nên nói bấy nhiêu không thêm không bớt, không nói những câu lời tạp loạn, vô nghĩa. Các loại như vậy gọi là nói năng đúng lượng.
Thế nào là nói năng tịch tĩnh? Nghĩa là lời nói không cao xa, cũng không ồn, động. Thân không vung vẩy, miệng không gào thét mà có lời nói, gọi là nói năng tịch tĩnh.
Thế nào là nói năng chánh trực? Nghĩa là lời nói không dối trá, không nhân nơi bịa đặt mà có ngôn thuyết, lìa mọi dua nịnh, quanh co, bày lời luôn thuần hậu, chân thật. Như thế nên biết gọi là nói năng chánh trực.
Đối với bản thân không có các pháp thiện như tín v.v… thì không khởi thượng mạn cho là tự có. Đối với chỗ hẹp nhỏ cũng không tăng thêm để thành rộng lớn. Chỉ ở nơi thật có, cho đến nếu có, nhận biết rõ đúng như thật, tự xưng nói có, gọi là tự nhận biết.
Lại, tín là điều trước tiên để thọ trì tịnh giới. Trì giới là điều trước tiên để cầu pháp đa văn. Do đấy làm yếu tố trước tiên để xả bỏ các thứ lỗi lầm. Đối khắp tất cả của cải, thân mạng không chút luyến tiếc. Do đấy làm yếu tố trước tên nên tâm được định tĩnh, chứng trí như thật. Năm pháp như thế, do bốn nhân duyên nên được hiển phát:
1. Do kẻ khác giáo hóa.
2. Do sức tăng thượng của giáo pháp, tự nội chứng.
3. Tầm tư cùng sanh biện tài thù thắng.
4. Do trước thường xuyên hành tập, đạt được công đức cùng sanh tương ưng nơi các thiện nam.
Lược có hai loại hữu tình, cùng nêu rõ hai loại. Hai loại như thế, phân biệt cả hai đều là thù thắng, nên biết xét chọn hai thứ có sai biệt. Tu bảy pháp thiện được hai thắng lợi: Nghĩa là trong hiện pháp được an lạc của khinh an, biết rõ tánh thật của cảnh, phát sanh hỷ thù thắng. Do nhân duyên ấy nên trụ nhiều nơi hỷ lạc. An trụ ở đấy rồi, có thể tư duy như lý, mau chóng chứng đắc các lậu vĩnh viễn dứt hết.
Lại nữa, dựa nơi việc tu tập pháp Bồ đề phần tăng thượng, ở trong Pháp-Luật khéo thuyết giảng, lược do các học cùng quả của các học gồm thâu tất cả pháp.
Thế nào là các học? Nghĩa là ba thứ học:
1. Giới tăng thượng.
2. Tâm tăng thượng.
3. Huệ tăng thượng.
Thế nào là quả của học? Nghĩa là hai Giới Niết-bàn Hữu dư y và Vô dư y. Nên biết ở đây, tất cả pháp là pháp thiện dục. Xuất gia thanh tịnh nhằm chứng Niết-bàn nên trước thọ trì Giới. Do đây, lần lượt cho đến đạt được Niết-bàn cứu cánh. Thế nên, nêu rõ tất cả các pháp, dục là căn bản.
Lại, dựa nơi tịnh giới dẫn cầu Chánh pháp, thâu nhận đa văn. Do sức tăng thượng của việc nghe Chánh pháp, nên có thể mau chóng hợp chúng Tăng ngữ xúc, Minh xúc. Thế nên nói pháp kia là Tập xúc.
Lại, pháp kia đều là nẻo dẫn đến Minh xúc sanh khởi các thọ, cho đến Giới bát Niết-bàn Hữu dư y, là hậu tế, vì cầu an lạc mà phát khởi. Lạc này hoàn toàn là không tánh tội, thế nên nói pháp thuộc về học kia, là nẻo đưa đến của thọ.
Lại, pháp kia vì cầu Minh xúc hiện có, cũng dựa nơi Minh xúc sanh khởi các thọ, dấy tác ý do Văn-Tư-Tu tạo thành, do đó nói pháp ấy đã sanh tác ý.
Lại, bấy giờ, đối với bốn niệm trụ, do niệm phẩm quán, dùng quán làm chỗ dựa, cùng với chỉ của nội tâm làm tăng thượng, thế nên nói pháp kia là tăng thượng của niệm.
Lại, niệm tăng thượng khởi Xa-ma-tha, cùng với diệu trí nơi hiện quán về Thánh đế sau là đứng đầu, chuyển biến, thế nên nói pháp kia đối với định là đứng đầu.
Lại, ở trong các hiện quán về Thánh đế, huệ là tối thắng, nghĩa là có thể vĩnh viễn rốt ráo dứt hết các lậu. Do đó nói huệ của pháp kia là tối thắng.
Lại, do tất cả lậu đã hoàn toàn dứt hết, nên đạt được Minh xúc cứu cánh, sanh các thọ cùng hành với giải thoát. Tức giải thoát này không phải do tất cả pháp thuộc về học thường xuyên tùy được, mà chỉ do chứng đắc tức thì. Vì giải thoát này, trong tất cả lạc là bậc nhất, hơn hết, không có tánh tội, thế nên nói pháp kia tức dùng giải thoát để tạo sự kiên cố.
Lại, pháp kia đối với tâm khéo giải thoát như thế, hoặc đối với các Minh xúc đã sanh các thọ, hoặc nơi các pháp hiện có thuộc về học, cùng chỗ dựa là thân, đối với Giới Bát Niết-bàn Vô dư y, tự nhiên vận hành đạt tịch diệt cứu cánh, thế nên nói pháp kia đều cho Niết-bàn là hậu tế.
Nên biết ở đây, dục là tăng thượng để thọ trì tịnh giới, gọi là Giới học tăng thượng. Nương dựa nơi huệ của tâm tăng thượng thuộc xúc, thọ, nhận giữ phương tiện nơi tác ý hiện có, hoặc niệm hoặc định cùng với gia hạnh, gọi là Tâm học tăng thượng. Huệ là tối thắng, gọi là Huệ học tăng thượng. Như vậy nên biết gọi là ba học. Pháp kia nương giữ nơi giải thoát kiên cố, nên Giới Bát Niết-bàn Hữu dư y là học quả thứ nhất. Niết-bàn nơi hậu tế, tức Giới Bát Niết-bàn Vô dư y là học quả thứ hai. Như vậy là lược nói về học và quả của học gồm thâu tất cả pháp.
Lại, các học này cùng quả của chúng có thể chứng đắc tư lương, nên biết là có thể đối trị tám thứ lỗi lầm tai họa, tu tập chín tưởng.
Những gì gọi là tám thứ lỗi lầm tai họa? Đó là:
1. Tham chấp lợi dưỡng, sự cung kính.
2. Yêu mến, cất chứa tất cả các hành của hữu sau.
3. Tu tập tưởng vô thường-khổ.
4. Tu tập tưởng khổ-vô ngã.
5. Tu tập tưởng chán nghịch về ăn uống.
6. Tu tập tưởng tất cả thế gian không thể an lạc.
7. Tu tập tưởng chết.
8. Tu tập tưởng không bình đẳng, bình đẳng nơi thế gian.
9. Tu tập tưởng có, không, hiện, ẩn, lỗi lầm, xuất ly. Nên biết ở đây, hành bình đẳng như pháp hiện có, có thể đi đến nẻo thiện, gồm thâu nghiệp thân ngữ ý thiện, gọi là bình đẳng. Hành không bình đẳng của phi pháp hiện có, có thể dẫn đến nẻo ác, gồm thâu nghiệp thân ngữ ý bất thiện, gọi là không bình đẳng.
Lại, trụ nơi đấy, hoặc sanh hoặc trưởng, có thể dấy khởi các khổ hiện có của hậu tế, được gọi là có. Từ nơi tiền tế kia, ở trong hiện pháp có khổ tử diệt, được gọi là không. Các thứ hiện, ẩn v.v… còn lại, nên biết như trước đã phân biệt rộng.
Lại nữa, các nhóm ngoại đạo, nghe pháp không chân chánh với sức tăng thượng đã sanh tưởng không như lý làm chỗ nương dựa, phát khởi vô minh sanh ra các thọ. Do đấy làm chỗ dựa sanh khởi các lậu. Các ngoại đạo, đối với các lậu ấy đã không nhận biết đúng như thật. Cũng đối với các thọ do vô minh xúc sanh ra không nhận biết đúng như thật. Cũng đối với các tưởng tà vạy hiện có được sanh do sức tăng thượng của việc lãnh hội pháp bất chánh, không nhận biết đúng như thật. Nơi ba xứ ấy đều không nhận biết như thật, nên phát khởi cầu dục, phát khởi cầu hữu, cũng lại phát khởi cầu phạm hạnh tà vạy cùng cầu về không, có.
Các ngoại đạo đối với các dục không nhận biết như thật, đối với nghiệp của hữu sau không nhận biết đúng như thật, đối với các khổ ấy không nhận biết như thật. Ở đây, năm thứ trước là xứ của Tập đế. Một thứ sau cùng là xứ của Khổ đế. Như vậy, ngoại đạo đối với Tập đế ấy và Khổ đế đều không nhận biết đúng như thật.
Lại, tức ở nơi Tập đế, Khổ đế ấy, lược do hai tướng, nên không nhận biết đúng như thật:
1. Do tạp nhiễm.
2. Do thanh tịnh.
Tạp nhiễm lại có bốn tướng:
1. Tự tánh.
2. Nhân.
3. Quả.
4. Nhân quả có sai biệt. Thanh tịnh lại có hai thứ:
1. Tập khổ diệt.
2. Hành hướng diệt.
Các ngoại đạo, ở trong bốn Thánh đế như thế, thiếu hẳn chánh trí, nên không thể tu tập pháp Bồ đề phần. Do nhân duyên ấy, nên chỗ tu hành phạm hạnh hiện có của họ không được gọi là rốt ráo tột cùng. Tức do duyên này nên không gọi là đạt đến cứu cánh, vì không dứt hết các lậu. Người trụ nơi nội pháp, cùng với trên trái nhau, chỗ tu phạm hạnh là rốt ráo cùng tột, gọi là đạt đến cứu cánh, dứt sạch các lậu.
Lại nữa, đối với sáu thứ hữu tình kia, dựa nơi pháp nhiễm tịnh, Đức Như Lai hiện có căn trí của bậc Đại sĩ, cùng với pháp vị lai sanh khởi trí để chuyển.
Những gì gọi là sáu thứ hữu tình? Nghĩa là có một loại hữu tình, trong đời khác từ trước, đối với Pháp-Luật khéo giảng nói của Phật đạt được tịnh tín, nói rộng cho đến đạt được kiến chánh trực. Hữu tình ấy nơi đời hiện tại, ở trong Pháp-Luật thuyết giảng ác, gần gũi không phải bậc thiện tri thức, nghe không phải Chánh pháp, tác ý phi lý, ở trong hiện pháp, đầu tiên sanh khởi các tà kiến, thọ các nghiệp tạp nhiễm. Hữu tình ấy, bấy giờ, thành tựu pháp thiện hiện có của đời trước, cùng với các pháp bất thiện trong hiện pháp. Lại, nơi thời gian sau, ở trong Pháp-Luật khéo thuyết giảng, thân cận bậc thiện tri thức, lắng nghe Chánh pháp, tác ý như lý. Tức do nhân trước nên dứt bỏ Pháp-Luật thuyết giảng ác, đối với các pháp bất thiện của tưởng nêu giảng ác không sanh nhiễm vướng, mau chóng có thể trừ dứt. Hữu tình ấy, đối với vị lai thành tựu pháp thanh tịnh. Đó gọi là loại hữu tình thứ nhất.
Lại có một loại hữu tình, trong đời khác từ trước, cùng hành hai thứ pháp Tỳ-nại-da. Do đấy làm nhân, nên ở trong hiện pháp thành tựu pháp thiện và pháp bất thiện. Hữu tình ấy, nơi đời hiện tại, đầu tiên như trước, đối với pháp thuyết giảng thiện, cho đến đạt được tác ý như lý, ở trong hiện pháp, các pháp bất thiện khiến pháp sẽ diệt mất, pháp mới không sanh nữa. Còn các pháp thiện, khiến pháp cũ tăng trưởng, pháp mới lại sanh nữa. Các pháp bất thiện hiện có từ trước chưa đoạn trừ, tùy miên đeo đuổi, nay đối với tất cả đều có thể đoạn trừ, trụ nơi không phóng dật. Hữu tình ấy đối với đời vị lai, thành tựu pháp thanh tịnh. Đó gọi là loại hữu tình thứ hai.
Lại có một loại hữu tình, trong đời khác từ trước, chỉ hành ngoại hành. Hữu tình ấy, nơi đời hiện tại, do đấy làm nhân, thường xuyên hành tập xuất gia, hành tập theo tà kiến, ở trong pháp. Luật thuyết giảng thiện, gặp được duyên hòa hợp mà được xuất gia. Đã xuất gia rồi lại sanh tà kiến, trụ nơi tự kiến thủ, tạo nghiệp vô gián, cũng đoạn thiện căn, hoàn toàn tạo tác các pháp bất thiện, quyết định đi đến nẻo ác. Đó gọi là loại hữu tình thứ ba.
Lại có ba thứ hữu tình khác, cùng với ba thứ trên trái nhau, nên biết về tướng của chúng.
Ở đây, loại hữu tình thứ nhất, trước tiên đối với ngoại pháp thuần tập hành nhân, ở trong hiện pháp trước tiên không phóng dật, sau hành phóng dật.
Loại hữu tình thứ hai, trước đối với nội ngoại pháp, cùng tập hành nhân, ở trong hiện pháp chuyên hành phóng dật.
Loại hữu tình thứ ba, trước đối với nội pháp thuần tập hành nhân, ở trong hiện pháp, nên biết hoàn toàn tu tập không phóng dật.
Lại, ở trong ấy, đời trước đã hành tập nhân thiện, bất thiện, cũng như chủng tử. Đời nay, nơi Pháp-Luật thuyết giảng thiện, đối với các chủng tử thiện của đời trước, cũng như ruộng tốt. Đối với chủng tử bất thiện của đời trước kia, cũng như ruộng xấu. Cùng với đây trái nhau, là đời nay, nơi Pháp-Luật thuyết giảng ác, đối với chủng tử bất thiện của đời trước, cũng như ruộng tốt. Đối với các chủng tử thiện của đời trước, cũng như ruộng xấu.
Lại, lực tăng thượng của nhân đời trước, nay pháp thiện khởi, cũng như ánh sáng. Cùng với tất cả các pháp bất thiện kia, như vô minh tối tăm, là chủ thể đối trị. Pháp bất thiện cùng với tất cả pháp thiện hiện có cũng như ánh sáng, làm đối tượng đối trị. Như vậy, các pháp bất thiện của đời trước, như có than nóng, do có nghĩa có thể thiêu đốt thân tâm. Pháp-Luật thuyết giảng thiện của đời nay như ngôi nhà cỏ lau khô.
Lại, pháp thiện hiện có nơi đời trước, nay ở nơi Pháp-Luật thuyết giảng ác, do tổn giảm, cũng như đồ dựng bằng đá đem để nơi chỗ đất lạnh, như không có than nóng.
Lại, các pháp bất thiện của đời trước, nay ở nơi Pháp-Luật thuyết giảng thiện, do đoạn dứt, nên cũng như đem vật đựng bằng đá đặt tại chỗ đất lạnh, như không có than nóng.
Ở đây, các Đức Như Lai, do căn vô thượng của bậc Đại sĩ nơi lực của trí có hơn kém, đối với nhân thiện bất thiện của đời trước đã hợp thành căn, theo chỗ ứng hợp đều nhận biết rõ như thật.
Lại, nơi môn nhiễm tịnh của hiện pháp chuyển đổi, sanh khởi các pháp nhiễm tịnh của vị lai, cũng theo chỗ ứng hợp, đều nhận biết rõ đúng như thật, nên nói là thành tựu điều hết sức hy hữu.
Lại nữa, hành đi đến nẻo ác, hành đi tới nẻo thiện, hành vượt qua có sai biệt, nên biết lược có năm môn không đồng. Do năm môn này, nên đối với sự tự vượt qua, đã nhận biết rõ như thật. Đối với sự vượt qua của kẻ khác, cũng biết rõ khắp, đúng đắn. Đó là chư Phật và đệ tử của chư Phật.
Thế nào gọi là hành đi đến nẻo ác? Nghĩa là tất cả Tát-ca-da-kiến hiện có của các ngoại đạo dùng làm căn bản. Các kiến thú ác cùng đối tượng duyên của chúng, và chỗ nương dựa ấy dùng làm nơi nương dựa, phát sanh vô số dục ác cùng hại, hoặc vô lượng pháp ác bất thiện hiện có như sát sanh v.v…, như kinh đã nói rộng, cho đến các hành phi pháp hiện có, hành không bình đẳng là sau cùng. Có thể đi đến nơi chốn hiểm ác, có thể đi tới địa ngục, có thể đi đến các nẻo ác sanh khởi có sai biệt. Hoặc trụ nơi các cảnh giới kia gọi là sanh vào nẻo ác, lãnh nhận dị thục của các quả phi ái, chiêu cảm do nhân của những nẻo ấy. Như thế gọi là hành đi đến nẻo ác.
Các Thánh đệ tử đa văn đối với điều ấy, nếu nơi đối tượng duyên kia sanh các kiến thú, hoặc tự dựa vào đấy khiến khởi chấp trước, hoặc các dục ác hiện có, có thể dẫn đến tất cả nẻo hiểm ác, nói rộng cho đến các hành phi pháp, các hành không bình đẳng cho là sau cùng. Nếu trụ ở đấy, lãnh nhận quả phi ái, xấu ác v.v…, hết thảy như thế đều tùy quán đúng như thật, không có ngã, ngã sở. Tức là ở trong đó, quyết định không ngã, cũng không ngã sở. Quán như vậy rồi, chính lúc đối với Thánh đế đạt được hiện quán, các kiến thú, tùy miên căn bản kia đều vĩnh viễn dứt sạch, nên gọi là đoạn, ngoài ra hết thảy đều rốt ráo không còn nối tiếp. Các Thánh đệ tử này, đối với kiến thú kia được xem là căn bản hiện có để có thể dẫn đến các nơi chốn hiểm ác, quyết định không tạo tác, nên nhất định không thể đi đến các nơi chốn hiểm ác. Đó gọi là môn vĩnh viễn loại trừ hành thứ nhất dẫn đến nẻo ác. Do nhân duyên ấy nên có thể đối với tự nội, nhận biết rõ như thật, về các Thánh lìa ngã v.v…
Như thế, chư Phật cùng đệ tử của Phật, có thể nhận biết khắp, đúng như thật về môn vĩnh viễn dứt trừ hiện có sai biệt.
Lại, tức các Thánh đệ tử như thế, vì nhằm vượt qua hành dẫn đến nẻo thiện còn lại chưa đoạn, nên chư vị đối với chỗ tạo tác trước không sanh biết đủ, đối với việc dứt hết lậu nêu tiên khởi vui thích, mong muốn, phát tâm chánh nguyện, nơi chỗ đạt được các đạo thế tục, quán xét kỹ về lỗi lầm, nghĩa là chúng không thể lìa khổ một cách rốt ráo. Đó gọi là môn phát tâm nguyện thứ nhất, vì nhằm vượt qua hành dẫn đến nẻo thiện.
Phát tâm nguyện rồi, đối khắp hữu sau của tất cả nẻo thiện sanh khởi ái vị, đều quán sâu xa về lỗi lầm của chúng, nhưng con đường hiểm ác, tâm sanh chán lìa, vui mộ tịch tĩnh nơi Niết-bàn hiện pháp, tu tập đúng đắn theo phương tiện, do đấy tiến tới như trước đã đạt được hành hướng đến Niết-bàn. Như thế gọi là môn có thể tiến tới.
Chư vị kia, do tu đạo lần lượt lìa dục, cho đến có thể nhập định hữu thứ nhất, nếu đối với xả trên sanh nhiều ái vị cùng nhân duyên phóng dật, ở trong hiện pháp không Bát Niết-bàn, thì chỉ gọi là quả Bất hoàn của hành trên. Như thế gọi là môn sau của hành trên. Nếu lại đối với pháp kia, quán sâu xa về lỗi lầm, tai họa, ở trong xả trên không sanh ái vị, đối với hiện pháp có thể chứng Niết-bàn, dựa nơi Bát Niết-bàn Hữu dư y để nêu bày, như vậy gọi là môn Bát Niết-bàn. Do môn này, nên nhận biết rõ đúng như thật về tự Bát Niết-bàn, vượt qua tất cả hành dẫn tới nẻo thiện, đối với sự vượt qua của kẻ khác cũng có thể nhận biết đúng khắp. Đó là chư Phật cùng đệ tử của Phật. Ở đây, thứ nhất là môn vĩnh viễn dứt trừ, nên biết là vượt qua hành dẫn đến nẻo ác. Sau, phát tâm nguyện tiến đến hành trên là bốn môn Niết-bàn, nên biết là vượt qua hành dẫn tới nẻo thiện.
Lại nữa, các Thánh đệ tử đã kiến đế tích, nhưng chưa lìa dục, nên biết lược có hai thứ tạp nhiễm:
1. Tạp nhiễm của dục.
2. Tạp nhiễm của hữu sau.
Đối với hai thứ ấy, các Thánh đệ tử nên siêng năng gia hạnh, tịnh tu nơi tâm. Chư vị, vì nhằm đoạn trừ tạp nhiễm của dục, nên lúc siêng tạo phương tiện, dần dần dựa vào ba hành:
1. Hành hướng đến Vô động.
2. Hành hướng đến xứ Vô sở hữu.
3. Chứng nhập định Vô động, Vô sở hữu, xứ Phi tưởng phi phi tưởng.
Ở đây, do đối trị đoạn, cùng đối trị phần xa, nên vượt qua tạp nhiễm của dục. Hoặc vì đoạn trừ tạp nhiễm của hữu sau, nên lúc siêng tạo phương tiện, đã lìa ái của cõi Dục, chưa lìa ái của cõi Sắc. Chư vị tu tập đúng đắn, có thể đoạn trừ tạp nhiễm hiện có của hữu sau, do đạo đối trị có sai biệt, đã lìa ái của cõi Sắc, cho đến có thể nhập định Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nếu trong hiện pháp, đối với xả trên sanh nhiều ái vị, không Bát Niết-bàn, thì chư vị đối với hiện pháp không hoàn toàn giải thoát tất cả tạp nhiễm của hữu sau hiện có. Nếu đối với xả trên không sanh ái vị, thì chư vị, ở trong hiện pháp có thể Bát Niết-bàn, có thể hoàn toàn giải thoát tất cả tạp nhiễm hiện có nơi hữu sau. Nên biết ở đây, hoặc vì đối trị tạp nhiễm của dục, nên tu đạo đối trị, lần lượt cho đến có thể nhập định Đệ nhất hữu. Hoặc vì đối trị tạp nhiễm của hữu sau, nên tu đạo đối trị, lần lượt cho đến có thể nhập định Đệ nhất hữu. Hai thứ như thế gọi là cùng giải thoát. Do các Thánh giả và hàng phàm phu không phải Thánh đều có thể cùng dung nạp, thế nên giải thoát này không gọi là Thánh giải thoát.
Nếu đối với tất cả khổ cho đến Tát-ca-da khổ của cõi Hữu đảnh, đều nhận biết như thật rồi, vượt qua cõi Hữu đảnh, ở trong hiện pháp đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tạp nhiễm hiện có, thì giải thoát như thế chỉ các Thánh giả mới có thể đạt được, nên giải thoát ấy gọi là Thánh giải thoát.
Như vậy, tất cả gồm chung có năm xứ:
1. Hành hướng đến Vô động.
2. Hành hướng đến xứ Vô sở hữu.
3. Hành hướng tới xứ Phi tưởng phi phi tưởng.
4. Niết-bàn hiện pháp.
5. Thánh giải thoát.
Lại có ba thứ lỗi lầm tai họa của các dục:
1. Các dục có thể vì thuận theo cảnh giới của lạc thọ, đã sanh khởi nhân duyên của tham dục.
2. Các dục có thể vì thuận theo cảnh giới của khổ thọ, đã sanh khởi nhân duyên của sân hận.
3. Các dục có thể vì thuận theo cảnh giới của thọ không khổ không lạc, đã sanh khởi nhân duyên phẫn phát vô minh.
Lại, các dục này chính ở nơi ba xứ, nên quán xét về lỗi lầm tai họa của chúng:
1. Tự tánh.
2. Đối tượng duyên.
3. Trợ bạn.
- Tự tánh: Nghĩa là phân biệt hư vọng sanh khởi tham ái.
- Đối tượng duyên: Tức là cảnh của năm thứ sắc, hoặc trong hoặc ngoài.
- Trợ bạn: Là tác ý phi lý tương ưng với tưởng điên đảo.
Lại, ta đã đạt được an trụ đầy đủ nơi xứ sở này, sanh khởi tin hiểu, nên biết chư vị ở trong đạo gia hạnh tu tập tịnh tín, nơi xứ sở ấy sanh tâm tịnh tín. Do sức tăng thượng của tịnh tín này, nên tu tập tinh tấn niệm định huệ. Từ nơi Tĩnh lự 1, lần lượt cho đến xứ Thức vô biên, các định vô động đều có thể chứng nhập. Lại, do huệ kia đã phát khởi thắng giải này: Nghĩa là ta đã có thể nhập các định như thế. Đây tức có thể chiêu cảm quả sanh hiện có do xứ Thức vô động. Nếu trong hiện pháp không Bát Niết-bàn, hoặc không tiến cầu đi đến địa trên, thì chư vị ấy, nơi vị lai quyết định nên đi đến xứ vô động đó.
Lại do ba duyên, tức đối với các địa này, nên biết đã kiến lập làm xứ vô động. Nghĩa là do dục v.v… bên ngoài tán động được đoạn trừ, nên lập Tĩnh lự thứ nhất làm xứ vô động.
Tầm tứ hỷ lạc, trong địa của cõi Sắc, các thứ động được đoạn trừ nên lập Tĩnh lự thứ tư làm xứ vô động. Vô số tưởng có sắc có đối biệt dị, các thứ động đã đoạn, nên lập xứ Không vô biên, xứ Thức vô biên làm xứ vô động. Tĩnh lự thứ hai, Tĩnh lự thứ ba, khoảng giữa và càng về sau, các thứ động hiện có đều đoạn, nên biết cũng được gọi là xứ vô động. Xứ Thức vô biên, do môn ngoài của xứ Không vô biên duyên nơi động đã được xa lìa, nên biết đã kiến lập làm xứ vô động.
Nói tóm lại, duyên nơi định hiện có không dao động, nên đều gọi là vô động. Biên vực của định này tột cùng đến xứ Thức vô biên, do đó nên biết, cho đến xứ ấy đã kiến lập là vô động. Tức tất cả duyên nơi định hiện có ấy, đều gọi là định của tưởng hữu thượng. Từ đấy trở lên, duyên nơi định Vô sở hữu, nên biết gọi là định của tưởng vô thượng. Từ đấy trở lên, lại gọi là định của xứ Phi tưởng phi phi tưởng.
Nên do ba phần nêu rõ về ba hành. Do ba thứ môn, các Thánh đệ tử chán bỏ dục v.v… Đã chán bỏ rồi, lần lượt có thể nhập, cho đến định của xứ Thức vô biên, do đấy đã kiến lập hành có thể đi đến ba thứ xứ vô động.
Lại, hoặc tưởng sắc, hoặc tưởng vô động, đối với các địa dưới sanh chán hoại sâu xa rồi, có thể nhập định của xứ Vô sở hữu. Đó gọi là hành thứ nhất có thể hướng đến xứ Vô sở hữu.
Lại, tức xứ này là biên vực tu tập của đạo vô lậu. Đạo vô lậu này lại có hai thứ:
1. Hữu thượng.
2. Vô thượng.
Như hữu thượng của định hữu tưởng, kết hợp với hành vô thường, thì vô thượng kia kết hợp với hành vô ngã. Do hành hữu thượng đối với địa dưới sanh chán hoại sâu xa rồi, nhập định của xứ ấy.
Do hành vô thượng, đối với dưới, trên, trong tất cả pháp tư duy đều là vô ngã, nên có thể nhập định vô lậu nơi xứ Vô sở hữu. Hành vô thượng ấy, nên biết gọi là hành thứ hai hướng tới.
Hành thứ hai hướng tới này, lại do hai hành có sai biệt, nên kiến lập hai thứ.
Thế nào là hai hành? Nghĩa là trí sai biệt của chủ thể nương dựa, đối tượng được nương dựa. Ở đây, chủ thể nương dựa là trí vô ngã: Nghĩa là các thứ hiện có, hoặc là giới hữu tình, hoặc là tự thân của ngã, trong đó đều không có xứ thuộc về ngã, tức là địa phương, lãnh vực. Thuộc về ngã: Nghĩa là các hữu tình. Sự thuộc về ngã, nghĩa là hoặc cha, hoặc mẹ, hoặc bạn, hoặc chủ, các loại như thế. Như họ đối với ngã không phải là xứ hệ thuộc.
Không hệ thuộc: Là sự không có hệ thuộc. Như vậy, ngã cũng đối với họ không phải là xứ thuộc về. Không thuộc về: Là sự không hệ thuộc.
Ở đây, đối tượng được nương dựa là trí vô ngã: Nghĩa là các thế gian không, không có thường cùng ngã, ngã sở. Ở đây, đều không có thường, ngã, ngã sở chân thật có thể đạt được, chỉ có các hành. Như vậy, thế gian đều đã là không, nên lại có cái gì có xứ hệ thuộc? Có hệ thuộc: là có sự hệ thuộc. Do đó nên biết, trí vô ngã trước là chủ thể nương dựa. Trí vô ngã sau là đối tượng được nương dựa.
Xứ Phi tưởng phi phi tưởng không có đạo vô lậu, chỉ do tưởng chán hoại xứ Vô sở hữu, nên có thể nhập định của xứ ấy. Trong đó chỉ có một hành hướng tới này.
Lại, ở trong ấy, ngã sở sao lại không có: Nghĩa là do các khổ như sanh v.v… nên nói ngã có khổ. Ngã sao lại không có? Tức do các khổ như sanh v.v… khiến ngã phát tâm lạc dục như thế rồi, siêng năng gia hạnh đúng đắn. Gia hạnh như thế rồi, nên đạt được các thứ hiện có trước sau có sai biệt. Do nhân duyên ấy, nên lại được quyết định: Nghĩa là ngã sẽ không có. Ngã sở sẽ không có. Nếu nay hiện có: Nghĩa là hiện nay nơi hiện pháp, nghiệp mới hiện có đã tạo tác, làm tăng trưởng. Nếu ngày trước đã có: Nghĩa là các nghiệp cũ. Các Thánh đệ tử kia, đối với tất cả quả dị thục hiện có đều không mong cầu. Tất cả đều nên dứt bỏ, không luyến tiếc.
Lại nữa, tụng nêu:
An lập thuần biên vực
Cùng duyên khởi như lý
Lúc tu, chướng tự tánh
Nói đoạn, khởi tu sau.
Ở đây, an lập bốn niệm trụ làm đầu, đạo chi làm sau cùng nơi ba mươi bảy thứ pháp Bồ đề phần, hoặc lược hoặc rộng, như nơi địa Thanh văn đã nói, nên biết về tướng.
Lại do bốn niệm trụ, nên biết tất cả biên vực của sự thuộc đối tượng nhận thức. Do biên vực của sự nơi đối tượng nhận thức nên lại nhận biết rõ về biên vực của sự thuộc trí.
Lại bốn niệm trụ, do dục tinh tấn v.v…, tu tập gia hạnh mới được viên mãn. Nên biết, trừ bốn thứ niệm trụ ấy ra thì lại không có đạo không đồng phận nào khác, hoặc cảnh của đối tượng duyên. Do đạo ấy, cảnh ấy có thể dứt hết các lậu, đạt được Niết-bàn.
Do không có đạo thanh tịnh thứ hai, nên nói thuần có một chánh đạo có thể hướng đến.
Lại, thuần một chánh đạo có thể hướng tới này, do hai nhân duyên có thể khiến cho hữu tình đạt thanh tịnh rốt ráo:
1. Do lực xét chọn.
2. Do lực tu tập.
Đối với bốn niệm trụ siêng năng tu tập gia hạnh, dựa nơi lực xét chọn, vượt qua mọi sầu lo, phóng túng. Do dựa nơi lực tu tập thế gian, nên có thể lìa dục ái, dứt bỏ ưu khổ.
Dựa nơi lực tu tập xuất thế gian, nên vượt qua tất cả Tát-ca-da-khổ. Cũng có thể chứng đắc tám chi Thánh đạo cùng quả của Thánh đạo nơi pháp diệu chân thật. Hết thảy hữu tình nên biết đều do hai thứ lực xét chọn, tu tập, nên đạt được tất cả thứ thanh tịnh rốt ráo.
Lại nữa, nếu đối với bốn thứ đối tượng duyên như thân v.v… phát khởi vô số tác ý phi lý, tức liền trái với bốn thứ niệm trụ. Chống trái ở đấy, tức liền chống trái với tác ý như lý. Nghĩa là như lý của Thánh liên tiếp có thể sanh khởi chi chánh kiến cùng Thánh đạo hiện có. Chống trái ở đấy, tức liền chống trái với tất cả Thánh đạo. Chống trái với đạo, nên liền là chống trái với quả cam lồ của đạo là Niết-bàn cứu cánh.
Lại, sư Du già nhận biết rõ bốn duyên như thân v.v… sanh rồi, lại đối với các pháp của ba đời như thân v.v… trụ nơi quán vô thường. Do trụ nơi quán vô thường như thế, nên đối với các hữu sau, hoàn toàn không nương dựa vào ái của hữu sau để trụ.
Lại, trong hiện pháp, nơi tất cả hành hoặc trong hoặc ngoài đều không chấp giữ ngã, ngã sở.
Lại, nơi đời vị lai, nên biết là an trụ nơi tùy quán pháp tập. Nơi đời quá khứ, nên biết là an trụ nơi tùy quán pháp diệt. Nơi đời hiện tại, pháp sanh rồi liên tục tận diệt, nên biết là an trụ nơi tùy quán pháp tập diệt. Do chư vị, đầu tiên đối với các pháp như thân, quán tánh của duyên sanh, ngộ nhập vô thường. Ngộ nhập tánh vô thường như thế rồi, đối với xứ tạp nhiễm của các kiến ái, tu tập, an trụ nhiều, tịnh trị nơi tâm. Như thế, phương tiện của tác ý viên mãn, do đấy làm chỗ dựa, có thể tùy thuận đạt được lậu tận rốt ráo.
Lại, tất cả pháp, nói tóm tắt, là thiện bất thiện, hoặc phẩm tạp nhiễm, hoặc phẩm thanh tịnh. Nên biết ở đây, các phẩm tạp nhiễm đều dùng tác ý phi lý làm sự tích tập. Các phẩm thanh tịnh đều dùng tác ý như lý làm sự tập hợp. Như thế, tất cả lược chung gọi là tác ý làm tập.
Lại nữa, tu tập các niệm trụ, hoặc lược hoặc rộng, như nơi địa Thanh văn đã nêu, nên biết về tướng.
Lại, đạo lý của sự tu tập niệm trụ này, không phải khi Đức Thế Tôn xuất hiện ở đời mới bắt đầu tuyên thuyết, khiến các Thánh đệ tử tu tập thích ứng. Nhưng nơi quá khứ, từ vô thủy đến giờ, đối với các niệm trụ, sự tu tập luôn lưu chuyển, và đối với đời vị lai, nên biết sự tu tập cũng không cùng tận.
Lại, vô lượng pháp thiện thế gian xuất thế gian của ba đời quá khứ hiện tại vị lai ấy, đã sanh khởi từ nơi chốn nương dựa, nên nói bốn thứ niệm trụ như thé gọi là tụ thiện.
Lại, có thể gây chướng ngại cho tụ thiện như thế, nên nói năm cái gọi là tụ bất thiện.
Lại, do bốn pháp của đối tượng nhận thức như thân v.v… là không có biên vực riêng biệt, nên trí huệ của Đức Như Lai đối với chúng không bị ngăn ngại, cũng không có biên vực. Do trí vô biên, nên Đức Như Lai đã thuyết giảng giáo pháp vô thượng, cũng không có biên vực. Giáo pháp như vậy, do hai duyên nên được hiển bày:
1. Do văn.
2. Do nghĩa.
Môn sai biệt của nghĩa không có số lượng. Môn mở bày làm rõ nghĩa nơi văn cú của giáo pháp, cũng không có số lượng. Đối với văn cú ấy, không tuyên thuyết lần nữa. từ vô biên, biện tài lần lượt đạt đến vô tận. Thế nên Đức Như Lai đã thành tựu pháp kỳ diệu chưa từng có. Khéo có thể tuyên thuyết giáo pháp hiện có, ở trong một nghĩa có thể dùng vô lượng văn cú xảo diệu, theo phương tiện khai thị mà không thuyết trùng lặp.
Lại, đối với Thánh giáo, trí lãnh hội tông chỉ, nghĩa lý sâu xa đã khéo thành tựu, gọi là "có nghĩa lý sâu xa". Diệu huệ cùng sanh do Văn, Tư tạo thành, khéo thành tựu, nên gọi là "có ý nghĩa". Thành tựu về định, nên gọi là "có niệm". Thông tỏ về đế nên gọi là "có huệ". Nên biết ở đây, một câu đầu là nêu chung, ba câu sau là giải thích riêng.
Lại nữa, có các Bí-sô đối với thân cùng pháp, trước do Văn, Tư tác ý như lý, an trụ nơi Quán chỉ có thân cùng pháp, nhận biết tất cả pháp, tánh vô ngã rồi, không chỉ đối với tác ý do Văn, Tư ấy mà sanh biết đủ, chỉ mong cầu tâm định giải thoát. Vì cầu định nên trụ nơi xứ xa lìa, chỉ duyên nơi thân v.v… do chín hành tướng khiến tâm an trụ, khiến bên trong tâm được vắng lặng. Do hai nhân duyên khởi bốn niệm trụ, gọi là khéo phát khởi:
1. Do trí như thật tác ý như lý.
2. Do trí như thật của Tam-ma-địa.
Huệ này không gián đoạn, do trí như thật nên đạt được cứu cánh.
Lại nữa, có các Bí-sô, đối với ba thứ đối trị, được tùy thuận theo điều mong muốn, được không khó khăn, được không trở ngại. Nghĩa là tưởng vô thường, hoặc quán nhân từ, hoặc định vô tướng. Chư vị, do ba thứ đối trị như thế, theo chỗ ứng hợp, như trước đã nói.
Đối với cảnh giới hợp ý cùng thân, trụ nơi tưởng chán nghịch, nơi tưởng không chán nghịch, dứt bỏ hai thứ kia, xả niệm, chánh tri. Do nhân duyên ấy, nên biết gọi là "khéo tu niệm trụ".
Lại nữa, tụng nêu:
Trước các căn ái vị
Trước sau có sai biệt
Giữ tướng cùng các triền
Quả lợi lớn là sau.
Có ba thứ căn, đối với tất cả "thiện tụ" của các niệm trụ, làm chướng ngại, nên biết gọi là "tụ pháp bất thiện". Những gì là ba căn? Đó là:
1. Căn hành ác: Có thể khiến cho vị lai trụ nơi khổ của nẻo ác.
2. Căn tầm tư: Có thể khiến cho hiện pháp trụ nơi khổ bất an.
3. Căn của căn: Cùng với căn hành ác và căn tầm tư làm căn bản, nên gọi là căn của căn.
Ở đây nên biết, ba căn bất thiện là Tham-sân-si có thể cùng với hành ác của thân v.v… làm căn. Ba tưởng như dục v.v… có thể cùng với tầm tư như dục v.v… làm căn. Ba cõi như dục v.v…, nên biết có thể cùng với ba căn như tham v.v…, cùng ba căn như dục tưởng v.v… làm căn.
Lại nữa, có các Bí sô đối với bốn niệm trụ siêng tu gia hạnh, dùng đạo thế gian lìa ái của cõi Dục, nói rộng cho đến, đạt định của hữu thứ nhất, an trụ đầy đủ. Tức ở nơi định này sanh nhiều ái vị. Tức ở nơi định này sanh tưởng biết đủ, không siêng cầu đạt được các pháp của bậc trên chưa chứng đắc. Ở đây, trong Thánh pháp Tỳnại-da không gọi là Đại sĩ.
Lại nữa, có các Bí sô, đối với cảnh như thân v.v… đã tinh tấn an trụ, quán tuần thân v.v…, do chín thứ hành tướng khiến tâm được an trụ, giúp cho tâm nội tụ. Nên biết tâm này, đối với pháp Xa-ma-tha đã đối trị các thứ hôn trầm thấp kém của thân tâm, khiến không đạt được giải thoát. Do không giải thoát, nên dựa vào tâm tụ ấy, sanh khởi tánh của các hôn trầm trong thân, sanh khởi tánh của các thứ thấp kém trong tâm. Nếu đối với niệm trụ, tâm khéo an trụ, nhận biết rõ đúng như thật về chốn sanh khởi tùy phiền não ấy rồi, liền từ nội tụ trở lại thâu tóm tâm để yên nơi bên ngoài cảnh tướng tịnh diệu. Nghĩa là đối với hành duyên nơi công đức của Phật, giữ tâm khiến trụ. Do duyên ở đấy, nên phát sanh hoan hỷ, nói rộng cho đến, do môn cử diệu nên ở nơi cảnh của đối tượng duyên khiến tâm được định. Theo chỗ đối trị của Xa-ma-tha về các tùy phiền não mà được giải thoát. Từ đó trở về sau đều nhận biết rõ như thật, đối với tùy phiền não tâm được giải thoát. Vì nghĩa này nên cầu nguyện, nơi bên ngoài đạt được nghĩa ấy rồi, trở lại như trước, thâu tóm nội tụ của tâm, nhưng không bị các tùy phiền não làm não loạn. Tâm được nội tụ rồi, không do cầu nguyện, tự nhiên nhận biết rõ như thật, về nơi bên ngoài tâm được giải thoát. Chư vị ấy, đối với hành tướng tầm tư của ngoại duyên có chỗ đã được chế phục. Các gia hạnh khó có thể vận chuyển đều được tự tại giải thoát, xả bỏ, an lạc mà trụ, tức đã được thành tựu đầy đủ Xama-tha thù thắng. Các Bí-sô như vậy, nơi bốn thứ niệm tựu tâm khéo an trụ, có thể nhận biết rõ đúng về trước sau có sai biệt.
Lại nên biết, các hữu tình này trước đã tu tập Tỳ-bátxá-na, dùng pháp ấy làm chỗ dựa, đối với Xa-ma-tha tu hành Du già.
Lại nữa, có các Bí sô, nơi các niệm trụ siêng tu gia hạnh, dùng pháp Tỳ-bát-xá-na làm chỗ nương dựa, đối với pháp Xa-ma-tha vui thích tu hành Quán. Các vị ấy, tức nên ở nơi tự tâm thuộc về nội Xa-ma-tha giữ lấy tướng như vầy: Nghĩa là ta nay, tư duy về điều gì, vì sao tư duy, khiến tâm thọ nhận Xa-ma-tha bị các thứ hôn trầm, thấp kém của thân tâm vốn do Xa-ma-tha đối trị, làm não loạn. Lại, ta nay tư duy về nơi chốn nào, vì sao tư duy, khiến tâm được Xa-ma-tha thâu nhận không bị các pháp kia làm não loạn.
Nếu các Bí-sô không giữ lấy tướng mạo của tự tâm như thế, chỉ tự nhận biết rõ tâm ấy bị tùy phiền não nhiễm ô rồi, liền đối với duyên bên ngoài nhận lấy tướng tịnh diệu, do đấy làm nhân, tuy có thể tạm thời trừ bỏ tùy hoặc hiện tại hiện tiền, nhưng nơi thời gian sau hoặc lại như trước, thâu giữ tâm nơi nội tụ, trở lại bị tùy hoặc não loạn như thế, tức không được định tĩnh, như trước không giữ lấy tướng của tự tâm. Do nhân duyên ấy, nên bị tùy phiền não thường xuyên nhiễu, lại không thể đạt được nghĩa vui vẻ mong cầu, mà còn bị tổn não do sự ưu sầu kia. Trải qua thời gian dài không thể có được nội tâm dừng lặng, không thể đạt được việc trước tiên dựa vào Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na để có chánh niệm, chánh tri bậc nhất của thanh tịnh tăng thượng. Do không có được nội tâm dừng lặng, nên không thể đạt được hiện pháp lạc trụ của bốn tâm tăng thượng. Do không đạt được chánh niệm, chánh tri bậc nhất tăng thượng, nên không thể chứng đắc Niết-bàn cứu cánh an ổn vô thượng mà trước chưa chứng đắc.
Cùng với trên đây trái nhau, nên biết tức là phẩm Trắng, cho đến đạt được Niết-bàn cứu cánh an ổn vô thượng mà trước chưa đạt được.
Lại nữa, có các Bí-sô đối với các niệm trụ siêng năng tu tập đúng đắn, nhưng là phàm phu, hoặc có cảnh giới thắng diệu, khả ái đang hiện tiền, hoặc lại ở riêng biệt, đạt được các tướng trạng. Do mất niệm nên tưởng không như lý dùng làm chỗ dựa, đột nhiên phát khởi triền tham mãnh liệt. Chư vị đối với triền tham này, thâm tâm cảm thấy xấu hổ, chán bỏ, như tự thân rơi vào chốn ách nạn hết sức tệ hại, nên phát khởi mạnh mẽ tâm suy xét xa lìa. Do hành như vậy, nên đối với triền kia tâm được giải thoát. Đã được giải thoát rồi, tâm sanh hoan hỷ. Từ đấy trở về sau, dấy khởi sự chán lìa mãnh liệt, đạt được tưởng vô thường, liền ở nơi Thánh đế hiện quán như thật, dùng làm chỗ dựa, nương vào Niết-bàn.
Lại, tức hàng hữu học tác ý quan sát, ở nơi cảnh thắng diệu tư duy về tướng tịnh, do chưa đoạn trừ hoàn toàn tùy miên tham, nên triền tham đột nhiên sanh khởi, hiện tiền. Tức thì lại đối với triền ấy thấy rõ lỗi lầm tai họa, vì nhằm đoạn trừ chúng nên nhập định vô tướng, như thế có thể đoạn các pháp chưa đoạn trừ khác. Từ định khởi rồi, nhận biết rõ đúng như thật về tất cả các thứ đã đoạn, lãnh nhận hỷ lạc vi diệu của giải thoát. Quán thấy đúng như thật về bản thân, thành tựu sức mạnh của đại trí, nên gọi là mạnh mẽ, khiến sức của các loại ma-la suy kém.
Lại nữa, tu bốn niệm trụ dẫn đến công đức, nên biết có thể chiêu cảm quả cứu cánh tăng thượng tối thắng, nên gọi là có quả lớn. Nên biết có thể chiêu cảm thắng lợi an lạc tăng thượng tối thắng, nên gọi là có lợi lớn.
Lại nữa, tụng nêu:
Sư tà trụ Tuyết Sơn
Siêng gắng hệ thuộc tịnh
Lần lượt Giới viên mãn
Tuệ thành tựu là sau.
Có các ngoại đạo, đối với chúng đệ tử tự lập làm thầy, chuyên cầu lợi dưỡng, chuyên cầu sự cung kính, chuyên cầu tự lợi. Gặp duyên hòa hợp, có tộc tánh tử muốn được xuất gia, vị thầy ngoại đạo nhân đấy nói với tộc tánh tử:
- Ông và ta, trước không có tất cả các thứ vật dụng nuôi sống thân mạng có thể cùng thọ dụng. Ông nên vì ta đi đến xứ khác, khen ngợi đức của ta, che giấu lỗi của ta. Ta cũng vì ông làm công việc như thế. Hai người chúng ta lần lượt cùng nương dựa, giúp đỡ lẫn nhau. Nên đối với các vị vua hoặc ngang bằng với vua, cho đến tất cả đại thương chủ, tất đạt được nhiều lợi dưỡng và sự cung kính.
Nếu các sư ngoại đạo nói lời như thế, gọi là chuyên tự lợi. Nhưng người đệ tử kia liền phát khởi lời đối kháng:
- Chớ nên tạo kiến ấy! Người giúp đỡ như vậy chưa gọi là tự giúp đỡ. Lỗi lầm khiến đi đến nẻo ác, nếu ngăn chặn lỗi lầm ấy mới gọi là tự giúp đỡ, do đó ông nên tự giúp đỡ như trước, tôi cũng sẽ tự làm riêng sự giúp đỡ khác. Tôi đã không thể giúp đỡ cho ông, nên ông cũng không cần phải giúp đỡ tôi.
Ở trong nghĩa này, nên biết người đệ tử là người nói lời như lý, là người thông tuệ, chú trọng về vị lai. Nên biết vị sư kia là người nói lời phi lý, là kẻ ngu si, trọng nơi hiện tại.
Lại có tạp nhiễm xúc não nơi kẻ khác, do tạp nhiễm nên không thể tự giúp đỡ, nhân đấy não hại kẻ khác, nên không gọi là giúp đỡ họ.
Ở đây, như trước, do thân cận cùng với việc đoạn trừ các phiền não, gọi là sẽ tự giúp đỡ. Từ đấy về sau, do đoạn trừ làm nhân, không não hại kẻ khác, nên gọi là sẽ giúp đỡ kẻ khác.
Nên biết ở đây, không sân không hại là nghĩa không não hại. Không duyên mà khởi hai tâm lợi lạc, không duyên mà khởi hai tâm từ bi, nên biết như thế là nghĩa thương xót. Do thương xót nên không não hại kẻ khác. Do đó, nên biết tất cả thương xót cùng với pháp kia là trái nhau.
Lại nữa, nên biết Tuyết Sơn là dụ cho Pháp-Luật thuyết giảng về thiện của Phật. Ở đây lược có ba phần có thể đạt được:
1. Địa vô học.
2. Địa hữu học.
3. Địa phàm phu.
Loài khỉ vượn là dụ cho các tâm tương ưng với tác ý phi lý. Người săn bắn dụ cho ma. Nơi địa vô học cùng không thể hành. Đối với địa hữu học cho đến quả Bất hoàn, chỉ có tác ý phi lý tương ưng với tâm được dụ về khỉ vượn riêng một mình có thể đi đến. Người không săn bắn dụ cho nơi chốn có thể hành của ma. Đối với địa phàm phu, hai thứ cùng có thể hành.
Lại, các kẻ ngu nên quán cảnh khác, có thể ra khỏi cảnh khác, truy cầu cảnh khác, bị cảnh khác trói buộc, thế nên đối với cảnh không được giải thoát.
Lại nữa, do đối với chánh pháp lắng nghe, thọ trì, quan sát về nghĩa lý, pháp tùy pháp hành, như thứ lớp nên biết đã khuyến hóa, an lập bốn nghĩa.
Lại có ba pháp, hãy còn có thể đoạn trừ tất cả triền tham, dâm dục nổi bật khác, huống hồ là các triền tham dục thấp kém. Những gì là ba pháp? Đó là:
1. Lực tinh tấn.
2. Lực không phóng dật.
3. Lực đối trị.
Do lực tinh tấn nên các triền kia đã sanh khiến chúng không trụ vững. Do hai lực còn lại, nên các triền kia chưa sanh khiến chúng không được sanh. Như thế, hành giả siêng tu hành chánh, vì nhằm đoạn trừ pháp ác đã sanh, cùng chưa sanh khiến không sanh.
Lại nữa, đối với bốn niệm trụ tu tập cẩn trọng, như nơi địa Thanh văn đã nói, nên biết về tướng.
Hệ thuộc ma: Nghĩa là tại cõi Dục, quả Bất hoàn này tức có thể vượt qua.
Hệ thuộc sự chết: Nghĩa là từ cõi Dục cho đến cõi Hữu đảnh, ở đây A-la-hán mới có thể vượt khỏi.
Nói các hữu tình không thanh tịnh: Nghĩa là các phàm phu. Nói thanh tịnh: Là các hàng hữu học.
Nói tươi trắng: Là các bậc vô học.
Lại có ba thứ chứng tịnh: Người chưa thanh tịnh có thể khiến thanh tịnh. Đã thanh tịnh rồi có thể khiến cho tươi trắng. Nên biết ở đây, trên các hàng hữu học, gọi là thanh tịnh. Dưới các hàng hữu học, gọi là không thanh tịnh, các vị này do tu đạo chưa thanh tịnh. Phần còn lại, như trước đã nói.
Lại nữa, tu bốn niệm trụ, nên biết lược có năm thứ lần lượt:
1. Lực tăng thượng của tín nơi sự xuất gia thanh tịnh.
2. Giới luật nghi.
3. Căn luật nghi.
4. Vui thích xa lìa.
5. Các cái thanh tịnh.
Các người tại gia, tuy lại thường xuyên tu các niệm trụ, đạt được tịnh tín, các cái thanh tịnh, nhưng thiếu học xứ, nên biết sự tu tập không được viên mãn.
Lại nữa, do ba nhân duyên, các Bí sô đầy đủ Giới, nên biết tịnh mạng của giới cấm viên mãn. Những gì là ba? Đó là:
1. Đối tượng hành trì viên mãn.
2. Thâu giữ viên mãn.
3. Thọ dụng viên mãn.
- Đối tượng hành trì viên mãn: Nghĩa là các sự việc từ mua bán, cho đến trói buộc, làm hại, chém giết, đánh đập, hành hạ v.v… thảy đều xa lìa.
- Thâu giữ viên mãn: Nghĩa là đối với công việc thâu giữ voi ngựa v.v…, cho đến công việc thâu giữ lúa thóc v.v… thảy đều xa lìa.
- Thọ dụng viên mãn: Nghĩa là y phục vừa đủ che thân, ăn uống vừa đủ no bụng nên sanh biết đủ. Đối với các vật lớn lao khác, ăn uống phi thời v.v… thảy đều xa lìa.
Lại nữa, bốn pháp như thân v.v… như bốn đường đi lớn. Đối với các pháp kia sanh khởi tác ý phi lý, như cầu nguyện tà vạy để có được lúa gạo, các thứ hoa màu. Đối với các pháp kia sanh khởi tác ý như lý, như cầu nguyện chân chánh để có được lúa gạo, hoa màu. Nên biết cõi Dục là địa bất định, giống như là da. Cõi Sắc, cõi Vô sắc cùng là địa định, giống như là thịt. Vô minh như máu. Ở trong ba cõi, do ba thứ lậu nên có nghĩa lậu ngâm thấm.
Lại nữa, như trước đã nói, hiện có vô số pháp ác, bất thiện như tham v.v…, do hai nhân duyên, nếu hình thành thì không thể tu tập bốn thứ niệm trụ, không phải là tất cả đều hình thành hết. Hai nhân duyên là:
1. Có triền tham v.v… hiện tiền.
2. Đối với triền ấy không thấy lỗi lầm.
Triền hiện tiền khiến tâm bị tạp nhiễm, không thể tu tập, tuy tạm xa lìa nhưng tánh luôn nhiễm vướng, không phải là không luyến tiếc. Nên đối với các pháp có thể tùy thuận tham v.v…, tâm bị tán động, luôn theo đuổi, chìm nổi. Vô số tầm tư thường theo đấy để nhiễu loạn, do đó không thể tu tập niệm trụ. Nếu không như thế, thì các hữu tình tánh không nhiễm chấp sâu xa. Nếu như vậy thì không thừa nhận là có thể tu tập bốn niệm trụ.
Lại nữa, tụng nêu:
Dũng lực tu đẳng trì
Môn khác, thần túc sau.
Nên biết kiến lập bốn thứ chánh đoạn, như nơi địa Thanh văn đã phân biệt rộng. Ở đây, nêu rõ về dũng là trường hợp thứ năm.
Thế nào là dũng? Nghĩa là như trước đã nói, có thể gắng nhẫn thọ, phát khởi siêng năng tinh tấn, đối với các khổ đã sanh, các khổ của lậu ngâm thấm, các khổ do Giới không bình đẳng, các khổ sanh ra do kẻ khác nói lời thô ác, não hại. Không phải do nhân duyên ấy khiến thối chuyển, xả bỏ việc tu tập gia hạnh chánh đoạn, nên gọi là dũng.
Lại nữa, nên biết kiến lập bốn thứ thần túc, như nơi địa Thanh văn đã phân biệt rộng. Nếu lược nói, do bốn thứ lực giữ vững tâm khiến định, thế nên kiến lập bốn thứ thần túc. Những gì là bốn? Đó là:
1. Lực của ý lạc tịnh.
2. Lực của sự việc siêng năng.
3. Lực của tâm hỷ lạc.
4. Lực của chánh trí.
Nên biết ở đây, do lực thứ nhất, nên đối với Tamma-địa phát sanh vui thích mong muốn, vì nhằm chứng đắc nên tu tập sự việc siêng năng. Do lực thứ hai, nên tâm của trụ đầu tiên khiến được an định. Do lực thứ ba, nên tâm đã trụ định không còn tán động nữa, không khiến đối với bên ngoài lại bị lưu chuyển, trôi nổi. Do lực thứ tư, nên quan sát đẳng trì, đối trị phiền não. Nơi pháp đã đoạn, chưa đoạn đều nhận biết rõ đúng như thật. Lại, đối với tướng xuất, nhập, trụ của đẳng trì, có thể khéo phân biệt, nhận rõ. Như thế, lại đối với các tướng hiện có của Xa-ma-tha, hoặc các tùy phiền não của Xama-tha, Tỳ-bát-xá-na, cùng tùy phiền não có thể đối trị v.v…, đều nhận biết rõ đúng như thật.
Người vui thích đẳng trì, ở trong đẳng trì, chỉ có từng ấy đẳng trì được thực hành, trừ chúng ra thì không có gì vượt hơn hoặc tăng thêm.
Lại nữa, do năm nhân duyên, nên biết tướng tu tập tóm lược của thần túc:
1. Do xa lìa tùy phiền não của phẩm Xa-ma-tha.
2. Do xa lìa tùy phiền não của phẩm Tỳ-bát-xá-na.
3. Đối với cảnh giới nơi đối tượng duyên của phẩm Tỳ-bát-xá-na nên buộc giữ tâm.
4. Đối với cảnh giới nơi đối tượng duyên của phẩm Xa-ma-tha nên buộc giữ tâm.
5. Cùng đối với cảnh giới nơi đối tượng duyên của hai phẩm đều nên buộc giữ tâm.
Ở đây nên biết, tùy phiền não của phẩm Xa-ma-tha: Là biếng trễ cùng hành với dục, và hôn trầm, thùy miên cùng hành với dục. Nên biết biếng trễ cùng hành với dục là tánh được nương dựa của hôn trầm, thùy miên cùng hành với dục.
Tùy phiền não của phẩm Tỳ-bát-xá-na: Là trạo cử cùng hành với dục và dục diệu bị tán động cùng hành với dục. Nên biết trạo cử cùng hành với dục là tánh được nương dựa của dục diệu bị tán động cùng hành với dục.
Lại, ở trong ấy, do biếng trễ cùng hành với dục, nên đối với phẩm Xa-ma-tha khiến trụ nơi tạp nhiễm, nhưng không thể khiến các Xa-ma-tha thảy đều diệt mất.
Do hôn trầm, thùy miên cùng hành với dục, nên đối với phẩm Xa-ma-tha khiến trụ nơi tạp nhiễm, cũng lại có thể khiến các Xa-ma-tha thảy đều diệt mất.
Do trạo cử cùng hành với dục, nên đối với phẩm Tỳbát-xá-na khiến trụ nơi tạp nhiễm, nhưng không thể khiến cho tất cả Tỳ-bát-xá-na đều diệt mất. Dục diệu bị tán động cùng hành với dục, đối với phẩm
Tỳ-bát-xá-na khiến trụ nơi tạp nhiễm, cũng khiến cho tất cả Tỳ-bát-xá-na thảy đều bị diệt mất.
Cảnh nơi đối tượng duyên của phẩm Tỳ-bát-xá-na: Tức là tưởng trước sau. Phân biệt về tưởng này, như nơi địa Thanh văn đã nói, nên biết về tướng.
Cảnh nơi đối tượng duyên của phẩm Xa-ma-tha: Là tưởng trên dưới. Đây cũng như trước, nên biết về tướng. Cảnh nơi đối tượng duyên của cùng hai phẩm: Nghĩa là tưởng ánh sáng. Tưởng ấy, đối với cả hai phẩm do dao động nên có các bóng sáng cùng hành nơi tâm tu.
Lại, không phải như dục v.v… cùng với biếng trễ khác tương ưng, gọi là biếng trễ cùng hành. Tinh tấn cũng thế, có được nghĩa cùng tương ưng với biếng trễ, nhưng tức tinh tấn rơi vào chỗ chậm chạp, không phát khởi đúng đắn sự siêng năng, tinh tấn tương tục, nên gọi là biếng trễ cùng hành.
Lại, năm tướng ấy nên biết là gồm thâu chung tất cả loại tu tập. Người vui thích đẳng trì, do đẳng trì này, nên chóng được thành tựu viên mãn.
Lại nữa, đối với năm xứ giải thoát, như chỗ ứng hợp, nên biết bốn thứ Tam-ma-địa tăng thượng như dục v.v… Nếu có Bí sô, dựa nơi ý lạc thanh tịnh cùng dục mạnh mẽ, vì nhằm chứng đắc thông huệ tối thắng, nên theo các Như Lai cùng đệ tử của Phật, cung kính tôn trọng, lắng nghe chánh pháp. Từ chỗ nghe liên tục, lần lượt chứng đắc Tam-ma-địa thù thắng. Nên biết đó gọi là Tam-mađịa dục tăng thượng.
Lại có Bí sô, như nơi pháp được nghe, như nơi pháp đã chứng đắc, phát khởi công dụng lớn, phát khởi tinh tấn lớn, hoặc chính là vì kẻ khác nên tuyên thuyết khai thị. Hoặc dùng âm thanh ngôn từ thắng diệu để đọc tụng. Từ nhân duyên thứ lớp không gián đoạn ấy, nên có thể tùy thuận đạt được Tam-ma-địa thù thắng. Nên biết đó gọi là Tam-ma-địa Tinh tấn tăng thượng.
Lại có Bí-sô, đối với các tướng của Tam-ma-địa Hiền thiện đã khéo giữ lấy, tư duy quán xét từ tướng bầm xanh v.v… cho đến vòng xích xương, dùng làm biên vực. Do đối tượng duyên ấy, nên lần lượt sanh khởi Tam-ma-địa thù thắng. Nên biết đó gọi là Tam-ma-địa Tâm tăng thượng.
Lại có Bí-sô, như pháp đã được lãnh hội, như pháp đã được chứng đắc, ở riêng nơi chốn vắng lặng, tư duy, lường tính, quan sát xét kỹ. Do nhân duyên ấy, nên lần lượt sanh khởi Tam-ma-địa thù thắng. Nên biết đó gọi là Tam-ma-địa Quán tăng thượng.
Lại có sai biệt: Nghĩa là do bốn môn nên khởi Tamma-địa:
1. Do môn như trước đã nói, từ kẻ khác, phát khởi vui thích mong muốn mãnh liệt được nghe chánh pháp.
2. Do môn từ kẻ khác đạt được sự chỉ dạy trao truyền khuyên bảo thuận hợp, liên tục cẩn trọng, phát khởi gia hạnh, chưa nhập Tam-ma-địa thù thắng căn bản, vì nhằm hướng nhập, nên chỉ dạy trao truyền đúng đắn.
3. Do môn Tâm hỷ lạc đã nhập Tam-ma-địa thù thắng căn bản, vì nhằm chuyển đắc phần vị trên còn lại nơi Tam-ma-địa thù thắng.
4. Do môn Quán đa văn, văn trì, tự có thể đối với pháp quan sát bình đẳng như lý.
Nên biết ở đây, do môn thứ nhất nên khởi Tam-mađịa Dục tăng thượng. Do môn thứ hai nên khởi Tam-mađịa Tinh tấn tăng thượng. Do môn thứ ba nên khởi Tamma-địa Tâm tăng thượng. Do môn thứ tư nên khởi Tamma-địa Quán tăng thượng.
Phần phân biệt nghĩa cùng phân biệt hành đoạn còn lại, như nơi địa Thanh văn đã nêu, nên biết về tướng.
Lại nữa, tu các thần túc dùng làm chỗ dựa, có thể dẫn phát đúng đắn các Thánh thần thông. Không có ngoại đạo tu các thần túc, có thể dẫn phát đúng đắn các Thánh thần thông.
Lại, các Thánh giả dẫn phát thần thông tối thắng hiện có, theo chỗ nguyện lạc, kéo dài các hành của thọ mạng, hoặc trụ một kiếp hoặc trụ hơn một kiếp. Nghĩa là hữu tình chủng tánh bất tịnh là vượt quá một kiếp, gọi là "vật loại". Nên biết loại này chỉ trụ nơi nội pháp.
Lại, các Thánh giả với thần thông biến hóa, đối với bốn sự không thể biến hóa:
1. Căn.
2. Tâm.
3. Tâm sở hữu pháp.
4. Nghiệp cùng dị thục của nghiệp.
Lại, thần thông tánh biến của các Thánh giả không thể chuyển biến thuận theo nghiệp của lạc thọ, khiến tự tánh cải đổi thành thuận theo khổ thọ. Như thuận theo lạc thọ đối chiếu với thuận theo khổ thọ, thì thuận theo nghiệp của khổ thọ đối chiếu với thuận theo lạc thọ, nên biết cũng thế. Hoặc nghiệp có thể thuận theo phi khổ lạc thọ, nên biết rốt ráo là thuận theo phi khổ lạc.
Lại, thần thông trụ giữ của các Thánh giả, không thể trụ giữ thuận theo nghiệp của phi khổ lạc thọ khiến thành không thọ. Phần còn lại cũng như thế.
Lại, thần thông biến thời của các Thánh giả, không thể chuyển biến, thuận theo nghiệp thọ nhận của hiện pháp khiến thành thuận theo nghiệp thọ nhận của hậu pháp, cùng thuận theo nghiệp thọ nhận của hậu pháp, khiến thành thuận theo nghiệp thọ nhận của hiện pháp.
Lại nữa, tụng nêu:
An lập cảnh được hành
Huệ căn là tối thắng
Nên biết sau an trụ
Ngoài là phẩm phàm phu.
Lược do nghĩa tăng thượng của sáu xứ, nên biết đã kiến lập hai mươi hai căn. Những già là sáu xứ? Đó là:
1. Nghĩa tăng thượng của cảnh giới có thể giữ lấy.
2. Nghĩa tăng thượng của việc kế thừa gia tộc.
3. Nghĩa tăng thượng của sĩ dụng gia hạnh thuộc sự nghiệp đều riêng biệt của nhân duyên sinh sống.
4. Nghĩa tăng thượng của việc thọ dụng theo các nghiệp nơi đời trước đã tạo nên quả ái, không ái, cùng tạo nghiệp mới.
5. Nghĩa tăng thượng của việc hướng tới nẻo lìa dục thế gian.
6. Nghĩa tăng thượng của việc hướng tới nẻo lìa dục xuất thế gian.
Nên biết ở đây, nhãn căn là đầu tiên, ý căn là sau, sáu căn như thế, đối với cảnh giới được giữ lấy, có nghĩa tăng thượng. Hai căn nam nữ, đối với việc con cháu có thể kế thừa gia tộc, có nghĩa tăng thượng. Một loại mạng căn của sĩ dụng gia hạnh thuộc sự nghiệp đều riêng biệt của nhân duyên sinh sống đới với người yêu mến thọ mạng, có nghĩa tăng thượng. Lạc là đứng đầu, xả là sau, năm căn như thế đối với sự thọ dụng theo các nghiệp nơi đời trước đã tạo nên quả ái không ái, cùng tạo nghiệp mới, có nghĩa tăng thượng. Tín là đứng đầu, huệ là sau, năm căn như thế, đối với việc có thể hướng tới nẻo lìa dục thế gian, có nghĩa tăng thượng. Ba căn vô lậu: vị tri tương tri, dĩ tri, cụ tri, đối với việc có thể hướng tới nẻo lìa dục xuất thế gian rốt ráo tột cùng, có nghĩa tăng thượng.
Tất cả nghĩa đã hiện thấy nơi thế gian, chỉ ở nơi số lượng ấy, nên biết là nghĩa có thể đạt đến cứu cánh không ra ngoài hai mươi hai căn này, nên hai mươi hai căn gồm thâu tất cả căn.
Lại nữa, hoặc có một loại hữu tình, khởi tư duy như vầy: Nếu không có nội ngã dựa vào sáu căn môn, hành sáu cảnh giới, sáu căn như thế, đối tượng hành đều riêng, cảnh giới đều khác. Nhưng sáu căn này, chỉ có thể nhận lãnh cảnh nơi đối tượng hành của chính mình. Vậy cái gì có thể lãnh nhận tánh của cảnh nơi đối tượng hành của sáu căn như thế?
Nên biết đây là do không thể thấu đạt đạo lý duyên khởi, nên đối với các hành khởi phân biệt sai lạc. Lý duyên khởi: Nghĩa là như có lúc sư du già tu tập, đối với sáu căn bên trong duyên dựa như lý, tinh tấn gia hạnh, tu bốn niệm trụ, tức bấy giờ, bốn niệm trụ này lãnh nhận tánh của cảnh nơi đối tượng hành của sáu căn. Tức ở đây, đối với vị kia, do thanh tịnh, nên gọi là xuất ly.
Lại, tức siêng tu bốn niệm trụ, nên đầu tiên thấu đạt đế lý, đắc bảy giác chi, tức nơi lúc ấy, các giác chi này là chân, là thật, nên lãnh nhận tánh của cảnh nơi đối tượng hành của niệm trụ.
Lại do nhân duyên tu tập giác chỉ khởi nơi "minh thoát", tức bấy giờ, minh thoát như thế, lãnh nhận giác chi đã khéo tu tập. Từ đấy trở về sau, lại không cần tu tánh của cảnh nơi đối tượng hành. Vì như thật là đã đoạn trừ tất cả phiền não. Tức nơi lúc này, đối với Niết-bàn đã đoạn dứt các phiền não, lìa tăng thượng mạn, do xa lìa tăng thượng mạn, nên minh thoát cứu cánh hiện thật có này lãnh nhận như thật, đã được tánh của cảnh nơi đối tượng hành của minh thoát. Do xuất ly tất cả pháp hữu vi hiện có ấy, nên biết minh thoát cũng được xuất ly. Ở trong Niết-bàn, chủ thể nhận lấy, đối tượng được nhận lấy, hai thứ được thiết lập đều không thật có, hết thảy lý luận đã vĩnh viễn diệt lìa. Do đó, cho đến các pháp hữu vi có thể lần lượt được hỏi đáp, thiết lập chủ thể nhận lấy, đối tượng được nhận lấy nơi ngôn luận có sai biệt, trong pháp vô vi của Niết-bàn cứu cánh, tất cả hỏi đáp nơi ngôn luận có sai biệt đều không như lý. Vì vậy nên biết ở trong vô ngã, nên hiển thị đúng đắn là chỉ có tạp nhiễm, chỉ có thanh tịnh.
Lại nữa, hoặc có sĩ phu, hữu tình thuộc chủng loại trí huệ, các căn mạnh mẽ, do sức xét chọn, tác ý như lý, tư duy về các pháp, nên đối với Niết-bàn đạt được sự tin hiểu chân chánh. Do sự tăng thượng ấy nên phát khởi siêng năng tinh tấn, có thể ở nơi cảnh giới của đối tượng duyên như thân v.v… an trụ nơi chánh niệm. Do sự tăng thượng này, nên có thể ở nơi đối tượng duyên khiến tâm một nẻo. Đối với tất cả pháp nhận biết rõ đúng như thật, quán thấy đúng như thật. Do nhân duyên ấy nên có thể đạt đến cứu cánh. Do đó, huệ ấy, hoặc đầu hoặc sau đều có nhiều đối tượng tạo tác, nên nới huệ căn là hết sức thù thắng.
Lại nữa, hoặc nương nơi Bồ đề Vô thượng của chư Phật, đạt được chánh tín cho đến chánh huệ, đối với thế gian này cũng không có, nên biết trụ này là phẩm phàm phu ngoại. Tức đối với pháp ấy chỉ có thế gian, không có xuất thế, nên biết trụ ấy là phẩm phàm phu nội, không phải là phàm phu ngoại. Nếu đối với pháp ấy có xuất thế, nên biết tất cả là trụ riêng. Phẩm còn lại không phải là loại của phẩm kia.
Lại nữa, tụng nêu:
Xét chọn về giác huệ
Cõi nước cùng các vua
A-la-hán, hữu học
Chất trực là sau cùng.
Lược nêu ở trong các hành ác của tất cả hiện pháp, hậu pháp, đã thấy rõ lỗi lầm rồi, có thể xét chọn đúng đắn, dứt trừ các hành ác, tu các hành thiện, gọi là lực xét chọn. Nên biết lực này có thể thành tựu hai sự:
1. Có thể đi đến nẻo thiện của Người, Trời.
2. Có thể đi đến Niết-bàn của hiện pháp.
Lại, ở đây có thể cùng với lực tu tập gồm thâu, tu các niệm trụ làm chỗ nương dựa. Do đấy làm nương dựa, nên có thể tu tập đúng đắn các pháp Bồ đề phần như bốn niệm trụ. Nên biết sự tu tập ấy gọi là lực tu tập.
Lại, lực xét chọn có thể cùng với ba xứ xấu hổ làm bạn. Những gì gọi là ba xứ xấu hổ? Đó là:
1. Xứ xấu hổ của kẻ khác: Nghĩa là khởi suy nghĩ: Nếu ta làm ác, sẽ bị những người nơi thế gian có tha tâm trí là chư Phật Thế Tôn, hoặc các Thánh đệ tử, hoặc các Thiên chúng tin kính Phật giáo, cùng quở trách, lìa bỏ.
Đó gọi là lực xét chọn của xứ thứ nhất.
2. Xứ xấu hổ của chính mình: Tức là khởi tư duy: Nếu ta làm ác, nhất định sẽ bị sự quở trách, chê bai sâu xa đối với bản thân! Đâu có người thiện nào làm theo hành ác ấy? Đó gọi là lực xét chọn của xứ thứ hai.
3. Xứ xấu hổ của pháp: Nghĩa là khởi tư duy: Ta nếu làm ác liền bị chướng ngại. Ở trong Pháp-Luật thuyết giảng thiện đã tu phạm hạnh, pháp ấy nếu có liền hủy hoại phạm hạnh. Đó gọi là lực xét chọn của xứ thứ ba.
Như thế, về xấu hổ, nên biết ba xứ dùng làm tăng thượng:
1. Tăng thượng của đời.
2. Tăng thượng của chính mình.
3. Tăng thượng của pháp.
Lại nữa, do hành tự lợi cùng hành lợi tha làm tăng thượng, nên biết đã kiến lập có bốn thứ lực:
1. Lực giác huệ.
2. Lực tinh tấn.
3. Lực không tội.
4. Lực thâu nhận.
Có thể dẫn đến Niết-bàn của hiện pháp gọi là tự nghĩa. Có thể đi đến nẻo thiện Trời, Người, cũng gọi là tự nghĩa. Nên biết ở đây dựa vào tự nghĩa thứ nhất để kiến lập hai lực giác huệ và tinh tấn. Do hai lực này nên có thể có phương tiện để phát khởi chánh cần. Dựa vào tự nghĩa thứ hai để lập lực không tội. Do ba lực ấy nên tất cả tự nghĩa đều đạt cứu cánh. Tha nghĩa của người vui thích lợi tha, do sự tăng thượng còn lại ấy nên lập lực thâu nhận. Nên biết "nhiếp sự" như nơi địa Bồ tát đã biện biệt về tướng.
Lại nữa, dựa nơi cõi nước và vua, hoặc nam hoặc nữ, hoặc chồng hoặc vợ, hoặc ngu hoặc trí, hoặc là tại gia, hoặc chúng xuất gia, nên biết đã kiến lập có mười thứ lực. Nghĩa là các quốc vương có lực tự tại, các lực như thế nói rộng như nơi kinh.
Lại nữa, các A-la-hán thành tựu tám lực, lãnh nhận đúng như thật, các thứ Tham-sân-si đều vĩnh viễn đoạn dứt rốt ráo, không tạo các ác, tu tập các thiện. Nghĩa là tâm hướng đến nẻo xa lìa, xuất ly, Bát Niết-bàn, chán bỏ hữu sau, chán bỏ nhân duyên, không tạo nghiệp ác. Lại thấy các dục cũng như một phần lửa than đỏ rực, nên chán bỏ các dục, chán bỏ nhân duyên, không tạo nghiệp ác. Lại do sáu môn để tu tập các thiện: niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn lực, giác chi, đạo chi.
Lại nữa, chư Phật, Như Lai, dựa nơi hành tự lợi cùng hành lợi tha, vì muốn hiển bày mình cùng với các đệ tử có sai biệt, nên nói như vầy: Các hàng hữu học thành tựu năm lực, chỉ có Như Lai thành tựu mười lực. Nếu có các Thánh đệ tử hành theo hành tự lợi, thành tựu năm lực của bậc hữu học, đạt được quả A-la-hán tối thượng. Từ đấy liên tục, hết thảy tự nghĩa đều đạt hoàn toàn rốt ráo. Như Lai đạt được A-la-hán rồi, thành tựu mười lực, hành theo hành lợi tha, tức dùng lợi tha làm tự nghĩa, nếu như vào lúc ấy, tất cả mọi sự việc giáo hóa đều trọn vẹn, nhập Giới Bát Niết-bàn Vô dư y, nên biết bấy giờ, đối với sự việc đã tạo tác mới được viên mãn.
Nếu A-la-hán đã tu tập, hành trì, hoặc vì lợi tha tức là tự nghĩa, hai nhân duyên ấy đối với các đệ tử đều là thù thắng. Mười lực của Như Lai như nơi địa Bồ tát đã phân biệt rộng.
Lại nữa, nếu có hữu tình tánh ngay thẳng, tự yêu mến, không dua nịnh, không dối trá, vì chứng tự nghĩa có bốn thứ tướng. Nếu dựa vào Pháp-Luật thuyết ác liền có trở ngại, nên dựa vào Pháp-Luật thuyết giảng thiện mới không bị trở ngại. Những gì là bốn thứ tướng? Đó là:
1. Thuyết nêu giáo pháp của chánh pháp.
2. Chỉ dạy, khuyên bảo, trao truyền.
3. Thông tỏ như lý.
4. Chứng đắc chân thật.
Chánh pháp được nghe là nơi chốn nương dựa của các thắng giải, do có thể xa lìa không nhân, nhân ác, khai thị nghĩa của nhân chánh hợp lý. Những sự chỉ dạy, trao truyền, khuyên bảo thuận hợp, khéo có thể tùy thuận nơi pháp không điên đảo thuộc về văn nghĩa quyết đoán gia hạnh giáo hóa. Có thể khiến chứng đắc pháp là nơi chốn nương dựa của thắng giải như trước.
Hoặc có các thiện nam, tự yêu mến, đã được điều phục, nối tiếp, có thể gắng nhận, đến nhập trong PhápLuật nội giáo, được tuyên thuyết đúng đắn, được khai ngộ đúng đắn, nên có thể mau chóng hướng đến nẻo thắng tiến. Thông tỏ như lý chỗ nên thông tỏ. Cũng có thể chứng thật pháp nên chứng thật, nghĩa là bốn niệm trụ dùng làm chỗ dựa. Đối với pháp hữu vi, các bậc thông huệ cùng cho là có, hoặc cho là không, đều nhận biết rõ, đúng. Đối với pháp vô vi, cho đến cõi Hữu đảnh đều là hữu thượng, có thể nhận biết rõ đúng đó là hữu thượng.
Niết-bàn vô thượng đều nhận biết rõ đúng như thật đó là vô thượng. Như thế gọi là thông tỏ như lý.
Lại, bốn niệm trụ dùng làm nơi nương dựa, do tâm định tĩnh, nên đối với bảy giác chi tu tập đúng đắn rồi, đối với minh giải thoát tác chứng rốt ráo. Như thế gọi là chứng đắc chân thật.
Hoặc các thiện nam tự yêu mến kia, hướng nhập nơi Pháp-Luật thuyết ác thì đối với bốn xứ đều không thể đạt được, gọi là trở ngại.
Lại nữa, tụng nêu:
Lập sai biệt
Thực thứ lớp
An lạc trụ
Tu ở sau.
Do hai phẩm Xa-ma-tha và Tỳ-bát-xá-na cùng có sai biệt, nên kiến lập giác chi, như nơi địa Thanh văn đã nói, nên biết về tướng.
Lại nữa, tự tánh sai biệt, đối tượng duyên, nhân duyên cùng sai biệt nên biết bảy giác chi có mười bốn thứ sai biệt.
Đối tượng duyên, nhân duyên, cùng phân biệt rộng về nghĩa, như nơi địa Tam-ma-hí-đa cùng địa Thanh văn đã nêu, nên biết về tướng.
Lại nữa, ở trong pháp có thể tùy thuận giác chi, lược có hai thứ tác ý không điên đảo, nên biết cùng chung với giác chi làm thứ ăn. Những gì là hai thứ tác ý? Đó là:
1. Tác ý đúng đắn.
2. Tác ý thường xuyên.
Cùng với đấy trái nhau, nên biết không phải là thức ăn.
Lại nữa, đối với đầu, giữa, sau, theo đấy thiếu một chi, khiến cho sự nhận biết đúng như thật không được viên mãn.
Như nơi sắc loại, chủ thể nương dựa, đối tượng được nương dựa đã lưu chuyển, an lập, theo đấy sanh khởi, lần lượt mà nói. Nên biết ở đây, niệm là đối tượng nương dựa, trạch pháp là chủ thể nương dựa. Phần còn lại theo chỗ ứng hợp nên biết cũng thế.
Lại nữa, như có Bí sô, đối với các giác chi, theo phương tiện tu tập, do bốn nhân duyên, khiến Bí sô kia không được an ổn mà trụ. Bốn thứ nhân duyên là:
1. Phẩm loại thô trọng của tất cả phiền não chưa lìa bỏ.
2. Các tùy phiền não của phẩm Xa-ma-tha còn hiện tiền.
3. Các tùy phiền não của phẩm Tỳ-bát-xá-na còn hiện tiền.
4. Đường sá chưa sửa sang cho tốt mà xe đã đóng ngựa đầy đủ.
Cùng trái nhau với bốn nhân duyên ấy, tức khiến cho
Bí sô kia đạt được an trụ. Ở đây, hai loại Bí sô thiện xảo đều thấu đạt như thật, chánh tri mà trụ.
Do các tác ý có gia hạnh, nên tinh tấn thái quá. Lại, sau do trước có tăng giảm, nên vận hành không đều. Do hai duyên ấy, nên biết gọi là đường đi chưa sửa sang cho tốt. Cùng với đấy trái nhau, gọi là đường đi đã được sửa sang tốt đẹp.
Như Chuyển luân vương, đối với bốn châu, bãi, đạt tự tự lớn, có được bảy giác chi báu chân tịnh, nên biết cũng thế. Nghĩa là nơi hai phẩm Chỉ, Quán cùng vận hành, hàng phục tất cả phiền não oán đối, do nghĩa ấy, nên giác chi thứ nhất là niệm cũng như xe báu. Cảnh tướng nơi đối tượng được nhận biết về lượng là vô biên. Chủ thể nhận biết là trí thể cũng theo đấy mà rộng lớn. Do nghĩa ấy, nên giác chi trạch pháp cũng như voi báu. Dựa vào đấy, mau chóng có thể cho đến đi tới nơi chốn hành hóa, chứng đắc dị biệt thù thắng. Do nghĩa ấy, nên giác chi tinh tấn cũng như ngựa báu. Vừa ý, không tội, là hết sức thù thắng. Do ý nghĩa ấy, nên giác chi hỷ cũng như nữ báu. Thân tâm sáng rõ tường tận có thể gắng nhận, do ý nghĩa ấy, nên giác chi khinh an cũng như thần ngọc báu. Có thể thực hiện hết thảy sự việc vui cầu, do ý nghĩa ấy nên giác chi định như quan giữ kho báu. Có thể diệt trừ tất cả quân của pháp nhiễm ô, có thể thống lãnh tất cả quân của pháp thanh tịnh, có thể hướng đến trụ xứ an ổn vô tướng. Do ý nghĩa nên giác chi xả như tướng quân báu.
Lại nữa, các người tu hành, đạt được bảy giác chi, ví như đại vương có chiếc rương chứa y phục đẹp đẽ, ba thời thọ dụng, ba phần an trụ. Bảy giác chi kia nên biết cũng thế.
- Nói ba thời: Là thời phần đầu ngày, thời phần giữa ngày và thời phần cuối ngày.
- Nói ba phần: Là phẩm Xa-ma-tha, phẩm Tỳ-bátxá-na cùng cả hai phẩm ấy. Ở trong phần đầu, trụ nơi bốn giác chi. Trong phần thứ hai, trụ nơi bốn giác chi. Trong phần thứ ba, an trụ đầy đủ nơi bảy giác chi. Các người tu hành chưa từng an trụ chỉ một giác chi, nơi bảy giác chi, đối với các ngoại đạo không oán ghét, không ganh chống, luôn mang ý lạc tạo lợi ích chuyển đổi, lìa mọi trói buộc của tất cả phiền não, gọi là không oán, không địch, không hại, không có tai họa. Nếu người tu hành, nơi bảy giác phần tùy thời hiện tiền, theo lượng hiện tiền, được gọi là trụ. Nếu thời thối xuất, gọi là diệt. Nơi tất cả pháp ấy đều nhận biết rõ đúng như thật. Hành giả do chánh tri, trụ như thế, gọi là trụ tội, không có ái vị, tâm lìa vị nhiễm.
Lại nữa, hai mươi mốt thứ tưởng cùng hành, tu các giác chi, nên biết lược do hai nhân duyên:
1. Căn cứ nơi nghĩa tương ưng cùng hành.
2. Căn cứ nơi nghĩa vô gián cùng hành.
Các tưởng như vô thường cùng hành tu tập, cho đến tưởng chết cùng hành tu tập: Là căn cứ nơi nghĩa tương ưng.
Tưởng bất tịnh v.v… cùng hành tu tập, cho đến tưởng quán không cùng hành tu tập: Là căn cứ nơi nghĩa vô gián.
Bi v.v… cùng hành tu tập, nên biết cũng thế.
Lại, ở trong tất cả hành của quá khứ, hiện tại, vị lai, các hành ái nhiễm, hoặc biếng trễ, lười nhác, hoặc Tátca-da-kiến tuy đã đoạn dứt, nhưng tập khí tùy buộc ngã mạn vẫn hiện hành. Hoặc tham vị ái. Hoặc đối với vô số sự diệu của thế gian, tham ái dục lạc. Hoặc có các tùy miên, phiền não khác. Hoặc mong cầu lợi dưỡng. Hoặc mong cầu về đời sống. Hoặc các dục ái. Hoặc các hữu ái. Hoặc tùy theo phân biệt hư vọng dấy khởi bốn thứ dục tham:
1. Tham sắc đẹp.
2. Tham hình dáng.
3. Tham xúc chạm mịn màng.
4. Tham thừa sự.
Như thế có thể khiến sanh khởi các thứ lỗi lầm tai họa phi lý hiện có, cùng khiến cho tâm vượt khỏi phần vị mà chuyển. Đối trị chúng, theo chỗ ứng hợp, có hai mươi mốt tưởng cùng hành tu tập giác chi có sai biệt. Nghĩa là vì đối trị bốn thứ chướng nên tu tưởng hành vô nguyện, từ tưởng vô thường, cho đến tưởng tất cả thế gian không thể an vui.
Vì nhằm đối trị một thứ chướng, nên tu tưởng hành không, tưởng khổ, vô ngã. Vì nhằm đối diệt chướng của tùy miên, phiền não còn lại, nên tu tưởng hành vô tướng nơi ba cõi. Vì nhằm đối trị sự mong cầu lợi dưỡng cùng dục ái, nên ở trong các dục tu tưởng lỗi lầm tai họa. Vì nhằm đối trị sự mong cầu về đời sống cùng hữu ái, nên tu tập tưởng chết. Vì nhằm đối trị sự theo đuổi phân biệt hư vọng dấy khởi bốn thứ dục tham, nên tu tưởng bất tịnh là đầu, cho đến tưởng quán không là sau.
Lại, ở đây tất cả từ tưởng máu bầm xanh, cho đến tưởng quán không, nên biết đều thuộc về tưởng bất tịnh. Lại, trong ấy, tưởng máu bầm xanh là đầu, tưởng sình trướng là sau, là đối trị tham sắc đẹp. Tưởng thây người chết bị các loài vật ăn nu-ốt, tưởng. Tưởng phân hủy hết sạch, tưởng phân tán, là đối trị tham về hình dáng. Tưởng về bộ xương khô, tưởng về các đốt xương liền nhau, là đối trị tham xúc chạm mịn màng. Tưởng quán không tâm thức, không có tử thi, là đối trị tham thừa sự.
Lại, ở trong đó tu từ, tột cùng là đến cõi Biến tịnh, như nơi địa Tam-ma-hý-đa đã nói, nên biết về tướng.
Lại nữa, tụng nêu:
Đầu lực trong ngoài
Thanh tịnh sai biệt
Dị môn Sa-môn
Bà-la-môn sau.
Trong tất cả lực, hoặc trong hoặc ngoài, vì nhằm sanh khởi tám chi Thánh đạo, có hai thứ lực, đối với các lực còn lại là hết sức thù thắng. Hai thứ lực là:
1. Đối với ngoại lực, lực của thiện tri thức là thù thắng hơn hết.
2. Ở trong nội lực, lực của chánh tư duy là thù thắng hơn hết.
Nên biết ở đây, lìa các chướng ngại, trước tu nghiệp phước, đối với các thứ ăn uống, y phục v.v… không có thiếu thốn, gọi là ngoại lực khác. Trừ tưởng tương ưng với chánh tư duy, các chi phần đoạn trừ còn lại, gọi là nội lực khác.
Bên ngoài, thiện tri thức: Là từ nơi vị kia, nghe, lãnh hội chánh pháp. Do đấy nên nói: Nghe âm thanh từ kẻ khác.
Bên trong, chánh tư duy: Nghĩa là sự liên tục ấy có thể phát khởi chánh kiến, là đứng đầu nơi đạo.
Lại nữa, chánh kiến ấy, nếu ở nơi hàng hữu học, do vô lậu nên gọi là thanh tịnh. Nếu ở nơi bậc vô học, thanh tịnh tương tục, nên gọi là tươi trắng đẹp đẽ. Nếu ở thế gian, xa lìa vô lượng các hành tà ác thuận theo kiến chấp của ngoại đạo, do đấy gọi là không có chút bụi bặm. Xa lìa các vết bụi bặm đã dấy khởi các nghiệp tạp nhiễm của hữu sau, vì thế gọi là lìa tùy phiền não.
Lược nói về tất cả tám chi Thánh đạo, thuộc về hai xứ:
1. Thế gian.
2. Xuất thế gian.
- Về thế gian: Do ba lậu, bốn thủ trói buộc, nên không thể dứt hết khổ. Là tánh thiện, nên có thể đi đến nẻo thiện.
- Về xuất thế gian: Cùng với đấy trái nhau, nên có thể dứt hết các khổ.
Lại, tám chi Thánh đạo như Chánh kiến, phân biệt rộng về nghĩa, như nơi địa Thanh văn cùng phần Nhiếp dị môn đã nói, nên biết về tướng. Bảy thứ nhân của định, đầy đủ như nơi địa Tam-ma-hý-đa đã nói.
Lại nữa, Chánh kiến đứng đầu nơi tám chi Thánh đạo, hợp chánh lý nên gọi là Pháp. Có thể diệt hết thảy các phiền não, nên gọi là Tỳ-nại-da. Cách các pháp ác là hết sức xa. Tất cả Thánh Hiền đều cùng noi theo đấy để tu tập, nên gọi là Thánh. Có thể tùy thuận đi đến các nẻo thiện, nên gọi là nẻo thiện. Hướng đến Niết-bàn nên gọi là nên tu. Các bậc có trí đều xưng tán nên gọi là lành thay!
Cùng với đấy trái nhau, nên biết tức là tà kiến đứng đầu tám chi tà đạo. Sai biệt hiện có gắn chặt với phẩm vô minh tối tăm, nên gọi là đen. Đi đến nẻo ác, nên gọi là vô nghĩa. Tánh bất thiện nên gọi là thấp kém. Sanh trong hiện pháp các thứ sợ hãi cùng oán ghét hiện có, nên gọi là có tội. Các bậc có trí đều chê trách xa lìa, nên gọi là nên xa lìa.
Lại nữa, các Sa-môn hiện có, dựa nơi Đệ nhất nghĩa, an lập tám chi Thánh đạo như thế, làm nghĩa Sa-môn, vì nghĩa ấy, nên ở trong
Pháp-Luật thuyết giảng thiện, giả gọi là xuất gia, thọ tánh Sa-môn. Lại, vì rốt ráo không hoại mất, nên gọi là Đệ nhất nghĩa.
Về giả danh, tức không như thế. Các hữu tình thành tựu tánh Sa-môn của Đệ nhất nghĩa, nên biết cũng gọi là Sa-môn thắng nghĩa.
Lại, chư vị kia truy cầu quả Sa-môn này, với nghĩa là các thứ Tham-sân-si đã đoạn trừ rốt ráo, do đó gọi đấy là nghĩa Sa-môn. Nghĩa Sa-môn này lại có hai loại:
1. Kiến lập tổng tướng không sai biệt.
2. Hoặc có tạo tác, hoặc không tạo tác.
Kiến lập hành hướng trụ quả có sai biệt, như thế là tất cả gồm có bốn loại:
1. Tánh Sa-môn.
2. Là Sa-môn.
3. Nghĩa Sa-môn.
4. Quả Sa-môn.
Có đạo lý sai biệt của Bà-la-môn, nên biết cũng thế.
Lại nữa, tụng nêu:
Chướng tùy theo hoặc, tầm
Quả dục tế thân nhọc
Học trụ cùng tác ý
Trí không chấp là sau.
Tu tập niệm hơi thở ra vào, sai biệt có mười sáu hành, phân biệt rộng về nghĩa như nơi địa Thanh văn đã nói, nên biết về tướng.
Lại, các sư Du già siêng tu hành, tu tập niệm hơi thở ra vào như thế. Bấy giờ, nên biết có năm pháp chướng ngại:
1. Đối với ngoại duyên, tâm bị tán loạn.
2. Hơi thở ra vào chuyển có khó khăn.
3. Triền trạo cử-ố tác hiện tiền.
4. Triền hôn trầm-thùy miên hiện tiền 5. Vui thích về đạo tục cùng trụ xen tạp.
Năm pháp như thế, kẻ đối với định chưa đạt được muốn cầu tâm định, kẻ đạt định rồi thì tăng trưởng bội phần, nên biết tất cả có thể bị chướng ngại. Các thứ tùy phiền não của phẩm Xa-ma-tha, lúc tạo nhiễm ô phát khởi thân hôn trầm, sanh tâm thấp kém. Do tu tập đúng đắn niệm hơi thở ra vào, thân tâm khinh an, có thể khiến cho hôn trầm, thấp kém cùng hành với thân tâm thô trọng thảy đều xa lìa. Các tùy phiền não của phẩm Tỳ-bát-xána, lúc tạo nhiễm ô phát sinh vô số tầm tứ vọng tưởng, nghĩa là các tầm tứ bất chánh như tầm tứ dục v.v…, cùng tầm tứ vô minh phần đã sanh khởi vô số vọng tưởng như tưởng dục v.v… Do tu tập đúng đắn niệm hơi thở ra vào, khiến các tầm tứ thảy đều lặng dứt. Vì nhằm đối trị các vọng tưởng của vô minh phần kia, nên thuần tu Tưởng minh phần, khiến mau được viên mãn.
Lại nữa, các sư Du già, chánh cần tu tập niệm hơi thở ra vào, đối với tầm tứ duyên nơi các hành của quá khứ, có thể khiến sanh khởi vô gián các đẳng trì hữu gián, thiếu sót, mau chóng được tổn giảm. Đối với tầm tứ duyên nơi các hành hiện tại, có thể khiến vô gián sanh khởi các đẳng trì hữu gián có thiếu sót, mau được tịch tĩnh.
Lại, nếu lược nói, do có thể vĩnh viễn đoạn trừ sáu thứ kiết, nên biết đã kiến lập hai thứ, bốn thứ, cùng với bảy thứ các quả thắng lợi như kinh đã nói rộng. Những gì là sáu kiết? Đó là:
- Hai thứ kiết thuận hạ phần thượng phần.
- Hai thứ kiết do kiến đạo, tu đạo đoạn trừ.
- Hai thứ kiết của phần vị hoặc khởi hoặc sanh.
Như vậy là các kiết riêng khác, nên biết là đã nêu chung có sáu thứ kiết. Theo như thứ lớp đã kiến lập hai thứ, bốn thứ, bảy thứ các quả thắng lợi.
Lại nữa, tu tập niệm hơi thở ra vào, về sai biệt lược có hai thứ:
1. Hữu thượng.
2. Vô thượng.
-Về hữu thượng: Nghĩa là như có một hành giả, ở một mình nơi chốn vắng lặng, do tâm định tĩnh, quán xét như lý, mạng căn gắn liền với hơi thở ra, hơi thở vào. Nếu ta với sau hơi thở vào, không có hơi thở ra, hoặc sau hơi thở ra không có hơi thở vào: Như vậy là mạng căn tức nên đoạn dứt. Nhưng ở trong hành vô thường có sự việc kỳ lạ: Hơi thở vào diệt rồi, mạng căn của ta trụ, mới lại đến lúc hơi thở ra sanh khởi. Hơi thở ra diệt rồi, mạng căn của ta trụ, mới lại đến lúc hơi thở vào sanh khởi. Hành giả do duyên dựa nơi các sự như thế, nên thân tâm chán lìa ái giận đã phát sinh từ cảnh của ba đời, dốc tu khiến tâm thanh tịnh. Đó gọi là tu mười sáu hành hữu thượng, nên biết về hành vô thượng.
Lại nữa, niệm hơi thở vào ra như thế, trụ duyên nơi sắc của gió nhẹ làm cảnh giới, nên gọi là trụ vi tế. Cách tuyệt với tất cả tầm tứ hỗn loạn, nên gọi là không lưu tán. Phát sinh khinh an vi diệu hiện có nơi thân tâm thêm rộng lớn, nên gọi là không thể hàng phục.
Lại nữa, tu tập niệm hơi thở ra vào như vậy, khiến thân không mệt nhọc, khéo có thể trừ bỏ các thứ tùy phiền não của phẩm Xa-ma-tha. Khiến mắt không mỏi mệt, khéo có thể trừ dứt các tùy phiền não của phẩm Tỳbát-xá-na. Do thuận theo việc quán xét Niết-bàn an lạc, nên gọi là Tùy quán lạc. Do thuận theo việc lãnh nhận lạc trong địa của Tĩnh lự thứ ba, nên gọi là Lãnh nhận lạc. Trụ không nhiễm, không sợ hãi, nên gọi là Trụ an lạc.
Lại nữa, như có xứ ấy, hoặc có một người khởi suy nghĩ: Đức Như Lai cùng với kẻ hết sức thấp kém kia chứng đắc quả A-la-hán huệ giải thoát, là không có sai biệt. Nghĩa là dựa vào giải thoát, khởi tư duy: Giải thoát của Như Lai cùng với giải thoát hiện có nơi quả A-lahán huệ giải thoát, là không có sai biệt.
Lại, có người khởi niệm như vầy: An trụ hiện có do lìa các cái của Như Lai; Người ở trong nội pháp, vào hàng hết sức thấp kém, hoặc các bậc hữu học, hoặc các hàng phàm phu do lực của tinh tấn, nên đối với năm cái đã "phục đoạn" mà trụ, gọi là lìa cái trụ. lìa cái trụ này, cùng với lìa cái trụ kia, là như nơi giải thoát, không có sai biệt.
Vì có sai biệt, nên biết hai thứ "lìa cái trụ" như thế là có sai biệt rất lớn. Nghĩa là các vị hữu học, tâm của trụ lìa cái tuy hiện hành, cùng với Đức Như Lai giống nhau, nhưng nơi các vị kia, tùy miên chưa đoạn trừ vĩnh viễn, các cái thường xuyên gián tạp nối tiếp nơi tâm, phải luôn luôn tác ý gắng sức để trừ bỏ.
Như Lai, đối với các cái đã đoạn trừ rốt ráo, nên lìa các cái trụ. So với lìa các cái trụ hiện có của các vị kia, là có sai biệt rất lớn, không phải như nơi giải thoát không có sai biệt.
Lại nữa, các sư Du già tu niệm hơi thở ra vào làm chỗ nương tựa để tu bốn niệm trụ. Tác ý như lý dùng làm chỗ dựa, đối với các tác ý phi lý hiện có nơi nội tâm chưa đoạn trừ, đều nhận biết rõ đúng như thật đó là phi lý. Đối với các tác ý như lý hiện có nơi nội tâm, cũng nhận biết rõ đúng như thật đó là như lý. Đã nhận biết rõ rồi, thì đối với các tác ý phi lý hiện có nơi nội tâm, hoàn toàn xa lìa. Đối với các tác ý như lý hiện có như vậy nên hoàn toàn tu tập vì nhằm khiến các tác ý phi lý kia vĩnh viễn đoạn diệt.
Lại, ở đây, bốn pháp như thân v.v… như bốn đại lộ, tác ý phi lý như khối đất bụi, không bền chắc, không chân thật, làm mê loạn tâm. Tác ý như lý như xe cộ đủ loại từ bốn phương chạy đến, gặp nhau, chen nhau. Bốn môn cảnh giới như thân v.v… chuyển biến có thể loại trừ tác ý phi lý kia như khối đất bụi, cũng khiến cho tất cả thanh tịnh được nối tiếp.
Lại nữa, tinh tấn tu tập niệm các hơi thở, do tu tập đúng đắn bốn thứ niệm trụ, là vô ngã, là bình đẳng, bình đẳng. Chủng loại của thân ấy có thể giữ lấy tác ý như lý đối với thân. Như thân, tác ý vô ngã cũng thế. Do đó, nói hành giả kia, vì một phần của thân có thể tu thân niệm trụ như vậy, đều không thể được. Như thân niệm trụ, nói rộng cho đến tu pháp niệm trụ, nên biết cũng vậy. Như thế, giáo pháp tu niệm trụ của chư Phật, trong pháp của ngoại đạo, đều không hề có. Vậy nên nói giáo pháp tu niệm trụ này, gọi là không phải chỗ nắm giữ của tất cả ngoại đạo.
Lại nữa, tụng nêu:
Đầu, tôn trọng Thi-la
Giới thanh tịnh viên mãn
Hiện hành học thắng lợi
Học sai biệt là sau.
Học có ba loại: Giới học tăng thượng, Tâm học tăng thượng, Huệ học tăng thượng. Kiến lập ba học giới như thế có sai biệt, như nơi địa Thanh văn đã nói, nên biết về tướng.
Lại, lược nêu ở trong các thứ học ấy, các hành tà hiện có nên nhận biết rõ, đúng. Hành chánh hiện có cũng nên nhận biết rõ, đúng.
- Nói hành tà: Nghĩa là như có một hữu tình không tôn trọng giới, mà lại xuất gia, tuy là xuất gia nhưng không lấy tịnh giới làm sự tăng thượng. Như đối với tịnh giới, thì đối với định, với huệ, nên biết cũng vậy, nói rộng cho đến đối với ba học thảy đều hủy phạm.
- Nói hành chánh: Có ba hành chánh là hạ, trung, thượng.
Hành chánh hạ: Nghĩa là như có một hữu tình tôn trọng tịnh giới, cùng dùng tịnh giới làm chỗ tăng thượng, cùng với trước trái nhau, nhưng đối với định với huệ không sanh tôn trọng. Ở đây không cho là có phạm tội hoàn toàn, mà gọi là có phạm tiểu tùy, tiểu tội, không có khả năng chứng đắc quả Sa-môn.
Hành chánh trung: Nghĩa là đối với giới, định thảy đều tôn trọng, cùng lấy đó làm sự tăng thượng. Như tôn trọng giới, thì thứ lớp hủy phạm ở đây cũng thế. Do đó nên biết cho đến phần vị của các phàm phu hiện có.
Hành chánh thượng: Nghĩa là đã kiến đế, đối với ba thứ học thảy đều tôn trọng, đã chứng đắc quả Sa-môn, không chờ xét chọn có năng lực, không có năng lực.
Hai hành như thế chia làm bốn thứ, tức bốn thứ ấy hợp làm hai hành. Hai này cùng với bốn là bình đẳng, bình đẳng. Nên biết ở đây: Nếu có Định học tất có Giới hộc. Nếu có Huệ học tất có Định học. Có Giới học, không hẳn tất có Định học, Huệ học. Nếu sư Du già tôn trọng các học, nên biết đó gọi là sự tạo tác viên mãn.
Ngoài ra, chỉ gọi là sự tạo tác một phần.
Lại nữa, đối với xứ của tánh tội có thể xa lìa, nên biết đó gọi là tịnh giới viên mãn.
Đối với khả năng giữ kín các căn môn, thâu nhận pháp thiện hiện có của tịnh giới, thọ trì liên tục, nối tiếp chuyển đổi, nên biết đó gọi là pháp thiện viên mãn.
Đối với xứ của già tội có thể xa lìa, nên biết đó gọi là Biệt giải thoát viên mãn.
Lại, dựa nơi giới được bậc Thánh ưa chuộng, hoặc dựa nơi năm thứ thiện xảo như uẩn v.v…, cùng dựa vào luật nghi biệt giải thoát, thọ trì giới cấm hiện có của thế tục, tùy theo thứ lớp, nên biết môn thứ hai như tịnh giới viên mãn v.v… có sai biệt.
Lại nữa, dựa nơi Thi-la tịnh, lược có hai thứ pháp học có sai biệt:
1. Thọ trì học xứ thuộc về thân ngữ hiện hành như pháp hiện có của Thi-la đã thọ nhận thuộc không phải là chỉ.
2. Thọ trì học xứ thuộc về Thi-la đã thọ nhận thuộc là chỉ.
Lại hai thứ này, nghĩa là hoặc có trường hợp là Tỳnại-da nêu bày, không phải Biệt giải thoát thuyết giảng. Hoặc có khi là Tỳ-nại-da nêu giảng cũng là Biệt giải thoát nêu giảng. Thế nên tất cả lược chung mà nói có ba học xứ:
1. Hiện hành tăng thượng.
2. Tỳ-nại-da tăng thượng.
3. Biệt giải thoát tăng thượng.
Lại nữa, trụ thắng lợi của Học, Huệ là đứng đầu. Sự kiên cố của giải thoát Niệm là tăng thượng. Tu tập ba học mau chóng viên mãn, như nơi phần Nhiếp thích đã biện giải rộng, nên biết.
Lại nữa, trụ nơi đầy đủ Giới, như nơi địa Thanh văn đã biện biệt, nên biết.
Lại, tức tịnh giới đối trị mọi thứ xấu ác của phạm giới, làm chỗ dựa để giữ chặt các căn môn, nên gọi là luật nghi. Đầu, khéo thọ nhận nên gọi là viên mãn. Sau, khéo giữ gìn nên gọi là thanh tịnh. Chiêu cảm quả đáng yêu thích nên gọi là thiện. Không có nhiễm ô nên gọi là vô tội. Đối với các hữu tình, định tâm từ có thể khéo tùy thuận, nên gọi là không hại. Đối với tánh Sa-môn khéo tùy thuận, nên gọi là nẻo tùy thuận. Tánh trong lặng được Thánh yêu chuộng nên gọi là thuận trong lặng. Trọn không thuận theo giới cấm thủ, nên gọi là không tùy thuận. Cùng với người đồng pháp, vì đồng phận, nên gọi là đồng sắc loại. Đối với việc tu tập đúng đắn, Tâm, Huệ tăng thượng làm chỗ nương dựa, tùy thuận chuyển đổi, nên gọi là thuận chuyển. Không não hại kẻ khác, mà tạo lợi ích chuyển.
Lại, xa lìa đúng đắn hành tự khổ, nên gọi là không nhiệt não. Đối với pháp đã thọ trì, không có biến đổi, hối tiếc, nên gọi là không thiêu đốt não hại. Đối với những thứ hủy phạm không hiện hành, luôn như pháp sám hối dứt trừ chỗ phạm của mình, nên gọi là không hối não. Như thế gọi là sai biệt hiện có của Giới học tăng thượng. Ba trụ làm chỗ dựa, nên biết phần sai biệt hiện có của Tâm học, Huệ học tăng thượng.
Nghĩa là do Thiên trụ, Phạm trụ có sai biệt, nên biết Tâm học tăng thượng có sai biệt. Do các pháp như giác phần hiện có nơi Thánh trụ có sai biệt, nên biết Huệ học tăng thượng có sai biệt. Nghĩa là bốn Tĩnh lự, bốn vô sắc v.v… gọi là Thiên trụ. Bốn định vô lượng gọi là Phạm trụ. Bốn trí Thánh đế, bốn thứ niệm trụ, cho đến bốn thứ hành tích của đạo chi, bốn pháp tích của Xa-ma-tha, Tỳbát-xá-na thù thắng, nên biết tất cả đều gọi là Thánh trụ. Lại có bốn thứ pháp hoặc hành hoặc trụ không tạp nhiễm, khiến người tu quán hoặc đối với cảnh giới lui ra khỏi nẻo du hành, hoặc ở nơi đối tượng duyên tâm an định tĩnh, lìa các tạp nhiễm, an ổn mà trụ. Bốn pháp đó là:
1. Đối với cảnh giới tùy thuận hỷ thọ, các thứ tạp nhiễm nơi hỷ, tâm sanh dứt bỏ sâu xa.
2. Đối với cảnh giới thuận theo ưu thọ, các thứ nhiễm ô nơi ưu, tâm sanh dứt bỏ sâu xa.
3. Đối với các tùy phiền não của phẩm Tỳ-bát-xá-na, tu tập khiến tâm thanh tịnh.
4. Đối với các thứ tùy phiền não của phẩm Xa-matha, tu tập khiến tâm thanh tịnh.
Đối với bốn thứ pháp hoặc hành hoặc trụ, lìa các tạp nhiễm, trụ nơi an ổn ấy, nên biết bốn thứ pháp tích là chốn nương dựa của xứ sở an túc. Như chỗ ứng hợp nên biết, tức là chánh niệm, chánh định, không tham không sân.
Lại nữa, tụng nêu:
Chứng tịnh đầu an lập
Có biến dị là trước
Thiên lộ dụ gương sáng
Ký biệt ở sau cùng.
Đệ tử của Đức Như Lai chánh kiến đầy đủ, lược do hai pháp có thể thâu nhận đúng đắn tánh trong lặng, nên biết đã kiến lập bốn thứ chứng tịnh. Tức là Tín, Giới thuộc về nghĩa của Sa-môn. Nơi người có thể thuyết giảng, là đối với nghĩa của Sa-môn. Đối với người đồng pháp, là đối với khả năng chứng đắc pháp trợ bạn của Sa-môn. Tịnh tín hiện có là căn bản sâu, bền, nên ở trong đời khác cũng không thể bỏ đi. Không hư dối, nên gọi là tánh trong lặng cùng Thi-la tịnh.
Đối với tất cả pháp ác bất thiện có thể dẫn đến nẻo ác, đã đạt được luật nghi hoàn toàn không tạo tác, do đó cũng được gọi là tánh trong lặng.
Nên biết tại đây, nương nơi tịnh tín, ở trong PhápLuật thuyết giảng thiện, sanh tin hiểu sâu xa. Do tánh trong lặng của tịnh tín ấy, nếu như ở tại các đời khác, đối với Pháp-Luật thuyết giảng thiện của Phật, hoàn toàn không đổi. Lại do sợ hãi khổ của các đường ác, nên thọ trì tịnh giới, đối trị hành ác, do đấy nên thâu nhận Giới. Tánh trong lặng nếu như ở nơi đời khác, cũng không tạo ác, đọa nơi các nẻo ác, cho đến Niết-bàn, rốt ráo không đổi.
Lại, tín giới ấy là nơi chốn nương dựa của Giới Định Huệ học tăng thượng. Do nói tín giới là thanh tịnh, nên hiển bày nghĩa nơi ba học đều được thanh tịnh. Vì nhân duyên ấy, nên chỉ nói hai thứ đó dùng làm chứng tịnh. Đấy gọi là môn nghĩa thứ hai có sai biệt. Chứng tịnh như thế là khéo có thể làm tươi nhuận tất cả pháp. Bạch tịnh gắn liền với Giới, nên gọi là làm tươi nhuận phước. Có thể dẫn đến các Thánh đạo thù thắng, nên gọi là làm tươi nhuận thiện. Có thể dẫn đến việc đoạn trừ các phiền não còn lại, nên gọi là có thể dẫn tới an lạc.
Lại nữa, các Thánh đệ tử hoàn toàn quyết định có thể đi đến nẻo thiện, thành tựu chứng tịnh, cũng có trụ nơi nẻo thiện. Ba thứ sợ hãi khổ dữ phát khởi do các đại cùng chống trái, biến dị, nhưng không nẻo ác nào hiện có sợ hãi.
Thế nào là ba thứ khổ dữ đáng sợ hãi? Đó là:
1. Khổ vì bệnh.
2. Khổ vì già.
3. Khổ vì chết do đoạn dứt Mạ-na.
Do đó nói là bốn đại chủng kia có thể khiến biến dị. Các Thánh đệ tử không phải đã thành tựu bốn thứ chứng tịnh, có thể có biến dị.
Lại, các Thánh đệ tử với bốn chứng tịnh làm chỗ nương dựa, căn cứ vào ba thứ môn, tu tập sáu tùy niệm. Ba thứ môn là:
1. Vì đoạn trừ các tùy phiền não đã khởi nhiễm não của phẩm Xa-ma-tha.
2. Vì đoạn trừ các tùy phiền não đã khởi nhiễm não của phẩm Tỳ-bát-xá-na.
3. Vì đoạn trừ, tuy không có nhiễm não, nhưng đối với vị lai sẽ có thể sanh khởi hai tùy phiền não.
Lại, do lý của Thắng nghĩa đế đã chứng đắc tùy niệm, gọi là nghĩa uy dũng. Do lý của Thế tục đế đã đạt được tùy niệm, gọi là pháp uy dũng.
Lại nữa, ví như có người dùng chiếc gương sáng để xem tướng tịnh, bất tịnh của mặt mình. Như vậy, các Thánh đệ tử của Đức Như Lai nắm giữ chiếc gương sáng chứng tịnh vi diệu để quán xét đúng như thật về các tướng nhiễm tịnh hiện có của tự thân.
Lại nữa, nếu có hành giả thành tựu bốn thứ chứng tịnh, chỉ tức dựa nơi bốn thứ chứng tịnh của mình, vì kẻ khác ký biệt, không dựa nơi phần vị trên. Tức có thể thuận theo tu tập tùy niệm. Do nhân duyên này, nên biết ký biệt chứng quả Dự lưu, chưa hướng lên chỗ tu đạo của phần vị trên. Nếu đối với phần vị trên, có thể thuận hoan hỷ nơi năm thứ tùy niệm, vì kẻ khác ký biệt, do nhân duyên ấy nên biết ký biệt chứng quả Nhất lai do Tam-ma-địa chưa thành tựu đầy đủ, nơi đạo lìa dục chưa được viên mãn. Vì cầu lìa dục, nên tu tập các pháp có thể thuận theo hoan hỷ. Do hoan hỷ này làm chỗ dựa, nên phát sanh khinh an. Do khinh an nên thân lãnh nhận an lạc. Do thọ nhận an lạc nên tâm được chánh định, nhưng đối với định tĩnh chưa được thành mãn.
Nếu đối với sáu thứ tùy niệm của phần vị trên, vì kẻ khác ký biệt, do nhân duyên ấy nên biết, ký biệt chứng quả Bất hoàn, quả A-la-hán, chỉ là đạo xuất thế mới có thể hướng chứng. Vì các tùy niệm hiện có chỉ là thế gian, thế nên chứng đắc quả Bất hoàn trở lên, lại không có tùy niệm ký biệt như vậy.
Lại, bốn chứng tịnh trong quả Dự lưu chỉ nói là tịnh. Đối với quả học còn lại, gọi là tịnh viên mãn. Nơi quả tối thượng gọi là thanh tịnh viên mãn bậc nhất.
Như thế là đã lược dẫn chỗ tùy thuận cảnh trí của luận này tương ưng với tông yếu của các kinh. Ngoài ra, tất cả tùy theo lãnh vực này, đều nên biết rõ.
Như thế là đã nói về Ma-đát-lý-ca của sự Khế kinh.
Thế nào gọi là Ma-đát-lý-ca (luận mẫu) của sự Luật? Nghĩa là, tức từ ngoài bốn thứ kinh này, là kinh Biệt Giải Thoát hiện có, nói rộng nơi Ma-đát-lý-ca, lần lượt truyền đi những điều Đức Như Lai đã thuyết giảng, Đức Như Lai đã hiển bày, Đức Như Lai đã tán thán, gọi là Ma-đát-lý-ca của Luật tạng.
Ma-đát-lý-ca của Luật tạng này, về một phần ít của tổng tướng, nay sẽ nói. Tụng nêu:
Tụ lợi gồm tùy hành
Nghịch thuận hay tịch tĩnh
Biến tri, tín bất tín
Lực là cùng ở sau.
Đức Như Lai quán thấy mười thứ thắng lợi, nên ở trong Tỳ-nại-da vì các đệ tử chế lập học xứ. Nghĩa là thâu nhận Tăng già, khiến Tăng thành khẩn, tinh tấn, cho đến nói rộng như nơi phần Nhiếp tích, nên biết về tướng của chúng.
Nếu có thể thâu nhận bốn tộc họ lớn v.v… chánh tín xuất gia, hướng đến chúng không gia đình, nên biết gọi là thâu nhận Tăng già. Xuất gia như thế, hướng tới đời sống không gia đình rồi, vì họ tuyên thuyết các giáo pháp thâm diệu có nhân duyên, có xuất ly, có đối tượng nương dựa, có dũng mãnh, có thần biến. Nên biết đó gọi là khiến Tăng thành khẩn, tinh tấn. Các câu có sai biệt như có nhân duyên v.v… như nơi địa Bồ tát đã biện giải về tướng.
Do năm thứ tướng, nên biết đó gọi là khiến Tăng an lạc:
1. Khiến thuận nơi đạo, đầy đủ không có thiếu thốn.
2. Khiến loại trừ hữu tình của dị pháp.
3. Khiến khéo dứt bỏ chỗ sanh khởi làm ác.
4. Khiến khéo hàng phục các triền phiền não.
5. Khiến khéo đoạn trừ vĩnh viễn phiền não, tùy miên.
Nên biết ở đây, do sức tăng thượng của sự an lạc đầu tiên, nên người chưa tịnh tín khiến sanh tịnh tín, người đã có tịnh tín khiến được tăng trưởng. Do sức tăng thượng của sự an lạc thứ hai nên đã điều phục các hữu tình xấu ác. Do sức tăng thượng của sự an lạc thứ ba, nên khiến người có hổ thẹn được trụ nơi an lạc. Do sức tăng thượng của sự an lạc thứ tư, nên khiến ngăn giữ các lậu của hiện pháp. Do sức tăng thượng của sự an lạc thứ năm, nên có thể khiến dứt trừ vĩnh viễn các lậu của vị lai.
Như vậy, đạt được trụ an lạc rồi, người chưa hội nhập khiến dễ hội nhập, nhằm khiến nhiều người trụ lâu nơi phạm hạnh, cho đến nói rộng, đều nên nhận biết rõ.
Lại, tất cả ở đây, nói tóm tắt, tức là hiển thị đúng đắn về sự thâu nhận đầu tiên. Tiếp theo là thâu nhận đúng đắn. Đã thâu nhận rồi, thì khiến trụ an lạc. Cùng hiển bày người chưa được thâu nhận vị lai dễ nhập nơi phương tiện. Như thế gọi là sai biệt thứ hai.
Lại nữa, nên biết lược có năm thứ tụ tội. Đó là:
1. Tụ tội tha thắng.
2. Tụ tội chúng dư.
3. Tụ tội vẫn trụy.
4. Tụ tội biệt hối.
5. Tụ tội ác tác.
Tập hợp bất định thô theo như chỗ thích ứng, tức nhập trong các tụ tội như thế.
Lại có bốn thứ tụ tội hoàn tịnh. Những gì là bốn? Nghĩa là trừ tha thắng, bốn tụ tội còn lại đều có thể trở lại thanh tịnh, nên có bốn thứ tụ tội hoàn tịnh. Tụ tội thứ nhất tuy có thể hoàn tịnh, nhưng chỉ dựa vào hai loại hữu tình, không phải là tất cả không có sai biệt đều có thể hoàn. Thế nên tha thắng không lập trong tụ toàn bộ là hoàn tịnh.
Lại, nếu lược nói có mười lăm thứ lỗi lầm phạm tội, hiện hữu khắp ở trong tất cả tụ phạm tội, nên biết đã kiến lập các tội đã phạm.
Mười lăm thứ đó là:
1. Lỗi lầm của sự nặng.
2. Lỗi lầm của triền mãnh liệt.
3. Lỗi lầm của thiếu thốn không biết đủ.
4. Lỗi lầm do kẻ khác trách cứ, giận dữ.
5. Lỗi lầm của kẻ không có tịnh tín càng khiến bất tín, kẻ có tịnh tín thì khiến biến dị.
6. Lỗi lầm của việc có nhiều của cải vật báu, có nhiều tạo tác.
7. Lỗi lầm do nhiễm chấp.
8. Lỗi lầm do não hại kẻ khác.
9. Lỗi lầm do phát khởi bệnh tật.
10. Lỗi lầm do ngăn ngại Sa-môn đi đến nẻo thiện.
11. Lỗi lầm do đối với chốn nên tránh, giữ thì không tránh, giữ đúng đắn. Chốn không nên tránh, giữ thì lại tránh, giữ.
12. Lỗi lầm do đối với chỗ không nên nương dựa thì nương dựa, chỗ nên nương dựa thì lại không nương dựa.
13. Lỗi lầm do đối với nơi nên cung kính thì không cung kính, nơi không nên cung kính thì lại cung kính.
14. Lỗi lầm do đối với điều nên che giấu thì không che giấu, điều không nên che giấu thì lại che giấu.
15. Lỗi lầm do đối với pháp nên quen gần thì không quen gần, pháp không nên quen gần thì lại quen gần.
Nên biết ở đây, đầu tiên là tu nghiệp: Đối với bốn tha thắng, tuy có lỗi lầm của sự nặng, nhưng không có lỗi lầm của triền mãnh liệt, do ý lạc của tội kia không phát khởi ác dữ dội.
Lại nữa, lược có năm pháp gồm thâu Tỳ-nại-da:
1. Tánh tội.
2. Già tội.
3. Chế.
4. Khai.
5. Hành.
- Thế nào là tánh tội? Tức tánh là bất thiện, có thể bị tạp nhiễm, tổn não kẻ khác, có thể bị tạp nhiễm, tổn não cho chính mình. Tuy không ngăn chế, chỉ có hiện hành nên dẫn đến nẻo ác. Tuy không ngăn chế, chỉ có hiện hành, có thể gây chướng ngại cho Sa-môn.
- Thế nào là già tội? Nghĩa là Đức Phật, Thế Tôn, quán hình tướng của kẻ kia không như pháp, nên hoặc khiến cho chúng sanh tôn trọng Chánh pháp. Hoặc thấy chỗ tạo tác của họ thuận theo pháp của tánh tội hiện hành. Hoặc vì tùy thuận hộ trì tâm kẻ khác. Hoặc thấy tánh Sa-môn bị chướng ngại nơi thọ mạng của nẻo thiện…, nên ngăn chặn đúng đắn. Nếu có các sự như thế hiện hành, gọi là già tội.
- Thế nào là chế? Nghĩa là có những tạo tác có thể dẫn đến nẻo ác, hoặc gây chướng ngại nơi nẻo thiện, hoặc tạo chướng ngại chỗ đạt được lợi dưỡng đúng như pháp, hoặc tạo chướng ngại đối với thọ mạng, hoặc gây chướng ngại cho Sa-môn. Các loại như thế, Đức Như Lai đều ngăn chặn không khiến chúng hiện hành, nên gọi là chế.
Cùng với đấy trái nhau, nên biết gọi là khai (mở ra, cho phép).
- Thế nào là hành? Nghĩa là lược có ba hành:
1. Có phạm.
2. Không phạm.
3. Hoàn tịnh.
Ba thứ như thế lược thâu tóm làm hai:
1. Hành tà.
2. Hành chánh.
Nên biết, có phạm gọi là hành tà. Không phạm, hoàn tịnh gọi là hành chánh.
Ở đây, thế nào là phạm tội đã phạm? Nghĩa là đối với pháp nên làm mà lại không làm, cùng gia hạnh. Đối với pháp không nên làm mà lại làm, cùng gia hạnh.
Lại, kẻ kia lược do bốn nhân duyên nên phạm tội đã phạm:
1. Không biết.
2. Phóng dật.
3. Phiền não khởi mạnh.
4. Khinh mạn.
- Thế nào gọi là do không biết nên phạm tội đã phạm? Nghĩa là như có một Bí-sô, đối với tội đã phạm không lắng nghe kỹ, không khéo lãnh ngộ, không hiểu rõ, không có huệ giác ngộ, không có chỗ nhận biết, đối với pháp đã phạm kia khởi tưởng không phạm mà phạm các tội. Như vậy gọi là do không biết nên phạm tội đã phạm.
- Thế nào gọi là do phóng dật nên phạm tội đã phạm? Nghĩa là như có một Bí-sô, đối với tội đã phạm tuy lại hiểu rõ, có nơi không nhận biết chân chánh. Kẻ kia do niệm không trụ như thế, nên như không nhận biết mà phạm các tội. Như thế gọi là do phóng dật nên phạm tội đã phạm.
Thế nào gọi là phiền não khởi mạnh nên phạm tội đã phạm? Nghĩa là như có một Bí-sô, đối với pháp đã phạm, tuy lại hiểu rõ, có huệ giác ngộ, cũng có sự nhận biết, nhưng bản tánh của vị kia là Tham-sân-si hết sức mãnh liệt, do đấy, tuy biết sự việc ấy là không nên làm, nhưng vì triền phiền não bức bách không thể tự chủ nên phạm các tội. Như thế gọi là do phiền não khởi mạnh, nên phạm tội đã phạm.
- Thế nào là do khinh mạn nên phạm tội đã phạm? Nghĩa là như có một Bí sô, đối với tội đã phạm tuy lại hiểu rõ, có huệ giác ngộ, cũng có chỗ nhận biết, nhưng vị ấy tin hiểu là rất thấp kém, không có hành mạnh mẽ của nhân thiện từ đời trước. Do đấy, đối với tánh Samôn, đối với nẻo Bát Niết-bàn không có sự quyến luyến. Đối với Phật Pháp Tăng không kính, không sợ, không có hổ thẹn, không vui thích nơi pháp học. Do khinh mạn, nên tùy chỗ ham muốn phạm rộng các tội. Như thế gọi là do khinh mạn nên phạm tội đã phạm. Nên biết trong ấy, không biết, phóng dật đã phạm các tội, là không nhiễm ô. Các tội đã phạm do phiền não tăng mạnh và do khinh mạn, là có nhiễm ô.
Do năm nhân duyên nên biết chỗ phạm thành ba phẩm hạ, trung, thượng có sai biệt. Năm nhân duyên là:
1. Do tự tánh.
2. Do hủy phạm.
3. Do ý lạc.
4. Do sự việc.
5. Do tích tập.
- Do tự tánh: Nghĩa là tụ tội tha thắng là tội thuộc phẩm thượng. Tụ tội chúng dư là tội thuộc phẩm trung. Tụ tội còn lại là tội thuộc phẩm hạ.
Lại có sai biệt: Tha thắng, chúng dư là tội thuộc phẩm trọng. Vẫn trụy, biệt hối là tội thuộc phẩm trung. Tụ tội ác tác là tội thuộc phẩm khinh. Như vậy nên biết, do tự tánh nên các tội đã phạm thành ba phẩm hạ trung thượng có sai biệt.
- Do hủy phạm: Nghĩa là không biết, cùng phóng dật nên đã phạm các tội là tội thuộc phẩm hạ. Các tội đã phạm do phiền não tăng mạnh là tội thuộc phẩm trung. Các tội đã phạm do khinh mạn là tội thuộc phẩm thượng.
- Do ý lạc: Nghĩa là các tội đã phạm do triền Thamsân-si thuộc phẩm hạ là tội thuộc phẩm hạ. Nếu do phẩm trung là tội thuộc phẩm trung. Nếu do triền Tham-sân-si thuộc phẩm thượng phạm tội thì tội thuộc phẩm thượng.-Do sự việc: Nghĩa là tuy ý lạc hiện hành tương tợ, nhưng do sự việc không phải một loại, nên biết chỗ phạm thành ba phẩm hạ trung thượng có sai biệt. Như do triền sân đối với các chúng sanh hiện có nơi nẻo bàng sanh cố ý sát hại, sanh tội vẫn trụy. Tức do triền sân tương tợ như thế, hoặc đối với người kia, hoặc hình dạng của người không phải là cha mẹ mình, cố ý sát hại, sanh tội tha thắng, không phải tội vô gián. Tức dùng triền sân tương tợ như thế, đối với cha mẹ của người, cố ý sát hại, sanh tội tha thắng cùng tội vô gián.
- Do tích tập: Nghĩa là như có một Bí-sô, hoặc phạm một tội, không thể như pháp mau chóng sám hối dứt trừ. Hoặc phạm hai tội, hoặc ba tội, cho đến hoặc năm. Như thế nên biết, do tích tập nên thành tội thuộc phẩm hạ. Từ đấy về sau, hoặc phạm mười tội, hoặc phạm hai mươi tội, hoặc phạm ba mươi tội, cho đến hoặc phạm số tội có thể biết rõ, đều không thể như pháp mau chóng sám hối dứt trừ. Như thế nên biết do tích tập nên thành tội thuộc phẩm trung.
Nếu tội đã phạm, về số lượng là vô lượng không thể nhận biết rõ, như vậy nên biết, do tích tập nên thành tội thuộc phẩm thượng.
Thế nào là nên làm? Nghĩa là, nếu đối với việc ấy do không làm cùng gia hạnh liền thành hủy phạm. Về các việc nên làm ấy, lược có năm thứ:
1. Việc nên làm đối với thôn ấp.
2. Việc nên làm nơi đạo tràng.
3. Việc nên làm nơi phẩm thiện.
Tức sự việc nên làm của phẩm thiện này lại có hai loại:
1. Việc nên làm về tư lương.
2. Việc nên làm về thanh tịnh.
Như thế, việc nên làm về tư lương, như nơi địa Thanh văn đã nói mười ba thứ tư lương hiện có. Như vậy, sự việc nên làm về thanh tịnh, như nơi địa Thanh văn đã nói "tu tác ý".
Lại, việc nên làm nơi thôn ấp: Nghĩa là, hoặc vì các sự việc như y phục v.v… của mình nên đi vào xóm làng. Hoặc lại vì sự việc đối với Tam bảo, sự việc đối với bậc đồng phạm hạnh. Hoặc vì sự việc đối với kẻ chưa tin khiến sanh tin, kẻ đã tin rồi khiến càng thêm tăng trưởng, nên đi vào xóm làng.
Cùng với đấy trái nhau là khả năng gây trở ngại hiện có đối với năm sự việc nên làm. Theo như chỗ thích hợp, nên biết về năm thứ việc không nên làm.
Thế nào là không phạm? Nghĩa là do năm nhân duyên khiến không phạm. Năm nhân duyên là:
1. Đối với các căn môn giữ kín mà trụ. Ăn uống biết lượng. Đầu đêm cuối đêm thường không ngủ nghỉ, siêng tu thắng hạnh, chánh tri mà trụ. Như thế gọi là nhân duyên thứ nhất.
2. Đối với các Sa-môn, phát khởi sự tinh tấn thuộc phẩm thượng để quan tâm, quyến luyến. Đối với bậc Đại sư, các vị có trí, đồng phạm hạnh, phát khởi tâm cung kính, yêu thích thuộc phẩm thượng. Nơi tội hiện hành, phát khởi tâm hổ thẹn tăng thượng mạnh mẽ. Như thế gọi là nhân duyên thứ hai.
3. Lại, giảm thiểu của cải vật dụng, giảm thiểu các hành tác, tạo nghiệp, không tạo nhiều việc vội vàng, bề bộn. Như thế gọi là nhân duyên thứ ba.
4. Trụ nơi biết đủ. Đối với việc phạm không phạm có thể khéo nhận biết rõ. Không cùng với đạo tục giao du buông thả. Chuyên tu phẩm thiện từng không gián đoạn. Như thế gọi là nhân duyên thứ tư.
5. Lại, mới tu tập, hoặc tâm si cuồng, loạn động, bị khổ não bức bách. Như thế gọi là nhân duyên thứ năm.
Nên biết do năm nhân duyên ấy nên từ đầu không phạm.
Thế nào là hoàn tịnh? Nghĩa là như có một Bí sô, theo tội đã phạm tức liền sanh khởi năm thứ ố tác (hối).
Năm chi gồm thâu hành không phóng dật làm chỗ nương dựa. Do năm thứ tướng dứt trừ năm thứ ố tác đã sanh khởi từ tội đã phạm kia.
Thế nào là sanh khởi năm thứ ố tác (hối)? Đó là:
1. Sanh khởi ố tác, do ta đã hủy phạm nhân duyên của tịnh giới, nên về sau nhất định sẽ tự thành khẩn khiển trách sâu xa.
2. Sanh khởi ố tác, do ta đã hủy phạm nhân duyên của tịnh giới, nhất định sẽ bị chư Thiên khác quở trách.
3. Sanh khởi ố tác, do ta đã hủy phạm nhân duyên của tịnh giới, nhất định bị bậc Đại sư cùng các vị đồng phạm hạnh có trí sẽ cùng quở trách.
4. Sanh khởi ố tác, do ta đã hủy phạm nhân duyên của tịnh giới, nhất định tiếng xấu ác ấy sẽ được truyền đi khắp.
5. Sanh khởi ố tác, do ta đã hủy phạm nhân duyên của tịnh giới, sau khi thân hoại mạng chung, nhất định sẽ bị đọa trong các nẻo ác.
Năm chi gồm thâu hành không phóng dật, như nơi địa Thanh văn đã nói, nên biết về tướng của chúng. Nghĩa là:
- Tiền tế cùng hành.
- Hậu tế cùng hành.
- Trung tế cùng hành.
- Thời gian đầu tạo tác.
- Cùng tùy hành.
Thế nào là do năm thứ tướng, dứt trừ năm thứ ố tác đã sanh khởi từ tội đã phạm kia? Đó là:
1. Đức Thế Tôn thuyết giảng chánh pháp đều có nhân duyên, cũng có xuất ly. Do đó tội đã phạm đều có thể trở lại thanh tịnh, vì vậy trừ bỏ ố tác đã sanh.
2. Do kẻ kia không biết, hành phóng dật, phiền não tăng mạnh, cùng do khinh mạn, nên phạm tội đã phạm. Tức các thứ không biết cho đến khinh mạn ta đã đoạn dứt. Chánh trí hiện có, cho đến sự tôn kính ta đã sanh khởi. Vì vậy trừ bỏ ố tác đã sanh.
3. Ý lạc về vị lai không phạm ta đã sanh khởi, do đấy trừ bỏ ố tác đã sanh.
4. Ta đã đối với các vị đồng phạm hạnh có trí phát lồ sám hối diệt trừ, do đấy loại bỏ ố tác đã sanh.
5. Ta ở trong Pháp-Luật thuyết giảng thiện của Phật đã xuất gia rồi, tuy vượt học xứ, nhưng có thể sám hối diệt trừ, hết sức là "Lành thay!". Nhưng Đức Thế Tôn đã dùng vô lượng môn để quở trách việc dấy khởi ố tác tương tục: Đó là che lấp, ngăn chặn. Ta nay đối với các ố tác kia phần nhiều trụ giữ không thể trừ bỏ, không phải là điều tốt đẹp. Nhận biết rõ điều ấy rồi, do đó dứt trừ ố tác đã sanh.
Như thế gọi là tội đã phạm trở lại thanh tịnh.
Lại nữa, nên biết lược có năm pháp tùy hành của Tỳnại-da. Dựa nơi Tỳ-nại-da, Bí sô siêng năng tu học theo đấy tùy hành. Những gì là năm pháp. Đó là:
1. An trụ.
2. Cư xứ.
3. Chỗ dựa.
4. Thọ dụng.
5. Yết ma.
-Thế nào là an trụ? Nghĩa là Bí sô siêng năng tu học, dựa nơi Tỳ-nại-da phải nên an trụ nơi năm thứ tưởng trụ:
1. Nếu vào xóm làng, phải nên an trụ nơi tưởng đi vào chốn lao ngục.
2. Nếu tại đạo tràng, luôn phải đối với bản thân trụ nơi tưởng Sa-môn.
3. Nếu vào lúc ăn uống, luôn phải an trụ nơi tưởng xem việc ăn uống như là trị bệnh.
4. Nếu ở nơi chốn xa lìa, đối với mắt thấy sắc, tai nghe âm thanh v.v…, nên trụ nơi tưởng mù điếc câm ngọng.
5. Nếu vào lúc ngủ nghỉ, nên khởi tưởng như loài nai kinh sợ trong vùng rừng núi hoang vắng khó giữ gìn.
Các Bí sô siêng năng tu học, dựa nơi Tỳ-nại-da thường nên an trụ nơi năm tưởng trụ như thế. Đối với tưởng trụ ấy đã an trụ rồi, tuy hiện thọ dụng các thứ y phục, ngọa cụ, thức ăn uống v.v… thuộc hàng vua quan, nhưng không rơi vào biên hành thọ dục lạc.
-Thế nào là cư xứ? Tức là năm cư xứ:
1. Cư xứ của Bí sô.
2. Cư xứ của Bí sô ni.
3. Cư xứ của ngoại đạo.
4. Cư xứ tạp nhiễm.
5. Cư xứ không tạp nhiễm.
- Cư xứ của Bí-sô: Nghĩa là ở nơi xứ ấy có các Bí sô hạ trung thượng tọa cư trú.
- Cư trú của Bí-sô-ni: Nghĩa là ở nơi xứ ấy có các Bí sô ni với ba hạng như trước đang cư trú.
- Cư trú của ngoại đạo: Tức là nơi xứ ấy có nhiều thứ ngoại đạo cư trú như ly hệ, tịnh mạng, ba luân bát-đa…
- Cư xứ tạp nhiễm: Nghĩa là ở nơi xứ ấy, tất cả yết ma đều không thiết lập, hoặc chỉ thiết lập một phần yết ma.
- Cư xứ không tạp nhiễm: Nghĩa là ở nơi xứ ấy đã thiết lập đầy đủ tất cả yết ma.
Lại, cư xứ của Bí-sô không tạp nhiễm: Nên biết chúng hội an lập nghiêm túc. Cư xứ của Bí sô nếu có tạp nhiễm: Nên biết chúng hội an lập hỗn tạp.
- Thế nào là chỗ dựa? Nghĩa là năm chỗ dựa. Đó là:
1. Chỗ dựa là thôn xóm ruộng đất.
2. Chỗ dựa là cư xứ.
3. Chỗ dựa là hữu tình.
4. Chỗ dựa là các vật dụng nuôi sống như y phục v.v...
5. Chỗ dựa là oai nghi.
Nếu dựa nơi thôn xóm, thành ấp theo địa phương mà được an trụ, nên biết đó gọi là "chỗ dựa là thôn xóm ruộng đất".
Nếu dựa nơi các vườn rừng, hoặc các tự viện, xứ kinh hành v.v… mà được an trụ, nên biết đó gọi là "chỗ dựa là cư xứ".
Nếu dựa nơi các thí chủ, các bậc quỹ phạm, thân giáo, can ngăn dạy dỗ, giảng nói trao truyền chánh pháp mà được an trụ, nên biết đó gọi là "chỗ dựa là các hữu tình".
Nếu dựa vào việc thuận đạo, hoặc thô hoặc diệu, theo chỗ đạt được các thứ vật dụng nuôi sống thân mạng như y phục, thức ăn uống, thuốc men trị bệnh, mà được an trụ, nên biết đó gọi là "chỗ dựa là các thứ vật dụng nuôi sống như y phục v.v…".
Nếu dựa nơi xứ ấy, trong mọi thời gian, bốn oai nghi của thân như chỗ vui thích, được an lạc trụ, nên biết đó gọi là "chỗ dựa là oai nghi".
Nếu nương vào các chỗ dựa như thế mà trụ, tức hoàn toàn không bị các thứ khổ não phi Thánh, vô nghĩa, dẫn đến khốn tệ, không thích hợp, tổn hại tự thân.
-Thế nào là thọ dụng? Nghĩa là có năm thứ thọ dụng bất tịnh cùng có năm thứ thọ dụng thanh tịnh. Những gì là năm thứ thọ dụng bất tịnh? Đó là:
1. Thọ dụng các vật của tháp thờ, không phải gặp lúc bị bệnh nặng.
2. Thọ dụng các vật của Tăng kỳ, không phải do Tăng chúng trao cho, không phải rơi vào bát, không phải được phân thuộc về mình.
3. Thọ dụng các vật của biệt nhân thuộc kẻ khác, không từ kẻ kia mà được, không phải kẻ kia đã hứa cho, tùy ý thọ dụng.
4. Thọ dụng các vật không phải tin tưởng giao phó. Nghĩa là không nên thọ dụng tất cả các vật hiện có của hữu tình không tin tưởng giao phó.
5. Thọ dụng các vật đã nhiễm ô, cấu uế, hoặc do quen gần với việc giảm các pháp thiện, tăng các pháp bất thiện. Hoặc lúc quen gần, khiến các thế gian sanh khởi chê trách, khiến các thế gian cùng khinh chán. Kẻ chưa sanh tin thì khiến càng không tin. Kẻ đã sanh tin thì khiến biến dị.
Đó gọi là năm thứ thọ dụng bất tịnh. Bí sô đối với Tỳ-nại-da siêng năng tu học phải nên xa lìa.
Cùng với đấy trái nhau, nên biết là năm thứ thọ dụng thanh tịnh. Bí sô đối với Tỳ-nại-da siêng năng tu học phải nên thọ dụng. Bí sô xa lìa thọ dụng bất tịnh, đối với thọ dụng thanh tịnh tùy hành, có thể khéo báo đáp các tín thí hiện có.
-Thế nào là yết ma? Nghĩa là tất cả yết ma lược có bốn loại:
1. Yết ma đơn bạch.
2. Yết ma bạch nhị.
3. Yết ma bạch tứ.
4. Yết ma tam ngữ.
Bốn yết ma này lược có hai sự làm nơi chốn nương dựa:
1. Sự của số hữu tình làm chốn nương dựa.
2. Sự của số vô tình làm chốn nương dựa.
- Sự của số hữu tình làm chốn nương dựa: Nghĩa là yết ma xuất gia, hoặc yết ma thọ cụ túc, hoặc yết ma hữu tình đồng ý. Hoặc yết ma xuất tội, hoặc yết ma cử, hoặc yết ma tẩn, hoặc từ hai nơi an cư, thọ 10, 20, 40 đêm, với yết ma hiện có. Như vậy, hoặc là để thâu nhận hữu tình, hoặc là để điều phục hữu tình, nên thiết lập yết ma. Đó gọi là yết ma với chốn nương dựa là sự của số hữu tình.
- Sự của số vô tình làm chốn nương dựa: Nghĩa là yết ma thọ trì y bát, hoặc yết ma nhận giữ yết-hy-na không xả, hoặc yết ma kiết giới, hoặc yết ma đồng ý làm tịnh lúa gạo, các loại yết ma hiện có như thế, nên biết đó gọi là yết ma với chỗ nương dựa là sự của số vô tình.
Lại, yết ma này nên biết hoặc có hai chúng thực hiện, hoặc có bốn chúng thực hiện, hoặc có 10 chúng, 20 chúng, 40 chúng thực hiện, hoặc có hợp chúng thực hiện. Hai chúng thực hiện: Nghĩa là một Bí-sô đối trước một Bí-sô, hành yết ma ba lần nói về biệt hối, phát lồ sám hối trừ bỏ, hoặc tội "vẫn trụy", hoặc tội "ác tác".
Bốn chúng thực hiện: Nghĩa là như có một Bí-sô phạm tội thô rồi, đối trước bốn người hành yết ma phát lồ sám hối trừ bỏ tội.
Mười chúng thực hiện: Tức là yết ma thọ cụ túc.
Hai mươi chúng thực hiện: Nghĩa là yết ma nêu ra các tội khác trước chúng Bí sô, cùng yết ma thọ cụ túc của các Bí-sô-ni.
Bốn mươi chúng thực hiện: Là yết ma nêu ra các tội khác trước chúng Bí-sô-ni.
Hợp chúng thực hiện: Là yết ma tăng trưởng, hoặc yết ma tứ cử, hoặc các loại yết ma hiện có khác.
Bốn thứ yết ma ấy, do sự sai biệt nên thành vô lượng loại, nói rộng nên biết như nơi Ma-đát-la của Tỳ-nại-da. Như thế là đã hiểu rõ về yết ma hiện có. Bí-sô đối với Tỳ-nại-da siêng năng tu học, thuận hành yết ma, đối với tội đã phạm đạt được thiện xảo, đối với nẻo xuất ly tội cũng được thiện xảo, lánh giữ tự thân khiến được thanh tịnh, lìa các tội lỗi.
Lại nữa, Bí-sô đối với Tỳ-nại-da siêng năng tu học, nên biết có năm thứ học pháp trái nghịch phải nên xa lìa. Lại có năm thứ học pháp tùy thuận phải nên thọ trì.
Những gì là năm học pháp trái nghịch? Đó là:
1. Chướng ngại.
2. Chánh pháp tượng tợ.
3. Bạn ác.
4. Phiền não ngu tối dấy mạnh.
5. Tư lương của đời trước, về lực rất yếu kém.
-Thế nào là chướng ngại? Nghĩa là có năm chướng:
1. Chướng ngại của Giới tăng thượng.
2. Chướng ngại của Tâm tăng thượng.
3. Chướng ngại của Huệ tăng thượng.
4. Chướng ngại của việc đi đến nẻo thiện.
5. Chướng ngại của việc hành tác lợi dưỡng, thọ mạng.
-Thế nào gọi là chánh pháp tượng tợ? Nghĩa là lược có hai thứ chánh pháp tượng tợ:
1. Chánh pháp tợ giáo.
2. Chánh pháp tợ hành.
Nếu đối với phi pháp khởi tưởng là pháp, hiển thị phi pháp cho là pháp, khiến cho kẻ khác ở trong ấy sanh tưởng chánh pháp, cho giáo pháp như thế là thật, là đế. Không phải là chánh pháp mà lại hiển hiện hình tượng giống với chánh pháp, do đó gọi là chánh pháp tợ giáo.
Nếu rộng vì người khác tuyên thuyết như thế, khiến họ thọ học cũng tự tu hành, vọng khởi tưởng là pháp, tập các hành tà mà tự kiêu mạn, cho mình có thể tu là hành chân chánh. Nên biết đó gọi là chánh pháp tợ hành.
Vì nhằm nêu bày rộng về chánh pháp tượng tợ, nên nơi phần giữa lại nói tụng:
Đầu là năm thứ pháp
Tiếp các kiến như căn
Phi xứ là ác tác
Giới bạo ác là sau.
Các thứ giáo pháp có văn cú tương tợ với giáo pháp do Đức Như Lai giảng nói, ở trong các kinh được để nơi phần "Ngụy kinh", ở trong các luật được để nơi phần "Ngụy luật". Như thế gọi là chánh pháp tượng tợ.
Lại do kiến tăng ích hoặc tổn giảm, tăng ích sự hư, tổn giảm sự thật. Do phương tiện ấy, nên đối với vô số môn nghĩa như vô thường v.v… rộng vì người khác tuyên thuyết, khai thị, như thế như thế, tự thân tập hành. Như vậy cũng gọi là chánh pháp tượng tợ.
Lại, nơi các hữu tình, tuyên thuyết kinh điển hiện có, chấp giữ, phân biệt tà vạy, nói có hữu tình chân thật. Như thế cũng gọi là chánh pháp tượng tợ.
Lại, ở trong vô số pháp giả có, tuyên thuyết, khai thị là tánh có thật. Như thế cũng gọi là chánh pháp tượng tợ. Lại, đối với Niết-bàn cứu cánh xa lìa tất cả hý luận, phân biệt là có hoặc là không có, nói là tánh có hoặc tánh không có. Như thế cũng gọi là chánh pháp tượng tợ.
Lại có một loại hữu tình, nói như thế này: Đức Thế Tôn đã nêu bày chỉ rõ, xưng tán việc giữ kín các căn môn. Do nhân duyên ấy, nên rõ là không còn thấy sắc, cho đến đối với pháp không dùng ý để suy xét, nhưng lại không buộc giữ niệm để xem thấy các sắc, cho đến dùng ý tư duy các pháp. Như thế cũng gọi là chánh pháp tượng tợ.
Lại nghe Đức Thế Tôn nói tâm dẫn dắt thế gian, tâm tạo dựng tất cả, tùy tâm sanh khởi đều tự tại mà chuyển. Đối với nghĩa lý sâu xa của các kinh như thế đều không nhận biết đúng như thật. Hoặc có một loại hữu tình, do chấp giữ pháp xấu ác, khởi ngôn thuyết: Chỉ có một thức dong ruổi theo nẻo sanh tử, không hai, không khác. Như vậy cũng gọi là chánh pháp tượng tợ.
Lại nghe Đức Thế Tôn xác nhận các hữu tình, sĩ phu trì giới, thọ dụng thức ăn trăm vị, y phục trăm ngàn loại, là những dục diệu làm chướng ngại đạo, thì cho giả như các phẩm loại ấy lúc đang thọ dụng cũng không là chướng ngại. Hoặc có một loại hữu tình, do chấp giữ pháp xấu ác đã nói: Đức Thế Tôn thuyết giảng các dục là chướng ngại đối với đạo, nhưng nếu có quen gần, không đủ gọi là chướng ngại. Như vậy cũng gọi là chánh pháp tượng tợ.
Lại nghe Đức Thế Tôn nơi các vị A-la-hán, ở trong hiện pháp, đối với uẩn xứ giới của việc ăn uống, nói năng, không bỏ không lấy, không nhận biết như thật, liền khởi ngôn thuyết: Như ta hiểu pháp do Phật giảng nói, thì Tăng A-la-hán, đối với các sự việc sau khi qua đời, đều không hề biết rõ. Như vậy cũng gọi là chánh pháp tượng tợ.
Lại có một loại hữu tình không nhận biết đúng như thật về đạo lý của hai đế Thế tục và Thắng nghĩa, trái với lý của hai đế, nói như vầy: Các uẩn vô ngã. Làm sao vô ngã tạo tác các nghiệp khiến ngã xúc chứng? Như vậy nên biết cũng gọi là chánh pháp tượng tợ.
Lại có một loại hữu tình bản tánh ngu si, hành nhiều hủy báng đối với chín thứ chánh trụ tâm bên trong không nhận biết đúng như thật. Đối với hành quán đế, hành quán niệm trụ không nhận biết đúng như thật. Do không nhận biết, nên vì kẻ khác tuyên thuyết chỉ tác ý tín giải là phẩm Xa-ma-tha, chỉ tác ý tín giải là phẩm Tỳ-bát-xána. Chỉ tác ý tín giải là có thể đạt được cứu cánh. Tự mình cũng tập hành. Cũng hành như thế, nên biết cũng gọi là chánh pháp tượng tợ.
Lại có một loại hữu tình, không phải là xứ ố tác mà không tư duy, nên biết cũng gọi là chánh pháp tượng tợ. Lại có một loại hữu tình, đối với các việc đọc tụng, hành quán, tác ý đều có khả năng thực hiện, vui thích với việc của Tăng. Cũng ở trong đấy thấy công đức thù thắng, vì kẻ khác tuyên thuyết, nên biết cũng gọi là chánh pháp tượng tợ.
Lại có một loại hữu tình, ở trong Pháp-Luật thuyết giảng thiện đã xuất gia rồi, lần lượt cùng dẫn, chuyên xem việc lắng nghe là cứu cánh, nên biết cũng gọi là chánh pháp tượng tợ.
Lại có một loại hữu tình, tạo hợp vô số oai nghi giả trá, nên biết cũng gọi là chánh pháp tượng tợ.
Lại có một loại hữu tình, do hiểu biết về văn chương, chú thuật của thế gian, cầu nhiều, đạt nhiều các thứ lợi dưỡng hiện có, nên biết cũng gọi là chánh pháp tượng tợ.
Lại có một loại hữu tình, tổn não kẻ khác, dùng phi pháp ấy để tích tập của cải vật báu, tạo có tội phước, nên biết cũng gọi là chánh pháp tượng tợ.
Lại, tức đối với chánh pháp tượng tợ ấy có thể dẫn đến vô nghĩa, dùng các nhân duyên để khai thị, kiến lập, nên biết cũng gọi là chánh pháp tượng tợ.
Như vậy, tất cả chánh pháp tượng tợ nên biết đều là trái nghịch với học pháp.
Về tánh tướng của bạn ác, nói rộng nên biết, như nơi địa Thanh văn và địa Bồ tát đã nói.
Lại lược nêu: Nếu đối với phóng dật, hoặc đối với hành ác, hoặc đối với các thứ công đức thiện thấp kém, mà cùng khuyên gắng sức, nên biết loại ấy gọi chung là bạn ác.
Nếu các phiền não hiện có, trong thời gian dài phát khởi mạnh mẽ, thuộc chủng loại ngu si, tối kém, thì đó gọi là phiền não ngu tối dấy mạnh.
Nếu nơi đời trước, các pháp thiện như tín v.v… không tu tập, nên ở trong hiện pháp, các thứ như tín v.v… yếu kém, tuy hết sức tinh tấn thành khẩn, nhưng không có năng lực để nơi hiện pháp chứng đắc Niết-bàn. Nên biết đó gọi là tư lương của đời trước có chỗ thiếu kém, nên ở trong hiện pháp, lực ấy mỏng yếu.
Đó gọi là năm thứ học pháp trái nghịch. Cùng với đấy trái nhau, nên biết là năm thứ học pháp tùy thuận. Các Bí-sô đối với Tỳ-nại-da siêng năng tu học, thành tựu năm thứ học pháp tùy thuận ấy, có thể tu tập đúng đắn tất cả pháp đã học.
Thành tựu pháp tùy thuận như thế, lại có năm pháp có thể phòng hộ giới uẩn:
1. Xuất gia chân chánh.
2. Khéo thỉnh vấn.
3. Quán xét kỹ.
4. Tu tập đối trị.
5. Nhận giữ tin tưởng.
Không vì bị nợ nần mà cầu xuất gia, như trước đã nói rộng, chỉ cầu đạt Niết-bàn, yêu thích pháp tu học mà cầu xuất gia. Nên biết như thế gọi là xuất gia chân chánh. Đã xuất gia rồi, ở trong các sự việc phạm, không phạm cùng hoàn tịnh, nếu có Bí-sô trì Kinh-Luật-Luận, đối với điều chưa hiểu rõ kia, nên đích thân đến chỗ vị Bí-sô ấy thưa hỏi để được mở bày. Nên biết như thế gọi là khéo thỉnh vấn.
Đối với giới luật của bản thân, ba thời quán xét, hoặc vào đầu ngày, hoặc vào giữa ngày, hoặc vào cuối ngày, nếu thấy không phạm liền sanh hoan hỷ. Ngày đêm tinh tấn tùy học mà trụ, nếu thấy có phạm tức liền mau chóng như pháp sám hối dứt trừ. Nên biết như thế gọi là quan sát kỹ.
Nơi mọi thời gian, đầu đêm cuối đêm, hoặc vào ban ngày, tư duy tu tập, đối trị các phiền não hiện có như tham v.v…, không phải chỉ lắng nghe nêu dạy về giới luật liền sanh biết đủ. Nên biết như thế gọi là tu tập đối trị.
Tin sâu, nếu có phạm sẽ không có quả đáng yêu thích. Tin sâu, nếu không phạm, vị lai được quả đáng yêu thích. Nên biết như thế gọi là nhận giữ niềm tin.
Lại, xuất gia chân chánh làm chỗ nương dựa, tạo bốn sự việc khác. Do thỉnh vấn đúng đắn nên trọn không hủy phạm. Không biết nên phạm, do quán xét kỹ nên trọn không hủy phạm. Phóng dật nên phạm, do tu đối trị, nên trọn không hủy phạm. Phiền não dấy mạnh nên có chỗ phạm, do nhận giữ niềm tin, nên trọn không hủy phạm. Khinh mạn nên phạm. Nương dựa nơi năm thứ pháp như thế, nên có thể phòng hộ giới uẩn, gọi là khéo phòng hộ. Lại nữa, các Bí-sô đối với Tỳ-nại-da siêng năng tu học, do có năm thứ pháp tịch tĩnh, nên có thể diệt trừ các ác. Năm thứ pháp đó là:
1. Nhu hòa, dễ có thể cùng trụ.
2. Đoạn.
3. Đoạn chi.
4. Kính sự.
5. Diệt tranh chấp.
Những gì gọi là nhu hòa, dễ có thể cùng trụ? Nghĩa là như kinh đã nói, lược có sáu thứ pháp đáng yêu thích. Những gì là đoạn? Nghĩa là bốn luân hiện có của các hàng Trời, Người.
Những gì là đoạn chi? Nghĩa là năm đoạn chi.
Những gì là kính sự? Nghĩa là kính sự bậc Đại sư, nói rộng cho đến không có phóng dật.
Những gì là diệt tranh chấp? Nghĩa là bảy pháp diệt tránh.
Nên biết ở đây, do dựa nơi thân v.v… nên đối với bậc đồng phạm hạnh hiện hành không ái. Lại đối với Tăng kỳ cùng có của cải vật dụng, thọ dụng không bình đẳng. Lại có giới kiến pháp không đồng phận, do dựa vào đấy nên khó có thể cùng trụ. Tánh không nhu hòa, tâm thường lần lượt hỗ tương chống đối. Như thế gọi là chỗ chống đối pháp đáng yêu thích. Cùng với đấy trái nhau, do ba thứ nhân duyên của phẩm Bạch kia, nên biết tức là kiến lập sáu thứ pháp đáng yêu thích. Do nhân duyên thứ nhất kiến lập ba thứ. Do nhân duyên thứ hai, kiến lập pháp đáng yêu thích thứ tư. Do nhân duyên thứ ba, kiến lập hai thứ pháp đáng yêu thích thứ năm và thứ sáu.
Lại, ở trong đó, các nghiệp như thân v.v… đang hiện tiền, hiện có khiến kẻ khác đạt được lợi ích an lạc khả ái, gọi là bạn lành từ ái. Như vật có thể khiến thọ dụng thanh tịnh, vật ấy gọi là lợi dưỡng như pháp. Nếu vật không dựa vào phương tiện phi pháp của tà mạng để đạt được, vật đó gọi là đã đạt được đúng như pháp. Nếu vật đã được đặt vào trong bát, nên biết vật ấy gọi là gắn chặt với bát ấy. Nếu vật tuy chưa đặt vào trong bát, nhưng sắp sửa đặt vào, nên biết vật ấy gọi là thuộc về bát ấy.
Nếu các thứ thức ăn được thọ dụng không chú trọng vào tinh xảo, cũng không chú trọng vào nhiều, cùng thọ dụng ăn uống nên ăn uống hiển lộ, không ăn uống riêng kín. Cho đến thức ăn chỉ cần no bụng cũng cùng phân phát, trọn không cố ý để tại chốn khuất kín mà ăn. Cũng không đóng cửa mà ăn, vì sợ có kẻ đói khát tới xin không thể cho bớt. Nên biết đó gọi là thọ dụng bình đẳng. Giới luật được bậc Thánh ưa chuộng, phân biệt có sai biệt, như nơi phần Nhiếp dị môn đã nêu, nên biết về tướng.
Chánh kiến xuất thế gian, phân biệt có sai biệt, tức như nơi phần Nhiếp sự đã nói, nên biết về tướng của chúng.
Lại do hai tướng, nên thành tánh đáng ưa thích:
1. Thể kia có đức nên tôn trọng.
2. Sự gánh vác kia có ân, ý nên an ủi. Lại, tánh đáng ưa thích có hai sai biệt:
1. Chưa sanh khiến được sanh.
2. Sanh rồi càng nên tăng rộng.
Nên biết ở đây, tôn trọng tăng thượng, nghĩa là thể kia có đức, ý an ủi tăng thượng, là dùng hai thứ tài, pháp gồm thâu. Hai thứ tăng thượng ấy nghĩa là khéo hòa hợp. Hòa hợp tăng thượng nghĩa là tâm không có não loạn. Xa lìa các thứ não loạn hiện có như tham v.v.., gọi là không trái. Phương tiện hòa hợp cùng làm một sự, gọi là không tranh. Hòa đồng nước sữa, gọi là tánh một nẻo.
Lại, xứ sở viên mãn, giáo hóa dẫn dắt viên mãn, hành chân chánh viên mãn, tư lương viên mãn làm chỗ nương dựa, nên biết đã kiến lập bốn luân của hàng Trời, Người. Năm thứ phương xứ tốt đẹp đã trụ, gọi là xứ sở viên mãn. Nói rộng nên biết như nơi địa Thanh văn. Bạn lành của chánh sĩ, gọi là giáo hóa dẫn dắt viên mãn. Nói rộng nên biết như nơi địa Thanh văn và địa Bồ tát.
Do năm thứ tướng, tự phát nguyện chân chánh, gọi là hành chân chánh viên mãn. Những gì là năm thứ tướng? Đó là:
1. Đối với sự dạy trao đúng đắn, có thể kính thuận nhận lấy.
2. Hành không trái nghịch.
3. Tự hiển bày như thật.
4. Sư giáo thọ kia, theo chỗ đạt được các thứ y phục, thức ăn uống, ngọa cụ tinh thô, liền sanh biết đủ.
5. Liên tục cẩn trọng hai thứ gia hạnh, vui đoạn, vui tu, cho đến tu tập bốn thứ đối trị ái, thủ của Bí sô.
Lại, hữu tình đã tạo phước từ đời trước, do sức tăng thượng của thiện căn nơi đời trước, nên biết có năm tướng thắng lợi của quả. Nghĩa là do sức tăng thượng của phước được tạo từ đời trước, nên an trụ nơi hai thứ quả báo khả ái: 1. Trong. 2. Ngoài.
Quả báo khả ái thuộc bên trong: Là trường thọ, trụ lâu, sắc đẹp, đoan nghiêm. Không bệnh, ít phiền não. Trí huệ mạnh mẽ, lời nói có uy lực, thuộc tộc họ danh tiếng. Quả báo khả ái thuộc bên ngoài: Là sanh nơi nhà phú quý v.v… như kinh đã nói rộng. Giàu có lớn, phò tá, che chở lớn, kẻ hầu hạ nhiều. Đó gọi là tướng thắng lợi thứ nhất của quả do phước đã tạo từ đời trước.
Lại, do sức tăng thượng của phước được tạo từ đời trước, nên có thể khéo an trụ, không hề bị các thứ phi nhân như Dược xoa, yêu quái, các thần giữ nhà đất có thể gây chướng ngại. Nghĩa là đối với tài sản, địa vị, không tạo chướng ngại, hoặc đối với thọ mạng không tạo chướng ngại. Đó gọi là tướng thắng lợi thứ hai của quả do phước đã tạo từ đời trước.
Lại, do sức tăng thượng của phước được tạo từ đời trước, nên tánh đối với pháp thiện, tâm có thể hướng nhập, tu tập không biếng trễ. Đó gọi là tướng thắng lợi thứ ba của quả do phước đã tạo từ đời trước.
Lại, do sức tăng thượng của phước được tạo từ đời trước, nên tánh đối với hành ác, tự thành khẩn cảm thấy xấu hổ sâu xa, tuy tạo ác rồi, nhưng luôn luôn phát khởi tâm hối hận mãnh liệt. Do nhân duyên ấy, nên khiến ác đã tạo nơi hiện tại giảm thiểu, đối với ác của vị lai có thể vĩnh viễn xa lìa. Đó gọi là tướng thắng lợi thứ tư của quả do phước đã tạo từ đời trước.
Lại, do sức tăng thượng của phước được tạo từ đời trước, nên ý hướng, kỹ năng nơi phương tiện gia hạnh của tất cả sự nghiệp đều lần lượt hưng thạnh. Mọi sự hành tác đều được kính thuận, ít dùng công sức mà thành tựu được nhiều. Đó gọi là tướng thắng lợi thứ năm của quả do phước đã tạo từ đời trước.
Bốn thứ luân như thế, chư Thiên nơi cõi Trời, các hữu tình trong cõi người, như bánh xe thắng diệu của Chỉ, Quán hiện có, theo đấy nếu thiếu thì xe không chuyển được.
Lại dựa vào nghĩa nên đạt được sanh khởi tin hiểu sâu xa, đối trước vị sư trưởng tự hiển bày đúng như thật: Thân có dũng mãnh, tâm có năng lực, có thể nhận hiểu nghĩa của pháp thuyết giảng thiện, ác hiện có, theo như thứ lớp, nên biết đã kiến lập năm thứ đoạn chi, nếu thiếu một chi thì sự đoạn trừ không thành tựu đầy đủ.
Lại, nơi đầu tiên phải nên gắng sức kính sự bậc Đại sư. Nghĩa là có thể tuyên thuyết Giới học tăng thượng, Tâm học tăng thượng, Huệ học tăng thượng nơi giáo pháp hiện có. Tiếp theo, nên kính sự đối với pháp đã thuyết giảng. Thứ đến, lúc tu tập pháp tùy pháp hành, phải nên kính sự dựa vào Giới tăng thượng cùng học xứ tương ưng với Tỳ-nại-da. Thứ nữa, nên kính sự dựa vào Tâm tăng thượng và Huệ tăng thượng nơi sự chỉ dạy, khuyên bảo, trao truyền. Vào mọi thời gian tu cúng dường của cải và giáo pháp. Nên biết ở đây, cúng dường của cải, giáo pháp, nghĩa là đồng cư trú và đồng thọ dụng.
Tiếp theo, đối với Tĩnh lự, tu Tam-ma-địa. Từ đấy, liên tục, theo chỗ không ái vị, thông tỏ về đế lý, vĩnh viễn dứt hết các lậu, không có phóng dật. Bảy thứ kính sự có sai biệt về thứ lớp nên biết.
Lại do ba tướng, nên biết về kính sự. Tức do có thể biết thể kia có công đức thắng lợi, nên khởi tôn trọng. Theo nơi thể, đều dùng ba thứ hành chánh của thân ngữ ý để tu cung kính. Lại bày biện vô số cờ phướn lọng v.v… để cúng dường. Có các vị đồng phạm hạnh nên các tội đã phạm của các vị đồng phạm hạnh khác. Tức nơi hiện tiền, bốn mắt cùng đối nhau, đều dùng sự thật không dùng phi thật, cho đến nói rộng. Vị kia đối với điều chưa hiểu rõ, thì lúc được hiểu rõ nên lại không phạm. Do lại không phạm, nên các Bí sô ấy, vì kiến, văn, nghi không ứng hợp với sự việc đã phạm ở trước được nêu lên lần nữa, như thế là "tránh sự" liền được trừ diệt.
Có các Bí sô thấy Bí-sô khác phạm tội, cả về thời gian và hoàn cảnh. Vào thời gian sau, Bí-sô phạm tội kia quên hẳn điều mình đã phạm. Người trông thấy Bí-sô đã phạm, ghi nhận tội đã phạm ấy, bèn nêu lên sự việc kia, hỏi: Ông có nhớ là mình đã phạm tội không? Bí-sô kia đáp: Tôi hoàn toàn không nhớ. Bí-sô kia đã không nhớ thì không thể tự hối. Nếu nói dối: "Tôi có nhớ", thì lời ấy là lời hối, có thể lìa ố tác. Nhưng Bí-sô kia đã bị người khác cử tội, nên tin thuận, nên theo chúng Tăng cầu xin tưởng ức niệm Tỳ-nại-da cùng được thanh tịnh. Bấy giờ chúng Tăng tin các Bí-sô cùng với Bí-sô kia thanh tịnh, Bí-sô phạm tội kia được lìa ố tác, các Bí-sô này không nên nêu lần nữa về sự việc đã phạm ở trước. Như vậy là "tránh sự" liền được trừ diệt.
Lại có Bí-sô do điên cuồng, nên hiện hành nhiều thứ không phải là pháp của Sa-môn, không tùy thuận pháp. Bí-sô kia do sự việc ấy nên không thành phạm.
Lại có một loại Bí-sô không nhận biết. Nghĩa là vị ấy thành phạm không phải là xứ cử phát. Có các Bí-sô vì phòng hộ vị lai, nên chỉ dẫn về nhớ nghĩ, khiến có thể đạt được tự tâm, trở lại theo chúng Tăng cầu xin tưởng bất si Tỳ-nại-da cùng được thanh tịnh. Bí-sô kia nghe như thế rồi, tức liền cầu xin. Bấy giờ, chúng Tăng nên quyết đoán, hữu tình như thế là không thành phạm. Tăng hòa hợp trụ, nêu rõ là cùng thanh tịnh. Bí-sô không nhận biết kia, đã nghe điều ấy rồi, không còn nêu lên lần nữa sự việc đã phạm ở trước, như vậy là "tránh sự" liền được diệt trừ.
Lại có Bí-sô ở trong chúng Tăng cử tội của Bí-sô khác. Người là chủ thể cử khởi tưởng có phạm, còn người là đối tượng bị cử thì khởi tưởng không phạm. Do tưởng không phạm, nên tự nói là mình không phạm tội. Người là chủ thể cử tội nói:
Trưởng lão há không từng làm các việc như vậy như vậy chăng?
Bí-sô kia bèn thành thật đáp:
- Tôi không từng làm. Bí-sô cử tội nói:
- Vị kia trước đã phạm, nay bị cử phát cũng không nhận rõ, nên nói là không phạm.
Bấy giờ, chúng Tăng liền thực hiện việc tìm cầu tự tánh của sự việc kia là có phạm hay không phạm. Chờ đạt được sự thật rồi, nên như pháp quyết đoán. Như thế là "tránh sự" liền được trừ diệt.
Có trụ xứ khác với nhiều Bí sô, đối với tội đã phạm cùng sanh khởi nghi vấn, tranh luận. Hoặc nói có phạm, hoặc nói không phạm, hoặc nói là nặng, hoặc bảo là nhẹ. Có số chúng Tăng nơi trụ xứ khác thường đi ngang qua đấy, trong đó có vị là bậc Huệ giải, thọ trì ba tạng, nên thỉnh họ quyết đoán chỗ nghi kia, khiến đạt đến cứu cánh. Như thế là "tránh sự" liền được diệt trừ.
Lại có Bí-sô đã phạm tội rồi, tự hối về chỗ kích phát của triền, bèn thành ưu sầu, lo sợ kẻ khác cử phát, liền như pháp sám hối. Do đấy nên hết thảy "tránh sự" được trừ diệt.
Có nhiều Bí-sô cùng nhau cử tội, đều là chỗ chấp giữ của kiêu mạn, không muốn lần lượt cùng đối nhau để phát lồ sám hối, chỉ chuyên sự ly tán. Hai bộ ở riêng, đều nói: "Các vị kia đã không chịu đến đối diện với chúng tôi để phát lồ sám hối diệt trừ. Chúng tôi sao lại phải tới chỗ của họ? Hai bộ này nên suy cử một vị có trí huệ đứng đầu trong chúng làm công việc hòa giải, chấp nhận cùng đi đến để phát lồ sám hối, dứt trừ tội đã phạm. Như thế là "tránh sự" liền được trừ diệt. Tránh sự như vậy lược có bốn thứ, nên biết việc diệt trừ cũng có bốn thứ. Những gì gọi là bốn thứ tránh sự? Đó là:
1. Tránh sự của kẻ khác nêu lên.
2. Tránh sự cùng nghi.
3. Tránh sự tự mình nêu lên.
4. Tránh sự cùng nêu lên. Bốn thứ trừ diệt tránh sự là:
1. Trừ diệt do nguyện nêu ra chỗ phạm.
2. Trừ diệt do đem lại thanh tịnh.
3. Trừ diệt do hứa cầu tìm thật tánh.
4. Trừ diệt do mỗi người đều phát lồ.
Lại nữa, Bí-sô dựa nơi Tỳ-nại-da siêng năng tu học, đối với năm xứ nên nhận biết đúng khắp. Những gì là năm xứ? Đó là:
1. Nhận biết khắp về sự.
2. Nhận biết khắp về tội.
3. Nhận biết khắp về hữu tình.
4. Nhận biết khắp về chỗ dẫn thâu nghĩa lợi.
5. Nhận biết khắp về chỗ tổn não.
- Thế nào là nhận biết khắp về sự? Nghĩa là năm sự như uẩn v.v…, như nơi địa Thanh văn đã nói.
- Thế nào là nhận biết khắp về tội? Nghĩa là các Bísô, dựa nơi Tỳ-nại-da siêng năng tu học, do năm thứ tướng nên nhận biết khắp về chỗ phạm:
1. Nhận biết khắp về nhân duyên phạm tội.
2. Nhận biết khắp về đẳng khởi của việc phạm tội.
3. Nhận biết khắp về sự của tội đã phạm.
4. Nhận biết khắp về gia hạnh của việc phạm tội.
5. Nhận biết rõ về cứu cánh của sự phạm tội.
- Nhận biết khắp về nhân duyên phạm tội: Nghĩa là, nhân duyên hoặc là do tham, hoặc là do sân, hoặc là do si, nên đã hủy phạm các tội.
- Nhận biết khắp về đẳng khởi của việc phạm tội: Nghĩa là, hoặc có tội do thân là đẳng khởi, không phải là ngữ, tâm. Hoặc lại có tội do ngữ là đẳng khởi, không phải là thân, tâm. Hoặc lại có tội do tâm là đẳng khởi, không phải là thân, ngữ. Hoặc lại có tội do thân, do tâm là đẳng khởi, không phải là thân. Hoặc lại có tội do thân do ngữ là đẳng khởi, không phải là tâm. Hoặc lại có tội do thân do ngữ do tâm là đẳng khởi.
Không riêng do tâm đã phạm các tội phải theo xứ của kẻ khác phát lồ sám hối dứt trừ, chỉ nên thành khẩn tự phòng hộ sâu xa, như có Bí-sô phát khởi vô số tầm tư bất thiện như tầm tư dục v.v…
- Nhận biết khắp về sự của tội đã phạm: Tức là sự phạm tội lược có hai thứ:
1. Sự của số hữu tình.
2. Sự của số vô tình.
-Nhận biết khắp về gia hạnh của việc phạm tội: Nghĩa là tội đã phạm có hai gia hạnh:
1. Gia hạnh của sự nghiệp là chỗ không nên làm.
2. Gia hạnh của sự nghiệp là chỗ nên làm.
- Nhận biết khắp về cứu cánh của việc phạm tội: Nghĩa là nơi xứ ấy thiết lập phương tiện, tức đối với xứ ấy mà đạt được cứu cánh, không phải giữa chừng có sự thối chuyển. Do duyên này nên chỗ phạm gồm đủ. Các tập hợp về tội thô, tha thắng, trong nhiều phương tiện khác đã phạm vẫn trụy, ác tác. Đối với phương tiện kia và trong tự tụ mà được cứu cánh. Ở trong các phương tiện của tội vẫn trụy cũng phạm ác tác. Bốn thứ tụ tội gọi là tội hữu dư. Tụ tội tha thắng gọi là tội vô dư.
Nếu tội đã phạm do có trí, nên gọi là không tích tập. Hoặc lại từ kẻ khác mà hiển phát, nên cũng không tích tập. Cùng với đấy trái nhau, không phải là không tích tập. nếu tội đã phạm, đã theo kẻ khác, như pháp phát lồ tạo phương tiện sám hối dứt trừ, gọi là đã hiển bày. Cùng trái nhau với đây gọi là chưa hiển bày. Nếu tội đã phạm theo phương tiện giữ lấy, sẽ sám hối, gọi là có kỳ nguyện. Cùng với đấy trái nhau, gọi là không kỳ nguyện. Nếu tội đã phạm, chư Phật Thế Tôn, ở trong Tỳ-nạida của Biệt giải thoát đã kiến lập là phạm, gọi là có chế lập. Cùng với đấy trái nhau, gọi là không chế lập.
Nếu tội đã phạm, hoặc căn cứ nơi một loại hữu tình, hoặc lại căn cứ nơi thời gian nhưng không quyết định, trước đã chế lập tướng chung không sai biệt, nên biết tội này gọi là đẳng liên. Cùng với đây trái nhau, gọi là phi đẳng liên.
- Thế nào là nhận biết khắp về hữu tình? Nghĩa là do năm tướng nên biết có sai biệt:
1. Do hành có sai biệt.
2. Do chúng có sai biệt.
3. Do tăng giảm có sai biệt.
4. Do chứng đắc có sai biệt.
5. Do quan sát có sai biệt.
Do hành có sai biệt: Nghĩa là có thể nhận biết khắp do các hành như tham v.v… có sai biệt, nên hữu tình kia có sai biệt, như nơi địa Thanh văn đã nói, nên biết về tướng.
- Do chúng có sai biệt: Nghĩa là có thể nhận biết khắp do bảy chúng như Bí-sô, Bí-sô-ni v.v… khác nhau, nên hữu tình kia có sai biệt.
- Do tăng giảm có sai biệt: Nghĩa là như một loại hữu tình, hoặc là hàng quý tộc xuất gia, hoặc là từ tộc họ giàu có xuất gia, hoặc dung mạo đoan nghiêm. Còn một loại khác thì không như thế. Lại có một loại hữu tình học rộng biết nhiều, ngôn ngữ gồm đủ, đại trí đại phước viên mãn. Đối với Thi-la tịnh phòng hộ mạnh vững, ít có chỗ phạm, sanh nhiều hối tiếc, nơi phạm nơi xuất đều có thể khéo nhận biết rõ. Còn một loại khác thì không như thế. Nếu có thể nhận biết khắp các sự việc như vậy, nên biết gọi là nhận biết khắp về tăng giảm có sai biệt, nên hữu tình kia có sai biệt.
- Do chứng đắc có sai biệt: Nghĩa là có thể nhận biết khắp về bảy thứ quả vị sai biệt, từ Tùy tín hành, cho đến Câu phần giải thoát là biên sau, từ hướng, quả Dự lưu cho đến sau cùng là quả A-la-hán gồm tám thứ quả vị sai biệt.
Các loại hữu tình như thế phân biệt có sai biệt, như nơi địa Thanh văn đã biện giải về tướng.
- Do quan sát có sai biệt: Nghĩa là, hữu tình là chủ thể cử tội nên khéo quan sát đối tượng bị cử tội, sau đấy nên cử tội, tạo sự nhớ nghĩ. Tức là quán hữu tình bị cử tội ấy, đối với mình có ái kính chăng, nói rộng như nơi kinh, nên biết về tướng. Hữu tình bị phát cử cũng nên khéo xem xét kẻ là chủ thể cử tội kia, là người ngu độn, điên cuồng, cử tội phi pháp nhằm tổn hại đối với mình, nói rộng như kinh, nên biết về tướng.
Hoặc là hàng có trí, không phải là si, cuồng, với những phẩm bạch hiện có, nói rộng như nơi kinh, nên biết về tướng. Lại, đối với hữu tình đã có thể làm được công việc cử tội ấy, nên quan sát đúng đắn là vì mở bày nên cử tội chăng?
Quan sát về những sai biệt hiện có của hữu tình như thế, nên biết gọi là nhận biết khắp về hữu tình.
- Thế nào là nhận biết khắp về nghĩa lợi được dẫn thâu? Nghĩa là có thể nhận biết khắp, lược có ba thứ dẫn thâu nghĩa lợi:
1. Dẫn thâu nghĩa lợi là lợi dưỡng của tự thân.
2. Dẫn thâu nghĩa lợi là nêu ra tội của thân khác.
3. Dẫn thâu nghĩa lợi là sự an lạc của Tăng già đã loại bỏ kẻ phạm giới.
- Dẫn thâu nghĩa lợi là lợi dưỡng của tự thân: Nghĩa là, nếu các lợi dưỡng thể là thanh tịnh, đó gọi là chân thật. Hoặc các lợi dưỡng thể là thanh tịnh mà có thể cần dùng, không phải là không dùng, không có tích trữ nhiều gồm đến hàng trăm tư duyên. Như thế gọi là có thể dẫn đến nghĩa lợi.
Nếu các thứ lợi dưỡng không quá thời hạn, có thể nhận thọ dụng, đó gọi là hợp thời. Nếu các lợi dưỡng, đối với các Bí-sô khác cũng đang dẫn thâu, đó gọi là có bạn. Tức loại có bạn này không phải là dẫn đến việc phá
Tăng, gọi là lìa phá Tăng. Nếu nghĩa lợi là lợi dưỡng được dẫn thâu gồm đủ năm chi ấy, an trụ nơi chánh niệm, do tâm không nhiễm nên được thọ dụng.
Dẫn thâu nghĩa lợi là lợi dưỡng như thế gọi là vô tội.
- Dẫn thâu nghĩa lợi là nêu ra tội của thân khác: Nghĩa là, nếu tội đã phạm, thì kẻ kia hiện hành thật sự, đó gọi là chân thật. Nếu lại tự nhận biết, ta đã có thể khiến cho kẻ kia ra khỏi xứ bất thiện, ở yên nơi xứ thiện. Như thế gọi là có thể dẫn thâu nghĩa lợi. Nếu người nói pháp kính sự tôn trưởng, chăm sóc kẻ bệnh v.v…, lúc đang gia hạnh thì không nên cử tội. Đó gọi là hợp thời. Nếu cử tội kẻ kia, các Bí-sô khác cùng làm trợ bạn, đó gọi là có bạn. Nhân duyên ấy không phải có thể dẫn đến việc phá Tăng, như thế gọi là sự thanh tịnh thứ năm.
Nếu cự dẫn thâu nghĩa lợi là nêu ra tội gồm đủ năm chi ấy, an trụ nơi chánh niệm, tâm không nhiễm ô, như bạn lành từ ái, dùng lời nói dịu dàng, nên là dẫn thâu nghĩa lợi nêu ra tội của kẻ khác. Như dẫn thâu nghĩa lợi nêu ra tội của kẻ khác, thì dẫn thâu nghĩa lợi là sự an lạc của Tăng già đã loại bỏ kẻ phá giới, nên biết cũng như thế.
Nhưng có sai biệt: Nếu nhân nơi sự loại bỏ kẻ bị đuổi kia, không hợp với vị là chủ thể loại bỏ, gọi là chướng ngại. Hoặc không nhân đấy hủy hoại khuôn viên cư trú của Tăng chúng. Cũng không nhân đấy tổn hoại tháp miếu, cùng không tổn hại các vị đồng phạm hạnh khác. Như thế gọi là có thể dẫn đến nghĩa lợi. Cùng với đấy trái nhau, nên biết gọi là dẫn đến không nghĩa lợi.
- Thế nào là nhận biết khắp về sự tổn não? Nghĩa là có năm thứ tổn não hiện pháp, phàm phu hướng tới, kẻ ngu si hướng đến, người trí xa lìa, tuy thật sự không phải là cuồng, nhưng như kẻ cuồng tạo tác, cho đến chỉ có trở ngại xứ cuồng, đều không tăng trưởng nghĩa lợi hiện có. Những gì là năm? Đó là:
- Có một loại hữu tình thương tiếc sự chết chóc, dùng vô số môn để tự thúc giục xâm hại kẻ đã chết. Đó gọi là sự tổn não hiện pháp thứ nhất, hàng phàm phu hướng tới, cho đến nói rộng.
- Lại có một loại hữu tình may mắn có được phương tiện khác dễ sanh sống. Nhưng ở nơi ngã tư đường, nơi chợ búa lớn, cắt xẻ các chi phần, giống như thân mạng sắp dứt, tức hành tà khổ bức bách thân để tự nuôi sống mình. Đó gọi là sự tổn não nơi hiện pháp thứ hai, hàng phàm phu hướng tới, cho đến nói rộng.
- Lại có một loại hữu tình, tánh tham lam keo kiệt, bị cấu uế của sự keo kiệt che phủ, may mắn có vô số nhân duyên nuôi sống thân mạng, nhưng rất là khó khăn để cầu được sống còn. Đó gọi là sự tổn não nơi hiện pháp thứ ba, hàng phàm phu hướng tới, cho đến nói rộng.
Thế nào là cấu uế của sự keo kiệt? Tức là tám thứ cấu uế của sự keo kiệt:
1. Cấu uế của sự keo kiệt do đời trước đã hành tập tham lam keo kiệt, không thường xuyên huệ thí.
2. Cấu uế của sự keo kiệt do tham luyến thân mạng thuộc phẩm thượng nơi hiện pháp.
3. Cấu uế của sự keo kiệt đối với bạn đồng phận, cùng trụ, tùy chuyển. Đối với các hữu tình không thường xuyên hành tập bi, tâm bi yếu kém.
4. Cấu uế của sự keo kiệt do thấy phước điền ít đức, đã hủy phạm hành chân chánh.
5. Cấu uế của sự keo kiệt do đối với các thứ tài sản vật dụng khởi tưởng khó đạt được.
6. Cấu uế của sự keo kiệt do ba thời luôn lo sầu hối tiếc.
7. Cấu uế của sự keo kiệt do đối với các thứ của cải, vật báu chỉ thấy công đức, không thấy lỗi lầm tai họa.
8. Cấu uế của sự keo kiệt do hồi hướng của bố thí tà vạy. Nên biết đó gọi là tám thứ cấu uế của sự keo kiệt.
- Lại có một loại hữu tình yêu thích nơi cõi Trời, cầu được sanh nơi ấy, nhưng không nhận biết đúng như thật con đường sanh lên cõi Trời. Tự gia tăng bức hại như nhịn ăn, nhảy vào lửa, rơi xuống từ nơi núi cao v.v… Đó gọi là sự tổn não nơi hiện pháp thứ tư, hàng phàm phu hướng tới, cho đến nói rộng.
- Lại có một loại hữu tình yêu thích thanh tịnh, nhưng không nhận biết đúng như thật về con đường thanh tịnh, cho là tăng thêm pháp khổ mà được thanh tịnh, nên dùng vô số môn để tự bức hại. Đó gọi là sự tổn não nơi hiện pháp thứ năm, hàng phàm phu hướng tới, cho đến nói rộng.
Như vậy, năm thứ tổn não nơi hiện pháp, các Bí-sô dựa nơi Tỳ-nại-da siêng năng tu học, nên nhận biết đúng khắp, phải mau chóng xa lìa.
Lại nữa, các Bí-sô dựa nơi Tỳ-nại-da siêng năng tu học, thành tựu năm pháp, đối với người sanh tin khiến họ sanh tin tưởng, người đã sanh tin rồi khiến càng thêm tăng trưởng. Những gì là năm pháp? Đó là:
1. Thi-la viên mãn.
2. Chánh kiến viên mãn.
3. Phép tắc viên mãn.
4. Tịnh mạng viên mãn.
5. Lần lượt xa lìa tranh chấp viên mãn.
- Thi-la viên mãn: Lược có mười thứ, như nơi địa Thanh văn đã biện giải về tướng. Nghĩa là đầu tiên tức khéo thọ trì, không chìm tụ thái quá, cũng không nổi tan thái quá, cho đến nói rộng.
- Chánh kiến viên mãn: Lược có năm loại:
1. Tát-ca-da-kiến cùng Biên chấp kiến tăng ích đã vĩnh viễn đoạn trừ.
2. Tà kiến tổn giảm, phi bác cho là không, đã vĩnh viễn đoạn trừ.
3. Thủ kiến, nghĩa là các kiến thủ, giới cấm thủ đã vĩnh viễn đoạn trừ.
4. Kiến vọng chấp về xứ an lành đã vĩnh viễn đoạn trừ.
5. Các kiến điên đảo vọng chấp không có là có, có là không có, đã vĩnh viễn đoạn trừ.
- Phép tắc viên mãn: Cũng có năm loại. Nghĩa là sự việc nên làm dựa nơi thời gian làm việc. Hoặc sự việc nên làm dựa vào phẩm thiện. Hoặc sự việc nên làm dựa vào oai nghi. Tùy thuận phép tắc hiện có của thế gian và Tỳ-nại-da, nói rộng nên biết như nơi địa Thanh văn.
Tịnh mạng viên mãn: Cũng có năm loại. Nghĩa là có thể xa lìa năm pháp dấy khởi tà mạng như giả trá v.v…, như nơi địa Thanh văn đã nêu, nên biết về tướng.
- Lần lượt xa lìa tránh chấp viên mãn: Lược có sáu loại. Nghĩa là lìa sáu thứ gốc của sự tranh chấp. Ở đây, sáu thứ gốc của sự tranh chấp, tức là phẫn, hận v.v…, nói rộng như nơi kinh. Lại dựa nơi sáu xứ, nên biết đã kiến lập sáu thứ gốc của sự tranh chấp:
1. Tướng không tạo lợi ích.
2. Ưa thích ẩn giấu lỗi lầm của mình, chấp giữ kiêu mạn.
3. Dục ái của lợi dưỡng và sự cung kính hiện hành.
4. Hủy phạm Giới hành tăng thượng.
5. Hủy phạm Tâm hành tăng thượng.
6. Hủy phạm Huệ hành tăng thượng.
Nên biết là dựa nơi xứ thứ nhất để kiến lập gốc của sự tranh chấp thứ nhất, cho đến dựa nơi xứ thứ sáu để kiến lập gốc của sự tranh chấp thứ sáu.
Lại nữa, các Bí-sô dựa nơi Tỳ-nại-da siêng năng tu học, thành tựu năm lực, đối với tất cả loại gia hạnh hiện có, ý luôn hành chân chánh. Năm lực đó là:
1. Lực gia hạnh.
2. Lực ý lạc.
3. Lực khai hiểu.
4. Lực chánh trí. 5. Lực chất trực.
Nếu Bí-Sô vui thích việc tu học, mọi phần thân ở trong các học đều khéo tu học đúng đắn. Lại đối với pháp học luôn hết sức cung kính, để tự điều phục, để đạt được giải thoát. Như thế nên biết gọi là lực gia hạnh. Nếu có chỗ phạm, do ý lạc nên mau chóng trở lại xuất ly. Như vậy nên biết gọi là lực ý lạc. Nếu đối với học xứ, luôn luôn thỉnh vấn các vị thọ trì ba tạng. Những sự tự yêu thích hiện có nơi các thiện nam ứng hợp với việc tu học, cũng có thể mở bày, chỉ rõ. Như thế nên biết gọi là lực khai hiểu. Từ nơi kẻ khác nghe pháp rồi, nếu ở trong ấy là chân là thật thì thâu nhận thuận hợp. Nếu ở trong ấy là Tỳ-nại-da giả trá, là chánh pháp tượng tợ, là những ngôn thuyết xấu ác trái chống với pháp tánh, thì nên nhận biết rõ đúng như thật. Tuy không đến nơi chốn của chư vị kia, đích thân thưa hỏi những điều chưa được mở bày, hiểu rõ, nhưng nhờ đa văn, nên đối với các pháp Đức Thế Tôn không ngăn cấm cũng không cho phép, có thể tự tư duy về tánh của Sa-môn là có thể tùy thuận, là có thể trái nghịch. Đã nhận biết rõ rồi, như chỗ ứng hợp có thể tu hành đúng đắn, có thể xa lìa đúng đắn. Như thế nên biết gọi là lực chánh trí. Nếu sức tin hiểu lìa các thứ dối trá, dua nịnh, tức không có phần ít phân biệt hư vọng. Không phải ở trong chỗ cho phép của phần ít, lại tăng thêm thành phần nhiều mà khởi hiện hành. Cũng không ở trong chỗ cho phép của phần nhiều lại tổn giảm thành phần ít để khởi hiện hành, tức chỗ hiện hành không tăng không giảm. Như thế, đầu tiên là tự sanh vui vẻ, sau khiến tự tha an lạc mà trụ, tu tập hành chánh, không huyễn hoặc kẻ khác. Như thế nên biết gọi là lực chất trực.
Lại nữa, dựa nơi gia hạnh đã học của Tỳ-nại-da, nên biết có năm thứ hữu tình với phẩm loại sai biệt. Nghĩa là có một loại hữu tình, ở trong Pháp-Luật thuyết giảng thiện, dựa nơi pháp xuất gia, bắt đầu phát tâm hướng tới, tuy muốn phát tâm hướng tới, nhưng chưa xuất gia liền sanh phiền não, tìm cầu dục tà, do duyên ấy bèn không xuất gia.
Lại có một loại hữu tình, đã xuất gia rồi, do phiền não dấy khởi mạnh nên cố ý phạm tội. Vì nhân duyên này nên sanh nhiều ưu hối, liền khởi phiền não, tìm cầu dục tà.
Lại có một loại hữu tình, đã xuất gia rồi, nhưng đối với pháp xuất gia không sanh vui thích, đối với việc xả bỏ pháp học sắp sửa phát sanh cùng tỏ ưu, hối đối với việc xuất gia, khởi niệm: Ta không vui thích việc xuất gia này! Kẻ kia do hai duyên, nên phát sanh phiền não, tìm cầu dục tà.
Lại có một loại hữu tình, đã xuất gia rồi, do nhân duyên khó khăn về thọ mạng, nhưng không khởi cố ý trái vượt điều đã học, cho đến trọn đời luôn yêu thích pháp xuất gia, siêng tu phạm hạnh. Vị này không do hai duyên để phát sanh phiền não tìm cầu dục tà.
Bốn thứ hữu tình như thế là loại phàm phu.
Lại có một loại hữu tình, nghĩa là các vị hữu học chưa được giải thoát. Tức ở đây làm chỗ dựa, đối với Tâm, Huệ giải thoát bậc nhất ở sau, thông tỏ thăng tiến, nhận biết rõ đúng như thật. Đó gọi là loại hữu tình thứ năm. Loại thứ năm này so với loại hữu tình thứ tư ở trước là hàng phàm phu, do khéo điều phục đối với pháp giải thoát khả ái của hàng hữu học, nên nơi phần giải thoát sau, đã thông tỏ, thăng tiến, nhưng có sai biệt. Tức nên biết, đấy là hạng đã kiến đế tích. Còn ở đây, ba thứ hữu tình trước, như chỗ ứng hợp, đã sanh phát khởi hướng đến, đã sanh ưu hối, và cùng đã sanh các phiền não hiện có, tìm cầu dục tà, phải nên trừ bỏ đúng đắn. Đối với phần giải thoát trên phải nhận biết rõ, đúng. Loại thứ tư thì chỉ đối với phần giải thoát trên thuộc giai đoạn sau, nên nhận biết rõ, đúng. Nếu có thể hành như thế thì tất cả sẽ đạt được bình đẳng bình đẳng.
Lại nữa, ở trong ba học, nên biết lược có ba thứ hành tà. Nghĩa là có một loại hữu tình, trước cầu Niết-bàn mà vui thích xuất gia. Xuất gia rồi, sau vì tham ái vị nơi diệu dục cõi Trời khiến bị trôi nổi. Chỗ thọ trì giới, hồi hướng về nẻo thiện, chỉ phòng hộ Thi-la liền sanh biết đủ. Đó gọi là hành tà thứ nhất của hữu tình ngoại kiết đối với Giới tăng thượng.
Lại có một loại hữu tình, không chỉ phòng hộ Giới liền sanh biết đủ, mà có thể hướng chứng tùy một thứ định tĩnh trên các thế gian. Nhưng ở nơi định ấy sanh nhiễm vị sâu xa, không tiến tới cầu hiện quán Thánh đế nơi phần vị trên. Đó gọi là hành tà thứ hai của hữu tình nội kiết đối với Tâm tăng thượng.
Lại có một loại hữu tình, là hàng hữu học đã kiến đế tích, do trụ nơi phóng dật, nên ở trong hiện pháp không đạt giải thoát. Nên biết đó gọi là hành tà thứ ba của hữu tình đối với Huệ tăng thượng.
Như thế là đã lược dẫn, thuận theo luận này về Mađát-lý-ca của cảnh trí tương ưng, điều phục, tông yếu. Ngoài ra, hết thảy tùy theo lãnh vực này đều nên nhận biết rõ.
-Phần Nhiếp sự. Sự bản mẫu: Nêu bày, biện giải, gồm thâu:
Như vậy là đã nói về Ma-đát-lý-ca của Tỳ-nại-da. Thế nào gọi là sự của Ma-đát-lý-ca? Nghĩa là, hoặc Mađát-lý-ca của Kinh, hoặc Ma-đát-lý-ca của Luật, tóm lược chung gọi là một Ma-đát-lý-ca.
Tuy lại không có Ma-đát-lý-ca riêng, nhưng vì gồm thâu tóm lược các pháp được nêu giảng xen lẫn: lưu chuyển, hoàn diệt, tạp nhiễm, thanh tịnh, nên nay lại nói về Ma-đát-lý-ca phân biệt pháp tướng.
Tụng nêu:
Nên do khác giải khác
Không tức đây thích đây
Nơi trước, lược nêu sự
Từ sau sẽ biện rộng.
Nếu có các pháp, nên vì người khác thuyết giảng, cần dùng môn khác, trước nêu lên chung, lại dùng môn khác, sau giải thích riêng. Nếu như thế, gọi là thuận chánh lý. Không phải tức môn này, trước nêu lên phần chung, trở lại dùng môn này, sau giải thích riêng.
Như trước nêu chung: Thế nào là hữu vi, sau giải thích riêng, nói: Đó là năm uẩn. Nếu như vậy, gọi là thuận chánh lý. Không phải trước nêu chung: Thế nào là hữu vi? Sau, giải thích riêng nói: Đó là hữu vi. Như thế, tất cả nên theo đấy mà hiểu rõ.
Lược do hai tướng, nên biết kiến lập Ma-đát-lý-ca phân biệt pháp tướng:
1. Trước lược nêu bày về sự.
Tức dựa vào sự được nêu bày tóm lược như thế, sau sẽ biện giải rộng.
Thế nào gọi là trước lược nêu bày về sự? Nghĩa là lược nêu về sự của phẩm Lưu chuyển, Tạp nhiễm, cùng sự của phẩm Hoàn diệt, Thanh tịnh.
Thế nào là sự của phẩm Lưu chuyển, Tạp nhiễm? Nghĩa là các sự tự tánh, chỗ dựa, đối tượng duyên, trợ bạn của sáu thức thân. Hoặc sự của uẩn, giới, xứ. Hoặc sự xứ phi xứ của các duyên khởi. Hoặc sự của ba thọ. Hoặc sự của ba đời. Hoặc sự của bốn duyên. Hoặc sự của các nghiệp. Hoặc sự của phiền não. Hoặc sự của ba cõi, như cõi Dục v.v… Hoặc sự của mười hữu, như Dục hữu, Sắc hữu, Vô sắc hữu, Na-lạc-ca hữu, Bàng sanh hữu, Quỷ hữu, Thiên hữu, Nhân hữu, Nghiệp hữu, Trung hữu. Do nẻo thiện nẻo ác biệt ly dục, nên sự chiêu cảm, dẫn dắt, hướng tới có sai biệt. Hoặc sự của mười một thức trụ: Nghĩa là bốn thức trụ cùng bảy thức trụ hợp chúng mà nói. Hoặc sự nơi chín chốn cư trú của hữu tình, như nơi kinh đã nói rộng. Hoặc sự của năm nẻo. Hoặc sự của bốn loài sanh. Hoặc sự của bốn thứ nhập thai. Hoặc sự của bốn thứ đạt được tự thể. Hoặc sự của bốn thứ ăn. Hoặc sự của bốn thứ ngôn thuyết. Hoặc sự của bốn pháp thọ. Hoặc sự của bốn điên đảo. Hoặc sự của Khổ đế. Hoặc sự của Tập đế. Các loại như thế, gọi là lược nêu về sự của phẩm Lưu chuyển, Tạp nhiễm?
Thế nào là sự của phẩm Hoàn diệt, Thanh tịnh? Nghĩa là sự của Diệt đế. Hoặc sự của Đạo đế. Hoặc sự của Tam-ma-địa. Hoặc sự của các trí. Hoặc sự của các công đức được dẫn ấy. Hoặc sự của bảy chánh pháp. Hoặc sự của bảy thứ tác ý, quan sát đúng đắn. Hoặc sự của ba mươi bảy pháp Bồ đề phần. Hoặc sự của bốn hành tích. Hoặc sự của bốn pháp tích. Hoặc sự của Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na. Hoặc sự của bốn tu định. Hoặc sự của ba nghiệp phước. Hoặc sự của ba học. Hoặc sự của bốn quả Sa-môn. Hoặc sự của bốn chứng tịnh. Hoặc sự của bốn Thánh chủng. Hoặc sự của ba thừa. Hoặc sự của bốn môn ký. Các loại như thế gọi là lược nêu về sự của phẩm Hoàn diệt, Thanh tịnh.
Những sự như vậy, đã được kiến lập, biện giải rộng, theo chỗ ứng hợp, như trước đã nói trong các địa kia cùng các Nhiếp phần, nên biết về tướng.
Lại, tất cả sự, nói tóm tắt gồm có năm sự:
1. Sự của tâm.
2. Sự của tâm sở hữu pháp.
3. Sự của sắc.
4. Sự của tâm bất tương ưng hành.
5. Sự của vô vi.
Thế nào là, tức dựa nơi sự đã được nêu tóm lược như thế, sau sẽ biện giải rộng? Nghĩa là lược do bốn tướng, để biện giải rộng về sự kia:
1. Dị môn sai biệt.
2. Thể tướng sai biệt.
3. Thích từ sai biệt.
4. Phẩm loại sai biệt.
Dị môn, thể tướng, thích từ sai biệt, như nơi phần Nhiếp thích đã nói, nên biết về tướng của chúng.
Phẩm loại sai biệt lại có tám thứ:
Kiến lập tánh có không có, khác không khác có sai biệt.
1. Kiến lập giới địa có sai biệt.
2. Kiến lập thời phần có sai biệt.
3. Kiến lập phương sở có sai biệt.
4. Kiến lập tương tục có sai biệt.
5. Kiến lập phần vị có sai biệt.
6. Kiến lập phẩm phần có sai biệt.
7. Kiến lập đạo lý có sai biệt.
Do tám thứ sai biệt như thế, nên đối với phẩm loại sai biệt của tất cả sự, nên theo đấy mà biết rõ.
Thế nào là kiến lập tánh có-không có, khác-không khác có sai biệt? Nghĩa là nếu lược nêu có ba thứ có:
1. Có thật.
2. Có giả.
3. Có thắng nghĩa.
Thế nào là có thật? Nghĩa là các pháp thuyên biểu có danh có thể đạt được, có sự có thể đạt được. Đây gọi là đối với sự vô ngại mà chuyển, không phải hoặc có lúc chuyển, hoặc có lúc không chuyển. Nên biết đó gọi là lược nói về có thật.
Như ở trong các pháp tụ như sắc v.v… kiến lập các tướng: tường thành, nhà cửa, quân binh, cây cỏ, y phục, thức ăn uống v.v… Các tướng này chỉ ở nơi tụ ấy tùy chuyển, nơi các thứ khác thì thối chuyển. Các tướng như sắc v.v… nơi tất cả xứ thảy đều tùy chuyển. Do đó, tướng ấy, nơi đối tượng giảng giải là có thật. Nên biết các tướng khác, nơi đối tượng giảng giải là có giả.
Lại có giả này lược có sáu loại:
1. Có giả của tụ tập.
2. Có giả của nhân.
3. Có giả của quả.
4. Có giả của đối tượng hành.
5. Có giả của phần vị.
6. Có giả của quán đãi.
- Có giả của tụ tập: Nghĩa là vì tùy thuận ngôn thuyết của thế gian dễ hiểu rõ, nên đối với tướng chung như năm uẩn v.v… kiến lập các tưởng như ngã, hữu tình, bổđặc-già-la, chúng sanh. Các tưởng này chỉ có thể hiển bày rõ nơi tụ này, thế nên gọi là có giả của tụ tập.
- Có giả của nhân: Nghĩa là pháp hành có thể sanh của đời vị lai, do chưa sanh, nên tuy không phải có thật, nhưng có nhân ấy sẽ có thể sanh, nên gọi là có giả của nhân.
- Có giả của quả: Đó là trạch diệt, là quả của đạo, nên không thể nói là không, nhưng chẳng phải là có thật, chỉ căn cứ nơi tất cả phiền não đã đoạn, đối với đời vị lai rốt ráo không sanh mà giả lập.
- Có giả của đối tượng hành: Nghĩa là các hành của đời quá khứ đã diệt, chỉ tạo niệm của hiện tiền về cảnh đã hành. Do đó gọi là có giả của đối tượng hành, đã lui diệt mà không phải có thật.
- Có giả của phần vị: Nghĩa là các thứ tâm bất tương ưng hành (hành không tương ưng với tâm) như sanh v.v…, như nơi ý địa ở trước đã nêu dẫn biện giải. Tức nơi các hành, do dựa vào phần có, không có của trước sau, cùng đồng loại, dị loại, phần vị tương tục để giả lập về sanh v.v… Không phải sanh v.v… này lìa các hành, ngoài ra còn có thể chân thật mà riêng có thể đạt được.
- Có giả của quán đãi: Nghĩa là hư không phi trạch diệt v.v… Hư không vô vi, phải chờ đợi các sắc hướng đến mà giả kiến lập. Nếu nơi xứ ấy, sắc hướng tới không có hư không giả nêu, không phải lìa sắc thì không có pháp được hiển bày, ngoài ra còn có riêng hư không là thể thật có thể đạt được, không phải không có chỗ hiển bày được gọi là có thật. Các hành quán đãi không cùng sanh khởi, nên ở trong đời vị lai, pháp không sanh, lập là phi trạch diệt, không sanh được hiển bày, giả nói là có, chẳng phải không sanh được hiển bày có thể nói là có thật.
- Thế nào là Thắng nghĩa? Nghĩa là ở trong ấy, hết thảy danh ngôn, tất cả sự thiết lập thảy đều vĩnh viễn đoạn trừ. Lìa mọi hý luận. Lìa các phân biệt. Theo phương tiện thiện xảo nói là pháp tánh, chân như, thật tế, không, vô ngã.
Như nơi phần thứ tư: Nẻo hành chân thật của trí làm tịnh sở tri chướng thuộc phẩm Nghĩa chân thật của địa Bồ tát đã thuyết minh, nên biết về tướng của chúng.
Cùng với trên trái nhau, nên biết là không có.
Lại do bốn thứ khác không khác, nên biết đã kiến lập tánh khác, không khác:
1. Do đối tượng nhân khác không khác.
2. Do chỗ dựa khác, không khác.
3. Do tác dụng khác, không khác.
4. Do thời phần khác, không khác.
Nếu đối tượng nhân cùng tướng khác của các pháp có sai biệt có thể đạt được, thì tướng khác này là đối với phần khác.
Nếu tướng không khác có sai biệt có thể đạt được, thì ở đây, trước và sau cùng với hiện tại không khác.
Thời phần khác: Nghĩa là tất cả hành chỉ là sát na trụ, tức sự thể này trở lại đối chiếu với tự thể, gọi là không khác. Vượt quá sau sát na, gọi là khác. Do pháp kia làm hạt giống mà pháp này được sanh, gọi là đối tượng nhận. Nếu do mất v.v…, cùng đại chủng v.v… làm chỗ dựa mà chuyển, gọi là chỗ dựa. Nếu tất cả hành đều có công năng riêng, gọi là tác dụng.
Như thế gọi là kiến lập phẩm loại sai biệt thứ nhất: Tánh có-không có, khác-không khác.
-Thế nào là kiến lập Giới địa có sai biệt? Nghĩa là ba cõi Dục, Sắc, Vô sắc có sai biệt.
Nói cõi Dục: Nghĩa là, dưới từ Vô gián, trên vượt khỏi Tha hóa, đến cung Ma la. Trong đó các hành đều nhân nơi phiền não của cõi Dục mà sanh, nơi ba đời cùng với các phiền não ấy làm chỗ nương dựa, bị chỗ tùy buộc của các phẩm thô trọng trói buộc.
Lại, trong cõi Dục, tất cả phiền não hoàn toàn chưa lìa dục, không phải thuộc về địa định. Hết thảy phiền não của cõi Sắc, Vô sắc, một phần đã lìa dục, thuộc về địa định. Tướng của phiền não khác, như trước đã nói, nên biết.
Nói cõi Sắc: Nghĩa là bốn Tĩnh lự cùng Tĩnh lự trung gian, có mười bảy địa.
Cõi Vô sắc: Nghĩa là bốn địa vô sắc, như Không xứ v.v…
- Thế nào là kiến lập thời phần có sai biệt? Nghĩa là, nơi đời quá khứ có vô gián đã diệt, có lân cận đã diệt, có lâu xa đã diệt. Nơi đời vị lai có vô gián sắp sanh, có lân cận sẽ sanh, có lâu xa sẽ sanh. Nơi đời hiện tại có sát na hiện tại, có chúng đồng phận hiện tại, có tương tục hiện tại chưa diệt.
- Thế nào là kiến lập phương sở có sai biệt? Nghĩa là các pháp có sắc, dựa nơi xứ sở nên có được phương sở xa gần có sai biệt. Các pháp không sắc, do không sắc nên không dựa vào xứ sở. Nếu nương nơi pháp sắc mà được sanh khởi, tức nơi xứ ấy gọi là có phương sở. Đây là do chuyển tướng, không phải căn cứ vào xứ sở. Các pháp có sắc thì do đủ hai thứ.
- Thế nào là kiến lập tương tục có sai biệt? Nên biết tương tục lược có bốn thứ. Do căn cảnh của tự tha có sai biệt nên lập bốn thứ tương tục:
1. Tương tục của tự thân.
2. Tương tục của tha thân.
3. Tương tục của các căn.
4. Tương tục của cảnh giới.
Bốn thứ tương tục trên, hai là giả kiến lập, hai là nghĩa chân thật.
- Thế nào là kiến lập phần vị có sai biệt? Nghĩa là, phần vị khổ, phần vị lạc, phần vị không khổ không lạc, tức các pháp có thể thuận theo ba thọ.
Thế nào là kiến lập phần Phẩm có sai biệt? Nên biết là kiến lập về hai phẩm chủ thể đối trị, đối tượng được đối trị có sai biệt. Nghĩa là pháp nhiễm, không nhiễm. Pháp thấp kém thắng diệu. Pháp thô tế. Pháp nhận giữ không nhận giữ. Pháp có sắc, không sắc. Pháp có kiến, không kiến. Pháp có đối, không đối. Pháp hữu vi, vô vi. Pháp hữu lậu, vô lậu. Pháp có tranh, không tranh. Pháp có ái vị, không ái vị. Pháp dựa nơi tham đắm, dựa nơi xuất ly. Pháp thế gian xuất thế gian. Pháp lệ thuộc, không lệ thuộc.
Nên biết ở đây do năm nhân duyên nên kiến lập pháp nhiễm:
1. Ở trong ba thọ, theo chỗ thích hợp, bị tạp nhiễm.
2. Có thể thâu nhận khắp tánh thô trọng của các phẩm phiền não.
3. Có thể thâu nhận khắp quả phi ái của hiện pháp và vị lai.
4. Có thể nối liền khắp kiết sanh tương tục.
5. Có thể tạo chướng ngại khắp đối với tất cả pháp thiện cùng nơi sở tri chướng, trí sanh.
Do nhân duyên ấy nên gọi là pháp nhiễm.
Cùng với đấy trái nhau, nên biết rõ là tướng của pháp không nhiễm. Pháp không nhiễm này lược có hai loại, là thiện và vô ký. Do bất tịnh của hôi thối rữa nát, cùng bất tịnh của phiền não, nên gọi là bất tịnh. Do ở trong ấy, các thọ hiện có thảy đều là khổ, nên gọi là khổ. Do tánh vô thường nên gọi là không chắc chắn. Nếu do đạo lý của Thắng nghĩa như thế, tánh là bất tịnh, tánh là khổ, tánh là không chắc chắn. Tánh ấy xấu, uế, gọi là thấp kém. Vượt quá nơi ấy, nên biết là thắng diệu.
Lại, cùng đối đãi, nên hai tướng thấp kém, thắng diệu có sai biệt. Nghĩa là, đối nơi cõi Sắc thì cõi Dục là kém. Đối nơi cõi Vô sắc thì cõi Sắc là kém. Nếu so với Niết-bàn thì ba cõi đều là kém. Các loại như thế phải nên nhận biết rõ.
Nhỏ, rõ có sai biệt. Tịnh, uế có sai biệt. Thế, dụng có sai biệt. Nên biết đã kiến lập sự thô tế của nẻo sắc. Phẩm loại như hạ, trung v.v… có sai biệt, nên biết đã kiến lập phần thô tế hiện có của các pháp không sắc.
Lại, pháp có sắc, pháp không sắc, do lý của Thế tục đế, của Thắng nghĩa đế, dễ hiểu rõ, khó hiểu rõ, nên biết hai thứ thô tế có sai biệt. Nhỏ
(vi) là tụ cực nhỏ. Rõ (trước) là tụ còn lại. Tịnh là trung hữu, tụ sắc của địa trên. Uế là hữu còn lại, tụ sắc của địa dưới.
Nói thế, dụng: Nghĩa là, nếu xứ ấy có thế dụng tăng mạnh như địa đại v.v…, tuy so với tụ khác, về lượng của vật là bằng, nhưng có thể hơn các vật thô hiển khác có thể đạt được.
Phẩm loại như hạ, trung v.v… có sai biệt: Nghĩa là các thọ như lạc v.v…, các pháp như tín v.v…, có phẩm loại thượng trung hạ sai biệt.
Pháp nhận giữ: Nghĩa là các pháp sắc là chỗ nắm giữ của tâm, tâm sở. Do nhờ dựa vào chúng, nên tâm, tâm sở chuyển nơi sự an nguy đồng.
Đồng an nguy: Do tâm, tâm sở nhận giữ lực, nên sắc kia không đoạn, không hoại, không hư nát. Tức do sắc được nhận giữ như thế, hoặc lúc suy tổn, hoặc lúc gồm thêm, tâm, tâm sở kia cũng theo đấy mà giảm, tăng. Cùng với đây trái nhau, gọi là pháp không nhận giữ.
- Nói có sắc: Nghĩa là có thể dựa vào phương sở.
- Nói vô sắc: Nghĩa là không dựa vào phương sở. Đây là căn cứ nơi sự lãnh nạp, lưu chuyển của đối tượng duyên để nêu đặt, kiến lập.
- Nói hữu kiến: Nghĩa là nếu các sắc có thể làm nhãn thức cùng chỗ dựa, chỉ bày tại đây kia, sáng rõ hiện tiền. Cùng trái với đấy, gọi là vô kiến.
- Nói có đối: Nghĩa là nếu các sắc có thể ngăn ngại kẻ khác trông thấy, ngăn ngại việc lui tới, qua lại của kẻ khác. Cùng với đây trái nhau, gọi là không đối.
- Nói hữu vi: Nghĩa là có sanh diệt, hệ thuộc, nhân duyên. Cùng với đây trái nhau, nên biết là vô vi.
- Nói hữu lậu: Nghĩa là nếu các pháp do các lậu sanh ra, là chỗ tùy buộc của các lậu thô trọng, tương ưng với các lậu, là đối tượng duyên của các lậu, có thể sanh ra các lậu, là nơi chốn nương dựa của các lậu trong quá khứ, hiện tại, vị lai. Cùng với đây trái nhau, nên biết là vô lậu. Có thể kết hợp, làm nhân sanh các khổ như sanh v.v… của vị lai, nên ở trong hiện pháp là tánh có tội, gọi là có tranh. Cùng với đấy trái nhau, gọi là không tranh. Tự thể của môn nội thuận theo ái nhiễm, gọi là có ái vị. Cùng trái với đấy, gọi là không ái vị. Cảnh giới của môn ngoài thuận theo ái chấp, gọi là dựa nơi tham đắm. Cùng với đấy trái nhau, gọi là dựa nơi xuất ly.
Nếu pháp là hữu lậu, có tranh chấp, có ái vị, dựa nơi tham đắm, tất cả như thế gọi là thế gian. Nếu có thể đối trị chúng, dựa nơi Thế tục đế phát khởi tục trí thì pháp được dẫn dắt cũng gọi là thế gian. Cùng với đấy trái nhau, gọi là xuất thế gian.
Nếu các thế gian thì gọi là pháp lệ thuộc, gắn chặt với khí thế giới, hữu tình, thuộc về thế gian dục, sắc, vô sắc.
Nếu xuất thế gian thì không phải là pháp lệ thuộc, không gắn chặt, không thuộc về thế gian như trước đã nói.
- Thế nào là kiến lập đạo lý có sai biệt? Nghĩa là có bốn đạo lý:
1. Đạo lý tương đãi.
2. Đạo lý chứng thành.
3. Đạo lý tác dụng.
4. Đạo lý pháp nhĩ.
Phân biệt về đạo lý có sai biệt như thế, như nơi địa Thanh văn đã nêu rõ, nên nhận biết về tướng của chúng. Như vậy, tám thứ phẩm loại sai biệt, cùng với dị môn, thể tướng, thích từ có sai biệt như trước đã nói, nên biết, như chỗ nêu bày rộng lược trong tất cả sự, có thể biện giải rộng, đúng.
Lại nữa, tụng nêu:
Đầu, tụ cùng gồm thâu
Tiếp theo là thành tựu
Tự tánh cùng với nhân
Sau, nói rộng về địa.
Có chín tụ pháp, gồm thâu tất cả pháp. Những gì là chín? Đó là:
1. Tụ của pháp thiện.
2. Tụ của pháp bất thiện.
3. Tụ của pháp vô ký.
4. Tụ của pháp do kiến đạo đoạn.
5. Tụ của pháp do tu đạo đoạn.
6. Tụ của pháp không đoạn.
7. Tụ của pháp tà tánh định.
8. Tụ của pháp chánh tánh định.
9. Tụ của pháp bất định.
- Tụ của pháp thiện v.v…, quảng diễn như nơi ý địa đã biện biệt về tướng.
- Tụ của pháp do kiến đạo đoạn: Nghĩa là tất cả kiến. hoặc dựa nơi các kiến như Tham-sân-si mạn. Hoặc nghiệp của nẻo ác. Hoặc đối với các đế do dự, nghi v.v…
- Tụ của pháp do tu đạo đoạn: Nghĩa là hết thảy các pháp còn lại nên đoạn trừ.
- Tụ của pháp không đoạn: Nghĩa là pháp vô lậu.
- Tụ của pháp tà tánh định: Là nghiệp vô gián cùng đoạn thiện căn.
- Tụ của pháp chánh tánh định: Là các pháp hiện có của hàng hữu học, vô học.
- Tụ của pháp bất định: Là pháp phi học phi vô học còn lại.
Nên biết ở đây, tự tánh của các pháp hiện có cùng gồm thâu tha tánh tương ưng.
Hoặc có một loại hữu tình, thành tựu pháp thiện và pháp vô ký, không phải là pháp bất thiện, nghĩa là các
Thánh giả đã lìa dục tham, cùng hàng phàm phu ấy đã trừ bỏ pháp chủng tử.
Hoặc có một loại hữu tình, gây tạo pháp bất thiện và vô ký, không phải thành tựu các pháp thiện. Nghĩa là các hữu tình đoạn thiện căn, trừ pháp chủng tử. Không có trường hợp thành tựu pháp thiện và pháp bất thiện, không phải là pháp vô ký. Hoặc chỉ bất thiện hoặc chỉ vô ký mà có thể đạt được.
Lại, ở trong ấy, nên biết các pháp như chỗ ứng hợp, hoặc được hoặc xả. Nghĩa là có một loại hữu tình, do thọ nhận các thọ, hoặc xả chỗ thọ nhận, hoặc suy cầu tà vạy, hoặc suy cầu đúng đắn, hoặc chuyển hình, hoặc theo pháp như thế, hoặc lìa dục, hoặc gia hạnh, hoặc thối thất, hoặc được quả, hoặc chết sống, mà có được xả. Như pháp luật nghi Biệt giải thoát, do thọ nhận chúng nên được, do xả chúng nên xả. Hoặc các pháp thiện, do suy cầu tà vạy nên xả, do suy cầu đúng đắn nên được.
Do chuyển hình nên xả luật nghi của Bí-sô, hoặc luật nghi của Bí-sô-ni. Tùy được một loại nơi hai hình sanh, tất cả đều vĩnh viễn xả. Do pháp như thế, nên lúc thế gian hoại, có thể nhập vào pháp như thế là Tĩnh lự đã đạt được.
Do lìa dục, nên có thể đạt được pháp thiện hiện có của địa trên.
Do gia hạnh, nên có thể phát khởi, dựa vào công đức được nêu dẫn, khiến chúng hiện tiền.
Do thối thất, nên trở lại được các pháp thấp kém lúc trước.
Do được quả, nên xả các pháp thế gian, được pháp xuất thế gian cùng pháp thiện của thế gian về sau được sáng, sạch.
Do chết sống, nên hoặc sanh nơi thời dưới, đạt được pháp thiện sanh đắc cùng các pháp bất thiện, vô ký. Hoặc sanh nơi thời trên, thì chỉ đạt được pháp thiện và pháp vô ký.
Các thứ đã xả, như chỗ thích hợp, cũng theo đấy nhận biết rõ. Không có cùng trái nhau. Các tâm, tâm sở cùng tương ưng và cùng gồm thâu. Tức hành của sát na này, trở lại hợp với sát na ấy.
Lại, không có tất cả các hành sanh tử là pháp có thể vĩnh viễn đoạn trừ.
Lại, không có các hành, trước chưa từng sanh, đột nhiên khiến khởi.
Lại, tất cả hành đều là sát na sanh. Sau sát na sanh tất không dừng trụ, thành các hành một sanh, một trụ, một diệt.
Lại, tất cả pháp với mỗi mỗi tự tánh, không có tự tánh thứ hai có thể đạt được.
Lại, nhất định không có hai pháp đồng loại, một lúc tương ưng.
Tức do tự tánh thứ hai không có.
Lại, không phải một pháp có hai thứ tác dụng của tướng trái, khác.
Lại, tất cả hành dựa nơi kẻ khác chuyển mà không tự dựa.
Lại, không phải tự tánh cùng với tự tánh kết hợp, cũng không tùy chuyển.
Lại, không phải tức tâm của một kỳ sát na này cùng với tâm của sát na ấy làm đối tượng duyên.
Lại, không phải tức tự tánh của sát na này, cùng với tự tánh của sát na ấy làm nhân, cũng không phải sanh sau làm nhân cho sanh trước, cũng không phải đồng loại làm nhân cho dị loại. Như bất thiện đối chiếu với thiện, thiện đối chiếu với bất thiện mà tạo nhân quả dị thục, vô ký, nói rộng về địa.
Tụng nêu:
Đầu, các địa nương dựa
Tiếp, đế trí gia hạnh
Tam-ma-địa, căn, đạo
Tu tập hành đối trị
Pháp hữu lậu, vô lậu
Các quả, các nhân duyên
Lập Bổ-đặc-già-la
Sau: Biến tri, cứu cánh.
Có chín thứ địa. Đó là:
1. Địa tư lương.
2. Địa phương tiện.
3. Địa quán hành.
4. Địa kiến.
5. Địa tu.
6. Địa hữu học.
7. Địa vô học.
8. Địa Thánh giả.
9. Địa phàm phu.
Trước tiên nên tích tập tư lương (hành trang) xuất thế gian. Thứ đến, vì nhằm dứt hết các lậu nên siêng năng tu tập phương tiện. Tiếp theo, lúc tu tùy thuận phần quyết trạch, là chánh quán các đế. Tiếp đến là có thể chứng nhập chánh tánh ly sanh. Sau đấy, lần lượt chứng bốn quả Sa-môn. Ở đây, ba quả trước là địa hữu học, quả thứ tư là địa vô học.
Chứng ly sanh rồi, tất cả đạo thăng tiến dần của thế gian, gọi là địa tu, tức gồm thâu chung về kiến. Địa học, vô học gọi là địa Thánh giả. Hết thảy địa còn lại ở đây gọi là địa phàm phu. Nghĩa là, hoặc chưa tu gia hạnh, hoặc đã tu gia hạnh, hoặc đã lìa dục. Tất cả hàng phàm phu lại có chín chỗ dựa, có thể dứt hết các lậu. Những gì là chín? Đó là: Định vị trí, hoặc Tĩnh lự một, Tĩnh lự trung gian, ba Tĩnh lự còn lại cùng ba vô sắc, trừ hữu thứ nhất.
Lại có bốn Thánh đế, có thể làm tịnh hết trú xứ của hoặc.
Lại có mười trí, có thể nhận biết tất cả cảnh giới của đối tượng nhận thức. Nghĩa là: Pháp trí, Loại trí, Thế tục trí, Tha tâm trí, hoặc bốn trí như Khổ, Tận trí, Vô sanh trí. Phân biệt rộng các trí này, như nơi địa Thanh văn.
Lại, sư Du già có năm gia hạnh:
1. Vì nhằm chứng nhập chánh tánh ly sanh.
2. Vì chứng đắc quả trên.
3. Vì tăng tiến lìa dục.
4. Vì nhằm chuyển y.
5. Vì dẫn đạt công đức.
Lại có ba thứ Tam-ma-địa của Du già:
1. Tam-ma-địa không.
2. Tam-ma-địa vô nguyện.
3. Tam-ma-địa vô tướng.
Lại có ba thứ căn của tất cả hành hướng trụ quả:
1. Vị trí dục tri căn: Là căn của hành hướng quả Dự lưu.
2. Dĩ tri căn: Là căn của quả Dự lưu trở lên, cho đến hành hướng quả A-la-hán.
3. Cụ tri căn: Là căn trụ nơi quả A-la-hán. Lại có chín đạo. Đó là:
1. Đạo thế gian.
2. Đạo xuất thế gian.
3. Đạo gia hạnh.
4. Đạo vô gián.
5. Đạo giải thoát.
6. Đạo thắng tiến.
7. Đạo phẩm hạ.
8. Đạo phẩm trung.
9. Đạo phẩm thượng.
- Đạo thế gian: Nghĩa là do đạo này nên có thể chứng đắc việc đoạn trừ các phiền não thế gian, hoặc không chứng đoạn, có thể đi đến nẻo thiện hoặc đi đến nẻo ác.
- Đạo xuất thế gian: Nghĩa là do đạo này nên có thể chứng đắc việc đoạn trừ rốt ráo các phiền não.
- Đạo gia hạnh: Nghĩa là vì đoạn trừ hoặc nên siêng tu gia hạnh.
- Đạo vô gián: Nghĩa là đang đoạn trừ hoặc.
Đạo giải thoát: Nghĩa là tâm đoạn vô gián, đạt được giải thoát.
- Đạo thắng tiến: Nghĩa là từ đấy về sau, phát khởi gia hạnh thù thắng.
- Đạo phẩm hạ: Nghĩa là có thể đối trị phiền não phẩm thượng.
- Đạo phẩm trung: Nghĩa là có thể đối trị các phiền não thuộc phẩm trung.
- Đạo phẩm thượng: Nghĩa là có thể đối trị các phiền não thuộc phẩm thượng.
Lại có bốn thứ đối trị:
1. Đối trị do chán hoại.
2. Đối trị do đoạn dứt. 3. Đối trị do nhận giữ
4. Đối trị do phần xa.
Lại có mười sáu hành tướng. Nghĩa là quán các đế là vô thường v.v…, như trước đã biện biệt.
Lại có tám thứ tu tập như thế, đối trị hành tướng như thế.
Tu tập như thế, như nơi địa định cùng địa Thanh văn ở trước đã nói, nên quán về tướng của chúng.
Lại có hai phẩm gồm thâu tất cả pháp:
1. Pháp hữu lậu.
2. Pháp vô lậu.
Hai pháp này, nên biết như trước đã biện giải. Lại có năm quả:
1. Quả dị thục.
2. Quả đẳng lưu.
3. Quả ly hệ.
4. Quả sĩ dụng.
5. Quả tăng thượng. Lại có mười nhân:
1. Nhân tùy thuyết.
2. Nhân quán đãi.
3. Nhân khiên dẫn.
4. Nhân nhiếp thọ.
5. Nhân sanh khởi.
6. Nhân dẫn phát.
7. Nhân định dị.
8. Nhân đồng sự.
9. Nhân tương vi.
10. Nhân bất tương vi.
Lại có bốn duyên:
1. Duyên nhân.
2. Duyên đẳng vô gián.
3. Duyên sở duyên.
4. Duyên tăng thượng.
Tất cả quả, nhân cùng duyên như thế, như nơi địa Bồ tát v.v… đã biện giải về tướng.
Lại có bảy loại hữu tình: Nghĩa là Tùy tín hành v.v… Lại có sáu loại A-la-hán: Nghĩa là A-la-hán thối pháp v.v…
Lại có tám loại hữu tình: Là kiến lập hành bốn hướng cùng trụ bốn quả, nên biết như nơi địa Thanh văn đã nói.
Lại có sáu thứ biến trí:
1. Biến trí của địa bất định nơi đế hữu lậu.
2. Biến trí của địa định nơi đế hữu lậu.
3. Biến trí của đế vô lậu vô vi.
4. Biến trí của đế vô lậu hữu vi.
5. Biến trí về kiết thuận hạ phần.
6. Biến trí về kiết thuận thượng phần. Lại có hai thứ cứu cánh:
1. Cứu cánh của trí. cứu cánh của đoạn.
- Cứu cánh của trí: Nghĩa là trí tận, trí vô sanh. Từ đấy trở về sau vì đoạn trừ các phiền não nên không còn nhận thức nữa.
- Cứu cánh của đoạn: Nghĩa là các phiền não được đoạn trừ rốt ráo khắp. Do sự đoạn trừ ấy nên cứu cánh viên mãn, chứng đắc Tâm giải thoát và Huệ giải thoát.
Như thế là đã lược dẫn các thứ tông yếu hiện có của Ma-đát-lý-ca tương ưng với cảnh trí thuận theo luận này. Ngoài ra, tất cả tùy nơi lành vực này, đều nên nhận biết rõ. Hết thảy Ma-đát-lý-ca biến hành, như nơi phần Nhiếp thích đã nêu bày, nên biết về tướng.
Giáo pháp của Đức Như Lai, về số lượng là vô hạn lượng, sao có thể đi đến tận cùng cái vô biên nơi bờ kia? Tùy theo lãnh vực này, tùy theo sự dẫn phát này, tùy theo nghĩa lý sâu xa này, các bậc thông huệ, đối với tất cả các thứ còn lại, nên tầm tư đúng đắn, nên nhận biết rõ, đúng.