TẠNG LUẬN
SỐ 1581 - KINH BỒ TÁT ĐỊA TRÌ
Hán dịch: Đời Bắc Lương, Tam Tạng Pháp sư Đàm Vô Sấm.
Phẩm 1: CHỦNG TÁNH CỦA XỨ PHƯƠNG TIỆN ĐẦU TIÊN
Phẩm 2: XỨ PHƯƠNG TIỆN PHÁT TÂM BỒ ĐỀ
Phẩm 3: XỨ PHƯƠNG TIỆN TỰ LỢI-LỢI THA
Phẩm 4: XỨ PHƯƠNG TIỆN NƠI NGHĨA CHÂN THẬT
Phẩm 4: XỨ PHƯƠNG TIỆN NGHĨA CHÂN THẬT
Phẩm 5: XỨ PHƯƠNG TIỆN CỦA LỰC
Phẩm 6: XỨ PHƯƠNG TIỆN THÀNH THỤC
Phẩm 7: XỨ PHƯƠNG TIỆN BỒ ĐỀ VÔ THƯỢNG
Phẩm 8: XỨ PHƯƠNG TIỆN LỰC CHỦNG TÁNH
Phẩm 12: XỨ PHƯƠNG TIỆN TINH TẤN
Phẩm 15: XỨ PHƯƠNG TIỆN BỐN NHIẾP
Phẩm 16: XỨ PHƯƠNG TIỆN CÚNG DƯỜNG TẬP CẬN VÔ LƯỢNG
Phẩm 18: XỨ PHƯƠNG TIỆN BỒ TÁT CÔNG ĐỨC
Phẩm 1: XỨ PHƯƠNG TIỆN THỨ PHÁP: BỒ TÁT TƯỚNG
Phẩm 2: XỨ PHƯƠNG TIỆN THỨ PHÁP: DỰC
Phẩm 3: XỨ PHƯƠNG TIỆN THỨ PHÁP TÂM TỊNH
Phẩm 4: XỨ PHƯƠNG TIỆN THỨ PHÁP: TRỤ
Phẩm 1: XỨ PHƯƠNG TIỆN CỨU CÁNH: SINH
Phẩm 2: XỨ PHƯƠNG TIỆN CỨU CÁNH: NHIẾP
Phẩm 3: XỨ PHƯƠNG TIỆN CỨU CÁNH: ĐỊA
Phẩm 4: XỨ PHƯƠNG TIỆN CỨU CÁNH: HÀNH
Phẩm 5: KIẾN LẬP CỦA XỨ PHƯƠNG TIỆN CỨU CÁNH
Kính lễ hết thảy Phật Thế Tôn Quá khứ, hiện tại và vị lai.
Có mười pháp nêu đầy đủ đạo Bồ-tát mà Đại thừa đã thâu tóm. Những gì là mười? Một là trì. Hai là tướng. Ba là dực (hỗ trợ). Bốn là tâm tịnh. Năm là trú. Sáu là sinh. Bảy là nhiếp (gồm thâu). Tám là địa. Chín là hạnh. Mười là an lập.
Thế nào gọi là trì? Bồ-tát từ chủng tánh lần đầu phát tâm cho đến hết thảy pháp Bồ-đề phần, ấy gọi là trì. Vì sao? Vì Bồ-tát nương dựa nơi chủng tánh tất nhiên phải đảm nhiệm đạo Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, vì thế cho nên chủng tánh được gọi là tất định trì. Bồ-tát nương vào sự phát tâm ban đầu mà tu hành sáu Ba-lamật: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ. Tu sáu Ba-la-mật nầy, thì công đức luật nghi, trí tuệ luật nghi, pháp phần Bồ-đề, cho nên lần đầu phát tâm gọi là hành phương tiện trì của Bồ-tát. Bồ-tát nương nơi hành phương tiện làm đầy đủ đạo Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, cho nên hành phương tiện gọi là đại Bồđề trì. Người phi chủng tánh do không có chủng tánh, nên dù có phát tâm, chuyên cần tinh tấn, mà hẳn nhiên không thể đạt rốt ráo đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Cho nên phải biết, tuy không phát tâm, không tu hành phương tiện, vẫn được gọi là chủng tánh trì. Nếu có chủng tánh Bồ-tát mà không phát tâm, không tu hành phương tiện, thì không thể mau chóng thành tựu đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Có chủng tánh Bồ-tát, phát tâm Bồ-đề, chuyên hành tinh tấn, thì có thể chóng thành tựu đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Lại chủng tánh gọi là trì, còn gọi là trưởng dưỡng, gọi là nhân, gọi là nương tựa, gọi là thềm thang, gọi là dẫn dắt, gọi là che chắn. Chủng tánh mà phát tâm hành phương tiện thì cũng như vậy. Thế nào là chủng tánh? Lược nói có hai thứ: Tánh chủng tánh, Tập chủng tánh. Tánh chủng tánh nghĩa là Bồ-tát với sáu nhập thù thắng, lần lượt tương tục cứ như vậy từ vô thủy đến nay, ấy gọi là tánh chủng tánh. Tập chủng tánh nghĩa là nếu từ trước đến nay những gì đã đắc được từ tu thiện, gọi là tập chủng tánh. Chủng tánh còn gọi là chủng tử, gọi là giới, gọi là tánh. Lại nữa, không tu tập thì quả tế, quả xa. Tu tập thì quả thô, quả gần. Bồ-tát thành tựu chủng tánh, vượt lên trên tất cả Thanh văn, Phật-bích-chi. Vì sao? Vì có hai thứ tịnh: Một là chướng phiền não tịnh. Hai là trí chướng tịnh. Chủng tánh của Nhị thừa thì chướng phiền não tịnh chứ không phải trí chướng tịnh. Chủng tánh của Bồ-tát đầy đủ hai thứ tịnh, nên là tối thắng tối thượng trong tất cả. Lại có bốn việc thù thắng đối với tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác: Một là căn thù thắng. Hai là đạo thù thắng. Ba là phương tiện khéo léo thù thắng. Bốn là quả thù thắng. Bồ-tát thì tự tánh căn sắc bén, Duyên giác căn trung bình, Thanh văn căn yếu kém. Ấy gọi là căn thù thắng. Thanh văn, Duyên giác chỉ là tự độ, Bồ-tát không như vậy, mà tự độ và độ người, nên gọi là đạo thù thắng. Thanh văn, Duyên giác chỉ có thể hiểu biết ấm, giới, các nhập, mười hai duyên khởi, là xứ, phi xứ và bốn chân đế, Bồ-tát khéo dùng phương tiện thảy đều biết rõ tất cả pháp, đấy gọi là phương tiện thiện xảo thù thắng. Thanh văn chứng đắc Bồ-đề Thanh văn, Duyên giác chứng đắc Bồ-đề Duyên giác, Bồ-tát chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, đó gọi là quả thù thắng. Sáu Ba-la-mật là tướng chủng tánh của Bồ-tát, khiến cho các chúng sinh biết đó là Bồ-tát. Những gì là sáu? Là từ Bố thí Ba-la-mật cho đến Trí tuệ Ba-la-mật.
Bố thí Ba-la-mật gọi là tướng chủng tánh của Bồ-tát. Nghĩa là Bồ-tát tánh vốn tự ưa thích bố thí, đối với người thọ nhận thì đem vật bố thí, bố thí bình đẳng không mệt mỏi, đối với các tài vật hoặc nhiều hoặc ít, tâm luôn bình đẳng bố thí, hoan hỷ không hối hận. Nếu không bố thí thì tâm thường hổ thẹn, luôn luôn vì người khác khen ngợi công đức, bố thí khuyến khích người khác thực hành bố thí. Thấy có người bố thí thì tâm thường tùy hỷ, đối với các bậc kỳ túc tôn trọng là ruộng phước phải nên cúng dường thì rời bỏ chỗ ngồi mà cung kính dâng cúng. Nếu có người hỏi việc đời nầy đời sau thì cứ như pháp thảy đều vì họ mà giảng nói. Nếu có người sợ hãi về các nạn giặc như vua chúa, nước, lửa, tri thức ác, thì tùy theo sức mình có thể ban cho họ sự vô úy, thọ nhận người gởi tài vật không để sai trái, với người thiếu nợ trọn không cầm cố, anh em phân chia tiền của bình đẳng như một (không hai), đối với của báu mà người sinh yêu đắm, thì dạy bảo họ lìa tham, đã dạy bảo người xa lìa, huống gì là tự mình tham đắm. Tánh ưa tài vật tốt đẹp thì hãy xả bỏ sự thọ dụng, ưa tu nghiệp thù thắng thì quả báo lợi ích rộng nhiều. Đối với tất cả sự vui chơi như tửu, sắc, ca múa, các thứ biến hiện, luôn sinh hổ thẹn, nhanh chóng xa lìa. Được của cải châu báu lớn còn không tham đắm huống gì là lợi nhỏ như thế. Cho nên gọi là Đàn (bố thí) Ba-la-mật là tướng chủng tánh của Bồ-tát.
Thi (Giới) Ba-la-mật gọi là tướng chủng tánh của Bồ-tát. Nghĩa là tánh nghiệp thân, khẩu, ý của Bồ-tát vốn tự dịu dàng, không tăng hành ác, không ưa sát sinh, giả sử tạo nghiệp ác thì tâm sinh hổ thẹn, nhanh chóng hối trừ không cho tăng trưởng, không dùng đao gậy khủng bố chúng sinh, thể tánh hiền hòa nhân hậu thường ôm lòng từ ái, cung kính các bậc tôn trưởng, đón tiếp cúng dường, khéo biết căn cơ thích hợp để tạo phương tiện thiện xảo, khéo tùy thuận lòng người, nói năng thường nở nụ cười, nét mặt vui tươi nhìn thẳng, ý trước là thăm hỏi, biết ân và báo đáp ân, chỗ cầu ngay thẳng, không giả dối quanh co, thọ tài vật như pháp, không làm phi pháp, tánh thường hoan hỷ, ưa tu các phước đức, thấy người tu phước còn đem thân giúp đỡ, huống là lại tự làm. Nếu có chúng sinh cùng nhau tàn hại, đánh trói, chê bai, mắng trách, có vô lượng các khổ như vậy, Bồ-tát hoặc thấy hoặc nghe thì tâm thường thương xót. Chú trọng đời nầy làm thiện để đời sau được vui. Đối với tội nhỏ tâm luôn sợ hãi, huống gì là các ác lớn mà không sợ hãi, cẩn thận. Hoặc thấy người làm ruộng, buôn bán, chăn thả súc vật, tính toán sổ sách, hoặc thấy nhóm người họp nhau tranh cãi, cầu tài, trông coi việc bố thí, hội họp việc hôn nhân. Như thế, tất cả những việc như pháp thảy đều đồng sự cùng làm. Đối với sự tranh cãi, gây gổ, khủng bố nhau, hoặc là mình hoặc là người cũng đều vô nghĩa, vô ích, tất cả những việc như thế không nên đồng sự. Thường khéo ngăn cấm mười nẻo bất thiện. Nếu bị người khác khiến phải thuận theo giáo huấn của họ, mình phải nên đi hỏi ý kiến của những bậc minh triết. Đối với các sự nghiệp phải phế bỏ mình thành tựu người thường, ôm lòng thương xót bùi ngùi chớ không sân hại, giả sử tạm thời dấy khởi tầm, liền tìm cách diệt trừ. Luôn tu lời chân thật, không dối gạt chúng sinh, không ly gián người thân của họ và nói lời vô nghĩa, lời nói thường dịu dàng không thô ác, đối với người giúp việc cho mình còn không nói lời thô ác, huống gì là người khác. Đối với các công đức tâm thường ưa thích. Thấy người tu hành thì tùy hỷ khen ngợi là thiện (tốt). Hết thảy đồng như vậy, gọi là Thi-la Ba-la-mật nơi tướng chủng tánh của Bồ-tát. Sằn-đề (Nhẫn nhục) Ba-la-mật gọi là tướng chủng tánh của Bồ-tát. Nghĩa là Bồ-tát tự tánh vốn tự hòa dịu, nếu gặp người khác không đem lại việc lợi ích, cũng không khởi tâm giận hại, không trở lại báo thù. Nếu người hối hận đến xin lỗi, liền nhận sự sám hối của họ, không ôm lòng kết hận, lại không nhớ tưởng điều khác lạ, sánh đồng như thế, gọi là Sằn-đề Ba-la-mật nơi tướng chủng tánh của Bồ-tát.
Tỳ-lê-da (Tinh tấn) Ba-la-mật gọi là tướng chủng tánh của Bồ-tát. Nghĩa là Bồ-tát tánh vốn tự tinh tấn, đêm ngủ sớm dậy, không thích thói quen tham đắm sự ngủ nghỉ, phàm làm việc gì cũng tinh tấn, không buông bỏ, luôn khéo suy nghĩ, phải đạt được rốt ráo, vừa mới lập nghiệp phải chắc chắn vững bền, việc nếu chưa thành tựu trọn không bỏ dở, đối với đệ nhất nghĩa tâm không thối mất, không tự khinh, nói không thể hoàn thành, đối với việc đã nhận làm phải mạnh mẽ gánh vác, hòa nhập vào đại chúng, phá dẹp luận tà. Khéo léo đáp trả tất cả câu hỏi khó. Các việc khổ khác đều có thể nhẫn nhục, sức phương tiện lớn trọn không lo ngại hối hận, huống gì là việc nhỏ. Hết thảy đồng như vậy, gọi là Tỳ-lê-da Ba-la-mật nơi tướng chủng tánh của Bồ-tát.
Thiền Ba-la-mật được gọi là tướng chủng tánh của Bồ-tát. Nghĩa là Bồ-tát đối với pháp, đối với nghĩa, tánh khéo suy lường, không có các loạn tưởng, dẫu có thấy hoặc có nghe núi cao rừng rậm, cũng lìa các rối loạn mà thuận theo sự yên lặng, liền sinh ý niệm: Đây là chỗ an vui, là chỗ xa lìa, tìm đến chỗ kia, sự tu tập sẽ chuyên cần. Tánh Bồ-tát là phiền não mỏng, ấm cái đều nhỏ nhẹ, xa lìa chỗ suy nghĩ lợi mình, không bị phiền não nhiễu loạn do biết rõ cái ác, hoặc khi tạm khởi thì liền tìm cách diệt trừ, đối với chỗ oán ghét đều khởi tâm từ, huống gì là đối với người. Hoặc thấy hoặc nghe chúng sinh chịu khổ liền khởi tâm bi, tùy theo phương tiện cứu giúp khiến họ được lìa khổ, tánh ưa đem lợi ích an vui cho chúng sinh. Hoặc có bà con vì tiền tài của cải mà sát hại, hoặc trói đuổi đi để chiếm lấy, những nạn như vậy đều có thể an nhẫn, có thể nhanh chóng thọ trì nghĩa sâu xa của các pháp. Niệm lực thành tựu, chỗ thọ nhận chỉ chuyên vào chân đế. Từ lâu xa tu gì đều có thể ghi nhớ, cũng khiến cho người khác nhớ nghĩ không quên, hết thảy đồng như vậy, gọi là Thiền Ba-la-mật nơi tướng chủng tánh của Bồ-tát.
Trí tuệ (Bát nhã) Ba-la-mật được gọi là tướng chủng tánh của Bồ-tát. Nghĩa là Bồ-tát đối với tất cả minh xứ, tất cả trí xứ đều sinh trí tuệ thành tựu, không ngu tối chậm chạp, không nhỏ nhen, không ngu si, các chỗ buông lung đều có thể suy lường, đó gọi là Bát-nhã Ba-la-mật nơi tướng chủng tánh của Bồ-tát.
Đó là tướng thô nơi chủng tánh của Bồ-tát. Tôi đã lược nói, các nghĩa thật khác, chỉ có Phật Thế Tôn mới có thể biết chắc chắn. Bồ-tát chủng tánh đầy đủ tánh như vậy, ấy là công đức, nghĩa là thành tựu pháp bạch tịnh chân thật. Cho nên gọi là nan đắc, gọi là đặc biệt, gọi là không thể nghĩ bàn, gọi là bất động, gọi là vô thượng, gọi là trú xứ của Như-lai, tương ưng với chánh nhân.
Bồ-tát chủng tánh thành tựu pháp bạch tịnh, nghĩa là không bị bốn loại phiền não làm nhiễm ô, nếu nhiễm ô thì pháp bạch tịnh không hiện ra ở trước, hoặc sinh cõi ác. Bồ-tát chủng tánh ở lâu trong sinh tử, hoặc đọa vào cõi ác. Đọa ở cõi ác cũng chóng được giải thoát, tuy ở cõi ác mà không thọ khổ lớn, như các chúng sinh vào trong địa ngục. Nếu khổ xúc chạm đến thân thì nhàm chán xa lìa, thấy người thọ khổ hay khởi tâm bi, như thế chủng tánh làm nhân đại bi, vì thế Bồ-tát tuy đọa trong đường ác nhưng hơn hẳn các chúng sinh trong tất cả đường ác. Những gì là bốn thứ phiền não? Một là thói quen buông lung từ lâu xa làm lợi cho phiền nào. Hai là ngu si học tập các tri thức ác. Ba là bị các bậc vua chúa, giặc, oán địch bức bách không được tự tại, làm cho tâm mê loạn. Bốn là các đồ dùng không đầy đủ, thường âu lo cho thân mạng.
Bồ-tát chủng tánh lại có bốn pháp không đắc đạo quả
Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Những gì là bốn? Một là vốn không có bạn tốt, không được chư Phật Bồ-tát khéo thuyết pháp. Hai là tuy gặp bạn tốt và được chư Phật Bồ-tát thuyết pháp, nhưng thọ học sai lầm. Ba là tuy gặp bạn lành, được chư Phật Bồ-tát khéo thuyết pháp, thọ học không sai lầm, nhưng không chuyên cần hành phương tiện, không nỗ lực tinh tấn. Bốn là tuy gặp bạn tốt, được Phật và Bồ-tát nỗ lực thuyết pháp, chuyên cần tu phương tiện, nhưng thiện căn chưa chín muồi, trang nghiêm chưa đầy đủ, từ lâu xa đến nay tâm không điều phục. Bồ-tát tuy có chủng tánh nhưng nhân duyên không đủ, cũng không thể thành tựu đạo quả Bồ-đề vô thượng. Lìa bốn pháp đó, Bồ-tát mau chóng chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Nếu Bồ-tát không có chủng tánh, dù có hành tất cả các phương tiên, cuối cùng cũng không thành tựu được đạo quả Bồ-đề vô thượng.
-----------------
Bồ-tát mới phát tâm là mở đầu tất cả chánh nguyện, đều có thể thâu nhận tất cả chánh nguyện, vì thế cho nên chánh nguyện ban đầu gọi là tự tánh nguyện. Bồ-tát phát tâm, nói như vầy: Ta phải cầu Bồ-đề vô thượng, an lập tất cả chúng sinh, khiến rốt ráo nơi Niết-bàn Vô dư, cho đến đại trí Như-lai. Phát tâm cầu đạo Bồ-đề như vậy, cho nên ban đầu phát tâm gọi là Bồ-tát mong cầu tu hành, duyên vào Bồ-đề và duyên vào chúng sinh mà phát tâm cầu. Vì thế, ban đầu mới phát tâm, đã thâu tất cả thiện căn Bồ-đề, là dẫn dắt tối thượng, là phương tiện rất thiện xảo, là đầy đủ công đức, là hiền thiện chân thật tột bực, là rất chân thật, đối với tất cả chúng sinh đều bỏ hành ác, đối với chánh nguyện thế gian, xuất thế gian là trên hết, là rất cao tột. Như vậy phải biết, ban đầu phát tâm có năm tướng: Một là tự tánh. Hai là hạnh. Ba là duyên. Bốn là đức. Năm là thắng. Bồ-tát mới phát tâm gọi là độ. Các số Bồ-tát là của Đại thừa Bồ-đề, vì thế cho nên mới phát tâm thuộc về độ. Phát tâm rồi, dần dần chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Cho nên, ban đầu phát tâm là căn bản của Bồ-đề. Phát tâm ấy rồi, thấy các chúng sinh thọ vô lương khổ, lại khởi tâm bi muốn độ thoát họ, vì thế cho nên ban đầu phát tâm là chỗ nương tựa của đại bi. Nương tựa nơi ban đầu phát tâm mà kiến lập pháp phần Bồ-đề cho Bồ-tát, và những việc làm của chúng sinh là sở học của Bồ-tát, đều lấy đó mà tu tập. Cho nên, ban đầu là chỗ nương tựa của Bồ-tát học. Ban đầu phát tâm như thế, nên gọi là thâu giữ, gọi là căn bản, gọi là nương tựa.
Bồ-tát ban đầu phát tâm có hai thứ: Một là xuất. Hai là bất xuất. Xuất nghĩa là từ lúc mới phát tâm cho đến rốt ráo trọn không thối chuyển. Bất xuất nghĩa là có thối chuyển. Thối cũng có hai thứ: Một là thối rốt ráo. Hai là thối không rốt ráo. Thối rốt ráo nghĩa là đã thối rồi trọn không khởi lại nguyện Bồ-tát. Thối không rốt ráo nghĩa là thối rồi phát khởi trở lại.
Bồ-tát ban đầu phát tâm có bốn thứ duyên, bốn thứ nhân, bốn thứ lực.
Thế nào là bốn thứ duyên?
1. Thiện nam thiện nữ nào hoặc thấy, hoặc nghe chư Phật Bồ-tát có thần thông biến hóa không thể nghĩ bàn, những người kia thấy nghe rồi liền khởi suy nghĩ: Đó là việc lớn không thể nghĩ bàn. Có thể vì các việc biến hóa như vậy được thấy nghe làm duyên tăng thượng, cho nên ưa thích đại trí của Đức Phật mà phát tâm Bồ-đề.
2. Tuy không thấy nghe những thần biến như trên, nhưng nghe người thuyết pháp tán thán Bồ-đề và tạng Bồ-tát, nghe thì vui mừng, hoan hỷ tin thích. Do nghe pháp ấy làm duyên tăng thượng, ưa thích đại trí Phật, nên phát tâm Bồ-đề.
3. Tuy không nghe pháp, nhưng thấy tướng pháp diệt lại khởi suy nghĩ: Vô lượng chúng sinh sẽ gặp khổ lớn, Bồ-tát trụ thế thì có thể diệt trừ. Ta nay phải tu đạo Bồđề, hộ trì chánh pháp, vì các chúng sinh mà diệt vô lượng khổ. Do việc hộ trì pháp làm duyên tăng thượng, cho nên ưa thích đại trí của Như Lai mà phát tâm Bồ-đề.
4. Không thấy pháp diệt, nhưng thấy đời ác trược bị mười thứ phiền não nhiễu loạn: Một là ngu si. Hai là không biết hổ thẹn. Ba là tham lam keo kiệt, ganh tị. Bốn là khổ não. Năm là dơ bẩn. Sáu là phiền não. Bảy là hành ác. Tám là buông lung. Chín là biếng nhác. Mười là không tin. Thấy rồi liền khởi suy nghĩ: Đời khởi nhiều ô trược, ở trong đời xấu ác nầy còn không thể phát nguyện về Nhị thừa huống chi là có thể chí cầu Bồ-đề vô thượng. Ta nay phải phát tâm cũng khiến cho người khác phát tâm, do trong đời ô trược phát tâm khó được làm duyên tăng thượng, cho nên ưa thích đại trí Như Lai mà phát tâm Bồ-đề.
Thế nào gọi là bốn thứ nhân? Một là chủng tánh đầy đủ. Hai là chư Phật Bồ-tát thuộc về những bạn lành. Ba là khởi tâm đại bi. Bốn là sinh tử khổ nạn, hành khổ với vô lượng các khổ lâu xa như vậy, đối với các khổ nầy tâm không sợ hãi. Chủng tánh đầy đủ nghĩa là từ vô thủy điều đó đã là như vậy. Thuộc về bạn lành nghĩa là có bốn việc: Một là bạn tốt không ngu không độn, trí tuệ không tà. Hai là không dạy người phóng dật, cũng không đem phương tiện phóng dật trao cho người khác. Ba là không dạy người làm ác (hành ác) cũng không đem phương tiện hành ác trao cho người. Bốn là trọn không đoạn người tín thượng, dục thượng, tinh tấn thượng, thọ thượng, phương tiện thượng, công đức thượng, khiến họ thối lùi, cũng không đem tín hạ, dục hạ, thọ hạ, tinh tấn hạ, phương tiện hạ, công đức hạ trao cho người khác, đó gọi là đoạn Đại thừa vô thượng khiến học Nhị thừa, đoạn tu tuệ cho tư tuệ, đoạn tư tuệ cho văn tuệ, đoạn văn tuệ cho phước nghiệp, đoạn giới cho thí, sánh đồng như vậy, đoạn những công đức thượng khiến kẻ kia thối lùi, lấy công đức hạ trao cho khiến tu tập. Khởi tâm đại bi nghĩa là có bốn việc. Hoặc có thế giới có khổ não, hoặc có thế giới không có khổ não, Bồ-tát sinh chỗ có khổ não, thấy người thọ khổ, hoặc tự mình thọ khổ, hoặc thấy mình và người đều thọ, hoặc thấy sinh tử dài lâu mà thọ khổ không gián đoạn. Bồ-tát nương vào chủng tánh của mình, tánh vốn tự nhân hậu hiền hòa, đối với bốn cảnh giới khởi bi hạ, trung, thượng, đối với sinh tử vô cùng không ngừng khổ lớn, tâm không sợ hãi. Có bốn việc để tâm không sợ hãi: Một là tánh an ổn dũng mãnh. Hai là trí tuệ sáng suốt chuyên tu tư duy. Ba là đối với Bồ-đề vô thượng khởi niềm vui tăng thượng. Bốn là đối với các chúng sinh phát tâm bi tăng thượng.
Thế nào gọi là bốn lực? Một là tự lực. Hai là tha lực. Ba là lực của nhân. Bốn là lực phương tiện. Bồ-tát tự phát tâm Bồ-đề gọi là tự lực. Nhân nơi người mà phát tâm gọi là tha lực. Trước tu tập Đại thừa tương ưng với thiện căn, nay ít thấy Phật và Bồ-tát, hoặc ít nghe lời tán thán mà liền phát tâm, ấy gọi là lực của nhân. Ở trong đời nay gần gũi thiện tri thức, nghe họ nói pháp hay tu các điều thiện, gọi là lực phương tiện.
Bồ-tát do bốn duyên, bốn nhân, do tự lực, do lực nguyên nhân mà phát tâm Bồ-đề, vững chắc không lay động, thì nhất định sẽ rốt ráo. Nếu do tha lực, lực phương tiện mà phát tâm thì không vững chắc, có chuyển động, không nhất định.
Bồ-tát có bốn việc làm cho tâm Bồ-đề thoái lui.
Những gì là bốn? Một là chủng tánh không đầy đủ. Hai là tri thức ác lôi cuốn. Ba là đối với các chúng sinh tâm bi mỏng và nhỏ. Bốn là đối với cái khổ trong sinh tử sinh tâm sợ hãi.
Ban đầu phát tâm vững chắc có hai việc, vượt ra ngoài thế gian, thù thắng, kỳ lạ, pháp chưa từng có: Một là đối với các chúng sinh khởi tưởng thân thuộc. Hai là không gồm thâu quá thân thuộc. Gồm thâu quá thân thuộc tức là nhận lãnh bà con, nên dễ tâm sinh ái hận.
Ban đầu phát tâm vững chắc có hai việc, đối với các chúng sinh luôn khởi tâm chân tịnh: Một là tâm an ổn. Hai là tâm vui thích. Tâm an ổn nghĩa là vì các chúng sinh mà trừ bỏ chỗ bất thiện, đặt để họ an vui ở chỗ thiện. Tâm vui thích nghĩa là với chúng sinh nghèo thiếu, không chỗ nương dựa, có thể dùng nhiếp pháp, đẳng tâm làm lợi ích cho họ.
Ban đầu phát tâm vững chắc có hai phương tiện: Một là phương tiện tịnh tâm. Hai là phương tiện đạo. Phương tiện tịnh tâm nghĩa là người kia được tâm an ổn, tâm vui thích ngày ngày tăng trưởng. Phương tiện đạo là tự mình đối với ngày đêm thành tựu pháp Phật, tùy theo năng lực đó, có thể nương vào phương tiện tịnh tâm để làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sinh.
Ban đầu phát tâm vững chắc có hai cửa (môn) là chỗ đi vào của pháp thiện: Một là phương tiện tự lợi, phát tâm Bồ-đề. Hai là phương tiện lợi cho người, diệt trừ các khổ.
Ban đầu phát tâm vững chắc lại có hai việc, phát tâm thành đạo sẽ gồm thâu pháp thiện, khi phát ra hơn hẳn tất cả pháp thiện đã gồm thâu: Một là nhân thắng. Hai là quả thắng. Nhân Bồ-đề kia là chỗ tu tập pháp thiện, thì gọi là nhân thắng. Bồ-đề vô thượng thì gọi là quả thắng. Thù thắng hơn tất cả các Thanh văn, Duyên giác, vì thế cho nên nhân quả của Bồ-tát đều thù thắng.
Ban đầu phát tâm vững chắc có hai thứ lợi ích: Một là đã phát tâm nầy rồi, liền vì vô lượng chúng sinh làm tịnh thí, tôn trọng, ruộng phước. Hai là gồm thâu và giữ lấy phước đức thuần tịnh. Phước đức thuần tịnh ấy là như hai thứ phước đức của Chuyển luân vương được bảo vệ. Do đó, ngủ hoặc thức không bị thú dữ, quỷ ác, các thần… não hại, ở chỗ sinh sống ít bệnh tật, hoặc khi thuyết pháp thân không mệt mỏi, tâm không quên mất. Bồ-tát chủng tánh với thân khẩu ý ác, tánh vốn tự đã nhẹ mỏng, đã phát tâm rồi chuyển thành nhẹ yếu. Người khác sử dụng chú thuật không có hiệu nghiệm, Bồ-tát sử dụng thảy đều thần nghiệm, vì đã được thành tựu. Tùy thuận thượng nhẫn, tức có thể nhẫn chịu người khác não hại, cũng không não hại người khác, thấy người khác não hại nhau tâm sinh thương xót, sân giận, ganh tị không hề xảy ra, huyễn hoặc giả dối, dua nịnh và cả những thứ phiền não phẩm thượng thảy đều mỏng yếu, giả sử có khởi thì cũng nhanh chóng diệt. Ở tại nơi cư ngụ, không có các việc khủng bố, tranh cãi, đói lạnh, phi nhân não hại. Các nạn nếu chưa khởi thì không khởi, dù có khởi cũng liền tiêu diệt. Bồ-tát phát tâm nếu phải sinh trong cõi ác, sẽ mau được giải thoát, thọ khổ nhẹ ít, mau sinh nhàm chán xa lìa, đối với các chúng sinh khác hay khởi tâm bi, luôn đem phước đức thuần tịnh giúp đỡ, thành tựu vô lượng phước tịnh như thế.
-----------------
Thế nào là hạnh Bồ-tát? Lược nói các thứ học xứ của Bồ-tát, như học mà học, nói chung đó là hạnh Bồ-tát. Bồ-tát học ở đâu? Học có bảy chỗ. Những gì là bảy? Một là tự lợi. Hai là lợi tha. Ba là nghĩa chân thật. Bốn là lực. Năm là thành thục chúng sinh. Sáu là tự thành thục pháp Phật. Bảy là Bồ-đề vô thượng.
Tự lợi lợi tha là thế nào? Tự lợi lợi tha lược nói có mười thứ: Một là thuần. Hai là cộng. Ba là an. Bốn là lạc. Năm là nhân thâu tóm. Sáu là quả thâu tóm. Bảy là đời nầy. Tám là đời khác. Chín là rốt ráo. Mười là không rốt ráo. Thuần, cộng tự lợi lợi tha có hai thứ: Một là thuần tự lợi. Hai là thuần tha lợi. Trái nghịch đạo Bồ-tát thì phải biết nên đoạn trừ, thuận với đạo Bồ-tát thì phải nên tu học. Vì lợi cho mình nên cầu xin tài vật tự dùng. Vì pháp bí mật cho nên cầu xin Phật kinh pháp để bảo vệ giữ gìn. Vì sinh lên cõi trời nên thọ trì các pháp như: Giới cấm, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Vì tham quả báo thế gian nên cúng dường tháp Phật. Vì tham lợi nên khởi cầu tướng lợi. Vì lừa dối với kẻ khác nên không duyên, tự nói đủ các thứ công đức, tham muốn người khác thân cận dựa cậy phi pháp thâu gồm, tự trú trong thiền định mà lại ưa xả cho chúng sinh, đó gọi là thuần tự lợi, nên biết nên đoạn. Bố thí nhẫn nhục phải lấy tâm bi làm đầu, hồi hướng về Bồ-đề và muốn sinh thiên, đó gọi là tự lợi cùng lợi tha, nên biết mà tu học, trừ những gì đã nói, thì những thuần tự lợi khác là trái nghịch, đó gọi là tự lợi cộng lợi tha. Thuần tha lợi nghĩa là không nhân không quả, bố thí tà kiến, phạm giới, trái đạo, vì người thuyết pháp, tự độ địa dưới lại đem pháp tịnh của địa dưới trao cho người khác. Bồ-tát xả thiền nguyện sinh vào cõi dục, Bồ-tát tự tại nơi mười phương thế giới biến hiện đủ các thứ, giáo hóa chúng sinh rốt ráo lực vô sở úy và pháp bất cộng của Như Lai, tạo lợi ích cho tất cả vô lượng chúng sinh, đấy gọi là thuần tha lợi. Trước đã nói hai thứ thuần tha lợi, nên biết nên đoạn trừ, ngoài ra các thứ thuần tha lợi khác, phải nên siêng học. Trừ các thứ đã nói như vậy, các thứ thuần tha lợi khác trái nhau, gọi là cộng tự lợi tha lợi.
An, tự lợi và tha lợi lược nói có năm thứ: Một là tướng vô tội. Hai là tướng thâu nhận. Ba là đời nầy. Bốn là đời khác. Năm là tịch diệt. Bồ-tát đã gồm thâu thiện căn, dù nhiều hoặc ít, cũng tu tập thành tựu, cũng đem những điều thiện nầy thành tựu chúng sinh, tạo ra sự điều phục, đấy gọi là tướng vô tội. Bồ-tát an ổn nơi tự lợi và tha lợi, vui thích lìa nhiễm ô, vui thích mọi thứ có đủ, vui trụ nơi thiền định làm lợi ích cho mình và cho người, đấy gọi là tướng thâu nhận. Bồ-tát an ổn nơi tự lợi và tha lợi có đời nầy an ổn không phải đời khác, có đời khác chẳng phải đời nầy, có đời nầy đời khác, có không phải đời nầy không phải đời khác. Bốn thứ thọ, bốn thứ pháp nầy lần lượt tùy theo sự thích hợp kia. Những gì là bốn? Có pháp đời nầy thọ lạc, đời khác thọ khổ. Có pháp đời nầy thọ khổ, đời khác thọ lạc. Có pháp đời nầy thọ khổ, đời khác thọ khổ. Có pháp đời nầy thọ lạc, đời khác thọ lạc. Đấy gọi là an tự lợi tha lợi đời nầy đời khác. Niếtbàn, đạo Niết-bàn, Niết-bàn phần, pháp thế gian, pháp xuất thế gian, đều gọi là an tự lợi tha lợi tịch diệt.
Lạc tự lợi và tha lợi, lược nói có năm thứ: Một là lạc nhân. Hai là lạc thọ. Ba là lạc khổ đối trị. Bốn là lạc đoạn thọ. Năm là lạc vô tội. Lạc nhân có hai thứ: Một là nhân duyên tình (căn) trần xúc cho nên lạc thọ sinh. Hai là đời nầy đời sau thọ quả nghiệp, đấy gọi là lạc nhân. Các khổ dứt rồi, suy nghĩ về ba thứ nhân lạc, thân tâm khởi sự thọ nhận, đấy là lạc tho nhận. Lạc tho nhận có hai thứ: hữu lậu và vô lậu. Vô lậu nghĩa là học và vô học. Hữu lậu nghĩa là hệ thuộc ba cõi là dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Tất cả ba cõi đều tùy theo sự thích ứng mà sáu nhập phân biệt, từ nhân duyên của nhãn xúc cho đến nhân duyên của ý xúc sinh. Khởi năm thức tương ưng, gọi là thân thọ, ý thức tương ưng gọi là tâm thọ. Các thứ khổ não như lạnh nóng, đói khát đã khởi, chưa khởi đối trị liền dứt, dứt rồi lạc tri sinh, đấy gọi là lạc khổ đối trị. Định diệt thọ tưởng gọi là lạc đoạn thọ. Lạc vô tội có bốn thứ: Một là lạc xuất gia. Hai là lạc viễn ly. Ba là lạc tịch diệt. Bốn là lạc Bồ-đề. Tin nhà không phải nhà, xuất gia học đạo giải thoát các nạn tại gia, gọi là lạc xuất gia. Đoạn trừ dục ác và pháp bất thiện, đắc sơ thiền, lìa sinh hỷ lạc, đấy gọi là lạc viễn ly. Nhị thiền, giác quán dừng nghỉ làm đầu, gọi là lạc tịch diệt. Tất cả phiền não được diệt trừ rốt ráo đối với tất cả pháp, như thật hiểu biết, ưa thích, gọi là lạc Bồ-đề. Lạc nhân nghĩa là nhân của lạc chứ chẳng phải tự tánh. Lạc thọ thì chẳng phải nhân của lạc mà là tự tánh. Lạc khổ đối trị chẳng phải là nhân của lạc, chẳng phải là tự tánh, mà là dứt trừ khổ. Lạc đoạn thọ chẳng phải là nhân của lạc, chẳng phải là tự tánh, chẳng phải là trừ khổ, mà đã có thọ nhận là khổ chân thật, tùy khi trụ định là thọ diệt. Lạc vô tội là chỗ gồm thâu. Sau cùng lạc Bồ-đề, là tất cả phiền não đời hiện tại vị lai đều rốt ráo diệt, các thứ lạc vô tội khác, đối với nó tùy thuận, đấy gọi là lạc vô tội.
Bồ-tát nầy đem lạc an ổn làm lợi ích cho chúng sinh, chứ chẳng phải lạc an ổn chỉ để biết như thật, tùy theo năng lực, phương tiện mà chỉ dạy khiến đoạn trừ. Nếu khổ mà về sau an nghĩa là tuy ưu não nhưng quan trọng là cần phải làm cho lợi ích, thì đó mới là Bồ-tát nương phương tiện thiện xảo. Nếu lạc mà về sau không an nghĩa là tuy ưu não nhưng không chịu bỏ đi. Dùng lực phương tiện chủ yếu chỉ là để đoạn trừ. Vì sao? Vì về sau chắc chắn được lạc.
Bồ-tát nầy muốn chúng sinh an, nghĩa là cũng muốn khiến cho được lạc. Cho kia an là cũng muốn cho lạc. An là chỗ của nhân, lạc (vui) ấy là chỗ của quả, vì thế cho nên phải biết chúng sinh lạc (vui) ắt hẳn trước phải an, ái kia là nghiệp quả, đời nầy đời sau thuộc về lạc nhân và lạc khổ đối trị, lạc đoạn thọ, lạc vô tội, nhất định lấy đó làm lợi ích cho chúng sinh, cũng gọi là gồm thâu, cũng gọi là lạc vô tội, thọ nhận, và cho đến tình (căn) trần xúc nhân lạc, là nhiễm ô có tội không an ổn, nghĩa là không đem lợi ích giảng dạy khiến đoạn trừ. Nếu chẳng phải nhiễm ô vô tội an ổn, thì lấy đó làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Bồ-tát cũng thường tùy theo năng lực mà tự hành, đấy gọi là Bồ-tát an lạc tự lợi tha lợi nhân thâu tóm.
Quả thâu tóm tự lợi và lợi tha lược nói có ba thứ nhân, ba thứ quả, nhân báo quả báo, nhân phước quả phước, nhân trí quả trí.
Thế nào gọi là báo? Báo có tám thứ:
1. Thọ đầy đủ.
2. Sắc đầy đủ.
3. Chủng tánh đầy đủ.
4. Tự tại đầy đủ.
5. Tín ngôn đầy đủ.
6. Đại lực đầy đủ.
7. Người đầy đủ.
8. Lực đầy đủ.
Mạng sống kia lâu dài gọi là thọ mạng đầy đủ. Dung mạo đoan nghiêm gọi là sắc đầy đủ. Sinh trong dòng họ sang quý, gọi là chủng tánh đầy đủ. Được nhiều của cải, nhiều chúng, nhiều quyến thuộc, gọi là tự tại đầy đủ. Đoạn trừ các việc nghe kiện xử đoán, tạo lập pháp độ, nhận cho gởi gắm đều theo pháp giữ lấy đúng, phàm nói ra lời nào người người đều tin phục, đó là tín ngôn đầy đủ. Có danh xưng lớn, phương tiện lớn, trí tuệ lớn, đủ các thứ kỹ nghệ cần thiết chi mọi người, được đại chúng cung kính tôn trọng khen ngợi, đó gọi là đại lực đầy đủ. Thành tựu pháp trượng phu, gọi là nhân đầy đủ. Ít bệnh ít não, có khả năng đảm nhiệm, gọi là lực đầy đủ.
Thế nào gọi là nhân báo? Không sát hại chúng sinh, không làm tổn hại tâm, gọi là nhân thọ mạng. Làm đèn soi sáng vật gọi là nhân sắc. Xa lìa kiêu mạn gọi là nhân chủng tánh. Mọi ân huệ bố thí đầy đủ gọi là nhân tự tại. Lìa bốn lỗi ở miệng gọi là nhân tín ngôn. Thâu giữ các công đức, lập thệ nguyện lớn, cúng dường Tam bảo và các bậc tôn trưởng, gọi là nhân đại lực. Vui pháp trượng phu, chán pháp nữ nhân, nói pháp trượng phu đem lợi ích cho mình và người, dạy bảo khiến cho nhàm chán xa lìa pháp nữ nhân, đấy gọi là nhân của người. đối với việc làm của chúng sinh xem như việc pháp, tùy theo khả năng của mình đến gánh vác giúp đỡ, gọi là lực nhân. Tám thứ như vậy gọi là nhân báo. Lược nói thì nhân báo có ba thứ thù thắng, khiến cho báo được tăng thêm: Một là tâm tịnh. Hai là phương tiện tịnh. Ba là phước điền tịnh. Tâm tịnh là mong cầu nơi Bồ-đề vô thượng mà hồi hướng, thiện căn dần dần tăng trưởng, tin ưa tu hành thù thắng nhiệm mầu thuần thiện, thấy người tu hành tâm sinh hoan hỷ, ngày đêm nhớ nghĩ, tùy thuận chánh pháp, tùy giác tùy quán, đó gọi là tâm tịnh. Tu tập lâu dài, chuyên cần tinh tấn không gián đoạn, lại đem pháp nầy truyền trao cho người khác, hoặc thấy đã có người trao thì tùy hỷ khen tốt, thấy người ấy thọ lãnh hành trì, thì tùy thuận dạy bảo, cũng dùng pháp nầy mà tự kiến lập, gọi là phương tiện tịnh. Lược nói phương tiện chính là khởi quả phương tiện, cho nên gọi là phước điền tịnh.
Thế nào gọi là quả báo? Bồ-tát thọ mạng đầy đủ, tu tập pháp thiện lâu dài, khiến cho các chúng sinh thành tựu thiện căn, gọi là quả thọ mạng đầy đủ. Bồ-tát sắc tướng đầy đủ, được đại chúng yêu thích, do đại chúng yêu thích nên thảy đều cung kính, ưa được nghe nói pháp, đó gọi là quả sắc tướng đầy đủ. Bồ-tát chủng tánh đầy đủ, được mọi người kính trọng, cúng dường, tán thán, nhất định lời nói ra được lãnh thọ thực hành, không có trái phạm, đó gọi là quả chủng tánh đầy đủ. Bồ-tát tự tại đầy đủ, tức bố thí khắp nơi thâu nhiếp thành tựu chúng sinh, gọi là quả tự tại đầy đủ. Bồ-tát tín ngôn đầy đủ, thường dùng ái ngữ, lợi ích, đồng sự, thâu giữ chúng sinh, giáo hóa khiến cho thành tựu, gọi là quả tín ngôn đầy đủ. Bồ-tát đại lực đầy đủ, chúng sinh làm gì đều có thể gánh vác giúp đỡ, chúng sinh biết ân đều đến quy ngưỡng, nói ra lời dạy bảo nào đều được vâng làm, đó gọi là quả đại lực đầy đủ. Bồ-tát nhân đầy đủ, thành tựu nam tướng (đại trượng phu), có khả năng làm pháp khí của tất cả công đức, đối với tất cả phương tiện, tất cả tri kiến đều không sợ hãi, đối với tất cả thời tự tại hành hóa, với tất cả chúng sinh qua lại đồng sự, như người giữa đồng trống, tùy ý không ngại, đó gọi là quả của nhân cách đầy đủ. Bồ-tát lực đầy đủ, có phương tiện tinh cần, phương tiện kiên cố, phương tiện nhanh chóng, tu thiện không chán, thâu phục người không mệt mỏi, gọi là quả của lực đầy đủ. Bồ-tát đem tám thứ quả báo nầy, tạo lợi ích cho chúng sinh, tự thành thục pháp Phật, tùy thuận công đức. Bồ-tát trú ở tám thứ bảo quả nầy, khiến các chúng sinh làm những việc nên làm, chúng sinh tùy theo chỗ dạy bảo tu theo hạnh nguyện. Bồ-tát tuy có tự lực mà không làm cho kẻ kia noi theo thì không gọi là lợi tha. Nếu tự mình không có lực để giáo hóa người thuận theo, cũng không gọi là lợi tha. Nếu có tự lực và người thọ nhận giáo hóa thuận theo hai thứ nầy đầy đủ thì cả hai đều lợi. Bồ tát với hai pháp đầy đủ có thể tự hành pháp Phật, đem pháp của ba thừa thành tựu cho chúng sinh, có thể tự rốt ráo đạo quả Bồ-đề vô thượng, chúng sinh thành thục khiến được giải thoát. Vì thế nên Bồ-tát trụ nơi tám thứ quả báo nầy mới có thể tạo an lạc cho tất cả chúng sinh. Cho cả những chúng sinh nơi sinh tử vô tận, từ xưa đến nay hoàn toàn không có nghĩa lợi cũng đều khiến cho họ đạt được phần thật của đại quả.
Thế nào gọi là phước? Thế nào gọi là trí? Đàn Ba-la-mật, Thi-la Ba-la-mật, Sằn đề Ba-la-mật, gọi là phước. Bát-nhã Ba-la-mật gọi là trí. Thiền Ba-la-mật, Tỳ-lê-da Ba-la-mật mỗi thứ đều có hai phần: Một là phần phước. Hai là phần trí. Nương vào thiền tu bốn vô lượng, đó gọi là phần phước. Nương vào thiền tu phương tiện thiện xảo của ấm, giới, nhập, của xứ, phi xứ, quán khổ tập diệt đạo, pháp thiện, bất thiện, pháp có tội, không tội, pháp hạ, pháp thượng, pháp cấu pháp tịnh, cho đến các duyên khởi đều có thể quán sát phân biệt như thật, đó gọi là phần trí. Nương vào tinh tấn nên tu hành thí, giới, bốn tâm vô lượng, đó gọi là phần phước. Nương vào tinh tấn, tu hành văn, tư, tu, tuệ, phương tiện thiện xảo của ấm v.v… như trước, cũng gọi là phần trí. Phước trí như thế, lược nói có sáu thứ, rộng nói thì vô lượng. Thế nào là nhân trí, nhân phước? Nhân trí nhân phước lược nói có ba thứ: Một là được trưởng dưỡng phương tiện phước trí ở dục. Hai là tùy thuận cận duyên. Ba là căn bản để tu tập phước trí. Cận duyên là Không trú ở duyên điên đảo mà trú ở duyên không điên đảo. Gần gũi tri thức ác, thuyết giảng phước trí điên đảo, niệm điên đảo, thọ điên đảo, đấy gọi là trú ở duyên điên đảo. Trái ngược với đây là phần tịnh, gọi là trú ở duyên không điên đảo. Trưởng dưỡng phương tiện phước trí, xứ ở dục mà chướng không dấy khởi, đó gọi là cận. Ba nhân nầy không đủ thì phước trí không sinh.
Thế nào gọi là quả phước, quả trí? Bồ-tát nương vào phước vì các chúng sinh chịu sinh tử vô cùng, trải qua đủ các khổ, nên tùy theo sự mong muốn kia mà thâu giữ chúng sinh. Bồ-tát nương vào trí, thọ nhận chánh phước với đủ thứ phương tiện thiện xảo, vì các chúng sinh mà tu tập cho đến quả vị Bồ-đề vô thượng. Như vậy lược nói thì phước trí có bốn thứ quả, nói rộng thì vô lượng, hoặc báo hoặc nhân báo, hoặc quả báo, tất cả đều nương phước mà sinh, phước nương vào trí mà khởi, hai thứ nầy đầy đủ thì tối thắng tối thượng, đắc Bồ-đề vô thượng. Nếu phước trí không đầy đủ thì trọn không thể chứng đắc. Đó gọi là Bồ-tát tự lợi, tha lợi nhân quả gồm thâu. Thế nào là tự lợi tha lợi đời nầy đời khác? Hiện tu phước nghiệp được tài sản như pháp, nhân duyên thiện từ nhiều kiếp nay thọ quả báo, thiện có thể chuyển thiền, trụ ở cái vui đời nầy, nương vào đời nầy làm lợi ích cho chúng sinh, nương vào các thiền, hiện pháp Niết-bàn như thật mà thế gian, xuất thế gian đều hướng đến hiện pháp Niết-bàn, pháp hữu vi, gọi là tự lợi đời nầy. Đem ngay pháp nầy giáo hóa chúng sinh, đấy gọi là tha lợi đời nầy. Đời khác, thân mạng tài sản nơi dục giới, cho đến sinh thiền vô sắc, đời nầy lo khổ, tư duy tu tập nhân kia, đấy gọi là tự lợi tha lợi đời khác. Đời nầy hỷ lạc, tư duy tu nhân của thân mạng tài sản, cho đến phần thối của đời nầy, thiền vô sắc chánh thọ, đấy gọi là tự lợi tha lợi đời nầy đời khác. Vì sao gọi là tự lợi tha lợi rốt ráo, không rốt ráo? Thân ở cõi Dục, có nhân có quả, phàm phu thế tục tịnh, có nhân có quả, đó gọi là tự lợi, tha lợi không rốt ráo. Tất cả phiền não rốt ráo diệt, tám chánh đạo và nương vào đấy sinh pháp thiện thế tục, đó gọi là tự lợi, tha lợi rốt ráo. Rốt ráo, không rốt ráo có ba thứ: Một là tự tánh. Hai là thối. Ba là thọ dụng quả tận. Tự tánh nghĩa là Niết-bàn rốt ráo, tất cả pháp hữu vi là không cứu cánh. Tám chánh đạo không thối chuyển là thọ dụng quả cứu cánh bất tận. Các pháp hữu lậu thiện khác thì thối, thọ dụng quả tận không rốt ráo. Đó gọi là mười thứ tự lợi tha lợi. Như vậy, nói lược hoặc nói rộng, Bồ-tát phải nên tùy theo sức tu học, quá khứ đã học, vị lai sẽ học. Tất cả mười thứ tự lợi tha lợi đều gọi là tự lợi tha lợi rốt ráo, không rốt ráo.
------------------
PHẦN 1
Thế nào gọi là nghĩa chân thật? Lược nói có hai thứ: Một là pháp tánh thật. Hai là tất cả sự pháp tánh. Hai pháp tánh nầy lấy chủng loại phân biệt. Lại có bốn thứ:
1. Đối tượng nhận biết của thế gian.
2. Đối tượng nhận biết của học.
3. Chướng phiền não tịnh-trí sở hành xứ pháp.
4. Trí chướng tịnh-trí sở hành xứ pháp.
Thế nào gọi là nghĩa chân thật nơi đối tượng nhận biết của thế gian? Các việc ở thế gian thuận theo tục số, mọi thấy biết đều đồng, tức đất (địa) là đất, không phải nước, không phải là nước, lửa, gió khác. Sắc, thanh, hương, vị, xúc cho đến khổ, lạc cũng vậy. Lược nói vật nầy, chính là vật nầy không phải vật khác. Như vậy tất cả ý quyết định hiểu chỗ hành, xứ, sự. Xưa nay thế gian đều tự nhớ, tưởng mà hiểu biết, không từ tu tập. Đấy gọi là nghĩa chân thật nơi đối tượng nhận biết của thế gian.
Thế nào gọi là nghĩa chân thật nơi đối tượng nhận biết của học? Như người trí ở đời, dựa vào trí hiện tại trí so sánh và được nghe từ thầy để suy lường, tu học. Dựa vào trí ấy quyết định biết chỗ hành, xứ, sự rồi kết tập, kiến lập, đấy gọi là nghĩa chân thật nơi đối tượng nhận biết của học.
Thế nào là nghĩa chân thật của chướng phiền não tịnh-trí sở hành xứ pháp? Tất cả Thanh văn, Duyên giác, với trí vô lậu, hoặc phương tiện vô lậu, hoặc tùy theo trí đời nay tu hành cảnh giới, ở trong trí kia duyên, phiền não chướng được thanh tịnh, chướng nơi đời vị lai rốt ráo không dấy khởi, đấy gọi là nghĩa chân thật của chướng phiền não tịnh, trí sở hành xứ pháp. Đấy là bốn Thánh đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo, quán bốn đế nầy nhập tuệ vô gián… đến trí tuệ vô gián… đã khởi. Thanh văn, Duyên giác thấy ấm lìa ấm, ngã không thể có được, các hành duyên khởi, sinh diệt hòa hợp, ấm và lìa ấm, tánh nhân (người) vô ngã, tu tập tri kiến.
Thế nào là nghĩa chân thật của trí chướng tịnh trí sở hành pháp xứ? Trí cũng vốn là đối tượng ngăn ngại của trí, nên gọi là chướng. Chướng ngại của trí ấy đã được trí giải thoát, tu hành cảnh giới, đấy gọi là nghĩa chân thật của trí chướng tịnh, trí sở hành xứ pháp. Đó gọi là chư Phật, Bồ-tát nhập Pháp vô ngã, nhập rồi đạt thanh tịnh, đối với tất cả pháp xa lìa tự tánh ngôn thuyết, tự tánh giả danh, xa lìa các vọng tưởng, đại trí bình đẳng, tu hành cảnh giới. Như thật đệ nhất, vô lượng vô biên, tất cả pháp chọn đều vĩnh viễn diệt trừ, không sinh khởi lại.
Lại, tướng chân thật kiến lập có hai thứ: Một là hữu tánh. Hai là vô tánh. Hữu tánh là nêu bày kiến lập tự tánh giả danh là từ lâu xa đến nay, thế gian chấp trước là căn bản của tất cả sự nhớ tưởng hư vọng. Đó gọi là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, địa, thủy, hỏa, phong, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, cho đến Niết-bàn. Như vậy pháp mà thế gian giả danh là có tự tánh, đó gọi là hữu tánh. Vô tánh nghĩa là sắc giả danh… cho đến Niết-bàn giả danh, không sự, không nương, giả danh, chỗ dựa tất cả đều không. Đấy gọi là vô tánh. Như trên đã nói, hữu vô là hai thứ, nếu đều lìa pháp tướng thì chỗ thâu tóm hai pháp không có hai. Không hai đấy gọi là trung đạo. Xa lìa hai biên, gọi là vô thượng. Chân thật như thế, là cảnh giới trí tịnh của Phật Thế Tôn, là chỗ nên tu học của chư vị Bồ-tát. Nếu vị nào tu học, thì gọi là Bồ-tát đại trí phương tiện, sẽ đạt được đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Vì sao? Bồ-tát cùng giải thoát "Không" tương ưng. Ở trong sinh tử biết như thật về sinh tử, không ở trong sinh tử vô thường để tu hành mà sinh nhàm chán xa lìa, có khả năng thành tựu pháp Phật, tạo lợi ích cho chúng sinh. Nếu không biết như thật về sinh tử, thì không thể xả bỏ xa lìa tất cả phiền não tham, sân, si… Nếu không xả bỏ xa lìa thì bị nhiễm ô, thọ chịu các sinh tử, tâm đã nhiễm ô, thọ nhận sinh tử, thì không thể thành tựu pháp Phật, tạo lợi ích cho chúng sinh. Nếu ở trong sinh tử vô thường, để tu hành mà nhàm chán xa lìa cảnh sinh tử thì Bồ-tát chóng chứng đắc Niếtbàn. Chóng chứng đắc Niết-bàn thì cũng không thể thành tựu pháp Phật, tạo lợi ích cho chúng sinh, làm sao có thể chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Nếu Bồ-tát cùng giải thoát "Không" tương ưng, thì không sợ Niết-bàn, cũng không cầu Niết-bàn. Nếu Bồ-tát sợ Niết-bàn thì không thể đầy đủ đạo Niết-bàn, vì sợ Niết-bàn nên không thấy công đức lợi ích của Niết-bàn, không thấy công đức lợi ích của Niết-bàn nên sự tin, ưa thanh tịnh đều xa lìa. Nếu Bồ-tát cầu Niết-bàn, với nhiều tu tập thì mau chóng Bát Niết-bàn, mà mau chóng Bát Niết-bàn nên không thể thành tựu pháp Phật, tạo lợi ích cho chúng sinh. Nếu đối với sinh tử mà không biết như thật, thì phải chịu sinh tử dài lâu. Nếu nhàm chán sinh tử, thì mau chóng Bát Niết-bàn. Nếu sợ Niết-bàn thì không thể hành đầy đủ đạo Niết-bàn. Nếu người cầu Niết-bàn tu tập nhiều, thì mau chóng Bát Niết-bàn, phải biết Bồ-tát ấy hướng về đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng không có phương tiện lớn. Nếu trong sinh tử mà được biết như thật, thì tâm không bị nhiễm chấp ở sinh tử. Nếu trong sinh tử vô thường để tu hành mà không nhàm chán xa lìa, không mau chóng bát Niết-bàn, không sợ Niết-bàn, thì có thể đầy đủ đạo Niết-bàn, hiểu biết sâu xa về công đức lợi ích của Niết-bàn, cũng không siêng năng tìm cầu mau bát Niết-bàn, thì phải biết Bồ-tát ấy đối với đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng sẽ có phương tiện lớn. Phương tiện lớn nầy nương vào đệ nhất giải thoát "Không". Vì thế nên gọi là Bồ-tát tu đệ nhất giải thoát "Không" là phương tiện lớn nhất, nghĩa là hướng đến đại trí vô thượng của Như Lai.
PHẦN 2
Lại nữa, Bồ-tát từ lâu xa đến nay nhập trí pháp vô ngã, lìa tự tánh ngôn thuyết, tất cả pháp đều nhận biết như thật xong, không một pháp có thể khởi vọng tưởng, tùy sự giữ lấy, tùy như giữ lấy, không niệm như thế, sự ấy, như ấy chỉ hành nơi nghĩa kia. Hành đệ nhất nghĩa rồi, tất cả pháp như là không gì sánh bằng. Như thật tri kiến, tất cả bình đẳng, quán tâm bình đẳng, đắc đệ nhất xả. Nương nơi đệ nhất xả rồi, tất cả kinh luận, tất cả phương tiện thiện xảo đều khéo thông đạt, tất cả khổ nạn trọn không thối chuyển, tâm kia kiên cố, thân không mệt mỏi, tạo nên phương tiện thiện xảo, được lực niệm lớn, đối với các phương tiện thiện xảo cũng không tự cao, pháp hóa độ chúng sinh không hề bí mật, keo kiệt, đối với các phương tiện thiện xảo tâm không khiếp nhược, có thể đảm nhận, trọn không lùi giảm, có thể mặc áo giáp lớn, kiên cố đầy đủ. Như vậy như vậy thì sinh tử khổ tăng, như vậy như vậy thì có thể làm tăng trưởng đạo Bồ-đề vô thượng. Như vậy như vậy thì công đức chuyển thêm. Như vậy như vậy thì kiêu mạn giảm dần. Như vậy như vậy thì trí tuệ chuyển sáng. Như vậy như vậy thì các thứ tranh cãi, phạm giới phiền não thảy đều hiểu rõ, hiểu rồi buông xả. Như vậy như vậy thì công đức tăng trưởng. Như vậy như vậy thì càng thêm che giữ không để người biết. Không vì lợi dưỡng mà Bồ-tát có vô lượng phước lợi như vậy. Thuận đạo Bồ-đề đều do nương vào trí kia, vì thế nên Bồ-tát đã đắc Bồ-đề, nay đắc, sẽ đắc, đều nương vào trí ấy, không phải đâu khác. Hoặc hơn hoặc kém như vậy mà xa lìa hư vọng. Bồ-tát có vô lượng những thứ phước lợi như vậy, tự có thể thành tựu pháp Phật vô thượng, đem pháp ba thừa làm lợi ích cho chúng sinh, đó gọi là chí hướng chân chính. Chí hướng chân chính rồi, tự ở thân mạng tài sản xa lìa tham ái, học lìa ái rồi, trở lại dạy bảo chúng sinh xa lìa tham ái, xả bỏ thân mạng tài sản cung cấp, ban cho những gì tâm chúng sinh cần. Khéo nhiếp phục các căn, học luật nghi nơi thân khẩu. Tánh không ưa ác, hiền hậu nhân từ chân thật, chịu đựng người khác tổn hại bức bách và các hành ác, tu học nhẫn rồi, sân hận chuyển mỏng, không bức não hại người. Tất cả minh xứ tinh cần tu học, khéo vì chúng sinh giải các nghi nan, thâu giữ lợi ích, cũng tự thâu nhận nhân của nhất thiết trí. Bên trong thì nhiếp phục tâm mình, tâm kia an trú chánh thọ, tịnh bốn phạm xứ, du hóa bằng năm thần thông, tất cả sự nghiệp đều là phương tiện học, là tất cả phương tiện thiện xảo, hoặc lập hoặc phế, trọn không mệt chán, hay khéo léo quán sát đệ nhất chân thật, hay khéo tu học Đại thừa đệ nhất, hoàn toàn không nguyện cầu Niết-bàn trong đời nầy. Như vậy, bình đẳng rốt ráo đầy đủ, đối với các bậc Đại đức phụng sự cúng dường, đối với chúng sinh ác càng khởi tâm đại bi, tùy theo lực có thể vì họ diệt trừ hành ác, đối với kẻ hiềm khích hận thù mình không tạo ích lợi, thì vì họ phát khởi tâm từ, tùy theo sức mà hành hóa, không nịnh, không dối, tạo an lạc, lợi ích, khiến kẻ kia hết hận, tội lỗi tự diệt, lợi ích cho mình, vừa bình đẳng vừa tăng thêm lòng biết ân báo ân Nếu mong cầu như pháp thì đều khiến cho đầy đủ. Hoặc tự mình không có sức, kẻ kia tuy không mời thỉnh, cũng phải tạo ra phương tiện, tâm không dừng nghỉ, khiến kẻ kia biết ta không tiếc gì. Đấy gọi là Bồ-tát xa lìa hư vọng, nương phương tiện bình đẳng của đệ nhất thật trí.
Thế nào là biết tất cả pháp xa lìa ngôn thuyết? Ở đây thiết lập giả danh là tự tướng của các pháp. Đó là sắc thọ, tưởng, hành, thức cho đến Niết-bàn, phải biết là giả danh, không có tự tánh, cũng không lìa tự tánh mà có. Ngôn thuyết hành xứ, ngôn thuyết cảnh giới như vậy là không có tự tánh, như ngôn ngữ đã nói, cũng không phải tất cả đều không sở hữu. Không sở hữu như vậy, cũng chẳng phải hết thảy đều không sở hữu. Vì sao nói có cái có thật, bài báng thật, hai thứ nầy đều lìa có như vậy. Đó gọi là tự tánh đệ nhất nghĩa, lìa tất cả vọng tưởng, trí tuệ hành xứ. Nếu pháp tùy thuận nói có sự chuyển biến, thì lẽ ra có tự tánh. Nếu như vậy thì một pháp, một sự, nên có rất nhiều tự tánh. Vì sao? Nghĩa là một pháp, một sự, có rất nhiều danh tự được thiết lập, cũng không phải nhiều danh mới có tánh quyết định, cũng không phải một danh có tự tánh, danh khác là không tự tánh. Vì thế nên thiết lập giả danh, dù nhiều danh hay một danh đều không có tự tánh.
Lại nữa, từ sắc cho đến Niết-bàn nếu pháp tùy theo danh tự để có tự tánh, nghĩa là phải, trước hết có pháp sau đó mới theo ý nghĩa mà tạo danh. Khi chưa có danh, pháp kia lẽ ra không có tự tánh. Nếu không tự tánh, thì không có việc tạo danh, nghĩa ấy không đúng. Không danh mà có pháp, như vậy cũng không đúng. Pháp xưa nay tự tánh là sắc, sau nầy đem danh tự ngôn thuyết thâu giữ sắc ấy. Nếu như vậy thì lẽ ra lìa danh cũng có sắc, chúng sinh thiết lập lẽ ra tự biết, sắc ấy không đợi danh mới biết, mà chúng sinh không có danh thì không biết sắc. Vì thế nên biết tự tánh của tất cả các pháp lìa ngôn thuyết, như sắc cho đến Niết-bàn cũng lại như vậy.
Lại nữa, có hai hạng người hủy hoại chánh pháp của Phật: Một là đối với các pháp như sắc…, các sự như sắc…, thiết lập giả danh nói là tự tánh, tự tướng, đối với pháp không thật thì vọng tưởng chấp trước. Hai là thiết lập xứ giả danh, chỗ nương dựa giả danh, lìa tự tánh, ngôn thuyết, chê bai hủy diệt đệ nhất thật nghĩa, tất cả đều cho là không có gì cả như trước đã nói. Người ấy, kiến lập pháp không thật, vọng tưởng chính là tội lỗi. Nghĩa là đối với các pháp như sắc…, các sự như sắc…, không thật mà chấp thật, do lỗi nầy cho nên sẽ phá hoại chánh pháp. Lại các pháp như sắc…, các sự như sắc…, với nhân duyên sai biệt thì phỉ báng hủy diệt, cho là đều không có gì gọi là hoại chánh pháp. Nay phải nói các pháp, các sự như sắc v.v…, với nhân duyên sai biệt, với phỉ báng ngôn thuyết không có chân thật, cũng không giả danh, cả hai đều không đúng. Như ấm của sĩ phu v.v…, nói danh tự là người thì có thể như vậy. không có sự gì (ấm v.v…) nói là người thì không thể như thế. Như không có sự nói người, như chẳng phải không có sự nói là người, các pháp sắc v.v… nhân duyên sai biệt như thế mà kiến lập giả danh, chứ không phải không có sự mà lập giả danh, thế thì nên vậy. Nếu chỉ giả danh mà không có sự, thì không có xứ nương tựa, cũng không giả danh, thì không nên như thế. Người nầy nghe nghĩa tương ưng của "Không" hết sức sâu xa trong kinh điển Đại thừa sẽ khó hiểu, đối với chỗ nêu giảng như thật một mực không hiểu, sẽ tạo ra tư duy bất chánh, phân biệt hư vọng. Do không có tuệ thiện xảo nên nói như vầy: Tất cả đều là giả danh, không có chân thật. Tạo ra quán như vậy đó là chánh quán, là cùng với chỗ nương tựa của giả danh cho là không gì nên giả danh cũng không. Đã chấp giả danh là không, thì giả danh chân thật cũng không hề có. Chân thật và giả danh, hai thứ nầy đều cùng hủy báng, đó gọi là đều không. Nếu nói "Không" như vậy, thì người trí tuệ phạm hạnh không nên cùng nói, không nên cùng ở, đó là tự hủy hoại mình cũng hủy hoại thế gian. Cho nên Đức Thế Tôn vì việc ấy mà nói, thà khởi thân kiến chứ không chấp giữ sai lạc về Không. Vì sao? Người khởi thân kiến đối với giới đã biết, không chê bai những gì đã nhận biết, không nhân nơi kiến nầy mà bị rơi vào đường ác, không hoại lòng tin ưa thích của người khác, đối với việc lìa khổ được giải thoát cũng không gây cản trở, cũng có thể kiến lập chân đế nơi chánh pháp, không đối với giới luật sinh kiêu mạn lười biếng. Chấp giữ sai lầm về Không nghĩa là đối với giới đã nhận biết trở lại chê bai tất cả chỗ hiểu biết, do duyên nầy nên đọa vào đường ác, cũng phá hoại lòng tin ưa thích của người khác, lìa khổ được giải thoát, cũng gây cản trở; đối với giới sinh kiêu mạn chậm trễ, chê bai pháp thật nên phá hoại pháp Phật. Thế nào là chấp giữ sai lạc về Không? Nếu Sa-môn hoặc Bà-la-môn, nơi kia, đây đều cho là Không, đấy gọi là chấp giữ sai lạc về Không. Vì sao? Vì nếu nói đây không thì không có tánh kia. Nếu nói kia không thì tánh đây có, nghĩa nầy nên như vậy. Nếu tất cả đều không, thì chỗ nào, pháp nào là không, cũng không nên nói đây tức là không ấy. thế nào là chấp giữ đúng đắn về Không? Như nói vật nầy không có vật kia, nên gọi là không. Vật nầy chẳng không, biết rõ như thật, đó gọi là như thật không điên đảo. "Không" nghĩa là các pháp như sắc v.v… thiết lập giả danh, không có tự tánh, nhưng sắc v.v… chưa rốt ráo, nghĩa là sắc… giả danh, sự, nhân duyên sai biệt, cùng đều nhận biết như thật. Tức nơi sự sai biệt thì có sự sai biệt, giả danh sai biệt, không lập chẳng phải thật, không chê bai thật, không tăng không giảm, không đề cao, hạ thấp như thật như như, lìa ngôn thuyết, tự tánh biết như thật, gọi là chấp giữ đúng về Không là chỗ nhận biết của chánh trí. Ta đem đầy đủ sự suy lường tập hợp, nói tự tánh của tất cả pháp là lìa ngôn thuyết, được nghe từ chỗ Phật, tự tánh của tất cả pháp là lìa ngôn thuyết. Nay phải nói, như Phật Thế Tôn nơi Khế kinh, nói kệ chỉ bày:
Như đem các thứ danh Dùng nói các thứ pháp Đây cũng không có kia Là pháp, pháp như vậy.
Kệ nầy chỉ bày sự thiết lập giả danh. Các pháp như danh sắc… do danh như sắc… tuyên thuyết các pháp, lời dạy bảo được tuyên rộng khắp nơi, giảng nói sắc cho đến Niết-bàn: Sắc v.v… giả danh, là tự tánh vô sắc…, pháp như sắc… cùng không ngoài tự tánh. Sắc… đây là giả danh, các pháp lìa ngôn thuyết, nghĩa không thực có, đấy gọi là pháp tự tánh của Đệ nhất nghĩa. Như Đức Thế Tôn đã nói ở phẩm nghĩa:
Thế gian góp ngôn thuyết Mâu-ni đều không vướng Không chấp, ai hay chấp Không khởi chấp thấy nghe.
Kệ nầy nêu rõ dùng sắc giả danh để thiết lập các sự như sắc… Đấy gọi là thế gian tập hợp ngôn thuyết. Đây là giả danh nên tự tánh của sự kia là không. Vì sao? Vì kiến lập và phỉ báng, không có kiến chấp nầy nên không có kiến chấp điên đảo kia. Đó gọi là kiến giải không vướng mắc. Không vướng mắc như vậy thì ai có thể khởi kiến chấp ở các sự như sắc… Nếu kiến lập, hoặc phỉ báng, không khởi vướng mắc, chánh quán về cảnh giới, đấy gọi là thấy (kiến). Nghe, nhận biết về ngôn thuyết, đó gọi là nghe (văn). Vì thế nên thấy nghe không khởi nhiễm chấp, ở trong duyên kia, tất cả lìa bỏ, đó gọi là không khởi tham đắm thấy, nghe.
Lại nữa, Đức Phật vì quở trách Tỳ-khưu Đại Cachiên-diên, nên nói: Tỳ-khưu không nương nơi địa để tu thiền, không nương nơi thủy, hỏa, phong, không nương nơi không thức, vô sở hữu, phi tưởng phi phi tưởng, chẳng phải đời nầy, chẳng phải đời khác, chẳng phải ngày tháng, không thấy nghe hiểu biết, chẳng cầu, chẳng đắc, chẳng giác, chẳng quán, không nương vào những thứ ấy mà tu thiền định. Vì sao không nương vào địa cho đến không nương giác quán mà tu thiền định? Nầy Cachiên-diên! Nếu là địa thì tưởng địa trừ, cho đến tất cả thì tưởng tất cả để trừ. Tỳ-khưu tu thiền như vậy, đấy gọi là không nương nơi địa tu thiền, cho đến không nương nơi giác quán tu thiền. Tỳ-khưu tu thiền như thế thì Thích thiên, Đại Lực thiên, Phạm thiên đều đến kính lễ, nói kệ tán thán:
Kính lễ bậc Tối thắng Kính lễ bậc Thượng sĩ Tôi nay không biết Ngài Nương chỗ nào mà thiền?
Đoạn kinh nầy chỉ bày các việc giả danh của địa… Ở địa kia v.v… thiết lập giả danh, đó gọi là tưởng địa. Tưởng địa nầy…, đối với việc giả danh kia, hoặc kiến lập tự tánh, hoặc hủy diệt tất cả, hoặc hoại đệ nhất nghĩa, thâu nhận sự hủy báng, đấy gọi là tưởng. Nếu trừ tưởng kia, đó gọi là đoạn, gọi là xả, phải biết tên gọi ấy từ các Đức Như-lai, bậc thầy của đệ nhất nghĩa, nghe tất cả pháp, tự tánh lìa ngôn thuyết, như vậy, tất cả các pháp, tự tánh lìa ngôn thuyết, thì tất cả ngôn thuyết làm sao có chỗ thích hợp? Nếu không có ngôn ngữ thì làm sao vì người khác giảng nói pháp lìa ngôn thuyết, vì đã không nói thì cũng không nghe. Không nói không nghe, thì tất cả pháp tự tánh lìa ngôn thuyết kia, không thể nhận biết được, vì thế nên phải có ngôn thuyết giúp họ nghe biết. Như vậy là như thật, phàm phu ngu si không hiểu, do nhân duyên ấy, nên khởi tám thứ vọng tưởng sinh ra ba việc làm cho tất cả chúng sinh và khí thế gian tăng lên. Một là vọng tưởng về tự tánh. Hai là vọng tưởng về sai biệt. Ba là vọng tưởng về thâu nhận tích tụ. Bốn là vọng tưởng về ngã. Năm là vọng tưởng về ngã sở. Sáu là vọng tưởng về niệm. Bảy là vọng tưởng về bất niệm. Tám là vọng tưởng cùng trái nhau. Đấy gọi là tám thứ vọng tưởng.
Thế nào là sinh ba việc? Một là vọng tưởng về tự tánh, vọng tưởng về sai biệt, vọng tưởng về thâu nhận tích tu, ba thứ vọng tưởng ấy là xứ vọng tưởng hư dối, là sự duyên dựa hư dối, do đấy mà sinh. Đối với sắc v.v… giả danh, sự, xứ kia do danh, tưởng, ngôn ngữ thâu nhận tăng trưởng, vô lượng hư dối thường hành không dừng. Hai là với vọng tưởng về ngã, ngã sở, hai thứ vọng tưởng nầy là thân kiến, mà thân kiến là nguồn gốc của tất cả kiến và nguồn gốc của kiêu mạn. Ngã mạn có thể sinh ra tất cả mạn.
Ba là vọng tưởng về niệm, vọng tưởng về bất niệm, vọng tưởng cùng trái nhau, tùy theo chỗ thích nghi sinh khởi tham, sân, si. Đó gọi là tám thứ vọng tưởng sinh ra ba thứ sự. Đó là sự xứ vọng tưởng hư dối, sự thân kiến ngã mạn, sự tham, sân, si. Nương vào vọng tưởng hư dối, sinh thân kiến, ngã mạn. Nương vào thân kiến ngã mạn sinh tham, sân, si. Ba thứ sự nầy, tất cả phần tích tụ của thế gian đều bị chúng đốt cháy tất cả.
Thế nào là vọng tưởng về tự tánh? Đối với sự giả danh như sắc, nếu vọng tưởng nói là sắc, thì gọi là vọng tưởng về tự tánh.
Thế nào là vọng tưởng về sai biệt? Đối với sự giả danh như sắc nầy, nói đây là sắc, đây không phải là sắc, cái nầy có thể thấy, cái nầy không thể thấy, cái nầy có đối, cái nầy không đối, cái nầy hữu lậu, cái nầy vô lậu, cái nầy hữu vi, cái nầy vô vi, vô lượng phân biệt như vậy, ở xứ vọng tưởng về tự tánh tạo ra vọng tưởng sai biệt. Đó gọi là vọng tưởng sai biệt.
Thế nào là vọng tưởng thâu nhận tích tụ? Đối với sự giả danh như sắc, thì ngã nhân, thọ mạng, chúng sinh, đối với tục số kia vọng tưởng, về sắc tạo lợi ích, chứa nhóm nhiều pháp, tích tụ thâu nhận, nhân đó khởi lên nhà cửa, quân chúng, rừng núi, ăn uống, y phục, xe ngựa, đối với tục số kia vọng tưởng tạo lợi ích. Đấy gọi là vọng tưởng thâu nhận tích tụ.
Thế nào là vọng tưởng về ngã, ngã sở? Nếu các việc kia là thọ ấm hữu lậu thì tích tập lâu xa chấp trước ngã, ngã sở, vì thế không thâu nhận xứ, thói quen tự thấy xứ sự, do nhân duyên nầy khởi vọng tưởng không như thật. Đấy gọi là vọng tưởng về ngã, ngã sở.
Thế nào gọi là vọng tưởng về niệm? Đối với sự diệu tịnh và những việc được vừa lòng vui thích, duyên với vọng tưởng.
Thế nào gọi là vọng tưởng bất niệm? Đối với những sự bất tịnh, cho đến những việc không ưa thích vừa lòng, duyên với vọng tưởng.
Thế nào gọi là vọng tưởng về niệm, bất niệm đều trái nhau? Đối với sự tịnh, bất tịnh, sự việc vừa lòng, không vừa lòng đều lìa mà duyên nơi vọng tưởng. Việc đã nêu lược nói có hai sự, nghĩa là vọng tưởng và chỗ dựa của vọng tưởng. Vọng tưởng duyên với hai sự nầy từ xưa đến nay, mỗi sự đều làm nhân nhau. Vọng tưởng quá khứ sinh duyên sự của vọng tưởng hiện tại. Duyên sự của vọng tưởng hiện tại sinh duyên sự của vọng tưởng hiện tại. Do không biết vọng tưởng hiện tại, nên trở lại sinh duyên sự của vọng tưởng vị lai. Duyên sự đã sinh rồi, chắc chắn trở lại sinh duyên sự của vọng tưởng kia.
Làm thế nào để biết vọng tưởng? Có bốn thứ tìm cầu, bốn thứ nhận biết như thật.
Thế nào là bốn thứ tìm cầu? Một là cầu danh. Hai là cầu sự. Ba là cầu thiết lập tự tánh. Bốn là cầu thiết lập sai biệt.
Cầu danh nghĩa là Bồ-tát đối với danh, danh sai biệt, quán sát danh mà tìm cầu.
Như thế với sự, sự sai biệt, quán sát sự mà tìm cầu. Với thiết lập tự tánh, thiết lập tự tánh sai biệt, quán thiết lập tự tánh mà tìm cầu. Với thiết lập sai biệt, thiết lập sai biệt theo mức độ, quán thiết lập sai biệt mà tìm cầu. Danh cùng sự kia nếu lìa tướng quán, hoặc hợp tướng quán thì danh sự hòa hợp nương nhau để thiết lập tự tánh, thiết lập sai biệt quán xét.
Thế nào là bốn thứ nhận biết như thật? Tùy vào cầu danh mà biết như thật, tùy vào cầu sự mà biết như thật, tùy vào cầu thiết lập tự tánh mà biết như thật, tùy vào cầu thiết lập sai biệt mà biết như thật.
Thế nào là tùy vào cầu danh mà biết như thật? Bồ-tát đối với danh, danh sai biệt mà cầu, danh như thế đều nhận biết như thật, danh nầy vì sự nầy mà lập, vì tưởng, vì kiến, vì lưu hành khắp. Đối với sự giả danh như sắc, không lập danh như sắc v.v… không thể nhận biết về sự như sắc v.v… Nếu không nhận biết thì không có sự suy nghĩ, đã không suy nghĩ thì không nói năng (ngôn thuyết). Như thế là nhận biết như thật, đó gọi là tùy vào cầu danh mà biết như thật.
Thế nào là tùy vào cầu sự mà biết như thật? Bồ-tát đối với sự, sự sai biệt mà cầu tìm. Quán sát các sự giả danh như sắc v.v…, tất cả sự ngôn thuyết, lìa ngôn thuyết, đó gọi là tùy vào cầu sự mà biết như thật.
Thế nào là tùy vào cầu thiết lập tự tánh mà biết như thật? Bồ-tát đối với sự giả danh như sắc, thiết lập tự tánh, thiết lập tự tánh sai biệt mà cầu. Thiết lập tự tánh kia, sự tự tánh nầy, quán tướng của tự tánh nhận biết như thật, nó như hóa, như ảnh, như âm vang, như dợn nắng, như trăng trong nước, như mộng, như huyễn. Quán tướng của tự tánh là không có chân thật, đó gọi là biết như thật về nghĩa xứ sâu xa, tùy vào cầu thiết lập tự tánh nhận biết như thật.
Thế nào là tùy vào cầu thiết lập sai biệt biết như thật? Bồ-tát đối với thiết lập sai biệt, thiết lập sai biệt theo mức độ mà cầu, là sự giả danh như sắc, nên thiết lập sai biệt không hai. Quán sự kia chẳng phải là hữu tánh, chẳng phải là vô tánh, tự tánh của ngôn thuyết là không thủ đắc, cũng không phải là vô tánh, lìa ngôn thuyết mà kiến lập tánh, phi hữu sắc, do đệ nhất nghĩa đế nên cũng phi vô sắc do thế đế có sắc, như có tánh, vô tánh, sắc, chẳng phải sắc. Như thế thì có thể thấy, không thể thấy, tất cả pháp thiết lập sai biệt đều nhận biết như thật, nghĩa thiết lập sai biệt không hai nầy đã nhận biết như thật. Đó gọi là tùy vào cầu thiết lập sai biệt nhận biết như thật. Nếu tám thứ vọng tưởng tà nơi phàm phu ngu si thì sinh ba thứ sự tăng trưởng thế gian. Nếu bốn thứ biết như thật kia không đầy đủ thì vọng tưởng tà kia khởi phiền não, phiền não khởi nên chịu cảnh sinh tử, chịu cảnh sinh tử nên thuận theo sinh tử mà các khổ tăng trưởng như: sinh, già, bệnh, chết… Nếu Bồ-tát nương vào bốn thứ biết như thật, thì đời nầy biết được tám thứ vọng tưởng. Đời nầy nhận biết rồi thì đời vị lai nương vào sự hư dối trong xứ duyên, ắt sẽ không sinh khởi trở lại. Sự kia không khởi, thì vị lai vọng tưởng trong duyên không sinh. Như thế thì sự kia, vọng tưởng kia diệt mất và tất cả hư dối cũng diệt. Hư dối đã diệt, thì Bồ-tát mau chóng chứng đắc Đại Bát Niết-bàn của Đại thừa, đời nầy có thể đạt được hành xứ đặc biệt của bậc Đại sĩ, trí thanh tịnh thành tựu, có tất cả diệu lực đại tự tại. Đó là các thứ thần lực hóa hóa, các thứ thần lực biến biến, nhất thiết trí nhận biết không còn trở ngại, tùy theo ý muốn mà còn, mất, tự tại. Được vô lượng tự tại như vậy, đó gọi là tối thắng vô thượng của tất cả chúng sinh. Bồ-tát đạt tất cả tự tại như thế, sẽ thành tựu năm thứ công đức thượng diệu: Một là được tâm tịnh đệ nhất, chánh thọ tịch diệt, nhưng không tịch diệt tất cả phiền não. Hai là tất cả minh xứ thanh tịnh, tri kiến tăng trưởng không giảm. Ba là vì chúng sinh nên ở trong sinh tử mà không chán mệt. Bốn là khéo nhập chỗ thâm diệu nơi ngôn thuyết của Như Lai. Năm là khéo hiểu biết về Đại thừa, không lãnh thọ từ người khác. Năm thứ công đức như vậy làm năm thứ nghiệp: Một là đời hiện tại trú trong đệ nhất lạc, mở bày phương tiện giác ngộ, sinh phương tiện thân tâm, mệt nhọc đều diệt, là nghiệp của công đức tâm được tịch tĩnh. Hai là thành tựu tất cả pháp Phật, đó là tất cả minh xứ thanh tịnh, là nghiệp của công đức tri kiến tăng trưởng. Ba là thành tựu chúng sinh, tức là nghiệp của công đức ở trong sinh tử nhưng không mệt mỏi nhàm chán. Bốn là giáo hóa chúng sinh đã khởi hoặc chưa khởi nghi, có thể vì họ mà mở bày giải thích, hộ trì chánh pháp khiến được trụ lâu. Nếu có pháp tương tự có thể diệt chánh pháp, thì khéo nhận biết, khéo giảng nói nhằm khiến pháp kia diệt trừ. Đó gọi là nghiệp của công đức khéo nhập chỗ thâm diệu nơi ngôn thuyết của Nhưlai. Năm là hàng phục tất cả dị luận của ngoại đạo, kiên cố tinh tấn chánh nguyện không giảm, là nghiệp của công đức khéo hiểu Đại thừa không lãnh thọ từ người khác. Như thế, tất cả việc làm của Bồ-tát đều gồm thâu trong năm nghiệp công đức, nghĩa là không nhiễm ô trụ nơi đệ nhất lạc, thành thục pháp Phật, thành tựu chúng sinh, hộ trì chánh pháp, hàng phục dị luận, kiên cố tinh tấn, chánh nguyện không lay động. Bốn thứ nghĩa chân thật kia, thứ nhất, thứ hai là bậc hạ, thứ ba là bậc trung, thứ tư là bậc thượng.
------------------
Thế nào gọi là lực? Lược nêu có ba thứ:
Một là chư Phật Bồ-tát đắc Tam-muội tự tại, nương vào Tam-muội tự tại, tùy theo chỗ muốn của mình đều có thể làm được tất cả. Đấy gọi là lực của bậc Thánh.
Hai là pháp có quả lớn, có lợi ích lớn, đó gọi là lực của pháp.
Ba là chư Phật Bồ-tát trước thành thục phương tiện, đạt được đại phước đức, chư Phật Bồ-tát đều có pháp câu sinh kỳ diệu chưa từng có, đó gọi là lực câu sinh.
Lại nữa, với ba thứ lực nầy, đem phân biệt theo loại lại có năm thứ lực: Một là lực thần thông. Hai là lực pháp. Ba là lực câu sinh. Bốn là lực chung với tất cả Thanh văn, Duyên giác. Năm là lực bất cộng. Thần thông đó là sáu thông: Một là thần túc. Hai là thiên nhĩ. Ba là tha tâm trí. Bốn là túc mạng trí. Năm là sinh tử trí. Sáu là lậu tận tác chứng. Đó gọi là lực thần thông. Lực pháp đó là sáu Ba-la-mật: Bố thí Ba-la-mật, Trì giới Ba-la-mật, Nhẫn nhục Ba-la-mật, Tinh tấn Ba-la-mật, Thiền định Ba-la-mật, Trí tuệ Ba-la-mật, đó gọi là lực pháp. Các pháp nầy có thể làm tất cả việc, cho nên gọi là lực pháp. Thế nào là thần túc? Lược nói có hai thứ: Một là biến. Hai là hóa. Nếu dùng chủng loại để phân biệt thì có vô lượng. Thế nào gọi là thần túc biến? Đấy là chấn động tỏa sáng, sung mãn, thị hiện, chuyển tạo phần khác, đi đến, lớn nhỏ, sắc tượng nhập thân, chỗ đến tương tợ, ẩn hiện, tự tại, thần thông ngăn người khác, cho biện tài, cho suy niệm, cho vui, phóng hào quang lớn, những thứ như vậy gọi là thần túc biến. Chấn động nghĩa là chư Phật Bồ-tát đạt được Tam-muội tự tại, có thể làm chấn động chùa viện, tịnh xá, thành quách, nhà cửa, cung điện, làng xóm, ruộng vườn, địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, người, trời, cho đến bốn châu thiên hạ, một ngàn thế giới, hai ngàn thế giới, ba ngàn thế giới, trăm lần ba ngàn thế giới, ngàn lần ba ngàn thế giới, vạn lần ba ngàn thế giới, cho đến vô lượng tam thiên đại thiên thế giới, thảy đều chấn động.
Tỏa sáng nghĩa là thân trên xuất lửa, thân dưới xuất nước, thân trên xuất nước, thân dưới xuất lửa, nhập Tammuội hỏa quang, toàn thân rỗng lặng, hiện đủ các màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, pha lê.
Sung mãn nghĩa là thân phóng hào quang tràn đầy một nhà, cho đến tràn đầy vô lượng vô số tam thiên đại thiên thế giới. Thị hiện nghĩa là ngồi yên, đến, đi, hiện làm chúng Sa-môn, chúng Bà-la-môn, chúng
Thanh văn, chúng Duyên giác, chúng Bồ-tát, chúng Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nhân, phi nhân, chư Phật, Bồ-tát, dưới đến đường ác, trên đến trời người, thảy đều thị hiện. Cho đến hằng hà sa quốc độ trong mười phương cũng lại như vậy. Vượt hơn vô lượng hằng hà sa quốc độ, có Phật danh hiệu, có quốc độ tên, thảy đều thị hiện, cũng nói danh hiệu của Đức Phật và quốc độ kia. Lại vượt hơn số lượng nầy, tùy theo chỗ mong muốn thảy đều thị hiện.
Chuyển tạo phần khác nghĩa là hoặc biến đất làm nước, là nước thật, như thật không khác. Biến làm lửa, gió cũng lại như vậy. Như địa, thủy hỏa phong cũng lại như thế, tức là không khác. Giống như bốn đại, các thứ sắc, hương, vị, xúc, cây cỏ, bùn đất biến thành thức ăn uống, y phục, chuỗi ngọc, hương hoa, hương xoa, các vật dụng trang nghiêm, ngói gạch cát đá biến thành các thứ báu. Núi Tuyết chúa, tất cả các núi biến thành sắc vàng, tất cả đều như thật không khác. Chúng sinh sắc đẹp biến thành sắc xấu, chúng sinh sắc xấu biến thành sắc đẹp, hoặc đẹp xấu biến thành sắc vừa, hoặc sắc vừa biến thành sắc tốt xấu. Như sắc đẹp xấu đều có chi tiết đầy đủ, hoặc không đầy đủ, hoặc mập hoặc ốm, những thứ như vậy vốn có tự tướng, đều có thể biến sắc kia tự tại không ngại, không phải tất cả sự biến đều tùy theo chỗ mong muốn.
Đến đi, nghĩa là vách, đá không thể ngăn ngại. Trên lên tới cõi Phạm thế, cho đến cõi trời Sắc cứu cánh, hoặc đến hoặc đi, hết thảy đều được tự tại, khắp cả mười phương vô lượng vô biên tam thiên đại thiên thế giới, hoặc hóa thân, hoặc thân bốn đại, hoặc đến hoặc đi cũng lại như vậy, hoặc tưởng xa gần, tức thời đi, đến.
Lớn, nhỏ nghĩa là có thể khiến núi Tuyết giống như một hạt bụi nhỏ, khiến một hạt bụi nhỏ giống như núi Tuyết.
Sắc tượng nhập thân, nghĩa là các vị Sa-môn, Bà-lamôn, tất cả đại chúng, hoặc nơi thôn quê, hoặc nơi thành thị, cây cỏ, rừng rậm và các núi, tất cả sắc tượng, đều nạp trong thân, lúc ấy các đại chúng, mỗi mỗi đều tự thấy nhập vào thân Bồ-tát.
Chỗ đến tương tự, nghĩa là hoặc đến chúng Sát-lợi, như sắc tượng của chúng ấy, thân lượng dài ngắn, âm thanh, ngôn ngữ, đều cùng với chúng ấy đồng. Chúng ấy đã nói gì đều cùng nói, chúng ấy đã không thể hiểu biết thì vì họ khai diễn, nói rộng chánh pháp khiến hoan hỷ rồi, ở trước họ biến mất không khiến họ hay biết, ai xuất hiện, ai biến mất, là trời, là người? Như chúng Sát lợi, thì chúng Bà-la-môn, cư sĩ, Sa-môn, Tứ Thiên vương, Tam thập tam thiên, Dạ ma thiên, Đâu suất đà thiên, Hóa lạc thiên, Tha hóa tự tại thiên, Phạm thân thiên, Phạm chúng thiên, Đại phạm thiên, Thiểu quang thiên, Vô lượng quang thiện, Quang âm thiên, Thiểu tịnh thiên, Vô lượng tịnh thiên, Biến tịnh thiên, Vô chướng thiên, Phước sinh thiên, Quảng quả thiên, Vô phiền thiên, Vô nhiệt thiên, Thiện kiến thiên, Thiện hiện thiên, Sắc cứu cánh thiên, cũng lại như vậy.
Ẩn hiển nghĩa là ở trước đại chúng tạo ra trăm ngàn, hoặc lại hơn nữa, cho đến vô lượng, sau đó lại ẩn mất, ẩn mất rồi lại hiện ra.
Tự tại nghĩa là Bồ-tát có thể khiến chúng sinh, hoặc đến, hoặc đi, hoặc trụ, hoặc nói.
Thần thông ngăn người khác, nghĩa là thần lực của Như-lai có khả năng ngăn che các thần lực khác, cũng có thể khiến hiện Bồ-tát nhất sinh bổ xứ rốt ráo, trừ Nhưlai và Bồ-tát đồng hàng, còn lại đều có thể che ngăn thần lực các Bồ-tát khác, trừ bậc lớn hơn và đồng hàng, còn lại đều có thể ngăn che. cho biện tài nghĩa là với chúng sinh không biện luận có thể ban cho biện tài. Cho suy niệm nghĩa là bị mất niệm, về pháp có thể khiến nhớ nghĩ được.
Cho vui nghĩa là nói rộng chánh pháp khiến kẻ kia được nghe, tùy theo thân tâm của kẻ ấy mà thâu nhận tạo lợi ích, để được sự an vui vắng lặng, lìa các ấm, cái (ngăn che), chuyên tâm nghe pháp, tùy theo thời cơ. Nếu bốn đại tạp loạn chẳng là vui rốt ráo thì có thể làm cho điều hòa thích hợp. Nếu bị hàng phi nhân não hại cũng khiến dứt bỏ.
Phóng hào quang lớn, nghĩa là Đức Phật, Bồ-tát dùng thần lực phóng hào quang đến khắp vô lượng thế giới trong mười phương, làm cho chúng sinh ở địa ngục đang chịu khổ não liền được dừng dứt, trên lên đến các cõi trời, các hàng rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nhân, phi nhân… khiến thấy hào quang sáng lại đến chỗ Phật, chư vị Bồ-tát nơi các thế giới ở phương khác, thảy đều đến nhóm họp. Lược nói ở mười phương thế giới với vô lượng chư Phật, vô lượng hào quang, sẽ tạo lợi ích an lạc cho vô lượng chúng sinh. Đấy gọi là thần túc chuyển biến. Nếu dùng loại để phân biệt thì có vô lượng vô số, chỉ trừ tự tánh biến làm sự khác, vì thế gọi là thần túc chuyển biến. Thế nào gọi là thần túc hóa? Lược nói là không có sự vật mà hóa làm có, tùy theo chỗ muốn của người đều có thể hóa hiện, đấy gọi là thần túc hóa. Hóa ở đây có nhiều loại, hoặc hóa thân, hoặc hóa ngữ. Hóa thân là hóa giống thân mình, hoặc không giống, hoặc giống thân người, hoặc không giống. Lại nữa, thân mình thân người tương tợ, không tương tợ, hóa làm căn tương tợ và chỗ dựa của căn, chẳng phải tạo ra căn thật. Lại nữa, hóa làm cảnh giới tương tợ, nghĩa là có thể hóa đủ các vật dụng như thức ăn uống, các báu, các thứ thuộc về sắc, hương, vị, xúc, tất cả đều tùy ý. Lại tự thân tương tự, hoặc hóa làm một thân, hoặc làm vô lượng thân, nơi các hàng Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân, Phi nhân… với các thứ sắc tượng của người, trời, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, Như-lai, các sắc tượng như thế, tùy chỗ thích ứng thảy đều có thể hóa tác, tự thân tương tợ, đó gọi là hóa tự tương tợ. Nếu khác với tự thân, gọi là không tương tợ. Hóa những thân trời khác khiến tương tợ gọi là hóa tha tương tợ. Nếu hóa các trời kia thân không tương tợ gọi là hóa tha thân không tương tợ. Như thân trời cho đến thân Phật, cũng lại như vậy.
Vô lượng thân, nghĩa là Phật, Bồ-tát nơi vô lượng vô số thế giới trong mười phương, cùng một lúc hóa làm các loại sắc tượng, tạo lợi ích cho vô lượng chúng sinh khắp mười phương. Phật và Bồ-tát tuy đến phương khác nhưng chỗ trú hóa vẫn như cũ, hoặc vì chúng sinh tạm hiện như huyễn, hoặc tạo ra các thứ ẩm thực, y phục, xe cộ, vàng bạc, chân châu, lưu ly, pha lê, kha bối, ngọc thạch, những vật như vậy, tất cả được hóa hiện như thật không khác, luôn được thọ dụng. Đó gọi là hóa thân.
Hóa ngữ nghĩa là tạo ra đầy đủ âm thanh vi diệu, đầy đủ âm thanh cao rộng, hoặc từ tự thân khởi, hoặc từ tha thân khởi, hoặc không từ đâu khởi, hoặc nói chánh pháp, hoặc tùy theo việc mà dạy bảo quở trách.
Diệu âm nghĩa là Phật, Bồ-tát hóa làm khẩu ngữ, tiếng kia sâu xa, giống như sấm động, hoặc lại vi diệu như tiếng của Ca-lăng-tần-già, âm thanh rất đáng vui thích, âm thanh khiến khoan khoái, âm thanh đáng yêu, như vậy hóa vô lượng âm thanh tỏa rộng, lời nói rõ ràng chân chính, dễ hiểu ưa nghe, tùy thuận vô tận.
Âm thanh cao rộng nghĩa là Phật, Bồ-tát hóa ra âm thanh lớn, khiến các hàng Thiên, long, Dạ-xoa, Càn-thátbà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân, Phi nhân, Thanh văn, Duyên giác, chư Đại Bồ-tát, nơi vô lượng chúng hội trong phạm vi một do tuần, hoặc trong hoặc ngoài, khắp cả đều nghe, hoặc tiểu thiên thế giới, trung thiên thế giới, đại thiên thế giới, cho đến vô lượng thế giới trong mười phương, cũng đều nghe khắp. Vì chúng sinh nên từ tự thân kia, dùng một âm thanh nói vô lượng pháp.
Từ nơi khác khởi là hóa làm lời nói khác, vì người thuyết pháp, dứt trừ sự buông thả.
Không từ đâu khởi nghĩa là giữa không trung hóa ra âm thanh, giống như người nói.
Nói chánh pháp nghĩa là vì chúng sinh ngu si nên diễn nói pháp chân chánh, khiến được hiểu rõ.
Tùy việc giáo hóa, quở trách, nghĩa là các chúng sinh kia tuy không nghi ngờ, có tâm tin ưa nhưng vì phóng dật, nên khiến họ sinh hổ thẹn khởi tâm không phóng dật. Rất nhiều loại hóa như thế, lược nói có ba thứ: Hóa thân, hóa thanh và hóa cảnh giới. Đó gọi là thần túc hóa. Nếu mỗi mỗi phân biệt thì có vô lượng. Như vậy, với hai thứ thần túc của chư Phật, Bồ-tát, có thể hoàn thành hai việc: Một là giúp chúng sinh sinh tâm tín lạc, là thần túc hiện hóa khiến nhập pháp Phật. Hai là thâu giữ chúng sinh khổ khiến được lợi ích an ổn.
Thế nào là túc mạng trí thông? Nghĩa là Phật, Bồ-tát tự biết về thọ mạng nơi đời trước, chúng sinh như thế là tên chữ của mình, như Khế kinh đã nói rộng. Biết thọ mạng nơi đời trước của người khác cũng như của thân mình. Tự biết về thân mạng đời trước có thể giúp người khác biết. Đã biết chúng sinh vốn là người đồng sự, cũng có thể khiến họ tự hiểu biết về thân mạng đời trước. Các chúng sinh ấy biết cùng Bồ-tát xưa là đồng sự rồi, thì cũng lại biết các chúng sinh khác cùng với mình là đồng sự, cũng có thể khiến cho các chúng sinh khác lần lượt biết lẫn nhau. Về danh tự của thân mạng đời trước, những danh tự với vô số nhân duyên, ở đây sẽ nói rộng. Từ đời hiện tại và đời quá khứ, cho đến các sự nơi vô lượng vô số kiếp trong khoảng mỗi một niệm, lớn nhỏ, nhiều ít, lần lượt đều biết. Đó gọi là túc mạng trí thông của Phật và Bồ-tát.
Bồ-tát tự biết những việc chưa từng có trong quá trình hành đạo Bồ-tát ở đời trước, vì chúng sinh mà hiển hiện chỉ bày, khiến cho họ kính tin, ưa thích pháp Phật, nhàm chán sinh tử, cũng vì họ chỉ bày rõ về nhân quả, khiến người chấp thường xa lìa thường kiến, nghĩa là ở trong quá khứ vọng tưởng thường kiến và do đoạn kiến. Thế nào là sinh tử trí thông? Nghĩa là Phật, Bồ-tát có thiên nhãn thanh tịnh hơn hẳn mắt người, thấy các chúng sinh lúc chết, sắc đẹp, xấu, sắc hơn kém, cho đến sau này sinh ra, dần dần tăng trưởng, các căn thuần thục, thân ngữ làm các việc thiện, bất thiện, vô ký, thiên nhãn sáng suốt đều soi thấy biết cả, cho đến sắc vi tế của trời hóa sắc, tất cả đều thấy, trên đến cõi trời cứu cánh, dưới đến địa ngục vô trạch. Trong mười phương thế giới, cũng không dùng mỗi mỗi phương tiện biệt tướng, mà tất cả sắc tượng của vô lượng vô biên thế giới nơi mười phương đều cùng một lúc thấy khắp. Tại các cõi Phật kia, Như-lai nơi các cõi ấy, an tọa ngồi thuyết pháp trong các chúng hội, như thế tất cả đều thấy trọn vẹn.
Thế nào là thiên nhĩ trí thông? Nghĩa là Phật Bồ-tát dùng thiên nhĩ nghe âm thanh của hàng trời người, âm thanh Thánh, âm thanh phi Thánh, âm thanh thô, âm thanh tế, âm thanh biện luận, âm thanh không biện luận, âm thanh biến hóa, âm thanh phi biến hóa, âm thanh gần, âm thanh xa, tất cả đều nghe. Nếu tạo phương tiện có hạn, thì trên đến trời Sắc cứu cánh. Nếu không hạn lượng thì cho đến vô lượng thế giới nơi phương trên. Âm thanh trời nghĩa là từ Tứ Thiên vương cho đến Sắc cứu cánh. Âm thanh người nghĩa là tất cả âm thanh trong bốn châu thiên hạ. Âm thanh Thánh nghĩa là âm thanh của chư Phật, Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác đã nói ra để chỉ dạy chúng sinh. Đó là chỉ dạy, khen ngợi, khiến tu pháp thiện, bỏ pháp bất thiện, làm cho các chúng sinh kia tâm không nhiễm chấp, thọ tụng luận nghị như pháp vấn nạn, khiến nhớ nghĩ lời răn dạy và tất cả lời thiện lợi ích khác. Những lời như vậy, gọi là âm thanh Thánh. Âm thanh phi Thánh nghĩa là các chúng sinh nói dối, nói hai lưỡi, nói lời thô ác, nói thêu dệt, từ địa ngục Vô trạch, trên lên đến chư Thiên, các loại âm thanh của chúng sinh trong mười phương.
Âm thanh thô nghĩa là âm thanh của các loài chúng sinh lớn, âm thanh của đại chúng hội, các thứ âm thanh thống khổ bức thiết, âm thanh cùng gào thét lớn, âm thanh sấm động, âm thanh của trống, loa ốc. Âm thanh vi tế nghĩa là tiếng nói rất nhỏ nhẹ. Âm thanh biện luận nghĩa là âm thanh nêu nghĩa lý có thể hiểu. Âm thanh không biện luận nghĩa là âm thanh nêu nghĩa lý không thể lãnh hội, như lời nói ở nước Đà-di-la, như tiếng gió mưa, tiếng cây cỏ, tiếng của các loài chim anh vũ, cù dục, câu kỳ la, mạng mạng v.v… Âm thanh biến hóa nghĩa là thần thông tự tại, tùy theo tâm của chúng sinh hóa ra các thứ tiếng. Âm thanh xa tức là trừ âm thanh trong xóm làng, thành ấp nơi Phật, Bồ-tát đang ở, ngoài ra là tất cả âm thanh nơi vô lượng thế giới trong mười phương. Chư Phật Bồ-tát dùng thiên nhãn nhìn thấy những chỗ tạo tác sắc tịnh, bất tịnh của thân trong mười phương, thấy rồi dùng phương tiện tùy nghi làm lợi ích. Dùng thiên nhĩ để nghe các chỗ tạo tác âm thanh tịnh, bất tịnh của miệng, nghe rồi dùng phương tiện tùy nghi tạo lợi ích. Đấy gọi là lược nói về những việc làm từ thiên nhãn thiên nhĩ của chư Phật, Bồ-tát.
Thế nào là tri tha tâm trí thông? Nghĩa là Phật, Bồ-tát dùng trí tri tha tâm nhận biết tâm của chúng sinh trong vô lượng vô biên thế giới nơi mười phương bị phiền não trói buộc, biết tâm xa lìa phiền não trói buộc, tâm bị phiền não nối tiếp, phiền não sai khiến, biết tâm lìa phiền não tương tục, phiền não sai khiến, biết tâm nguyện tà, là tâm của ngoại đạo và tâm tham cầu. Biết tâm thấp kém đó là tâm của chúng sinh ở cõi dục cho đến tâm của loài cầm thú. Biết tâm trung bình nghĩa là tâm của trời cõi Sắc. Biết tâm phẩm thượng là tâm của cõi trời vô sắc. Biết tâm tương ưng khổ, biết tâm tương ưng vui, biết tâm tương ưng không khổ không vui. Một niệm nơi tha tâm trí, biết tâm một chúng sinh, tùy theo chỗ niệm kia, đều nhận biết như thật. Một niệm tha tâm trí, biết tâm của vô lượng chúng sinh, tùy theo chỗ niệm kia, thảy đều nhận biết như thật. Lại nữa, chư Phật Bồ-tát với tri tha tâm trí thông, tạo ra vô số các thứ căn lực, các thứ giải lực, các thứ giới lực, cho đến xứ đạo lực, lậu tận lực, tùy theo sự thích ứng mà tạo phương tiện.
Thế nào là lậu tận trí thông? Nghĩa là Phật, Bồ-tát biết như thật về phiền não dứt hết, nghĩa là mình và chúng sinh, hoặc dứt hết, hoặc không dứt hết, đều nhận biết như thật. Mình và chúng sinh nơi phương tiện lậu tận dù đã khởi hay chưa khởi, đều nhận biết như thật. Các chúng sinh kia khởi tăng thượng mạn lậu tận, hoặc không khởi tăng thượng mạn lậu tận cũng đều nhận biết như thật. Bồ-tát với tất cả lậu tận đều nhận biết như thật, nhưng không chứng đắc lậu tận. Bồ-tát không xả phiền não, vẫn tạo đủ các sự hữu lậu, thường làm các sự nhưng không bị nhiễm ô, lực như thế gọi là lực tối thượng. Lại nữa, Phật, Bồ-tát với lậu tận trí thông, tự xa lìa phiền não, chỉ vì chúng sinh mà phải phân biệt giảng nói rộng, khiến họ lìa bỏ tâm tăng thượng mạn, nên biết trí nầy là lậu tận trí nghiệp.
Thế nào là lực của pháp? Nghĩa là Phật, Bồ-tát, từ Bố thí Ba-la-mật cho đến Trí tuệ Ba-la-mật, sáu Ba-lamật nầy mỗi thứ đều có bốn sự: Một là đối trị. Hai là thành tựu Bồ-đề đầy đủ. Ba là thâu giữ tự tha. Bốn là đắc quả vị lai.
Thế nào là bốn việc của bố thí? Một là bố thí để đối trị tham lam keo kiệt. Hai là bố thí để thành tựu Bồ-đề đầy đủ. Ba là dùng bố thí thâu giữ để thành tựu chúng sinh. Đem tâm thiện nhằm bố thí, đem tâm thanh tịnh bố thí, thí rồi không hối, ba thời hoan hỷ, tự mình làm lợi ích, đấy gọi là tự thâu giữ. Cho đến những gì các chúng sinh đói khát, nóng lạnh, tật bệnh kia cần, hoặc nơi các nạn khủng bố, thảy đều khiến xa lìa, do đấy được lợi ích, đó gọi là thâu giữ kẻ khác. Bốn là do nhân duyên nầy, sinh ở chỗ nào cũng đều được giàu có lớn, được giòng họ tôn quý, được nhiều bà con. Đấy là lực nơi bốn công đức của bố thí, không có gì hơn.
Thế nào là bốn việc của trì giới? Một là lãnh thọ luật nghi của thân khẩu để đối trị phạm giới. Hai là thành tựu Bồ-đề đầy đủ. Ba là thọ trì tịnh giới để đồng sự thâu giữ mà thành tựu chúng sinh, xa lìa phạm giới, oan gia khủng bố, ngủ thức luôn an ổn, do tự đạt lợi ích. Vả lại, trì giới tâm không hối hận, thường được hoan hỷ, làm cho tâm quyết định đúng các sự tự lợi, đó gọi là tự thâu giữ. Bố thí khắp cho chúng sinh tất cả những sự không sợ hãi, đó gọi là thâu giữ kẻ khác. Bốn là do nhân duyên nầy, khi mạng chung sẽ sinh lên cõi trời. Đó gọi là lực của bốn công đức do trì giới, không còn gì hơn.
Thế nào là bốn việc của nhẫn nhục? Một là tu nhẫn nhục để đối trị không nhẫn nhục. Hai là thành tựu Bồ-đề đầy đủ. Ba là do nhẫn nhục kiên cố, đồng sự thâu giữ, thành tựu chúng sinh, thân mình và người vượt qua được những sợ hãi lớn, đó gọi là tự tha đều thâu giữ. Bốn là do nhân duyên nầy, trong đời vị lai không có oán ghét, không có chia lìa, đã không chia lìa thì cũng không có buồn khổ, đến khi lâm chung tâm không hối hận, xả thân nầy rồi, sinh trong cõi trời, người. Đó gọi là lực của bốn công đức nơi nhẫn nhục, không còn gì hơn.
Thế nào là bốn việc của tinh tấn? Một là tinh tấn để đối trị biếng nhác. Hai là thành tựu Bồ-đề đầy đủ. Ba là luôn nương vào tinh tấn, đồng sự thâu giữ, thành tựu chúng sinh, nên vui trụ trong tinh tấn, lìa xa các pháp ác, công đức tăng trưởng, hoan hỷ thích thú do tự đạt lợi ích, đấy gọi là tự thâu giữ. Nhờ tinh tấn tu tập các điều thiện, không dùng thân miệng gây sợ hãi chúng sinh, chúng sinh thấy rồi cũng muốn tinh tấn theo, đó gọi là thâu giữ kẻ khác. Bốn là do nhân duyên nầy mà quả báo trong đời vị lai có thể thành bậc đại nhân, có sự nghiệp công đức đặc biệt. Đó gọi là lực nơi bốn công đức của tinh tấn, không có gì hơn. Thế nào là bốn việc của thiền định? Một là thiền định để đối trị phiền não, những ngôn ngữ loạn giác, những phiền não của sắc tưởng hỷ lạc đều bị diệt. Hai là thành tựu Bồ-đề đầy đủ. Ba là nương vào các thiền định đồng sự thâu giữ, thành tựu chúng sinh, hiện trụ pháp lạc, do tự thâu giữ nên tâm tịch tĩnh, xa lìa tham dục, đó gọi là tự gồm thâu. Đối với các chúng sinh không sân không não, đó gọi là gồm thâu kẻ khác. Bốn là do nhân duyên nầy, quả báo trong đời vị lai sẽ sinh vào cõi trời, trí tuệ thanh tịnh, thần thông thanh tịnh. Đó gọi là lực của bốn công đức nơi thiền định, không có gì hơn.
Thế nào là bốn việc của trí tuệ? Một là trí tuệ đối trị vô minh. Hai là thành tựu Bồ-đề đầy đủ. Ba là bố thí, ái ngữ, lợi ích, đồng sự, thâu giữ, thành tựu tất cả chúng sinh. Đối với việc hiểu biết theo nghĩa hiểu rõ, được lợi ích thắng diệu, hoan hỷ vừa ý, đó gọi là tự thâu giữ. Nếu vì khắp chúng sinh dùng phương tiện thiện xảo thuyết pháp, khiến đời nầy đời sau đều được an vui, đó là thâu giữ kẻ khác. Bốn là do nhân duyên nầy, nên thâu giữ tất cả thiện căn bình đẳng, ở đời vị lai trừ chướng, tác chứng, đó là chướng phiền não và chướng trí tuệ. Đấy gọi là lực nơi bốn công đức của trí tuệ, không gì hơn được. Tất cả gọi là lực của pháp.
Thế nào là lực câu sinh của chư Phật, Bồ-tát? Tánh biết được thọ mạng của đời trước làm lợi ích cho chúng sinh, suy nghĩ về đêm dài sinh tử với những khổ lớn không dừng, đều có thể nhận chịu để tạo lợi ích cho chúng sinh, chúng sinh thọ vui thì tâm tùy hỷ. Sinh lên cõi trời Đâu suất, tùy theo thọ mạng mà trú, có ba việc thù thắng hơn các trời, người: Một là sống lâu ở cõi trời. Hai là được hình sắc trời. Ba là được danh xưng trời. Khi sống trong thai mẹ, ánh sáng đặc biệt tỏa chiếu đủ khắp thế giới, chánh trí nhập thai, trụ thai, xuất thai. Lúc sinh chân vừa chạm đất, liền đi bảy bước, đưa tay lên cao nói: Ta sẽ ở thế gian làm bậc tôn quý Vô thượng! Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-nA-la, Ma-hầu-la-già… đem hương, hoa, kỹ nhạc, cờ phướn cõi trời, đủ các thứ uy nghiêm đẹp đẽ để cúng dường. Có ba mươi hai tướng tốt để tự trang nghiêm, là thân sau cùng, các ma oán xấu ác không thể phá hoại, ngồi nơi gốc cây Bồ-đề, đem tâm từ hàng phục ma ác, mỗi một chi tiết nơi thân đều có lực Na-la-diên. Từ thuở còn làm đồng tử, tất cả các kỹ thuật khả năng tự nhiên có được sự khéo léo, không lãnh thọ từ thầy, ngồi ở đạo tràng nơi cội Bồ-đề, không có thầy, tự nhiên thành tựu Chánh đẳng Chánh giác. Phạm vương đến khuyến thỉnh thuyết pháp, tiếng sấm sét rung chuyển, âm thanh lớn phát ra cũng không làm động loạn chánh thọ của Như-lai. Thú dữ nương dựa tùy thuận, không sợ hãi, các loại chúng sinh thảy đều cúng dường, như khỉ vượn kia dâng lên mật hương, Đức Thế Tôn thương xót thọ nhận, chúng vui mừng nhảy múa, thần rồng làm mưa tắm rửa thân Phật, nếu khi đi ra thì liền dừng mưa. Bồ-tát như vậy ngồi nơi cội cây Bồ-đề, cây làm cho cành cong tùy theo để che mát thân Ngài. Thành Chánh giác rồi, trong sáu năm, thiên ma Ba-tuần luôn tìm lỗi của Ngài, nhưng không được, Ngài luôn chánh niệm an trú bình đẳng. Tất cả chúng sinh với đủ các thứ tri thức không giống, các tưởng sai khác, các sự hiểu biết dị biệt, khi sinh, trụ, diệt, từng niệm từng niệm Ngài đều biết. Như-lai dùng lực câu sinh thị hiện sắc thân và oai nghi bậc Thánh, thâu giữ chúng sinh. Do thị hiện thân nên người cuồng loạn thì được chân chánh, thai ngược được thuận, người mù được thấy, người điếc được nghe, khiến người bị ba độc xa lìa dục, nộ, si. Thị hiện sắc thân như thế để thâu giữ chúng sinh. Đó gọi là thị hiện thần lực câu sinh. Oai nghi nơi lực câu sinh nghĩa là thường nằm nghiêng về hông bên phải như sư tử chúa, chiếu cỏ không lẫn lộn, gió không lay động y, đi như sư tử, bước như ngưu vương, trước cất chân phải thì chân trái theo sau, chỗ đi bằng phẳng, không có cát, ngói, gạch, đá. Lúc đi an nhiên tự tại, các căn tịch tĩnh, nếu khi vào cửa thì cửa thấp thành cao, ăn luôn vừa đủ, miếng miếng không thừa, vô lượng việc chưa từng có như thế, phải biết đều là thần lực câu sinh thuộc về oai nghi bậc Thánh.
Thế nào là lực của chư Phật, Bồ-tát không chung với Thanh văn, Phật-bích-chi? Thế nào là lực chung? Lực không chung nếu lược nói có ba thứ: Một là vi tế. Hai là phân biệt. Ba là giới. Chư Phật, Bồ-tát đối với vô lượng vô số A-tăng-kỳ chúng sinh, dùng vô lượng lực làm phương tiện đem lại lợi ích, đều nhận biết như thật, đấy gọi là vi tế. Tất cả các loại lực thần thông, lực pháp, lực câu sinh, đều thành tựu đầy đủ, đó gọi là phân biệt. Tất cả thế giới, tất cả giới chúng sinh, là cảnh giới lực của thần thông, đấy gọi là giới. Thanh văn lấy quốc độ thế giới, chúng sinh thế giới trong hai ngàn thế giới làm cảnh giới thần thông. Duyên giác lấy ba ngàn thế giới làm cảnh giới thần thông. Vì sao? Vì họ tự điều phục, không phải vì tất cả chúng sinh, thế nên chỉ có một tam thiên thế giới, dùng làm cảnh giới. Trừ ba thứ nêu trên, các thần lực khác của chư Phật Bồ-tát, gọi là lực chung với hàng Thanh văn, Duyên giác. Hàng Nhị thừa hãy còn không thể sánh kịp thần lực của Bồ-tát, huống gì là hàng Trời, Người, Ngoại đạo, Phàm phu.
Bồ-tát có ba loại lực thị hiện: Một là thần túc. Hai là chỉ rõ về tha tâm. Ba là giáo hóa, khuyên bảo. Ba thứ nầy cũng thuộc về thần thông, nhưng tùy theo chỗ thích ứng, tức là thần túc, tha tâm trí và lậu tận trí.
Thế nào gọi là thành thục? Lược nói có sáu thứ: Một là tự tánh thành thục. Hai là người thành thục. Ba là chủng phân biệt thành thục. Bốn là phương tiện thành thục. Năm là chúng sinh thành thục. Sáu là nhân tướng thành thục.
- Tự tánh thành thục, nghĩa là có chủng tử của pháp thiện, tu tập pháp thiện, tùy thuận hai chướng, có lực thanh tịnh giải thoát thân tâm, phương tiện chân thật, đầy đủ rốt ráo. Có Phật hay không có Phật, đều có khả năng lần lượt đoạn trừ chướng phiền não và chướng trí tuệ. Như ung nhọt lớn đã chín muồi, đến lúc phải vỡ, đấy gọi là thục. Lại như bình gốm, khi được đem dùng, gọi là thục. Như quả Yêm-la… vào lúc dùng được gọi là thục. Như thế, Bồ-tát tu tập pháp thiện, phương tiện chân thật, đầy đủ rốt ráo, theo thứ lớp có thể gánh vác, lìa chướng đạt thanh tịnh, đấy gọi là tự tánh thành thục.
- Người thành thục, lược nói có bốn thứ: Có chủng tánh Thanh văn, do Thanh văn thừa mà thành thục. Có chủng tánh Duyên giác, do Duyên giác thừa mà thành thục. Có chủng tánh Phật, do Đại thừa vô thượng mà thành thục. Người không có chủng tánh thì từ nẻo thiện mà thành thục. Như thế, bốn loại người, chư Phật, Bồ-tát dùng bốn pháp mà thành thục.
- Chủng phân biệt thành thục, lược nói có sáu thứ: Một là các căn thành thục. Hai là thiện căn thành thục. Ba là trí tuệ thành thục. Bốn là hạ thành thục. Năm là trung thành thục. Sáu là thượng thành thục.
Các căn thành thục nghĩa là tuổi thọ đầy đủ, sắc đầy đủ, dòng họ đầy đủ, tự tại đầy đủ, tín ngôn đầy đủ, lực lớn đầy đủ, người đầy đủ, sức đầy đủ, thân được quả báo có khả năng nhận lấy phương tiện dũng mãnh, tinh tấn, tâm không mệt, không chán, đối với tất cả "minh xứ" đều là phương tiện tu học.
Thiện căn thành thục là tánh ít phiền não, không khởi pháp ác, ấm, cái nhỏ mỏng, tính chất ngay thẳng tùy thuận.
Trí tuệ thành thục là "Minh tuệ" đầy đủ, nói thiện nói ác đều có thể giảng giải nghĩa lý, thọ trì phân biệt, sinh trí thành tựu, có thể rốt ráo lìa các phiền não. Các căn thành thục giải thoát chướng báo. Thiện căn thành thục giải thoát chướng nghiệp. Trí tuệ thành thục giải thoát chướng phiền não.
Hạ thành thục có hai nhân duyên: Một là nhân duyên để tu tập các căn, thiện căn, trí tuệ không lâu. Hai là nhân tu tập thấp.
Trung thành thục thì ở giữa hai nhân duyên nầy, một thù thắng, một thấp kém.
Thượng thành thục phải biết đều là thù thắng.
-Phương tiện thành thục có hai mươi bảy thứ: Một là giới sung mãn. Hai là hiện duyên tạo lợi ích. Ba là độ. Bốn là ái lạc nhiếp thọ. Năm là sơ xứ. Sáu là phi sơ xứ. Bảy là viễn tịnh. Tám là cận tịnh. Chín là phương tiện. Mười là tâm tịnh. Mười một là tài thí. Mười hai là pháp thí. Mười ba là thần túc. Mười bốn là thuyết pháp. Mười lăm là ẩn phú thuyết pháp. Mười sáu là hiển hiện thuyết pháp. Mười bảy là hạ phương tiện. Mười tám là trung phương tiện. Mười chín là thượng phương tiện. Hai mươi là văn. Hai mươi mốt là tư. Hai mươi hai là tu. Hai mươi ba là nhiếp thủ. Hai mươi bốn là phục thủ. Hai mươi lăm là tự tác. Hai mươi sáu là thỉnh tha tác. Hai mươi bảy là câu tác.
Giới sung mãn nghĩa là chủng tử của pháp thiện sinh trưởng đầy đủ, nương theo sự tu tập trước, chủng tử của pháp thiện xoay chuyển nương nhau, tăng trưởng đầy đủ, đó gọi là giới sung mãn.
Hiện duyên tạo lợi ích nghĩa là ở trong đời hiện tại, thuyết pháp không trái nghịch, thọ trì không trái nghịch, khéo tùy thuận pháp, pháp lần lượt hướng đến giới sung mãn, do nhân căn bản, nên hiện tại thành thục, duyên hiện tại tạo lợi ích, nhân đời hiện tại thành thục hiện tại. Độ nghĩa là gần gũi bạn tốt, tín tâm được sinh, tín tăng thêm rồi xa lìa hạnh xấu nơi nhà, thọ trì giới cấm,, không nhà xuất gia thọ giới lìa dục.
Ái lạc nhiếp thọ nghĩa là bước ra khỏi khổ nẻo dục lạc, khổ hạnh, cả hai đều xa lìa, tu hành nẻo vui, rất ưa pháp Phật.
Sơ xứ là do đầu tiên chán pháp, tu hạnh chán lìa, biết nghĩa thù thắng vi diệu, đạt đến công đức lợi ích.
Phi sơ xứ nghĩa là đã độ thành thục, ở đời hiện tại, gần gũi không xa lìa chư Phật, Bồ-tát, tăng trưởng trú xứ, dần dần tiến lên, chuyển thành thù thắng thành thục. Viễn tịnh nghĩa là khởi tâm biếng nhác, xa duyên tu hành, lưu chuyển trong sinh tử, trải qua nhiều kiếp số; có thể đảm nhiệm sự thanh tịnh cùng với các thứ kia trái nhau, gọi là cận.
Phương tiện tịnh nghĩa là được các nghĩa thiện, vui vẻ vâng làm, chán sợ đời sau với các khổ trong đường ác, ở trong đời nầy, sợ danh xưng xấu ác, thọ trì giới cấm thường hành hạnh mau chóng (đốn pháp).
Tâm tịnh nghĩa là chánh quán các pháp lần lượt gắng nhẫn, đối với chánh pháp không thể hủy hoại, còn khiến cho chúng sinh tu tập chánh pháp, ở trong Tam bảo được nghĩa thiện hơn hết, tín tâm không động.
Tài thí nghĩa là tùy theo những kẻ kia cần gì, các vật y phục, ẩm thực v.v…, tất cả đều bố thí.
Pháp thí là đối với người muốn lãnh thọ giáo pháp thì liền trao cho giáo pháp, người ưa thọ nghĩa, vì họ giảng nói chánh nghĩa.
Thần túc nghĩa là vì thương xót chúng sinh nên dùng thần lực thị hiện, khiến những kẻ kia được tin vui, tín đã tăng lên, tu phương tiện thanh tịnh, các chúng sinh ấy, hoặc thấy hoặc nghe về đại thần biến rồi, ở trong chánh pháp sẽ được tâm thanh tịnh, tu phương tiện thiện.
Thuyết pháp nghĩa là mình khéo hiểu nghĩa, lại có thể vì người mà giảng nói, mình và chúng sinh đều cùng hướng về chánh đạo, đại trí mau thành, sẽ tùy thuận thuyết pháp.
Ẩn phú thuyết pháp nghĩa là đối với chúng sinh trí thấp, che giấu nghĩa sâu xa, vì họ nói pháp thô cho dễ thực hành.
Hiển hiện thuyết pháp nghĩa là với chúng sinh có trí tuệ thâm nhập pháp Phật, sẽ vì họ mà giảng nói chỗ sâu xa vi diệu.
Hạ phương tiện nghĩa là phương tiện không thường, phương tiện không nhanh chóng.
Trung phương tiện nghĩa là hoặc phương tiện thường hoặc phương tiện nhanh, hành một xả một, không thể đầy đủ.
Thượng phương tiện là phương tiện đầy đủ cả hai.
Văn là nghe hiểu các loại kinh pháp của Đức Phật đã thuyết giảng như Tu-đa-la… thọ trì đọc tụng, hành phương tiện tinh cần.
Tư nghĩa là ở chỗ yên vắng, tư duy các pháp, khai tỏ hiểu thông thấu đạt quyết định về pháp tướng.
Tu nghĩa là chỉ, cử, xả. Trước hành chỉ quán rất vui thích, tu tập chỉ quán xả tâm.
Nhiếp thủ là nương dựa vào tâm không tham, tu hành bố thí. Chăm sóc các Hòa thượng, các thầy bệnh tật, cúng dường đầy đủ các thứ như y phục, thức ăn uống, thuốc thang. Nếu có lo lắng hối hận và các phiền não, có thể vì họ giải bày. Tu những thứ như vậy là như pháp cúng dường.
Phục thủ là tâm tư duy chân chính, tự mình ngăn giữ phiền não, thấy các chúng sinh khác, hoặc có kẻ phạm lỗi, phạm bậc hạ thì quở trách, phạm bậc trung thì trị phạt, phạm bậc thượng thì đuổi đi. Quở trách và trị phạt là vì sự an lạc cho kẻ ấy và chúng sinh khác. Nếu đuổi đi, trở lại thì thuận cho sám hối, kẻ ấy vừa được an lạc, vừa lợi ích cả cho người khác. Nếu kẻ đó không trở lại sám hối, thì cũng tạo an lạc cho người khác, nghĩa là người khác thấy kẻ đó phạm tội bị đuổi đi, nhân đấy tự mình phải giữ gìn.
Tự tác nghĩa là tự mình như pháp mà trú, tùy thuận thuyết pháp, khiến chúng sinh khác ra khỏi xứ bất thiện an lập nơi xứ thiện. Nếu không như pháp trụ thì mọi người sẽ nói: Ông nay làm sao dạy trao người khác phát khởi cùng suy niệm, người khác lẽ ra nên dạy bảo ông phát khởi và suy niệm.
Thỉnh tha nghĩa là khéo dùng phương tiện thiện xảo thuyết pháp, đại chúng nhận biết tăng thêm kính mến, sẽ khuyến thỉnh thuyết pháp để thành thục chúng sinh.
Câu tác nghĩa là tự làm và khuyến thỉnh người khác, cả hai đều thành thục. Đấy là hai mươi bảy thứ phương tiện thành thục. Sáu loại thành thục kia đã phân biệt đầy đủ, đó là các căn thành thục, thiện căn thành thục, trí tuệ thành thục, hạ, trung, thượng thành thục.
- Chúng sinh thành thục nếu lược nói có sáu thứ: Nghĩa là Bồ-tát trú trong sáu địa, thành thục chúng sinh. Trú ở địa hành giải Bồ-tát hành giải hành. Trú nơi địa tâm tịnh Bồ-tát hành tâm tịnh. Trú nơi địa hành đạo tích Bồ-tát hành đạo tích. Trú nơi địa quyết định Bồ-tát hành quyết định. Trú nơi địa quyết định hành Bồ-tát hành hạnh quyết định. Trú nơi địa cứu cánh Bồ-tát hành cứu cánh. Đối với chúng sinh không có chủng tánh, thì từ nẻo thiện thành thục, thường có tiến, có lùi. Với chúng sinh có chủng tánh, khiến được thành thục, không có thối mất, thường thường tiến thêm.
- Nhân tướng thành thục là pháp tu tập căn bản của Thanh văn. Trú hạ thành thục là dục hạ, phương tiện hạ, chưa xa lìa nẻo ác, đối với pháp hiện tại, không đắc quả Sa-môn, đối với pháp hiện tại không đắc Niết-bàn.
Trú trung thành thục nghĩa là dục trung, phương tiện trung, không rơi vào cõi ác, ở trong pháp hiện tại, đắc quả Sa-môn, không đắc Niết-bàn.
Trú thượng thành thục nghĩa là dục thượng, phương tiện thượng, không rơi vào cõi ác, ở trong pháp hiện tại đắc quả Sa-môn và Niết-bàn, thành Phật-bích-chi, giống như Thanh văn. Vì sao? Đạo đồng Thanh văn, nhưng hơn Thanh văn, nghĩa là thân sau cùng không thầy mà tự giác ngộ.
Lực tu tập căn bản là tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo, đoạn trừ tất cả kiết, chứng đắc A-la-hán, vì thế gọi là Duyên giác.
Lại nữa, Bồ-tát trú ở địa giải hành, phải biết là hạ thành thục, địa tâm tịnh là trung thành thục, địa quyết định cứu cánh là thượng thành thục. Bồ-tát trú hạ thành thục, dục hạ, phương tiện hạ, chưa lìa cõi ác, phải biết đó là A-tăng-kỳ thứ nhất đã mãn, hiển bày bất động, lạc tịnh, đạo phẩm đều không thành thục. Bồ-tát trú trung thành thục thì dục trung, phương tiện trung, không rơi vào cõi ác, đó là A-tăng-kỳ thứ hai đã mãn, sáng rõ bất động, đạo phẩm thành tựu, lạc tịnh không thành tựu. Bồ-tát trú thượng thành thục, dục thượng, phương tiện thượng, không rơi vào cõi ác, A-tăng-kỳ thứ ba đã mãn, hiển bày bất động, lạc tịnh, đạo phẩm, tất cả đều thành tựu, tánh kia thuần hậu, đầy đủ hiển nhiên. Tăng thêm quả diệu, tăng thêm phước lợi, nên gọi là hiển nhiên. Không trở lại, không thối lui, tiến lên vững chắc, nên gọi là bất động. Ở địa Bồ-tát thanh tịnh không gì hơn nên gọi là lạc tịnh.
Với tài thí thành thục, thần túc thành thục, ẩn phú thuyết pháp thành thục, hạ phương tiện thành thục, văn tuệ thành thục, năm thứ thành thục nầy, tu tập dài lâu vẫn còn là bậc hạ, huống chi lại là tu tập ngắn hạn. Ngoài ra, tất cả sự thành thục mỗi mỗi đều nói có ba loại: là hạ hạ, hạ trung, hạ thượng. Trung hạ, trung trung, trung thượng. Thượng hạ, thượng trung và thượng thượng. Như thế, phân biệt về thượng trung hạ thì có vô lượng thành thục. Phải biết chư Phật, Bồ-tát thành thục chúng sinh, Bồ-tát đối với sự thành thục nầy, như đã nói là tự thành thục pháp Phật, các căn thành thục, thiện căn thành thục, trí tuệ thành thục, hạnh hạ trung thượng thành thục, là dùng pháp Tam thừa để thành thục chúng sinh.
-----------------
Thế nào là Bồ-đề? Lược nói có hai thứ đoạn và hai thứ trí, đó gọi là Bồ-đề. Hai thứ đoạn nghĩa là đoạn chướng phiền não và đoạn chướng trí. Hai thứ trí nghĩa là trí đoạn chướng phiền não, lìa cấu đạt thanh tịnh, tất cả phiền não không còn tương tục và trí đoạn chướng trí, tất cả đối tượng được hiểu biết không chướng ngại.
Lại nữa, trí thanh tịnh, Nhất thiết trí, trí vô ngại, diệt tất cả tập khí phiền não, thanh tịnh sáng suốt, đoạn dứt rốt ráo, đấy gọi là Bồ-đề vô thượng. Trí đoạn trừ rốt ráo tất cả tập khí phiền não, gọi là trí thanh tịnh. Trí đối với tất cả giới, tất cả sự, tất cả chủng, tất cả thời, đều không ngại, đó gọi là Nhất thiết trí.
Giới có hai thứ là thế giới và giới chúng sinh. Sự có hai thứ là hữu vi và vô vi. Như thế sự hữu vi, vô vi có vô lượng thứ phân biệt: Phân biệt tự tướng sai biệt, phân biệt tổng tướng sai biệt, phân biệt nhân quả, phân biệt giới, phân biệt nẻo, cõi, phân biệt thiện, bất thiện, vô ký. Thời tức có ba thời: Thời quá khứ, hiện tại và vị lai. Như vậy, biết tất cả giới, tất cả sự, tất cả chủng loại, tất cả thời, đấy gọi là Nhất thiết trí.
Không nhờ phương tiện, phát tâm liền biết, đối với tất cả pháp, hiểu rõ không ngăn ngại, đấy gọi là trí vô ngại.
Lại nữa, một trăm bốn mươi pháp bất cộng và trí vô tránh, nguyện trí, vô ngại biện của Như Lai, đấy gọi là Bồ-đề vô thượng. Một trăm bốn mươi pháp bất cộng của Phật là ba mươi hai tướng đại nhân, tám mươi vẻ đẹp theo hình, bốn trí vô ngại, nhất thiết chủng thanh tịnh, mười lực, bốn vô úy, ba niệm xứ, ba bất hộ, đại bi, pháp không quên, đoạn trừ các tập, nhất thiết chủng diệu trí. Các pháp Phật nầy, trong phẩm An lập sẽ nói rộng.
Bồ-đề vô thượng là đầy đủ bảy vô thượng, đối với tất cả Bồ-đề là tối cao vô thượng. Thế nào là bảy vô thượng? Một là thân vô thượng. Hai là đạo vô thượng. Ba là chánh vô thượng. Bốn là trí vô thượng. Năm là thần lực vô thượng. Sáu là đoạn vô thượng. Bảy là trụ vô thượng. Như Lai có ba mươi hai tướng trang nghiêm thân Ngài, gọi là thân vô thượng. Như Lai tự độ, độ người, cứu độ rất nhiều, thương xót thế gian, đem lợi ích an lạc cho chư Thiên và người đời, đó gọi là đạo vô thượng. Như Lai là bậc vô thượng, vô đẳng, thành tựu bốn chánh chân: chánh giới, chánh kiến, chánh oai nghi và chánh mạng, đó gọi là chánh vô thượng. Như Lai là bậc vô thượng, vô đẳng, thành tựu bốn trí vô ngại: Pháp vô ngại, nghĩa vô ngại, từ vô ngại và lạc thuyết vô ngại, đó gọi là trí vô thượng. Như Lai là bậc Vô thượng, Vô đẳng, thành tựu sáu thần thông, như trước đã nói, đó gọi là thần lực vô thượng. Như Lai là bậc Vô thượng, Vô đẳng, thành tựu hai đoạn là đoạn tất cả phiền não tập khí và đoạn chướng trí, đó gọi là đoạn vô thượng. Như Lai là bậc Vô thượng, Vô đẳng, với ba chủng trụ, trụ nhiều trong đó là Thánh trụ, Thiên trụ, Phạm trụ, đó gọi là trụ vô thượng. Chánh thọ Không, Vô tướng, Vô nguyện, Diệt tận, gọi là Thánh trụ. Bốn thiền, bốn định vô sắc, gọi là Thiên trụ. Bốn tâm vô lượng gọi là Phạm trụ. Như Lai trụ trong Thiên trụ, Như Lai trụ trong bốn pháp Thánh trụ, trụ trong Tam-muội Không và định Diệt tận. Trong Thiên trụ thì trụ nơi thiền thứ tư, trong Phạm trụ thì trụ nơi đại bi. Vì thế Như Lai ngày đêm sáu thời thường dùng Phật nhãn quán sát thế gian, người nào nên độ, chưa khởi thiện căn, thì Như Lai sẽ khiến khởi, cho đến người nào đáng đắc quả vô thượng, Như Lai sẽ kiến lập, đó gọi là trụ vô thượng. Thân vô thượng gọi là đại trượng phu. Đạo vô thượng gọi là đại bi. Chánh vô thượng gọi là đại giới, đại pháp. Trí vô thượng gọi là đại tuệ. Lực vô thượng gọi là đại thần thông. Đoạn vô thượng gọi là đại giải thoát. Trụ vô thượng gọi là đại trụ, đa trụ.
Lại nữa, Như Lai có mười thứ danh xưng công đức, tùy niệm công đức. Những gì là mười? Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Bà-già-bà. Chẳng phải chẳng như thuyết nên gọi là Như Lai. Do được tất cả nghĩa, phước điền vô thượng, nên được cúng dường, đấy gọi là Ứng. Như hiển bày đệ nhất nghĩa, nên gọi là Đẳng Chánh Giác. Ba minh, như Khế kinh đã nói. Hành là chỉ quán đầy đủ, nên gọi là Minh Hành Túc. Đệ nhất tiến lên, vĩnh viễn không còn trở lại gọi là Thiện Thệ. Biết thế giới, giới chúng sinh, tất cả loại phiền não và thanh tịnh, gọi là Thế Gian Giải. Đệ nhất điều phục tâm, trí phương tiện thiện xảo, tất cả thế gian chỉ có một trượng phu, gọi là Vô Thượng Điều Ngự Sĩ. Bốn thứ trí chân thật là nghĩa pháp chân thật, chỉ rõ về bất liễu nghĩa, nương nhất thiết nghĩa, tuyên thuyết rộng rãi, đoạn trừ hết thảy nghi, hiển bày chốn thâm diệu thanh bạch, là gốc của các pháp, chỉ dẫn tất cả các pháp, vì xả tất cả, thoát hết thảy khổ, là vị thầy diễn nói nghĩa pháp, thích đáng cho nhân thiên, đấy gọi là Thiên Nhân Sư. Tụ nghĩa lợi ích, tụ phi nghĩa lợi ích, tụ phi nghĩa phi phi nghĩa lợi ích, đầy đủ tất cả chủng loại bình đẳng hiển bày, đấy gọi là Phật. (Ba tụ nầy là thiện, bất thiện, vô ký). Phá trừ tất cả lực ma, gọi là Bà-già-bà. Hoặc trong vô lượng kiếp không có một Đức Phật xuất thế. Hoặc trong một kiếp có nhiều Đức Phật ra đời. Nơi mười phương vô lượng thế giới, có vô lượng vô biên A-tăng-kỳ Đức Phật xuất hiện ở đời. Vì sao? Vì nơi mười phương thế giới có vô lượng Bồ-tát, đều phát đại nguyện. Nếu một Bồ-tát, ngày như thế, phần như thế, tháng như thế, năm như thế phát tâm Bồ-đề, tất cả Bồ-tát cũng lại như vậy. Tức ở trong ngày nầy, phần nầy, tháng nầy, năm nầy phát tâm Bồ-đề, đồng một oai nghi, đồng một khả năng, đồng một phương tiện, tất cả Bồ-tát cũng lại như vậy. Một thế giới có vô lượng Bồ-tát, đồng nguyện, đồng thí, đồng giới, đồng nhẫn, đồng tinh tấn, đồng thiền định, đồng trí tuệ, huống gì là mười phương vô lượng thế giới, mỗi một thế giới có vô lượng vô số Bồ-tát. Không có hai Bồ-tát đồng nguyện, đồng hành, ở một quốc độ đồng một lúc thành Phật, huống chi là vô lượng đồng một lúc đều thành. Lại nữa, hết thảy Bồ-tát nhất thời đồng hành lần lượt thành Phật, thì đây cũng không đúng, cũng không phải một vị thành, còn lại đều không thành. Vì thế nên mười phương vô lượng thế giới, tùy vào chỗ tịnh "không", nơi không có Phật, thì Bồ-tát đồng hành mỗi một thành Phật, vì thế nên vô lượng thế giới có vô lượng Phật.
Không một thế giới có hai Đức Phật xuất hiện. Vì sao? Vì Bồ-tát nơi đêm dài sinh tử khởi nguyện và phương tiện như vầy: Ta nên ở chỗ không có pháp Phật, nói rộng chánh pháp, điều phục chúng sinh, giúp họ thoát các khổ, nhập nơi Niết-bàn, đêm dài sinh tử như vậy, nuôi dưỡng đại nguyện lớn dần, thâu nhận chánh đạo, quả đại nguyện thành. Vả lại, một Như Lai có thể ở trong tam thiên đại thiên quốc độ làm được tất cả Phật sự, nếu Đức Phật thứ hai ra đời cũng không lợi ích gì. Lại nữa, trong một thế giới, một Đức Phật ra đời, có thể khiến chúng sinh tự sự tùy thuận quyết định siêng năng tu tập. Vì sao? Vì chúng sinh khởi niệm, tất cả thế giới chỉ có một Như Lai, giáo hóa khắp rồi sẽ nhập Niết-bàn. Lại không có Phật, có thể khiến chúng ta tu hành phạm hạnh, nghe nhận chánh pháp. Nghĩ rồi nhanh chóng thực hành, thuần tu tinh tấn, hành trì phạm hạnh, nghe nhận chánh pháp. Nếu nhiều Đức Phật thì không nhanh chóng siêng năng tu hành, vì thế nên nói trong một thế giới chỉ có một Như Lai, chúng sinh sẽ tự quyết định siêng tu.
Tất cả Như Lai đều bình đẳng không sai khác, chỉ trừ bốn việc: Một là thọ mạng. Hai là danh xưng. Ba là chủng tánh. Bốn là sắc thân. Chỉ có bốn việc nầy là có tướng sai khác, không có công đức nào khác, cũng không có nữ nhân đắc Bồ-đề vô thượng. Vì sao? Vì Bồ-tát ở trong A-tăng-kỳ kiếp đầu đã xả thân nữ, cho đến ngồi nơi gốc cây Bồ-đề không thọ thân nữ. Vì tất cả người nữ tánh nhiều phiền não, gây tạo trí ác, không thể do phiền não trí ác mà có thể chứng đắc Bồ-đề vô thượng.
Như vậy, Bồ-đề vô thượng có vô lượng nghĩa, nêu tóm tắt thì gồm có: Nghĩa tự tánh, nghĩa vô thượng, nghĩa danh xưng công đức, nghĩa tùy niệm công đức, nghĩa kham năng, nghĩa tối thắng, thảy đều như trên đã nói, nên biết đều là chân thật.
Lại nữa, bất tư nghì vượt qua các tư nghì, vô lượng vô biên công đức đầy đủ, vượt quá lên trên tất cả Thanh văn, Phật-bích-chi, nên gọi là Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, là tối thắng đệ nhất, không gì sánh kịp, không gì cao hơn.
------------------
Đã nói về học xứ của Bồ-tát, nay sẽ nói về Bồ-tát học. Như vậy Bồ-tát muốn học tốt Bồ-tát học phải có bảy việc: Một là tu nhiều tin hiểu. Hai là cầu pháp. Ba là thuyết pháp. Bốn là pháp tiếp pháp hướng. Năm là chánh giáo thọ. Sáu là giáo giới. Bảy là thâu giữ phương tiện nơi thân, khẩu, ý nghiệp.
Thế nào là Bồ-tát tu nhiều tin hiểu? Bồ-tát, trong tám thứ xứ giải, tịnh tín đứng đầu, nhất tâm quyết định việc ưa muốn thành tựu, là công đức Tam bảo: Công đức của Phật, Pháp, Tăng. Chư Phật, Bồ-tát thần lực tự tại, là nghĩa chân thật, là nghĩa vô số nhân, nghĩa vô số quả, tùy thuận tương ưng mà không điên đảo. Đắc nghĩa, đắc phương tiện, có khả năng nhận đắc. Có đắc phương tiện thì có thể thủ đắc nghĩa. Đắc nghĩa tức là Bồ-đề vô thượng. Đắc phương tiện tức là tất cả đạo lý Bồ-tát đã tu học. Đó là tin hiểu, khéo giảng nói. Tức là Tu-đa-la, Kỳ dạ, Thọ ký v.v… nơi vô lượng ngôn giáo, khéo giảng nói vi diệu, Bồ-tát đối với tám thứ xứ giải nầy, có hai loại giải lực: Một là tu nhiều giải hành. Hai là vui hành nhẫn sâu.
Bồ-tát cầu pháp, cầu pháp nào? Cầu như thế nào? Vì sao cầu? Cầu pháp nào, tức nếu lược nói là cầu tạng Bồ-tát, cầu tạng Thanh văn, ngoại luận, thế gian công nghiệp xứ trí. Mười hai bộ kinh, chỉ có một bộ Phương Quảng là tạng Bồ-tát, mười một bộ còn lại là tạng Thanh văn. Ngoại luận lược nói có ba thứ: Nhân luận, Thanh luận và Y phương luận. Thế gian công nghiệp xứ trí nghĩa là các thứ sự nghiệp, như các thợ vàng, thợ bạc… và các thứ khác thuộc về minh xứ. Minh xứ có năm thứ: Một là nội minh xứ. Hai là nhân minh xứ. Ba là thanh minh xứ. Bốn là y phương minh xứ. Năm là công nghiệp minh xứ. Năm thứ minh xứ nầy Bồ-tát đều cầu học. Những lời Phật dạy gọi là Nội luận, lược nói có hai loại: Một là hiển bày chánh nhân quả. Hai là hiển bày điều đã làm không hoại, không tạo tác, không thọ nhận. Nhân luận cũng có hai loại: Một là có thể hàng phục luận của người. Hai là tự diễn rộng nghĩa của mình. Thanh luận có hai thứ: Một là hiển bày giới sắc. Hai là hiển bày ngôn từ thiện xảo. Y phương luận có bốn thứ: Một là hiển bày khéo biết bệnh. Hai là hiển bày nguyên nhân của bệnh. Ba là hiển bày có thể dứt trừ bệnh đã khởi. Bốn là hiển bày bệnh đã dứt trừ rồi khiến không khởi lại.
Thế gian công nghiệp xứ trí nghĩa là hiển bày các sự nghiệp thế gian đã thành tựu.
Thế nào là Phật giảng thuyết? Là nhân không điên đảo có mười thứ, nên biết là gồm thâu tất cả các nhân, tất cả phiền não, tất cả thanh tịnh, tất cả vô ký. Những gì là mười? Một là nhân tùy thuyết. Hai là nhân dĩ hữu. Ba là nhân chủng thực. Bốn là nhân nhiếp. Năm là nhân sinh. Sáu là nhân trưởng. Bảy là nhân tự chủng. Tám là nhân cộng sự. Chín là nhân tương vi. Mười là nhân bất tương vi. Tất cả danh pháp nầy, có danh rồi tưởng, tưởng rồi nói. Danh, tưởng ngôn thuyết của các pháp nầy, gọi là nhân tùy thuyết. Do có sự cho nên có tạo tác, đấy gọi là nhân dĩ hữu. Do có tay cho nên có làm, do có chân cho nên có dạo đi, do có thân cho nên có co, duỗi, do có đói khát cho nên có tìm cầu đồ ăn uống, những thứ như vậy vô lượng vô biên gọi là nhân dĩ hữu. Trồng các hạt giống, gọi là nhân chủng thực. Đất nước thấm nhuần gọi là nhân nhiếp. Mầm ở trong hạt gọi là nhân sinh. Mầm cành tiếp nối cho đến thành thục gọi là nhân trưởng. Vô số các hạt giống mỗi mỗi tự sinh, gọi là nhân tự chủng. Sáu nhân: nhân dĩ hữu, nhân chủng thực, nhân nhiếp, nhân sinh, nhân trưởng, nhân tự chủng, gọi chung là nhân cộng sự. Chướng ngại sự sinh gọi là nhân tương vi. Không chướng ngại gọi là nhân bất tương vi. Tương vi có sáu thứ:
Một là ngữ tương vi, nghĩa là Sa-môn, Bà-la-môn nói kinh luận, trước sau trái nhau.
Hai là sở ưng tương vi, nghĩa là nói tất cả nghĩa và lý trái nhau.
Ba là sinh tương vi, nghĩa là sinh duyên không đầy đủ, chướng ngại sự sinh khởi.
Bốn là xứ tương vi, nghĩa là các pháp như sáng, tối, thương, giận, khổ, vui.
Năm là oán tương vi, nghĩa là các loài rắn độc, chuột, chó sói, mèo, những loài thú ấy đều là oán hại.
Sáu là đối trị tương vi, nghĩa là tu quán bất tịnh để đối trị tham dục, tu từ để chấm dứt sân giận, tu tâm bi để đình chỉ giác hại, tu đạo phẩm vô lậu để đoạn vĩnh viễn phiền não. Trong đây, dùng sinh tương vi để nêu bày. Các nhân nầy thuộc về hai nhân: Một là nhân sinh. Hai là nhân phương tiện. Gieo trồng các chủng tử sinh gọi là nhân sinh, các nhân khác gọi là nhân phương tiện.
Lại có bốn duyên: Duyên nhân, duyên thứ đệ, duyên duyên và duyên tăng thượng. Nhân sinh là duyên nhân. Nhân phương tiện là duyên tăng thượng. Duyên thứ đệ và Duyên duyên là tâm, tâm số pháp. Nghĩa là tâm, tâm số pháp sinh trước, khai mở dẫn dắt thâu nhận duyên, thâu nhận sinh. Thế nên, hai duyên thâu giữ những gì thuộc về nhân.
Vì sao mười nhân nầy sinh khởi tất cả sự của thế gian? Vì sao sinh tất cả phiền não? Vì sao sinh tất cả thanh tịnh? Như các loại lương thực, thế gian thường dựa vào mà sống; các danh, tưởng, ngôn thuyết, như gọi lúa nếp, lúa tắc, lúa nếp hương, lúa gạo, mè, đậu, lúa mì. Đấy gọi là nhân tùy thuyết. Như đại mạch hoặc đem đến, hoặc mang đi, hoặc lấy, hoặc cho, vô số những thứ ngôn thuyết như vậy, ngoài ra tất cả cũng như thế. Do có thân đói khát, gầy ốm nên cầu tìm thức ăn uống, những thứ như vậy gọi là nhân dĩ hữu. Như gieo trồng các hạt giống, mỗi một đều tự sinh, là bắt đầu gieo trồng chủng tử, gọi là nhân chủng thực. Đất nước thấm nhuần khiến mầm được sinh, đó gọi là nhân nhiếp. Mầm mọc nơi hạt giống gọi là nhân sinh. Lại nữa, mầm lá cành thân cây lần lượt nối tiếp nhau cho đến thành thục, đó gọi là nhân trưởng. Như hạt giống lúa mì thì sinh mầm lúa mì chứ không phải loại khác, ngoài ra cũng như thế, đấy gọi là nhân tự chủng. Từ nhân dĩ hữu cho đến nhân tự chủng, đều gọi là nhân cộng sự, vì tất cả hòa hợp mà sinh nên gọi là nhân cộng sự. Sương, mưa đá, tai họa, chướng ngại phá hoại gọi là nhân tương vi, những cái kia không đầy đủ, không chướng ngại, gọi là nhân bất tương vi. Ngoài ra, tất cả việc ở thế gian đều do mười nhân sinh ra, tùy theo chỗ thích hợp nên biết.
Vì sao sinh tất cả phiền não? Tất cả duyên khởi kia là danh, tưởng, ngôn thuyết. Đó là: Vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh lão bệnh tử, ưu bi khổ não, đó gọi là nhân tùy thuyết của phiền não. Vô minh duyên hành cho đến sinh duyên lão tử… cảnh giới ngôn thuyết từng nhớ lại rồi tham đắm vị, các chi hữu sinh, đó gọi là phiền não nơi nhân dĩ hữu. Các pháp như vô minh… chủng tử hiện pháp, sinh các thứ sinh khác như sinh lão bệnh tử, đó gọi là nhân chủng thực. Không gần thiện hữu nghe thọ chánh pháp, học tập tư duy bất chánh, nên vô minh v.v… sinh, đó gọi là nhân nhiếp. Mỗi mỗi chủng tử đều từ nơi vô minh… sinh, gọi là nhân sinh. Từ vô minh đến hữu sau có tăng tiến cùng tìm cầu, đến sinh khác như sinh lão bệnh tử, đấy gọi là nhân trưởng. Các loại chủng tử đều từ vô minh cho đến hữu sau, sinh nơi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh và cõi người, trời, đấy gọi là phiền não nơi nhân tự chủng. Từ nhân dĩ hữu cho đến nhân tự chủng, đó gọi là nhân cộng sự. Nếu có chủng tánh gặp được Phật ra đời diễn thuyết pháp thiện, gần thiện tri thức, nghe nhận chánh pháp, tư duy chánh niệm, pháp tiếp pháp hướng, đạo phẩm thanh tịnh, gọi là phiền não nơi nhân tương vi. Như trên đã nói, nếu không đầy đủ, gọi là nhân bất tương vi.
Đó gọi là mười nhân sinh tất cả phiền não, nên biết.
Vì sao sinh tất cả thanh tịnh? Tất cả pháp tịnh cho đến Niết-bàn diệt tận, với các danh, tưởng, ngôn thuyết, đó gọi là pháp tịnh nơi nhân tùy thuyết. Niệm xứ, chánh cần nầy cho đến tám chánh đạo, vô minh diệt cho đến sinh lão bệnh tử diệt, danh, tưởng, ngôn thuyết như vậy, đó gọi là pháp tịnh nơi nhân tùy thuyết. Do có vô minh… cho nên ưa cầu pháp tịnh, pháp tịnh, pháp tịnh được sinh, đó gọi là nhân dĩ hữu. Nếu người đầy đủ chủng tánh, hướng đến Niết-bàn hữu dư, vô dư mà tu hành đầu tiên thì gọi là thanh tịnh nơi nhân chủng thực. Chủng tánh gồm thâu chủng tử của đạo phẩm vô lậu, đối với các pháp đạo phẩm, đó gọi là nhân sinh. Gần gũi thiện tri thức, nghe nhận pháp thiện, tu chánh tư duy, các căn thành thục, đấy gọi là nhân nhiếp. Chủng tử kia sinh pháp đạo phẩm, hướng đến Niết-bàn Vô dư, đó gọi là nhân trưởng. Chủng tánh Thanh văn do Thanh văn thừa mà bát Niết-bàn. Chủng tánh Duyên giác do Duyên giác thừa mà bát Niết-bàn. Chủng tánh Đại thừa do Đại thừa vô thượng mà bát Niết-bàn, đấy gọi là nhân tự chủng. Từ nhân dĩ hữu cho đến nhân tự chủng, gọi là nhân cộng sự. Chủng tánh không đầy đủ, không gặp được Phật ra đời, sinh chỗ có các nạn, không gần gũi bạn tốt, không nghe pháp thiện, không tư duy chân chánh, tập hành đạo tà, đấy gọi là pháp tịnh nơi nhân tương vi. Nhân tương vi nầy không đầy đủ, đó gọi là nhân bất tương vi. Các phiền não nơi nhân tương vi, là nhân của pháp tịnh. Pháp tịnh nơi nhân tương vi là nhân thanh tịnh, đều cũng như đây, không khác, không hơn.
Thế nào là quả? Lược nói có năm thứ: Một là quả báo. Hai là quả y. Ba là quả giải thoát. Bốn là quả sĩ phu. Năm là quả tăng thượng. Các pháp bất thiện thì có báo đường ác, pháp thiện hữu lậu được báo đường thiện, đó gọi là quả báo. Nếu hành tập pháp bất thiện, ưa trụ trong pháp bất thiện, thì pháp bất thiện tăng. Nếu tu tập pháp thiện, ưa trụ trong pháp thiện, thì pháp thiện tăng trưởng. Nghiệp trước thế nào, quả sau sinh tương tự, đấy gọi là quả y. Tám chánh đạo diệt trừ các phiền não, gọi là quả giải thoát. Hoặc đạo lý thế tục diệt các phiền não, phàm phu không rốt ráo lìa bỏ, không phải quả giải thoát. Hoặc đối với hiện pháp, nương vào các thứ nghiệp công xảo xứ ở thế gian, các việc của sĩ phu, đó là mua bán, làm nông, quan lại cai trị, viết vẽ toán số, xem bói, ấn phong, mỗi mỗi đều có quả sinh, đó gọi là quả sĩ phu.
Nhãn thức là quả tăng thượng của nhãn căn, cho đến ý thức là quả tăng thượng của ý căn, sinh lý không hoại đó là quả tăng thượng của mạng căn. Tất cả hai mươi hai căn đều làm tăng thượng, đều có quả sinh, phải biết đều là quả tăng thượng. Hai mươi hai căn nầy, về tăng thượng như nơi xứ Nhiếp sự đã nói. Bồ-tát như vậy biết Đức Phật hiển bày chánh nhân quả xong, đối với xứ phi xứ thì chủng tánh trí lực sẽ lần lượt tu tập, thanh tịnh tăng trưởng, chẳng phải không tạo tác khác tạo tác mà có được sự thành thục, cũng không phải nghiệp tự tạo tác, trải qua nhiều kiếp mà mất. Người tạo không mất, không tạo tác không thọ nhận. Phật đã hiển bày như vậy, Bồ-tát biết như thật về chủng tánh nơi trí lực, của tự nghiệp rồi, thứ tự tu tập, thanh tịnh tăng trưởng.
Thế nào là Bồ-tát cầu nghe pháp? Là Bồ-tát trụ ân cần cung kính cầu thuyết pháp thiện, ngữ pháp thiện, như thế lược nói, cầu thiện thuyết pháp trụ siêng năng cung kính trụ. Nếu Bồ-tát được nghe một thuyết pháp thiện, dù đường đi đến là đường ác, đại địa bị thiêu đốt, vẫn hãy còn hoan hỷ, từ trong đó vượt qua huống chi là nghe nhiều. Được nghe pháp một lần, hãy còn không luyến tiếc thân mạng luôn được yêu quý, huống gì là các tài sản khác. Một lần nghe thuyết pháp mà yêu thích cung kính, so với sự kính mến ở trước gấp trăm ngàn vạn lần, cho đến toán số ví dụ cũng không so sánh được. Nghĩa là nghe thuyết pháp thiện, tâm không chán đủ, tăng trưởng tịnh tín, thân kia êm dịu, tâm chính trực, thấy biết ngay thẳng, vui thích công đức sâu xa. Đến chỗ thuyết pháp tâm không trở ngại, cung kính trừ "mạn", chỉ cầu chánh pháp, không cầu danh xưng, vì mình và người mà tu các thiện căn, không vì lợi dưỡng. Đến chỗ thuyết pháp, nghe pháp với tâm không nhiễm ô, tâm không tán loạn. Tâm không nhiễm khi nghe pháp nghĩa là xa lìa phiền não tự cao, xa lìa phiền não như tưởng xem thường, tưởng hạ thấp. Có bảy hành xa lìa phiền não cao ngạo: Một là thường nghe. Hai là muốn lãnh thọ. Ba là nghe ngay. Bốn là cung kính mà nghe. Năm là không đùa giỡn. Sáu là tùy thuận. Bảy là không tìm cầu lỗi lầm.
Bảy hành như vậy sẽ xa lìa phiền não cao ngạo. Có bốn hành xa lìa phiền não nơi tưởng xem thường: Một là cung kính pháp. Hai là cung kính người thuyết pháp. Ba là không xem nhẹ pháp. Bốn là không coi thường người thuyết pháp. Bốn hành như vậy sẽ xa lìa phiền não nơi tưởng xem thường. Một hành xa lìa phiền não nơi tưởng hạ thấp, đó là nghe nhận chánh pháp, không tự xem nhẹ việc nghe pháp. Dùng một hành nầy là xa lìa phiền não nơi tưởng hạ thấp. Xa lìa những lỗi như thế, để nghe nhận chánh pháp, đó gọi là Bồ-tát tâm không nhiễm khi nghe pháp.
Thế nào là tâm không loạn khi nghe pháp? Có bốn hành: Một là nhất tâm. Hai là nghiêng mình mà nghe. Ba là định ý. Bốn là hết mực chuyên chú vui thích nghe nhận chánh pháp. Đó gọi là Bồ-tát cầu nghe pháp.
Bồ-tát vì lý do nào mà cầu nghe pháp? Bồ-tát cầu Phật thuyết pháp, vì lãnh thọ chánh pháp, sau mới hướng đến chánh pháp, vì người khác giảng nói rộng.
Bồ-tát cầu Nhân luận là muốn biết chỗ sai lầm của luận kia, muốn hàng phục luận khác. Người chưa tin pháp Phật khiến sinh niềm tin, người sinh niềm tin rồi khiến thêm rộng lớn.
Bồ-tát cầu Thanh luận là rộng vì chúng sinh diễn nói lời chân chánh khiến họ ưa thích, vì làm trang nghiêm ý vị của từ, cú, ở trong một nghĩa được trang nghiêm với nhiều thứ ngôn từ.
Bồ-tát cầu Y phương luận là vì nhằm trừ các thứ bệnh cho chúng sinh, thâu nhận đại chúng. Bồ-tát cầu trí công nghiệp xứ của thế gian, vì ít phương tiện mà thâu hoạch được nhiều của cải tạo lợi ích cho vô lượng chúng sinh. Vì dạy cho chúng sinh đủ các thứ sự nghiệp, nên Bồ-tát cầu năm minh xứ như thế. Vì Bồ-đề vô thượng, đại trí rốt ráo viên mãn, chẳng phải không theo thứ lớp, học tất cả pháp để đắc trí hết thảy không chướng ngại, đó gọi là Bồ-tát đã tìm cầu theo như chỗ tìm cầu mà làm.
Bồ-tát vì người mà giảng nói là giảng nói cái gì? Giảng nói như thế nào? Vì lý do gì mà giảng nói? Bồ-tát như pháp đã cầu, như pháp ấy nói, như nghĩa đã cầu nghĩa, như nghĩa ấy nói. Vì hai lý do nên giảng nói, một là tùy thuận thuyết, hai là thanh tịnh thuyết. Tùy thuận thuyết là trụ nơi oai nghi như pháp mà thuyết giảng, không phải không như pháp, không vì người không bệnh ngồi ở chỗ cao mà thuyết giảng. Người che đầu, người đi trước, đều không vì họ mà giảng nói, như nơi kinh đã nói rộng. Vì sao? Vì chư Phật, Bồ-tát tự cung kính pháp, do cung kính pháp nên khiến cho các chúng sinh phát khởi sự cung kính sâu xa, nghe rồi thì phụng trì không khởi khinh mạn. Giảng nói tất cả, giảng nói không gián đoạn, không keo kiệt đối với pháp, không làm vị thầy mỏi chán, theo thứ tự nơi cú vị mà nói, theo thứ tự nơi cú vị mà lãnh thọ, theo thứ tự phân biệt mà nói về nghĩa lợi ích và pháp lợi ích. Đối với các thứ nghĩa lợi ích, chỉ bày điều cần chỉ bày, trao truyền điều đáng trao truyền, soi tỏ chỗ đáng soi tỏ, vui mừng việc đáng vui mừng, hiện trí, tỷ trí, nghe đầy đủ từ thầy, lại vì người mà giảng nói, luôn suy lường, nghe đầy đủ để thuận hướng về nẻo thiện, không giảng nói tạp loạn, phải khéo giảng nói, không nói ẩn giấu, theo sự thích hợp của mọi người vì họ giảng nói rộng, như nói bốn Thánh đế.
Mười lăm thứ nầy, Bồ-tát vì khắp chúng sinh tùy thuận khéo giảng nói, tất cả đều là lợi người, cần phải biết.
Lại nữa, Bồ-tát đối với người không tạo lợi ích cho mình nên trụ trong tâm từ mà giảng nói. Với hành giả nơi nẻo ác thì trụ trong tâm an ổn mà giảng nói. Với chúng sinh khổ, vui, buông lung, nghèo thiếu, trụ trong tâm an lạc, thương xót mà giảng nói. Không do ganh ghét trói buộc để tự khen ngợi mình, chê bai người, lìa tâm tham chấp, không cầu danh lợi, vì người thuyết pháp. Năm thứ như vậy là Bồ-tát thanh tịnh nói pháp. Trước sau lược nói có hai mươi thứ: Một là thời. Hai là đốn. Ba là thứ lớp. Bốn là tương tục. Năm là nhẫn nại. Sáu là hoan hỷ. Bảy là dục. Tám là vui. Chín là mừng. Mười là không chê bai. Mười một là ứng hợp. Mười hai là văn tự đầy đủ. Mười ba là không xen tạp. Mười bốn là như pháp. Mười lăm là tùy chúng. Mười sáu là tâm từ. Mười bảy là tâm an. Mười tám là tâm thương xót. Mười chín là không tự khen mà chê người. Hai mươi là không nương vào danh lợi. Đó gọi là Bồ-tát vì người thuyết pháp.
Thế nào là Bồ-tát pháp tiếp pháp hướng? Lược nói có năm thứ: Như pháp mong cầu, như pháp đã thâu giữ, thân, khẩu, ý tùy chuyển, chánh tư và tu. Hoặc pháp nầy Đức Thế Tôn cấm thân khẩu ý làm, hoặc nghe cho thân, khẩu, ý làm, đối với nghiệp thân, khẩu, ý kia, như vậy là nên xa lìa, như vậy là nên tu tập, thân, khẩu, ý tùy chuyển, đấy gọi là pháp tiếp pháp hướng.
Chánh "tư" là Bồ-tát một mình ở chỗ thanh tịnh, như pháp đã nghe, tư duy, lượng tính, quán xét, trước hết xa lìa chỗ không tư lượng, tư lượng đối với pháp, siêng tư duy nhanh chóng, thường tư duy, tư duy nhanh, phương tiện không dừng. Bồ-tát đầy đủ chánh tư, đầy đủ hành tùy thuận nhập, có chỗ xả bỏ, dựa vào nghĩa, không dựa vào vị, nói tối nói sáng, Bồ-tát đều nhận biết như thật. Trước hết suy xét người nên nhập, người đã nhập rồi, luôn luôn tư duy. Bồ-tát lìa chỗ không tư lượng nghĩa là không theo tâm ngu, tâm loạn, mà siêng tư duy, thường tư duy nhanh chóng tư.
Phương tiện không dừng là với người chưa hiểu nghĩa, khiến được hiểu, hiểu nghĩa rồi khiến không quên mất. Đầy đủ là có chỗ nhập, chỗ hành, không do người khác, có khả năng quán xét đầy đủ. Có chỗ xả là nếu biết các pháp không phải là cảnh giới kia, thì nên tự nghĩ: Cảnh giới này Đức Phật vốn biết không phải là cảnh giới của ta, như vậy là không phỉ báng, tự không có tội lỗi. Bồ-tát dựa vào nghĩa không dựa vào vị là khéo hội nhập lời nói ẩn mật của Như Lai. Khéo biết về thuyết giảng ngầm, rõ nghĩa là đối với nghĩa chân thật, không hề dao động.
Bồ-tát khi mới nhập chánh tư, trước chưa đắc nhẫn, nay đã đắc nhẫn, đã đắc nhẫn rồi, vững chắc tùy thuận nhập vào tu tuệ. Tám thứ như vậy thuộc về chánh tư của Bồ-tát. Người tu pháp tiếp pháp hướng, lược nêu có bốn thứ: Một là chỉ. Hai là quán. Ba là tu tập chỉ quán. Bốn là vui trụ chỉ quán. Chỉ nghĩa là tám thứ chánh tư của Bồ-tát, khéo chánh chân thật, thuyết pháp lìa ngôn từ, hoặc sự hoặc lý, buộc tâm trong duyên, xa lìa tất cả hư giả, nóng vội, và các sự nghĩ nhớ. Trong duyên giải thoát, buộc tâm an lập nơi tướng Tam-muội, nói rộng cho đến nhất tâm, đấy gọi là chỉ.
Quán nghĩa là chỉ kia luôn huân tu, nhớ nghĩ tư duy, như chánh tư duy nơi pháp tướng, ghi nhớ chọn lựa, cho đến "Minh-tuệ", đấy gọi là quán.
Tu chỉ quán nghĩa là nếu hành chỉ quán, thường tu phương tiện, chóng tu phương tiện, đấy gọi là tu tập chỉ quán. Vui trụ chỉ quán là nơi các tướng của chỉ quán, tâm trụ bất động, phương tiện bất động, có thể tự quán sát, ở nơi tâm đã thâu nhận không tán loạn, đấy gọi là vui trụ chỉ quán. Bồ-tát như vậy như vậy tu tập chỉ quán, như vậy như vậy ưa trụ chỉ quán, như vậy như vậy chỉ quán thanh tịnh, như vậy như vậy thân tâm khinh an dần dần tăng trưởng, như vậy như vậy quán thanh tịnh, như vậy như vậy tri kiến rộng thêm, như vậy như vậy hành tập. Người tu tuệ thân tâm lìa ác, biết được tất cả tri kiến thanh tịnh. Tất cả nghiệp tu tuệ đều từ bốn thứ tu như vậy sinh khởi.
Vì sao gọi là chánh giáo thọ? Lược nói có tám thứ chánh giáo thọ. Bồ-tát nương nơi Tam-ma-đề, dạy người tu hành, tâm không để sót. Bồ-tát dạy người, tức tự giáo thọ, như đối với các pháp Phật, trước phải biết bốn thứ cầu: Một là cầu tâm biết cầu tâm. Hai là cầu căn biết cầu căn. Ba là cầu hy vọng biết cầu hy vọng. Bốn là cầu sử biết cầu sử. Năm là tùy theo chỗ thích hợp dùng các loại môn độ mà độ thoát, đó là bất tịnh, tâm từ, phân biệt duyên khởi giới, niệm an-na-bát-na. Đấy gọi là tùy theo môn độ thích hợp mà độ thoát. Sáu là chấp biên thường, để đối trị nên nói trung đạo. Bảy là chấp biên đoạn, để đối trị nói trung đạo. Tám là trừ tăng thượng mạn không làm cho là làm, tăng thượng mạn không đắc cho là đắc, không xúc cho là xúc, không chứng cho là chứng. Tám thứ giáo thọ kia lược nói có ba chỗ thâu giữ. Ba chỗ nghĩa là trước tâm chưa trú, khiến buộc niệm trong duyên, tâm đã trú rồi, khiến được tự nghĩa, là đạo của chánh phương tiện. Người chưa rốt ráo khiến trụ trong xả, biết căn tâm kia hy vọng, kiết sử ấy tùy sự thích hợp với môn độ mà độ thoát, khiến tâm chánh trụ, buộc niệm trong duyên. Việc chấp đoạn, thường, để đối trị nên giảng nói trung đạo, khiến người trụ tâm thành tựu tự nghĩa, là đạo của chánh phương tiện. Tăng thượng mạn không làm cho là làm, cho đến tăng thượng mạn không chứng cho là; chứng, người chưa rốt ráo thì khiến trụ trong xả. Ba việc như vậy, gồm thâu tám thứ giáo thọ. Như vậy, Bồ-tát lãnh thọ sự chỉ dạy từ người khác, truyền trao cho người xong, tám lực chủng tánh thanh tịnh tăng trưởng. Đó là: Trí lực thiền định, giải thoát, Tam-muội, chánh thọ. Trí lực của các căn lợi độn, trí lực của vô số hành giải, trí lực của vô số giới, trí lực hết thảy chí xứ đạo, trí lực túc mạng, trí lực sinh tử và trí lực lậu tận.
Thế nào gọi là giáo giới? Lược nói có năm thứ: Một là ngăn cấm hành giả có tội. Hai là hành giả vô tội thì đồng ý. Ba là hoặc cấm hoặc chấp thuận, người có thiếu giảm, như pháp nêu lên. Bốn là người luôn luôn vi phạm thì điều phục cho nhớ nghĩ. Năm là không vẩn đục, không biến hoại, thuần tịnh, chánh hướng, hoặc cấm, hoặc nghe pháp, công đức chân thật, thương mến, nhớ nghĩ, khen ngợi, khiến hoan hỷ, đó gọi là lược nói về năm việc giáo của giới Bồ-tát. Đó là: Hoặc cấm hoặc chấp thuận, hoặc nêu lên, hoặc điều phục, hoặc hoan hỷ. Thế nào là Bồ-tát gồm thâu phương tiện nơi thân, khẩu, ý nghiệp? Lược nói Bồ-tát có bốn nhiếp sự, gọi là phương tiện. Như Đức Thế Tôn nói: Bốn nhiếp sự, gọi là phương tiện. Lược nêu bốn thứ phương tiện để điều phục chúng sinh, thâu giữ chúng sinh không có gì hơn. Một là tùy nhiếp phương tiện. Hai là nhiếp phương tiện. Ba là độ phương tiện. Bốn là tùy thuận phương tiện. Bồ-tát dùng các thứ tài thí, theo đó mà thâu phục chúng sinh, để không ai là không tin thọ vâng thuận tu hành. Đấy gọi là bố thí tùy nhiếp phương tiện. Tiếp theo là thực hành ái ngữ, khiến chúng sinh ngu si xa lìa chốn tối tăm, gồm thâu đầy đủ chỉ bày. Đấy gọi là ái ngữ nhiếp phương tiện. Nhiếp đủ, chỉ bày rồi, khiến chúng sinh xả bỏ xứ bất thiện, hiểu biết nhận lãnh chỗ thiện, điều phục lạc trụ. Đấy gọi là hành lợi độ phương tiện. Bồ-tát như vậy, dùng đồng sự tùy thuận độ thoát chúng sinh, cung kính điều phục, không khởi lời: Ông tự không tín giới, tuệ thí, đa văn, làm sao chỉ dạy cho người, nêu tội, cho niệm? Đấy gọi là đồng sự tùy thuận nhiếp phương tiện. Bốn thứ nhiếp phương tiện như vậy, hoặc chung hoặc riêng đều gọi là Bồ-tát nhiếp phương tiện nơi thân, khẩu, ý nghiệp… nhiếp phục chúng sinh, điều phục thành thục.
SỐ 1581 – KINH BỒ TÁT ĐẠI TRÌ, Quyển 3 649
Lại nữa, Bồ-tát lần lượt hành trì đầy đủ sáu Ba-lamật, đắc Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, đó gọi là Bố thí Ba-la-mật, Trì giới Ba-la-mật, Nhẫn nhục Ba-lamật, Tinh tấn Ba-la-mật, Thiền định Ba-la-mật, và Trí tuệ Ba-la-mật.
Thế nào gọi là Bố thí Ba-la-mật? Lược nói có chín thứ: Một là tự tánh thí. Hai là nhất thiết thí. Ba là nan thí. Bốn là nhất thiết môn thí. Năm là thiện nhân thí. Sáu là nhất thiết hành thí. Bảy là trừ não thí. Tám là đời nầy đời khác lạc thí. Chín là thanh tịnh thí.
Tự tánh thí nghĩa là Bồ-tát luôn kết hợp đầy đủ tư nguyện và vô tham, không tiếc của cải và thân mạng, khởi nghiệp thân khẩu, xả bỏ của cải mà bố thí, như pháp xả tài, trụ nơi xứ luật nghi, thấy quả đời vị lai, đem nghĩa như vậy thí cho chúng sinh, đấy gọi là tự tánh thí.
Nhất thiết thí, lược nói có hai thứ vật bố thí: Một là nội vật. Hai là ngoại vật. Bồ-tát xả bỏ thân mạng, gọi là nội thí. Nếu Bồ-tát được thức ăn nôn ra cho chúng sinh, ăn rồi nôn ra để bố thí, đó gọi là nội ngoại thí. Trừ những thứ trên đã nói, đấy gọi là ngoại thí. Bồ-tát nội thí lại có hai thứ: Một là theo chỗ mong muốn mà làm, tha lực tự tại, xả thân bố thí. Ví như có người vì cơm áo nên lệ thuộc người khác, làm kẻ giúp việc cho người khác. Bồ-tát như vậy, không vì lợi dưỡng, chỉ vì Bồ-đề vô thượng, vì sự an lạc cho chúng sinh, vì hành đầy đủ bố thí Ba-lamật, là tùy việc muốn làm, tha lực tự tại, xả thân bố thí. Hai là tùy theo chỗ người cần, như đầu mắt, tay chân, các chi tiết như máu, thịt, gân, xương, cho đến tủy, não, theo sự mong cầu của họ tất cả đều ban cho. Bồ-tát ngoại thí lại có hai thứ: Một là theo sự cầu xin của kẻ kia, thọ dụng sự an vui đầy đủ, hoan hỷ ban cho. Hai là để phụng sự kẻ cầu xin nên tâm xả tất cả, bố thí tất cả.
Bồ-tát đối với nội ngoại vật chẳng phải là không sai khác, bình đẳng bố thí cho tất cả, hoặc có chỗ thí, hoặc có chỗ không thí. Nếu đối với chúng sinh vui thích nhưng không an ổn, không vui và không an, thì không thí cho. Nếu đối với chúng sinh an ổn nhưng không vui thích, cũng an ổn, cũng vui thích, thì tất cả đều thí cho. Như thế là lược nói về nên thí, không nên thí, tiếp theo sẽ nói rộng. Nếu Bồ-tát bố thí khiến người thọ khổ, hoặc đến nỗi bức bách, hoặc bị xâm phạm, dối lừa và phi pháp, cầu tự lực, tha lực thì không thuận theo chỗ mong muốn. Bồ-tát luôn vì chúng sinh, thà tự xả bỏ trăm ngàn thân mạng, chứ không thuận theo sự mong muốn kia khiến họ phải chịu bức bách, tàn hại, xâm phạm, dối lừa. Bồ-tát tâm tịnh, tu hành bố thí, lúc tạo lợi ích cho vô lượng các chúng sinh, nếu có kẻ mong cầu về thân thể, như đầu, mắt, các chi tiết thì không thí cho. Vì sao? Vì chẳng phải là lúc Bồ-tát hành tịnh thí, khởi niệm: Đây là đáng cho, hoặc đây là không đáng cho, tâm sinh thối, kém, vì thế nên Bồ-tát dùng tâm thanh tịnh, không xả bỏ hiện tiền, vì lợi ích cho chúng sinh xả thân bố thí, dù không xả thân, cũng không trái tâm tịnh. Nếu ma thiên kia và những kẻ do ma sai khiến, muốn hành khủng bố để cầu các phần thân, thì không ban cho, vì không muốn họ mắc phải tội lớn. Hoặc có chúng sinh, hoặc cuồng hoặc loạn cầu xin phần thân, cũng không vì kẻ ấy mà xả thân mạng, vì tâm không tự trụ, vì tâm não loạn, do tâm không tự tại. Trái ngược với như trên đến cầu xin, nên tùy theo kẻ đó mong muốn mà xả bỏ thân mạng, đó gọi là Bồ-tát đối với nội vật nên thí, không nên thí.
Bồ-tát đối với ngoại vật không thí nghĩa là nếu có chúng sinh, tìm cầu độc dữ nơi lửa, đao, rượu, vì muốn tự hại mình, hoặc muốn hại người khác, thì không cho. Nếu để tự giữ mình, hoặc để thâu giữ người, thì sẽ ban cho. Hoặc là tài sản của người, trước không đồng ý, không đem bố thí cho người. Bồ-tát không làm môi giới đem đây trao cho kia, đồ ăn uống có sâu bọ đều không đem cho. Nếu có chúng sinh, vì muốn làm các trò vui đùa vô nghĩa không lợi ích, lại đến cầu xin, thì Bồ-tát không cho. Vì sao? Nếu bố thí cho, đối với Bồ-tát tuy họ ít hoan hỷ, nhưng lại khởi nhiều hành ác, khi thân hoại mạng chung sẽ rơi vào đường ác. Nếu vật dụng tạo vui thích, không rơi vào nẻo ác, không khởi thiện căn, nhưng khiến cho chúng sinh nhân đấy mà thành thục để thâu giữ, như thế thì nên cho. Cái gì nên cho, cái gì không nên cho? Đó là tạo việc săn bắt, sát sinh, tham chấp rất lớn, tạo phương tiện lớn giết nhiều chúng sinh, những điều như vậy Bồ-tát không làm, cũng không dạy bảo họ làm. Giết dê tế trời, cũng không ban cho. Người não hại chúng sinh đến cầu xin chỗ có nhiều chúng sinh ở dưới nước hay trên đất liền, thảy đều không ban cho. Muốn học làm lờ, lưới, các vật dụng để não hại chúng sinh ở thế gian, cũng không ban cho. Hoặc mắng, hoặc giết, hoặc trói, hoặc phạt, cũng không tự làm, cũng không bảo người làm, là oan gia, hoặc là con của oan gia, đều không thí cho. Nói tóm tắt tất cả các vật dụng nhằm bức bách chúng sinh để được vui thích, đều không thí cho.
Hoặc lại các thứ như xe, voi, ngựa, y phục trang nghiêm, đồ ăn đồ uống ngon ngọt đầy đủ, hành tập ca múa với vô số các thứ vật dụng, hương hoa xoa thân, đồ quý trang sức nơi thân thể, vườn rừng, lầu gác, nhà cửa nam nữ, các thứ kỹ thuật, xứ nghiệp công xảo, như vậy tất cả các vật dụng tạo sự vui đùa thích thú, nhưng vì nhân duyên tin, ưa mà đến cầu xin, tất cả đều cho. Nếu chúng sinh không tự biết hạn lượng, không phải vì bệnh mà đòi hỏi đủ các thức ăn uống thì không thí cho. Nếu đã ăn no, tánh tham muốn được nữa, cũng không thí cho. Nếu có chúng sinh không thể chịu đựng sự lo buồn, muốn tự sát, ăn đồ độc, gieo mình vào núi đá, để làm những việc như vậy mà đến cầu xin, đều không thí cho. Nếu Bồ-tát làm vua, thống lãnh nhiều nước, không đem vợ con của người khác thí cho, trừ việc thu thuế nơi dân chúng, làng xóm thành ấp, thuộc về của mình, thì lấy ban cho. Bồ-tát thương yêu vợ con, người ăn kẻ ở, nếu phải ban cho người khác, khi ấy trước phải dùng lời dịu dàng, phương tiện khai dụ, nếu họ không ưa thích thì không ban cho, nếu ưa thích thì tùy theo chỗ thích hợp mà ban cho. Nếu có những tri thức ác, người ác, quỷ ác, những loại như vậy đến cầu xin, thảy đều không ban cho, cũng không thí cho những kẻ kia khiến làm nô tỳ. Nếu có người ác đến cầu ngôi vua, thì không ban cho. Hoặc người ác nầy trước đã làm vua, Bồ-tát có uy lực thì phế bỏ thoái ngôi. Cha mẹ, vợ con, nô tỳ, của cải, không đem cho người. Nếu do nơi bố thí mà cha mẹ lo buồn, vợ con tôi tớ nhân đó khổ não, những sự bố thí như vậy, Bồ-tát không làm. Của cải phi pháp không đem cho người, phàm vật bố thí phải thanh tịnh như pháp, không bức ép, mắng trách, lấy của cải của người để làm bố thí, không phạm giới Phật dạy mà thực hành bố thí.
Bồ-tát đối với tất cả chúng sinh, đem tâm bình đẳng bố thí, tạo các tưởng về ruộng phước, cũng không phân biệt người oán, kẻ thân, kẻ không oán không thân, tạo công đức hay gây tội lỗi, là khổ, là vui, là hạng thượng, trung, hạ.
Bồ-tát không như chỗ cầu xin, chấp nhận rồi, sau đem cho một ít, cũng không trước chấp nhận cho vật tốt, sau cho vật thô xấu. Nếu cho vật tốt, tâm vẫn an vui, không hận không loạn. Bồ-tát cho rồi không nên tự khen ngợi là ta đối với ông, ân huệ rộng lớn. Nếu cho người thấp kém, không khởi tưởng khinh khi, huống chi mình lại có đức của bậc đáng cung kính. Nếu có chúng sinh trụ các hành ác, dao động, hủy giới, mắng nhiếc, sân hận, cũng không sinh tâm bực bội hối hận vì đã ban cho, vì mới ở chỗ kia khởi tâm thương xót. Không đem tà kiến mà hành bố thí. Đó là đại hội sát sinh cầu pháp. Không vì hội vui mừng hiếm có mà hành bố thí. Không vì để thanh tịnh tất cả phần hành mà hành bố thí mong cầu lìa dục thế gian, xuất thế gian thanh tịnh, trừ khi vì phương tiện thanh tịnh mà hành bố thí. Không cầu quả báo mà hành bố thí. Tất cả bố thí đều đem hồi hướng về đạo quả Bồ-đề vô thượng. Bồ-tát tự biết, tất cả nhân duyên của các loại thí sẽ sinh tất cả loại quả báo như thật. Không do nơi người khác mà hành bố thí. Đó là bố thí thức ăn thì được sức lực, thí y phục thì được sắc, bố thí xe cộ thì được an vui, bố thí đèn thì được mắt sáng. Như vậy tất cả phải nên nói rộng.
Bồ-tát cũng không phải do sợ nghèo khổ mà hành bố thí, chỉ do tâm từ bi mà hành bố thí. Bồ-tát cũng không đem thức ăn không đúng như pháp bố thí để cho người đến cầu xin. Đó là bố thí cho người xuất gia thức ăn uống dư thừa, các thứ thức ăn bị ô uế do đại tiểu tiện, đàm dãi, máu mủ v.v… Không nói, không biết về cơm và cơm lúa mạch. Pháp nên lìa bỏ, nghĩa là không ăn hành những thứ có lẫn lộn hành, hành bị ô uế. Như thế cũng không ăn thịt, không uống rượu, các thứ nước có pha rượu, rượu bị ô uế. Trừ nghiệp như pháp hòa hợp, Bồ-tát đem thí cho người, tất cả những việc như vậy, nếu không như pháp bố thí thì không đem thí cho người. Bồ-tát không để cho người cầu xin phải luôn lui tới sinh phiền não vì trở ngại, sau đó mới thí. Bồ-tát không vì được dua nịnh mà hành bố thí. Đó là hoặc vua, đại thần, trưởng giả, cư sĩ, những vị đàn việt nầy biết ta đã thí rồi, chắc chắn phải cung kính cúng dường ta. Không đòi hỏi kẻ khác làm người sai khiến mới bố thí. Có ít vật hãy còn bố thí, huống gì là được nhiều của cải. Không do bố thí để khởi tâm tham đắm vật của người khác, vì thế sinh hoạn nạn đến nỗi bị tiêu diệt. Không vì bố thí khiến người xa lìa thành ấp. Đó là dùng bố thí thâu giữ khiến kẻ kia lệ thuộc mình. Bồ-tát trí tuệ, tinh tấn không dừng, có khả năng thực hiện đầy đủ lời tự thệ trang nghiêm, trước tự hành bố thí, sau đó dạy người khác, không tự mình biếng nhác mà dạy người thực hành bố thí. Đối với tất cả đại hội trì giới, phạm giới, từ trên đến dưới lần lượt bình đẳng bố thí. Bồ-tát được của cải nhiều hay ít tùy theo đó mà xả, không đợi dồn chứa, sau đó mới thực hành bố thí, không vì sợ người mà hành bố thí. Đó là hoặc sân giận, hoặc đánh đập, hoặc trách mắng, hoặc chê bai, hoặc trói, giết, đuổi đi, không sợ những thứ như vậy mà hành bố thí. Bồ-tát lúc sắp bố thì tâm vui vẻ, khi bố thí thì hoan hỷ, bố thí rồi thì không hối hận, không đem những vật hư giả, tương tự ma ni, trân châu, kha bối, ngọc thạch, lưu ly, san hô để lừa gạt người.
Bồ-tát đối với tất cả của cải vật dụng mình có được, khi mới có nên phát tâm xả ngay cho tất cả chúng sinh, về sau có người đến cầu xin vật thì Bồ-tát bố thí đúng lúc, chẳng phải không đúng lúc bố thí, mình và người đều tịnh thí, chẳng phải là không thanh tịnh, thí như oai nghi, chẳng phải là không oai nghi, tâm quyết định bố thí, chẳng phải là tâm không quyết định. Thấy người đến xin trọn không cười đùa, cũng không khinh chê, cũng không bực bội, trước nói lời khen ngợi sau đó thí cho, khi cầu xin thích hợp không gây trở ngại, nếu kẻ kia không cầu xin thì mở lòng tự cho, nếu kẻ kia tự đến thọ nhận thì tùy ý thí theo chỗ họ mong muốn.
Bồ-tát không đem trí ác mà hành bố thí, phải đem trí thiện tu hành nghiệp thí.
Trí tuệ thí nghĩa là Bồ-tát tự lượng tài vật nhiều hay ít, tùy theo sự thích hợp của kẻ cầu xin kia mà hành tuệ thí, thấy người đến xin liền khởi niệm: Người đến cầu xin có hai hạng người: Một là người giàu sang không phải người nghèo hèn, cũng không phải người cô độc không có chỗ nương tựa. Hai là người nghèo khổ, cô độc thấp kém. Nếu ta nhiều tài sản, thì sẽ giúp cho các kẻ kia đầy đủ, nếu tài sản ít, thì trước sẽ chu cấp cho người nghèo khổ thấp kém không nơi nương tựa. Khởi niệm rồi, như niệm mà ban cho. Đối với người giàu sang không thỏa mãn ý của họ, phải hết lòng nói lời nhận lỗi, xin nhân giả chớ sinh tâm giận.
Nếu thấy chúng sinh tham lam keo kiệt có tài sản vô lượng, tự rất quý thân nhưng không dám ăn mặc, Bồ-tát nên đến chỗ của kẻ kia cùng làm thân hữu, cùng khiến cho kẻ ấy đồng ý mà nói: Ông vì quá tham tiếc nên không thể bố thí. Nhà tôi có đến vô lượng tài sản, muốn thực hành đầy đủ bố thí Ba-la-mật, khắp vì tất cả chúng sinh đến cầu xin. Như có chúng sinh đến cầu xin ở ông, thì ông nên tới nhà tôi lấy của cải sẵn có để bố thí, chớ khiến họ trở về tay không. Nếu không tự đến được thì có thể sai người đến, khi tôi bố thí, ông nên tùy hỷ. Người kia nghe rồi lòng thật vui mừng, đối với mình không hao tổn mà người kia nhận được lợi ích. Do cùng Bồ-tát đồng gần gũi thân ái, nay tuy chưa thể tức thời hành bố thí, nhưng đã gieo trồng hạt giống xa lìa tham lam keo kiệt ở đời sau, theo đó lần lượt tu tập, tự biết là nguồn gốc.
Dùng phương tiện thiện xảo, dạy bảo khiến bố thí một ít, nương vào hạng vô tham bậc hạ chỉ dạy khiến đến bậc trung, nương vào bậc trung chỉ dạy khiến đến bậc thượng.
Lại nữa, Bồ-tát nếu đối với Hòa-thượng, A-xà-lê, hoặc đệ tử ở chung, đệ tử cận trụ tu phạm hạnh thanh tịnh, tánh thọ tham lam keo kiệt, hoặc không tham lam keo kiệt, nhưng tài vật không đủ để hỗ trợ cho tâm bố thí. Bồ-tát đem tài vật của mình hướng đến Phật, Pháp, Tăng, nhằm bố thí làm phước, xả bỏ, đem cho người kia, khiến họ tạo tác còn tự mình không làm. Bồ-tát như vậy phước đức càng tăng, khiến người tham lam keo kiệt hàng phục được phiền não. Kẻ thích tu pháp ấy cũng đủ nơi nguyện, như vậy là đã thâu nhiếp thành thục được chúng sinh.
Lại nữa, Bồ-tát thấy người đến, có tướng cầu xin, biết tâm của họ như vậy rồi, không chờ phát lời mà tùy theo người kia cần gì, bố thí cho họ được đầy đủ.
Nếu khi có người buôn bán lừa gạt người khác, Bồ-tát thấy biết nhưng che giấu không nói. Kẻ kia tạo ra những hành ác lường gạt người khác hãy còn được che giấu (?) huống chi lại là tự thân (?). (Đoạn nầy không biết nói gì, theo nguyên văn bản Hán)
Muốn thỏa mãn mong nguyện kia, nên tùy ý đem cho của cải, kẻ kia không bị hổ thẹn rồi còn hoan hỷ, không lo sợ còn vui vẻ mà đi.
Nếu Bồ-tát bị người buôn bán kia lừa dối, trước không hiểu biết nên bị lừa, sau rồi mới biết, cũng không trách kẻ kia không khiến kẻ kia nhớ nghĩ, không muốn khiến kẻ kia phạm tội không cho mà nhận lấy, nên khởi tâm tùy hỷ. Những loại xả vật bố thí như thế, gọi là Bồ-tát trí tuệ bố thí.
Lại nữa, Bồ-tát khi không có của cải bố thí, nếu trước đã tạo ra các thứ công xảo ở thế gian, hoặc với sự nghiệp hiện tại, dùng ít phương tiện để được nhiều tài lợi, thì dùng đem bố thí cho chúng sinh. Nếu lại vì người khác mà thuyết pháp trang nghiêm, thuyết pháp tốt đẹp, thuyết pháp với tâm từ, thì người nghèo khổ nghe pháp còn hoan hỷ cúng dường, huống gì là người giàu có an vui, người keo kiệt không tham tiếc; huống gì là người thường ưa bố thí. Nếu có những trưởng giả, cư sĩ tín tâm, thường tu tập hạnh bố thí, của cải nhiều vô lượng, người cầu xin tìm đến thì khiến cho họ được lợi ích. Việc hành thí, việc tạo công đức của các vị kia, tự thân Bồ-tát đến giúp đỡ, có thể nhận lãnh đủ với tín tâm, nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh, tùy theo sức của mình, Bồ-tát có thể giúp họ kinh doanh quản lý, khiến không gặp trở ngại. Với người cầu xin đông đủ, nếu thiếu sự, lực, thì việc bố thí khó thành. Nếu tùy theo bè nhóm, hoặc hành phi pháp, mất chánh niệm, những thứ như vậy, nếu Bồ-tát không có tài sản vật dụng, thì dùng trí tuệ ban cho, cho đến chưa được tâm tịnh. Bồ-tát tâm tịnh thì không đọa vào đường ác, đời đời được tài vật không cùng tận.
Lại nữa, Bồ-tát biết kẻ tà kiến cầu xin pháp đoản (pháp thiếu kém) thì không trao pháp cho kẻ đó, không cho kinh sách. Nếu người có tánh tham tài, mua bán kinh sách, thì cũng không thí cho. Hoặc được kinh sách ẩn tàng không hiện bày, thì nếu người kia không có sự hiểu biết về nghĩa, thì không thí cho, còn như người ấy hiểu nghĩa trong kinh, như Bồ-tát đã tự hiểu nghĩa, thì liền đem kinh tùy theo sở thích của họ mà thí cho. Nếu chưa hiểu nghĩa, tự phải tu học. Nếu biết người kia có kinh như vậy, thì chỉ bày từ ngữ cho rõ nghĩa, hoặc lần lượt cho thêm sách đọc. Nếu không chỉ bày được lại không có sách, Bồ-tát phải tự quán tâm để thấy hoặc do sự keo kiệt về pháp đã trói buộc tâm, nên không thể bố thí, hoặc còn có điều gì nên không bố thí cho kẻ kia được? Tự quán như vậy rồi, nếu còn chút ít sự keo kiệt về pháp, nên đem ngay kinh sách mà cho, vì là pháp thí, ta đem pháp bố thí, thà đời nầy ngu si, câm điếc để trừ phiền não, cũng hãy nên bố thí, huống chi đó lại là phương tiện của trí tuệ cho vị lai. Khi quán như vậy, không còn một chút keo kiệt nào về pháp, Bồ-tát phải nên tự học: Ta vì đoạn trừ phiền não nên tu hành pháp thí. Vì nhằm đạt đầy đủ phương tiện của trí tuệ nên tu hành pháp thí. Vì thương nhớ chúng sinh nên tu hành pháp thí. Bồ-tát tự thấy bên trong không còn phiền não, thấy kẻ kia không cần sự bố thí, hiện tại được trí tuệ, ở đời vị lai tăng chuyển vô lượng, chẳng phải thí cho kẻ kia mà được công đức như vậy. Người thí kinh pháp, ở đời vị lai được ít pháp lợi, không bằng tự học trí tuệ khai tỏ, nay tuy không bố thí ắt hẳn cũng sẽ tạo an lạc cho tất cả chúng sinh. Bố thí trí tuệ cho họ, nên vì tất cả nay không thí cho, không vì một người để cho họ kinh sách. Biết như thật rồi, thì việc không thí cho kẻ kia không có tội lỗi, cũng không hối hận, vì không vượt qua giới cấm của Bồ-tát đã thọ.
Thế nào là Bồ-tát theo phương tiện không bố thí? Không nhẫn lời ngay thẳng, nhất định không cho, cần dùng lời dịu dàng mở bày sự hiểu biết, phát triển, tạo phương tiện là có nhưng không thể bố thí? Bồ-tát từ xưa đến nay đã cất chứa nhiều vật dụng, tất cả của cải, vật dụng ấy đều dùng tâm thanh tịnh đối với chư Phật, Bồ-tát trong mười phương xả bỏ để làm tịnh thí, ví như Tỳkhưu đem y vật của mình ở trước Hòa-thượng, A-xà-lê, xã làm tịnh thí. Như vậy là đã tạo nhân duyên tịnh thí, được cất chứa vô lượng các loại của cải, cho nên gọi là Bồ tát trụ trong Thánh chủng, cũng được vô lượng công đức, thường tự nhớ nghĩ công đức như vậy, trong tất cả thời, luôn được tùy thuận lớn mạnh. Phàm là vật tịnh thí đã cất chứa, vì chư Phật, Bồ-tát nên nhận gởi, giữ gìn, nay thấy người đến cầu xin, quán sát người ấy có tướng thành tựu thì vật xả bỏ làm tịnh thí lúc trước, lấy đem cho họ. Chư Phật, Bồ-tát đối với chúng sinh không vật gì là không xả, làm như vậy là biết thỏa mãn ý của người cầu xin. Nếu quán sát người kia không có tướng thành tựu, thì đem pháp tịnh thí mà mở bày giải thích, nói: Nầy nhân giả! Vật ấy trước đã xả, đã có chỗ thuộc về. Lời nói dịu dàng khiến kẻ kia không đến nỗi oán hận. Hoặc đem vật khác gấp hai ba lần để bố thí, tạo phương tiện như vậy, khiến kẻ kia biết Bồ-tát không vì keo kiệt mà không bố thí, hoặc do không tự tại nên không bố thí cho mình. Kinh pháp như thế là không thí cho, Bồ-tát hành pháp thí như vậy, gọi là trí tuệ thí.
Lại nữa, Bồ-tát bố thí tất cả, đó là tài thí, pháp thí và vô úy thí. So sánh tướng mạo của từng loại hoặc danh, hoặc nghĩa, phân biệt nhân quả, biết như thật rồi mới hành bố thí, đấy gọi là trí tuệ bố thí của Bồ-tát. Lại nữa, Bồ-tát đối với người không làm cho mình có lợi ích, luôn đem tâm từ mà bố thí, đối với người khổ não dùng tâm bi để bố thí, đối với người có công đức đem tâm hỷ để bố thí, đối với người đã tạo lợi ích cho mình, các thiện tri thức, người họ hàng thì dùng tâm xả mà bố thí, đó gọi là trí tuệ bố thí của Bồ-tát.
Lại nữa, Bồ-tát có chướng thí, đối trị chướng thí đều nhận biết như thật.
Chướng thí có bốn thứ: Một là trước không tu tập. Hai là chỗ vật dùng để thí ít. Ba là của cải tuy nhiều nhưng tham ái lại tăng trưởng. Bốn là thấy quả ở đời vị lai có đầy đủ của cải nên sinh tham chấp.
Trước không tu tập bố thí nghĩa là Bồ-tát thấy người chân thật cầu xin, mình có nhiều của cải mà không sinh tâm bố thí, phải biết đó là ta không tu tập bố thí, phải nhanh chóng hành trí tuệ, tư duy: Ta xưa kia chắc chắn không tu tâm thí, khiến ngày nay tuy có nhiều của cải, thấy người đến cầu xin mà tâm bố thí không sinh khởi, nay nếu không bố thí thì trong đời sau sẽ có chướng ngại nơi bố thí. Biết như vậy rồi, nương vào đối trị chướng thí mà thực hành bố thí, tức có thể lìa bỏ chướng ngại chẳng tu tập bố thí.
Chỗ vật dùng để thí ít nghĩa là Bồ-tát thấy người chân thật đến cầu xin, vật thí còn ít nên không muốn bố thí, do đó mà thành chướng thí. Phải nhanh chóng hành trí tuệ, khởi suy nghĩ: Thà an tâm với nghèo khổ, tất phải nên bố thí. Suy nghĩ như vậy rồi, đem tâm bi mà bố thí.
Lại suy nghĩ: Ta từ xưa đến nay do nghiệp nhiều đời tạo lỗi lầm, nên người thì tự tại, còn ta đói lạnh khốn khổ, không thể làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, ta nay thà nhân đó mà mất mạng, đời nầy chịu khổ, nhưng cần phải hành bố thí, thâu giữ chúng sinh, không thể để cho người thọ nhận tâm không đầy đủ, huống gì là ngày nay ta đã có rau quả sinh sống, cần phải chịu khổ để hành bố thí.
Của cải tuy nhiều nhưng tham ái tăng trưởng, nghĩa là Bồ-tát thấy người chân thật đến cầu xin, do ý tham ái tăng thượng hết mực, nên đối với chỗ vật cần thí không sinh tâm bố thí. Lại nữa, Bồ-tát biết việc chứa giữ là có lỗi, nên chóng hành trí tuệ, khởi suy nghĩ: Ta ở trong khổ mà sinh tưởng vui, đến đời vị lai sẽ chịu khổ lớn, điên đảo như vậy làm sao biết, làm sao đoạn. Khởi suy nghĩ như vậy rồi, có thể hành bố thí.
Thấy quả ở đời sau có tài sản nhiều sinh tham đắm, nghĩa là Bồ-tát đã thực hành bố thí rồi, đối với quả của bố thí được nhiều của cải, sinh kiến chấp về phước lợi, không thể chí cầu Bồ-đề vô thượng. Bồ-tát nhận biết chấp về quả đã là tội lỗi, nên phải chóng hành trí tuệ, như thật quán xét chân chính, tất cả các hành đều không bền vững, niệm niệm hoại diệt, thọ dụng quả báo lại cũng như vậy, đều là pháp lìa tan hủy diệt. Khi quán như thế, thì đoạn được kiến chấp về quả, tất cả việc bố thí đều đem hồi hướng về Bồ-đề vô thượng. Đó gọi là Bồ-tát dùng trí tuệ đối trị bốn thứ chướng thí. Nên biết đấy là phân biệt nhẫn khổ, biết nhiếp phục điên đảo, quán các hành không bền vững, trí đối trị ba thứ ở trước, là chân chánh bố thí, trí đối trị một thứ sau là thâu nhận chánh quả. Đấy gọi là trí tuệ bố thí của Bồ-tát.
Lại nữa, Bồ-tát bên trong tâm tịnh, thuần hậu tín tịnh, tưởng giác thắng diệu, nên vô lượng vật thí, ý giải thí cho tất cả chúng sinh. Bồ-tát nầy dùng ít phương tiện nhưng sinh vô lượng công đức, nên trí tuệ Bồ-tát là đại trí tuệ thí. Đó gọi là lược nói pháp tùy thuộc của Bồ-tát có tài vật, không tài vật thí. Như thế: Pháp thí, phân biệt thí, tâm tịnh thí, trí tuệ đối trị chướng thí, bố thí với tâm tịnh, ý giải, gọi là bất cộng thí của Bồ-tát. Phải biết đó còn gọi là tất cả nội ngoại vật bố thí của Bồ-tát. Phân biệt rộng thì tất cả thí nêu trên, phải biết là loại khó thí.
Thế nào là khó bố thí của Bồ-tát? Lược nói có ba thứ: Bồ-tát có ít của cải phải tự nhẫn chịu nghèo khổ để bố thí cho người khác, đấy gọi là khó bố thí (nan thí) thứ nhất của Bồ-tát.
Hoặc Bồ-tát thật sự yêu vật, tánh ưa thích ái chấp, thói quen ái chấp đã lâu, nên tăng thêm đối với vật thí, do vậy mà khởi tham đắm tột bậc. Nhưng có thể tự khai mở hiểu biết để thí cho người khác, đó gọi là nan thí thứ hai.
Hoặc Bồ-tát siêng năng khổ nhọc đạt được của cải để đem thí cho người khác, đấy gọi là khó thí thứ ba của Bồ-tát.
Thế nào là nhất thiết môn thí của Bồ-tát? Lược nói có bốn thứ: Bồ-tát hoặc vật dụng của mình, hoặc khuyến người mà có được của cải, hoặc tự góp lại để bố thí, hoặc cha mẹ, vợ con, nô tỳ, kẻ giúp việc, hoặc thiện hữu, quan lớn, bà con, nếu họ cần gì thảy đều bố thí. Đấy gọi là lược nói bốn thứ nhất thiết môn thí của Bồ-tát.
Thế nào là thiện nhân thí của Bồ-tát? Lược nói có năm thứ. Một là Bồ-tát với tâm tín bố thí. Hai là cung kính bố thí. Ba là tự tay bố thí. Bốn là thời thí. Năm là không xâm chiếm của người mà bố thí. Đó gọi là thiện nhân thí của Bồ-tát.
Thế nào là nhất thiết hành thí của Bồ-tát? Lược nói có mười ba loại: Một là không nương dựa mà bố thí. Hai là bố thí rộng. Ba là hoan hỷ bố thí. Bốn là thường thí. Năm là ruộng phước bố thí. Sáu là tất cả thí. Bảy là tất cả xứ bố thí. Tám là tất cả thời bố thí. Chín là bố thí vật vô tội. Mười là bố thí tất cả vật. Mười một là bố thí quốc độ. Mười hai là bố thí voi ngựa… Mười ba là bố thí lương thực. Mười ba thứ như thế gọi là nhất thiết hành thí của Bồ-tát.
Thế nào là trừ não thí của Bồ-tát? Lược nói có tám thứ: Một là Bồ-tát thấy người cần thức ăn uống thì bố thí cho thức ăn uống. Hai là người cần xe cộ cho xe cộ. Ba là người cần y phục cho y phục. Bốn là người cần đồ trang sức cho đồ trang sức. Năm là người cần các loại đồ dùng thảy đều bố thí cho. Sáu là kẻ cần tràng hoa, hương bột, hương xoa, tùy theo sự mong muốn của họ mà cho. Bảy là kẻ cần nhà cửa cho nhà cửa. Tám là người cần đèn sáng thì thí cho đèn sáng. Tám thứ như vậy gọi là trừ não thí của Bồ-tát.
Thế nào là đời nầy đời khác vui thí? Lược nói có chín thứ. Nghĩa là tài thí, pháp thí, vô úy thí. Tài thí nghĩa là thanh tịnh thắng diệu, như pháp điều phục sự keo kiệt, cất chứa cấu uế để tu hành bố thí. Điều phục sự keo kiệt cấu uế, là xả tâm chấp trước. Điều phục sự cất chứa cấu uế là xả bỏ thọ dụng chấp trước.
Vô úy thí nghĩa là đối với các thứ khủng bố như: sư tử, cọp, sói, vua, giặc, nước, lửa… phải cứu giúp, khiến chúng sinh được qua khỏi.
Pháp thí nghĩa là thuyết pháp không điên đảo, thuyết pháp đầy đủ, truyền trao cho người những giới cấm. Như thế là lược nói chín thứ bố thí của Bồ-tát, khiến các chúng sinh đời nầy đời sau đều được an lạc. Tài thí và vô úy thí phân biệt thì đời nầy được an lạc, pháp thí phân biệt thì an lạc cả đời nầy lẫn đời sau.
Thế nào là thanh tịnh thí của Bồ-tát? Lược nói có mười thứ. Những gì là mười? Một là không bị trở ngại. Hai là không có kiến giải dị biệt. Ba là không cất chứa. Bốn là không có tâm kiêu ngạo. Năm là không nương dựa. Sáu là không thoái chuyển, khiếp nhược. Bảy là không có tâm thấp kém. Tám là không bội diện. Chín là không cầu ân. Mười là không cầu báo.
Thí không bị trở ngại, nghĩa là Bồ-tát đối với người đến cầu xin phải thật nhanh chóng bố thí, không gây khó khăn, kịp thời thỏa mãn ý nguyện, vượt qua sự trông mong của họ.
Bố thí không có kiến giải dị biệt, nghĩa là Bồ-tát đối với sự bố thí không khởi những nhận thức dị biệt, nói không có quả báo, không vì tổn hại chúng sinh mà bố thí, nghĩa là nói pháp ấy không bằng ở đây bố thí, cầu thế gian xuất thế gian thanh tịnh.
Bố thí không cất chứa, nghĩa là Bồ-tát không cất chứa của cải quá lâu, sau đó lại vội bố thí. Vì sao? Vì
Bồ-tát có được những vật bố thí, thấy người đến cầu xin, có thể thí cho nhưng không cho, thấy không đúng như pháp, chẳng phải là không thí cho.
Thế nào là cất chứa rồi sau mới bố thí? Cũng chẳng phải cất chứa để bố thí cho phước thêm nhiều. Vì vật thí bình đẳng, người cầu cũng bình đẳng, tiệm thí đốn thí thì do nhân duyên gì mà thấy phước được có sai khác? Lại nữa, Bồ-tát thấy cất chứa để bố thí là có lỗi, không thấy tùy thí cũng có lỗi. Vì sao? Vì nếu cất chứa bố thí, người đến cầu xin trước, có khi đến số trăm mà không thí cho, khiến họ oán trách khởi tâm không nhịn chịu. Người đến xin sau sợ vật dồn chứa liền vội đem cho, vì thế Bồ-tát không cất chứa để bố thí.
Không có tâm kiêu ngạo bố thí, nghĩa là Bồ-tát đối với người cầu xin, đem tâm khiêm nhường mà bố thí, không thấy người hơn, đem tâm ganh đua mà bố thí, không vì bố thí mà tự khen ta là thí chủ, người khác không thể bằng.
Thí không nương dựa, nghĩa là Bồ-tát không vì tiếng tăm mà hành bố thí, đối với giả danh khen ngợi coi như hạt bụi.
Bố thí không khiếp nhược thối lui, nghĩa là Bồ-tát lúc sắp bố thí tâm vui thích, khi thí thì hoan hỷ, bố thí rồi không hối hận. Tài vật thêm nhiều thắng diệu bậc nhất, Bồ-tát nghe người khác bố thí rộng khắp, bố thí thù thắng, tâm không tự khinh, sinh tâm thối lui khiếp sợ.
Không có tâm thấp kém khi bố thí, nghĩa là Bồ-tát suy nghĩ nên đem vật tốt đẹp bậc nhất, hơn hết để bố thí. Đó gọi là không có tâm thấp kém khi bố thí.
Không bội diện bố thí, nghĩa là Bồ-tát tâm bình đẳng, không theo bè nhóm, kẻ oán, người thân, kẻ không oán không thân, dùng tâm từ bi bình đẳng mà bố thí.
Không cầu ân bố thí, nghĩa là Bồ-tát đem tâm thương xót để thực hành bố thí, đối với người thọ nhận không tính kể ân huệ với họ, thấy chúng sinh ưa thích dục lạc, như bị lửa thiêu đốt, không có uy lực để ra khỏi.
Thí không cầu báo, nghĩa là Bồ-tát bố thí rồi, không hy vọng đời sau của cải, thân mạng đầy đủ, quán tất cả hành thảy đều hoại diệt, thấy Bồ-đề vô thượng là phước lợi chân thật. Mười thứ như vậy, gọi là Bồ-tát thanh tịnh, vui vẻ bố thí. Như thế, Bồ-tát dựa vào chín thứ bố thí mà hành đầy đủ bố thí Ba-la-mật, chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.
--------------------
Phần 1
Thế nào là giới Ba-la-mật của Bồ-tát? Lược nói có chín thứ: Một là tự tánh giới. Hai là nhất thiết giới. Ba là nan giới. Bốn là nhất thiết môn giới. Năm là thiện nhân giới. Sáu là nhất thiết hành giới. Bảy là trừ não giới. Tám là đời nầy đời khác lạc giới. Chín là giới thanh tịnh.
Thế nào là tự tánh giới? Lược nói bốn đức thành tựu, gọi là tự tánh giới. Những gì là bốn? Một là theo người chánh thọ. Hai là khéo thanh tịnh tâm thọ. Ba là phạm rồi liền sám hối. Bốn là chuyên tinh niệm trụ giữ vững không phạm. Theo người chánh thọ nghĩa là nhìn người ở bên ngoài, đối với tội đã phạm sinh tâm hổ. Khéo thanh tịnh tâm nghĩa là tự nhìn vào trong, đối với tội lỗi đã phạm sinh tâm thẹn.
Phạm rồi liền sám hối, chuyên tinh không phạm, như vậy là không phạm giới. Bồ-tát có hai lý do lìa hối, đó là Bồ-tát nương ở thọ giới, khởi tâm tịnh giới, khởi tâm hổ thẹn, do tâm hổ thẹn nên khéo có thể hộ giới, do hộ giới cho nên không hối. Hoặc thọ từ người khác, hoặc tâm tịnh thọ, đây là hai thứ thị pháp. Hoặc phạm mà hối, hoặc chuyên tinh không phạm, đây là hai thứ tùy pháp. Hoặc từ người khác thọ, hoặc tâm tịnh thọ, hoặc chuyên tinh không phạm, ba pháp nầy là Bồ-tát không hoại giới. Phạm rồi liền sám hối, nghĩa là hủy rồi trở lại như cũ. Nếu Bồ-tát thành tựu bốn đức, đó gọi là tự tánh giới, gọi là chân thật giới, mình và người đều an vui, rất nhiều an ổn, rất nhiều vui vẻ, thương xót thế gian, lợi ích cho cõi trời, người. Thọ giới thuận theo giới, phải biết là thâu nhận vô lượng, Bồ-tát với vô lượng giới tịnh, thâu giữ tất cả chúng sinh an vui, thành tựu quả báo lớn, được nhiều phước lợi, mau chóng chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.
Thế nào là nhất thiết giới của Bồ-tát? Lược nói có hai thứ: Một là tại gia. Hai là xuất gia. Đó gọi là nhất thiết giới. Nhất thiết giới lại có ba loại: Một là giới luật nghi. Hai là giới nhiếp thiện pháp. Ba là giới nhiếp chúng sinh.
Giới luật nghi, nghĩa là bảy chúng đã thọ giới: Tỳkhưu, Tỳ-khưu-ni, Thức-xoa-ma-ni, Sa-di, Sa-di ni, Ưubà-tắc và Ưu-bà-di. Tại gia hay xuất gia là tùy theo sự thích ứng của họ, đấy gọi là giới luật nghi.
Giới nhiếp thiện pháp, nghĩa là Bồ-tát đã thọ giới luật nghi, trên tu đại Bồ-đề, thân, khẩu, ý thiện. Đấy gọi là lược nói tất cả giới nhiếp thiện pháp. Vì sao? Nghĩa là Bồ-tát nương giới trụ nơi giới, tu văn tuệ, tư tuệ, Xa-matha, Tỳ-bà-xá-na, tu tuệ tịch tĩnh vắng lặng, cung kính sư trưởng, phụng sự lễ bái cúng dường, thấy người có bệnh hoạn, khởi tâm thương xót, chăm sóc cung cấp. Nghe người thuyết pháp khen: Lành thay! Người có công đức thật khen ngợi tán dương. Tất cả chúng sinh làm công đức gì, tâm nghĩ miệng nói đều vui vẻ tùy hỷ. Có người xâm phạm đều có thể nhẫn chịu, thân, khẩu, ý nghiệp đã làm đang làm, tất cả đều hồi hướng lên Bồ-đề vô thượng. Tùy thời tu tập các loại nguyện thù thắng, siêng năng tinh tấn cúng dường Tam bảo. Đối với các pháp thiện tâm không buông lung, niệm tuệ giữ gìn thân, khẩu tịnh giới, thâu giữ căn môn, ăn uống điều độ, đầu đêm cuối đêm chẳng tham ngủ nghỉ. Gần gũi người tốt, nương thiện tri thức, thường xét kỹ lỗi của mình, biết rồi không phạm, tùy theo chỗ phạm, đến nơi chư Phật, Bồ-tát và đồng hành như pháp sám hối. Những thứ hộ trì tu tập như vậy, nuôi lớn giới thiện pháp. Đấy gọi là giới nhiếp thiện pháp.
Giới nhiếp chúng sinh, lược nói có mười một thứ: Một là chúng sinh làm các việc lợi ích thảy cùng làm bạn. Hai là chúng sinh đã khởi, chưa khởi các khổ bệnh… làm người đến chăm sóc bệnh, để cùng làm bạn. Ba là vì các chúng sinh nói pháp thế gian xuất thế gian, hoặc dùng phương tiện khiến được trí tuệ. Bốn là biết ân báo ân. Năm là chúng sinh lo sợ các loại như: sư tử, cọp, sói, vua, giặc, nước, lửa, đều có thể cứu giúp, thấy chúng sinh có các nạn như bà con hay của cải tan mất, thì vì họ chỉ bày khiến xa lìa sự đau buồn. Sáu là thấy có chúng sinh nghèo khổ khốn cùng, thảy đều cấp cho, tùy theo kẻ kia cần gì. Bảy là đức hạnh đầy đủ, chân chánh nương dựa, như pháp nuôi chúng. Tám là trước nói lời an ủi, tùy lúc tới lui, cung cấp cho thức ăn uống, nói lời tốt đẹp ở đời, tiến dừng không thôi, qua lại tùy vật, những việc như vậy, chúng sinh khiến an ổn, thì thảy đều tùy thuận, nếu không an thì đều xa lìa. Chín là người có công đức đầy đủ, thì vui mừng khen ngợi. Mười là người có tội xấu, đem tâm từ hàng phục, quở trách, phạt đuổi, khiến cho kẻ kia sám hối sửa đổi. Mười một là dùng sức thần thông thị hiện trong đường ác, giúp các chúng sinh kia chán sợ các ác, vâng tu pháp Phật, hoan hỷ tin vui, sinh tâm hiếm có. Đó gọi là giới nhiếp chúng sinh.
Thế nào là Bồ-tát trụ nơi giới luật nghi, trụ nơi giới nhiếp thiện pháp, trụ nơi giới nhiếp chúng sinh, khéo hộ trì giới, khéo hành nhiếp thiện pháp giới, tất cả hành giới nhiếp chúng sinh? Bồ-tát trụ Ba-la-đề-mộc-xoa giới luật nghi, xả bỏ ngôi vị Chuyển luân vương, xuất gia học đạo, không đoái hoài quả vị cao sang, coi như cỏ đất, xa lìa năm dục như bỏ đờm dãi, đời sau cho đến năm dục, ma thiên cũng không nguyện thích, trọn không vì những điều đó mà hành phạm hạnh. Tâm thường sợ hãi, thấy có lỗi đúng như thật, xả cái vui hiện tại như sợ mưa gió dữ, chánh kiến quán sát không tham đắm mùi vị, tánh ưa yên lặng, điềm tĩnh an vui, hoặc chỗ đông hoặc một mình tâm luôn an trụ. Trì giới không giới hạn, sinh tưởng biết đủ, nương giới trụ nơi giới tu tập chánh thọ của Bồ-tát, sinh khởi vô lượng công đức. Hoặc gần bốn chúng không nói phi pháp, ở chỗ vắng lặng không trụ giác ác, dù cho vừa khởi liền tự sám hối, thấy sâu chỗ lỗi, thấy lỗi rồi trở lại được bản tâm. Hoặc nghe Bồ-tát trụ nơi tất cả giới pháp, Bồ-tát đại địa vô lượng vi diệu, không thể nghĩ bàn, lâu xa khó hành, tâm không sợ hãi, cũng không biếng nhác thối lui, lại khởi niệm: Chư vị ấy cũng là trượng phu, có thể trì tịnh giới thân khẩu không thể nghĩ bàn của Bồ-tát. Ta cũng là trượng phu, ắt hẳn cũng như chư vị ấy, quyết định không ngại. Trụ ở giới luật nghi, Bồ-tát thường tự xét lỗi mình, không nhìn khuyết điểm của người, nếu thấy người hung bạo, tánh ác, tâm không sân hận mà khởi tâm pháp, tâm bi, thương xót, dùng phương tiện giúp được giải thoát. Trụ trong giới luật nghi, Bồ-tát ở chỗ chúng sinh không sinh tưởng khủng bố họ, huống gì lại gia hại. Trụ nơi giới luật nghi, Bồ-tát thành tựu năm thứ hành không buông lung, cùng với quá khứ, vị lai, hiện tại kết hợp, đã làm, đang làm. Bồ-tát nơi quá khứ đã phạm liền như pháp sám hối, đấy gọi là hành quá khứ không buông lung. Vị lai sẽ phạm phải như pháp sám hối, đấy gọi là hành vị lai không buông lung. Hiện tại đang phạm phải như pháp sám hối ngay, đó là hành hiện tại không buông lung. Như chỗ hành, như chỗ trụ, chuyên tâm gìn giữ, đấy gọi là hành đã làm, không buông lung. Nương hành đã làm mà không buông lung, như chỗ hành, như chỗ trụ, không khởi phạm giới, đấy gọi là hành sẽ làm, không buông lung. Bồ-tát trụ nơi giới luật nghi, công đức thì che giữ, việc ác thì tỏ bày, ít dục biết đủ, gắng nhẫn các khổ, không sinh lo buồn, tiến hay dừng đều an ổn, vững chắc, oai nghi rõ ràng, xa lìa các sự quanh co dua nịnh, tịnh tu chánh mạng. Bồ-tát thành tựu mười pháp như vậy, gọi là trụ nơi giới luật nghi. Bồ-tát trì giới, nghĩa là đối với năm dục quá khứ, tâm không luyến tiếc, đối với năm dục ở vị lai không sinh tưởng vui, đối với năm dục ở hiện tại không khởi tham đắm, vui nơi chốn vắng lặng không sinh tưởng đầy đủ, xa lìa ngôn ác, giác ác, tâm không tự khinh, an ổn vui trụ, khéo an nhẫn, không hề buông lung oai nghi tịnh mạng.
Bồ-tát trụ nơi giới nhiếp thiện pháp, đối với thân mạng, của cải, nếu khởi lên một ít tham đắm, thì lập tức trừ diệt không cho tăng trưởng, hết thảy những việc như phiền não, nhân duyên phạm giới… nếu khởi lên, liền phải diệt trừ. Hoặc đối với chúng sinh khởi tâm giận dữ oán hại, liền phải trừ diệt. Hoặc khởi biếng nhác, cũng lập tức trừ diệt, nếu khởi vị tương ưng với thiền, liền phải diệt bỏ, phải biết như thật về năm xứ, nghĩa là quả thiện, nhân thiện, nhân quả thiện, điên đảo cùng không điên đảo, chướng pháp nhiếp thiện, đều nhận biết như thật. Bồ-tát thấy phước lợi của quả thiện nên cầu nhân thiện; điên đảo pháp nhiếp về thiện, thì biết như thật. Bồ-tát được thiện căn, không khởi kiến chấp vô thường, thường khổ có vui, bất tịnh,tịnh, phi ngã, ngã, biết như thật, về chướng pháp nhiếp thiện, xa lìa pháp không nhiếp thiện, Bồ-tát thành tựu mười hành như vậy, gọi là trụ nơi giới nhiếp thiện pháp, chóng thâu nhiếp các pháp thiện và tất cả hành, đó là nương thí, nương giới, nương nhẫn, nương tinh tấn, nương thiền định, năm hành thành tựu trí tuệ. Bồ-tát trụ nơi giới nhiếp chúng sinh có mười một thứ, nơi mỗi một thứ thành tựu tất cả hành:
Một là chúng sinh đã tạo tác đều cùng đồng sự. Hoặc mới suy nghĩ và chỗ hành tác, đường đi qua lại, chánh nghiệp, phương tiện, giữ gìn của cải, hòa hợp tranh cãi, hoặc hội lành nơi thế gian, và các thứ phước nghiệp, đều cùng đồng sự.
Hai là đối với các việc khổ đều cùng làm bạn. Nếu thấy người tật bệnh thì chăm sóc cung cấp, thấy người mù phải dẫn dắt, người mê giúp tìm đường, người điếc dùng tay ra dấu khiến họ lãnh hội, người què thì phải cõng vác, người tham dục có các khổ vây quanh thì dạy bảo khiến họ xa lìa. Các cái sân giận, thùy miên, trạo, hối, nghi, những thứ khổ như vậy cũng khiến xa lìa. Giác dục, giác sân, giác hại, giác thân lý, giác quốc độ, giác bất tử, giác khinh lờn, giác dòng họ, đều dạy khiến xa lìa. Chúng sinh kiện tụng nhau không biết về khổ, có thể vì họ chỉ bày đường đi, mỏi yếu thì ban cho chỗ an ổn.
Ba là vì các chúng sinh thuyết pháp đầy đủ. Chúng sinh làm ác, nói trừ hành ác, câu thiện, vị thiện, nghĩa thiện, tùy thuận thông đạt làm tăng trưởng đạo phẩm. Hoặc dùng phương tiện giảng nói, vì chúng sinh ác, nói trừ hành ác. Nói pháp trừ keo kiệt, được quả báo hiện tại, ít chánh phương tiện nhưng được nhiều tài vật, được rồi giữ gìn. Người ganh ghét pháp, khiến sinh tin thích, thấy được "đế" thanh tịnh, lìa các đường ác, hết hẳn phiền não, diệt tất cả khổ.
Bốn là biết ân báo ân. Đối với người tạo lợi ích cho mình: Dùng tâm thiện và lời dịu dàng để hỏi han an ủi, khuyến dụ khen ngợi: Thiện lai! rồi lập tòa ngồi an ổn, tìm cách đáp đền lại hoặc bằng hoặc hơn, không để thua giảm. Các việc có làm thảy đều đồng sự. Chăm sóc kẻ bệnh khổ tùy thuận thuyết pháp, diệt trừ các thứ gây sợ hãi, lìa các điều lo phiền cho họ, nếu có thiếu thốn thì thí cho các vật dụng. Nương dựa như pháp, tùy thuận nơi tâm. Người có thật đức thì khen ngợi, vui mừng. Người có tội lỗi thì dùng tâm từ quở trách, điều phục, phạt đuổi khiến họ sửa đổi. Nêu rõ lực thần thông, tùy theo chỗ thích hợp mà thị hiện.
Năm là các chúng sinh sợ hãi phải vì họ cứu giúp. Đó là sự sợ hãi về sư tử, cọp, sói, vua, giặc, nước, lửa, nhân, phi nhân… tạo ra mọi sự khủng bố, thảy đều ra sức cứu giúp, khiến họ được an ổn. Hoặc thấy các chúng sinh, các hàng bà con quyến thuộc có những lo buồn do các nạn về tài sản. Hoặc trong bà con, thiện tri thức, các bậc sư trưởng tôn kính có người qua đời, hoặc của cải bị vua quan, giặc cướp đoạt, hay bị lửa cháy, nước cuốn, kho báu tiêu tan, sự nghiệp không thành, ép chia của riêng. Hoặc bà con xấu ác làm mất tài sản, tất cả đều vì họ giải bày, giúp xa lìa đau khổ.
Sáu là nếu thấy các chúng sinh tiền của sinh sống không đủ, thì cung cấp cho những thứ cần dùng như: thức ăn uống, y phục, thuốc thang, hương hoa, đèn đuốc, các vật dụng trang sức, nhà cửa, tiền bạc, người giúp việc, xe cộ v.v..., những thứ như vậy thảy đều thí cho.
Bảy là như pháp nuôi chúng: Trước là tạo chỗ y chỉ, đem tâm không tham, tâm thương xót, vì họ thuyết pháp, ban cho các vật cần dùng, nếu tự mình không có, thì từ nơi các cư sĩ, trưởng giả tín tâm kia cầu xin chu cấp. Theo đúng như pháp có được y phục, thực phẩm, thuốc thang, cho đến phòng nhà, cùng thọ dùng không cất chứa. Đem năm loại pháp tùy thời dạy bảo, đúng như trong phẩm Lực chủng tánh đã nói.
Tám là tùy thuận tâm người: Trước phải biết tánh và thể tánh của chúng sinh, nên cộng trụ thì cùng đồng ở, tùy theo chỗ thích hợp mà cùng theo làm việc. Lại, tùy thuận tâm là quán xét chỗ hành kia, nếu đem thân làm như thế, miệng làm như thế, khiến kẻ kia lo buồn không được thiện lợi, thì Bồ-tát không làm. Tuy khiến lo buồn nhưng đem lại điều tốt đẹp cho người thì Bồ-tát liền làm. Nếu Bồ-tát tự làm, thân làm, miệng làm, chẳng thuộc về giới, cũng chẳng phải là phương tiện công đức, trí tuệ, khiến cho kẻ kia lo phiền, không đem lại thiện lợi thì Bồ-tát không làm. Ngược lại với các điều nêu trên thì Bồ-tát nên làm. Như sinh buồn khổ, thì mừng, vui cũng như vậy, tùy theo sự thích ứng mà rộng phân biệt, nêu bày. Lại, tùy tâm nghĩa là nếu thấy chúng sinh có sắc tướng sân hận, hãy còn không khen ngợi công đức của họ, huống hồ là nói điều xấu của họ, cũng không biết xin lỗi. Lại nữa, tùy tâm nghĩa là người không thưa hỏi an ủi mình, mình hãy còn đến an ủi thưa hỏi họ, huống gì là họ đã đến thưa hỏi an ủi mình mà mình không đáp lại, chỉ trừ khi răn dạy. Lại nữa, tùy tâm là không não hại người khác, trừ khi dùng tâm thương xót, các căn vắng lặng, quở trách đệ tử khiến cho điều phục. Tùy tâm còn có nghĩa là không cười cợt, không đùa bỡn quá đáng, khiến kẻ kia tủi hổ mà sinh nghi hối. Người ấy tuy không như vậy, nhưng không nên nói ông nay rơi vào chỗ thua rồi. Thấy người khiêm nhường cũng không tự cao. Tùy tâm cũng có nghĩa chẳng phải là không gần gũi quen biết, nhưng không gần gũi quá mức, không gần gũi quen biết trái thời. Lại nữa, tùy tâm là đối với người thân quen của người kia không nói lỗi người kia, đối với người oán của người kia không khen đức của người kia, người không thân thiện không cùng đồng sự, không tham muốn cầu nhiều, nếu có chỗ nhận giữ thì phải biết lượng biết đủ, nếu có người thỉnh mời không làm trái ý họ, nếu có sự hiềm trách thì như pháp hối tạ.
Chín là người thật có công đức thì khen ngợi, vui mừng. Người có lòng tin đầy đủ, thì khen ngợi công đức của tín. Giới, văn thí tuệ cũng lại như vậy.
Mười là nên quở trách. Quở trách để điều phục lỗi nhỏ, vi phạm nhỏ, đem tâm thương xót, dùng lời dịu dàng để quở trách. Lỗi phạm bậc trung dùng lời quở trách vừa phải. Lỗi phạm bậc thượng thì dùng lời thô nặng quở trách. Cũng như quở trách, điều phục, phạt đuổi cũng lại như vậy. Người phạm nhẹ và vừa, tùy thời đuổi đi, nếu trở lại thì cho cộng trú, vì để giáo hóa việc phạm giới và các người khác. Do tâm thương mến, lợi ích cho nên mới đuổi ra khỏi chúng. Người phạm nặng tội lớn, thì không ở chung, không ăn chung, cho đến khi đã cải hối cũng không cho ở chung. Do tâm từ bi nên không khiến kẻ kia ở trong pháp Phật khởi nhiều tội lỗi, cũng là để răn dạy các chúng sinh khác.
Mười một là Bồ-tát vì lợi ích nên hiện bày thần thông lực, hoặc khiến người sợ hãi, hoặc khiến người hoan hỷ. Với kẻ hiện làm việc ác thì hiện bày báo ác, đó là các xứ thuộc cõi ác như: địa ngục hàn băng, địa ngục biên … và nói với người kia: Ông nên xem đấy, người ở nhân gian làm ác phải sinh trong đó chịu vô lượng khổ, để họ thấy sinh sợ hãi, nhàm chán xa lìa hành ác. Bồ-tát ở trong đại chúng, thấy người bất tín hỏi việc không thèm trả lời, ngay lúc ấy hóa làm Kim Cang lực sĩ, cho đến các đại lực nơi chư Thiên, quỷ thần mà khủng bố họ. Vì sợ hãi nên kẻ kia bỏ tâm kiêu mạn mà tin kính, chân thật trả lời. Ngoài ra, đại chúng khi nghe kẻ kia trả lời chân thật, cũng đều được điều phục. Lại dùng thần lực hiện một thành nhiều, hiện nhiều thành một, khiến cho kẻ kia vui vẻ, người chưa tin sinh tin, người phạm giới được thanh tịnh, người nghe biết ít được nghe biết nhiều, người keo kiệt có thể bố thí, người ngu si được trí tuệ. Như vậy là Bồ-tát thành tựu tất cả hành giới nhiếp chúng sinh. Đó gọi là ba thứ giới tụ, vô lượng công đức tụ của Bồ-tát.
Phần 2
Bồ-tát muốn học giới luật nghi, giới nhiếp pháp thiện, giới nhiếp chúng sinh của Bồ-tát, hoặc tại gia, hoặc xuất gia, đã phát nguyện Bồ-đề vô thượng, đối với Bồ-tát đồng pháp, người đã phát nguyện, có trí có lực, ngữ thiện nghĩa thiện, có thể tụng trì. Bồ-tát như vậy, trước là lễ nơi chân cung kính khởi thưa: Con tên là… nay ở trước Đại đức xin thọ giới Bồ-tát. Đại đức đối với con không quản cực nhọc, thương xót đồng ý cho. Thỉnh như vậy rồi, trịch áo vai phải, hướng đến chư Phật ở ba đời mười phương và chư vị Bồ-tát khắp đại địa, cũng thỉnh đảnh lễ nhớ nghĩ công đức của các Ngài. Khởi tâm thuần tịnh hạ, trung, thượng, ở trước tượng Phật khiêm hạ, cung kính, cúi mình quỳ dài, ở trước bậc trí thưa: Duy nguyện Đại đức trao truyền giới Bồ-tát cho con.
Thưa như vậy rồi, một lòng suy niệm an trụ nuôi lớn tâm tịnh: Ta nay không lâu sẽ được tụ đại công đức vô tận, vô lượng, vô thượng. Nghĩ như vậy rồi, lặng yên mà đứng. Bấy giờ, đối với người thọ nhận kia, Đại đức không khởi tâm loạn động, hoặc ngồi hoặc đứng mà dạy: Nầy thiện nam tên là…! Hãy nghe kỹ: Pháp đệ, ông có phải là Bồ-tát không? Đáp: Dạ phải. Phát nguyện Bồ-đề chưa? Dạ đã phát. Hỏi rồi, Đại đức nói: Thiện nam! Ông muốn ở nơi ta lãnh thọ tất cả giới Bồ-tát, giới luật nghi, giới nhiếp pháp thiện, giới nhiếp chúng sinh. Các giới nầy là giới mà tất cả Bồ-tát trong đời quá khứ, hiện tại và vị lai đã trụ, tất cả Bồ-tát đời quá khứ đã học, tất cả Bồ-tát đời vị lai sẽ học, tất cả Bồ-tát đời hiện tại đang học, ông có thể thọ không? Đáp: Dạ được. Lần thứ hai, thứ ba, cũng nói như vậy.
Đại đức hỏi ba lần là đã truyền trao giới cho người kia rồi. Người lãnh thọ giới pháp không đứng dậy. Bấy giờ, Đại đức ở trước tượng Phật, kính lễ các chúng Bồ-tát trong mười phương thế giới và thưa: Bồ-tát tên là…, ở trước con ba lần nói đã lãnh thọ giới Bồ-tát, con vì họ tác chứng: Thứ nhất: Chư Phật, Đại sư Vô thượng, đối với tất cả chúng sinh, tất cả pháp, hiện tri kiến biết cho. Vị Bồ-tát mới thọ giới cũng bạch như vậy. Lần thứ hai, thứ ba cũng bạch như thế. Như vậy là thọ giới Bồ-tát xong, tiếp theo là trước vô lượng chư Phật, chư Bồ-tát đại địa ở tất cả thế giới trong mười phương, pháp có tướng hiện. Bấy giờ, chư Phật, Bồ-tát trong mười phương thế giới, nhớ nghĩ đến Bồ-tát nầy, khởi tri kiến như thật, bảo với các đại chúng: Trong thế giới tên… có người tên…, theo Bồ-tát tên…, thọ giới Bồ-tát, đối với Bồ-tát nầy hãy khởi tưởng là em, là con, đem tâm từ thương nhớ, khiến Bồ-tát ấy, pháp thiện tăng trưởng, trọn không giảm mất. Bạch như vậy, hiểu biết như vậy, là đã thọ giới Bồ-tát xong. Đại đức và giới tử hướng đến chư Phật và Bồ-tát trong mười phương kính lễ mà lui.
Như vậy Bồ-tát đã thọ giới luật nghi. Đối với tất cả giới luật nghi khác, giới nầy là tối thắng tối thượng, thâu nhận vô lượng vô biên công đức, đã từ tâm chân thật vô thượng bậc nhất phát khởi. Đó là nhất thiết chủng trí đối trị hành ác của hết thảy chúng sinh. Giới Ba-la-đề-mộcxoa, đối với giới luật nghi nầy, trăm phần không bằng một, trăm ngàn vạn phần cho đến toán số rất nhỏ, ví dụ cũng không bằng một. Giới ấy thâu nhận tất cả các công đức. Bồ-tát trụ nơi giới luật nghi, phải suy nghĩ: Như pháp thì thực hành, phi pháp không thực hành, công đức chuyển tăng, Bồ-tát học giới, nghe tạng Tu-đa-la nói, và tạng Ma-đắc-lặc-già của Bồ-tát nói, phải siêng năng hộ trì. Bồ-tát có trí không theo tất cả Bồ-tát thọ giới Bồ-tát. Nếu là người không tin, thì không theo thọ. Nghĩa là ban đầu khi nghe giới Bồ-tát không tin, không thuận, không thể tư duy. Người keo kiệt, người tham lam, người đa dục, người không tri túc, người phá giới, người chậm chạp, người không hộ giới, người sân, người hận, người không hành nhẫn, người mệt mỏi, người biếng nhác, người tham ngủ nghỉ, người ưa nói việc đời, những người như vậy đều không theo để thọ. Hoặc có Bồ-tát tu tập tâm thiện, cho đến chỉ trong một thời gian ngắn, người không uống rượu, người không ngu si, người không hèn yếu, người không nghe ít, người không hủy báng tạng Tu-đa-la của Bồ-tát, nên theo những người như thế để thọ giới Bồ-tát. Bồ-tát thọ giới Bồ-tát mà phỉ báng, trái ngược với tạng Bồ-tát, thì không hướng đến kẻ ấy giảng nói, cũng không chỉ dạy nghĩa. Vì sao? Vì kẻ kia nghe rồi không tin, không biết ngăn giữ lại sinh phỉ báng kẻ hủy báng như vậy, nếu thọ giới Bồ-tát, có vô lượng công đức tụ, thì người phỉ báng sẽ mắc tội báo cũng lại như thế. Cho đến ngôn ác, kiến ác, giác ác, trọn không lìa bỏ. Bồ-tát tạo nghiệp tội như thế, khi muốn thọ giới Bồ-tát, người trí nên phải vì họ nói rõ về tạng Mađắc-lặc-già, nói rõ về giới Bồ-tát và các tướng phạm giới, khiến người thọ giới, tự tâm quán sát, trí tuệ suy nghĩ xem mình có thể thọ giới không, chứ không phải bắt chước người mà thọ. Đấy gọi là Bồ-tát vững chắc, người như vậy nên thọ giới Bồ-tát.
Bồ-tát trụ nơi giới luật nghi ấy, có bốn xứ pháp Ba-la-di. Những gì là bốn? Bồ-tát vì tham lợi nên tự khen ngợi đức mình, chê bai người khác. Đấy gọi là xứ pháp Ba-la-di thứ nhất. Bồ-tát tự có của cải mà tánh keo kiệt, chúng sinh nghèo khổ không chỗ nương dựa, tìm đến cầu xin không khởi tâm bố thí cho vật cần dùng, muốn nghe pháp cũng keo kiệt không nói. Đó gọi là xứ pháp Ba-la-di thứ hai. Bồ-tát sân hận, phát ra lời nói thô, ác, ý vẫn không dừng. Lại dùng tay đánh hoặc gia thêm gậy đá, tàn hại khủng bố, sân hận thêm nhiều. Người phạm tội đến cầu xin sám hối không nhận sự sám hối của kẻ kia, kết hận không xả. Đó gọi là xứ pháp Ba-la-di thứ ba. Bồ-tát phỉ báng tạng Bồ-tát, nói pháp tương tự, đối với pháp tương tự, hoặc tâm tự hiểu, hoặc thọ nhận từ người khác. Đó gọi là xứ pháp Ba-la-di thứ tư.
Như vậy, Bồ-tát đối với bốn xứ pháp Ba-la-di, phạm mỗi một pháp đều gọi là phạm xứ pháp Ba-la-di, huống gì là phạm bốn! Hiện pháp không thể tăng rộng, tâm tịnh hiện tại trang nghiêm Bồ-đề cũng không thể tăng rộng.
Đấy gọi là Bồ-tát tương tợ chứ không phải Bồ-tát chân thật.
Bồ-tát do phiền não phẩm hạ, trung, phạm bốn pháp nầy, không gọi là xả giới luật nghi, nếu do phiền não bậc thượng mà phạm, thì gọi là xả. Nếu bốn pháp luôn luôn vi phạm không sinh hổ thẹn, lại hoan hỷ yêu thích, nói là công đức, đó gọi là phạm tội do phiền não phẩm thượng. Bồ-tát không có phạm tức thì bốn xứ pháp Ba-la-di xả giới luật nghi của Bồ-tát. Như Tỳ-khưu xả giới luật nghi, Bồ-tát mất giới luật nghi rồi, có thể gắng thọ lại, không phải như Tỳ-khưu phạm giới Mộc-xoa rồi thì không được thọ lại. Có hai lý do mất giới luật nghi của Bồ-tát: Một là xả bỏ nguyện Bồ-đề vô thượng. Hai là khởi phiền não tăng thượng rồi phạm. Không có bỏ thân thọ thân mà mất giới Bồ-tát, cho đến chỗ thọ sinh trong mười phương cũng lại không mất. Nếu Bồ-tát không bỏ đại nguyện, không phạm do phiền não phẩm thượng, thì khi xả thân thọ thân, tuy không nhớ nghĩ, nhưng theo thiện tri thức, thường được thọ lại, giống như là bản giới, không gọi là mới được.
Bồ-tát trụ nơi giới luật nghi nầy, phải biết thế nào là phạm, không phạm, nhiễm ô, không nhiễm ô nơi bậc hạ, trung, thượng.
Nếu Bồ-tát trụ nơi giới luật nghi, trong một ngày một đêm, đối với Phật tại thế, hoặc đối với tháp miếu Phật, hoặc Pháp, hoặc kinh quyển, hoặc tạng Tu-đa-la của Bồ-tát, hoặc tạng Ma-đắc-lặc-già của Bồ-tát, hoặc Tỳ-khưu Tăng, hoặc chúng Đại Bồ-tát trong mười phương thế giới, nếu không ít nhiều cúng dường cho đến chỉ một lạy, không dùng một kệ khen ngợi công đức của Tam bảo, thậm chí không có được một niệm tâm tịnh, đấy gọi là phạm, là phạm rất nhiều. Hoặc phạm do không cung kính, hoặc biếng nhác, trễ nải, phạm nầy thì khởi nhiễm ô. Nếu phạm do quên lầm, thì phạm nầy nhiễm ô chẳng khởi.
Không phạm thì nhập tâm tịnh nơi địa Bồ-tát, như đắc tịnh bất hoại. Pháp thường của Tỳ-khưu là cúng dường Tam bảo. Nếu Bồ-tát nhiều tham dục, không biết đủ, tham đắm của cải, đấy gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô. Không phạm là đoạn trừ hết thảy các thứ kia. Khởi phương tiện dục, thâu nhận đối trị, vì tánh của phiền não nhanh nhạy lại luôn luôn khởi.
Nếu Bồ-tát thấy những bậc Thượng tọa có đức, phải nên cung kính xem như người đồng pháp, chớ đem tâm sân hận, kiêu mạn không khởi sự cung kính, không nhường chỗ cho vị kia, thưa hỏi thỉnh pháp lại không trả lời. Đó gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô. Nếu biếng nhác, lười trễ, hoặc tâm vô ký, hoặc phạm do quên lầm, phạm nầy nhiễm ô chẳng khởi. Không phạm là hoặc cuồng hoặc bệnh nặng, hoặc tâm loạn, hoặc khi ngủ y là thức, thưa hỏi thỉnh pháp đều không trả lời, đó gọi là không phạm.
Hoặc lên tòa thuyết pháp, hoặc khi quyết định bàn luận, hoặc tự thuyết pháp, hoặc nghe pháp, hoặc tự quyết định khi bàn luận, hoặc nói pháp giữa đại chúng, hoặc quyết định luận bàn trong chúng. Hoặc tâm hộ người giảng nói, hoặc dùng phương tiện khiến kẻ kia điều phục, xa lìa bất thiện, tu tập pháp thiện, hoặc hộ tăng chế, hoặc hộ ý cho nhiều người.
Bồ-tát có đàn việt đến thỉnh, hoặc đến phòng riêng, hoặc đến trong chùa, hoặc đến các nhà khác, hoặc thí y phục thức ăn, các thứ vật dùng, Bồ-tát do tâm sân mạn, không đến không nhận, đấy gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô. Không phạm là khi bị bệnh, hoặc không có sức, hoặc cuồng, hoặc chỗ quá xa, hoặc đi đường sợ nạn, hoặc biết không thọ nhận sẽ khiến người kia được điều phục, bỏ ác trụ thiện. Hoặc trước đã thọ nhận lời thỉnh của người khác, hoặc tu pháp thiện không muốn tạm bỏ, hoặc vì muốn được nghe nghĩa pháp lợi ích chưa từng có, hoặc cầu quyết định bàn luận, hoặc biết người thỉnh lừa dối não hại, hoặc lo hộ nhiều người có tâm hiềm hận, hoặc hộ tăng chế.
Nếu Bồ-tát có đàn việt đem các thứ vật quý như: vàng, bạc, chân châu, ma ni, lưu ly dâng cúng cho Bồ-tát, Bồ-tát do tâm sân mạn trái nghịch không nhận, đấy gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô, vì đã bỏ chúng sinh. Nếu phạm do biếng nhác trễ nải, thì không khởi nhiễm ô. Không phạm là khi bị cuồng, hoặc biết thọ rồi chắc chắn sinh tham đắm. Hoặc biết thọ rồi thí chủ sinh hối hận. Hoặc biết thọ rồi thí chủ sinh nghi hoặc. Hoặc biết thọ rồi thí chủ sẽ nghèo khổ. Hoặc biết vật nầy là vật của Tam bảo. Hoặc biết vật nầy là do cướp đoạt mà được. Hoặc biết nhận rồi sẽ có nhiều khổ não. Đó là của cải do giết hại, trói buộc, trị phạt, cướp đoạt, bị quở trách.
Nếu có chúng sinh đi đến chỗ các Bồ-tát muốn được nghe pháp, nhưng do sân giận, keo kiệt ganh ghét, các Bồ-tát không vì họ giảng nói, ấy gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô. Nếu phạm do biếng nhác, lười trễ thì không khởi nhiễm ô. Không phạm là khi ngoại đạo tìm kiếm chỗ thiếu sót của mình, hoặc bệnh nặng, hoặc bị cuồng. Hoặc biết không giảng nói khiến kẻ kia điều phục. Hoặc chỗ tu pháp chưa khéo giảng nói không lợi. Hoặc biết người ấy trước không thể kính trọng, tùy thuận oai nghi nghiêm chỉnh. Hoặc kẻ kia độn căn nghe pháp sâu xa sẽ sinh tâm lo sợ. Hoặc biết chắc nghe rồi thì tăng trưởng tà kiến. Hoặc biết nghe rồi sẽ hủy báng, sẽ lùi mất. Hoặc sợ kẻ kia nghe rồi đến chỗ người ác nói để phá hoại chánh pháp. Nếu Bồ-tát đối với chúng sinh hung ác phạm giới lại dùng tâm sân hận làm cho họ tự bỏ, hoặc ngăn cản khiến cho bỏ, mà không là người giáo hóa, đấy gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô. Nếu phạm do biếng nhác lười trễ, hoặc phạm do quên ngăn cản người thì phạm nầy chẳng khởi nhiễm ô. Vì sao? Vì Bồ-tát đối với người ác, chỗ khởi tâm từ bi sâu xa hơn là đối với người thiện. Không phạm là hoặc bị cuồng, hoặc biết không nói sẽ khiến kẻ kia điều phục, hoặc lo hộ cho nhiều người hiềm hận, hoặc hộ tăng chế.
Bồ-tát ở trong Ba-la-đề-mộc-xoa của Như Lai, theo Tỳ-ni kiến lập già ngăn tội, giúp đỡ chúng sinh, khiến người không tin sinh tâm tin, người tin rồi thì thêm rộng lớn, là đồng Thanh văn học. Vì sao? Vì Thanh văn thậm chí là tự độ, không thể độ người, vẫn có thể khiến người không tin sinh tin, người tin rồi thêm tăng trưởng học giới, huống gì là Bồ-tát chính là đệ nhất nghĩa độ. Lại nữa, trụ nơi già tội, ít lợi, ít tạo tác, ít phương tiện, Đức Thế Tôn vì hàng Thanh văn mà kiến lập, Bồ-tát không đồng học giới nầy. Vì sao? Vì Thanh văn là tự độ, bỏ người, nên trụ chỗ ít lợi, ít tạo tác, ít phương tiện. Bồ-tát tự độ lại còn độ người khác nên trụ nơi chỗ ít lợi, ít tạo tác, ít phương tiện, Bồ-tát vì chúng sinh nên theo các vị Bà-la-môn, cư sĩ không thân quen, cầu xin trăm ngàn y và tùy ý thí cho. Bồ-tát nên quán sát thí chủ có thể hay không thể cho, tùy theo sự cúng dường nên thọ nhận. Như y, bát cũng vậy. Như y, bát, Bồ-tát tự cầu xin tơ sợi, khiến người thợ dệt, không phải là bà con dệt cũng vậy. Do vì chúng sinh, nên có thể cất chứa trăm ngàn kiều-xa-da, trăm ngàn ngọa cụ, tọa cụ, cho đến vàng, bạc, cũng nên thọ nhận. Những chỗ trụ như vậy, ít lợi, ít tạo tác, ít phương tiện, Thanh văn là già tội, Bồ-tát thì không cùng học trụ. Giới luật nghi của Bồ-tát là vì các chúng sinh, nếu Bồ-tát có tâm hiềm hận trụ nơi ít lợi, ít tạo tác, ít phương tiện, đó gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô. Nếu phạm do biếng nhác lười trễ, do trụ ít lợi, ít tạo tác, ít phương tiện, thì phạm nầy không khởi nhiễm ô. Nếu Bồ-tát thân khẩu quanh co dua nịnh, hoặc hiện tướng, hoặc chê bai, hoặc do lợi cầu lợi, trụ pháp tà mạng, không có tâm hổ thẹn, không thể lìa bỏ, đó gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô. Không phạm là nếu vì nhằm đoạn trừ nên khởi phương tiện dục, phiền não tăng lên, lại luôn luôn khởi. Nếu Bồ-tát có tâm trạo cử, không vui thích tĩnh lặng, lớn tiếng đùa giỡn, khiến người khác vui thích, tạo ra nhân duyên ấy, đó gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô. Nếu phạm do quên lầm, thì không khởi nhiễm ô. Không phạm là vì nhằm đoạn trừ khởi phương tiện dục như trước đã nói. Lại không phạm là hoặc người khác khởi hiềm hận, muốn khiến dừng lại, hoặc người khác do buồn muốn khiến dứt. Hoặc người khác tánh ưa đùa giỡn, vì nhằm thâu giữ kẻ kia, nên muốn đoạn trừ, vì nhằm giúp đỡ, nếu kẻ khác nghi ngờ hiềm hận, trái ngược với dung mạo đùa giỡn thì Bồ-tát hiện tâm tịnh.
Bồ-tát khởi kiến như vậy và nói như thế nầy: Bồ-tát không nên ưa thích Niết-bàn, nên từ bỏ Niết-bàn, không nên sợ phiền não, không nên nhất mực nhàm chán xa lìa. Vì sao? Vì Bồ-tát nên ở trong ba A-tăng-kỳ kiếp, thọ sinh tử lâu xa cầu đại Bồ-đề. Khởi nói như vậy, gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm ấy khởi nhiễm ô. Vì sao? Vì Thanh văn rất ưa thích Niết-bàn, chán sợ phiền não trăm ngàn vạn lần, không bằng Bồ-tát ưa thích sâu xa về Niết-bàn, chán sợ phiền não. Nghĩa là các Thanh văn chỉ vì tự lợi, Bồ-tát thì không như thế, khắp vì chúng sinh, Bồ-tát hành tập tâm không nhiễm ô, hơn hẳn A-lahán thành tựu hữu lậu, xa lìa các phiền não.
Nếu Bồ-tát có lời nói không hộ trì, không tin, đã vậy còn hủy báng chê trách, không chịu diệt trừ, nếu thật có lỗi ác mà không trừ diệt, đó gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô. Nếu thật không có lỗi ác mà không diệt trừ, thì không khởi nhiễm ô. Không phạm, nếu đó là ngoại đạo phỉ báng, và các người ác khác. Hoặc người xuất gia khất thực, tu nhân duyên thiện, phát sinh sự chê trách người khác, hoặc trước những người sân, người cuồng mà sinh hủy báng.
Nếu Bồ-tát quán sát chúng sinh, biết là phải dùng lời thống khổ làm phương tiện khiến kẻ kia đạt lợi ích, nhưng vì sợ kẻ ấy buồn khổ nên không làm, đó gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy không khởi nhiễm ô. Không phạm là quán xét kẻ kia, hiện tại ít được lợi ích, mà khởi phiền não nhiều hơn.
Nếu Bồ-tát bị người mắng nhiếc, mắng nhiếc lại, bị người sân giận sân giận lại, bị người đánh đập đánh đập lại, bị người chê bai chê bai lại, đó gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô.
Nếu Bồ-tát xâm phạm người khác, hoặc không xâm phạm nhưng khiến người sinh nghi, thì liền phải xin lỗi, chớ có hiềm hận, khinh mạn, không như pháp xin lỗi, đó gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô. Nếu phạm do lười trễ biếng nhác, thì không khởi nhiễm ô. Không phạm là nếu dùng phương tiện khiến kẻ kia điều phục, hoặc kẻ kia muốn khiến tạo nghiệp bất tịnh, sau đó thọ nhận, không xin lỗi, không tội. Hoặc biết tánh kẻ kia ưa tranh cãi, nếu xin lỗi thì tăng thêm sân hận. Hoặc biết kẻ kia hòa nhẫn không có tâm hiềm hận, sợ kẻ kia hổ thẹn, không xin lỗi, không mắc tội.
Nếu Bồ-tát bị người khác xâm phạm, kẻ ấy đến xin sám hối đúng như pháp, nhưng do tâm hiềm hận, muốn não hại nên Bồ-tát không nhận sự hối lỗi của kẻ kia, đó gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô. Nếu không hiềm hận, nhưng tánh không thích nhận sự hối lỗi, thì phạm nầy không khởi nhiễm ô. Không phạm, là nếu dùng phương tiện khiến kẻ kia điều phục, như trước đã nói. Hoặc kẻ kia không như pháp sám hối, tâm họ không bình thường, không thọ nhận sự hối lỗi của họ không có tội.
Nếu Bồ-tát đối với người khác khởi tâm hiềm hận, chấp chặt không xả, đó gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô. Không phạm là vì muốn đoạn trừ cho kẻ kia nên khởi phương tiện dục, như trên đã nói. Nếu Bồ-tát vì tham phụng sự, nên chứa nuôi người bà con, đó gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô. Không phạm nghĩa là không có tâm tham chứa nuôi.
Nếu Bồ-tát uể oải biếng nhác, ham thích ngủ nghỉ, hoặc phi thời không biết hạn lượng, đấy gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô. Không phạm là do bị bệnh hoặc không có sức, hoặc đi xa bị mệt nhọc, hoặc vì đoạn trừ cho kẻ kia nên khởi phương tiện dục, như trước đã nói.
Nếu Bồ-tát do tâm nhiễm ô, thường hay luận bàn việc thế tục, đó gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô. Nếu phạm do quên lầm trải qua thời gian, thì phạm nầy không khởi nhiễm ô. Không phạm là khi thấy có người nhóm họp mà nói, ý muốn giúp kẻ kia tạm nghe trong chốc lát, hoặc phải trả lời câu hỏi của người về việc chưa từng nghe.
Nếu Bồ-tát muốn cầu tâm định, mà lại hiềm hận, kiêu mạn, không lãnh thọ lời dạy bảo của thầy, đó gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô. Nếu do biếng nhác, trễ nải mà phạm, thì phạm nầy không khởi nhiễm ô. Không phạm là vì bệnh tật, hoặc không có sức, hoặc biết người kia nói điên đảo, hoặc có sức tự nghe biết nhiều, hoặc trước đã thọ pháp.
Nếu Bồ-tát tâm khởi năm Cái (ngăn che), không khai ngộ cho người, đó gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô. Không phạm nghĩa là nhằm đoạn trừ cho kẻ kia nên khởi phương tiện dục, như trước đã nói.
Nếu Bồ-tát chấp nơi vị tương ưng với thiền, cho là công đức, đó gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô. Không phạm là do phải đoạn trừ cho kẻ kia, nên khởi phương tiện dục, như trước đã nói.
Nếu Bồ-tát nhận biết như vầy, nói như vầy: Bồ-tát không nên nghe kinh pháp của hàng Thanh văn, không nên thọ, không nên học, Bồ-tát cần gì pháp Thanh văn, đó gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô. Vì sao? Vì Bồ-tát hãy còn nghe dị luận của ngoại đạo, huống chi là lời Phật dạy. Không phạm là đang chuyên học giới nơi tạng Bồ-tát, chưa thể kịp khắp.
Nếu Bồ-tát đối với tạng Bồ-tát không tạo phương tiện, xả bỏ không học, một mực tu tập kinh pháp của Thanh văn, đó gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy không khởi nhiễm ô.
Nếu Bồ-tát đối với lời Phật giảng nói, không tạo phương tiện, xả bỏ không học, trái lại học tập luận tà của ngoại đạo, kinh điển thế tục, đó gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô. Không phạm nếu đúng là thông minh, có thể thọ học nhanh chóng. Hoặc đã học từ lâu không quên, hoặc tư duy biết nghĩa. Hoặc đối với pháp Phật quán sát đầy đủ, đạt được trí bất động. Hoặc ở trong mỗi ngày đã bỏ ra hai phần thọ học kinh Phật, một phần thọ học ngoại điển. Đấy gọi là không phạm.
Như vậy, Bồ-tát giỏi ở sách thế tục, tà luận của ngoại đạo, ưa thích không xả, không khởi tưởng từ bỏ, đấy gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô.
Nếu Bồ-tát nghe pháp nơi tạng Bồ-tát với nghĩa sâu xa, nghĩa chân thật, vô lượng thần lực của chư Phật, Bồ-tát nhưng chê bai không thọ, cho là không lợi ích, không phải là Như Lai thuyết giảng, cũng không thể tạo an lạc cho chúng sinh, đó gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô.
Bồ-tát hoặc tự tâm tư duy bất chánh nên hủy báng, hoặc tùy thuận người khác nên hủy báng, Bồ-tát nầy nghe nói về đệ nhất nghĩa sâu xa, không sinh tâm hiểu biết. Bồ-tát nầy nên khởi tâm tín, tâm không quanh co dua nịnh để học hỏi: Ta đã lớn, không phải mù mà không có mắt tuệ, tuệ nhãn của Như Lai như vậy là đã tùy thuận giảng nói, nêu giảng như thế là chưa kết thúc. Vì sao khởi sự chê bai? Bồ-tát nầy tự ở nơi xứ không hiểu biết. Như vậy Như Lai hiện pháp tri kiến, chánh quán chánh hướng, không phạm là do không hiểu chỗ mình hủy báng.
Nếu Bồ-tát do tâm sân hận, tự khen đức mình, chê bai người khác, đó gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô. Không pha-m là khi chê bai ngoại đạo, xưng dương pháp Phật, hoặc dùng phương tiện khiến kẻ kia điều phục, khiến người không tin sinh tin, khiến người tin rồi thêm rộng lớn.
Nếu Bồ-tát nghe có chỗ thuyết pháp, có chỗ luận quyết định, nhưng do tâm kiêu mạn, tâm sân hận, nên không đến nghe, đấy gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô. Nếu phạm do biếng nhác lười trễ thì phạm nầy chẳng khởi nhiễm ô. Không phạm là do không hiểu, hoặc bị bệnh, hoặc không có sức. Hoặc nơi kia thuyết pháp điên đảo, hoặc tâm hộ trì người giảng nói. Hoặc thường được nghe, đã thọ trì, đã hiểu nghĩa, hoặc đa văn, hoặc nghe thọ trì và như thuyết mà hành, hoặc tu thiền định, không muốn tạm bỏ. Hoặc vì độn căn khó ngộ, khó thọ, khó trì, không đến, đều không phạm.
Nếu Bồ-tát coi thường người thuyết pháp, không sinh tâm cung kính, đùa cợt chê bai, chỉ chấp văn tự, không dựa vào nghĩa thật, đó gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô.
Nếu Bồ-tát trụ nơi giới luật nghi, thấy những việc chúng sinh làm do tâm sân hận nên không cùng đồng sự. Đó là các việc suy nghĩ về hoặc đi đường, về sự hưng khởi tạo lợi ích như pháp, hoặc làm ruộng, hoặc chăn bò, hoặc hòa giải tranh tụng, hoặc hội tốt, hoặc phước nghiệp, những việc như vậy không cùng đồng sự, đó gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô. Nếu phạm do biếng nhác lười trễ thì chẳng khởi nhiễm ô. Không phạm là hoặc bị bệnh, hoặc không có sức, hoặc kẻ kia tự mình có thể làm, hoặc kẻ kia tự có nhiều bạn, hoặc việc làm ấy là phi pháp phi nghĩa, hoặc đó là phương tiện khiến kẻ kia điều phục, hoặc trước đã có hẹn với người khác, hoặc kẻ kia có oán, hoặc tự tu nghiệp thiện không muốn tạm bỏ, hoặc tánh ám độn, hoặc ý hộ nhiều người, hoặc hộ tăng chế. Những việc không cùng đồng ấy, đều không phạm.
Nếu Bồ-tát thấy người bệnh tật, nhưng do tâm sân hận không đến chăm sóc, đó gọi là phạm, là phạm rất nhiều, đó là phạm khởi nhiễm ô. Nếu phạm do biếng nhác lười trễ thì phạm nầy không khởi nhiễm ô. Không phạm là khi mình mắc bệnh, hoặc không có sức, hoặc dạy người có sức tùy thuận chăm sóc, hoặc biết người kia tự có bà con, hoặc người kia có lực có thể tự sửa sang sắp đặt, hoặc vì bệnh thường phát, hoặc tu thắng nghiệp không thể tạm bỏ, hoặc ám độn, khó ngộ, khó thọ, khó trì, trụ trong duyên nạn, hoặc trước có chăm sóc bệnh người khác.
Như bệnh sự, cùng khổ cũng vậy.
Nếu Bồ-tát thấy chúng sinh đời nay đời sau tạo nghiệp ác, nhưng do tâm hiềm hận, không vì họ giảng nói điều chân chính, đó gọi là pha-m, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô. Không phạm là khi tự mình không có trí, hoặc không có sức. Hoặc khiến cho người có lực nói, hoặc biết kẻ kia tự có lực, kẻ kia tự có thiện tri thức, hoặc tạo phương tiện khiến kẻ kia điều phục, như trước đã nói. Hoặc vì lúc đang nói đối với mình chỉ thêm hận. Hoặc nói ra lời ác, hoặc thọ nhận những điên đảo, hoặc không ái kính. Hoặc vì người kia tánh xấu xa tàn bạo.
Nếu Bồ-tát thọ ân huệ của người khác, nhưng tâm hiềm hận, không đem sự việc hoặc bằng, hoặc hơn để đền đáp cho họ, đó gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô. Nếu phạm do biếng nhác lười trễ thì phạm nầy không khởi nhiễm ô. Không phạm là khi tạo phương tiện nhưng không có sức, hoặc dùng phương tiện khiến kẻ kia điều phục, hoặc muốn báo ân nhưng kẻ kia không nhận.
Nếu Bồ-tát thấy các chúng sinh có bà con bị nạn, về tài sản vật chung, nhưng do tâm hiềm hận, nên không vì họ chỉ bày nhằm trừ diệt lo buồn, đó gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô. Nếu phạm do lười biếng trễ nải thì phạm nầy không khởi nhiễm ô. Không phạm là như trong phần không đồng sự đã nói ở trước.
Nếu Bồ-tát có người đến cầu xin thức ăn uống, y phục, nhưng do tâm sân hận nên không thể thí cho, đấy gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô. Nếu phạm do biếng nhác lười trễ thì phạm nầy không khởi nhiễm ô. Không phạm là khi mình không có gì, hoặc họ cầu xin vật phi pháp, vật không lợi ích cho họ, hoặc dùng phương tiện khiến kẻ kia điều phục, hoặc vì kẻ kia phạm vương pháp, ý hộ vua, hoặc hộ tăng chế.
Nếu Bồ-tát thâu nhận đồ chúng, nhưng do tâm sân hận nên không răn dạy đúng như pháp, không thể tùy thuận thời theo các Bà-la-môn, cư sĩ y phục, thức ăn uống, nệm nằm, thuốc men, nhà cửa, tùy thời cung cấp, đó gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô. Nếu phạm do biếng nhác, lười trễ, buông lung thì không khởi nhiễm ô. Không phạm là dùng phương tiện khiến kẻ kia điều phục, hoặc hộ Tăng chế, hoặc bị bệnh, hoặc không có sức, hoặc sai người có sức nói, hoặc kẻ kia có sức, có nhiều đại đức, tri thức, tự cầu các vật dụng, hoặc đã từng thọ giáo, tự mình biết pháp, hoặc đó là ngoại đạo trộm pháp không thể điều phục.
Nếu Bồ-tát do tâm hiềm hận không tùy thuận người, đó gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô. Nếu phạm do biếng nhác, lười trễ thì phạm nầy không khởi nhiễm ô. Không phạm là khi kẻ kia muốn làm việc không như pháp, hoặc bị bệnh, không có sức, hoặc hộ Tăng chế, hoặc kẻ kia tuy như pháp nhưng lại khiến nhiều người khởi việc phi pháp, hoặc để hàng phục ngoại đạo, hoặc tạo phương tiện khiến kẻ kia điều phục.
Nếu Bồ-tát biết các chúng sinh có công đức thật, nhưng do tâm hiềm hận, không hướng đến người kia mà nói, cũng không khen ngợi, hoặc có khen ngợi nhưng không nói lành thay, đấy gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô. Nếu phạm do biếng nhác, lười trễ, buông lung thì phạm nầy không khởi nhiễm ô. Không phạm là biết kẻ kia ít ham muốn, ý hộ cho kẻ kia, hoặc là bị bệnh, không có sức. Hoặc dùng phương tiện khiến kẻ kia điều phục. Hoặc hộ tăng chế, hoặc khiến người kia khởi phiền não, khởi vui mừng quá mức, khởi kiêu mạn, khởi phi nghĩa. Hoặc công đức thật mà tợ như đức không thật, hoặc nói thiện thật mà tợ như nói phi thiện. Hoặc vì phá trừ tà kiến của ngoại đạo. Hoặc đợi nói xong.
Nếu Bồ-tát thấy có chúng sinh nên đáng quở trách, đáng điều phục, đáng phạt, đáng đuổi, nhưng do tâm nhiễm ô nên không quở trách, không phạt, không đuổi, đó gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô. Nếu phạm do biếng nhác, lười trễ, buông lung, thì không khởi nhiễm ô. Không phạm là khi kẻ kia không thể sửa trị, không thể cùng nói, không thể răn dạy, khởi nhiều hiềm hận. Hoặc quán thời, hoặc sợ nhân nên kẻ kia khởi mâu thuẫn, tranh cãi, hoặc cùng nhau kiện tụng. Hoặc tranh cãi với chư Tăng, hoặc hoại Tăng. Hoặc kẻ kia không dua nịnh, quanh co, biết hổ thẹn dần dần tự sửa đổi.
Nếu Bồ-tát thành tựu các loại thần lực, người đáng khiến sợ hãi thì khiến sợ hãi, người đáng tiếp dẫn thì tiếp dẫn, vì nhằm khiến chúng sinh hành hóa tín thí nhưng Bồ-tát không dùng thần thông để khiến sợ hãi, hoặc tiếp dẫn, đó gọi là phạm, là phạm rất nhiều, phạm nầy khởi nhiễm ô. Không phạm là khi chúng sinh ấy lại khởi nhiễm chấp, ngoại đạo phỉ báng Thánh cho là thành tựu tà kiến. Hoặc kẻ kia phát cuồng, hoặc tăng thêm thọ khổ. Khởi giới Bồ-tát nầy, Phật đã giảng nói nhiều nơi trong Tu-đa-la, là giới luật nghi, giới nhiếp pháp thiện, giới nhiếp chúng sinh. Giới luật nghi nhiếp của Bồ-tát, là tạng Ma-đắc-lặc-già nơi tạng Bồ-tát, hòa hợp nói. Bồ-tát phải siêng năng tinh tấn thọ trì, khởi tâm cung kính hết mực, chuyên tâm tu học, theo người chánh thọ, thọ rồi thì thanh tịnh, đem tâm muốn học, tâm Bồ-đề, tâm tạo lợi ích cho chúng sinh, từ khi mới thọ giới, hết lòng hộ trì, có phạm điều gì liền như pháp sám hối. Tất cả chỗ Bồ-tát phạm, phải biết là thuộc về Đột-kiết-la, phải hướng đến người Đại thừa, Tiểu thừa, có sức giải thích lời nói, đủ sức thọ nhận, người hối cải như pháp sám hối.
Nếu Bồ-tát do phiền não tăng thượng phạm xứ pháp Ba-la-di, mất giới luật nghi, phải nên thọ lại. Nếu do phiền não phẩm trung, phạm xứ pháp Ba-la-di, thì phải hướng đến ba người hoặc hơn ba người, quỳ dài chấp tay, tác sám hối Đột-kiết-la, nói tội danh đã phạm, thưa thế nầy: Đại đức xin nhớ nghĩ! Con tên gì… vượt Tỳ-ni Bồ-tát, việc như trước đã nói, phạm tội Đột-kiết-la, phần còn lại như trong pháp sám hối tội Đột-kiết-la của Tỳkhưu đã nói. Nếu do phiền não phẩm hạ phạm xứ pháp Ba-la-di và phạm các thứ khác, thì hướng đến một người xin sám hối. Nếu không có người như pháp, thì nên tự khởi tâm thanh tịnh mà sám hối, tự nghĩ: Ta trọn không phạm lại tội nầy, ở trong đời vị lai luôn thâu giữ giới luật nghi, nếu có bị phạm như thế liền dứt trừ.
Nếu không có bậc đầy đủ công đức như vậy, để có thể theo vị ấy thọ giới Bồ-tát, thì Bồ-tát nên ở trước tượng Phật tự thọ. Nên thọ như vầy: Sửa y phục ngay thẳng, trịch y bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, cúi mình chấp tay, thưa: Con tên là…, bạch hết chư Phật và các chúng Bồ-tát đại địa trong mười phương thế giới, con nay ở trước chư Phật, Bồ-tát thọ tất cả giới Bồ-tát, giới luật nghi, giới nhiếp pháp thiện, giới nhiếp chúng sinh, các giới nầy, hết thảy Bồ-tát đời quá khứ đã học, hết thảy Bồ-tát đời vị lai sẽ học, hết thảy Bồ-tát đời hiện tại đang học.
Lần thứ hai, lần thứ ba cũng thưa như vậy. Thưa xong thì đứng dậy, ngoài ra như trước nói.
Nếu Bồ-tát có chỗ phạm, thì không phạm một cách hoàn toàn. Như Đức Thế Tôn dạy: Bồ-tát khởi phiền não sân là phạm, thì phải thọ lại, không phải khởi tham dục, nên biết nghĩa nầy.
Bồ-tát khởi ái niệm đối với chúng sinh tăng thượng. Việc làm của Bồ-tát, tất cả có thể làm, đáng làm mà không làm, không đáng làm mà làm, là phạm, nên thọ lại. Bồ-tát sân giận đối với chúng sinh, không thể tự độ mình và độ người, cũng không thể làm những việc mà Bồ-tát phải làm. Như vậy, không làm những việc đáng làm, là phạm, phải nên thọ lại. Nên biết Bồ-tát phạm hạ trung thượng thì như nơi phẩm Bốn nhiếp đã nói. Nếu Bồ-tát đối với giới luật nghi nầy thành tựu đầy đủ ba chánh pháp thì được an lạc trụ: Một là phương tiện đầy đủ. Hai là tâm tịnh đầy đủ. Ba là nhân gốc đầy đủ.
Bồ-tát đối với giới không thiếu sót, mất mát, nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh luôn không phạm, tự nói ra các việc xấu, đấy gọi là phương tiện đầy đủ.
Bồ-tát vì pháp xuất gia, không vì thân mạng, vì nghĩa lý, vì thiền định, không vì tài lợi, vì Sa-môn vì Niết-bàn, không vì phi nghĩa, không vì biếng nhác, nên tinh tấn không lùi, không hành pháp bất thiện, xấu ác, phiền não, thọ nhận thì có quả báo thiêu đốt và sinh già bệnh chết ở đời vị lai đấy gọi là tâm tịnh đầy đủ.
Bồ-tát vốn lúc ở đời khác đã rộng tu các pháp thiện, nên đời nay không thiếu y thực, giường nệm, thuốc thang và các vật dụng, có thể tu tuệ thí, đấy gọi là nhân gốc đầy đủ. Bồ-tát trụ nơi giới luật nghi, có đầy đủ ba chánh pháp, gọi là an lạc trụ, trái với những điều đó gọi là tạo đủ ba bất chánh pháp, phải biết đó là khổ trụ. Đấy gọi là lược nói, nói rộng thì tất cả giới của tại gia và xuất gia, nên biết tất cả giới nầy phân biệt thành những nan giới (giới khó).
Nan giới lược nói có ba thứ: Bồ-tát rất đầy đủ về tài sản của cải, nhiều uy lực, có thể xả bỏ để xuất gia thọ giới Bồ-tát, đấy gọi là nan giới thứ nhất.
Bồ-tát nếu gặp nạn gấp có thể mất mạng, đối với giới đã thọ vẫn không khiến khuyết giảm, huống gì là phạm, đấy gọi là nan giới thứ hai.
Bồ-tát đối với tất cả sự tu hành, tất cả chánh thọ, tất cả nhớ nghĩ, tâm trụ không loạn, cho đến mạng chung, đối với giới vi tế trọn không khuyết giảm, huống gì là giới trọng, đấy gọi là nan giới thứ ba.
Tất cả môn giới có bốn thứ: Một là chánh thọ giới. Hai là tánh giới. Ba là tập giới. Bốn là phương tiện thành giới.
Chánh thọ giới nghĩa là Bồ-tát đã thọ đủ ba thứ giới luật nghi, đó là: Giới luật nghi, giới nhiếp pháp thiện, giới nhiếp chúng sinh.
Tánh giới nghĩa là Bồ-tát tánh vốn tự hiền thiện, thân khẩu ý thanh tịnh.
Tập giới nghĩa là Bồ-tát vốn từ các đời trước, đối với ba thứ giới đã từng tu tập, do có nhân xưa, nên tất cả hành ác tâm thường nhàm chán, muốn tu hành thiện.
Phương tiện thành giới nghĩa là Bồ-tát nương nơi bốn nhiếp sự, đối với các chúng sinh hành nghiệp thân khẩu ý thiện.
Thiện nhân giới tức có năm thứ: Một là tự trì tịnh giới. Hai là trao truyền cho người khác. Ba là tán thán giới tịnh. Bốn là thấy người đồng pháp tâm sinh hoan hỷ. Năm là dù có hủy phạm luôn như pháp sám hối diệt trừ.
Nhất thiết hành giới là sáu thứ, bảy thứ kia lược nói là mười ba thứ, hồi hướng lên đại Bồ-đề, do giới rộng thâu giữ, nên gọi là rộng.
Tham chấp dục lạc hay tự thân hành khổ hạnh, xa lìa cả hai bên nầy, đó gọi là xứ hoan hỷ không tội. Đến hết thọ mạng, thường không trả lại giới, tất cả lợi dưỡng, hạnh tà luận của ngoại đạo, các phiền não trói buộc, không thể xâm lấn lừa gạt, cũng không thể cướp đoạt, đấy gọi là giới vững chắc.
Trang nghiêm thành tựu, nên biết là trang nghiêm giới, nghĩa là địa Thanh văn, lìa sát sinh v.v… Giới luật nghi, giới nhiếp pháp thiện, giới nhiếp chúng sinh, giới thuận, giới không thuận, giới hộ tùy hộ, là tướng báo của bậc đại nhân, ý báo tăng thượng, báo cõi thiện, báo lợi ích chúng sinh.
Giới trừ não có tám thứ. Bồ-tát khi bắt đầu khởi suy nghĩ: Như ta không muốn khiến người khác sát sinh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, nói hai lời, nói thô ác, nói lời thêu dệt, dùng tay, đá, gậy gộc xúc não với ta. Giống như ta không muốn, kẻ kia cũng vậy. Vì sao đem điều nầy thêm vào cho người khác? Vì đây không sát kia, cho đến không lấy tay, đá, gậy… xúc não. Suy nghĩ như vậy rồi, không dùng tám việc xúc não chúng sinh, đấy gọi là Bồ-tát trừ não giới.
Về giới đời nầy đời khác vui có chín thứ: Chỗ giá thì giá, chỗ khai thì khai, chỗ thâu giữ thì thâu giữ người đáng hàng phục thì hàng phục, đó là bốn thứ giới đối với nghiệp thân khẩu. Bồ-tát lại còn có đủ Bố thí Ba-la-mật, Nhẫn nhục Ba-la-mật, Tinh tấn Ba-la-mật, Thiền Ba-la-mật, Trì giới Ba-la-mật, Bát nhã Ba-la-mật, đó là năm thứ giới. Như vậy lược nói chín thứ giới, Bồ-tát tự mình và người, đời nầy trụ pháp lạc và vui đến đời sau, vì thế cho nên nói đời nầy đời khác vui.
Giới thanh tịnh có mười thứ: Một là khi bắt đầu thọ giới, vì Sa-môn, vì Bồ-đề, không vì thân mạng. Hai là trọn không thối giảm, khởi lên tâm nghi hối. Ba là không vượt qua trì giới, khởi phi xứ nghi hối. Bốn là xa lìa lười biếng, không ưa ngủ nghỉ, ngày đêm tinh tấn chuyên cần thành tựu pháp thiện. Năm là thâu giữ tâm không để buông lung, như năm điều không buông lung đã nói ở trước. Sáu là tu tập chánh nguyện, không mong tài lợi và sinh lên cõi trời, thường tu phạm hạnh. Bảy là thâu giữ oai nghi khi làm các việc đều khéo léo thể hiện oai nghi, phương tiện tu thiện, thân khẩu như pháp, thực hành chánh mạng đầy đủ, tà mạng, quanh co các thứ tội ác thảy đều xa lìa. Tám là xa lìa nhị biên, xa lìa tùy thuận dục lạc, xa lìa khổ hạnh. Chín là tu tập ra khỏi ác, các kiến và dị học đều xa lìa. Mười là đối với giới đã thọ không khuyết không giảm. Mười thứ nầy gọi là giới thanh tịnh, gọi là Bồ-tát đại giới tạng đắc quả Bồ-đề. Bồ-tát nương vào giới nầy rồi, đầy đủ giới Ba-la-mật, chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, thậm chí nếu chưa thành tựu đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng cũng được năm thứ phước lợi: Một là được hết thảy chư Phật hộ niệm. Hai là trọn thời tâm kia hoan hỷ. Ba là xả thân sinh ở chỗ nào, thường cùng các chúng Bồ-tát tịnh giới làm thiện tri thức. Bốn là vô lượng công đức tụ, "giới độ" thành tựu. Năm là đời nầy đời sau tánh giới thành tựu. Như trước đã nói, tự tánh… chín thứ giới, phải biết là thuộc về ba cõi, đó gọi là giới luật nghi, giới nhiếp pháp thiện, giới nhiếp chúng sinh. Lại có ba thứ, lược nói có thể làm ba việc của Bồ-tát: Một là giới luật nghi có khả năng khiến tâm trụ. Hai là giới nhiếp pháp thiện, tự thành tựu pháp Phật. Ba là giới nhiếp chúng sinh là thành tựu chúng sinh. Đó gọi là tất cả việc của Bồ-tát, đó là đó là hiện pháp, tâm được trụ an lạc, thân tâm không mệt mỏi, có thể đầy đủ pháp Phật thành tựu cho chúng sinh. Đó gọi là giới Bồ-tát, gọi là phước giới, gọi là những việc làm vô dư vô thượng của Bồ-tát. Hết thảy Bồ-tát đời quá khứ cầu đại Bồ-đề đã học ở trong đấy, vị lai sẽ học, hiện tại đang học.
Thế nào là Bồ-tát hành Nhẫn nhục Ba-la-mật? Lược nói có chín thứ: Một là tự tánh nhẫn. Hai là nhất thiết nhẫn. Ba là nan nhẫn. Bốn là nhất thiết môn nhẫn. Năm là thiện nhân nhẫn. Sáu là nhất thiết hành nhẫn. Bảy là trừ não nhẫn. Tám là đời nầy đời khác lạc nhẫn. Chín là thanh tịnh nhẫn.
Thế nào là tự tánh nhẫn? Bồ-tát dựa vào sức của tư duy, nếu như sức của tánh có thể nhẫn việc làm không lợi ích của người khác thì tất cả các nhẫn nương vào tâm vô tham, tâm bi thuần nhất, đấy gọi là tự tánh nhẫn.
Thế nào là Bồ-tát hành nhất thiết nhẫn? Lược nói có hai loại: Một là tại gia. Hai là xuất gia. Hai loại nầy mỗi loại đều có ba thứ: Một là nhẫn đối với người không tạo lợi ích. Hai là nhẫn an khổ. Ba là nhẫn pháp hiểu rõ tư duy.
Nhẫn đối với người không tạo lợi ích, nghĩa là từ xa xưa đến nay, khổ lớn không gián đoạn vì người khác không tạo lợi ích, hiện tiền lại bức thiết, Bồ-tát tư duy như thế nầy: Tự nghiệp của ta quá xấu ác, vốn xưa đã tạo tội nên ngày nay phải chịu khổ. Hôm nay nếu không nhẫn thì trở lại làm nhân duyên khổ lớn cho đời sau. Ta nay vì việc tự tạo khổ lần nữa, không do người khác. Vả lại, thân ta và người kia đều là hành khổ của hết thảy pháp hữu vi. Kẻ kia không biết nên tăng thêm khổ cho ta, ta nay có trí vì sao lại muốn tăng thêm khổ cho kẻ ấy. Lại nữa, Thanh văn tự lợi hãy còn không đem khổ thêm cho người khác, huống gì là Bồ-tát luôn tạo lợi ích rộng cho chúng sinh. Tư duy như vậy rồi, tu tập năm thứ tưởng, đối với người oán kẻ thân, người không oán không thân, thuộc phẩm hạ, trung, thượng, hoặc khổ hoặc vui, có đức, không đức, chúng sinh như vậy, tất cả đều có thể nhẫn. Những gì là năm thứ tưởng? Một là tưởng vốn là thân thuộc. Hai là tưởng pháp số. Ba là tưởng vô thường. Bốn là tưởng khổ. Năm là tưởng thâu giữ.
Tưởng vốn là thân thuộc nghĩa là Bồ-tát khởi tư duy thế nầy: Chúng sinh từ xa xưa đến nay hầu hết đều là thân thuộc, hoặc là cha, hoặc là mẹ, anh em chị em, Hòa thượng, A-xà-lê, hoặc là thầy, hoặc là những bậc thầy đáng tôn kính. Tư duy như vậy, xả bỏ tưởng oán ghét không tạo lợi ích, khởi tưởng vốn thân thuộc, nương vào tưởng vốn thân thuộc rồi, đối với người không tạo lợi ích đều có thể gắng nhẫn.
Tưởng pháp số nghĩa là Bồ-tát khởi tư duy thế nầy: Nhân duyên hành số, pháp số, không có ngã, chúng sinh, thọ mạng, không có kẻ sinh, kẻ mắng, kẻ đánh, kẻ tranh chấp. Khi tư duy đúng đắn như thế, xa lìa tưởng chúng sinh, trụ nơi tưởng pháp số, nương vào tưởng pháp số rồi, đối với người không tạo lợi ích đều có thể an nhẫn.
Tưởng vô thường nghĩa là Bồ-tát tư duy: Tất cả chốn sinh của chúng sinh, hết thảy đều là pháp vô thường hoại diệt, ở trên lại có việc không tạo lợi ích, muốn đoạn mạng kia, như vậy tánh vô thường nơi chúng sinh là pháp chết. Người trí không khởi tâm không thanh tịnh, huống gì lại dùng tay, đá, đao, gậy, nhằm đoạn mạng kia. Chánh tư duy như vậy thì lìa tưởng thường, kiên cố, trụ tưởng vô thường, không kiên cố. Nương nơi tưởng vô thường rồi, đối với người không tạo lợi ích thảy đều có thể an nhẫn.
Tưởng khổ là Bồ-tát quán thế nầy: Người đầy đủ đại lực hãy còn không lìa ba khổ, đó là hành khổ, biến dịch khổ và khổ khổ, huống gì là người không đầy đủ đại lực. Bồ-tát khi quán như vậy, đối với chúng sinh thường khổ muốn khiến họ xa lìa khổ. Vì sao thêm báo lại tăng thêm khổ cho kẻ kia? Khi chánh tư duy như vậy, sẽ lìa tưởng lạc, trụ nơi tưởng khổ, có tưởng nhẫn khổ xong, đối với người không tạo lợi ích đều có thể gắng nhẫn.
Tưởng thâu giữ nghĩa là Bồ-tát tư duy thế nầy: Ta vì tất cả chúng sinh nên phát tâm Bồ-đề, đối với tất cả chúng sinh tác tưởng thân thuộc: Ta nên thâu giữ tất cả khiến được an vui. Không nên đối với các chúng sinh thân thuộc là xứ cần tạo lợi ích, lại gia thêm việc không tạo lợi ích. Khi chánh tư duy như vậy, sẽ diệt trừ tưởng khác, trụ trong tưởng thâu giữ, nương vào tưởng thâu giữ rồi, đối với người không tạo lợi ích đều có thể an nhẫn.
Thế nào là nhẫn? Nếu không sân, không báo, tâm không ôm hận, đấy gọi là nhẫn. Nhẫn an khổ nghĩa là Bồ-tát tư duy thế nầy: Ta từ xưa đến nay, vì luôn cầu các việc dục nên tạo những nhân khổ, chịu vô lượng khổ lớn.
Đó là sự nghiệp kinh doanh buôn bán ở đời để sống, trồng trọt, phụng sự nhà vua… các khổ như vậy, đều trải qua đầy đủ, đều là ngu tối nên không biết lỗi lẫm, nay phải tu học nhân vui, đầy đủ pháp thiện, thì vô lượng các khổ thảy đều an nhẫn, huống gì là khổ nhỏ. Khi chánh tư duy như vậy, học tuệ đầy đủ, tất cả việc khổ thảy đều có thể an nhẫn. Tất cả các sự khổ lược nói có tám thứ: Một là xứ y. Hai là xứ thế pháp. Ba là xứ oai nghi. Bốn là xứ nhiếp pháp. Năm là xứ Tỳ-khưu tùy giới. Sáu là xứ phương tiện. Bảy là xứ lợi chúng sinh. Tám là xứ các chỗ tạo tác.
Xứ y nghĩa là bốn pháp nương dựa, nương nơi chánh pháp xuất gia, đắc phần Tỳ-khưu. Bồ-tát bị các thứ thô tạp xấu ác không cung kính và gây trở ngại không đúng lúc, tâm không buồn khổ, Bồ-tát đối với các khổ kia, không bỏ tinh tấn, như thế gọi là an nhẫn y khổ.
Xứ thế pháp có chín loại: Một là không lợi. Hai là không khen. Ba là chê bai. Bốn là khổ. Năm là pháp hoại hủy hoại. Sáu là pháp tận diệt tận. Bảy là pháp lão suy lão. Tám là pháp bệnh hiện bệnh. Chín là pháp tử hiện tử. Các thế pháp nầy, hoặc lìa hoặc hợp có thể sinh các khổ, đấy gọi là xứ thế pháp. Bồ-tát đối với các khổ kia không bỏ tinh tấn, như thế gọi là an nhẫn nơi thế pháp khổ.
Xứ oai nghi có bốn oai nghi là đi, đứng, ngồi, nằm. Bồ-tát nầy hoặc đi, hoặc ngồi, ngày đêm hai thời, trừ bỏ ấm chướng, tâm được thanh tịnh, không nằm phi thời, giường nằm nệm ngồi trải bằng cỏ, lá, nhân đấy mệt nhọc sinh các khổ, thảy đều có thể nhẫn. Bồ-tát đối với các khổ kia không bỏ tinh tấn, đó gọi là an nhẫn nơi oai nghi khổ.
Xứ nhiếp pháp có bảy thứ: Cúng dường báu, cúng dường đức, thưa hỏi, thọ nhận chánh pháp, rộng vì người nói, dùng âm thanh vi diệu để tán thán, một mình yên tịnh tư duy, quán sát xứng lượng, nhớ nghĩ thâu nhận, tu tập chỉ quán. Nếu Bồ-tát thâu giữ bảy pháp nầy làm phương tiện tu tập, thì các khổ v đã khởi đều có thể an nhẫn, trọn không nhân đấy mà bỏ chánh phương tiện.
Xứ Tỳ-khưu tùy giới có bảy thứ: Một là hủy hình đẹp, bỏ râu tóc, xả tướng thế tục. Hai là đắp y hoại sắc. Ba là trừ bỏ việc làm thế tục, không như pháp; tâm chánh niệm trụ. Bốn là nương vào người mà sống, bỏ sự nghiệp thế tục. Năm là suốt đời theo người khác xin y, không cất chứa. Sáu là suốt đời ngăn cản năm dục của người, thâu giữ các căn môn, xả phi phạm hạnh. Bảy là suốt đời xả bỏ các thứ vui chơi như ca múa, xướng hát. Những thứ như vậy đã tạo ra những gian nan, Tỳ-khưu hành giới do vậy sinh khổ. Bồ-tát an nhẫn không xả bỏ tinh tấn. Tinh tấn, siêng năng nghĩa là Bồ-tát tinh tấn cúng dường Tam bảo, thọ trì đọc tụng kinh tạng Bồ-tát, biên chép, giải nói và suy nghĩ về các nghĩa ấy, tăng thêm chuyên cần, tinh tấn để tu tập Thánh đạo, do đấy sinh khổ, Bồ-tát an nhẫn không do đấy mà bỏ tinh tấn.
Xứ lợi chúng sinh lược nói có mười một việc, như trước đã nói, do đấy sinh khổ, Bồ-tát an nhẫn, không nhân đấy mà bỏ tinh tấn.
Xứ các chỗ tạo tác thì sự nghiệp của người xuất gia là y bát…, sự nghiệp của người tại gia là tạo tác để sinh sống, nhân đó sinh khổ, Bồ-tát an nhẫn không nhân đấy mà bỏ tinh tấn.
Bồ-tát tuy thọ các khổ, nhưng quyết phải an nhẫn tu Bồ-đề vô thượng, không thể không tu tập, tu tập rồi trọn không thối chuyển, tâm thường hoan hỷ, không sinh nhiễm ô. Đó gọi là pháp nhẫn an khổ.
Nhẫn tư duy giải nghĩa là Bồ-tát đối với pháp phải lựa chọn đúng đắn, khéo quán sát mở bày, đối với tám thứ xứ giải thâm nhập buộc giữ niệm, đó là công đức Tam bảo, là nghĩa chân thật, là lực đại thần thông của chư Phật Bồ-tát, hoặc nhân, hoặc quả, được nghĩa thích hợp, đắc nghĩa phương tiện, nhận biết về hành xứ. Lại nữa, giải có hai nguyên do: Một là tu tập lâu xa, hai là được vui tịnh trí. Đấy gọi là Bồ-tát hành nhất thiết nhẫn.
Nương vào ba loại phân biệt, nói rộng là nan nhẫn…
Thế nào là nan nhẫn? Lược nói có ba thứ: Nếu Bồ-tát đối với chúng sinh thấp kém, không tạo lợi ích cho mình, đều có thể an nhẫn, đấy gọi là nan nhẫn thứ nhất.
Nếu đối với người giúp việc, tự có thể gắng nhẫn, đó gọi là nan nhẫn thứ hai.
Người thuộc dòng họ thấp kém, khởi lỗi tăng thượng mà có thể an nhẫn, đó gọi là nan nhẫn thứ ba.
Thế nào là nhất thiết môn nhẫn của Bồ-tát? Lược nói có bốn thứ: Một là an nhẫn việc không tạo lợi ích của người thân thuộc. Hai là an nhẫn việc không tạo lợi ích của oán gia. Ba là an nhẫn những việc không tạo lợi ích của người không thân không oán. Bốn là an nhẫn những việc không tạo lợi ích thượng, trung, hạ.
Thế nào là thiện nhân nhẫn? Lược nói có năm thứ.
Bồ-tát nầy trước thấy hành nhẫn có nhiều phước lợi, nghĩa là người tu hành nhẫn, ở đời vị lai không có nhiều kết hận, không nhiều trái lìa, tâm nhiều hỷ lạc, khi chết không hối, thân hoại mạng chung sinh vào đường thiện, sinh lên cõi trời. Thấy những công đức phước lợi như vậy, nên có thể tự an nhẫn và dạy người hành nhẫn, đối với người khác luôn ca ngợi công đức nhẫn nhục, thấy người hành nhẫn sinh tâm tùy hỷ.
Thế nào là Bồ-tát hành nhất thiết hành nhẫn? Nghĩa là sáu thứ, bảy thứ, lược nói là mười ba thứ. Bồ-tát thấy người không nhẫn nhục, mắc khổ báo lớn, lo sợ cho nên nhẫn. Vì tâm từ, tâm bi, tâm gần gũi sâu xa, tâm thương yêu đối với chúng sinh cho nên nhẫn. Ân cần muốn cầu Bồ-đề vô thượng, muốn đầy đủ nhẫn nhục Ba-la-mật làm nhân cho nên nhẫn. Do sức của nhẫn nên xuất gia.
Đức Thế Tôn dạy: Thường phải đầy đủ những giới thọ trì, là xuất gia nhẫn, đấy gọi là thọ pháp nhẫn. Chủng tánh đầy đủ và trước trụ hiện tại tu tập, đó gọi là tánh nhẫn. Biết tất cả pháp không có chúng sinh, mọi nhận thức phải lìa ngôn thuyết, pháp số, đó gọi là chánh niệm pháp nhẫn. Hết thảy không tạo lợi ích nhẫn, nhất thiết nhẫn, nhất thiết xứ nhẫn, đó là một người và đại chúng hội. Tất cả thời nhẫn, nghĩa là sáng sớm, giữa trưa, chiều tối, ngày đêm, quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc bệnh, không bệnh, hoặc nằm, hoặc đứng dậy, thân luôn luôn hành nhẫn, không xúc não ai, miệng thường hành nhẫn xa lìa lời nói không thân ái, ý thường hành nhẫn không khởi sân hận, kể cả không khởi những hy vọng bất tịnh.
Thế nào là Bồ-tát hành trừ não nhẫn? Lược nói có tám thứ: Một là Bồ-tát đối với người cầu khổ, an nhẫn không não hại. Hai là đối với người ác tăng thượng hung bạo, nương vào tâm đại bi mà an nhẫn không não hại. Ba là đối với người xuất gia phạm giới, nương vào tâm đại bi mà an nhẫn không não hại. Và năm thứ tinh tấn an nhẫn không não hại. Chúng sinh khổ não vì muốn dứt trừ khổ nên cầu pháp và pháp tiếp pháp hướng pháp, như vậy nên rộng vì họ mà tuyên thuyết. Nếu chúng sinh đã làm thì thảy đều lo liệu giúp đỡ, tinh tấn hành trì, đó gọi là tám thứ trừ não nhẫn. Chúng sinh tạo hoạn nạn thì an nhẫn để dứt trừ, còn chỗ nào thiếu thốn thì an nhẫn để tạo lợi ích.
Thế nào là Bồ-tát nơi đời nầy đời khác vui thích nhẫn? Lược nói có chín thứ: Bồ-tát nầy trụ trong pháp thiện, không buông lung, có thể an nhẫn đối với các trường hợp lạnh, nóng, đói, khát, mòng muỗi đốt, chích, tiếp xúc với những thứ độc hại của gió, mặt trời, tất cả đều an nhẫn, thân tâm khổ nhọc đều an nhẫn. Rơi vào biển sinh tử, chịu sinh, già, bệnh, chết, thương xót chúng sinh chịu đủ các khổ, các thứ nhẫn nhục như vậy, Bồ-tát ở trong hiện pháp tự trụ an lạc, tất cả các ác thảy đều xa lìa, lại làm nhân duyên cho đời sau được an lạc, lại còn giúp được người đời nay đời sau an ổn vui vẻ. Vì thế nên gọi là đời nầy đời sau vui thích nhẫn.
Thế nào là Bồ-tát hành thanh tịnh nhẫn? Lược nói có mười thứ: Một là người không tạo lợi ích, không có tâm báo trả. Hai là không khởi sân hận. Ba là không có tưởng oán ghét. Bốn là thường tạo lợi ích trước như bản tâm, sau cũng vậy, luôn làm việc lợi ích, bỏ việc không tạo lợi ích. Năm là đối với người không tạo lợi ích cho mình, dùng lời nhẹ nhàng từ tạ. Sáu là nếu kẻ kia sám hối, nên nhanh chóng thọ nhận. Bảy là thấy kẻ kia không nhẫn, dùng tâm bi giúp thêm cho họ. Tám là thấy kẻ kia tu nhẫn, kính Phật thêm gấp bội. Chín là với chúng sinh sợ hãi khởi tâm bi sâu xa. Mười là đoạn trừ tất cả những lỗi không nhẫn, lìa dục đạt thanh tịnh. Mười thứ đó gọi là Bồ-tát hành thanh tịnh nhẫn. Như vậy từ tự tánh nhẫn, cho đến thanh tịnh nhẫn, là quả đại Bồ-đề rộng lớn vô lượng, nhờ nương vào nhẫn nầy mà tất đắc Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.
-------------------------
Thế nào là Bồ-tát hành Tinh tấn Ba-la-mật? Lược nói có chín thứ: Một là tự tánh tinh tấn. Hai là nhất thiết tinh tấn. Ba là nan tinh tấn. Bốn là nhất thiết môn tinh tấn. Năm là thiện nhân tinh tấn. Sáu là nhất thiết hạnh tinh tấn. Bảy là trừ não tinh tấn. Tám là đời nầy đời khác vui thích tinh tấn. Chín là thanh tịnh tinh tấn.
Thế nào là tự tánh tinh tấn? Tâm Bồ-tát nầy có thể thâu nhận vô lượng pháp thiện, tạo lợi ích an lạc cho hết thảy chúng sinh, luôn sáng rõ không gián đoạn cũng không điên đảo các thân khẩu ý nghiệp vốn khởi, đấy gọi là tự tánh tinh tấn của Bồ-tát.
Thế nào là nhất thiết tinh tấn? Lược nói có hai thứ: Một là tại gia. Hai là xuất gia. Hai thứ nầy, mỗi thứ có ba loại: Một là tinh tấn hoằng thệ. Hai là thâu giữ các pháp thiện. Ba là tạo lợi ích cho chúng sinh. Tinh tấn hoằng thệ nghĩa là Bồ-tát trước hết khởi phương tiện tinh tấn, tâm thường gắng sức, mặc áo giáp với thệ nguyện rộng lớn mà, khởi niệm thế nầy: Ta làm nhân duyên thoát khổ cho tất cả chúng sinh, đem trăm ngàn đại kiếp làm một ngày một đêm. Như vậy với số ức trăm ngàn đại kiếp ở trong địa ngục cho đến khi thành Phật, thề không thối chuyển, không đắc Bồ-đề vô thượng, trọn không xả tinh tấn, huống gì là chỉ trong thời gian ngắn thọ chịu một ít khổ. Đấy gọi là Bồ-tát hành tinh tấn hoằng thệ. Như vậy, giống với Bồ-tát hành tinh tấn hoằng thệ, khởi hiểu một ít, tin một ít rồi có thể nuôi lớn vô lượng tánh siêng năng nơi phương tiện mở bày giác ngộ, huống gì là thành tựu tinh tấn hoằng thệ như vậy. Bồ-tát vì Bồ-đề vô thượng nên tạo lợi ích cho chúng sinh, không do vì khó khăn mà sinh tưởng thối mất.
Tinh tấn thâu giữ pháp thiện là Bồ-tát lấy tinh tấn làm phương tiện để thành tựu Bố thí Ba-la-mật, làm phương tiện để thành tựu Giới, Nhẫn, Thiền định, Trí tuệ Ba-la-mật cũng như vậy. Lược nói có bảy thứ: Một là bất động, tất cả phiền não vọng tưởng, dị luận, vô lượng các khổ không thể làm cho nghiêng động. Hai là kiên cố, chỉnh đốn phương tiện. Ba là đắc vô lượng minh xứ, an trụ trong chánh niệm. Bốn là phương tiện đầy đủ, nghĩa vốn sẽ được không điên đảo nơi đạo, tùy thuận mà được. Năm là nghĩa chánh tinh tấn tạo lợi ích cho nghĩa vốn sẽ được để thành tựu nguyện. Sáu là sáng rõ, thường chuyên cần tạo phương tiện. Bảy là xa lìa kiêu mạn, tinh tấn theo phương tiện, tâm không tự khen ngợi. Bồ-tát tu bảy thứ nầy, thâu giữ các pháp thiện, phương tiện tinh tấn, chóng đầy đủ các Ba-la-mật, đắc quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Tất cả Bồ-đề pháp hành thiện, đều từ tinh tấn nầy mà thành tựu, vì thế nên tinh tấn nầy là nhân tối thượng, tối thắng, không còn gì hơn. Vì thế nên trong kinh, Đức Thế Tôn dùng mọi lời khen ngợi tinh tấn là nhân để đạt đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.
Bồ-tát hành tinh tấn, đem lợi ích cho chúng sinh có mười một thứ, như trong phẩm giới đã nói, ở đó nói giới, ở đây nói tinh tấn.
Thế nào là Bồ-tát hành nan tinh tấn? Lược nói có ba thứ: Bồ-tát tinh tấn không gián đoạn, không tưởng về y phục, thức ăn, tưởng về giường nằm, tọa cụ, tưởng thân mình, thường tu pháp thiện, đấy gọi là nan tinh tấn thứ nhất.
Bồ-tát tinh tấn như vậy cho đến xả thân thọ thân, thường tu pháp thiện, không bỏ tinh tấn, đấy gọi là nan tinh tấn thứ hai.
Bồ-tát nầy phân biệt bình đẳng, công đức đầy đủ, không nhanh không chậm, tâm không điên đảo, lấy nghĩa thành tựu tinh tấn làm lợi ích, đó gọi là nan tinh tấn thứ ba. Lại nữa, lực của các nan tinh tấn ở Bồ-tát nầy, phải biết đó là nhân thâu giữ đại bi và trí tuệ.
Thế nào là Bồ-tát hành nhất thiết môn tinh tấn? Lược nói có bốn thứ: Một là lìa bỏ pháp nhiễm ô. Hai là sinh pháp bạch tịnh. Ba là trừ sạch ba nghiệp. Bốn là trí tuệ tăng ích.
Bỏ pháp nhiễm ô nghĩa là Bồ-tát tinh tấn lìa các phiền não, chưa khởi thì không cho khởi, khởi rồi khiến cho diệt.
Sinh pháp bạch tịnh nghĩa là chưa sinh pháp thiện nên tìm mọi phương tiện khiến cho sinh, pháp thiện sinh rồi tìm cách khiến cho tăng rộng.
Trừ sạch ba nghiệp nghĩa là Bồ-tát tinh tấn làm ba nghiệp thanh tịnh, đều có thể khéo thâu giữ nghiệp thân khẩu ý. Trí tuệ tăng ích nghĩa là Bồ-tát tinh tấn được văn, tư, tu tuệ, tăng trưởng đầy đủ.
Thế nào là Bồ-tát hành thiện nhân tinh tấn? Lược nói có năm thứ: Một là không có không làm tất cả phương tiện dục do không dừng nghỉ. Hai là không thuận theo bậc dưới, nếu đã khởi bậc trung hoặc bậc thượng, thì nuôi lớn tinh tấn. Ba là không biếng nhác, dũng mãnh luôn sáng tỏ, lâu dài không gián đoạn, phương tiện tinh tấn tâm không thối mất, không dứt, không hoại. Bốn là tạo lợi ích không theo nghĩa điên đảo, tạo phương tiện thâu giữ. Năm là ân cần với phương tiện tinh tấn, nhanh chóng đạt đến đạo quả Bồ-đề vô thượng.
Thế nào là Bồ-tát hành nhất thiết hành tinh tấn? Nghĩa là sáu thứ, bảy thứ, lược nói có mười ba thứ. Sáu thứ ấy, đó là: Thường tinh tấn là thường có phương tiện. Đốn tinh tấn là đạt đến phương tiện tột cùng. Dựa vào tinh tấn là nhờ nơi sức của tinh tấn gốc. Phương tiện tinh tấn là suy nghĩ mưu tìm phương tiện thiện xảo. Bất động tinh tấn là gặp tất cả khổ không nghiêng động, cũng không hướng theo nghĩa khác. Tinh tấn không biết đủ là thắng tấn có hạn lượng thì không hoan hỷ. Bồ-tát thành tựu sáu thứ như vậy là nhất thiết hành tinh tấn, nghĩa là ân cần tinh tấn, có thể thực hiện kiên cố, đối với các pháp thiện không thể hủy hoại.
Lại có bảy thứ: Một là cùng với dục đều tinh tấn, ân cần mong muốn phát nguyện nuôi lớn Bồ-đề vô thượng. Hai là cùng đầy đủ tinh tấn. Nơi các phiền não nhiễm ô khác tâm vẫn trụ. Đối với các pháp thiện thì tâm trụ bình đẳng. Ba là tinh tấn thắng tiến. Tâm trụ nơi các phiền não khác, phiền não như trên, đoạn phiền não kia như cứu lửa cháy đầu. Bốn là cầu tinh tấn, là mong cầu hết thảy minh xứ. Năm là học tinh tấn. Các pháp phải học như vậy, tùy theo sự thích hợp ấy mà khởi pháp tiếp pháp hướng. Sáu là tinh tấn tạo lợi ích cho chúng sinh, có mười một thứ, như trước đã nói. Bảy là tự tạo chánh phương tiện, bảo vệ tinh tấn, nếu có thiếu sót thì như pháp sám hối, đó gọi là bảy thứ. Với mười ba thứ như vậy, gọi là Bồ-tát hành nhất thiết hành tinh tấn. Bồ-tát hành trừ não tinh tấn và đời nầy đời khác vui thích tinh tấn, giống như trong phẩm nhẫn đã nói.
Thế nào là Bồ-tát hành thanh tịnh tinh tấn? Lược nói có mười thứ: Một là tùy thuận. Hai là tu tập. Ba là chuyên chú. Bốn là khéo thâu giữ. Năm là thời đầy đủ. Sáu là phân biệt tướng đầy đủ. Bảy là không thối chuyển. Tám là bất hoại. Chín là bình đẳng. Mười là hồi hướng nơi đại Bồ-đề.
Bồ-tát nầy vì dứt trừ phiền não nên tùy chỗ ứng hợp, tu tập để đối trị. Như ái trói buộc thì tu quán bất tịnh, sân thì tu tâm từ, si thì quán duyên khởi. Giác quán đảo loạn thì tu niệm An ban, mạn thì tu phân biệt giới nơi phương tiện quán. Những thứ như thế gọi là tùy thuận tinh tấn.
Bồ-tát nầy không thành tựu tinh tấn của nghiệp ban đầu, nghĩa là tâm đã chấp trụ ở bậc giáo thọ giáo giới, phương tiện tu tập, phương tiện điều phục, đấy gọi là Bồ-tát tu tập tinh tấn.
Bồ-tát nầy không tu tập tinh tấn ở bậc giáo thọ giáo giới, phương tiện trụ tâm đúng là nghiệp đầu tiên, Bồ-tát nầy đối với phương tiện ấy, chuyên tinh phương tiện, thường phương tiện, đốn phương tiện, đó gọi là tinh tấn chuyên chú.
Bồ-tát nầy nhờ vào các chỗ tôn trọng, hoặc sức của đa văn nên không thọ điên đảo, tâm kia được an trụ trong phương tiện tinh tấn, đấy gọi là tinh tấn khéo thâu giữ.
Bồ-tát nầy không thọ điên đảo như thế, khi dừng nghỉ thì tu chỉ, khi động thì tu động, khi xả thì tu xả, đấy gọi là tinh tấn thời đầy đủ.
Bồ-tát nầy đối với tướng chỉ, cử, xả, trụ nơi Tammuội khởi tướng, thường khéo quán sát, không vọng phân biệt, đấy gọi là Bồ-tát hành tinh tấn phân biệt tướng. Bồ-tát nầy nghe nói đệ nhất thắng diệu, đệ nhất thâm diệu không thể nghĩ bàn. Vô lượng Bồ-tát với phương tiện tinh tấn, tâm không tự khinh, cũng không khiếp nhược, không thiếu thắng tấn, sinh tưởng là đủ mà không cầu tiến lên, ấy gọi là Bồ-tát hành tinh tấn không thoái chuyển.
Bồ-tát nầy thường giữ gìn căn môn, ăn uống biết lượng, đầu đêm cuối đêm không ham ngủ nghỉ, phương tiện tinh tấn, tâm trụ chánh trí. Như vậy những Tam-mabạt-đề đầy đủ tinh cần, thành tựu nghĩa tạo lợi ích chân chánh, đó gọi là Bồ-tát hành tinh tấn bất hoại.
Bồ-tát nầy tạo phương tiện tinh tấn, không nhanh không chậm, bình đẳng tu tập, tất cả phương tiện bình đẳng đốn tu, đấy gọi là Bồ-tát hành tinh tấn bình đẳng.
Bồ-tát nầy với tất cả phương tiện tinh tấn đã làm đều hồi hướng về Bồ-đề vô thượng, đó gọi là Bồ-tát hành tinh tấn chánh hồi hướng.
Như vậy từ tự tánh tinh tấn, cho đến thanh tịnh tinh tấn, sẽ đắc quả Đại Bồ-đề. Bồ-tát nương vào tinh tấn ấy tức hành đầy đủ Tinh tấn Ba-la-mật, chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.
------------------
Thế nào gọi là Bồ-tát hành thiền Ba-la-mật? Lược nói có chín thứ: Một là tự tánh thiền. Hai là nhất thiết thiền. Ba là nan thiền. Bốn là nhất thiết môn thiền. Năm là thiện nhân thiền. Sáu là nhất thiết hành thiền. Bảy là trừ não thiền. Tám là đời nầy đời khác vui thích thiền. Chín là thanh tịnh thiền.
Thế nào gọi là Bồ-tát hành tự tánh thiền? Đối với tạng Bồ-tát, nghe, suy nghĩ, trước hết hành thiện thế gian xuất thế gian, một lòng an trụ, hoặc phần chỉ, hoặc phần quán, hoặc cùng cả hai loại, hoặc đều phần, đấy gọi là tự tánh thiền.
Thế nào gọi là Bồ-tát hành nhất thiết thiền? Lược nói có hai thứ: Một là thế gian. Hai là xuất thế gian. Tùy chỗ thích hợp, mỗi thứ đều có ba loại: Một là thiền hiện pháp lạc trụ, hai là thiền sinh ra Tam-muội công đức, ba là thiền tạo lợi ích cho chúng sinh. Bồ-tát hành thiền định xa lìa tất cả vọng tưởng, thân tâm dừng nghỉ, tịch diệt bậc nhất, từ cử tâm tức, lìa bỏ tham đắm nơi vị và tất cả tướng. Đấy gọi là thiền hiện pháp lạc trụ. Bồ-tát hành thiền định, sinh ra đủ các thứ Tam-muội không thể nghĩ bàn, vô lượng vô biên thuộc về chủng tánh của mười lực. Các Tam-muội kia, hết thảy hàng Thanh văn, Phật-bíchchi không biết đến tên gọi, huống gì là có thể khởi và phát sinh. Nhị thừa giải thoát, trừ nhập, nhất thiết nhập tuệ vô ngại, nguyện trí vô tránh, công đức thắng diệu. Đó gọi là thiền sinh ra Tam-muội công đức của Bồ-tát. Lợi ích cho chúng sinh có mười một thứ, như trước đã nói. Bồ-tát nương vào thiền, đối với mọi việc làm của chúng sinh, đem nghĩa lợi ích, đều cùng đồng sự để trừ các khổ. Như chỗ nên nói, biết ân báo ân, bảo vệ các sự lo sợ, các nạn buồn khổ, tất cả vì họ chỉ bày. Vật dụng sinh sống không đầy đủ thì cung cấp những thứ cần dùng, như pháp cất chứa các điều thiện có thể tùy thuận, thấy công đức thật, hoan hỷ ca ngợi, thấy người có lỗi, đem tâm từ điều phục, dùng thần lực tạo sợ hãi, hoặc khiến cho hoan hỷ, đấy gọi là lược nói nhất thiết thiền rốt ráo không gì hơn.
Thế nào gọi là Bồ-tát hành nan thiền? Lược nói có ba thứ. Bồ-tát quen tu tập thiền định thắng diệu từ lâu, đối với các Tam-muội tâm được tự tại, thương xót chúng sinh muốn cho họ được thành tựu, bỏ đệ nhất thiền lạc, sinh nơi dục giới. Đấy gọi là Bồ-tát hành nan thiền thứ nhất. Bồ-tát nương vào thiền, sinh ra vô lượng các Tammuội sâu xa không thể nghĩ bàn, vượt lên tất cả Thanh văn, Phật-bích-chi. Đó gọi là Bồ-tát hành nan thiền thứ hai. Bồ-tát nương nơi thiền chứng đắc Bồ-đề vô thượng. Đó gọi là Bồ-tát hành nan thiền thứ ba.
Thế nào gọi là Bồ-tát hành nhất thiết môn thiền? Lược nói có bốn thứ: Một là thiền có quán có giác. Hai là thiền kết hợp với hỷ. Ba là thiền kết hợp với lạc. Bốn là thiền kết hợp với xả.
Thế nào gọi là Bồ-tát hành thiện nhân thiền? Lược nói có năm thứ: Một là không tham đắm vị. Hai là cùng hành với tâm từ. Ba là cùng hành với tâm bi. Bốn là cùng hành với tâm hỷ. Năm là cùng hành với tâm xả.
Thế nào gọi là Bồ-tát hành nhất thiết hành thiền? Đó là sáu thứ, bảy thứ, lược nói có mười ba thứ: Thiền thiện, thiền vô ký hóa hóa, thiền phần chỉ, phần quán, thiền tự lợi tha lợi, thiền chánh niệm, thiền xuất sinh lực thần thông công đức, danh duyên, nghĩa duyên, chỉ tướng duyên, cử tướng duyên, xả tướng duyên, thiền hiện pháp lạc trụ đệ nhất nghĩa, đó gọi là mười ba thứ nhất thiết hành thiền của Bồ-tát.
Thế nào gọi là Bồ-tát hành trừ não thiền? Lược nói có tám thứ: Một là Bồ-tát nhập định, trừ các khổ hoạn, các độc hại, như mưa đá, sương muối, bệnh nóng, bệnh quỷ, đấy gọi là chú thuật đã dựa vào thiền. Hai là Bồ-tát nhập định, có thể trừ các bệnh từ bốn đại khởi lên, đấy gọi là trừ khổ thiền. Ba là Bồ-tát nhập định có thể khởi lên mưa cam lồ, tiêu trừ tai nạn, cứu giúp đói khát, đó gọi là vân vũ thiền. Bốn là Bồ-tát nhập định, cứu giúp các nạn sợ hãi, khiến tất cả nhân, phi nhân ở dưới nước, trên đất đều lo sợ, đấy gọi là đẳng độ thiền. Năm là Bồ-tát nhập định, có thể đem các thức ăn uống tạo lợi ích cho chúng sinh đói khát ở chốn đồng trống vắng, đấy gọi là lợi ích thiền. Sáu là Bồ-tát nhập định, hay đem của cải vật dụng điều phục chúng sinh, đó gọi là điều phục thiền. Bảy là Bồ-tát nhập định, biết rõ các thứ say mê ở trong mười phương, nhằm mở bày tạo giác ngộ, đấy gọi là khai giác thiền. Tám là Bồ-tát nhập định, chúng sinh làm gì thảy đều giúp cho thành tựu, đó gọi là đẳng tác thiền.
Thế nào gọi là Bồ-tát hành thiền đời nầy đời khác vui thích? Lược nói có chín thứ: Một là thiền thị hiện thần túc, điều phục chúng sinh. Hai là thiền thị hiện tùy thuyết, điều phục chúng sinh. Ba là thiền biến hiện những điều răn dạy, điều phục chúng sinh. Bốn là thiền vì chúng sinh ác thị hiện cõi ác. Năm là thiền vì chúng sinh mất sự tranh luận, dùng tranh luận tạo lợi ích. Sáu là thiền vì các chúng sinh mất sự nhớ nghĩ, dùng niệm tạo lợi ích. Bảy là thiền tạo luận không điên đảo, vi diệu, tán tụng Ma-đắc-lặc-già, khiến chánh pháp trụ lâu ở đời. Tám là thiền đối với các kỹ thuật của thế gian có nghĩa tạo lợi ích thâu giữ chúng sinh, đó là thư, số, toán, kế, các phương pháp mưu sinh v.v…. Chín là thiền phóng hào quang tạm dứt các khổ nơi đường ác.
Thế nào gọi là thanh tịnh thiền của Bồ-tát? Lược nói có mười thứ: Một là thiền tịnh thế gian thanh tịnh, không vị, không nhiễm ô. Hai là thiền tịnh xuất thế gian thanh tịnh. Ba là thiền tịnh phương tiện thanh tịnh. Bốn là thiền tịnh đạt căn bản thanh tịnh. Năm là thiền tịnh căn bản thượng thắng tấn thanh tịnh. Sáu là thiền tịnh lực nhập trụ khởi thanh tịnh. Bảy là thiền tịnh lực xả lại nhập thanh tịnh. Tám là thiền tịnh lực thần thông đã tạo ra thanh tịnh. Chín là thiền tịnh lìa tất cả kiến chấp đạt thanh tịnh. Mười là thiền tịnh đoạn chướng phiền não, chướng trí đạt thanh tịnh. Bồ-tát với vô lượng thiền như vậy, được quả đại Bồ-đề. Bồ-tát nương vào đấy chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.
-----------------------
Thế nào là Bồ-tát hành Bát nhã Ba-la-mật? Lược nói có chín thứ: Một là tự tánh tuệ. Hai là nhất thiết tuệ. Ba là nan tuệ. Bốn là nhất thiết môn tuệ. Năm là thiện nhân tuệ. Sáu là nhất thiết hành tuệ. Bảy là trừ não tuệ. Tám là đời nầy đời khác vui thích tuệ. Chín là thanh tịnh tuệ.
Thế nào là Bồ-tát hành tự tánh tuệ? Nhập tất cả cảnh giới của đối tượng nhận biết, tùy theo cảnh giới nhập rồi, như pháp mà chọn, quán duyên năm minh xứ, là nội minh, nhân minh, thanh minh, y phương minh, thế công xảo minh. Đấy gọi là tự tánh tuệ.
Thế nào là Bồ-tát hành nhất thiết tuệ? Lược nói có hai thứ: Một là thế gian. Hai là xuất thế gian. Thế gian, xuất thế gian mỗi thứ đều có ba: Đối tượng nhận biết chân thật, tùy theo sự hiểu biết mà phân biệt. Hai là khéo thâu giữ năm minh xứ và ba tụ pháp. Ba là những việc tạo lợi ích cho chúng sinh, Bồ-tát dùng vô ngôn nói pháp vô ngã để hiểu rõ chân đế. Hiểu rồi, đối với thượng Bát nhã xứ tịch diệt bậc nhất, buộc niệm an trụ, lìa các vọng tưởng, diệt trừ hư giả, nhập quán bình đẳng nơi đại tổng tướng; kiến lập và hủy báng hai thứ ấy đều xa lìa, đi vào trung đạo. Đấy gọi là tuệ tùy giác phân biệt. Khéo thâu giữ năm minh xứ như trong phẩm Lực chủng tánh đã nói rộng.
Ba tụ nghĩa là pháp tụ nghĩa tạo lợi ích, là pháp tụ không phải nghĩa tạo lợi ích, là pháp tụ phi nghĩa tạo lợi ích, phi phi nghĩa tạo lợi ích. Tám xứ như vậy, Bát nhã khéo thâu giữ, đầy đủ vô thượng đại tuệ, chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Những việc làm lợi ích cho chúng sinh có mười một loại, như trước đã nói, đối với mỗi một xứ kia, trí tuệ tạo phương tiện điều phục chúng sinh.
Thế nào là nan tuệ? Lược nói có ba thứ: Biết rõ về pháp vô ngã sâu xa, đó gọi là nan tuệ thứ nhất. Tạo phương tiện để điều phục chúng sinh, đó gọi là nan tuệ thứ hai. Tất cả chỗ hiểu biết không có chướng ngại, đó gọi là nan tuệ thứ ba.
Thế nào gọi là nhất thiết môn tuệ? Lược nêu có bốn thứ: Đó là tuệ học tạng Thanh văn, tạng Bồ-tát, hành văn, tư. Bồ-tát suy nghĩ về việc làm tùy thuận, lìa các chướng ngại, tuệ thuộc về lực tư duy. Vô lượng tuệ nơi chánh định địa thuộc về lực tu tập.
Thế nào là Bồ-tát hành thiện nhân tuệ? Lược nói có năm thứ: Một là tuệ được nghe chánh pháp. Hai là tuệ kết hợp nội chánh tư duy. Ba là tuệ kết hợp phương tiện tự lợi lợi tha. Bốn là tuệ đối với các pháp, pháp tướng, pháp trụ quyết định không điên đảo. Năm là tuệ lìa phiền não. Lại có năm thứ: Một là vi tế, như nhập nơi cảnh giới của tánh kia. Hai là rộng khắp, như nhập nơi cảnh giới của tánh kia. Ba là các thứ trí tuệ vốn được cùng sinh. Bốn là chư Phật Như Lai và Bồ-tát đại địa đã thuyết giảng pháp nghĩa, đều có thể thọ trì. Năm là tuệ đạt được địa tâm tịnh cho đến thọ tuệ thuộc về địa cứu cánh.
Thế nào là Bồ-tát hành nhất thiết hành tuệ? Đó là sáu thứ, bảy thứ, lược nói có mười ba thứ: Nơi bốn chân đế là: Khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí, cứu cánh tận trí, vô sinh trí, đó gọi là sáu thứ. Bảy thứ là: Pháp trí, tỷ trí, đẳng trí, thần thông trí, tướng trí, mười lực phương tiện trí, bốn sự cụ túc trí.
Thế nào là Bồ-tát hành trừ não tuệ? Lược nói có tám thứ: Một là biết kinh pháp nên gọi là pháp vô ngại. Hai là biết pháp tướng nên gọi là nghĩa vô ngại. Ba là biết tên các pháp nên gọi là từ vô ngại. Bốn là biết các pháp với đủ loại cú, nghĩa, nên gọi là lạc thuyết vô ngại. Năm là trí hàng phục tất cả dị luận. Sáu là trí kiến lập tất cả chánh luận. Bảy là trí có thể tu sửa sản nghiệp, tăng trưởng tiền tài. Tám là trí khéo hiểu biết về vương pháp, quyết đoán việc đời.
Thế nào là Bồ-tát hành tuệ đời nầy đời khác đều vui thích? Lược nói có chín thứ: Với nội minh xứ, trí khéo kiến lập thanh tịnh. Trí đối với nhân minh, thanh minh, y phương minh, thế công xảo minh, nội minh, đều khéo kiến lập thanh tịnh. Như vậy Bồ-tát khéo nương vào năm minh thanh tịnh để điều phục chúng sinh ngu si, buông thả, biếng nhác, khiến họ thuận nơi nẻo chánh. Theo thứ tự của những điều kia, chỉ dạy rõ ràng, soi sáng, hoan hỷ.
Thế nào gọi là Bồ-tát hành thanh tịnh tuệ? Lược nói có mười thứ: Nghĩa chân thật có hai thứ, cho đến nghĩa tánh như, tánh chân thật. Nghĩa thâu nhận lưu chuyển có hai thứ, là chánh nhân và quả. Nghĩa thâu nhận giữ lấy có hai thứ, là điên đảo, không điên đảo, đều nhận biết như thật. Nghĩa phương tiện có hai thứ, là tất cả nên làm, không nên làm, đều nhận biết như thật. Nghĩa cứu cánh có hai thứ: cấu uế và thanh tịnh, đều nhận biết như thật. Như thế với năm loại gồm mười thứ, phân biệt tuệ tịnh, nên biết là thanh tịnh thứ nhất. Bồ-tát như thế khéo quyết định nơi tuệ vô thượng, đắc quả Đại Bồ-đề. Bồ-tát nương vào đấy, hành đầy đủ Bát nhã Ba-la-mật, chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Sáu thứ Ba-la-mật nầy, khắp trong các kinh Đức Thế Tôn luôn phân biệt giảng nói. Tôi nay lược nói, nên tạo sự phân biệt nầy: Trong kinh Đức Như Lai đã nói Bố thí Ba-la-mật cho đến Trí tuệ Ba-la-mật, phân biệt từ Tự tánh bố thí Ba-lamật cho đến Thanh tịnh bố thí Ba-la-mật gồm thâu, tùy theo chỗ thích ứng với pháp kia. Như vậy, Giới Ba-lamật cho đến Trí tuệ Ba-la-mật gồm thâu, tùy theo chỗ thích ứng với pháp kia, nên biết cũng như vậy. Khi Như Lai còn làm Bồ-tát, ở trong vô lượng đời luôn tương ưng khổ hạnh, tất cả bố thí Ba-la-mật đều tương ưng, nên biết cho đến Trí Tuệ Ba-la-mật tương ưng, hoặc là một, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn, hoặc năm, hoặc cả sáu Ba-la-mật. Nên biết sáu Ba-la-mật nầy phát khởi Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, Bồ-tát với pháp đại thanh tịnh như biển lớn trong sạch, nhân của hết thảy chủng loại chánh pháp hết thảy chúng sinh là châu báu vô cùng quý giá. như vậy với vô lượng các thứ công đức trí tuệ đầy đủ, sẽ chứng đắc quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, rốt ráo không gì hơn.
Thế nào là Bồ-tát hành ái ngữ? Lược nói có chín thứ: Một là tự tánh ái ngữ. Hai là nhất thiết ái ngữ. Ba là nan ái ngữ. Bốn là nhất thiết môn ái ngữ. Năm là thiện nhân ái ngữ. Sáu là nhất thiết hành ái ngữ. Bảy là trừ não ái ngữ. Tám là đời nầy đời khác lạc ái ngữ. Chín là thanh tịnh ái ngữ.
Thế nào là Bồ-tát hành tự tánh ái ngữ? Bồ-tát nầy có thể vui nơi nghĩa, chân thật như pháp, nói lời tạo lợi ích, nói lời cùng với chúng sinh, đó gọi là tự tánh ái ngữ của Bồ-tát.
Thế nào là Bồ-tát hành nhất thiết ái ngữ? Lược nói có hai thứ. Bồ-tát thăm hỏi an ủi, trước khi hỏi dáng mặt hiền hòa, nhìn thẳng, dung mạo dịu dàng, chánh niệm hiện tiền mới nói: Đường đi yên lành, bốn đại điều hợp, ngủ thức an lạc, khen ngợi Thiện lai. Những thứ như vậy, tâm tùy thuận thế gian mà thăm hỏi, an ủi, dùng lời khéo léo để thăm hỏi, an ủi. Hoặc lại chú nguyện, khiến vợ con, thân thuộc, tiền tài, lúa gạo dồi dào, thêm nhiều. Thấy người đầy đủ công đức thì khen họ về tín, giới, thí văn trí tuệ, khiến họ hoan hỷ. Bồ-tát nói pháp tương ưng với tất cả công đức, làm cho chúng sinh an vui, thường nói những thuyết thắng diệu bậc nhất, lời nói tạo lợi ích. Đó gọi là Bồ-tát hành nhất thiết ái ngữ.
Ái ngữ của Bồ-tát phân biệt có hai thứ: Lời nói tùy thuận thế gian và lời nói thuyết pháp chân chánh. An ủi, thăm hỏi tán thán là lời nói tùy thuận thế gian. Nói về những lợi ích thắng diệu bậc nhất, đấy gọi là lời nói thuyết pháp chân chánh.
Thế nào là Bồ-tát hành nan ái ngữ? Lược nói có ba thứ: Bồ-tát đối với chỗ oan gia thì đem tâm thanh tịnh tìm cách an ủi khuyến dụ, khiến cho kẻ kia sinh vui, thấy lợi ích mà cùng nói năng. Đó gọi là nan ái ngữ thứ nhất. Bồ-tát đối với chúng sinh căn cơ thấp kém, ngu si tăng thượng thì đem tâm không nhàm chán suy nghĩ tính lường, vì họ mà thuyết pháp, nhẫn nhịn các thứ khổ nhọc, dùng pháp thâu giữ, vì họ giảng nói đầy đủ. Đó gọi là nan ái ngữ thứ hai.
Bồ-tát đối với chúng sinh quanh co, dua nịnh, giả trá, khi dể Hòa thượng, A-xà-lê và những bậc phước điền tôn trọng, hoặc bỏ chánh hướng tà thì đem tâm vô hại làm phương tiện an ủi khuyến dụ, vì họ nói pháp khiến kẻ kia sinh vui vẻ đạt lợi ích. Đó gọi là nan ái ngữ thứ ba.
Thế nào là Bồ-tát hành nhất thiết môn ái ngữ? Lược nêu có bốn thứ: Một là đoạn trừ các "cái", hướng đến nẻo thiện, nói pháp đầu tiên nên làm. Hai là đoạn trừ các cái, tâm thật tiến thêm, nói pháp ứng hợp với bốn chân đế. Ba là thấy chúng sinh tại gia, xuất gia phóng dật, tâm bình đẳng quở trách, khiến họ xa lìa phóng dật, trụ ở không phóng dật. Bốn là đã khởi nghi hoặc, Bồ-tát có thể vì họ mở giải, hoặc thuyết pháp hoặc luận quyết định. Thế nào là Bồ-tát hành thiện nhân ái ngữ? Lược nêu có năm thứ: Một là Bồ-tát nầy nói pháp điều phục là chánh nhân của chư Phật Bồ-tát. Hai là chánh xuất. Ba là chánh y. Bốn là chánh độ. Năm là chánh thị hiện. Nơi chốn và lý do chế giới, nên pháp nầy gọi là chánh nhân. Đối với giới đã thọ, có chỗ hủy phạm thì chỉ dạy khiến thanh tịnh trở lại, do đó pháp nầy gọi là chánh xuất. Nói pháp luật không điên đảo thuộc về bốn nương dựa, cho đến xứ đạo, vì thế pháp nầy gọi là chánh y. Chỉ bày về đạo xuất ly tất cả khổ, bất thoái chuyển, cho nên pháp nầy gọi là chánh độ. Ba thứ thị hiện, đối với tất cả thuyết không ngăn ngại, vì thế pháp nầy gọi là chánh thị hiện.
Thế nào là Bồ-tát hành nhất thiết hành ái ngữ? Đó là sáu thứ, bảy thứ, lược nói có mười ba thứ. Ai ngữ về pháp được nghe, đáng được nghe. Ái ngữ về pháp được ngăn ngừa, đáng ngăn ngừa. Ái ngữ về pháp nơi các kinh hiện có. Ái ngữ về các pháp tướng hiện có. Ái ngữ về các pháp hiện có danh tự không không điên đảo. Ái ngữ về pháp cú các thứ phân biệt. Ái ngữ an ủi khuyến dụ. Ái ngữ phát khởi hoan hỉ. Ái ngữ về tự thân thỏa mãn an dùng các vật dụng thay thế các lãnh nạp tiếp nhận giả tạo của mình tạo trước đây. Ái ngữ về vô số các thứ khủng bố để thiết lập sự an ổn. Ái ngữ thuyết pháp đầy đủ, thâu giữ chúng sinh.
Ái ngữ mở tỏ pháp bất thiện, an lập pháp thiện, kiến, văn, nghi, cử tội điều phục. Ái ngữ khuyên người có lực thuyết pháp. Mười ba thứ như vậy gọi là nhất thiết hành ái ngữ.
Thế nào là Bồ-tát hành trừ não ái ngữ? Lược nói có tám thứ. Bồ-tát nầy nương nơi bốn tịnh của khẩu và tám thứ Thánh ngữ, đấy gọi là ái ngữ trừ não. Bốn tịnh của khẩu nghĩa là xa lìa nói dối, nói hai lưỡi, nói thô ác và nói lời thêu dệt. Tám thứ Thánh ngữ là nói kiến, văn, giác, tri, hoặc nói: Bất kiến, bất văn, bất giác và bất tri.
Thế nào gọi là đời nầy đời khác lạc ái ngữ của Bồ-tát? Lược nói có chín thứ: Một là đoạn trừ nạn lo, khổ cho bà con, nên dùng ái ngữ để thuyết pháp. Hai là đoạn trừ nạn lo khổ về của cải, nên dùng ái ngữ để thuyết pháp. Ba là đoạn trừ nạn lo khổ về bệnh tật, nên dùng ái ngữ để thuyết pháp. Bốn là đoạn trừ nạn lo khổ về giới, nên dùng ái ngữ để thuyết pháp. Năm là đoạn trừ sầu khổ về kiến giải, nên dùng ái ngữ để thuyết pháp. Đầy đủ giới, đầy đủ kiến giải, đầy đủ oai nghi, đầy đủ chánh mạng, cho nên dùng ái ngữ để thuyết pháp.
Thế nào là Bồ-tát hành thanh tịnh ái ngữ? Nên biết có hai mươi cách thuyết pháp, như trong phẩm Lực chủng tánh, đã nói ở trước.
Thế nào là Bồ-tát hành hành lợi? Người hành lợi kia như ái ngữ. Nói rộng về chỗ dị biệt nơi hành lợi, nay sẽ nêu bày. Nghĩa là Bồ-tát với tất cả loại ái ngữ, tùy theo nghĩa đã nói có lợi làm an vui cho chúng sinh.
Thế nào là Bồ-tát hành tự tánh hành lợi? Là đầy đủ ái ngữ, chỉ bày cho chúng sinh, như chỗ nên học, tùy theo lợi mà hành, hành pháp tiếp pháp hướng, trụ trong tâm bi, tâm không tham đắm, khuyến dụ, dẫn dắt, dạy trao, điều phục, an lập. Đấy gọi là lược nói về tự tánh hành lợi.
Thế nào là Bồ-tát hành nhất thiết hành lợi? Lược nói có hai thứ: Đối với tất cả chúng sinh chưa thuần thục thì tạo phương tiện khiến cho thuần thục, người thuần thục rồi khiến đạt được giải thoát. Lại nói có ba thứ: Một là cho lợi đời nầy. Hai là cho lợi đời sau. Ba là đời nay đời sau đều lợi. Khuyến khích khiến cho chúng sinh tạo đức nghiệp như pháp, đạt được giàu sang, nhiều của cải giữ gìn, tăng trưởng, đời hiện tại được lợi ích, an vui, nơi đời nầy được tiếng tăm rộng lớn, đầy đủ các điều vui thích. Để thâu nhận an lập thì khuyến xả bỏ của cải to lớn, từ bỏ gia đình xuất gia, xin ăn nuôi mạng sống, cho đời sau được lợi lạc. Do chắc chắn được nên hiện tại là chẳng chắc chắn thì tức khuyên người tại gia, xuất gia lần lượt lìa dục. Đấy gọi là đời nay, đời sau đạt lợi ích an vui. Trong đời nầy thân tâm dừng nghỉ, an ổn vui trụ, đời sau sẽ sinh lên cõi trời thanh tịnh vi diệu, đến cõi Niết-bàn Vô dư mà bát Niết-bàn.
Thế nào là Bồ-tát hành nan hành lợi? Lược nói có ba thứ: Đối với chúng sinh từ trước đến nay không tu nhân thiện mà Bồ tát có thể hành lợi, đó gọi là nan hành lợi thứ nhất, nghĩa là khuyến hóa khổ. Nếu chúng sinh xưa tu thiện căn được nhiều của cải quý báu, nặng khởi tham đắm mà Bồ tát có thể hành lợi, đó gọi là nan hành lợi thứ hai, nghĩa là nơi kia rất phóng túng. Dị học của ngoại đạo, vốn chấp trước tà kiến mà Bồ tát có thể hành lợi, đấy gọi là nan hành lợi thứ ba, nghĩa là kia ngu si rất trái chánh pháp.
Thế nào là Bồ-tát hành nhất thiết môn hành lợi? Lược nói có bốn thứ: Một là Bồ-tát đối với người không tin khuyến khích khiến sinh tin, cho đến kiến lập. Hai là với người thọ giới ác, khuyến tu giới tịnh. Ba là với người tuệ ác khuyên họ tu tuệ chánh. Bốn là với người keo kiệt khiến họ tu ân huệ bố thí, cho đến kiến lập.
Thế nào là Bồ-tát hành thiện nhân hành lợi? Lược nói có năm thứ: Một là Bồ-tát nầy đối với chúng sinh ban cho lợi chân thật. Hai là ban cho đúng lúc. Ba là ban cho nghĩa lợi ích. Bốn là ban cho sự dịu dàng, hòa nhã. Năm là ban cho tâm từ.
Thế nào là Bồ-tát hành nhất thiết hành hành lợi? Đó là sáu thứ, bảy thứ, lược nói có mười ba thứ: Bồ-tát nầy thâu giữ những người nên thâu giữ, điều phục những người nên điều phục, người làm trái với pháp Phật thì trừ bỏ chướng ngại cho họ, chúng sinh ở giữa khiến họ vào pháp luật, người đã vào đem pháp của ba thừa thành thục cho họ, người đã thành thục khiến được giải thoát. Các vật dụng hộ trì, nuôi dưỡng, khuyến hóa, dẫn dắt khiến được thành tựu, đó là khuyên bỏ Tiểu thừa giữ gìn Đại thừa như các vật dụng hộ trì, nuôi dưỡng. Như thế, người một mình yên tĩnh, nhất tâm làm tịnh các chướng ngại, nhớ nghĩ và tu thì khuyến khích khiến cho thành thục. Người có chủng tánh Thanh văn, Duyên giác thì dùng thừa Thanh văn, Duyên giác mà thành thục họ. Người có chủng tánh Như Lai thì dùng Bồ-đề vô thượng để thành thục họ.
Thế nào là Bồ-tát hành trừ não hành lợi? Lược nêu có tám thứ: Nếu có chúng sinh có chỗ đáng xấu hổ, thì khiến xả bỏ chỗ trói buộc của không xấu hổ, tâm được mở tỏ, biết rõ chỗ trói buộc của không xấu hổ. Như là: các trói buộc của không thẹn, thùy miên, trạo, hối, xan, tật, đều khiến mở tỏ, biết rõ cũng lại như vậy.
Thế nào là Bồ-tát nơi đời nầy đời khác lạc hành lợi? Lược nói có chín thứ: Khiến khắp chúng sinh thân nghiệp thanh tịnh, nghĩa là truyền trao tất cả loại không sát sinh, tất cả loại không trộm cắp, tất cả loại không tà dâm, tất cả loại không uống rượu. Khiến khắp chúng sinh khẩu nghiệp thanh tịnh, nghĩa là dạy cho tất cả loại không nói dối, tất cả loại không nói hai lời, tất cả loại không nói thô ác, tất cả loại không nói lời thêu dệt. Khiến khắp chúng sinh ý nghiệp thanh tịnh, nghĩa là dạy trao cho không tham, không sân, chánh kiến.
Thế nào là Bồ-tát hành thanh tịnh hành lợi? Lược nêu có mười thứ: Năm thứ nội thanh tịnh và năm thứ ngoại thanh tịnh. Năm thứ ngoại thanh tịnh: Một là vô tội. Hai là không tùy chuyển. Ba là thứ lớp. Bốn là tất cả. Năm là như chỗ ứng hợp.
Người làm đủ loại ác, người một mực làm ác, người lấy làm ác là trước tiên, thì dùng pháp thiện mà thành tựu họ, đó gọi là Bồ tát hành lợi vô tội để an lạc cho chúng sinh. Người ưa thích giải thoát thì khuyến khích khiến họ giải thoát, đấy gọi là hành lợi với người không tùy chuyển để an chúng sinh. Chúng sinh còn trẻ dại, thì trước giảng nói pháp thô, dạy bảo thô gần để tùy thuận họ. Biết người có trí vừa, vì họ giảng nói pháp trung, răn dạy để tùy thuận. Người trí tuệ thù thắng, vì họ giảng nói pháp sâu xa vi diệu để tùy thuận răn dạy, khiến họ theo thứ lớp dần dần được pháp thiện. Đó gọi là hành lợi theo thứ lớp để an chúng sinh. Từ bốn tánh cho đến tất cả chúng sinh nơi trời, người, tùy theo năng lực mà tạo lợi ích an lạc. Đó gọi là hành lợi cho tất cả để an lạc cho chúng sinh. Người hạ thiện, trung thiện, thượng thiện, tùy theo sự thích ứng của họ mà có phương tiện đem lại lợi lạc an vui, đấy gọi là hành lợi như chỗ ứng hợp. Đây là năm thứ ngoại thanh tịnh hành lợi.
Năm thứ nội thanh tịnh: Nghĩa là Bồ-tát nầy rộng trụ trong tâm bi mà hành lợi an lạc cho chúng sinh. Bồ-tát nầy nhẫn chịu tất cả khổ mà không biếng trễ mỏi mệt, tâm thường hoan hỷ, hành lợi an lạc cho chúng sinh. Bồ-tát nầy đem thân tự tại, khiêm nhường chịu kém, như người giúp việc, như người con hiếu thảo, như con của người Chiên-đà-la để lìa các ngã mạn, hành lợi an lạc cho chúng sinh. Bồ-tát nầy xa lìa lợi dưỡng, tâm không giả dối, tâm giữ lấy điều thắng diệu, mà hành lợi an lạc cho chúng sinh. Bồ-tát nầy đối với chỗ cứu cánh trọn không thối chuyển, thường đem tâm từ hành lợi an lạc cho chúng sinh. Đó gọi là năm thứ nội thanh tịnh. Như vậy nội ngoại đều đủ năm thứ thanh tịnh, đấy gọi là mười thứ thanh tịnh hành lợi an lạc cho chúng sinh.
Thế nào là Bồ-tát hành đồng lợi? Là Bồ-tát nầy với nghĩa ấy, thiện ấy, hoặc bằng, hoặc hơn, trao cho chúng sinh đều cùng đồng như mình. Đấy gọi là Bồ-tát cùng chúng sinh đồng lợi. Bồ-tát được đồng lợi ấy sẽ điều phục chúng sinh, quyết định vững chắc, trọn không thối chuyển nơi việc khuyên dạy trao các pháp thiện. Vì sao? Vì kẻ kia sẽ khởi niệm: Bồ-tát nầy đã cùng ta đồng lợi, chắc chắn có thể khiến ta an ổn, vui sướng, vì Bồ-tát đã dạy trao cho ta, chính là của ta tự tu hành, hoàn toàn là nhân vui để tự tu hành. Nếu đem đồng lợi dạy trao cho chúng sinh, kẻ kia trọn không nói, tự ông không hành làm sao khuyên trao dạy bảo người khác, ông nên theo người khác thưa hỏi thọ nhận sự chỉ dạy.
Có Bồ-tát đồng lợi với người khác, đồng lợi như thế không chỉ bày cho người. Có Bồ-tát không đồng lợi như vậy mà chỉ bày về đồng lợi. Có Bồ-tát đồng lợi, cũng chỉ bày người khác về đồng lợi. Có Bồ-tát không đồng lợi, cũng không chỉ bày người khác về đồng lợi.
Trường hợp thứ nhất: Những công đức của các Bồ-tát, những công đức an trụ đạo Bồ-tát thì Bồ-tát ẩn giấu công đức chân thật, không muốn hiển bày.
Trường hợp thứ hai: Chúng sinh căn cơ thấp kém, lo sợ đối với pháp sâu xa, Bồ-tát suy nghĩ tìm phương tiện điều phục, hiện đồng với pháp kia, như Chiên-đà-la để họ nhanh chóng được lợi ích, điều phục dứt trừ phiền não, nên hiện cùng đồng với chúng sinh kia.
Trường hợp thứ ba: Vì điều phục chúng sinh kia tiếp nhận chúng sinh có thiện căn lay động nên Bồ-tát dùng an trụ thiện căn, hoặc thiện căn loại thượng hiển thị đồng lợi.
Trường hợp thứ tư: Tâm tự phóng dật, xả bỏ tha lợi, từ các thứ thí như trước nói, như trong giới đã nêu rộng, cho đến đồng lợi nơi các Ba-la-mật kia, tự thành thục pháp Phật, thành thục nhiếp sự. Đó gọi là lược nói về nghiệp pháp thiện của Bồ-tát.
Từ các thứ thí cho đến đồng lợi, đó là các loại Bồ-đề phần với vô số vô lượng pháp thiện, nên biết ba thứ hành, hai thứ thắng, ba thứ làm tịnh hành thân khẩu ý. Đó là những hành thượng diệu, không bị nhiễm ô, nên biết đó là thù thắng, không gì hơn, không cùng. Đối với chúng sinh kia là như nhau, sự như nhau, thời như nhau. Đấy gọi là thượng diệu. Chúng sinh như nhau nghĩa là Bồ-tát vì tất cả chúng sinh mà hành bố thí… thiện căn không vì riêng mình. Sự như nhau là Bồ-tát hành thí với tất cả mọi thứ thiện căn. Thời như nhau là Bồ-tát không xa lìa phương tiện, thời tiết, ngày đêm, đời nay, đời sau luôn tu thí… thiện căn, tâm không dừng nghỉ.
Không nhiễm có bốn thứ: Bồ-tát nầy với tâm hoan hỷ tu tập pháp thiện, không nhân vì thế sinh tâm lo khổ, hối hận. Bồ-tát nầy không não hại người khác, không vướng mắc nơi các kiến, không hành xấu ác, chỉ hành các thiện căn về bố thí v. v.... Bồ-tát nầy, với tất cả công đức của tự mình đều chuyên nhằm hiển hiện, kiên cố hiển hiện, sự tịch diệt quyết định, không do nơi người khác để hành các pháp thiện, như là thí, giới v.v... Bồ-tát nầy không ở trong pháp thiện như bố thí… mà cầu quả báo, hoặc Chuyển luân Thánh vương, Đế thích, Ma, Phạm; không cầu báo nơi người khác, không nương vào những thứ nầy cầu danh lợi, thân mạng. Đối với những hành ấy thảy đều thanh tịnh hoan hỷ, không não loạn người, chuyên chú không nương theo thí… cho đến hành các pháp thiện như đồng lợi. Đấy gọi là vô nhiễm. Sáng rõ không động, vui tịnh, đó gọi là thanh tịnh. Bồ-tát nhập địa tâm tịnh, hết thảy thiện căn sáng rõ bất động, là địa tâm tịnh sáng rõ. Bồ-tát với hết thảy pháp thiện, không khởi tư duy, là địa tâm tịnh bất động. Bồ-tát tùy chỗ đạt được, chỗ tu pháp thiện tức không thối chuyển, ở đời vị lai nhất định không lùi, ngày đêm tăng trưởng như phần sáng của một tháng, pháp thiện ngày đêm tăng trưởng không lùi cũng lại như vậy. Bồ-tát trụ nơi địa Bồ-tát rốt ráo một đời tương tục, nếu sau cùng có chỗ đạt được thiện căn, gọi là vui tịnh. Đối với bậc trên, lại không có địa Bồ-tát tịnh. Đó gọi là ba thứ hành thiện, ba thứ thắng, ba thứ tịnh. Nên biết từ bố thí Ba-la-mật, cho đến đồng lợi, tất cả bố thí là v.v…, cho đến tất cả đồng lợi, Như Lai tu tập thanh tịnh, sinh quả báo là đầy đủ sung mãn Bồ-đề vô thượng, thân kim cang kiên cố chánh pháp trụ lâu.
Từ nan thí cho đến nan đồng lợi, Như Lai tu tập thanh tịnh sinh quả báo là thành tựu pháp bình đẳng thù đặc chưa từng có. Từ nhất thiết môn thí, cho đến nhất thiết môn đồng lợi, Như Lai tu tập thanh tịnh sinh quả báo là được hết thảy chúng sinh tối thắng trong cõi trời, người cúng dường. Từ thiện nhân thí… cho đến thiện nhân đồng lợi, Như Lai tu tập thanh tịnh sinh quả báo là đối với các loài không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân, sắc, vô sắc, tưởng, vô tưởng, phi tưởng, phi phi tưởng, là bậc tối thượng đối với tất cả chúng sinh. Từ nhất thiết hành thí cho đến nhất thiết hành đồng lợi, Như Lai tu tập thanh tịnh, sinh quả báo là đủ các thứ công đức vô lượng, thâu nhận ba mươi hai tướng đại nhân, tám mươi vẻ đẹp tùy thân. Từ trừ não thí cho đến trừ não đồng lợi, Như Lai tu tập thanh tịnh, sinh quả báo ở nơi cội cây Bồ-đề, tất cả ma oán không thể khuynh động.
Đời nầy đời khác lạc thí cho đến đời nầy đời khác lạc đồng lợi, Như Lai tu tập thanh tịnh, sinh quả báo là thiền giải thoát đạt tối thắng, Tam-muội chánh thọ, an lạc. Từ thanh tịnh thí cho đến thanh tịnh đồng lợi, Như Lai tu tập thanh tịnh, sinh quả báo là nhất thiết chủng thanh tịnh, đó là bốn chủng tịnh, tức thân tịnh, duyên tịnh, trí tịnh và tâm tịnh; sinh quả báo là ba bất hộ, mười lực, bốn vô úy, ba niệm xứ, nhất thiết pháp Phật bất cộng thanh tịnh. Đó gọi là quả báo vô thượng của các pháp thiện do bố thí v.v… của Bồ-tát, vì vô lượng Bồ-tát hành vô tội đã sinh ra.
--------------------
Thế nào là Bồ-tát cúng dường Như Lai? Lược nêu có mười: Một là cúng dường thân. Hai là cúng dường tháp miếu. Ba là cúng dường hiện tiền. Bốn là cúng dường không hiện tiền. Năm là tự mình làm cúng dường. Sáu là người khác làm cúng dường. Bảy là cúng dường của cải. Tám là cúng dường thù thắng. Chín là cúng dường không nhiễm ô. Mười là cúng dường chí xứ đạo.
Nếu Bồ-tát đối với sắc thân của Phật mà cúng dường, đó gọi là cúng dường thân.
Nếu Bồ-tát vì Như Lai hoặc cúng dường Thâu bà hoặc nơi hang, hoặc nơi nhà, hoặc cũ, hoặc mới. Đấy gọi là cúng dường tháp miếu (chi đề).
Nếu Bồ-tát mặt thấy thân Phật và tháp miếu mà thiết lễ cúng dường, đó gọi là cúng dường hiện tiền.
Nếu Bồ-tát đối với Như Lai và tháp miếu, tâm cũng trông mong, cũng hoan hỷ, hiện tiền cúng dường, như một pháp Như Lai, như vậy là tất cả pháp Như Lai nơi quá khứ, vị lai, hiện tại. Như một pháp tháp miếu Như Lai, như vậy nơi tất cả pháp tháp miếu Như Lai, khởi niệm thế nầy: Con nay hiện tiền cúng dường Như Lai và cúng dường Như Lai trong các đời quá khứ, hiện tại và vị lai. Con nay hiện tiền cúng dường tháp miếu Như Lai và cúng dường hết thảy tháp miếu trong vô lượng thế giới khắp tất cả mười phương, hoặc Thâu bà, hoặc hang, hoặc nhà, hoặc cũ, hoặc mới. Đấy gọi là Bồ-tát cúng dường hiện tiền, cùng không hiện tiền.
Nếu Bồ-tát đối với Như Lai không hiện tiền và tháp miếu, tâm luôn nghĩ cúng dường, vì hết thảy Phật, vì hết thảy tháp miếu Như Lai, đó gọi là cúng dường không hiện tiền.
Nếu Bồ-tát, sau khi Như Lai bát Niết-bàn, đem xá lợi xây dựng Thâu bà, hoặc hang, hoặc nhà, hoặc một, hoặc hai, hoặc nhiều, cho đến trăm ngàn vạn ức, tùy theo sức có thể làm, đấy gọi là Bồ-tát cúng dường không hiện tiền rộng khắp. Do nhân duyên nầy, nên được vô lượng quả lớn, thường gồm thâu Phạm phước, Bồ-tát nầy thường ở trong vô lượng đại kiếp không bị đọa vào đường ác, các phương tiện để đạt đầy đủ Bồ-đề vô thượng luôn sung mãn.
Nếu Bồ-tát đối với Như Lai và tháp miếu, cúng dường hiện tiền thì được công đức lớn, cúng dường không hiện tiền thì được đại công đức lớn hơn cúng dường hiện tiền cùng không hiện tiền thì được đại công đức lớn nhất.
Nếu Bồ-tát đối với Như Lai và tháp miếu, tự tay cúng dường, không dựa vào sự biếng nhác sai khiến người khác cúng dường, đó gọi là Bồ-tát tự tạo sự cúng dường.
Nếu Bồ-tát đối với Như Lai và tháp miếu, không riêng mình cúng dường, mà còn khiến cha mẹ, thầy bạn, bà con, quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ, tại gia, xuất gia, thảy đều cúng dường, đó gọi là mình cùng người đều cúng dường.
Nếu Bồ-tát có một ít vật dụng do tâm từ bi nên bố thí cho chúng sinh nghèo khổ mỏng phước kia, tạo cho họ được cúng dường Như Lai và tháp miếu, khiến họ được an vui mà mình không tự làm, đó gọi là Bồ-tát làm cho người khác cúng dường. Người tự làm cúng dường được quả báo lớn, người làm cho người khác cúng dường được quả báo lớn hơn; mình làm và khiến người khác cùng làm cúng dường thì được quả báo lớn nhất.
Nếu Bồ-tát đối với Như Lai và tháp miếu, đem các vật như y phục, đồ ăn uống, giường nằm, thuốc thang đến thưa hỏi, lễ bái, chấp tay nghênh đón, đem các loại hương xông, hương bột, hương thoa, các thứ tràng hoa, các thứ âm nhạc, cờ phướn, lọng, đèn, mà tán thán, đem năm luân làm lễ, kính nhiễu quanh bên phải, cúng dường vô tận của cải quý giá như: ma ni, chân châu, kha bối, ngọc thạch, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não, kim, ngân, xích bảo; nhiễu quanh bên trái cúng dường vật báu, vòng ngọc ma ni, treo đầy các linh báu, dùng tiền vàng để rải, vàng sợi để vây bọc chung quanh, cúng dường những thứ báu như vậy, đó gọi là cúng dường của cải vật dụng.
Nếu Bồ-tát ở nơi rất xa đối với Như Lai và tháp miếu, đem của cải cúng dường, hoặc nhiều hoặc hơn, hoặc hiện tiền, không hiện tiền, hoặc mình làm, người khác làm, tín tâm thuần tịnh như hiện trước mắt tâm chuyên tinh hiểu biết mà thực hành cúng dường, rồi đem thiện căn nầy hồi hướng lên đạo quả Bồ-đề vô thượng, bảy thứ như vậy gọi là Bồ-tát cúng dường thù thắng.
Nếu Bồ-tát tự tay cúng dường Như Lai và tháp miếu, không xem thường người khác, không phóng túng, không biếng nhác, chí tâm cung kính, không xem nhẹ việc chưa học, tâm không loạn động, tâm không nhiễm ô, đối với quốc vương, các bậc thắng nhân có tín tâm, không hiện bày các oai nghi dua nịnh, cầu tài vật để cúng đường, không dùng "thư hoàng" xoa lên hình tượng Phật, cũng không dùng chất nước thơm độc để tắm rửa, cũng không thiêu đốt hương Cầu cầu la để cúng dường, những vật không sạch như hoa A ca… đều không được dùng. Đó gọi là Bồ-tát dùng sáu thứ không nhiễm ô cúng dường.
Nếu Bồ-tát đem của cải vật dụng tốt đẹp không nhiễm ô cúng dường Như Lai và tháp miếu, hoặc tự lực đạt được, hoặc cầu xin từ người khác hoặc như ý mà được các vật dụng tự tại, các của cải đạt được như ý kia. Bồ-tát hoặc hóa làm thân, hoặc hai, hoặc ba, cho đến trăm ngàn vạn ức thân, mỗi mỗi thân kia đều lễ Như Lai, mỗi mỗi thân ấy hóa làm trăm ngàn tay, mỗi mỗi tay ấy đều đem các thứ hoa hương cúng dường Như Lai và tháp miếu. Tất cả thân ấy đều tán thán về công đức chân thật, tạo lợi ích cho chúng sinh của Như Lai. Tất cả thân ấy đều đem y phục đẹp nhất, các thứ chuỗi ngọc báu, cờ phướn, lọng hoa cúng dường Như Lai. Những thứ như vậy gọi là được lực tự tại như ý, giữ tâm cúng dường, không đợi Như Lai xuất hiện ở đời. Vì sao? Vì Bồ-tát trụ nơi địa Bất thối chuyển, đối với tất cả cõi Phật chưa từng bị chướng ngại. Nếu Bồ-tát không tự lực được của cải, không theo người khác xin, cũng không có được lực tự tại để cúng dường, nhưng đối với chúng sinh khác, hoặc bốn châu thiên hạ, hoặc cõi Diêm-phù-đề, hoặc ngàn thế giới, hoặc hai ngàn thế giới, hoặc ba ngàn đại thiên thế giới, cho đến vô lượng thế giới trong mười phương, tâm thượng trung hạ đều đã thực hiện việc cúng dường, Bồ-tát đối với tất cả sự cúng dường ấy, do tâm tịnh tín, tâm hiểu biết thắng diệu, tùy hỷ rộng khắp.
Bồ-tát nầy dùng ít phương tiện phát khởi sự cúng dường lớn, thâu giữ đủ đại Bồ-đề. Bồ-tát nầy tâm thường bình đẳng chân thật, tâm có thể hỷ lạc, cần phải tu học. Bồ-tát kia trong thời gian ngắn, cho đến trong khoảnh khắc, ở nơi tất cả chúng sinh tu tập tâm từ, bi, hỷ xả, đối với tất cả hành hữu vi, khởi tưởng vô thường, tưởng khổ vô thường, tưởng khổ vô ngã, tưởng Niết-bàn an vui, niệm Phật niệm Pháp niệm Tăng, niệm Ba-la-mật, cho đến một thời gian ngắn, đối với tất cả pháp khởi một ít nhẫn, biết lìa ngôn từ, thuyết pháp tự tánh, như giải thoát, lìa các vọng tưởng, tâm trụ vô tướng, huống lại vượt hơn trên. Bồ-tát ấy hộ trì giới cấm, hành chỉ quán, phương tiện Bồ-đề phần, các Ba-la-mật, các phương tiện khéo nhiếp sự. Đó gọi là Bồ-tát chí xứ đạo cúng dường Như
Lai, là bậc tối thượng, tối diệu, tối thắng, vô thượng đệ nhất. Cúng dường như thế đem so với cúng dường của cải ở trước, thì gấp trăm ngàn lần, cho đến dùng toán số thí dụ cũng không thể so sánh. Mười thứ như vậy, gọi là Bồ-tát hành nhất thiết chủng cúng dường Như Lai. Như cúng dường Phật, thì cúng dường Pháp, cúng dường Tăng cũng như vậy, tùy theo chỗ ứng hợp, phải biết đối với Tam bảo nầy đều nên thực hành mười thứ cúng dường.
Bồ-tát đối với Như Lai đã khởi sáu thứ tâm tịnh. Đó là: Tâm phước điền vô thượng, tâm ân đức vô thượng, tâm vô thượng đối với tất cả chúng sinh, tâm như hoa Ưu-đàm-bát khó gặp, tâm độc nhất trong tam thiên đại thiên thế giới, tâm nương vào nghĩa đầy đủ của hết thảy pháp thế gian, xuất thế gian. Do sáu tâm nầy, chỉ một ít tưởng cúng dường Như Lai, Pháp, Tăng, cũng được vô lượng công đức, huống gì là nhiều. Bồ-tát thành tựu bao nhiêu hành là thiện tri thức, có bao nhiêu hành là thiện tri thức khai dẫn không chướng ngại? Lại có bao nhiêu hành được trụ xứ tịnh tín của thiện tri thức? Lại có bao nhiêu hành là thiện tri thức điều phục chúng sinh, làm những việc của thiện tri thức?
Bồ-tát có bao nhiêu hành tiếp cận học tập thiện tri thức? Lại có bao nhiêu hành tưởng, đối với thiện tri thức nghe thọ chánh pháp?
Bồ-tát đối với thiện tri thức nghe thọ chánh pháp, lại có bao nhiêu chỗ không có tưởng niệm?
Bồ-tát thành tựu tám việc, thì thực hiện đầy đủ tất cả hành của thiện tri thức: Một là khéo trụ nơi giới luật nghi không hủy phạm. Hai là đa văn, hiện tại giác ngộ. Ba là đắc thiền định, tu tuệ và thiện căn chỉ, quán khác. Bốn là tâm bi thương xót xả pháp lạc hiện tại, hóa độ rộng chúng sinh. Năm là thành tựu vô úy vì chúng sinh thuyết pháp, chánh niệm không mất, vui thuyết vô úy. Sáu là an nhẫn chịu đựng mọi sự khinh chê, nhục mạ, các lời không tốt đẹp và cả các hành xấu ác, thảy đều có thể nhẫn. Bảy là không mệt mỏi, tập trung lực tư duy, vì bốn chúng thuyết pháp không hề biếng trễ. Tám là biện tài thiện xảo, phàm đã thuyết pháp thì lời nói luôn thông suốt.
Bồ-tát có năm sự việc phải làm, để có đầy đủ tất cả các thứ công đức của thiện tri thức, những việc làm của bậc thiện tri thức sẽ mở bày dẫn dắt không chướng ngại: Một là trước hết nhằm tạo an lạc cho chúng sinh. Hai là đối với sự an lạc kia biết đúng như thật, không có giác điên đảo. Ba là hoặc tạo phương tiện tùy thuận thuyết pháp, khéo có thể tùy thuận điều phục chúng sinh có sức an nhẫn. Bốn là tâm không mệt chán. Năm là bình đẳng nhớ thương tất cả chúng sinh với tâm thượng, trung, hạ không thiên về từng nhóm.
Bồ-tát có năm việc đạt được trụ xứ tịnh tín của thiện tri thức, người nghe hoan hỷ, huống gì là hiện thấy: Một là thành tựu oai nghi, oai nghi tịch tĩnh, oai nghi đầy đủ, thân tướng chuyển dịch luôn tề chỉnh. Hai là tâm thường an trụ, nghiệp thân khẩu ý không dao động, hấp tấp. Ba là không lừa dối, là không dối gạt người khác nên thâu giữ oai nghi. Bốn là không ganh tỵ, nghĩa là đối với người khác giảng nói pháp, được tài lợi, không sinh tâm ganh ghét, thường tự khuyến thỉnh để người ấy thuyết pháp. Nếu tài lợi đến với mình thì khuyến khích cho người khác, tâm không dua nịnh giả dối, tâm luôn hoan hỷ, thấy người thuyết pháp và được lợi lạc, thì khởi tâm tùy hỷ như chính mình đạt được. Năm là dùng tâm tri túc ít cất chứa, các vật đã được đều có thể xả bỏ.
Bồ-tát có năm việc là việc làm của bậc thiện tri thức chân thật, điều phục chúng sinh: Một là lời nói. Hai là nhớ nghĩ. Ba là chỉ dạy, trao truyền. Bốn là khuyên răn. Năm là thuyết pháp. Dùng năm việc nầy giáo hóa rộng chúng sinh, như răn dạy trao truyền nơi địa Thanh văn, nói rộng như trong phẩm Lực tánh.
Bồ-tát có bốn việc nên có thể gần gũi đầy đủ thiện tri thức: Một là dù bệnh hay không bệnh đều tùy thời cúng dường, thương nghĩ, cung kính, tịnh tín tạo lợi ích. Hai là tùy thời kính lễ, chắp tay thưa hỏi, đón tiếp cúng dường. Ba là như pháp cúng dường các vật y phục, thực phẩm, thuốc thang. Bốn là nếu làm người y chỉ, thì như pháp tùy thuận hành tác không khuynh động, như thật giảng nói, tùy thời đi đến thỉnh vấn những điều nên làm. Bồ-tát đối với thiện tri thức, thành tựu năm tưởng để được nghe pháp: Phải tác tưởng là vật báu, vì khó được. Tác tưởng là mắt, vì được nhân của trí tuệ câu sinh thù thắng. Tác tưởng về ánh sáng vì đạt được mắt trí tuệ câu sinh, hiển bày tất cả loại cảnh giới như thật. Tác tưởng về quả phước lợi lớn, vì đạt được nhân vô thượng Niếtbàn. Tác tưởng an lạc vô tội vì hiện pháp không thủ đắc đạo Niết-bàn, như thật quan sát về lạc lớn của chỉ quán, do nhân vô tội nầy.
Bồ-tát đối với bậc thiện tri thức nghe nhận kinh pháp, đối với người thuyết pháp có năm xứ không nhớ nghĩ, tâm tịnh chuyên nghe: Một là không nghĩ về phá giới, nghĩa là không nghĩ nói đây là phạm luật nghi, không nên theo người kia nghe nhận kinh pháp. Hai là không nghĩ đến dòng họ thấp kém, nghĩa là không nên nghĩ: Ta không theo người thuộc dòng họ thấp kém kia để nghe thọ kinh pháp. Ba là không nghĩ về sự xấu xí, nghĩa là không nên nghĩ: Ta không theo người xấu xí kia để nghe thọ kinh pháp. Bốn là không nghĩ về vị hoại, nghĩa là không nên nghĩ: Ta không theo người không chánh ngữ kia nghe thọ kinh pháp, chỉ nương vào nghĩa, không nương vào vị. Năm là không nghĩ về sự hủy hoại lời hay đẹp, nghĩa là không nên nghĩ: Ta không theo người nói lời thô tháo để nghe thọ kinh pháp. Với năm xứ không nhớ nghĩ như thế, Bồ-tát nầy siêng năng gồm thâu chánh pháp, đối với người thuyết pháp không còn khởi tưởng nghi ngờ. Nếu Bồ-tát đối với người thuyết pháp là hạ căn, khởi tâm hơn người, thối lui ở người ấy, không thích nghe pháp, nên biết Bồ-tát nầy trí tuệ giảm lùi không thể tự độ.
Thế nào là Bồ-tát tu bốn vô lượng? Đó là từ, bi, hỷ, xả. Lược nói bốn vô lượng của Bồ-tát có ba thứ tu: Một là duyên chúng sinh. Hai là duyên pháp. Ba là không duyên. Bồ-tát an xử nơi tất cả ba tụ chúng sinh xong, chúng sinh hoặc khổ, hoặc vui, hoặc không khổ không vui, do muốn tạo an lạc nên tác tưởng vui tạo lợi ích, tu tâm từ, đủ khắp tất cả chúng sinh trong mười phương trụ nơi tưởng ý giải. Đấy gọi là Bồ-tát tâm từ duyên chúng sinh. Nếu Bồ-tát khởi tưởng pháp số, chúng sinh theo pháp số hành quán tu tâm từ, đó gọi là tâm từ duyên pháp. Nếu đối với pháp lìa các vọng tưởng, tu tâm từ, đó gọi là tâm từ không duyên. Như tâm từ duyên chúng sinh, duyên pháp, không duyên, tâm bi, hỷ xả cũng như vậy.
Nếu Bồ-tát đối với chúng sinh khổ, tác tưởng trừ khổ, đủ khắp cả mười phương mà tu tâm bi, đấy gọi là bi. Đối với chúng sinh lạc khởi tưởng lạc tùy hỷ, đủ khắp cả mười phương mà tu tâm hỷ, đấy gọi là hỷ. Như vậy ba loại chúng sinh không khổ không vui, tùy theo thứ lớp khởi tưởng xa lìa si, sân, tham, đủ khắp cả mười phương mà tu tâm xả, gọi là xả. Nếu Bồ-tát hành từ… vô lượng, duyên chúng sinh cùng với ngoại đạo, hoặc duyên pháp cùng với Thanh văn, Duyên giác, không phải cùng với ngoại đạo. Nếu Bồ-tát hành vô lượng không duyên, thì không cùng với tất cả Thanh văn, Duyên giác và các ngoại đạo. Nếu Bồ-tát hành ba vô lượng, nên biết là thuộc về tưởng lạc, đó là từ, bi, hỷ, một vô lượng thuộc về tưởng an, đó là xả. Tất cả vô lượng gọi là thương xót, thành tựu vô lượng ấy gọi là Bồ-tát thương xót. Bồ-tát quán sát cảnh giới chúng sinh có một trăm mười thứ khổ mà tu tâm bi.
Thế nào là một trăm mười thứ khổ? Có một thứ khổ, nghĩa là tất cả chúng sinh đều rơi vào tập khổ, vì tập khổ không có sai khác.
Lại có hai thứ khổ là căn bản dục với sự ái niệm do biến dịch sinh khổ, ngu si báo khổ, cực khổ xúc chạm thân nên nói: Ta khổ, ta khổ! Ngu si lo buồn, cũng gọi là hai mũi tên là thân thọ, tâm thọ.
Lại có ba thứ khổ là khổ khổ, hành khổ, biến dịch khổ.
Lại có bốn thứ khổ: Một là hội hợp biệt ly khổ, từ ái biệt ly sinh. Hai là đoạn khổ, từ chủng loại chết mất sinh. Ba là tương tục khổ, từ vô lượng sinh tử, lần lượt nối tiếp sinh. Bốn là cuối cùng khổ, do người không đắc Niếtbàn, năm ấm hưng thịnh sinh.
Lại có năm thứ khổ: Triền dục duyên khổ. Triền sân, si, thùy miên, hối, trạo duyên khổ.
Lại có sáu thứ khổ: Đó là nhân khổ, do nương theo nhân của đường ác. Quả khổ do sinh vào đường ác. Cầu tài vật khổ, giữ gìn khổ, không đầy đủ khổ, hư hoại khổ. Lại có bảy thứ khổ: Đó là sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, oán ghét phải gặp nhau khổ, thương yêu phải xa lìa khổ, cầu mong không được khổ.
Lại có tám thứ khổ: Là lạnh khổ, nóng khổ, đói khổ, khát khổ, không tự tại khổ, tự tạo khổ nghĩa là Ni kiền v.v… Người khác làm khổ, nghĩa là kẻ kia dùng tay, đá, đao, gậy, hoặc mòng muỗi gây khổ. Trú lâu trong oai nghi khổ.
Lại có chín thứ khổ: Là tự mình không đầy đủ khổ, người khác không đầy đủ khổ, bà con không đầy đủ khổ, của cải không đầy đủ khổ, không bệnh không đầy đủ khổ, giới không đầy đủ khổ, kiến không đầy đủ khổ, hiện tại khổ, đời khác khổ.
Lại có mười thứ khổ: Đó là thức ăn cần đầy đủ, không đầy đủ khổ, thức uống cần đầy đủ không đầy đủ khổ, xe cộ không đầy đủ khổ, y phục không đầy đủ khổ, chuỗi ngọc không đầy đủ khổ, các thứ vật dụng không đầy đủ khổ, các vật dụng như tràng hoa, hương xoa không đầy đủ khổ, các thứ kỹ nhạc không đầy đủ khổ, các loại đèn sáng không đầy đủ khổ, người nam nữ để sai khiến không đầy đủ khổ. Khởi đầu khổ lại có chín thứ khổ khác, là tất cả khổ, đại khổ, nhất thiết môn khổ, hành ác khổ, chuyển sinh khổ, không tùy dục khổ, trái hại khổ, tương tục khổ, nhất thiết chủng khổ. Tất cả khổ nghĩa là nhân trước đã khởi đến khi chuyển duyên khổ. Đại khổ nghĩa là nơi đêm dài sinh tử có đủ các thứ khổ lớn không gián đoạn. Nhất thiết môn khổ nghĩa là luân chuyển nơi hoặc địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, đường thiện. Hành ác khổ nghĩa là hoặc đời nay xâm phạm người, người trở lại báo mình, hoặc ăn thức ăn độc khiến thân không an. Như vậy các thứ do tự thân đang làm trở lại thọ khổ. Nếu ở nơi số đông không tư duy chân chánh, tức sinh tất cả các phiền não khổ, thân khẩu và tâm tạo nhiều hành ác, ở đời vị lai sinh hành ác khổ. Chuyển sinh khổ có sáu việc lưu chuyển nơi sinh tử không khởi quyết định: Tự thân bất định, nghĩa là trước làm vua, sau trái lại làm người nghèo khổ. Vợ con bất định, nô tỳ sai khiến bất định, bạn bè, đại thần, quyến thuộc bất định, nghĩa là nay làm vợ con, cho đến đại thần, thân thuộc, vào thời gian sau, nơi đường sinh tử, trái lại là kẻ oán hại, tri thức ác. Tài vật không quyết định nghĩa là ở trong sinh tử có của cải vô lượng, nhưng về sau rất nghèo khổ.
Không tùy dục khổ, nghĩa là muốn được sống lâu, không ưa chết yểu, khổ não sinh. Muốn được đoan nghiêm không thích xấu xí, sinh khổ não. Muốn được dòng họ cao quý, không thích hạng thấp kém, khổ não sinh. Muốn được tự tại, không ưa nghèo cùng, sinh khổ não. Muốn được lực lớn không thích lực ít, sinh khổ não. Muốn được nhiều trí tuệ, không thích ngu si, sinh khổ não. Muốn hàng phục những kẻ kia không vui thích, không bằng lòng, sinh khổ não.
Trái hại khổ, nghĩa là tại gia vợ con giảm khổ. Xuất gia phiền não tăng khổ. Đói thiếu khổ. Sợ hãi đao binh khổ. Sợ hãi nơi hoang vu, hiểm ác khổ. Các chi phần nơi thân không đủ, khổ. Giết trói, cắt xẻ đánh đập khổ. Đuổi đi khỏi nơi ở khổ.
Tương tục khổ có chín thứ, trong đây không nói.
Nhất thiết chủng khổ có năm thứ như trước đã nói. Năm thứ vui trái với khổ, đó là nhân khổ, thọ khổ, lạc đối trị khổ, không đoạn thọ khổ, xuất gia xa lìa tịch diệt, Bồ-đề lạc đối trị, Dục giới không phải nhà hòa hợp tưởng giác phàm phu khổ. Đó gọi là năm thứ khổ.
Lại có năm khổ, đó là bức bách khổ, vật dụng không đầy đủ khổ, bốn đại tăng, tổn khổ, mất chỗ ham muốn khổ, ba cõi phiền não nhiễm ô khổ. Đó gọi là năm thứ khổ. Năm thứ nầy và năm thứ trước, lược nói là mười thứ nhất thiết chủng khổ. Trước là năm mươi lăm thứ, đây có năm mươi lăm thứ, tức tổng cộng có một trăm mười thứ khổ là cảnh giới bi của Bồ-tát. Do duyên vào đấy sinh tâm bi, tu tập tăng trưởng, thành tựu đầy đủ.
Đối với tụ khổ lớn kia Bồ tát duyên nơi mười tám thứ khổ mà sinh tâm đại bi. Những gì là mười tám khổ? Nghĩa là khổ do quả báo ngu si. Hành khổ. Chỗ gồm thâu rốt ráo khổ. Nhân khổ. Sinh khổ. Tự tạo tác khổ. Người khác bức bách khổ. Người khác tạo tác khổ. Giới ác khổ.
Kiến ác khổ. Nhân gốc khổ. Đại khổ. Địa ngục khổ. Khổ thuộc về nẻo thiện. Tất cả tánh khổ. Vô trí khổ. Tăng trưởng khổ. Thọ khổ. Cấu uế khổ.
Lại nữa, có bốn hành bi gọi là Đại bi: Một là duyên nơi cái khổ vi tế sâu xa khó nhận biết của chúng sinh kia mà khởi tâm bi. Hai là nuôi lớn lâu xa trong trăm ngàn kiếp, ân cần tu tập, phát khởi tỏ ngộ về duyên sinh. Ba là Bồ-tát tùy theo sự phát khởi tỏ ngộ kia, nhập vào tâm bi, vì khiến chúng sinh vĩnh viễn xa lìa các khổ, cho nên xả trăm ngàn thân mạng, huống gì là một thân, cùng các thứ của cải. Bốn là đều có thể chịu thay tất cả thứ khổ, rời khỏi vui tịnh. Nghĩa là Bồ-tát nơi địa rốt ráo, Bồ-tát thanh tịnh và Như Lai, địa Như Lai thanh tịnh.
Lại nữa, Bồ-tát đối với một trăm mười thứ khổ nầy, tu tập tâm bi, tức là tu tập tất cả tâm bi của Bồ-tát, tức có thể mau chóng được tâm bi thanh tịnh, nhập địa tâm tịnh. Bồ-tát đối với các chúng sinh khởi tưởng rất gần gũi, tưởng thương nhớ, tưởng muốn vì họ mà tạo tác, tưởng không mệt chán, tưởng thọ khổ thay, tưởng hành tác tự tại, tâm bi như khổ đế không gián đoạn… Đệ tử của Phật thâm nhập rốt ráo với tâm nhàm chán xa lìa, tương tục sinh. Nghĩa là tâm bi của Bồ-tát, trước hành quán một trăm mười thứ đại khổ chứa nhóm. Bồ-tát tu tập tâm bi như vậy, đối với sự việc trong ngoài, không có một chút vật nào mà không xa lìa, không có một luật nghi nào mà không thâu giữ, không có một người nào mà không tạo lợi ích, không an nhẫn, không có một tinh tấn nào mà không dũng mãnh, không một thiền định nào mà không chánh thọ, không một trí tuệ nào mà không được hội nhập. Nếu có người hỏi, Phật trụ nơi những trụ xứ nào gọi là Bồ-tát? Thì nên chính thức đáp là trụ nơi đại bi. Bi là một tâm vô lượng như trước đã nói. Trong các vô lượng, nó là vô lượng tối thượng, tích tụ, gồm thâu vô lượng quả ái, vô lượng hạnh, một mực thuần thiện không có tội lỗi. Như vậy, tu tập đầy đủ vô lượng, có bốn công đức lợi. Tu vô lượng nầy, trước hết được hiện trụ pháp lạc bậc nhất, vô lượng công đức thâu nhận đầy đủ, tăng trưởng, tâm tịnh kiên cố đối với Bồ-đề vô thượng, vì chúng sinh cho nên ở trong sinh tử chịu thay tất cả khổ cho các chúng sinh.
----------------------
Phần 1
Thế nào là Bồ-tát có đủ hổ, thẹn? Lược nêu có hai thứ: Một là tự tánh. Hai là chỗ nương tựa. Bồ-tát hành hạnh vô tội, tự biết phi pháp, bên trong tự xấu hổ, đó gọi là hổ (tàm). Do phi pháp nầy, nên đối với người khác sinh lo sợ, hổ thẹn cung kính, đó gọi là thẹn (quý). Lại nữa, Bồ-tát hổ thẹn, tánh vốn tự chuyên tinh, huống lại có tu tập. Đó gọi là tự tánh hổ thẹn của Bồ-tát.
Chỗ nương tựa nói tóm lược có bốn thứ: Như việc nên làm mà không thuận theo để kiến lập tức sinh hổ thẹn, đó gọi là chỗ nương tựa thứ nhất. Việc không đáng làm mà tùy thuận kiến lập nên sinh hổ thẹn, đó là chỗ nương tựa thứ hai. Nếu làm ác mà che giấu nên sinh hổ thẹn, đó gọi là chỗ nương tựa thứ ba. Nếu tự nghi, hối, có thể tự diệt trừ lại sinh hổ thẹn, đó gọi là chỗ nương tựa thứ tư. Đó gọi là chỗ nương tựa.
Thế nào là lực bất động của Bồ-tát? Lược nói có hai thứ: Một là tự tánh. Hai là chỗ nương tựa. Có thể đoạn trừ tâm nhiễm ô, không khiến cho tất cả phiền não mặc sức sinh khởi, an nhẫn các khổ, các thứ tài lợi, các thứ lo sợ, tu chánh phương tiện mà không nghiêng động, tánh tự nhẫn nhục độ lượng, tánh có thể tư duy, nên không động. Đó gọi là tự tánh lực bất động.
Lại nữa, lực bất động của Bồ-tát, lược nói có năm thứ bất động: Một là các thứ khổ luân chuyển, có thể mau chóng trừ diệt. Hai là vì giáo hóa vô số chúng sinh đã tạo các hành ác, nên Bồ tát chịu thọ khổ trong đêm dài sinh tử. Ba là hàng phục các thứ dị luận. Bốn là vì các đại chúng nên tùy thuận thuyết pháp. Năm là diễn nói pháp thắng diệu sâu xa, có khả năng khiến Bồ-tát thọ trì đầy đủ tất cả giới cấm.
Thế nào là Bồ-tát tâm không mệt chán? Có năm nhân duyên tu chánh phương tiện mà không mệt chán. Một là Bồ-tát tánh vốn tự có lực nên không mệt chán. Hai là đối với sự không mệt chán, luôn luôn tu tập nên không mệt chán. Ba là tinh tấn dũng mãnh những hành thuộc về phương tiện, tự quán những người đã tu trước sau chuyển dần thành tốt hơn mà không mệt chán. Bốn là thành tựu tư duy, trí tuệ, sắc bén thâm sâu, nên không mệt chán. Năm là đối với các chúng sinh khởi tâm bi sâu xa, luôn thương xót bình đẳng nên không mệt chán.
Thế nào là Bồ-tát khéo biết các luận? Bồ-tát nầy đối với năm minh xứ, danh thân, cú thân, vị thân, đã được nghe từ người khác thâu nhận đầy đủ, tụng tập thông suốt, theo người nghe nghĩa, khéo có thể suy lường. Như vậy là Bồ-tát biết pháp biết nghĩa, đối với pháp đối với nghĩa đã thọ nhận không quên, người chưa tu tập dần dần tăng tiến, văn, tư rốt ráo, thứ tự thành thục được tâm hỷ tịnh. Bồ-tát hành trì như vậy đầy đủ vô lượng, khéo biết các luận mà không điên đảo.
Thế nào là Bồ-tát khéo biết thế gian? Bồ-tát nầy đối với thế gian của chúng sinh hiểu biết rõ như thật. Đó là các việc sinh, già, chết, chết cõi nầy, sinh về cõi kia, những chúng sinh nầy đối với sinh tử đã xuất ly, Bồ-tát đều hiểu rõ như thật.
Lại nữa, đối với thế gian của chúng sinh, vào lúc đời ô trược tăng lên, cũng biết rõ như thật. Lúc lìa đời ô trược tăng lên, cũng biết rõ như thật. Gọi là năm trược, tức: Một là mạng trược. Hai là chúng sinh trược. Ba là phiền não trược. Bốn là kiến trược. Năm là kiếp trược. Đời nay người chết yểu, thọ mạng tối đa chỉ trăm tuổi, đấy gọi là mạng trược. Nếu các chúng sinh không biết cha mẹ, không biết Sa-môn, Bà-la-môn, và các vị tông tộc tôn trưởng, không tu nghĩa lý, không làm việc đáng làm, không sợ nghiệp ác quả báo của đời nay đời sau, không tu huệ thí, không làm công đức, không tu trai pháp, không trì giới cấm, đấy gọi là chúng sinh trược. Nếu chúng sinh nầy tăng trưởng tham phi pháp, bày khắp các thứ đao kiếm, gậy gộc, binh khí… kiện tụng gây gổ, dua nịnh lừa gạt, nói dối, thâu nhận pháp tà, lại còn sinh các pháp ác bất thiện khác, đó gọi là phiền não trược. Nếu trong đời nầy, pháp hoại pháp mất, tượng pháp dần khởi, tà pháp chuyển sinh, đó gọi là kiến trược. Nếu kiếp đói khát khởi lên, kiếp bệnh tật khởi, kiếp đao binh khởi, đấy gọi là kiếp trược. Đó gọi là Bồ-tát biết thế gian của chúng sinh.
Lại nữa, Bồ-tát đối với khí thế gian, hoặc thành hoặc hoại đều biết rõ như thật.
Lại nữa, Bồ-tát đối với thế gian, thế gian tập, thế gian diệt, thế gian tập diệt đạo, thế gian vị, thế gian họa, thế gian lìa đều hiểu rõ như thật.
Lại nữa, Bồ-tát với mắt và sắc kết hợp sinh bốn đại, gọi là sĩ phu, thân gọi là người, không có thứ ba. Nói tưởng ngã, chúng sinh, không có tưởng thứ ba. Nói mắt ta thấy sắc, cho đến ý ta biết pháp, chỉ là ngôn thuyết. Thường nói trưởng lão nầy, sinh như vậy, tánh như vậy, ăn như vậy, biết khổ biết vui như vậy, sống lâu như vậy, trụ lâu như vậy, những thứ ngôn thuyết sai biệt như vậy, tất cả đều nhận biết như thật. Bồ-tát đối với thế gian của chúng sinh và khí thế gian nầy, tám hành quán sát nghĩa thế gian, nghĩa đệ nhất thế gian, biết rõ như thật, đó gọi là biết thế gian.
Lại nữa, nếu Bồ-tát thấy thượng tọa và các bậc công đức thù thắng thì tôn trọng nghênh tiếp, bày tòa mời ngồi, chấp tay cung kính lễ bái thưa hỏi. Những bậc tuổi cao có đức thì thưa đáp đứng đắn, lời nói dịu dàng an ủi, không khởi kiêu mạn, lường tính đây kia. Bậc viên đức kém mình, tùy lực khuyến dụ, khen đức thật của họ, vì họ che tội thật, không để cho họ hổ thẹn sinh tâm thối mất, không khinh miệt họ. Hoặc thấy chúng sinh cầu pháp, cầu tài vật, thì không quay mặt đi, không bực tức, nét mặt hoan hỷ, không cười kẻ kia thiếu thốn, thấy kẻ kia giảm sút nhanh chóng không khởi tâm khinh. Hoặc thấy tất cả người hàng thượng, trung, hạ, thì trước hỏi thăm, vấn nạn, khen ngợi nói lời lành thay, tùy theo chỗ khéo thích hợp; tùy theo sức, có thể thâu giữ lấy tài, pháp, không dua nịnh, không tự coi trọng, không tự cao, không tự đại, không vì chỗ thêm cao mà tự khoe điều lạ. Đối với các người họ hàng, tất cả đều nên cấp thí, trọn không từ bỏ, hoặc bệnh hay không bệnh. Tùy thuận nghiệp thân khẩu ý cùng nhau gần gũi học tập, làm thiện tri thức, lìa các oán đối, với chúng sinh cô độc, nghèo cùng không chỗ che chở, tùy theo năng lực có thể làm chỗ nương dựa cho họ, không đem đau buồn thêm cho chúng sinh. Nhân duyên khởi sự, chỗ đáng vui cười, như pháp vui cười, không gì là không đúng như pháp. Không đem hình, tên của người khác để nói đùa, cho đến chuyện giấu kín của người thân cũng không nên nói. Đối với người khác không sân hận lâu, tuy lại giận kẻ kia nhưng không nêu lỗi lầm của họ. Nếu bị người khác dùng thân khẩu hủy nhục, có thể khéo tư duy, dùng pháp tự cởi mở, tự xét lỗi của mình để tâm không loạn động, nghiệp thân khẩu ý lượng xét thận trọng cho việc làm về sau. Xa lìa mười bốn nghiệp cấu uế, đó là che giấu sáu phương, xa lìa bốn bạn ác, thâu giữ bốn bạn thiện, như Tu-đa-la mà nói rộng về nghĩa an lạc trong pháp hiện tại, tiền tài đầy đủ, lực siêng năng đầy đủ, giữ gìn đầy đủ, đem tâm chánh mạng tạo các sự nghiệp công xảo ở thế gian, không quanh co, không giả tạo, không lừa gạt, thường biết hổ thẹn, hành hạnh vô tội, oai nghi đầy đủ, oai nghi rất cẩn thận, vì thân thuộc của người khác nhận gởi vật gì thì không xâm phạm. Nếu mang nợ của người thì trọn không chống đối, phân chia tiền của phải nên bình đẳng không thiên vị. Nếu là vật báu đích thật, người chủ có tưởng giả thì dựa theo thật mà cho giá, quyết đoán việc đời, luôn biện biệt đúng đắn, nhanh khéo. Nếu những kẻ kia tạo tác, tìm đến thỉnh cầu, đều cho đồng sự, trọn không lui bỏ, có thể tùy theo câu hỏi mà trả lời, vì sự nghiệp chân chính, không vì sự nghiệp không chân chính. Nếu làm quốc vương đem pháp trị đời, không hành phi pháp, không ưa trách phạt. Đối với các giới ác lấy giới kiến lập, thành tựu tám ngôn từ của bậc Hiền Thánh, thấy thì nói thấy, nghe hiểu nhận biết thì nói hiểu biết, không nghe, không thấy, không hiểu, không biết thì nói không biết. Bồ-tát thành tựu những pháp như vậy, như thế gian nhận biết, như thế gian chuyển biến, đều hiểu rõ như thật, đó gọi là khéo biết về thế gian.
Thế nào là Bồ-tát tu tập bốn loại nương tựa? Bồ-tát nầy vì nghĩa nên theo người nghe pháp, không phải vì vị. Vì nghĩa nên nghe pháp, không vì vị, nghĩa là nếu nghe thế gian nói không khéo léo thì Bồ-tát nương vào nghĩa, cũng chuyên tâm nghe.
Lại nữa, Bồ-tát đối với thuyết ngầm thuyết rõ đều nhận biết đúng như thật, biết chỗ nên nương, không vì Thượng tọa biết nhiều, hoặc Phật hoặc Tăng, y chỉ như vậy với các người thuyết pháp, chỗ y chỉ như thế nên không dựa nơi người. Đối với nghĩa chân thật tâm không dao động, có thể tự hiểu rõ không do nơi người khác.
Lại nữa, Bồ-tát luôn tin sâu thanh tịnh về Như Lai, một mực tin thọ lời Như Lai dạy, nương tựa ở kinh liễu nghĩa chứ không phải kinh bất liễu nghĩa. Dựa nơi kinh liễu nghĩa tức là đối với pháp luật nầy không thể hủy hoại. Kinh bất liễu nghĩa tức là dùng vô số môn thuyết mà không quyết định, nên có nghi vấn. Nếu Bồ-tát đối với kinh liễu nghĩa, tạo ra không quyết định, thì đối với pháp luật ấy có thể hủy hoại.
Lại nữa, Bồ-tát được tu tuệ kiên cố, không do văn, tư biết nghĩa các pháp mà dùng tu tuệ nhận biết, không do văn tư hiểu biết. Cho nên nghe Đức Như Lai giảng nói nghĩa pháp sâu xa bậc nhất, không khởi phỉ báng. Đó gọi là Bồ-tát tu tập bốn thứ nương tựa. Như vậy, người thành tựu lược nói có bốn thứ: Hiển thị vô lượng nghĩa ấy đầy đủ, bậc Đại sư tu tuệ đã nhận biết, tất cả bốn loại nương tựa là phương tiện bình đẳng, Bồ-tát đối với đạo xuất yếu trong bốn loại nương tựa, thảy đều thông tỏ không bị mê hoặc.
Thế nào là Bồ-tát hành bốn tuệ vô ngại? Đối với tất cả pháp, tất cả chương, cú, như thật thể đó từ tu tuệ nhận biết, không ngại, không lầm. Đó gọi là pháp vô ngại.
Đối với tất cả pháp, tất cả tướng, thể chân thật của nó thế nào, tu tuệ đều nhận biết, không chướng ngại, không lầm. Đó gọi là nghĩa vô ngại.
Đối với tất cả pháp, tất cả danh xứ, thể chân thật của nó như thế nào, tu tuệ đều hiểu biết, không chướng ngại, không lầm. Đấy gọi là từ vô ngại.
Đối với tất cả pháp, tất cả loại phân biệt, thể chân thật của nó như thế nào, chỗ biết của tu tuệ đều không bị chướng ngại, không sai lầm. Đấy gọi là lạc thuyết vô ngại.
Bồ-tát có bốn vô ngại như vậy, được năm xứ vô lượng phương tiện thiện xảo, đó là phương tiện thiện xảo về Ấm, giới, nhập, duyên khởi và xứ, phi xứ. Bốn hành nầy nơi Bồ-tát, đối với tất cả pháp, có thể tự giác ngộ, vì người khác chỉ bày, ngoài đây ra không có hành nào khác, có thể tự giác ngộ, huống gì là chỉ bày khác.
Thế nào là Bồ-tát hành đầy đủ Bồ-đề? Nên biết có hai thứ: Một là đầy đủ công đức. Hai là đầy đủ trí tuệ. Hai thứ đầy đủ nầy, nói rộng như trong phẩm Tự lợi tha lợi. Vả lại, công đức trí tuệ đầy đủ, thì Bồ-tát ở A-tăngkỳ kiếp thứ nhất gọi là hạ, A-tăng-kỳ kiếp thứ hai gọi là trung, A-tăng-kỳ kiếp thứ ba là thượng.
Thế nào là Bồ-tát tu tập ba mươi bảy đạo phần thuộc về Đại thừa? Bồ-tát nầy nương ở bốn phương tiện tuệ vô ngại, ba mươi bảy đạo phần thuộc về trí biết rõ như thật nhưng không thủ chứng; phương tiện của các thừa Bồ-tát ấy cũng biết như thật. Đó là phương tiện Thanh văn thừa, phương tiện Đại thừa. Phương tiện Thanh văn thừa nhận biết như thật, như trong địa Thanh văn đã nói.
Thế nào là Bồ-tát đối với phương tiện Đại thừa, hiểu rõ như thật về ba mươi bảy phẩm? Bồ-tát nầy trụ thân quán thân, không ở trong từng thân mà khởi vọng tưởng, cũng không phải tất cả là không phải tánh, ở nơi thân kia lìa tự tánh ngôn thuyết, biết rõ như thật. Đó gọi là Đệ nhất nghĩa thân thân quán niệm xứ. Nếu Bồ-tát quán Thế đế, thuận theo phương tiện ở vô lượng xứ biết thân thân quán niệm xứ. Như thân thân quán niệm xứ, các niệm xứ và đạo phẩm khác cũng lại như vậy.
Những pháp không phải thân, vọng tưởng quán khổ, hoặc vọng tưởng quán tập, cũng không ở đoạn dấy khởi vọng tưởng diệt, cũng không ở chỗ chứng đắc nhân đó khởi vọng tưởng đạo, lìa tự tánh ngôn thuyết, pháp khổ, pháp tập, pháp diệt, pháp đạo, đều hiểu biết đúng như thật, nương vào Đệ nhất nghĩa nầy tu đạo phần, gọi là tu đế. Nếu Bồ-tát tùy thuận phương tiện ở vô lượng xứ của thế đế thì gọi là duyên đế tu. Nếu Bồ-tát kia đối với pháp nầy biết như thật, không khởi vọng tưởng, đó gọi là Chỉ. Biết như thật về Đệ nhất nghĩa kia và biết pháp nơi phương tiện ở vô lượng xứ, đó gọi là Quán. Lược nêu Bồ-tát về "chỉ" có bốn hành: Một là đệ nhất nghĩa. Hai là tục số trí hành trước. Ba là tất cả vọng tưởng hư giả không hành. Bốn là đối với pháp vô ngôn vô tướng nầy, không khởi vọng tưởng, tâm được vắng lặng, tất cả các pháp đều đồng một vị. Bốn hành như vậy, Bồ-tát nơi "chỉ" khởi cho đến rốt ráo là tri kiến Như Lai. Lược nói Bồ-tát hành "quán" có bốn hành, nghĩa là bốn hành nầy phát khởi trí tuệ, đó gọi là quán. Trí tuệ lìa tất cả pháp hữu, vô, tùy theo vô lượng pháp phân biệt xứ quán. Đối với bốn hành nầy, Bồ-tát khởi quán, cho đến rốt ráo là tri kiến Như Lai. Đó gọi là lược nói về chỉ quán của Bồ-tát.
Thế nào là Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo? Lược nêu có mười hai thứ: Vì bên trong khởi pháp Phật có sáu thứ. Vì bên ngoài thành thục chúng sinh có sáu thứ.
Thế nào là bên trong khởi pháp Phật với sáu thứ phương tiện thiện xảo? Một là tâm bi của Bồ-tát luôn nhớ nghĩ đến tất cả chúng sinh. Hai là tất cả các hành đều hiểu biết như thật. Ba là cầu trí Bồ-đề vô thượng. Bốn là nương vào sự nhớ nghĩ đến chúng sinh mà xa lìa sinh tử. Năm là nương vào các hành đã biết như thật, đem tâm không nhiễm luân chuyển nơi sinh tử. Sáu là nương vào việc cầu trí tuệ Phật mà luôn tinh tấn dũng mãnh. Đấy gọi là bên trong khởi pháp Phật với sáu thứ phương tiện thiện xảo.
Thế nào là bên ngoài thành thục chúng sinh với sáu thứ phương tiện thiện xảo? Một là Bồ-tát với phương tiện thiện xảo, dùng ít thiện căn khởi vô lượng quả. Hai là dùng ít phương tiện khởi vô lượng thiện căn. Ba là với chúng sinh hủy hoại pháp Phật, dứt trừ sự hung bạo, phá hại của họ. Bốn là đối với chúng sinh không ác không thiện thì khiến họ vào pháp Phật. Năm là với chúng sinh đã vào pháp Phật khiến được thành thục. Sáu là đã thành thục rồi khiến họ được giải thoát.
Thế nào là Bồ-tát có thể dùng ít thiện căn được vô lượng quả? Bồ-tát nầy dạy bảo chúng sinh thuộc hạng căn cơ thấp kém, đem một ít của cải bố thí nơi ruộng phước thấp, cho đến đem bột gạo rang bố thí cho súc sinh, thí rồi hồi hướng về Bồ-đề vô thượng, do diệu lực của hồi hướng cho nên được vô lượng quả.
Thế nào là Bồ-tát dùng ít phương tiện khởi vô lượng thiện căn? Bồ-tát nầy thấy có chúng sinh tu trai giới theo pháp tà mà cầu giải thoát, vì họ mà giảng nói tám trai giới của Hiền Thánh, là phương tiện đoạn khổ, là pháp không rốt ráo, trao truyền một ít phương tiện được quả trai giới lớn.
Lại nữa, có chúng sinh tà kiến hành thân khổ cầu giải thoát, Bồ-tát vì họ giảng nói trung đạo, khiến lìa nhị biên, giải thoát rốt ráo.
Lại nữa, hoặc có chúng sinh cầu sinh cõi trời, theo phương tiện tà kiến, như hành các khổ: Nhảy xuống từ núi cao, gieo mình vào hầm lửa, không ăn… Bồ-tát vì họ diễn nói chánh pháp thiền định, để an lạc trụ pháp hiện tại, đời sau sinh lên cõi trời, như pháp thọ lạc.
Lại nữa, hoặc thấy chúng sinh tụng tập ngoại điển cầu được thanh tịnh, Bồ-tát nên đem chánh pháp của Đức Phật khiến họ tụng tập, tư duy về nghĩa, lại giảng nói kinh điển thâm diệu của Như Lai, hiển bày đầy đủ pháp tương ưng với "không", kẻ kia nghe pháp rồi, sinh tâm chán lìa, chuyên tinh tịnh tín, ở trong khoảng một niệm có thể gồm thâu vô lượng thiện căn rộng lớn, huống gì là lần lượt niệm liên tục không xả.
Lại nữa, Bồ-tát ý hiểu, tư duy, khởi tưởng tịnh diệu, liền đem hương hoa vật báu của thế gian cúng dường Tam bảo, rồi lại dạy người khác cũng có tâm tưởng cúng dường.
Lại nữa, tịnh tâm như vậy hiện bày đầy khắp trong hết thảy thế giới của mười phương, cúng dường Tam bảo sinh tâm tùy hỷ. Cũng lại dạy người, khiến họ tùy hỷ.
Lại nữa, với người thường tu niệm Phật cho đến niệm thiên, cũng dạy cho họ khiến tu sáu niệm.
Bồ-tát tâm niệm chân chánh, chấp tay cung kính, tùy thời cúng dường hết thảy Tam bảo, cũng dạy cho người khác tu pháp cúng dường như vậy.
Lại nữa, đối với tất cả công đức của tất cả chúng sinh thảy đều tùy hỷ, cũng dạy cho người khác khởi tâm tùy hỷ như vậy.
Lại nữa, đối với tất cả chúng sinh nhập tâm bi rộng lớn, đều muốn chịu thay tất cả các khổ, cũng dạy người khác khởi tâm đại bi nầy.
Lại nữa, đối với tất cả những gì đã phạm trong quá khứ, hiện tại, nên đem tâm chân thật tùy thuận cầu giới tịnh, hướng đến chư Phật trong mười phương chí thành sám hối, cũng dạy cho người khác như vậy mà sám hối tội lỗi. Bồ-tát thường sám hối tội đã phạm của mình như thế, dùng ít phương tiện nhưng đối với tất cả nghiệp chướng đều được giải thoát.
Lại nữa, Bồ-tát tạo đủ vô lượng các thứ biến hóa ở chỗ chúng sinh, ở chỗ Phật Pháp Tăng trong tất cả mười phương, với vô lượng tha tâm thần thông tự tại, Bồ-tát thâu giữ những công đức thiết yếu.
Lại nữa, Bồ-tát tu từ bi hỷ xả, cũng chỉ dạy người khác tu theo. Đó gọi là Bồ-tát dùng ít phương tiện, sinh quả báo rộng lớn là vô lượng thiện căn.
Phần 2
Thế nào là Bồ-tát đối với kẻ hủy hoại pháp Phật dứt trừ sự bạo hại của họ? Người ở giữa khiến họ vào pháp Phật, người đã vào khiến thành thục, người đã thành thục khiến được giải thoát.
Bồ-tát nầy đối với bốn thứ chúng sinh thành tựu đó nên biết lược nói có sáu phương tiện thiện xảo: Một là tùy thuận. Hai là xác lập đi cần thiết. Ba là dị tướng. Bốn là bức bách. Năm là báo ân. Sáu là thanh tịnh. Bồ-tát tùy thuận nơi phương tiện thiện xảo, nghĩa là Bồ-tát nầy muốn vì chúng sinh thuyết pháp, thì trước tiên các hành của thân, khẩu phải dịu dàng uyển chuyển, để thiết lập, họ sẽ tùy thuận tự nhiên xả bỏ sân hận, trừ sân hận rồi, kẻ kia sinh ái kính ưa muốn nghe pháp, sau đó mới vì họ theo chỗ thích hợp thuyết pháp, dễ nhập dễ hiểu, khi giảng nói có thứ tự, rõ thật không đảo lộn, dùng nghĩa tạo lợi ích mà vì họ nói pháp; nhẫn chịu các vấn đáp để điều phục chúng sinh, với sự thương xót làm lợi ích thành tựu là trên hết. Hoặc dùng thần lực thị hiện biết tâm họ mà vì thuyết pháp. Hoặc thỉnh người khác, khiến hiện hóa đủ các thứ điều phục chúng sinh. Hoặc có nghĩa lược nói, luận về lợi ích thì phân biệt diễn rộng ra. Hoặc luận quá rộng, thì cũng có thể vì họ lược nói, dạy trao, khiến họ tụng rồi tùy ý vấn nạn. Họ đã thọ tụng, thì vì họ nói rộng về nghĩa, dùng tất cả duyên nơi Tam-muội, môn độ tùy thuận truyền dạy, tùy theo sự khuyên bảo để thâu giữ chúng sinh, khiến kẻ kia hành đúng nghĩa. Các chúng sinh ấy đối với các kinh tương ưng với "không", hết sức sâu xa, vi diệu, mà Đức Như Lai đã giảng nói thì làm cho họ nhận biết về diệu chỉ. Trong kinh kia nói: Lìa pháp tự tánh và xa lìa các việc, không khởi không diệt, như hư không, như huyễn, như mộng. Người không hiểu nghĩa nghe thì sợ hãi, chê bai kinh sâu xa kia cho là không phải Phật giảng nói. Bồ-tát vì chúng sinh ấy nên có phương tiện thiện xảo để tùy thuận, đối với diệu chỉ của Như Lai nơi kinh sâu xa kia, phải tùy thuận nơi nghĩa, phân biệt giải nói để thâu giữ họ. Tùy thuận như vậy là vì các chúng sinh kia mà nói: Kinh ấy không phải nói tất cả đều không có gì cả mà chỉ nói tự tánh của ngã là rỗng không, không hề có. Đó gọi là lìa tự tánh.
Tuy ngôn thuyết có sự nương vào ngôn ngữ thì sự chuyển, vì thế nên ngôn thuyết có tự tánh, mà cũng không phải là đệ nhất nghĩa có tự tánh kia, cho nên nói ngôn thuyết lìa tất cả sự. Tự tánh của ngôn thuyết từ xưa đến nay, tất cả đều không thật có, vậy thì sao có sinh có diệt? Vì thế nên nói không sinh không diệt, ví như hư không có vô số các thứ sắc và các sắc nghiệp đều được dung nạp, nên hư không kia làm chỗ nương tựa. Nghĩa là hư không dung nạp đủ các hành, qua lại, đi đứng, cong thẳng, cúi ngửa. Lại như trừ bỏ sắc và sắc nghiệp kia, rồi đó là phần tự tánh vô sắc, gọi là hư không thanh tịnh. Như hư không là xứ sắc cùng sắc nghiệp chuyển, lìa ngôn thuyết sự, thì vô số các loại ngôn thuyết, vọng tưởng hư giả tùy chuyển được thiết lập cũng lại như vậy. Lại như hư không dung nạp sắc cùng sắc nghiệp, pháp lìa ngôn thuyết, dung nạp vọng tưởng cũng lại như vậy. Nếu Bồ-tát dùng trí tuệ, trừ tất cả ngôn thuyết đã khởi, các thứ tà hoặc vọng tưởng, các thứ hư giả chuyển biến. Bồ-tát nầy dùng Thánh trí đệ nhất lìa ngôn thuyết sự, tự tánh của tất cả ngôn thuyết chẳng phải tánh, như hư không thanh tịnh, cũng không phải là hư không lần lượt có tự tánh khác. Vì thế tất cả các pháp ví như hư không, ví như huyễn, không như sự có, cũng chẳng phải tất cả đều không, mà là sự huyễn. Như vậy tất cả pháp không như ngôn thuyết, người ngu chấp có, cũng không phải tất cả đều không có gì, vì đệ nhất nghĩa tự tánh là lìa ngôn thuyết. Phương tiện như vậy nhập phi "hữu" cũng phi "vô". Thế nên biết như huyễn nên nói như huyễn. Như vậy, Bồ-tát đối với tất cả pháp giới, không lấy, không bỏ, không tăng, không giảm, cũng không có chỗ hủy hoại, đều hiểu rõ như thật, như những gì đã biết, vì người khác hiển bày. Đó gọi là Bồ-tát tùy thuận phương tiện thiện xảo.
Thế nào là Bồ-tát xác lập phương tiện thiện xảo cần thiết? Nếu có chúng sinh lại theo Bồ-tát cầu xin mười thứ vật dụng để tự sinh sống, thì vì họ xác lập lời nói cần thiết: Ông có thể cúng dường cha mẹ, các Sa-môn, Bàla-môn, nói rộng như trên, cho đến thọ giới, nếu có thể làm được như vậy thì ta sẽ thí cho ông. Như kẻ kia không thể thực hiện thì không thí cho. Đó là: Ruộng, nhà, cửa tiệm, quan tước, cõi nước, tiền tài, sáu loài súc vật (ngựa, bò, dê, gà, chó, lợn), kỹ thuật phương thuốc. Hoặc kết hôn nhân, hoặc ăn uống không ăn uống, chỗ tạo tác đều đồng sự. Bấy giờ, Bồ-tát vì họ xác lập lời nói cần thiết: Ông có thể cúng dường cha mẹ, cho đến thọ giới, ta sẽ bố thí cho ông các thức ăn uống, cho đến đồng sự.
Lại nữa, nếu có chúng sinh phạm tội mưu nghịch, làm những việc không lợi ích, bị người bắt, trói, cắt, chặt, đánh đập, hủy nhục, quở trách, đuổi khỏi chức vụ, bị người cầm giữ, bấy giờ Bồ-tát vì họ xác lập lời nói cần thiết: Ông có thể cúng dường cha mẹ, cho đến thọ giới, ta sẽ cứu giúp ông khiến thoát khỏi các khổ nạn.
Lại nữa, hoặc có chúng sinh bị những sự khủng bố do vua quan, giặc cướp, nước, lửa, người và phi nhân tạo nên… bấy giờ, Bồ-tát vì họ cần lập lời nói: Ông có thể cúng dường cha mẹ, cho đến thọ giới, ta sẽ cứu ông khiến thoát khỏi những sự sợ hãi đó.
Hoặc có chúng sinh ham muốn ân ái, tụ hội, xa lìa sợ hãi, bấy giờ Bồ-tát vì họ xác lập lời nói cần thiết: Ông có thể cúng dường cha mẹ cho đến thọ giới, ta sẽ tạo phương tiện cho ông được nguyện.
Lại nữa, nếu có chúng sinh bị bệnh tật cùng khổ, bấy giờ Bồ-tát vì họ xác lập lời nói cần thiết: Ông có thể cúng dường cha mẹ cho đến thọ giới, ta sẽ giúp ông bệnh khổ được trừ.
Bồ-tát đã xác lập những điều cần thiết như vậy rồi, các chúng sinh kia mau chóng tu tập pháp thiện, xa lìa các ác, thì sẽ đạt được theo chỗ mong muốn. Đó gọi là Bồ-tát cần lập phương tiện thiện xảo.
Nếu Bồ-tát đã xác lập việc cần thiết cho chúng sinh rồi, nhưng các chúng sinh không thuận theo điều yêu cầu, thì như trên đã hứa, Bồ-tát cũng không bố thí cho họ. Vì nhằm hóa độ các chúng sinh ấy nên Bồ-tát không phải là không muốn ban cho. Đối với các nạn sợ hãi và các bệnh khổ, thương nhớ hòa hợp, không thương yêu biệt ly, vì nhằm hóa độ các chúng sinh ấy nên Bồ tát đều buông bỏ tất cả mà hiện rõ tướng quyết định như vậy, chứ không phải do thật tâm có niệm buông bỏ, quan trọng là dần dần khiến đoạn trừ pháp bất thiện, kiến lập pháp thiện. Hoặc lại có chúng sinh không cần muốn điều gì, cũng không có các nạn, cho đến không bệnh, nhưng cùng với Bồ-tát trước là thân quen, thì tùy chỗ thích hợp khuyên dẫn, khiến tu tập pháp thiện, đó là cúng dường cha mẹ cho đến trì giới. Nếu chúng sinh ấy không theo lời dạy của Bồ-tát, bấy giờ, Bồ-tát mới hiện tướng giận dữ, quở trách. Vì hóa độ người nên tâm không sân hận, đối với các việc đã làm đều hiện trái khác, vì nhằm hóa độ các chúng sinh ấy, không phải thật sự là chống trái. Hoặc hiện thêm các việc không lợi ích kia là nhằm hóa độ không phải thật tâm của Bồ-tát. Bồ-tát với phương tiện hiện dị tướng nầy, nhằm khiến cho chúng sinh tu các pháp thiện, đoạn trừ pháp bất thiện. Đó gọi là Bồ-tát hiện dị tướng theo phương tiện thiện xảo.
Thế nào là Bồ-tát hiện sự bức bách nơi phương tiện thiện xảo? Nếu Bồ-tát làm chủ, làm vua, đối với quyến thuộc của mình nên dạy bảo thế nầy: Nếu quyến thuộc của ta có người không cúng dường cha mẹ, cho đến phạm giới, ta sẽ dứt bỏ mọi sự cung cấp, hoặc tăng thêm xử phạt, thậm chí là đuổi đi. Bồ-tát lập một người nam luôn làm việc dò xét, các chúng sinh kia do lo sợ nên siêng tu pháp thiện, đoạn trừ pháp bất thiện, các kẻ kia tuy không vui, vì cưỡng ép khiến tu. Đó gọi là Bồ-tát hiện sự bức bách nơi phương tiện thiện xảo.
Thế nào là Bồ-tát hành báo ân nơi phương tiện thiện xảo? Nếu Bồ-tát trước đối với chúng sinh bố thí các phần ân huệ, hoặc bố thí của cải, hoặc cứu độ các nạn, hoặc cứu giúp những sợ hãi, hợp chỗ nhớ nghĩ, lìa chỗ không nhớ nghĩ, cứu chữa các bệnh, khiến được an vui. Chúng sinh biết ân, muốn đền đáp đức ấy, bấy giờ Bồ-tát khiến họ tu thiện, không cần đem các thứ của cải, lợi dưỡng thế gian mà đền đáp. Người báo đáp lớn nhất là phải biết cúng dường cha mẹ, cho đến trì giới. Người cầu báo ân khiến kẻ thọ ân làm thiện. Đó gọi là Bồ-tát hành báo ân nơi phương tiện thiện xảo.
Thế nào là Bồ-tát hành thanh tịnh nơi phương tiện thiện xảo? Bồ-tát trụ nơi địa Cứu cánh, hành đạo Bồ-tát thanh tịnh, sinh nơi cõi trời Đâu suất. Chúng sinh nghĩ: Bồ-tát tên là… sinh lên cõi trời Đâu suất, không lâu sẽ sinh xuống cõi Diêm-phù-đề, sẽ thành bậc Như Lai Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, khiến ta yêu thích, chớ khiến không vui thích sinh ở xứ kia, ta cũng theo đấy mà sinh. Vô lượng chúng sinh vui thích tu nguyện nầy.
Lại nữa, Bồ-tát từ cõi trời Đâu Suất sinh trong thế gian, hoặc sinh nơi cung vua, hoặc sinh vào nhà Bà-lamôn, xả bỏ những hoan lạc thượng diệu, xuất gia học đạo, khiến các chúng sinh lìa bỏ kiêu mạn.
Lại ở nơi cội cây, sáu năm khổ hạnh, khiến những chúng sinh khác tin khổ hạnh, đoạn trừ tín lạc.
Lại nữa, đã thành Bồ-đề vô thượng, khiến các chúng sinh khác tin lạc vững bền, cùng cầu Phật đạo. Lại thành Phật rồi, im lặng đợi thỉnh, vì khiến cho chúng sinh kính trọng giáo pháp. Phạm thiên khuyến thỉnh sau đó mới giảng nói. Lại dùng Phật nhãn quán sát thế gian, chớ để chúng sinh khởi lời phỉ báng, chỉ là do lực khuyến thỉnh của Phạm thiên, chứ không phải Như Lai do đại bi nên thuyết pháp. Vì trừ chúng sinh thâu nhận điều tà, nên chuyển bánh xe chánh pháp, còn các thế gian khác chưa từng chuyển và chế giới luật. Đó gọi là Bồ-tát hành thanh tịnh nơi phương tiện thiện xảo.
Như vậy, phương tiện thiện xảo là trọn vẹn không gì hơn. Đấy gọi là sáu thứ phương tiện thiện xảo của Bồ-tát, nói rộng nói lược. Chúng sinh hủy hoại pháp, thì trừ sự bạo hại kia, người ở giữa khiến vào pháp Phật, người vào rồi khiến cho thành thục, người thành thục rồi khiến được giải thoát, là rốt ráo, vô thượng. Đấy gọi là phương tiện thiện xảo của Bồ-tát.
Thế nào là Bồ-tát hành trì Đà-la-ni? Lược nói có bốn thứ: Một là Pháp Đà-la-ni. Hai là Nghĩa Đà-la-ni. Ba là Chú thuật Đà-la-ni. Bốn là đắc Bồ-tát Nhẫn Đà là ni.
Thế nào là Pháp Đà-la-ni? Đó là Bồ-tát đạt được lực trí tuệ nhớ nghĩ, đối với pháp chưa từng nghe, chưa từng tu tập về danh, cú, vị, thân, thì theo thứ lớp trang nghiêm, lần lượt thích ứng, vô lượng chương cú, trải qua vô lượng kiếp nhớ giữ không quên.
Thế nào là Nghĩa Đà-la-ni? Như trước đã nói, nơi các pháp nầy có vô lượng nghĩa lý sâu xa, chưa từng đọc tụng, chưa từng tu tập, trải qua vô lượng kiếp nhớ giữ không quên.
Thế nào là Chú thuật Đà-la-ni? Đó là Bồ-tát đạt được sức Tam-muội như thế, dùng chương cú của chú thuật để đoạn trừ khổ hoạn cho chúng sinh, thần nghiệm bậc nhất, các thứ tai họa đều khiến tiêu diệt.
Thế nào là đắc Bồ-tát Nhẫn Đà-la-ni? Bồ-tát tinh cần tu tập, do đó sinh khởi trí tuệ, một mình ở chỗ tịch tĩnh, yên lặng ít nói, cũng không du hành, biết lượng mà ăn, không ăn quá nhiều thứ, thường ăn một bữa, tự duy thiền định, ngủ nghỉ ít, tỉnh giác nhiều, đối với điều Như Lai dạy, đắc chú thuật nhẫn của Bồ-tát. Đó là: y trí, mật trí, cát chỉ tỉ, sằn đề bà đại tập ba ha.
Đối với các nghĩa của chương cú chú thuật nầy, đều suy lường quán sát. Chương cú chú thuật như vậy, chánh tư duy như vậy, như nghĩa đó hãy còn không tự nghe, sao có sở đắc. Như chương cú chú thuật, nghĩa không thể thủ đắc, thế thì không có nghĩa. Các nghĩa như vậy gọi là vô nghĩa, thế nên cũng không có nghĩa khác để có thể cầu. Như vậy, gọi là khéo hiểu về câu nghĩa của chú thuật.
Người khéo hiểu câu nghĩa của chú thuật, lấy nghĩa như vậy đem so sánh, biết được nghĩa của tất cả các pháp, thảy đều do khéo nhận biết, không phải được nghe từ người khác. Lại biết tất cả ngôn thuyết nghĩa tự tánh của tất cả các pháp là không thể thủ đắc. Dùng những vô ngôn ấy để nói về nghĩa của tự tánh, tức biết nghĩa tự tánh của tất cả các pháp. Đó gọi là nghĩa đệ nhất, là nghĩa tối thắng, được hoan hỷ tối thượng. Bồ-tát nầy đắc Đàla-ni chú thuật xứ, gọi là đắc nhẫn của Bồ-tát. Người đắc nhẫn nầy, không lâu sẽ được tâm tịnh tăng thượng, nhẫn nơi địa giải hành, đó gọi là Bồ-tát đắc Nhẫn Đà-la-ni của Bồ-tát. Với Pháp Đà-la-ni, Nghĩa Đà-la-ni kia, Bồ-tát nầy đã vượt qua A-tăng-kỳ kiếp thứ nhất được nhập địa tâm tịnh, chỗ đạt được chắc chắn bất động, tối thắng tối diệu. Nếu ở khoảng giữa đạt được, hoặc nhân nơi nguyện lực, hoặc lực thiền định, thì bất trụ, bất định, cũng không thắng diệu. Như Pháp, Nghĩa Đà-la-ni, Chú thuật Đà-lani cũng như vậy. Đắc Bồ-tát Nhẫn Đà-la-ni, như trước đã nói. Như vậy tất cả Đà-la-ni phải đầy đủ bốn công đức mới có thể đạt được, chẳng phải là không đầy đủ. Những gì là bốn? Một là không hành tập ái dục. Hai là không ganh ghét chỗ hơn của kẻ khác. Ba là với tất cả chỗ cầu đạt đều bình đẳng bố thí không hối. Bốn là ưa thích pháp, ưa thích tạng Bồ-tát và tạng Ma-đắc-lặc-già sâu xa.
Thế nào là Bồ-tát nguyện? Lược nói có năm thứ: Một là phát tâm nguyện. Hai là sinh nguyện. Ba là cảnh giới nguyện. Bốn là bình đẳng nguyện. Năm là đại nguyện.
Bồ-tát kia bắt đầu phát tâm Bồ-đề vô thượng, đấy gọi là phát tâm nguyện. Nguyện nơi đời vị lai vì chúng sinh nên theo đường thiện mà sinh, đấy gọi là sinh nguyện. Nguyện chánh quán các pháp, vô lượng các thiện căn, tư duy các cảnh giới, đó gọi là cảnh giới nguyện. Nguyện nơi đời vị lai khéo thâu tóm sự việc của hết thảy Bồ-tát. Đấy gọi là bình đẳng nguyện của Bồ-tát. Đại nguyện tức là bình đẳng nguyện.
Lại nói mười thứ đại nguyện: Một là nguyện đem tất cả thứ cúng dường vô lượng chư Phật. Hai là nguyện hộ trì chánh pháp của tất cả chư Phật. Ba là nguyện thông đạt chánh pháp của tất cả chư Phật. Bốn là nguyện sinh cõi trời Đâu suất cho đến bát Niết-bàn. Năm là nguyện làm tất cả loại hành chân chính của Bồ-tát. Sáu là nguyện thành thục tất cả chúng sinh. Bảy là nguyện tất cả thế giới đều có thể hiện hóa. Tám là nguyện tất cả Bồ-tát, một lòng tạo phương tiện đem Đại thừa hóa độ. Chín là nguyện tất cả chánh phương tiện đều không ngại. Mười là nguyện thành Chánh giác Vô thượng.
Thế nào là Bồ-tát hành Tam-muội Không? Bồ-tát lìa tự tánh của tất cả ngôn thuyết, quán tự tánh là vô ngôn thuyết mà trụ tâm, đấy gọi là Tam-muội Không.
Thế nào là Bồ-tát hành Tam-muội Vô nguyện? Bồ-tát đối với sự nơi tự tánh vô ngôn thuyết, những phiền não do tà kiến vọng tưởng đã khởi những lỗi lầm của thường kiến khổ kia, nên ở đời vị lai không nguyện trụ tâm, đấy gọi là Tam-muội Vô nguyện.
Thế nào là Bồ-tát hành Tam-muội Vô tướng? Bồ-tát đối với sự nơi tự tánh vô ngôn thuyết lìa tất cả vọng tưởng, diệt trừ tướng hư giả, quán sát đúng như thật, tâm trụ vắng lặng, đó gọi là Tam-muội Vô tướng.
Vì lý do gì nói ba Tam-muội không tăng không giảm? Có hai thứ: Hữu và vô hữu. Hữu vi, vô vi gọi là hữu. Vô ngã, vô ngã sở gọi là vô hữu. Đối với hữu vi có không nguyện không tùy, nên lập Tam-muội Vô nguyện.
Ở Niết-bàn vô vi, nguyện vui thích thâu nhận, nên lập Tam-muội Vô tướng. Đối với các việc nầy chẳng phải là nguyện, chẳng phải là không nguyện, nhưng ở hữu, bất hữu, kiến cho là kiến, nên lập Tam-muội Không. Bồ-tát tu ba Tam-muội nầy, biết như thật về sự kiến lập như vậy, hoặc có hành khác, đều nhập ba môn Tam-muội, đó là chỗ tu học, hành trì của Thanh văn.
Có bốn pháp Ưu-đàn-na (Tự thuyết). Chư Phật, Bồ-tát vì muốn khiến cho chúng sinh thanh tịnh nên giảng nói. Những gì là bốn? Tất cả hành vô thường là pháp Ưu-đàn-na. Tất cả hành khổ là pháp Ưu-đàn-na. Tất cả pháp vô ngã là pháp Ưu-đàn-na. Niết-bàn tịch diệt là pháp Ưu-đàn-na. Chư Phật, Bồ-tát đầy đủ bốn pháp nầy, lại đem pháp ấy truyền trao cho chúng sinh, đó gọi là Ưu-đàn-na. Quá khứ vắng lặng tịch mặc, các Đấng Mâuni lần lượt truyền nhau, đó gọi là Ưu-đàn-na. Dũng xuất tăng thượng cho đến phát xuất đầy đủ đệ nhất hữu, đấy gọi là Ưu-đàn-na.
Thế nào là Bồ-tát quán tất cả hành vô thường? Bồ-tát quán tự tánh ngôn thuyết của tất cả hành là thường không thể thủ đắc. Hoặc lại không biết về sự đích thật là vô ngôn thuyết, cho nên có sinh có diệt. Hoặc Bồ-tát quán tự tánh vô ngôn thuyết nơi hết thảy hành là vô thường. Quán hành quá khứ không sinh không diệt, hành ấy cũng không nhân, cũng không tự tánh có thể thủ đắc, thế nên cũng không nhân, cũng không tự tánh. Quán hành hiện tại không sinh không diệt, nhân kia không thủ đắc mà cho quả, nên tự tánh có thể thủ đắc, do đấy quán tự tánh mà không nhân. Quán hành vị lai không sinh không diệt, nhân kia có thể thủ đắc nhưng không cho quả, nên không có tự tánh, vì thế quán nhân mà không tự tánh. Như vậy thấy phần đoạn của ba đời lúc các hành tương tục chuyển, mỗi mỗi sát na của hành có ba hữu vi, là tướng hữu vi, nơi sau sát na có bốn tướng hữu vi. Tự tánh của các hành tướng trước kia hoại, tự tánh của hành tướng chưa từng có dấy khởi, gọi là sinh. Khởi rồi chưa hoại gọi là trụ. Suy niệm lại tự tánh của hành tướng diệt ở trước, thì chúng đã khởi tướng dị, dị gọi là lão, vì thế sau sát na sinh, tức tướng sinh kia khởi, tự tánh của hành tướng hoại gọi là diệt. Nếu quán hành tướng của tự tánh khởi thì tức tự tánh kia sinh tướng trụ, lão không có tự tánh khác, thế nên sau sát na, hành tướng như vậy là tự tánh diệt. Như thế, là quán đúng như thật về các hành tướng như sinh v.v…, Bốn tướng hữu vi nầy lược nói có hai thứ: hữu tánh và vô tánh. Như Lai do khởi nên lập tướng hữu vi thứ nhất, do tự tánh nên lập tướng hữu vi thứ hai, do các hành trụ, lão nên lập tướng hữu vi thứ ba. Bồ-tát kia quán hành hữu vi sai biệt, chẳng sinh, chẳng trụ, chẳng lão, chẳng hoại, tất cả thời riêng có sự khởi. Vì sao? Vì các hành sai biệt khi khởi, lại không riêng sinh, riêng trụ, riêng lão, riêng hoại. Khi các hành sai biệt trụ, lão, hoại, cũng không riêng sinh, riêng trụ, riêng lão, riêng hoại. Bồ-tát quán sát đúng như thật, nghĩa là không có các việc riêng sinh v.v… có thể thủ đắc. Nếu có thể thủ đắc thì lìa các hành như sắc v.v… nên riêng có sinh. Các hành như sắc v.v… tự tánh khởi, thì sắc đó cũng nên khởi. Nếu đúng vậy thì phải có hai sinh là hành sinh và sinh sinh. Nếu có hành sinh và sinh sinh, thì hoặc một hoặc khác. Nếu là một mà cho là riêng có sinh thì không kia là vô nghĩa. Còn nếu riêng có sinh, thì việc nầy không đúng. Nếu là khác, thì hành sinh kia không phải là cùng sinh mà thành. Hành sinh cùng sinh mà thành thì việc nầy không đúng. Như sinh, trụ, lão cũng vậy. Nếu tự tánh của pháp có hoại thì việc kia nên sinh diệt. Nếu khi hoại sinh, thì tất cả hành lẽ ra liền diệt, như nhập chánh thọ diệt tận, dùng thiếu phương tiện nên tâm, tâm số pháp diệt. Hoặc khi hoại diệt, thì tất cả hành kia nên sinh, nhưng do hoại nên không có. Nói hoại có sinh diệt, thì việc nầy không đúng. Thiện nam, thiện nữ kia, tất cả thời thường có tự tánh, nghĩa là không nên có chán lìa, vì muốn giải thoát dị nên như vậy. Do việc nầy, Bồ-tát đối với tất cả hành vô thường, phải biết như thật.
Lại nữa, Bồ-tát đối với tất cả các hành vô thường khi tương tục chuyển, quán ba tướng khổ: hành khổ, biến dịch khổ và khổ khổ. Như vậy Bồ-tát đối với tất cả hành khổ đều nhận biết như thật.
Lại nữa, Bồ-tát biết như thật các pháp hữu vi, vô vi, vô ngã, vô ngã sở, chúng sinh vô ngã và pháp vô ngã. Chúng sinh vô ngã nghĩa là pháp "có" chẳng phải là chúng sinh, xa lìa pháp "có" cũng chẳng phải là chúng sinh. Pháp vô ngã nghĩa là tất cả sự ngôn thuyết cũng không có pháp của tự tánh ngôn thuyết. Như vậy Bồ-tát đối với tất cả pháp vô ngã đều nhận biết như thật.
Lại nữa, tất cả nhân của hành khởi đã đoạn rốt ráo, các diệt rốt ráo khác gọi là bát Niết-bàn, phiền não tịch diệt, các khổ dứt hẳn, Bồ-tát chưa nhập địa tâm tịnh, Thanh văn chưa thấy đế, đối với Niết-bàn tác tưởng ý giải, nói là Niết-bàn tịch diệt, phải biết như vậy là không có được tri kiến của Niết-bàn chân thật, chỉ có chánh tư duy. Ví như quốc vương, trưởng giả giàu có vô lượng, vì các con nên tạo ra những dụng cụ vui chơi, như xe nai, xe bò, xe ngựa, xe voi… các người con kia hoan hỷ yêu thích, tạo ra những tưởng chân thật về các đồ chơi như xe nai, bò, ngựa, voi. Khi người cha biết con mình đã dần khôn lớn, thì vì họ nói thật về nai, bò, ngựa, voi. Các người con cho là cha đã khen ngợi về voi ngựa. Một thời gian sau, biết con mình chuyển lớn, sắp ra khỏi nhà, người cha chỉ voi ngựa thật, các con thấy thật rồi tức biết là cha nói đúng, biết chắc cha mình thường khen nói, không phải như chúng trước đã vui nghĩ, sự vui đùa ngày trước không phải là voi ngựa thật. Như vậy, các hành được xem là nhà giàu, Bồ-tát chưa trụ địa tâm tịnh, Thanh văn chưa thấy đế như các đồng tử kia. Chư Phật, Như Lai và Bồ-tát nhập đại địa thấy rõ Niết-bàn, vì Bồ-tát và các Thanh văn kia tán thán nói về Niết-bàn. Chư vị đã nghe rồi, tùy vào chỗ nói mà ý hiểu. Nếu các vị kia dần dần học phẩm đạo đầy đủ, nhập địa tịnh tâm và Thanh văn kiến đế, thì họ đối với Niết-bàn sinh tri kiến hiện có. Như vậy, chư Phật, Bồ-tát đã khen ngợi Niếtbàn, không như ý tưởng nơi trí tuệ ngu si của chúng ta đã hiểu. Chỗ tưởng của chúng ta là tương tợ chẳng phải thật, đối với chỗ hiểu biết của các Ngài sinh tâm hổ thẹn, nương vào tri kiến sau. Ví như người bệnh gặp được thầy thuốc giỏi vì để trị bệnh nên nói về thuốc theo bệnh. Các người bệnh kia nếu đã quen thuốc nầy liền khởi tin hiểu, ưa thích thuốc ấy, do đó lành bệnh. Nếu lại khởi bệnh khác, nên uống thứ thuốc khác, thầy thuốc dạy họ nên bỏ thuốc trước để uống thuốc nầy, các người bệnh kia do quá tin thuốc trước nên không chịu xả bỏ, thầy thuốc phải tìm mọi cách khiến họ uống loại thuốc sau. Như vậy, Bồ-tát trụ nơi địa tâm tịnh, Thanh văn thấy đế có các bệnh phiền não, chư Phật, Như Lai, Bồ-tát trụ đại địa, vì họ thuyết pháp: thượng pháp, thượng thượng pháp, thâm pháp, thượng thâm pháp, thượng thượng thâm pháp, thắng pháp, thượng thắng pháp, thượng thượng thắng pháp, chỉ dạy trao truyền khuyên răn. Bồ-tát nhập địa tâm tịnh, Thanh văn thấy đế, nghe lời Phật dạy, tin thọ không nghi, nương vào lời Như Lai dạy pháp thừa đầy đủ, khéo có thể điều phục chế ngự du hóa nơi đạo, bình đẳng nhanh chóng chánh hướng Niết-bàn Vô dư.
--------------------
Bồ-tát học đạo Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, có năm pháp đặc biệt chưa từng có. Những gì là năm? Một là đối với các chúng sinh không có nhân duyên mà khởi ái niệm. Hai là vì các chúng sinh mà thọ nhận vô lượng khổ. Ba là chúng sinh có phiền não lớn mạnh khó giáo hóa, Bồ-tát vẫn tìm cách điều phục. Bốn là nhập vào nghĩa chân thật khó lãnh hội đệ nhất. Năm là nhập nơi diệu lực thần thông bất khả tư nghì. Như vậy, pháp đặc biệt chưa từng có, không cùng chung với tất cả chúng sinh.
Bồ-tát có năm việc không phải là đặc biệt, có thể trở thành pháp đặc biệt chưa từng có. Một là tạo an lạc cho chúng sinh nên nhận chịu nhân khổ, vì thọ nhận nhân khổ nên được thọ an vui. Hai là biết lỗi lầm xấu ác của sinh tử, công đức của Niết-bàn, có nhớ nghĩ đến chúng sinh tịnh, không tự mình thọ vui, vì chúng sinh tịnh nên thọ nhận các sinh tử. Ba là tu tập lạc tịnh mặc, có nhớ nghĩ về chúng sinh tịnh, không tự thọ vui, vì chúng sinh tịnh nên diễn nói chánh pháp. Bốn là tu thiện căn là sáu Ba-la-mật, có nhớ nghĩ đến chúng sinh tịnh, không tự thọ lạc, vì chúng sinh tịnh nên không xả bỏ tất cả chúng sinh, cũng không xả bỏ quả báo. Năm là việc của người, việc mình, tất cả đều vì tạo lợi ích cho chúng sinh.
Bồ-tát có năm việc, đối với tất cả chúng sinh, tâm luôn bình đẳng: Một là mới phát tâm nguyện, vì hết thảy chúng sinh, tâm luôn bình đẳng. Hai là tu tập tâm đại bi, luôn thể hiện lòng thương xót, tâm ấy luôn bình đẳng. Ba là đối với hết thảy chúng sinh, tạo ra tưởng là con một của mình, ái niệm luôn hiện hữu tâm ấy bình đẳng. Bốn là quán xét các hành duyên khởi của hết thảy chúng sinh, pháp của một chúng sinh cũng là pháp của hết thảy chúng sinh, tùy thuận hết thảy chúng sinh tâm ấy bình đẳng. Năm là như vì chỗ hành của một chúng sinh, thì với tất cả chúng sinh cũng vậy, tâm tạo lợi ích luôn kết hợp tâm ấy bình đẳng.
Bồ-tát có năm việc tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh: Một là nói chánh mạng tạo lợi ích. Hai là người không tùy thuận thì nói pháp tùy thuận tạo lợi ích. Ba là những người cô độc nghèo hèn không chỗ nương tựa, vì họ làm chỗ nương tựa tạo lợi ích. Bốn là người hướng về nẻo thiện, vì họ giảng nói đạo tạo lợi ích. Năm là vì người của ba thừa giảng nói lợi ích của ba thừa.
Bồ-tát có năm việc gọi là báo ân của chúng sinh: Một là tự thành tựu công đức. Hai là khuyên người khác khiến họ thành tựu. Ba là vì người cô độc khổ sở nghèo khó không nơi nương tựa, vì họ mà làm chỗ nương tựa. Bốn là cúng dường Như Lai. Năm là với pháp Phật đã giảng nói, nên hoặc đọc tụng, hoặc biên chép, hoặc cúng dường.
Bồ-tát hành đạo Bồ-đề thường cầu năm việc: Một là thường cầu chư Phật xuất hiện ở đời. Hai là được ở chỗ chư Phật nghe lãnh hội sáu Ba-la-mật và tạng Bồ-tát. Ba là có thể hành trì tất cả các thứ để thành thục chúng sinh. Bốn là có thể hành trì đạo vô thượng để thành thục chúng sinh. Năm là chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, A duy tam Bồ-đề, Bồ-đề Thanh văn, hòa hợp với Thanh văn.
Bồ-tát có năm việc tạo phương tiện chân thật đem lại lợi ích cho chúng sinh. Bồ-tát nầy trước muốn tạo an vui cho chúng sinh, đối với sự an vui kia nhận biết như thật, không hiểu biết điên đảo, như phẩm cúng dường tập cận vô lượng, đã nói ở trước.
Bồ-tát có năm thứ phương tiện gồm thâu tất cả chánh phương tiện: Một là phương tiện tùy hộ. Hai là phương tiện vô tội. Ba là phương tiện của lực tư duy. Bốn là phương tiện tâm tịnh. Năm là phương tiện quyết định.
Phương tiện tùy hộ có năm thứ: Một là hộ tuệ sáng, được trí câu sinh nên có thể nhanh chóng thọ pháp. Hai là hộ niệm, nhớ nghĩ giữ gìn pháp. Ba là hộ trí, là được trí kiên cố, quán xét nghĩa pháp. Do hộ tuệ sáng, hộ niệm và hộ trí nên xa lìa phần thối lùi, tu phần thắng tấn. Bốn là hộ tự tâm, là giữ gìn các căn môn. Năm là hộ tha tâm, là tùy thuận tâm người khác.
Phương tiện vô tội, nghĩa là đối với các pháp thiện không điên đảo, sáng rõ vô lượng, thường tu hồi hướng Bồ-đề.
Phương tiện của lực tư duy, nghĩa là hiểu rõ về hành địa. Phương tiện tâm tịnh là địa tâm tịnh có đầy đủ hành địa.
Phương tiện quyết định là địa quyết định, địa quyết định hành, địa cứu cánh. Đó gọi là năm thứ phương tiện gồm thâu tất cả chánh phương tiện.
Bồ-tát nơi phần thối chuyển có năm việc: Một là không cung kính pháp và người giảng nói pháp. Hai là buông lung, biếng nhác. Ba là hành tập các phiền não và các hành ác. Bốn là nêu xét chỗ đồng với mình cùng các Bồ-tát khác để khởi tăng thượng mạn. Năm là đối với pháp điên đảo khởi tăng thượng mạn.
Bồ-tát nơi phần thắng tiến có năm việc, cùng năm việc nơi phần thối chuyển ở trên, theo thứ tự trái ngược nhau, gọi là phần thắng tiến.
Bồ-tát có năm việc lỗi lầm giống như công đức của Bồ-tát: Một là đối với người hung ác và phạm giới, không đem tâm từ tạo lợi ích. Hai là hiện bày oai nghi quanh co, dua nịnh. Ba là nói các việc thế tục và kinh luận của ngoại đạo, cho là được sinh trí tuệ có thể tự tư duy. Bốn là hành trì thiện căn như bố thí v.v… nhưng theo nẻo có tội. Năm là diễn thuyết kiến lập pháp giống như công đức.
Bồ-tát có năm việc là công đức chân thật của Bồ-tát. Một là đối với người hung ác và người phạm giới, khởi tâm bi thù thắng. Hai là thành tựu đầy đủ oai nghi chân thật. Ba là đối với lời Như Lai dạy được sinh trí tuệ có khả năng tự tư duy. Bốn là hành thiện căn như bố thí v.v… hoàn toàn không tội. Năm là diễn nói chánh giáo, hủy bỏ pháp tương tợ.
Bồ-tát điều phục chúng sinh có mười thứ, gọi là điều phục đúng đắn. Những gì là mười? Xa lìa các triền, xa lìa phiền não, phân biệt giới ác.
Bồ-tát có sáu việc được Đức Như Lai thọ ký Bồ-đề vô thượng: Một là chủng tánh chưa phát tâm. Hai là đã phát tâm. Ba là hiện tiền. Bốn là không hiện tiền. Năm là thời lượng, thời định chứng đắc Bồ-đề vô thượng. Sáu là thời không lượng, thời không định được thọ ký.
Bồ-tát có ba thứ quyết định: Một là chủng tánh gọi là quyết định. Vì sao? Vì có khả năng làm duyên, có chướng ngại quyết định đạt quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Hai là quyết định phát tâm Bồ-đề vô thượng, từ không thể cho đến không thối chuyển để đạt đến Bồđề vô thượng. Ba là đắc diệu lực tạo lợi ích cho chúng sinh, như đã mong muốn, như đã làm, như đầy đủ không hư giả, do quyết định sau cùng kia nên Đức Như Lai quyết định thọ ký.
Bồ-tát không tạo năm thứ lực, thế nên không chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng: Một là phát tâm đầu tiên. Hai là thương xót chúng sinh. Ba là làm sáng rõ. Bốn là tinh tấn. Năm là đối với tất cả minh xứ tạo phương tiện không chán.
Bồ-tát có năm việc thường tu tập: Một là thường không buông lung. Hai là đối với người cô độc, khổ sở nghèo thiếu không chỗ nương tựa, vì họ làm chỗ nương tựa. Ba là cúng dường Như Lai. Bốn là trì giới, có phạm liền biết. Năm là các việc đã tạo tác, hành trì, nhớ nghĩ, tất cả đều hồi hướng nơi Bồ-đề vô thượng.
Bồ-tát có mười pháp, là những pháp tối thắng đệ nhất của Bồ-tát: Một là chủng tánh Bồ-tát thù thắng hơn các chủng tánh khác. Hai là mới phát tâm thù thắng hơn tất cả chánh nguyện. Ba là tinh tấn, trí tuệ thù thắng hơn các Ba-la-mật khác. Bốn là lời nói dịu dàng thù thắng hơn các nhiếp sự khác. Năm là Như Lai thù thắng hơn các chúng sinh. Sáu là đại bi hơn hẳn các vô lượng khác. Bảy là thiền thứ tư hơn hẳn các thiền khác. Tám là Tammuội không hơn hẳn các Tam-muội khác. Chín là chánh thọ diệt tận hơn hẳn các chánh thọ khác. Mười là phương tiện thiện xảo thanh tịnh hơn hẳn các phương tiện thiện xảo khác.
Bồ-tát có bốn thứ thiết lập chân chánh. Thiết lập chân chánh như vậy là Như Lai nói, chứ chẳng phải là từ các hàng hoặc trời, hoặc người, hoặc Sa-môn, Bà-lamôn được nghe như vậy: Một là thiết lập pháp. Hai là thiết lập đế. Ba là thiết lập phương tiện. Bốn là thiết lập thừa.
Thiết lập pháp nghĩa là mười hai bộ kinh như Tu-Đa-la… theo thứ tự diễn thuyết, theo thứ tự kiến lập.
Thiết lập đế tức chỉ có một thứ, đó là như thật nghĩa đế. Lại có hai thứ, là Thế đế và Đệ nhất nghĩa đế.
Lai có ba thứ, là tướng đế, thuyết đế và tác đế.
Lại có bốn thứ, là khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế.
Lại có năm thứ là nhân đế, quả đế, trí đế, cảnh giới trí đế và vô thượng đế.
Lại có sáu thứ là thật đế, hư vọng đế, tri đế, đoạn đế, chứng đế và tu đế.
Lại có bảy thứ là vị đế, hoạn đế, ly đế, pháp đế, giải đế, Thánh đế và phi Thánh đế.
Lại có tám thứ là hành khổ đế, khổ khổ đế, hoại khổ đế, sinh đế, diệt đế, cấu uế đế, thanh tịnh đế, chánh phương tiện đế.
Lại có chín thứ là vô thường đế, khổ đế, không đế, phi ngã đế, hữu ái đế, vô hữu ái đế, đoạn phương tiện đế, hữu dư Niết-bàn đế, vô dư Niết-bàn đế.
Lại có mười thứ: Tự tác khổ đế, bần cùng khổ đế, bốn đại tăng tổn khổ đế, ái luyến khổ đế, ô nhục khổ đế, nghiệp khổ đế, phiền não đế, chánh tư duy đế, chánh kiến đế, chánh kiến quả đế.
Bốn thứ phương tiện gọi là thiết lập phương tiện, như nơi phẩm Lực chủng tánh ở trước đã nói.
Thiết lập thừa nghĩa là thừa Thanh văn, thừa Duyên giác, Đại thừa. Mỗi mỗi thừa có bảy thứ thiết lập: tuệ bốn Thánh đế, tuệ như vậy, hoặc nương hoặc duyên theo các thứ nghiệp, tuệ như vậy hoặc quả. Bảy thứ nầy gọi là thiết lập thừa Thanh văn. Như thiết lập thừa Thanh văn, thì thừa Duyên giác cũng thế. Lìa cảnh giới ngôn thuyết, tất cả pháp như lìa các vọng tưởng, tuệ bình đẳng, tuệ như vậy, hoặc nương hoặc duyên theo các thứ hành nghiệp, tuệ như thế hoặc quả. Bảy thứ ấy gọi là thiết lập Đại thừa. Quá khứ, vị lai, hiện tại, tất cả Bồ-tát đều thiết lập chân chính, đã làm, đang làm, tất cả bốn thứ là rốt ráo không gì hơn.
Bồ-tát có năm thứ vô lượng, sinh khởi tất cả hành phương tiện thiện xảo: Một là chúng sinh giới vô lượng. Hai là thế giới vô lượng. Ba là pháp giới vô lượng. Bốn là giới điều phục vô lượng. Năm là phương tiện điều phục vô lượng.
Sáu mươi mốt thứ chúng sinh gọi là giới chúng sinh. Như nơi thân ý địa phân biệt thì có vô lượng mười phương, vô lượng thế giới, vô lượng tên gọi, như thế giới Ta bà, chủ Ta bà. Pháp thiện, bất thiện, vô ký, phân biệt gọi là pháp giới vô lượng.
Điều phục có một thứ là điều phục tất cả chúng sinh. Lại có hai thứ là có đủ trói buộc, không có đủ trói buộc. Lại có ba thứ là hạ, trung, thượng căn.
Lại có bốn thứ: Sát lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà
Lại có năm thứ: tham dục, sân sân, ngu si, kiêu mạn, giác quán. Lại có sáu thứ: tại gia, xuất gia, chưa thành thục, đã thành thục, chưa giải thoát, đã giải thoát.
Lại có bảy thứ: người ác, người trung bình, người trí thấp, người trí lớn, hiện tại điều phục, vị lai điều phục, tùy duyên điều phục, nếu được duyên như vậy, thì hồi hướng như vậy.
Lại có tám thứ, đó là tám chúng Sát lợi, cho đến Bàla-môn.
Lại có chín thứ: Một là Như Lai điều phục. Hai là Thanh văn, Duyên giác điều phục. Ba là Bồ-tát điều phục. Bốn là khó điều phục. Năm là dễ điều phục. Sáu là nói lời dịu dàng điều phục. Bảy là quở trách điều phục. Tám là điều phục xa. Chín là điều phục gần.
Lại có mười thứ: Một là địa ngục. Hai là súc sinh. Ba là ngạ quỷ. Bốn là trời, người ở dục giới. Năm là trung ấm. Sáu là sắc. Bảy là vô sắc. Tám là tưởng. Chín là vô tưởng. Mười là phi tưởng phi phi tưởng. Đó là năm mươi lăm thứ phân biệt trở thành vô lượng.
Giới chúng sinh và giới điều phục có gì sai khác? Giới chúng sinh không phân biệt xứ chủng tánh của tất cả chúng sinh. Giới điều phục thì ở xứ chủng tánh kia. Như vậy ở xứ xứ kia, vô lượng phương tiện điều phục chuyển biến, như trong phẩm thành thục đã nói ở trước, ở đó cũng vô lượng thứ phân biệt. Như vậy là theo thứ tự nói năm thứ vô lượng. Vì sao? Bồ-tát nầy vì chúng sinh tu hành, cho nên nói vô lượng thứ nhất. Chúng sinh nơi xứ kia có thể thủ đắc cho nên nói vô lượng thứ hai. Chúng sinh đối với các thứ thế giới ấy, pháp phiền não, thanh pháp tịnh có thể thủ đắc, thế nên nói vô lượng thứ ba. Quán sát các chúng sinh kia tùy theo khả năng có thể thoát khổ, vì thế nên nói vô lượng thứ tư. Cho đến phương tiện giải thoát khổ của chúng sinh, thế nên nói vô lượng thứ năm. Đó là năm thứ vô lượng của Bồ-tát, sinh khởi tất cả hành phương tiện thiện xảo.
Bồ-tát có bốn thứ cầu, đối với tất cả pháp nhận biết như thật. Một là cầu danh. Hai là cầu sự. Ba là cầu thiết lập tự tánh. Bốn là cầu thiết lập sai biệt. Như trong phẩm chân thật đã nói ở trước.
Bồ-tát có bốn việc, đối với tất cả pháp nhận biết như thật: Theo cầu danh biết như thật. Theo cầu sự biết như thật. Theo cầu thiết lập sai biệt biết như thật. Theo cầu thiết lập tự tánh biết như thật. Như trong phẩm chân thật ở trước đã nói.
Chư Phật, Bồ-tát có năm việc, vì chúng sinh thuyết pháp được quả phước lợi lớn: Một là vì chúng sinh thuyết pháp sinh pháp nhãn lìa cấu. Hai là vì chúng sinh thuyết pháp được các lậu tận. Ba là vì chúng sinh thuyết pháp phát tâm Bồ-đề vô thượng. Bốn là vì chúng sinh thuyết pháp được Bồ-tát nhẫn đệ nhất. Năm là vì chúng sinh thuyết pháp, nghe rồi thọ tụng, tu tập đầy đủ, khiến chánh pháp trụ lâu. Đó là năm thứ thuyết pháp được quả phước lợi lớn.
Thế nào gọi là Đại thừa? Có bảy thứ Đại (lớn) nên gọi là Đại thừa: Một là pháp đại, đó là mười hai bộ kinh, tạng Bồ-tát phương quảng là tối thượng tối đại. Hai là tâm đại, nghĩa là phát tâm Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Ba là giải đại, đó là hiểu rõ về tạng Bồ-tát phương quảng. Bốn là tâm tịnh đại, nghĩa là vượt qua địa giải hành nhập địa tâm tịnh. Năm là chúng cụ đại, đó là các thứ loại phước đức, các thứ trí tuệ chứng đắc Bồđề vô thượng. Sáu là thời đại, nghĩa là trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp chứng đắc Bồ-đề vô thượng. Bảy là đắc đại, nghĩa là đắc Bồ-đề vô thượng, thân không có gì sánh bằng, huống chi là vượt qua.
Pháp đại, tâm đại, giải đại, tâm tịnh đại, chúng cụ đại, thời đại, sáu thứ đại nầy tức là nhân gieo trồng, đắc đại tức là xứ quả.
Bồ-tát có tám pháp thâu tóm tất cả Đại thừa nơi tạng Bồ-tát đã giảng nói. Nghĩa là tin tạng Bồ-tát. Hiển bày nghĩa chân thật của tất cả pháp. Hiển bày tất cả thần lực thắng diệu đệ nhất không thể nghĩ bàn của chư Phật, Bồ-tát. Được văn tuệ, tư tuệ tư duy, nương vào văn tuệ, tư tuệ tư duy, làm phương tiện đắc tâm tịnh. Đắc tâm tịnh làm phương tiện nhập hành tu tuệ. Nhập hành tu tuệ làm phương tiện đạt quả tu tuệ. Thành tựu quả tu tuệ như vậy là thành tựu sự xuất ly rốt ráo. Bồ-tát học như vậy, chứng đắc Bồ-đề vô thượng. Bồ-tát học như thế, chứng đắc Bồđề vô thượng, lược nói có mười thứ: Một là chủng tánh. Hai là nhập. Ba là chưa tịnh. Bốn là tịnh. Năm là chưa thành thục. Sáu là thành thục. Bảy là chưa định. Tám là định. Chín là một đời. Mười là thân sau cùng.
Chủng tánh đó là chưa được tâm tịnh. Phát tâm tu học gọi là nhập. Đã nhập, nhưng chưa nhập địa tâm tịnh gọi là chưa tịnh. Nhập địa tâm tịnh gọi là tịnh. Người tịnh, chưa nhập địa cứu cánh gọi là chưa thành thục. Nhập địa cứu cánh gọi là thành thục. Người thành thục nhưng chưa nhập địa định gọi là chưa định. Đã nhập địa định gọi là định.
Lại thành thục có hai thứ: Một là một đời, theo thứ lớp chứng đắc Bồ-đề vô thượng. Hai là thân sau cùng, tức là đời nầy chứng đắc. Như vậy từ chủng tánh cho đến thân sau cùng chứng đắc Bồ-đề vô thượng, mười thứ nầy là sở học, Bồ-tát phải học, đối với trên lại không còn gì để học. Bồ-tát như chỗ học mà học, đối với trên lại không có Bồ-tát học. Bồ-tát như sở học mà học, được hết thảy công đức đó gọi là: Bồ-tát Ma-ha-tát, Dũng mãnh không gì hơn, Phật tử, Phật trì, Đại sư, Đại Thánh, Đại thương chủ, Đại danh xưng, Đại công đức, Đại tự tại. Như vậy nơi mười phương vô lượng thế giới với vô lượng Bồ-tát, vô lượng nhân duyên, thiết lập tự tưởng, phải biết nếu có lời nói: Ta là Bồ-tát, nhưng không khéo học chỗ học của Bồ-tát, phải biết đó chỉ là Bồ-tát danh tự, không phải Bồ-tát chân thật. Nếu nói ta là Bồ-tát, khéo học chỗ học của Bồ-tát, nên biết đó là Bồ-tát chân thật.
Bồ-tát thành tựu năm thứ tướng chân thật, được kể vào số của các Bồ-tát: Một là thương xót. Hai là ái ngữ. Ba là dũng mãnh. Bốn là huệ thí. Năm là nói pháp nghĩa sâu xa. Năm tướng nầy, mỗi thứ đều có năm thứ phân biệt: Một là tự tánh. Hai là cảnh giới. Ba là quả báo. Bốn là thứ lớp. Năm là thâu nhận.
Tự tánh của thương xót có hai thứ, một là chí tâm. Hai là đầy đủ. Chí tâm là tâm an ổn, tâm vui thích. Đầy đủ là Bồ-tát hết lòng đối với chúng sinh, tùy theo năng lực của Bồ-tát mà thân khẩu tạo lợi ích.
Tự tánh của ái ngữ, nghĩa là trước nói lời an ủi, như trong phẩm Nhiếp ở trên đã nói.
Tự tánh của dũng mãnh, nghĩa là đối với chúng sinh, lực và ý chí luôn mạnh mẽ.
Tự tánh của huệ thí là bố thí thắng diệu bố thí không phiền não. Tự tánh của thuyết pháp nghĩa sâu xa, nghĩa là bốn trí vô ngại, xuất sinh trí chánh phương tiện.
Cảnh giới của thương xót có năm thứ: Một là chúng sinh thọ khổ. Hai là chúng sinh hành ác. Ba là chúng sinh buông lung. Bốn là chúng sinh trong đường tà. Năm là chúng sinh bị phiền não sai khiến.
Từ địa ngục cho đến tất cả khổ phải chịu liên tục, đó gọi là thọ khổ. Tuy không thọ khổ, nhưng thân, khẩu, ý phần nhiều tạo hành ác, đó là mười hai luật nghi ác, đấy gọi là hành ác. Tuy không thọ khổ, không tạo hành ác, nhưng tham đắm năm dục, ca múa, đùa giỡn, đấy gọi là buông lung. Tuy không thọ khổ, không tạo hành ác, không tham đắm năm dục, nhưng nương vào tà kiến cầu giải thoát khổ, đó gọi là đường tà. Xa lìa năm dục, theo pháp xuất gia, không thọ các khổ cho đến nẻo tà, nhưng có đủ phiền não hoặc có mà không nhiều, nghĩa là chánh phương tiện, phàm phu chân thật và các học nhân, đó gọi là bị phiền não sai khiến. Bồ-tát đối với cảnh giới nầy sinh tâm thương xót là rốt ráo, vô thượng.
Cảnh giới của ái ngữ có năm thứ: Một là chánh ngữ chân thật. Hai là chánh ngữ hoan hỷ. Ba là chánh ngữ tạo lợi ích. Bốn là chánh ngữ như pháp. Năm là phương tiện thuyết pháp ngữ, như trong phẩm Nhiếp đã nói ở trước. Bồ-tát đối với cảnh giới nầy sinh tâm ái ngữ là rốt ráo không gì hơn.
Cảnh giới của dũng mãnh có năm thứ, như trong phẩm Bồ-đề phần ở trước đã nói. Bồ-tát đối với cảnh giới ấy sinh tâm dũng mãnh rốt ráo không gì hơn.
Cảnh giới của huệ thí có năm thứ: Một là thí không phân biệt. Hai là thí hoan hỷ. Ba là thí chí tâm. Bốn là thí không nhiễm ô. Năm là thí không nương tựa, như trong phẩm Thí ở trước đã nói. Bồ-tát đối với cảnh giới nầy, sinh tâm huệ thí rốt ráo không gì hơn.
Cảnh giới của thuyết nghĩa pháp sâu xa có năm thứ: Một là đối với kinh của Như Lai đã giảng nói luôn tuỳ thuận, tương ưng với các pháp "không", duyên khởi sâu xa. Hai là đối với các giới luật, khéo biết chỗ phạm, không phạm cùng với nẻo ra khỏi phạm. Ba là đối với tạng Ma-đắc-lặc-già, kiến lập pháp tướng không điên đảo. Bốn là đối với pháp nghĩa sâu diệu dùng tưởng phân biệt. Năm là đối với pháp nghĩa của tất cả pháp, dùng vô số ngôn từ để tạo ra vô số phân biệt. Bồ-tát đối với cảnh giới nầy, sinh tâm thuyết nghĩa pháp sâu xa rốt ráo không gì hơn.
Bồ-tát thương xót các chúng sinh nên tu tập tâm từ, tạo phương tiện gần gũi đem lại lợi ích, không chán, phần nhiều trụ trong an lạc của hiện pháp vô tội, thâu giữ chúng sinh, như Đức Thế Tôn dạy: Phước lợi của tâm từ, thân thường không bị đao gậy làm hại, ở đây nên nói rộng, đó gọi là quả của sự thương xót.
Bồ-tát hành ái ngữ, ở trong pháp hiện tại, xa lìa bốn lỗi của miệng, là nói hai lời, nói thô ác, nói dối, nó thêu dệt, đem ái ngữ nầy thâu giữ mình, thâu giữ người, nơi đời vị lai thành tựu chánh ngữ, lời nói liền được tin dùng, đấy gọi là quả của ái ngữ.
Bồ-tát hành dũng mãnh, ở trong hiện pháp, xa lìa các sự biếng nhác, tâm thường hoan hỷ, thọ trì giới luật nghi của Bồ-tát, không hủy không phạm, dùng tâm an nhẫn thâu nhận mình và người, ở đời vị lai, mọi hành sự của Bồ-tát thảy đều có thể tu học, học rồi kiên cố, đấy gọi là quả của dũng mãnh.
Bồ-tát hành huệ thí và nói pháp nghĩa sâu xa, được quả như nơi phẩm Lực, phần Bố thí Ba-la-mật, Bát nhã Ba-la-mật đã nói ở trước, đấy gọi là quả của huệ thí và nói pháp nghĩa sâu xa.
Thứ lớp nghĩa là Bồ-tát trước hết tu pháp thương xót thâu giữ chúng sinh, vì khiến chúng sinh ra khỏi pháp bất thiện, an lập nơi pháp thiện, nên giảng nói đầy đủ, thế nên tiếp đến mới nói ái ngữ. Chúng sinh tạo ác và các thứ phiền não hệ thuộc không dứt, cho nên sau đấy là nói dũng mãnh. Hoặc có chúng sinh phải dùng tiền tài thâu nhận, hoặc có chúng sinh phải dùng pháp thâu nhận, hoặc dùng cả tài lẫn pháp để thâu nhận, vì thế cho nên sau rốt mới nói huệ thí và nói pháp nghĩa sâu xa.
Bồ-tát có năm thứ tướng thâu giữ sáu Ba-la-mật. Sáu Ba-la-mật nầy thuộc về tướng nào? Tướng thương xót thâu giữ Thiền Ba-la-mật. Tướng ái ngữ thâu giữ Giới Ba-la-mật, Bát nhã Ba-la-mật. Tướng dũng mãnh thâu giữ Nhẫn nhục Ba-la-mật, Tinh tấn Ba-la-mật, Bát nhã Ba-la-mật. Tướng huệ thí thâu giữ Bố thí Ba-la-mật.
Tướng nói pháp nghĩa sâu xa thâu giữ Thiền Ba-la-mật, Bát nhã Ba-la-mật. Đó gọi là Bồ-tát có năm thứ tướng với năm thứ phân biệt.
--------------------
Sự hỗ trợ (Dực) của Bồ-tát tại gia, xuất gia có bốn pháp để Bồ-tát tu học mau chóng chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng: Một là khéo tu nghiệp. Hai là tạo phương tiện thiện xảo. Ba là thâu giữ chúng sinh. Bốn là hồi hướng.
Thế nào là khéo tu nghiệp? Bồ-tát đối với sáu Ba-lamật quyết định tu, chuyên tâm tu, thường tu, tu vô tội.
Thế nào là quyết định tu? Nơi Bố thí Ba-la-mật, Bồ-tát đối với người đến cầu xin, dù lợi ích, không lợi ích, có đức, có lỗi, đều cần phải bố thí cho họ, đối với việc huệ thí, tâm không nghiêng động. Hoặc nhân, phi nhân, Sa-môn, Bà-la-môn, đồng pháp thế gian, đều không thể hủy hoại.
Thế nào là chuyên tâm tu? Bồ-tát nầy đối với người đến cầu xin, sẵn sàng xả vật thí nội ngoại thí cho tất cả không có sen tiếc.
Thế nào là thường tu? Bồ-tát nầy bố thí không chán mệt, tất cả thời gian đều tùy được, tùy thí.
Thế nào là tu vô tội? Như trong phẩm Thí đã nói, thí lìa phiền não. Đấy gọi là Bồ-tát khéo tu bố thí Ba-la-mật. Cũng như thí, giới, nhẫn, tinh tấn, thiền định, trí tuệ đều cũng như thế. Nên biết tùy theo chỗ ứng hợp.
Thế nào là tạo phương tiện thiện xảo? Lược nêu có mười thứ: Phương tiện thiện xảo đối với các chúng sinh hoại pháp, vì đấy nhằm dứt trừ não hại. Phương tiện thiện xảo đối với người trụ ở giữa khiến nhập, người nhập rồi khiến thành thục, người đã thành thục khiến giải thoát. Phương tiện thiện xảo đối với các thứ luận ở thế gian. Phương tiện thiện xảo quán xét về giới luật của Bồ-tát hoặc trì, hoặc hủy phạm. Phương tiện thiện xảo đối với chánh nguyện. Phương tiện thiện xảo của thừa Thanh văn, của thừa Duyên giác, của Đại thừa. Như vậy, tất cả thiện xảo đều tùy theo chỗ ứng hợp với địa Bồ-tát kia, phân biệt nên biết.
Mười thứ thiện xảo nầy là năm thứ sự việc: Bốn thứ thiện xảo đầu là tạo lợi ích cho chúng sinh. Phương tiện thiện xảo đối với các luận thế gian là hàng phục dị luận. Phương tiện thiện xảo quán xét về giới luật của Bồ-tát hoặc trì hoặc hủy phạm là nhằm khiến không khởi phạm giới, người đã phạm khiến như pháp sám hối, thọ trì luật nghi thanh tịnh. Phương tiện thiện xảo đối với chánh nguyện là Bồ-tát ở đời vị lai, tất cả chỗ mong muốn thảy đều đạt được. Phương tiện thiện xảo của ba thừa là Bồ-tát tùy theo chủng tánh, căn cơ của chúng sinh mà giải thích, ví dụ, tùy thuận thuyết pháp, thuyết pháp đầy đủ. Như vậy là mười thứ phương tiện thiện xảo làm năm thứ việc, tất cả chỗ làm thảy đều đầy đủ, vì hiện pháp và đời sau cùng được lợi ích.
Thế nào là Bồ-tát thâu giữ chúng sinh? Bồ-tát nầy nương vào bốn nhiếp pháp là bố thí, ái ngữ, lợi ích, đồng sự. Hoặc có chúng sinh dùng an mà tạo lợi ích, dùng lạc mà tạo lợi ích, dùng an, lạc mà tạo lợi ích, nói rộng như trong phẩm Tự lợi tha lợi ở trước.
Thế nào là Bồ-tát hồi hướng? Bồ-tát tu tập ba môn thiện căn, nghĩa là khéo tu nghiệp hành phương tiện thiện xảo, thâu giữ chúng sinh, tất cả quá khứ, hiện tại, vị lai với tâm thuần tịnh, hồi hướng nơi Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, không đem thiện căn cầu quả báo khác. Như Đức Thế Tôn dạy: Pháp của các Bồ-tát tại gia, xuất gia đã học, nên biết tất cả đều là khéo tu nghiệp, phương tiện thiện xảo, thâu giữ chúng sinh, hồi hướng tức thuộc về bốn pháp. Do đó, Bồ-tát khéo tu nghiệp hành phương tiện thiện xảo, thâu giữ, tụ tập, hồi hướng, phải biết là gần tòa Bồ-đề. Tất cả Bồ-tát tại gia xuất gia quá khứ, hiện tại, vị lai, đối với việc học Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, đã học, sẽ học, hay đang học, bốn pháp như vậy là rốt ráo không có gì hơn.
Bốn pháp như thế, Bồ-tát xuất gia, tại gia đều phải thành thục. Nhưng người xuất gia đối với người tại gia có khác biệt lớn. Bồ-tát xuất gia thâu nhận giải thoát, vượt qua những thứ như cha mẹ, vợ con, họ hàng, không phải như người tại gia. Bồ-tát xuất gia thâu nhận giải thoát, cũng không như tại gia với những thứ khổ như làm ruộng, kinh doanh mưu sinh, phục vụ vương gia. Bồ-tát xuất gia tu đầy đủ phạm hạnh, tất cả pháp Bồ-đề phần, chóng đắc thần thông. Nếu tu pháp thiện thì chóng được rốt ráo. Bồ-tát xuất gia khi thuyết pháp gì, người liền tín thọ. Đó gọi là chỗ khác biệt lớn của tại gia và xuất gia.
Bồ-tát đối với các chúng sinh có bảy thứ thương yêu, gọi là chân thật đệ nhất: Một là vô úy. Hai là phương tiện thiện xảo. Ba là không chán. Bốn là không cầu. Năm là không tham. Sáu là rộng lớn. Bảy là bình đẳng.
Bồ-tát không do lo sợ, nên đối với các chúng sinh khởi tâm thương yêu, tu nghiệp thân, khẩu, ý tạo an vui cho chúng sinh, đó gọi là vô úy.
Bồ-tát dùng trí tuệ thiện xảo, đối với các chúng sinh khởi tâm thương yêu, không giáo hóa phi pháp, phi luật, phi chân đế, phi xứ. Đó gọi là phương tiện thiện xảo.
Bồ-tát đối với các chúng sinh hành tất cả phương tiện mà không chán mệt, đó gọi là không chán.
Bồ-tát đối với các chúng sinh khởi tâm thương yêu, không mong cầu việc gì, đấy gọi là không cầu.
Không cầu báo ân đó gọi là không tham.
Bồ-tát đối với các chúng sinh khởi tâm thương yêu, không giới hạn về chúng sinh, ở chỗ các chúng sinh được lợi ích, không lợi ích, thảy đều không lìa bỏ, đó gọi là rộng lớn.
Bồ-tát đối với các chúng sinh khởi tâm thương yêu, cùng với cảnh giới của chúng sinh không hạn chế phương hướng, đấy gọi là bình đẳng.
Bồ-tát thành tựu bảy thứ thương yêu như vậy, đấy gọi là chân thật đệ nhất.
Bồ-tát đối với Phật, Pháp, Tăng, tạo phương tiện quán sát, đạt được sự hiểu biết quyết định, đó gọi là tâm tịnh, lược nói có mười lăm thứ: Một là tâm vô thượng. Hai là tâm giới. Ba là tâm Ba-la-mật. Bốn là tâm nghĩa chân thật. Năm là tâm thần lực. Sáu là tâm an. Bảy là tâm lạc. Tám là tâm giải thoát. Chín là tâm kiên cố. Mười là tâm không dối uổng. Mười một là tâm bất tịnh. Mười hai là tâm tịnh. Mười ba là tâm vui tịnh. Mười bốn là tâm điều phục. Mười lăm là tâm câu sinh.
Tâm tịnh chuyên vui thích Tam bảo, đó gọi là vô thượng. Tâm tịnh thọ giới luật của Bồ-tát, đấy gọi là giới. Tâm tịnh hành thí, nhẫn, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, đó gọi là Ba-la-mật.
Tâm tịnh nhận biết về pháp của đệ nhất nghĩa thâm diệu là nhân vô ngã, pháp vô ngã, nhân pháp vô ngã, đó gọi là nghĩa chân thật.
Tâm tịnh nhận biết về lực câu sinh, lực thần thông không thể nghĩ bàn của chư Phật, Bồ-tát, đó gọi là thần lực.
Đối với các chúng sinh muốn đem pháp thiện tạo lợi ích, đó gọi là an.
Đối với các chúng sinh muốn đem sự thâu giữ để tạo lợi ích, đó gọi là lạc.
Nơi các chúng sinh xa lìa tâm tham cùng với sự thọ báo, đấy gọi là giải thoát.
Đối với Bồ-đề vô thượng, tâm ấy kiên cố, đó gọi là kiên cố.
Phương tiện tạo lợi ích cho chúng sinh, phương tiện khai ngộ, trí không điên đảo đều cùng giải thoát, đó gọi là không dối uổng.
Tâm Bồ-tát của địa giải hành, đấy gọi là bất tịnh.
Địa tâm tịnh cho đến tâm Bồ-tát của địa quyết định hành, đó gọi là tịnh.
Tâm Bồ-tát của địa cứu cánh, đấy gọi là vui tịnh. Tâm không tịnh kia, đấy gọi là điều phục.
Tâm tịnh, tâm vui tịnh tư duy, đó gọi là câu sinh. Tánh tự chân thật, thân tâm thanh tịnh nên gọi là câu sinh.
Đấy gọi là mười lăm thứ tâm tịnh.
Mười lăm thứ tâm tịnh nầy, tùy theo tất cả địa, lược nói đã tạo ra mười việc: Tâm vô thượng tịnh tu tất cả chủng hạnh về ân huệ của Tam bảo, tu tất cả Bồ-đề gồm đủ chân thật đệ nhất. Tâm giới là từ khi thọ giới luật của Bồ-tát, cho đến khi mạng chung, trọn không hủy phạm, nếu có chỗ phạm tức có thể diệt trừ. Tâm Ba-la-mật là các pháp thiện căn thường siêng năng tu tập, trụ trong pháp không phóng dật. Tâm chân thật nghĩa là đem tâm không nhiễm ô vì chúng sinh nên thọ nhận sinh tử, tâm tịnh không xả, Niết-bàn giải thoát. Tâm thần lực là tịnh tín thuần hậu khai ngộ, tu tưởng niệm sinh tử, phần nhiều trụ trong Văn, Tư, biết lượng, biết đủ. Tâm an, tâm lạc, tâm giải thoát là tạo tất cả lợi ích cho chúng sinh mà không mệt chán. Tâm kiên cố là tinh tấn sáng rõ, tinh tấn rộng lớn, phương tiện bình đẳng, phương tiện không chậm, phương tiện không dứt. Tâm không dối uổng là mau chóng chứng đắc thần thông, những pháp thiện kia, không do tâm nhỏ, tâm thấp mà sinh tưởng đủ. Tâm điều phục, sinh tâm câu sinh. Tâm câu sinh mau chóng chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, tạo lợi ích an lạc cho chư Thiên và nhân loại.
Tâm điều phục thâu giữ tâm bất tịnh, tâm câu sinh thâu giữ tâm tịnh, tâm vui tịnh. Như Đức Thế Tôn dạy: Tâm tịnh của Bồ-tát, thiết lập hiển bày tất cả, đều là thuộc về mười lăm thứ tâm tịnh. Bồ-tát quá khứ, hiện tại, vị lai, chứng đắc Bồ-đề vô thượng, đã đắc, sẽ đắc, nay đắc, tất cả đều là mười lăm thứ tâm tịnh rốt ráo, không gì hơn. Như vậy, mười lăm thứ tâm tịnh có quả phước lợi lớn, nương vào đấy để chứng đắc Bồ-đề vô thượng.
-----------------------
Đã nói chủng tánh của Bồ-tát, cho đến chỗ học của Bồ-tát, và học về tướng của Bồ-tát, sự giúp đỡ của Bồ-tát, tâm tịnh của Bồ tát; nay sẽ lược nói về mười hai trụ của Bồ-tát gồm thâu tất cả trụ và tất cả hành của Bồ-tát. Trụ Như Lai thứ mười ba là trụ vô thượng. Những gì là mười hai trụ của Bồ-tát? Một là trụ chủng tánh. Hai là trụ giải hành. Ba là trụ hoan hỷ. Bốn là trụ tăng thượng giới. Năm là trụ tăng thượng ý. Sáu là trụ tăng thượng tuệ. Trụ tăng thượng tuệ có ba loại: Một là Bồ-đề phần pháp tương ưng. Hai là đế tương ưng. Ba là duyên khởi sinh diệt tương ưng. Bồ-tát với trí chân thật quán chân thật, nghĩa là nhận biết chúng sinh, sinh khổ, diệt khổ, thế nên Bồ-tát ở nơi ba môn có ba thứ tuệ, ba thứ trụ. Chín là trụ vô tướng có hành có khai phát. Mười là trụ vô tướng không hành không khai phát. Mười một là trụ vô ngại. Mười hai là trụ Bồ-tát tối thượng. Như vậy mười hai trụ gồm thâu tất cả trụ, tất cả hành của Bồ-tát. Trụ Như Lai thì vượt hơn tất cả trụ Bồ-tát. Trụ A duy tam Phật, trụ Như Lai thì nơi phẩm An Lập ở sau sẽ nói rộng. Mười hai trụ Bồ-tát đã kiến lập, nay sẽ nói.
Thế nào là trụ chủng tánh? Bồ-tát nầy tánh vốn tự hiền thiện, tánh tự có thể hành công đức nơi pháp thiện. Tánh hiền thiện cho nên phương tiện theo ý, các pháp thiện sinh không đợi tư duy, sau đó mới được. Chủng tánh Bồ-tát, là chủng tử của tất cả pháp Phật. Chủng tử của tất cả pháp Phật ở trong thân, xa lìa phiền não thô. Bồ-tát của trụ chủng tánh tuy khởi phiền não bậc thượng trói buộc, nhưng trọn không thể hành năm nghiệp vô gián và đoạn thiện căn. Nghĩa của chủng tánh như trong phẩm Chủng tánh đã nói. Đấy gọi là trụ chủng tánh.
Thế nào là trụ giải hành? Bồ-tát nầy bắt đầu phát tâm, chưa được địa tâm tịnh, nhưng Bồ-tát đã có các hành, đó gọi là trụ giải hành. Bồ-tát của trụ chủng tánh, đối với các trụ Bồ-tát khác, cùng trụ Như Lai, chỉ là nhân sinh, nhân gồm thâu, chẳng phải là phương tiện, cũng chẳng phải là đạt được, cũng chẳng phải là thanh tịnh, huống gì là trụ Như Lai. Bồ-tát của trụ giải hành, đối với các trụ Bồ-tát khác và trụ Như Lai, là phương tiện, nhưng chẳng phải là đạt được, cũng chẳng phải là thanh tịnh, chỉ được giải hành và hướng thanh tịnh. Bồ-tát của trụ giải hành tịnh tu trụ hoan hỷ, đắc phương tiện trước và hướng thanh tịnh. Bồ-tát của trụ hoan hỷ tịnh tu trụ tăng thượng giới, đắc phương tiện trước và hướng thanh tịnh. Như thế, nói rộng cho đến trụ Bồ-tát tối thượng, nên biết như vậy. Trụ Bồ-tát tối thượng thứ lớp tịnh tu trụ Như Lai nơi trụ Như Lai của phương tiện trước, tức thì chứng đắc và thanh tịnh. Đó là sự sai khác giữa trụ Như Lai và trụ Bồ-tát.
Thế nào là trụ hoan hỷ? Bồ-tát nơi trụ tâm tịnh đó gọi là trụ hoan hỷ.
Thế nào là trụ tăng thượng giới? Bồ-tát nhân nơi tâm tịnh trụ mà tánh giới đầy đủ an trụ.
Thế nào là trụ tăng thượng ý? Bồ-tát nhân nơi tăng thượng giới làm thanh tịnh các thiền thế tục, mà an trụ Tam-muội chánh thọ.
Thế nào là tuệ trụ tương ưng với pháp phần Bồ-đề? Bồ-tát nhân nơi trí thế tục thanh tịnh, Tam-muội chân thật biết rõ về chân đế, ba mươi bảy pháp Bồ-đề phần, niệm xứ v.v… quán sát mà trụ.
Thế nào là tuệ trụ tương ưng với đế? Bồ-tát nhân nơi pháp phần Bồ-đề, tuệ trụ quán sát chân đế.
Thế nào là tuệ trụ tương ưng với duyên khởi sinh diệt? Bồ-tát nơi chân đế biết rõ là tăng thượng rồi, có nhân duyên khổ sinh, có nhân duyên khổ diệt, quán sát tánh mà trụ.
Thế nào là trụ vô tướng có hành, có khai phát? Bồ-tát nơi ba thứ tuệ tăng thượng làm tăng thượng rồi, có hành, có khai phát, không đoạn tất cả pháp vô gián như lìa các vọng tưởng, tu tuệ đều cùng trụ.
Thế nào là trụ vô tướng không hành không khai phát? Tức là trụ vô tướng nầy phần nhiều thuần tu cho đến không đoạn đạo tăng tưởng, vô gián tùy thuận mà trụ.
Thế nào là trụ vô ngại? Bồ-tát nương vào Tam-muội của trí tuệ bất động vui tịnh, đối với lời, nghĩa, chương câu của Phương quảng vô thượng do Đức Phật thuyết giảng, quán sát phân biệt mà trụ.
Thế nào là trụ Bồ-tát tối thượng? Bồ-tát trụ ở đạo Bồ-tát cứu cánh, chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, hành đại pháp quán đảnh một đời tiếp nối, hoặc thân sau cùng lần lượt ở trụ nầy, chứng đắc Bồ-đề vô thượng, làm tất cả Phật sự mà trụ.
Bồ-tát của trụ giải hành, tu hành ít, hành đoạn, hành bất định, chỗ chứng đắc có thối chuyển. Bồ-tát của trụ hoan hỷ cho đến ba thứ tuệ trụ, tu hành rộng, hành bất đoạn, hành quyết định, chỗ chứng đắc không thối chuyển. Trụ vô tướng có hành, có khai phát, cho đến trụ Bồ-tát tối thượng tu vô lượng hành, hành bất đoạn, hành quyết định, chỗ chứng đắc không thối chuyển.
Bồ-tát của trụ giải hành, là vô tướng tu phương tiện. Bồ-tát của trụ hoan hỷ cho đến trụ tăng thượng tuệ, là đạt được vô tướng. Bồ-tát của trụ vô tướng thứ nhất, trụ vô tướng thứ hai là tu vô tướng thanh tịnh. Bồ-tát của trụ vô ngại cho đến trụ Bồ-tát tối thượng, là quả tu vô tướng. Bồ-tát của trụ giải hành, khi hành giải hành có hành tướng gì? Bồ-tát của trụ giải hành khi hành giải hành, dùng lực tư duy những chỗ tạo tác của Bồ-tát làm phương tiện tư duy tu tập. Tánh không thể tự chân thật, kiên cố, không thối chuyển, không được như cách tu của Bồ-tát bất thối chuyển đã tu. Tu như vậy, thì quả như vô số thần thông vô ngại, Tam-muội giải thoát, chánh thọ, thảy đều không được, cũng chưa đoạn năm thứ lo sợ, đó là sợ không sống nổi, sợ tiếng xấu, sợ chết, sợ đường ác, sợ đại chúng. Tư duy tu tập tạo lợi ích cho chúng sinh, tánh không thể tự thương xót, hoặc có khi khởi nghiệp thân, khẩu, ý tà, có khi tham đắm cảnh giới năm dục, có khi tham tiếc các vật dụng sở hữu. Nhưng do Phật, Bồ-tát nên sinh khởi tịnh tín mà không thể tự khởi trí tuệ chân thật, về nghĩa chân thật nơi công đức của Tam bảo, lực thần thông của chư Phật, Bồ-tát, hoặc nhân, hoặc quả, hoặc đắc nghĩa, hoặc đắc phương tiện, hoặc cảnh giới. Nghe ít, tư duy ít, nên trí tuệ thành tựu không thể vô lượng. Hoặc có khi quên mất con đường tu đạo Bồ tát thành tựu là chậm chắc, chịu khổ nên không thể chuyên tinh hành đại Bồ-đề, phương tiện sáng rõ, vui thích sâu xa tịnh tín; đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, đáng vui và không thể vui, hoặc điên đảo thọ sinh ở giữa hai thân. Hoặc khi thọ tụng trì pháp tạo tác lâu, tu lâu, nơi ba việc ấy quên mất chánh niệm. Hoặc khi tuệ sáng thọ trì chánh pháp, khéo hiểu về nghĩa ấy. Hoặc khi không hiểu, hoặc không khéo nhận biết để tùy thuận điều phục. Hoặc lại không biết tự mình sinh khởi pháp Phật, theo ý thuyết pháp, chỉ dạy khuyên răn, do theo ý nên không biết như thật. Hoặc khi nói dối uổng, như trong tối mà bắn tên, hoặc trúng hoặc không trúng. Hoặc khi thoái chuyển xả tâm đại Bồ-đề. Hoặc khi thọ giới Bồ-tát, trở lại hủy phạm. Hoặc khi có thể tạo phương tiện làm lợi ích cho chúng sinh. Hoặc khi chán mệt, vì thế đối với phương tiện thoái chuyển, vui cái vui của chính mình. Hoặc khi tư duy biết chúng sinh vui thích, thiếu giảm nhưng không thể đoạn. Hoặc có đoạn trừ mà thường thường thiếu giảm. Hoặc lúc có thể thuyết tạng pháp Bồ-tát. Hoặc khi nghe giảng nói pháp sâu xa vi diệu mà sinh sợ hãi, dao động, nghi vấn, đối với tất cả chúng sinh xa lìa đại bi, ít có thể tạo an lạc, không thể hành rộng lớn, tức không thể như trên đã nói là học những gì Bồ-tát đã học, đầy đủ tướng Bồ-tát, Bồ-tát hỗ trợ, Bồ-tát tâm tịnh, cách xa quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, tâm không thể tịnh vui thích sâu xa về Niết-bàn, xa lìa sinh tử, thiện căn bất động, pháp Bồ-đề phần đều không thành tựu. Những thứ như vậy, gọi là hành tướng của Bồ-tát nơi trụ giải hành. Bồ-tát của trụ giải hành khi hành hạ nhẫn, như trên đã nói hành tướng tăng, khi hành trung nhẫn thì trung bình, khi hành thượng nhẫn thì hành tướng giảm. Như vậy, khi hành thượng nhẫn thì đoạn hành tướng nầy, theo thứ tự nhập trụ hoan hỷ, với phương tiện được trụ hoan hỷ, tất cả pháp kia đều không có trụ lại. Trụ giải hành đã nói thì trái ngược lại là tất cả phần pháp không nhiễm ô, thành tựu gọi là trụ tâm tịnh. Bồ-tát của trụ giải hành có phương tiện hạ, trung, thượng, dần dần tịnh giải thoát, không phải là thanh tịnh vô tội. Vì sao? Vì giải thoát kia có triền ở trên các thứ phiền não sinh ra. Bồ-tát của trụ hoan hỷ giải thoát triền ở trên các phiền não nên đoạn lìa phiền não, sinh giải thoát thanh tịnh.
Thế nào là hành tướng của Bồ-tát nơi trụ hoan hỷ? Bồ-tát nầy ở trụ giải hành nhập trụ hoan hỷ, trước khéo nhập nơi Bồ-đề vô thượng, nguyện khéo nhập nơi phương tiện Bồ-đề, tu tập quyết định. Quyết định có sáu thứ: Một là có khả năng tự tu tập, khởi nguyện Bồ-đề, vượt ra ngoài tất cả tịnh nguyện. Hai là quả không chung, không gì sánh bằng, vượt ra ngoài tất cả cảnh giới của thế gian. Ba là thuận độ các chúng sinh khổ, không chung với tất cả Thanh văn, Duyên giác. Bốn là phát khởi một niệm nguyện, tánh tự nhiên vui thích vô lượng pháp tịnh và hành không chán. Năm là được nguyện vô tận thường không thối chuyển. Sáu là tăng trưởng phần thù thắng, đại Bồ-đề rốt ráo. Đó gọi là nguyện chân thật. Bồ-tát nguyện chân thật có bốn việc: Một là vì những người nào phát tâm? Hai là duyên vào gì mà phát tâm? Ba là phát tâm có tướng gì? Bốn là phát tâm có phước lợi gì?
Bồ-tát của trụ giải hành tu tập tất cả loại thiện căn, xuất sinh chánh hạnh Bồ-đề mà phát tâm. Đó là lược nói về người phát tâm.
Ở đời vị lai mau chóng đạt đầy đủ tất cả chủng Bồđề, đầy đủ việc Bồ-tát tạo lợi ích cho chúng sinh, đầy đủ tất cả hành của Bồ-đề vô thượng, đầy đủ tất cả Phật sự mà phát tâm. Đó là lược nói về duyên phát tâm.
Bồ-tát phát tâm, mau chóng đầy đủ tất cả chủng loại Bồ-đề, các việc Bồ-tát tạo lợi ích cho chúng sinh, tất cả hành của Bồ-đề vô thượng, tất cả Phật sự, vượt qua địa phàm phu, nhập quả vị Bồ-tát, sinh trong nhà Như Lai, gọi là Phật tử, quyết định cầu đạt Bồ-đề vô thượng rốt ráo, đắc tịnh bất hoại, sinh tâm hoan hỷ, lìa tâm phi luật nghi, tham sân… Tất cả các thứ tạo lợi ích cho chúng sinh, tất cả chủng loại Bồ-đề đầy đủ, đầy đủ pháp Phật, Phật sự, thần lực, duyên kết nơi tâm tịnh, thứ lớp ý giải, tự thấy được pháp Phật kia, mau chóng tùy thuận thực hành, sinh tâm hoan hỷ, gìn giữ các thiện căn, xuất gia làm nhiều lợi ích, bình đẳng lìa dục, thân tâm thâu nhận hoan hỷ mạnh mẽ, thành tựu pháp thiện, gần gũi tâm thanh tịnh Bồ-đề vô thượng, đối với Đại Bồ-đề sinh tâm hoan hỷ. Bồ-tát với tâm sinh quyết đinh xa lìa năm thứ lo sợ, tu trí vô ngã, ngã tưởng không sinh, làm sao sẽ có ngã ái và các thứ vật dụng để ái, thế nên lìa lo sợ không thể sống. Đối với người khác không có chỗ cầu dục, thường muốn tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh, cho nên xa lìa sự lo sợ về tiếng xấu ác. Xa lìa ngã kiến, ngã tưởng không sinh, do đó lìa sự lo sợ về chết. Thân nầy mạng chung, nơi đời vị lai chắc chắn được cùng với chư Phật, Bồ-tát tụ hội, vì thế xa lìa sự lo sợ về đường ác. Quán xét ở thế gian không ai sánh bằng, huống gì là hơn trên, vì thế nên xa lìa sự lo sợ nơi đại chúng. Như vậy, xa lìa năm thứ lo sợ rồi, thì cũng xa lìa được sự lo sợ khi nghe pháp sâu xa, lìa bỏ sự kiêu mạn cao ngạo, với người khác không tạo lợi ích, các thứ sân, hận, tham, hỷ cũng đều xa lìa, không nhiễm ô, không hành tạp, tất cả pháp thiện, tất cả các thứ tinh tấn, phương tiện tịnh tín hiện tại đều tu hành, đối với việc vị lai sinh mười đại nguyện, mười đại nguyện ấy như trong phẩm Bồ-đề phần ở trước đã nói.
Trụ hoan hỷ nầy tịnh tu sinh: Một là đem tâm thanh tịnh thường nguyện cúng dường tất cả chư Phật. Hai là thọ trì giữ gìn chánh pháp chư Phật. Ba là khuyến thỉnh chư Phật chuyển pháp chưa từng có. Bốn là thuận hành chánh hạnh của Bồ-tát. Năm là tất cả các vật dụng thành thục đầy đủ. Sáu là nơi tất cả thế giới đều có thể hiện sinh. Bảy là tự làm thanh tịnh Phật độ. Tám là tất cả Bồ-tát đồng một phương tiện đem Đại thừa giáo hóa. Chín là tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh, hết thảy đều chẳng không. Mười là tất cả thế giới chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, thực hiện tất cả Phật sự.
Như vậy, mười đại nguyện ấy có thể sinh khởi vô lượng trăm ngàn đại nguyện, không lìa cảnh giới chúng sinh, không lìa thuận với thế gian, các đại nguyện nầy đời đời luôn hành trì, trọn không quên mất, hiện pháp theo phương tiện tinh tấn tu tịnh, trụ nơi mười pháp thuộc trụ hoan hỷ tịnh tu sinh: Một là đối với tất cả pháp Phật đều tín không hoại. Hai là tạo phương tiện quán sát duyên khởi, khổ ấm nơi chúng sinh sinh tâm đại bi. Ba là quán sát chúng sinh khổ, khiến được giải thoát, sinh tâm đại từ. Bốn là do đại từ bi, muốn độ tất cả chúng sinh thọ khổ, nên tự xả thân mình không xả bỏ chúng sinh, xả mọi vật trong ngoài để hành bố thí. Năm là vì hóa độ chúng sinh nên siêng cầu pháp thế gian, xuất thế gian, tâm không chán mệt. Sáu là do tâm không chán mệt nên nhận biết tất cả luận. Bảy là do nhận biết tất cả luận nên biết chúng sinh loại hạ, trung, thượng, tùy theo sự ứng hợp nơi họ mà biết thế gian. Tám là tùy theo chỗ ứng hợp rồi biết thời, biết lượng, sinh tâm hổ thẹn. Chín là phương tiện như vậy đạt được lực mạnh mẽ. Mười là được tài lợi thế gian cúng dường Như Lai. Mười pháp như vậy làm tịnh trụ hoan hỷ, đó là tín, từ, bi, thí, không nhàm chán, biết luận, biết thế gian, hổ thẹn, mạnh mẽ cúng dường Như Lai. Bồ-tát tu tập mười pháp nầy, đối với chín trụ còn lại như trụ tăng thượng giới v.v… quán xét công đức và lỗi ác của tất cả các thứ đạo, cầu thần thông vốn có của chư Phật, Bồ-tát vui thích đạo không hoại, khéo thâu giữ hành được nương tựa, vượt qua tất cả trụ, đắc Đại Bồ-đề, làm đại Đạo sư, độ thoát chúng sinh nơi đồng hoang vắng sinh tử dạy bảo khiến họ nhập hạnh, nhập hạnh rồi chứng đắc được quả phước lợi thành tựu, gọi là dựa nơi trụ. Trụ nầy có hai nhân duyên: Thấy vô lượng Phật, nghe nói về tạng Bồ-tát, tức có thể hiểu biết, biết vô số danh hiệu của chư Phật trong vô lượng thế giới ở mười phương, từ tịnh tín thấy thô, cho đến được kiến giải chân thật, đó gọi là nhân duyên thứ nhất. Lại khởi nguyện: Đức Phật đó ra đời, ta sẽ sinh ở cõi đó, tùy nguyện vãng sinh. Như vậy, do nguyện lực nên từ thấy tịnh tín thô được thấy chư Như Lai với tất cả các thứ cúng dường, các thứ tạo an lạc lợi ích, tùy theo khả năng, tùy theo lực để cúng dường Pháp, Tăng, ở chỗ Như Lai nghe, thọ chánh pháp, nghe rồi thọ trì pháp tiếp pháp hướng, dùng bốn nhiếp sự để thành thục chúng sinh, tất cả thiện căn hồi hướng nơi Bồ-đề, do ba thứ thanh tịnh nên các thiện căn kia lại chuyển thanh tịnh. Phật, Pháp, Tăng thâu nhận cúng dường, do bốn nhiếp sự thành thục chúng sinh, tất cả thiện căn đều hồi hướng Bồ-đề, nên thân tâm thanh tịnh đến vô lượng trăm ngàn ức kiếp. Ví như vàng ròng được thử trong lửa, thợ giỏi luyện sửa càng thêm sáng sạch. Thiện căn của Bồ-tát chuyển tăng thanh tịnh cũng lại như vậy. Nếu lại thọ sinh, làm Chuyển luân vương, làm vua cõi Diêm-phù-đề, tùy ý tự tại, xa lìa tham lam, cũng giáo hóa chúng sinh xa lìa bỏn sẻn xấu xa, đem bốn nhiếp sự thâu giữ chúng sinh, khiến khắp chúng sinh được đệ nhất nghĩa. Hoặc muốn tinh tấn, xả bỏ của cải, nhà cửa, ở trong chánh pháp của Phật xuất gia học đạo, trong khoảnh khắc một niệm có thể đạt đầy đủ trăm Tam-muội của Bồ-tát, có thể dùng Tammuội thấy trăm thế giới Phật, đem trí lực thần thông có thể làm động trăm thế giới Phật, thân cũng có thể vượt qua ánh sáng. Có thể biến hóa một thân thành trăm thân hiện bày rộng khắp, thành thục chúng sinh, có thể trụ lâu trăm kiếp, có thể nhận biết việc nơi trăm kiếp quá khứ, có thể biết ấm, giới, nhập, mỗi thứ với trăm pháp môn, có thể hóa trăm Bồ-tát làm quyến thuộc. Hoặc đem nguyện lực tạo ra sức thần thông, tức có vô lượng trăm ngàn ức kiếp không thể đếm biết. Đó gọi là lược nói về trụ hoan hỷ. Đó là quyết định bốn việc, xuất sinh đại nguyện, phương tiện tinh tấn xuất sinh, tu tập pháp tịnh trụ, nơi các trụ kia đều tịnh tu, thấy thiện căn Phật, thần lực thọ sinh, nói rộng như trong Tu-đa-la Thập Địa, nơi địa Hoan hỷ đã nói: Tu-đa-la nói Thập Địa, tức là tạng Bồ-tát nầy. Ma-đắc-lặc-già nói mười trụ thâu giữ chúng sinh nên nói là địa, tự thọ hành trụ nên nói là trụ.
Thế nào là hành tướng của Bồ-tát nơi trụ tăng thượng giới? Bồ-tát nầy ở trụ hoan hỷ được mười thứ tâm tịnh.
Một là tâm đem tất cả các thứ cúng dường phước điền tôn trọng, trước nói lời thưa hỏi. Hai là tâm cùng với Bồ-tát đồng pháp gần gũi vui trụ. Ba là tâm thắng tất cả ma nghiệp trói buộc của phiền não. Bốn là tâm thấy được tất cả hành tội ác. Năm là tâm thấy rõ phước lợi của Niếtbàn. Sáu là tâm thường tu thiện căn của pháp Bồ-đề phần. Bảy là tâm tùy thuận tu Bồ-đề nơi xứ thanh tịnh vắng vẻ. Tám là tâm không nghĩ nhớ về những tham ái, kiêu mạn, lợi dưỡng ở thế gian. Chín là tâm lìa thừa Thanh văn hướng đến Đại thừa. Mười là tâm tạo tất cả mọi thứ lợi ích cho chúng sinh.
Mười thứ tâm sinh như vậy gọi là được tâm tịnh. Tâm tịnh đầy đủ như thế, lần lượt nhập trụ tăng thượng giới. Nhập trụ tăng thượng giới rồi tức tánh giới đầy đủ, dấu vết của tà nghiệp loại thấp, thuộc về giới ác thảy đều không làm, huống gì là loại trung, thượng. Tánh giới đầy đủ như vậy, thì nghiệp nhiễm ô, không nhiễm ô, dấu vết của nghiệp nơi đường thiện, đường ác, xứ nhân, xứ quả đều biết như thật, quả báo quả y và nghiệp kia cũng biết như thật, tự đoạn mười nghiệp ác, hành mười nghiệp thiện. Lại đem pháp nầy dạy trao cho chúng sinh, kể cả cảnh giới của những chúng sinh tạo nghiệp ác, tội lỗi, xấu xa, cũng bình đẳng truyền dạy không sai khác. Nghiệp thiện nghiệp ác, đệ nhất nghĩa khổ, các loại hoạn nạn, đều tạo được sự thương xót rộng lớn, thấy Phật, thiện căn thanh tịnh, như trước đã nói. Ví như vàng ròng được thêm thuốc riêng, bỏ vào trong lửa tăng thêm sáng sạch. Bồ-tát với thiện căn thanh tịnh cũng lại như vậy. Trụ nơi tâm thanh tịnh nầy, thành tựu thọ sinh, làm Chuyển luân vương, cai trị bốn cõi thiên hạ, dùng lực tự tại khiến các chúng sinh lìa các giới ác, hành đạo nghiệp thiện. Mười việc thần lực như trong kinh đã nói. Đó gọi là lược nói về trụ tăng thượng giới. Đó là: Tâm tịnh, tánh giới đầy đủ, lìa tất cả giới ác, lìa tất cả nẻo nghiệp, tất cả nhân quả hiểu biết như thật, phân biệt bốn thứ nghiệp dạy trao chúng sinh. Nghiệp thiện ác trong cõi chúng sinh sinh khổ và các nạn tạo được sự thương xót rộng lớn, thấy Phật, thiện căn thanh tịnh, thần lực thọ sinh, nói rộng như kinh Thập Địa, nơi Địa Ly Cấu đã nói. Lìa cấu uế của giới ác nên gọi là ly cấu. Địa Ly cấu kia tức ở đây là trụ tăng thượng giới.
Thế nào là hành tướng của Bồ-tát nơi trụ tăng thượng ý? Bồ-tát nầy ở trụ tăng thượng giới được mười thứ tư duy, mười thứ tư duy đầy đủ xong, vượt qua trụ tăng thượng giới, nhập vào trụ tăng thượng ý: Một là làm tịnh mười thứ tâm tịnh. Hai là lìa mười thứ tâm bất tịnh. Ba là đối với tất cả pháp hữu lậu có thể sinh chán lìa. Bốn là biết tu pháp đối trị. Năm là tu pháp đối trị không thối chuyển. Sáu là đối trị kiên cố hơn hẳn tất cả hữu lậu, tất cả nghiệp ma. Bảy là đối với tất cả pháp Phật không có yếu kém, thoái lui. Tám là đối với các khổ hạnh không cho là khó. Chín là tin hiểu Đại thừa, không ưa thích Tiểu thừa. Mười là tất cả các thứ đều tạo lợi ích cho chúng sinh.
Bồ-tát của trụ tăng thượng ý quán tất cả hành sinh vô lượng lỗi ác, ở nơi chán lìa quán công đức phước lợi nơi trí tuệ của Phật sinh khởi chánh niệm, tín tâm thuần tịnh. Quán các hành khổ trong cõi chúng sinh, thương nhớ chúng sinh, nương vào nơi nghĩa, đối với hành hữu vi không hành buông thả, đối với Đại Bồ-đề tinh tấn dũng mãnh, đối với các chúng sinh sinh tâm đại bi, khiến các chúng sinh rốt ráo thoát khổ. Quán sát tất cả chướng ngại phiền não, chánh trí giải thoát. Quán xét hết thảy vọng tưởng của pháp giới, phiền não khởi lên dùng trí tuệ đối trị, quán trí tuệ Tam-muội thành tựu … nghe tạng Bồ-tát lấy đó làm phương tiện, nhờ nghe phương tiện nên siêng tu tinh tấn. Nghe chánh pháp nên không tiếc thân mạng, không một thứ của cải trong ngoài nào mà không bố thí, không một bậc đáng tôn trọng nào mà không cung kính, không có chánh giáo nào mà không phụng hành, không có thân khổ nào mà không cầu pháp. Dùng tâm ái niệm nghe mỗi bài kệ bốn câu, hơn hẳn ái niệm các thứ châu báu chứa nhóm trong ba ngàn đại thiên thế giới. Nếu nghe một kệ, hướng đúng đến Phật đạo, tịnh tu hạnh Bồ-tát, thì hơn hẳn việc được làm Chuyển luân Thánh vương, làm Hộ thế, Đế thích, Ma, Phạm. Nếu có người nói: Ta có chánh pháp, chánh hướng Phật đạo, tịnh tu hạnh Bồ-tát, nếu có thể nhảy vào hầm lửa lớn thọ đại khổ, thì ta sẽ vì ông mà nói. Bồ-tát nghe rồi hoan hỷ thọ lạc, khởi niệm: Nếu nghe chánh pháp hướng đúng đến Phật đạo, tu hạnh Bồ-tát, giả sử lửa lớn cháy bừng khắp tam thiên đại thiên thế giới, cho đến cõi Phạm Thiên Bồ-tát hãy còn nhập vào trong đó, huống gì là lửa nhỏ. Trải qua mọi thứ khổ ở địa ngục Bồ-tát hãy còn dốc cầu pháp Phật, huống gì là khổ nhỏ. Phương tiện tinh tấn tư duy như thế, cầu pháp như pháp, thứ pháp, hướng thuận pháp Phật, không do văn tự, âm thanh thanh tịnh. Khởi niệm như vậy xong, nhờ nghe pháp tướng của chánh duyên, xa lìa pháp dục, ác, bất thiện, được bốn thiền thế gian, bốn định vô sắc, bốn vô lượng, năm thần thông, xả các thiền, chánh thọ Tammuội. Do nguyện lực nên lại sinh ở dục giới, quán chúng sinh kia có thể đạt đủ pháp phần Bồ-đề nên sinh vào xứ đó, lìa dục nên đoạn trừ dục trói buộc. Do chánh thọ các thiền nên có trói buộc liền đoạn trừ, trước trụ giải hành, pháp như vậy, như thấy giải thoát đoạn dứt trói buộc. Tham sân si rốt ráo không hành, thấy Phật, thiện căn thanh tịnh, như trước đã nói. Ví như vàng ròng được luyện sửa, lìa cấu uế thành sáng sạch, thiện căn chuyển tăng thanh tịnh của Bồ-tát cũng lại như vậy. Nếu lại thọ sinh thì được thân Đế thích, lấy pháp thiện lìa dục điều phục chúng sinh, thần lực hơn các trụ trước trăm ngàn vạn lần. Đó gọi là lược nói về trụ tăng thượng ý. Đó là thành tựu mười thứ tư duy, nhập tất cả hành Đại Bồ-đề nơi cảnh giới chúng sinh, phân biệt đúng về khổ chân thật, phương tiện giải thoát, chính cầu, hết sức cung kính cầu pháp, pháp tiếp pháp hướng phương tiện thiện xảo sinh ra các thiền Tam-muội, chánh thọ thần thông, xả bỏ các thiền, do nguyện lực nên tùy theo chỗ mong muốn thọ sinh, thấy Phật, thiện căn thanh tịnh, thần lực thọ sinh, nói rộng như trong kinh Thập Địa nơi Địa Minh đã nói: Nghe pháp thực hành, do hành pháp chiếu sáng, Tam-muội chiếu sáng, nên nói là Địa minh. Nội tâm thanh tịnh nên gọi là trụ tăng thượng ý. Địa minh kia chính là trụ tăng thượng ý.
Thế nào là Bồ-tát hành pháp phần Bồ-đề tương ưng với trụ tăng thượng tuệ? Bồ-tát nầy ở trụ tăng thượng ý, đạt đầy đủ mười pháp minh tăng thượng rồi, nhập trụ tăng thượng tuệ thứ nhất. Mười pháp minh như nơi kinh đã nói, đó là đệ nhất nghĩa bình đẳng. Hoặc phiền não não hại, hoặc thanh tịnh tịnh hóa. Phiền não trói buộc, não hại. Thanh tịnh vô thượng tịnh hóa. Đó gọi là lược nói về nghĩa pháp minh. Người trụ ở trụ nầy, thành thục mười trí tịnh không hoại làm đầu, như trong kinh nói: Mười trí thành thục sinh vào nhà Như Lai, đạt được mười trí quán sát tự tại, làm tăng thượng xong, tu ba mươi bảy pháp Bồ-đề phần như niệm xứ v.v... Như trong kinh nói: Tu tập pháp kia, cho nên lìa các thứ ấm, giới, nhập như thân kiến v.v…, các ái nhiễm vi tế rốt ráo không sinh. Đức Như Lai không khen ngợi sự tạo nghiệp, nên tất cả không làm. Điều được khen ngợi là tất cả tùy thuận. Như như chân thật, tâm càng thêm thuận hòa, tu các thứ hành, tâm kia vui tịnh, biết ân báo ân, thuận theo công đức, các thứ pháp tịnh thảy đều thành tựu, tu nghiệp thượng địa, được tinh tấn lớn. Nhân nơi tinh tấn kia, nên tâm thanh tịnh tâm sâu xa tin hiểu đầy đủ. Nhờ nơi chánh pháp nên ngoại đạo, ma oán không thể khuynh động, được thấy Phật, thiện căn thanh tịnh như trước đã nói. Ví như vàng ròng làm các vật trang sức, các kim loại khác không sánh bằng. Thiện căn của Bồ-tát cũng lại như vậy, hơn hẳn công đức của các Bồ-tát hạ địa. Như lưu giữ nhiều ma ni ánh sáng thanh tịnh, các thứ ngọc báu khác không bằng, tất cả mưa gió không thể hoại diệt. Bồ-tát như vậy thì ánh sáng trí tuệ của Bồ-tát hạ địa, hàng Thanh văn, Duyên giác không thể sánh bằng, ma oán phiền não đều không thể hủy diệt. Nếu lại thọ sinh thì làm Thiên vương Diệm ma, đem các pháp thiện giáo hóa chúng sinh, dùng lực thần thông phá trừ thân kiến… đối với trụ trước hơn gấp trăm ngàn vạn lần. Đó là lược nói về pháp phần Bồ-đề nơi trụ tăng thượng tuệ. Đấy là thành tựu mười pháp minh, nhập mười trí thành thục, tu pháp phần Bồ-đề, tất cả chấp trước như thân kiến v.v… đều đoạn, nghiệp làm ra, nghiệp thuận theo, hoặc xa lìa, hoặc tu tập, tâm chuyển nhu hòa, tùy thuận công đức thảy đều thành tựu. Tu nghiệp thượng địa được tinh tấn lớn, nhờ tinh tấn ấy tâm tịnh tâm sâu xa, tin hiểu thanh tịnh, nhân nơi chánh pháp ấy nên ma oán không khuấy động. Thấy Phật, thiện căn thanh tịnh, thần lực thọ sinh, nói rộng như trong kinh Thập Địa nơi Diệm Địa đã nói. Địa kia là mầm ánh sáng trí tuệ của pháp phần Bồ-đề, chính là nói pháp trí chiếu sáng thế gian, vì thế nên địa ấy gọi là Diệm. Diệm địa kia tức là pháp phần Bồ-đề tương ưng nơi trụ tăng thượng tuệ.
Thế nào là Bồ-tát hành đế tương ưng trụ tăng thượng tuệ? Đó là Bồ-tát trước đã ở nơi trụ tăng thượng tuệ thứ nhất đạt được mười thứ tâm tịnh bình đẳng, tăng thượng đầy đủ rồi, nhập trụ tăng thượng tuệ thứ hai. Mười tâm tịnh bình đẳng, như nơi kinh nói: Đó là Đẳng giác vô đẳng, vượt khỏi chúng sinh khác, nơi pháp như bình đẳng. Đó gọi là lược nói về nghĩa tâm tịnh bình đẳng. Người trụ ở trụ nầy, trí tuệ tăng tiến, đối với bốn Thánh đế có mười thứ biết như thật, như trong kinh nói. Hoặc nhờ nơi người khác, hoặc tự mình biết, hoặc đều cùng biết, như nơi Tu-đa-la, Tỳ-ni, Ma-đắc-lặc-già nói. Hiện tại khổ, nhân khổ, nhân khổ diệt, đạo phương tiện diệt nhân khổ, đó gọi là lược nói về mười thứ biết như thật về bốn Thánh đế. Phương tiện nhận biết đế ấy, phá trừ tất cả hành hữu vi, đối với các chúng sinh đại bi tăng trưởng. Biên vực trước, sau nơi bốn chân đế, ngu hoặc, hướng tà, đều khiến vào nơi các thứ trí tuệ công đức giải thoát, tu hành thành thục, chánh nguyện, chánh niệm, vô số các công đức chân thật như chánh trí, chánh thuyết v.v… tăng trưởng tư duy rốt ráo, tất cả các loại thành thục, phương tiện thành thục cho chúng sinh, do thâu giữ chúng sinh nên tu tập tất cả sách luận thế tục, như trong kinh đã nói. Do tất cả nghiệp công xảo, xuất sinh tâm bi, dẫn dụ chúng sinh tiến lên an lập Bồ-đề, tùy thuận thế gian hành phương tiện huệ thí. Bốn đại lầm loạn, bị phi nhân bức não, khiến được dừng dứt. Đem các vật dụng vui đùa vô tôi, tạo lợi ích, nhân lợi ích nầy dẫn dắt khiến vui thích pháp, dùng các phương tiện an trụ vào, chỉ mà tạo lợi ích. Các nạn xâm hại như vua, giặc v.v… đều cứu độ khiến an ổn, phương tiện xứ phi xứ, hoặc cho, hoặc cấu ra việc tốt, không tốt, huệ thí đều thành tựu. Hiện pháp lần lượt thanh tịnh, tạo lợi ích, các người điên đảo sẽ vì họ giảng nói chánh đạo. Đấy gọi là nghĩa thâu giữ chúng sinh bằng công xảo bình đẳng của thế gian. Thấy Phật, thiện căn thanh tịnh, như trước đã nói. Ví như vàng ròng gắn thêm các thứ báu bên cạnh thì ánh sáng thanh tịnh, hơn hẳn các loại vàng khác. Bồ-tát như vậy, trí tuệ phương tiện hơn hẳn Bồ-tát khác cùng hàng Thanh văn, Duyên giác, ví như cung điện của mặt trời, mặt trăng, tất cả phong luân không thể khiến mất. Bồ-tát như vậy, trí tuệ phương tiện không hề bị pháp thế gian hủy hoại. Nếu lại thọ sinh, thì làm vua cõi trời Đâu suất, đem các pháp thiện phá trừ tất cả pháp tà của ngoại đạo, diệu lực thần thông hơn hẳn trụ trước trăm ức lần. Đó gọi là lược nói về đế tương ưng nơi trụ tăng thượng tuệ. Đấy là thành tựu tâm tịnh bình đẳng, nhập đế quán tăng trưởng, phá trừ các hành, đối với các chúng sinh, tâm đại bi thêm lớn, các thứ công đức trí tuệ thành thục, các công đức như chánh nguyện, chánh niệm, chánh trí, chánh thuyết v.v… tăng trưởng tư duy rốt ráo, tất cả các thứ đều thành thục phương tiện, thành tựu chúng sinh xuất sinh công xảo. Thấy Phật, thiện căn thanh tịnh, thần lực thọ sinh, nói rộng như trong kinh Thập Địa, nơi địa Nan Thắng đã nói. Trí tuệ quyết định khó có thể hơn (Nan thắng) thế nên địa ấy gọi là Nan Thắng. Địa Nan Thắng kia tức ở đây là đế tương ưng nơi trụ tăng thượng tuệ.
Thế nào là Bồ-tát hành duyên khởi tương ưng nơi trụ tăng thượng tuệ? Đó là Bồ-tát ở đế tương ưng nơi trụ tăng thượng tuệ, đạt được mười pháp bình đẳng, tăng thượng đầy đủ xong, nhập vào trụ thứ sáu. Mười pháp bình đẳng là: Một là tự tánh bình đẳng nơi đệ nhất nghĩa của tất cả pháp. Hai là bình đẳng vô tướng của hành vô ngôn thuyết. Ba là bình đẳng vô sinh. Bốn là bình đẳng của nhân duyên không khởi. Năm là bình đẳng tịch diệt rốt ráo. Sáu là bình đẳng lìa các hư giả. Bảy là bình đẳng của hết thảy hành không thủ không xả. Tám là bình đẳng của tất cả pháp. Chín là bình đẳng của cảnh giới vọng tưởng như huyễn như hóa. Mười là bình đẳng của cảnh giới vọng tưởng có-không, không hai.
Đó là lược nói về mười pháp bình đẳng. Người trụ nơi trụ nầy, đối với các chúng sinh tâm đại bi tăng trưởng, chuyên vui thích Bồ-đề, biết các thế gian hợp tan, sinh diệt, hiểu rõ về duyên khởi các chánh hành, nương vào duyên xuất sinh trí tuệ và ba môn giải thoát là Không, Vô tướng, Vô nguyện,. Nương vào ba Tammuội xa lìa ngã, ngã sở, tướng hữu tánh, vô tánh của người nhận biết, người tạo tác. Phương tiện của đệ nhất nghĩa như thế, tư duy về chúng sinh với những phiền não trói buộc, nhân duyên hòa hợp, hữu vi yếu kém, chấp trước nơi ngã, ngã sở sinh ra các lỗi lầm xấu ác, đoạn lìa nhân duyên của phiền não trói buộc, hòa hợp tự gìn giữ, do gồm thâu chúng sinh, nên không diệt hết thảy hữu vi. Từ bi trí tuệ như vậy tùy thuận, trụ Bát nhã Ba-la-mật giải thoát không chướng ngại. Trụ nơi trí vô ngại giải thoát rồi, đối với hết thảy thế gian đều hành vô ngại. Người trụ như vậy, gọi là Bồ-tát của địa thứ bảy, phương tiện hành nhẫn, thuộc về tùy thuận nhẫn. Trụ nơi Bát nhã Ba-la-mật giải thoát không chướng ngại, nhân duyên tu tập Bồ-đề không thoái chuyển, hữu vi thế tục hết thảy không trụ, cũng không trụ ở tịch diệt dừng nghỉ kia. Phương tiện trí tuệ như vậy là tùy thuận, nhập môn Tammuội "không", khiến trăm vạn môn Tam-muội "không" hiện tiền. Như Tam-muội Không, môn Tam-muội Vô tướng, Tam-muội Vô nguyện cũng như vậy. Các môn Tam-muội nầy hiện ở trước xong, đạt được tâm bất hoại, tất cả chủng loại pháp Phật chuyển tăng thù thắng, ngoại đạo, ma oán đều không thể hủy hoại, ngoài ra như trước nói. Ví như vàng ròng được gắn thêm các thứ báu bên cạnh thì hơn hẳn các thứ vàng khác. Bồ-tát như vậy, thiện căn thanh tịnh hơn hẳn tất cả. Ví như ánh sáng của mặt trăng, dứt trừ sự nóng bức cho chúng sinh, tất cả phong luân không thể che lấp, ánh sáng trí tuệ của Bồ-tát cũng lại như vậy, vì các chúng sinh dứt bỏ lửa phiền não, tất cả ma oán đều không thể làm cho đoạn tuyệt. Nếu lại thọ sinh thì làm Thiên vương Thiện Hóa tự tại, thường dùng pháp thiện diệt trừ hết thảy kiêu mạn của chúng sinh, thần lực hơn trước ức trăm ngàn lần. Đó gọi là lược nói về duyên khởi tương ưng nơi trụ tăng thượng tuệ. Đấy là pháp bình đẳng thành tựu, hội nhập biết rõ các duyên khởi, sinh môn giải thoát, xa lìa các tưởng tà vạy, phương tiện thâu nhận, trụ nơi Bát nhã Ba-la-mật giải thoát không chướng ngại, đạt vô lượng Tam-muội, được tâm bất hoại, pháp Phật thù thắng, thấy Phật, thiện căn thanh tịnh, thần lực thọ sinh, nói rộng như trong địa Hiện tiền của kinh Thập Địa đã nói. Trí vô ngại hiện tiền nên địa kia gọi là hiện tiền, tức địa nầy được gọi là duyên khởi tương ưng nơi trụ tăng thượng tuệ.
Thế nào là trụ vô tướng có hành có khai phát của Bồ-tát? Đó là Bồ-tát ở nơi trụ tăng thượng tuệ tương ưng duyên khởi, đạt đầy đủ mười tuệ phương tiện, lần lượt xuất sinh đạo thắng tấn chung, không chung với thế gian, tăng thượng đầy đủ rồi, nhập trụ thứ bảy. Mười tuệ phương tiện kia, như trong kinh đã nói. Nghĩa là xuất sinh pháp thiện thế gian, thâu nhận phước đức, tạo an lạc cho các chúng sinh. Các thứ phước đức và pháp Bồ-đề phần đều được tăng trưởng, không chung với hàng
Thanh văn, Duyên giác. Biết rõ về pháp giới, chúng sinh giới, thế giới, biết thân khẩu ý của Như Lai. Đó là lược nói về tuệ phương tiện xuất sinh đạo. Như vậy, công đức thứ lớp thắng tiến, nhập vào vô số vô lượng xứ của cảnh giới Như Lai đã khởi, không khai phát tưởng vô tướng. Thấy được vô lượng xứ của cảnh giới Phật đã khởi mà tu tập không gián đoạn hết thảy oai nghi, đi đứng suy nghĩ không lìa tất cả xứ đạo, ở trong mỗi mỗi niệm có đầy đủ mười Ba-la-mật và tất cả pháp Bồ-đề phần, không phải như các trụ khác. Trụ hoan hỷ thứ nhất tu tập chánh nguyện. Trụ thứ hai là lìa cấu uế của giới ác. Trụ thứ ba là nguyện chuyển tăng trưởng, được pháp quang minh. Trụ thứ tư là nhập đạo. Trụ thứ năm là nhập vào chỗ tạo tác của thế gian. Trụ thứ sáu là nhập pháp môn sâu xa. Trụ thứ bảy nầy là khởi tất cả pháp Phật, đầy đủ pháp trợ Bồ-đề phần. Bồ-tát nầy thực hành phương tiện đầy đu, thâu nhận an trụ các hành thanh tịnh của trí tuệ thần thông. Bồ-tát đối với trụ nầy thứ lớp nhập trụ thứ tám thanh tịnh. Người trụ nơi trụ thứ tám hoàn toàn thanh tịnh. Ở trụ thứ bảy còn phương tiện tạp tịnh, vào cảnh không nhiễm ô, gọi là hành không nhiễm ô. Trụ thứ bảy nầy đoạn trừ tất cả phiền não như tham… nên không gọi là có phiền não nhưng không được trí tuệ Phật với tâm thanh tịnh như thật, vì thế không gọi lìa phiền não. Trụ thứ bảy nầy thành tựu vô lượng nghiệp thân khẩu ý như Đức Phật đã khen ngợi về nghiệp, như nói ở trước. Về năm trụ đã có được trí công nghiệp ở thế gian tự nhiên đầy đủ, làm bậc Đại sư trong ba ngàn đại thiên thế giới, chỉ trừ địa Bồ-tát trên và Đức Như Lai, ngoài ra đều không sánh bằng. Tất cả thiền định, pháp Bồ-đề phần, đều hiện tiền tu tập mà không thọ báo.
Bồ-tát ở trụ nầy, tư duy phương tiện nhập Tam-muội khéo điều phục, sinh khởi trăm vạn Tam-muội, vượt qua tất cả cảnh giới Tam- muội của Thanh văn, Duyên giác, xa lìa phiền não, các hành vọng tưởng, tùy thuận nghiệp thân khẩu ý sâu xa, không xả bỏ phương tiện nơi đạo thắng tiến, đầy đủ Bồ-đề, nhớ nghĩ đến chúng sinh, lìa tất cả tướng nơi vô lượng nghiệp thân khẩu ý, sinh tịnh tu pháp nhẫn vô sinh. Ở trong trụ nầy vượt qua cảnh giới tự giác, sáu trụ khác đều duyên dựa nơi pháp Phật. Ở trụ thứ sáu, Bồ-tát có thể nhập tịch diệt, nay trụ nơi địa nầy, niệm niệm tịch diệt nhưng không chứng tịch diệt, được nghiệp thân khẩu ý chưa từng có và không thể nghĩ bàn, tuy hành nơi thật tế mà không chứng thật tế. Như vậy là trí phương tiện sinh, làm tăng thượng xong, cùng làm tất cả việc của chúng sinh, chiếu sáng thế gian, ngoài ra đều như trong kinh đã nói.
Nói tóm lại vì sự việc công đức, do tưởng thân thuộc thâu nhận, tu tập thắng tiến, trụ nơi ba giải thoát, người cầu thừa thấp dùng phương tiện điều phục. Người thọ năm dục, cầu dục thù thắng, thì chuyển các tà kiến tùy thuận chánh niệm, trong các đại hội thảy đều tùy thuận, ngoài ra như trước đã nói. Ví như vàng ròng có gắn thêm ngọc báu ma ni và các thứ báu bên cạnh, thì hơn hẳn vàng Diêm-phù-đàn. Thiện căn thanh tịnh của Bồ-tát hơn hẳn tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác và các Bồ-tát lìa cấu khác, ví như ánh sáng của mặt trời chiếu xuống cõi Diêm-phù-đề, thì tất cả vũng nước cấu uế đều khiến khô cạn, hơn hẳn các thứ ánh sáng khác. Ánh sáng trí tuệ của Bồ-tát nầy có thể khiến cho phiền não của chúng sinh khô cạn, hơn hẳn tất cả ánh sáng trí tuệ của Thanh văn, Duyên giác và các Bồ-tát khác. Nếu lại thọ sinh, thì làm Thiên vương Tha hóa tự tại, dùng trí tuệ tạo lợi ích, tất cả thần lực hơn trụ trước ức trăm ngàn lần. Đó gọi là lược nói về trụ vô tướng có hành có khai phát. Đấy là tuệ phương tiện thành tựu đạo thắng tấn, khiến hội nhập xứ của cảnh giới Như Lai đã phát khởi, hành phương tiện không gián đoạn, ở trong mỗi một niệm gồm đủ pháp Bồ-đề phần, nhiễm ô hay không nhiễm ô đều kiến lập phương tiện hành đầy đủ, thâu nhận làm thanh tịnh nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh tất cả nghiệp công xảo của thế gian đều viên mãn, đắc vô lượng Tam-muội, không chung nơi tất cả Thanh văn, Duyên giác, niệm niệm hành tịch diệt, cùng với thế gian làm tất cả việc. Thấy Phật, thiện căn thanh tịnh, thần lực thọ sinh, nói rộng như nơi địa Viễn hành trong kinh Thập Địa đã nói. Hành phương tiện đầy đủ, thế nên địa ấy gọi là Viễn hành, tức ở đây gọi là trụ vô tướng có hành có khai phát.
Thế nào là Bồ-tát hành trụ vô tướng không hành không khai phát? Đó là Bồ-tát ở trụ vô tướng đầu tiên được mười thứ trí, nhập vào đệ nhất nghĩa của tất cả pháp, như trong kinh đã nói: Nghĩa là pháp ba đời như chỗ ứng hợp là không sinh, không khởi, không tướng, không thành. Đệ nhất nghĩa lìa ngôn thuyết, tự tánh không biết ngôn thuyết. Hành tự tánh cùng sinh tà kiến không trí, chấp trước nhận biết lìa các việc ngôn thuyết. Tất cả thời đầu, giữa, cuối, phiền não bình đẳng, nhập lìa vọng tưởng bình đẳng, tất cả phiền não thảy đều xa lìa. Đó là lược nói nhập trí đệ nhất nghĩa. Mười thứ trí nầy tăng thượng đầy đủ rồi nhập trụ thứ tám thanh tịnh, đó gọi là được pháp nhẫn vô sinh thứ nhất vui tịnh. Bồ-tát lại có bốn thứ cầu, cầu tất cả pháp, bốn thứ đều biết như thật, biết tất cả pháp, do cầu biết nên lìa tất cả vọng tưởng, chấp trước, nơi hiện pháp tất cả phiền não không khởi, ở đời vị lai, tất cả vọng tưởng chấp trước đều rốt ráo không sinh. Bốn thứ cầu, bốn thứ nhận biết như thật, như trong phẩm Chân thật ở trước đã nói. Từ trụ giải hành cho đến trụ vô tướng có hành có khai phát, chưa đạt được vui tịnh, ở trụ nầy mới được vui tịnh. Đó gọi là pháp nhẫn vô sinh thứ nhất. Được pháp nhẫn vô sinh rồi, thì được hành sâu xa, lìa trụ vô tướng thứ nhất với bốn thứ não loạn: Một là có hành có khai phát. Hai là địa thanh tịnh chuyên cần phương tiện. Ba là tất cả lợi ích của chúng sinh có thể thực hiện chuyên cần phương tiện. Bốn là tưởng hành vi tế. Cho nên trụ nầy gọi là vui tịnh. Đối với pháp môn thâm diệu, trong dòng chảy của pháp, Đức Như Lai khuyến phát sinh ra vô lượng môn trí tuệ thần thông các nghiệp tạo lợi ích, do khuyến phát nên sinh ra vô lượng tôn thân trí tuệ, đạt được mười thứ tự tại, như trong kinh đã nói. Được tự tại nên muốn trụ gần, trụ lâu, tùy theo ý liền được. Các thiền giải thoát tùy ý mong muốn, các thứ vật dụng sinh sống, nghiệp công xảo ở đời, hết thảy đều thuận theo ý muốn. Tất cả xứ sinh, tất cả sự thọ sinh tùy ý vãng sinh. Hết thảy thần lực, tất cả thệ nguyện tùy ý đều có thể được, biến tất cả vật trở thành vàng quý tùy ý cũng được thành. Muốn biết pháp giới, danh thân, cú thân, vị thân, ở trong tất cả pháp kiến lập phương tiện thiện xảo, liền có thể biết. Như vậy quả báo, phước lợi của lực tự tại, như trong kinh đã nói. Ở trong mỗi một niệm thường cùng thấy Phật, thiện căn thanh tịnh, thần lực thọ sinh, dụ như ánh sáng của vàng, như trong kinh đã nói. Đó gọi là lược nói về trụ vô tướng không hành không khai phát. Đấy là thành tựu trí đệ nhất nghĩa, được nhập pháp nhẫn không khởi, não loạn đều xa lìa, đắc trụ vui tịnh với pháp môn sâu xa. Chư Phật khuyến phát, sinh ra vô lượng trí tuệ, thần thông, các nghiệp tạo lợi ích, xuất sinh vô lượng tôn thân, trí tuệ, được đại uy lực, được lực tự tại lớn, phước lợi quả báo, thiện căn thanh tịnh, thần lực thọ sinh, nói rộng như nơi địa Bất động trong kinh Thập địa đã nói. Lìa hữu hành hữu khai phát, nhân nơi đạo thắng tiến, nên địa đó gọi là Bất động, tức địa nầy ở đây gọi là trụ vô tướng vô hành vô khai phát.
Thế nào là Bồ-tát hành trụ vô ngại? Đó là Bồ-tát an lạc trong sự giải thoát sâu xa, với trí thượng thắng tấn, biết các tạng pháp của Phật, các thứ hành của Bồ-tát vì người nói rộng, tùy theo chỗ ứng hợp mà nói pháp, thảy đều nhận biết như thật; chỗ đáng thuyết pháp, phiền não, thanh tịnh, ai phiền não, ai thanh tịnh, thảy đều nhận biết như thật. Khéo thuyết pháp như vậy gọi là Đại Pháp sư, đắc vô lượng Đà-la-ni, các âm thanh biện tài đều khéo léo, vô tận pháp Đà-la-ni thâu nhận có thể được thành tựu, cho đến xuất sinh trí vô ngại của Bồ-tát, ngồi ở pháp tòa là chỗ đáng thuyết pháp cho chúng sinh ưa thọ nhận có khả năng thành thục, như trong kinh nói. Thiện căn thanh tịnh, thần lực thọ sinh. Đấy gọi là lược nói về trụ vô ngại của Bồ-tát. Đấy là Đại Pháp sư ưa thích giải thoát sâu xa, thuyết pháp, hành trí không thể nghĩ bàn, thiện căn thanh tịnh, thần lực thọ sinh, nói rộng như nơi địa Thiện Tuệ trong kinh Thập Địa đã nói. Tạo an lạc cho tất cả chúng sinh, Bồ-tát tịnh tu vô ngại, nói rộng pháp lớn, thế nên địa đó gọi là Thiện tuệ, tức địa nầy ở đây gọi là trụ vô ngại.
Thế nào là trụ Bồ-tát tối thượng? Đó là Bồ-tát ở trụ vô ngại, tịnh tu tất cả các thứ pháp quán đảnh ứng hợp với bậc Pháp vương, đắc vô lượng Tam-muội như ly cấu v.v… làm những việc đáng làm, sau cùng làm tăng tất cả trí quán đảnh Tam-muội hiện ra trước, được thân đồng tọa với tất cả Phật, hoa sen, quyến thuộc làm hào quang soi chiếu khắp, được tất cả chủng, nhất thiết trí quán đảnh, hết thảy sự kiên cường đều điều phục, được trí trụ phương tiện giải thoát ở chỗ Phật, được vô lượng thần thông giải thoát, tổng trì, được trí niệm lớn, ngôn từ gấp bội, cùng thần thông lớn, thiện căn thanh tịnh, thần lực thọ sinh thắng tiến. Đó gọi là lược nói về trụ Bồ-tát tối thượng, nói rộng như nơi địa Pháp Vân trong kinh Thập Địa đã nói. Bồ-tát của địa Pháp vân đầy đủ đạo Bồ-tát, đầy đủ các thứ Bồ-đề, đạt được tuệ thù thắng của Bồ-tát, khởi mây pháp lớn, đem chánh giác tự giác làm mưa cho các chúng sinh, phiền não cấu uế đều khiến dứt trừ, các thứ thiện căn tăng trưởng, thành thục, thế nên địa đó gọi là Pháp vân, tức địa ấy ở đây gọi là trụ Bồ-tát tối thượng.
Như trước nói, công đức hướng lên trên lần lượt, thì địa trước không có, nhưng trong mỗi một trụ nếu là người trung căn, thượng căn, thì mỗi mỗi đều trải qua ức trăm ngàn đại kiếp, phần nhiều có thành tựu. Người hạ căn không ở trong số đó. Hết thảy trụ kia cần phải trải qua ba A-tăng-kỳ đại kiếp. A-tăng-kỳ đại kiếp thứ nhất là trụ giải hành, vượt qua được trụ hoan hỷ với năm hạnh thắng tấn. Ở A-tăng-kỳ đại kiếp thứ hai, là trụ hoan hỷ cho đến trụ vô tướng có khai phát, vượt qua được trụ vô tướng không khai phát. Đây tức là quyết định, Bồ-tát tâm tịnh quyết định thắng tiến. Ở A-tăng-kỳ đại kiếp thứ ba, là trụ vô tướng không khai phát và trụ trí vô ngại, vượt qua tức được trụ Bồ-tát tối thượng.
Kiếp có hai loại: Một là số năm tháng ngày đêm thời tiết là vô lượng nên gọi là A-tăng-kỳ. Hai là vô lượng đại kiếp nên gọi là A-tăng-kỳ. Số năm nơi A-tăng-kỳ kiếp kia, là loại A-tăng-kỳ trước, Bồ-tát đã vượt qua, sau ba A-tăng-kỳ đại kiếp loại sau thì không có sự vượt qua. Nếu Bồ-tát tinh tấn tăng thượng, tức có thể chuyển trung kiếp, không thể chuyển đại kiếp.
Như vậy Bồ-tát của mười hai trụ, cứ ba A-tăng-kỳ đại kiếp phần phiền não chướng nhiễm ô, phần trí chướng nhiễm ô, đoạn phần phiền não chướng nhiễm ô của ba trụ kia. Đoạn phần phiền não của đường ác nơi trụ hoan hỷ. Đoạn phần phiền não trong tăng thượng tất cả không hiện hành. Trụ vô tướng không khai phát, pháp nhẫn vô sinh thanh tịnh tương tục. Phần phiền não nhiễm ô tất cả không hiện hành. Trụ Bồ-tát tối thượng thì tất cả phiền não tập, sử chướng đều đoạn, nhập trụ Như Lai. Phần nhiễm ô của trí chướng có ba thứ: Một là da. Hai là thịt. Ba là xương. Trụ hoan hỷ đoạn chướng ngoài da. Trụ vô tướng không khai phát đoạn chướng trong thịt. Trụ Như Lai đoạn chướng nơi xương, tất cả chướng thanh tịnh. Đối với ba trụ nầy là đoạn trí chướng, các trụ khác tùy theo thứ lớp tạo sự trang nghiêm chân thật. Như vậy, mười ba trụ có mười một thứ tịnh. Thứ nhất là chủng tánh tịnh. Thứ hai là giải hành tịnh. Thứ ba là tâm tịnh tịnh. Thứ tư là giới tịnh. Thứ năm là ý tịnh. Thứ sáu, thứ bảy, thứ tám là chánh kiến tịnh. Thứ chín là phương tiện hành đầy đủ tịnh. Thứ mười là trí chân thật thần thông xuất sinh tịnh. Mười một là nói chánh nghĩa vô tận, vô ngại tịnh. Mười hai là tùy thuận tất cả chủng, tất cả chỗ hiểu biết nơi trí tịnh. Mười ba là trụ Như Lai, tất cả phiền não chướng, tập sử trí chướng, tập sử tịnh, như trong phẩm Công đức của Bồ-tát ở trước đã nói, tám pháp gồm thâu tất cả Đại thừa, thuộc về tạng Bồ-tát. Mười ba trụ nầy gồm thâu trụ thứ nhất và trụ thứ hai, tín tâm sinh trụ giải hành. Đối với tạng Bồ-tát đạt được văn tuệ, tư tuệ. Trụ thứ ba được tâm tịnh và tu tuệ hành đầu tiên. Trụ thứ tư cho đến trụ thứ chín, trụ vô tướng có hành có khai phát là tu tuệ rộng lớn. Trụ thứ mười, mười một, mười hai thuộc về tịnh tu tuệ hành, tu tuệ quả, trụ thành tựu Như Lai, xuất ly rốt ráo.
Pháp của trụ Thanh văn cũng có mười hai. Bồ-tát theo thứ tự nên biết: Một là Thanh văn hành tự trụ chủng tánh. Hai là nhập chánh chưa vượt thứ tự thủ chứng phương tiện trụ. Ba là vượt thứ tự thủ chứng trụ. Bốn là được tịnh bất hoại chưa được giới Thánh chuyển lậu tận ở trên mà trụ. Năm là nương tăng thượng giới, tăng thượng ý học xuất sinh trụ. Sáu, bảy, tám là đắc chân đế trí tăng thượng tuệ học trụ. Chín là quán sát sinh tử vô tướng Tam-muội phương tiện trụ. Mười là cứu cánh vô tướng trụ. Mười một là xứ giải thoát giác ngộ trụ. Mười hai là tất cả chủng loại A-la-hán trụ.
Về sự thọ sinh của Bồ-tát lược nói có năm thứ, nơi tất cả trụ, tất cả hành Bồ-tát đều làm cho tất cả chúng sinh vô tội an lạc. Một là dứt khổ sinh. Hai là tùy loại sinh. Ba là thắng sinh. Bốn là tăng thượng sinh. Năm là tối hậu sinh.
Bồ-tát dùng nguyện lực, lực tự tại, ở trong đời đói kém chịu làm thân loài cá lớn, dùng thịt để cứu giúp cho tất cả chúng sinh. Ở trong đời bệnh dịch, làm thầy thuốc giỏi trị tất cả bệnh. Vào đời đao binh, làm bậc vua có uy lực lớn, khéo dùng phương tiện nói lời thành tín, đem tâm bình đẳng cứu tế nhằm chấm dứt chiến tranh. Đối với các nơi chốn trói buộc, đánh đập, bức bách, vì muốn dứt trừ sự khổ não nên sinh vào nhà vua, đem chánh pháp giáo hóa những chúng sinh tà kiến, thờ phụng thiên thần, tạo các hành ác, do nguyện lực tự tại sinh nơi xứ trời kia, đoạn trừ tà kiến và các hành ác. Vô lượng những xứ sinh như vậy, Bồ-tát đều sinh đến. Đó gọi là dứt khổ sinh.
Bồ-tát dùng nguyện lực và lực tự tại, đối với các loại chúng sinh như trời, rồng, quỷ, thần, A-tu-la… thay nhau não loạn, cho đến các ngoại đạo khởi các tà kiến làm ác, không làm thiện, đều sinh vào trong đó, vì họ nên làm người dẫn dắt đứng đầu, khiến họ đi vào con đường chân chính. Việc họ đã làm, Bồ-tát không làm họ không tu tập, Bồ-tát phải tu tập, lại đem pháp thiện thuyết giảng rộng cho họ. Như vậy tùy theo loại thọ sinh, cho đến vô lượng. Đó gọi là tùy loại sinh.
Bồ-tát dùng tánh thọ sinh hơn hẳn đối với quả báo sống lâu ở thế gian như là sắc v.v…, như nơi phẩm Tự tha lợi đã nói. Thọ sinh như vậy cũng lại vô lượng. Đấy gọi là thắng sinh.
Bồ-tát từ trụ tâm tịnh cho đến trụ Bồ-tát tối thượng, đều ở trong ấy thọ sinh, như phẩm Trụ ở trước đã nói. Nơi cõi Diêm-phù-đề tự tại sinh, cho đến cõi trời Đại tự tại, chưa vượt qua địa cứu cánh, trong tất cả xứ thọ sinh đều kỳ lạ, đặc biệt, đấy gọi là tăng thượng sinh.
Bồ-tát nơi trụ tối thượng thọ sinh, điều phục nghiệp, các phương tiện của đạo bồ đề tăng thượng đầy đủ, sinh vào nhà Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, làm tất cả Phật sự. Đấy gọi là tối hậu sinh.
Tất cả Bồ-tát trong đời quá khứ, hiện tại, vị lai đều dùng năm thứ thọ sinh nầy là rốt ráo, không gì hơn. Bồ-tát nhân nơi năm thứ thọ sinh ấy mà mau chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.
---------------------
Bồ-tát với tất cả trụ, tất cả hành… để gồm thâu (nhiếp) chúng sinh, lược nói có sáu thứ: Một là đốn nhiếp (Gồm thâu tức thì). Hai là nhiếp tăng thượng (Gồm thâu tăng thượng). Ba là thủ nhiếp (Gồm thâu giữ lấy). Bốn là cửu nhiếp (Gồm thâu lâu). Năm là bất cửu nhiếp (Gồm thâu không lâu). Sáu là hậu nhiếp (Gồm thâu sau). Bồ-tát khi mới phát tâm, đối với tất cả chúng sinh khởi tưởng đó là cha mẹ, tùy theo năng lực có được, đem tất cả các thứ an lạc tạo lợi ích. Đấy gọi là đốn nhiếp (Gồm thâu tức thì).
Bồ-tát làm chủ(trong gia đình) đối với cha mẹ, những vị đáng tôn trọng, thường dùng các thứ phương tiện khuyên tu pháp thiện, tùy thời cúng dường, biết ân báo ân, đối với vợ con, quyến thuộc luôn chăm sóc, dạy bảo, có sai phạm điều gì thì gắng nhẫn, bệnh tật thì lo liệu giúp đỡ, dạy tu pháp thiện, khiến họ thắng tiến. Đối với người giúp việc, đem tâm bình đẳng cư xử, không sinh tưởng khinh thường. Bồ-tát làm vua thâu nhận muôn dân, như pháp chân chánh giáo hóa, không phạt, không gia hành, đem của cải, đem pháp để làm lợi ích, tự giữ địa phận mình, không xâm lấn đất người, tùy theo khả năng của mình, dạy các chúng sinh khiến họ tu pháp thiện. Bồ-tát làm cha, đối với chúng sinh khác hãy còn không thiên vị bè nhóm, huống chi là bà con của mình mà không bình đẳng. Lời nói thường dịu dàng, chân thật, không giả dối. Nơi tất cả sự khổ bức thiết như sát hại, trói buộc, bức bách thảy đều xa lìa. Đó gọi là nhiếp tăng thượng (Gồm thâu tăng thượng).
Có hai lý do để cùng gồm thâu đồ chúng: Một là xả bỏ tâm tham, đem của cải tạo lợi ích, xa lìa sự nghèo cùng. Hai là dạy tu chánh nghĩa, đem pháp tạo lợi ích nhổ sạch những tà kiến xấu ác, tâm bình đẳng thâu nhận không thiên vị bè nhóm, không vì pháp mà keo kiệt, không làm vị thầy mỏi mệt, không ở các chốn ấy để cầu mong cúng dường, có người ưa thích tu hành không được ngăn cản, phải vì họ khiến tăng trưởng các thứ phước đức, chưa hiểu nghĩa khiến cho hiểu, đã hiểu nghĩa rồi khiến tăng trưởng, người còn nghi khiến quyết đoán, người hối khiến hiểu biết rõ, tùy thời vì họ nói nghĩa cốt yếu sâu xa, đồng khổ vui với họ, tâm không thêm bớt. Với người phạm tội, tâm bình đẳng răn dạy, có khi quở trách, có khi khen ngợi, bệnh tật thì lo liệu giúp đỡ, vì họ trừ diệt buồn lo. Đối với người suy nghĩ cạn cợt, ít tinh tấn, trí tuệ thấp kém, không được khởi tưởng khinh thường, tùy theo sự thích hợp vì họ mà nói, buộc niệm nơi cảnh giới, tùy thời dạy trao an nhẫn không não hại. Đối với những vị bằng mình hoặc hơn mình, nên cúng dường thù thắng, tu tập tâm bi không trạo cử, không lay động, thành tựu giới kiến, oai nghi chánh mạng, dung mạo vui vẻ, nhìn thẳng, trước nói lời thăm hỏi, thường tu nghiệp thiện, không được buông lung, đem những giáo pháp như vậy dạy bảo đồ chúng và cũng để tự mình tu tập.
Bồ-tát không ở trong tất cả thời gian thâu giữ đồ chúng, cũng chẳng phải là không nắm giữ, cũng không hướng đến việc giữ lấy như thế, để nắm giữ, đấy gọi là thủ nhiếp (Gồm thâu giữ lấy).
Chúng sinh bậc hạ phải thành thục rất lâu mới tịnh, đó gọi là cửu nhiếp (Gồm thâu lâu).
Chúng sinh bậc trung thành thục không lâu thì được tịnh, đó gọi là bất cửu nhiếp (Gồm thâu không lâu).
Chúng sinh bậc thượng thành thục trong đời nầy có thể đạt thanh tịnh, gọi là hậu nhiếp (Gồm thâu sau).
Đó gọi là sáu thứ bình đẳng gồm thâu chúng sinh. Bồ-tát quá khứ, hiện tại, vị lai, đã gồm thâu, đang gồm thâu và sẽ gồm thâu đều là sáu thứ nầy rốt ráo không gì hơn.
Bồ-tát cũng bình đẳng gồm thâu chúng sinh như vậy, có mười hai thứ khó: Một là khó có thể khéo quan sát chúng sinh phạm giới, hoặc chỉ dạy, hoặc từ bỏ. Hai là khó vì điều phục chúng sinh khổ, dùng phương tiện hành tự giữ gìn phiền não. Ba là của cải rất ít, nhưng người xin thì nhiều. Bốn là chỉ có một thân mà nhiều người cầu đồng sự. Năm là do nghiệp thanh tịnh, ở hàng trời người lại sinh buông thả, nhưng trong tâm ban đầu không có buông thả. Sáu là thương nhớ chúng sinh tạo lợi ích, đồng sự. Bảy là với người ngu si, dua nịnh, quanh co, tay chân tàn tật, hủy hoại, hoặc chỉ dạy, hoặc từ bỏ. Tám là thấy lỗi lầm của sinh tử nhưng không xả bỏ sinh tử. Chín là chưa được tâm tịnh, khi mạng chung không mất chánh niệm. Mười là chưa được tâm tịnh, vật rất quý trọng, chúng sinh đến xin vẫn đem ban cho. Mười một là các thứ dị tâm, các thứ dị giải, có đến xin gì, hoặc làm hoặc xả. Mười hai là rốt ráo không phóng dật nhưng không đoạn phiền não.
Bồ-tát đối với chúng sinh không xem nhẹ, nặng mà làm phương tiện, hoặc xét ở người để thực hành bi, hoặc theo phương tiện dũng mãnh để tạo nhân duyên, hoặc tu chánh nguyện, hoặc làm tịnh tín tâm, hoặc chuyên tâm suy nghĩ, quán xét không mệt mỏi, hoặc có lúc nhu hòa, hoặc có lúc hành xả, hoặc có khi tinh tấn, hoặc có lúc hành phương tiện thiện xảo, Bồ-tát như vậy là đã dùng phương tiện thiện xảo để đối trị đúng đắn, đối với mười hai việc khó có thể tự mở bày, giải tỏa, tâm không thối mất.
Như trên đã nói mười hai trụ, theo thứ tự làm bảy địa: Sáu địa là của Bồ-tát, một địa là Bồ-tát và Như Lai cùng chung. Một là địa chủng tánh. Hai là địa giải hành. Ba là địa tâm tịnh. Bốn là địa hành tích. Năm là địa quyết định. Sáu là địa quyết định hành. Bảy là địa tất cánh.
Trụ chủng tánh gọi là địa chủng tánh. Trụ giải hành gọi là địa giải hành. Trụ tâm tịnh gọi là địa tâm tịnh. Trụ tăng thượng giới, trụ tăng thượng ý, ba thứ trụ tăng thượng tuệ, trụ vô tướng có khai phát, gọi là địa hành tích. Trụ vô tướng không khai phát gọi là địa quyết định. Trong ba quyết định thì quyết định thứ nhất nơi trụ vô ngại trí gọi là địa quyết định hành. Trụ Bồ-tát tối thượng, trụ Như Lai gọi là địa tất cánh. Địa Như Lai trụ nơi phẩm Kiến lập ở sau sẽ nói rộng.
Bồ-tát ở địa giải hành nhập địa hoan hỷ, làm sao xa lìa báo nơi nẻo ác? Bồ-tát ấy ở trong địa giải hành, nương vào thiền tịnh thế tục, chứa nhóm phương tiện Bồ-đề, đối với một trăm mười thứ khổ nơi chúng sinh, tu tâm bi mẫn, vì các chúng sinh nơi đường ác mà ở lâu trong nẻo ác, coi như nhà cửa của mình, ở đấy tu học Bồ-đề vô thượng, gắng nhẫn có thể vì tất cả chúng sinh làm nhân trừ khổ. Tất cả chúng sinh tạo nghiệp trong ba đường ác, Bồ-tát đem tâm thanh tịnh nguyện xin đều chịu thay, tu hành rốt ráo tất cả nghiệp thiện, tu tập chánh nguyện, dùng thiền tịnh thế tục làm nguyện lực chánh, cho nên phiền não nhiễm ô nơi cõi ác thân đã nhận lãnh không lâu sẽ được đoạn trừ. Bồ-tát chuyển thân nơi đường ác, các nghiệp của đường ác đều không làm. Đó gọi là Bồ-tát xa lìa các đường ác, vượt qua địa giải hành, nhập địa tâm tịnh, như phẩm Trụ ở trước đã nói. Trụ hoan hỷ tịnh, với mười pháp như là tín v.v..., ở địa nầy là tịnh, đối trị nơi đối tượng được đối trị và thứ tự kiến lập. Vì sao phải đối trị? Một là buông lung, không thọ giới Bồ-tát, niềm tin trái với Bồ-đề, thế nên dùng tín để đối trị. Hai là đối với các chúng sinh có tâm sát hại, trái với đại bi, thế nên dùng tâm bi đối trị. Ba là đối với các chúng sinh có tâm sân hận, trái với đại từ, vì thế đem tâm từ để đối trị. Bốn là tham tiếc thân mạng, tài sản, trái với huệ thí, vì thế đem huệ thí để đối trị. Năm là đối với các chúng sinh tham cầu nhiều thứ vật dụng, trái với sự không chán mệt, thế nên đem sự không chán mệt để đối trị. Sáu là không có trí phương tiện, trái với luận biết, thế nên đem luận biết để đối trị. Bảy là không khéo tùy thuận, trái với việc tùy thuận người khác, vì thế đem việc biết thế gian để đối trị. Tám là đối với việc tu pháp thiện đã buông thả biếng nhác, trái với hổ thẹn, thế nên đem sự hổ thẹn để đối trị. Chín là đêm dài sinh tử, thọ khổ không ngừng, tâm lại hèn yếu trái với dũng mãnh, vì thế dùng dũng mãnh để đối trị. Mười là đối với chư Phật còn nghi hoặc, trái với cúng dường, thế nên dùng cúng dường để đối trị. Đây là mười thứ đối trị nơi chỗ cần đối trị, lược nói có hai thứ: Một là tâm tịnh. Hai là phương tiện tịnh. Ba thứ trước là tâm tịnh, còn lại đều là phương tiện tịnh.
Thế nào là thứ lớp? Bồ-tát tin vào Bồ-đề, đối với chúng sinh khổ dấy khởi tâm bi. Khởi tâm bi, nên khi muốn độ chúng sinh lại khởi tâm từ. Khởi tâm từ nên lại làm huệ thí. Làm huệ thí nên tu tập chánh nghĩa không chán mệt. Không chán mệt vì thế nhận biết các kinh luận. Biết kinh luận, vì thế khéo biết thế gian và tùy thuận thế gian. Tùy thuận thế gian nên nếu phiền não khởi thì sinh hổ thẹn. Do hổ thẹn nên không thuận theo phiền não tức được lực dũng mãnh. Được lực dũng mãnh nên tu chánh phương tiện, pháp thiện tăng trưởng, được nhiều lợi ích, cúng dường Như Lai. Như vậy là mười pháp làm tịnh tất cả địa.
----------------
Bồ-tát từ trụ giải hành cho đến trụ Bồ-tát tối thượng, lược nói có bốn hành: Một là hành Ba-la-mật. Hai là hành pháp Bồ-đề phần. Ba là thần lực. Bốn là thành thục chúng sinh.
Như trước đã nói sáu Ba-la-mật, nay thêm Phương tiện thiện xảo Ba-la-mật, Nguyện Ba-la-mật, Lực Ba-lamật và Trí Ba-la-mật, đó gọi là Hành Ba-la-mật.
Như trước nói mười hai phương tiện thiện xảo, đó gọi là Phương tiện thiện xảo Ba-la-mật. Như trước nói năm thứ nguyện, đấy gọi là Nguyện Ba-la-mật. Mười lực phương tiện thanh tịnh, đó gọi là Lực Ba-la-mật.
Tất cả pháp bộ phần đều biết, đấy gọi là Trí Ba-lamật. Biết Đệ nhất nghĩa đế nên gọi là Bát nhã Ba-la-mật. Biết Thế đế cho nên gọi là Trí Ba-la-mật.
Lại có vô lượng trí nên gọi là phương tiện thiện xảo Ba-la-mật. Cầu trí tăng tiến nên gọi là Nguyện Ba-lamật. Tất cả ma đạo không thể phá hoại nên gọi là Lực Ba-la-mật. Trí mở bày giác ngộ nên gọi là Trí Ba-la-mật. Như trước nói ba mươi bảy pháp Bồ-đề phần như niệm xứ… bốn thứ cầu, bốn thứ đều nhận biết như thật, đó gọi là pháp phần Bồ-đề.
Như trước nói sáu thần thông, đấy gọi là thần lực.
Như trước nói hai vô lượng là điều phục giới vô lượng, điều phục phương tiện vô lượng, đó gọi là thành thục chúng sinh.
Như vậy, bốn hành gồm thâu tất cả hành của Bồ-tát, tu hành lâu dài trong ba A-tăng-kỳ kiếp. Tự tánh thanh tịnh thù thắng hơn thế gian, Thanh văn, Duyên giác, gồm thâu quả Đại Bồ-đề. Mười pháp như thí v.v…, thời độ, tự tánh thanh tịnh độ, quả độ, đó gọi là Ba-la-mật. Các Ba-la-mật thứ tự kiến lập có ba thứ: Một là đối trị. Hai là nhân khởi. Ba là quả báo. Tham lam keo kiệt, nghiệp ác, sân hận, biếng nhác, loạn ý, ngu si, sáu pháp như vậy làm chướng ngại Bồ-đề, dùng sáu độ đối trị, tùy theo chỗ thích hợp của sáu pháp đó. Những Ba-la-mật còn lại thuộc về sáu Ba-la-mật, đó gọi là kiến lập đối trị.
Bồ-tát nầy bắt đầu không tham tiếc của cải, xả bỏ để xuất gia, xuất gia rồi thọ giới Bồ-tát, do hộ giới nên tu tập nhẫn nhục, không sợ chúng sinh nên lực nhẫn thanh tịnh. Không sợ chúng sinh nên tu tập không gián đoạn. Pháp thiện là phương tiện để tu tinh tấn, không buông thả nên khéo đạt nhất tâm, tâm đã khéo hợp nhất thì được trí như thật.
Đó gọi là kiến lập nhân khởi.
Bồ-tát nầy hiện pháp tu tập pháp thiện huệ thí, ở đời vị lai, bên ngoài được nhiều của cải, bên trong được thọ mạng, sắc, lực, an lạc, biện tài, đủ năm thứ quả báo. Người đầy đủ năm thứ Ba-la-mật như là giới… được sinh trong đường thiện, đối với các chúng sinh có điều đặc biệt như thọ mạng v.v…, đó gọi là đầy đủ thứ nhất. Đều cùng sinh phương tiện thiện không có chán mệt, nhẫn nhịn người khác xâm phạm, không não hại chúng sinh, đó gọi là đầy đủ thứ hai. Tất cả phương tiện kiên cố kia đều cùng sinh có thể hành tác, đó gọi là đầy đủ thứ ba. Sự đều cùng sinh kia ít các trần uế, tâm tự gánh vác, biết tất cả nghĩa, đắc các thần thông, đó gọi là đầy đủ thứ tư. Chỗ đều cùng sinh kia trí tuệ thêm rộng, đó gọi là đầy đủ thứ năm. Đấy gọi là kiến lập quả báo. Bốn Ba-la-mật kia với các thứ tự tánh, quyến thuộc là vô tận, đó gọi là giới học tăng thượng. Thiền Ba-la-mật gọi là ý học tăng thượng, Bát nhã Ba-la-mật gọi là tuệ học tăng thượng. Ba học nầy được Bồ-tát chú trọng, tinh tấn học đạo. Ba học nầy gồm thâu sáu Ba-la-mật rốt ráo không gì hơn. Lược nói Bồ-tát có bốn thứ hành gồm thâu tất cả sự: Một là trước hết tu tập thiện căn Bồ-đề. Hai là tạo lợi ích cho chúng sinh. Ba là tăng trưởng pháp thiện. Bốn là thành thục chúng sinh. Như vậy, bốn thứ hành lần lượt kiến lập, đó gọi là kiến lập tối thượng.
-------------------------
Trụ Như Lai gọi là địa cứu cánh. Chư Phật, Thế Tôn có một trăm bốn mươi pháp bất cộng, đó là ba mươi hai tướng của bậc đại nhân, tám mươi vẻ đẹp theo hình, bốn nhất thiết chủng thanh tịnh, mười lực Như Lai, bốn vô sở úy, ba niệm xứ, ba bất hộ, đại bi, pháp không quên, đoạn trừ các tập, nhất thiết chủng diệu trí.
Thế nào là ba mươi hai tướng của bậc đại nhân? Một là dưới bàn chân bằng phẳng vững chải. Hai là dưới bàn chân có xoáy tròn hình như hình bánh xe có ngàn nan hoa. Ba là ngón tay thon dài. Bốn là gót chân đầy đặn. Năm là trong kẽ tay kẽ chân có da mỏng như giăng lưới. Sáu là tay chân đều dịu mềm. Bảy là bắp chân như tướng lộc vương. Tám là mắt cá chân ẩn kín. Chín là đứng thẳng tay dài quá đầu gối. Mười là nam căn như mã vương. Mười một là thân hình đầy đặn như cây Ni-câu-loại. Mười hai là lông trên thân đẹp. Mười ba là những lông trên thân xoay về bên phải. Mười bốn là thân thể sáng chói như vàng ròng. Mười lăm là quanh mình có hào quang chiếu xa một tầm. Mười sáu là da thịt mềm dịu bụi nhơ không dính bám. Mười bảy là hai tay, hai chân, hai vai và cổ đầy đặn. Mười tám là thân trên như thân sư tử. Mười chín là khuỷu tay đầy đặn. Hai mươi là xương hai vai được đầy đặn. Hai mươi mốt là thân thể ngay ngắn. Hai mươi hai là bốn mươi cái răng. Hai mươi ba là răng đều, khít. Hai mươi bốn là răng trắng sạch. Hai mươi lăm là hai bên má cao đầy đặn như sư tử. Hai mươi sáu là nước bọt như vị cam lồ. Hai mươi bảy là trên đỉnh đầu có cục thịt nổi cao như hình búi tóc (nhục kế). Hai mươi tám là lưỡi dài rộng. Hai mươi chín là giọng nói nghe vang như giọng của Phạm thiên. Ba mươi là mắt xanh biếc. Ba mươi mốt là lông mi như ngưu vương. Ba mươi hai là lông trắng ở giữa hai lông mày.
Tám mươi vẻ đẹp tùy hình: Đó là hai mươi ngón tay, chân, tám chỗ bên ngoài bên trong ngay thẳng đầy đặn, hai gót chân, hai đầu gối, hai xương đùi, hai vai, hai khuỷu tay, hai cổ tay, hai đùi vế, hai hông, tướng ẩn chứa…, hai bên lưng, hai nách, hai vú, eo lưng tim rốn, yết hầu (cổ họng), bụng thảy đều tốt đẹp. Đấy gọi là sáu mươi vẻ đẹp từ yết hầu trở xuống. Hai hàm răng trên dưới, hai môi, hai nướu, hai má, hai dái tai, hai mắt, hai tai, hai mi, hai lỗ mũi, hai góc sống mũi. Đấy gọi là hai mươi vẻ đẹp từ yết hầu trở lên.
Tướng tốt nầy Bồ-tát nơi địa tâm tịnh mới bắt đầu được, tất cả địa sau dần dần thanh tịnh thù thắng, đến tòa Bồ-đề mới được vui tịnh. Ngoài ra pháp bất cộng như bốn nhất thiết chủng thanh tịnh…, khi vui tịnh đầy đủ thì được, người thấp được thành tựu địa Bồ-tát trước.
Từ địa tâm tịnh khởi hết thảy thắng tiến, sinh tất cả tướng tốt của Bồ-tát. Lại có vô số các thứ Bồ-đề có gần có xa. Xa thì chưa được tướng tốt, gần thì đã được, tạo đủ các thứ nghiệp, được đủ các thứ báo. Đức Thế Tôn đã dùng sức giáo hóa để giảng nói. Vì sao? Vì chúng sinh hành đủ các thứ nghiệp ác, nên nhận đủ các thứ báo ác, để đối trị chân thật nên nói các thứ nghiệp tướng tốt, khiến được các thứ quả báo tướng tốt, chúng sinh nghe được sẽ ưa tu pháp thiện, xa lìa các nghiệp ác. Như tướng tốt trong kinh đã nói, Bồ-tát trì giới, nhẫn nhục, huệ thí nên được tướng dưới bàn chân bằng phẳng vững chải. Cúng dường cha mẹ, chúng sinh khổ não, vì họ cứu giúp, nên được tướng dưới bàn chân có xoáy tròn hình bánh xe ngàn nan hoa. Không hại chúng sinh, không khởi tưởng trộm cắp, đối với bậc tôn kính trước phải thưa hỏi, chấp tay cung kính, đem của cải quý giá, rất yêu mến cúng dường, phá tan các kiêu mạn, nên được tướng ngón tay thon dài, tức được ba tướng trên là nghiệp được tướng gót chân đầy đặn. Dùng bốn nhiếp sự thâu giữ chúng sinh, nên được tướng trong kẽ tay kẽ chân có da mỏng như giăng lưới. Đã từng tắm rửa thân thể các bậc đáng tôn kính nên được tướng tay chân mềm mại. Tu các pháp thiện chuyển đổi tinh tiến không chán nên được tướng bắp chân như nai chúa. Tự thọ chánh pháp, rộng vì người giảng nói, vì pháp mà làm sứ giả, nên được tướng mắt cá chân không hiện. Lần lượt tu hành ba nghiệp thanh tịnh, chăm sóc bệnh, cho thuốc, lìa các ngã mạn, tu tập biết đủ, nên được tướng đứng thẳng tay dài quá đầu gối. Thấy người chia lìa, đem pháp dạy khiến cho hòa hợp, tu tập hổ thẹn, bố thí y phục cho người nên được tướng nam căn ẩn giấu như mã vương. Tịnh tu ba nghiệp cũng dạy cho người tu, ăn uống biết lượng, bố thí thuốc cho người bệnh, thâu nhận nghiệp khó, tụ tập tài sản khó, bốn đại tăng tổn có thể khiến cho tùy thuận, nên được tướng thân thể đầy đặn. Tức trên được tướng bắp chân như nai chúa là nghiệp, được tướng lông trên thân mềm đẹp. Tự tu pháp thiện, trí tuệ thông đạt, tư duy nghĩa vi tế của các pháp, với những bậc tôn kính ưa tu cúng dường, đối với người đồng tu, dùng tưởng bạn tốt gồm thâu, chỉ dẫn, khiến hội nhập nghĩa, nên được tướng mỗi mỗi lông trên thân đều xoay về bên phải. Đem y phục, xe cộ, thực phẩm, các vật dụng trang sức nơi thân như chuỗi ngọc v.v… thượng diệu, bố thí cho tất cả, không khởi sân hận, nên được hai tướng thân sáng chói như vàng ròng và hào quang chiếu xa một tầm, tức trên được tướng mỗi mỗi lông xoay về bên phải là nghiệp, được tướng da thịt mềm dịu. Rộng thí cho chúng sinh, bày biện đại hội, nên được tướng bảy chỗ đầy đặn. Với các chúng sinh đã khởi chưa khởi, vì họ làm người dẫn đầu, xa lìa ngã mạn, tánh tình nhu hòa, để trừ bất thiện dạy cho pháp thiện, nên được tướng thân trên như sư tử. Tức trên được tướng ngón tay thon dài là nghiệp, được ba tướng khuỷu tay, bắp tay và hai vai đầy đặn. Xa lìa lời nói hai lưỡi, phá hoại sự hòa hợp, nên được hai tướng là có bốn mươi răng và răng đều đặn dày kín. Tu tâm từ ở dục giới, tư duy về pháp nghĩa, nên được tướng răng trắng sạch. Tùy theo chỗ chúng sinh cầu xin, hoan hỷ thí cho nên được tướng hai bên má cao đầy đặn. Bố thí pháp vị thù thắng, hoại các vị khác vì làm thanh tịnh vị kia, nên lần lượt được tướng vị nước bọt thượng diệu. Thọ trì năm giới, chuyển trao cho người, thường hành tâm bi, hồi hướng nơi pháp lớn, nên được hai tướng là tướng lưỡi dài rộng và nhục kế. Tướng nhục kế nầy và tướng không thấy đảnh, tức là một tướng. Thường tu thật ngữ, ái ngữ, thời ngữ, như pháp ngữ, tạo phương tiện thuyết pháp, nên được tướng giọng nói nghe vang như âm thanh của Phạm thiên. Đối với khắp chúng sinh, thực hành tâm từ bình đẳng giống như cha mẹ, nên được hai tướng mắt xanh biếc và lông mi trên dưới mắt như ngưu vương. Thấy người có đức chân thật thì tán dương sự tốt đẹp đó, nên được tướng lông trắng giữa hai lông mày.
Ba mươi hai tướng với nhân không sai biệt đều là do trì giới. Vì sao? Nếu người phạm giới thì không được thân người thấp kém, huống gì là tướng của bậc đại nhân. Như vậy nói rộng, mỗi một tướng có được là tùy theo vô số nghiệp đều kiến lập riêng.
Lại nữa, Bồ-tát tại gia, xuất gia nhờ vào bốn thứ khéo tu nghiệp, được tất cả tướng của bậc đại nhân. Quyết định tu nên được tướng dưới bàn chân bằng phẳng vững chải. Do chuyên tâm tu nên được chín tướng: Dưới bàn chân có xoáy tròn hình bánh xe ngàn nan hoa. Bắp chân như nai chúa. Kẽ tay kẽ chân có da mỏng như giăng lưới. Tay chân mềm dịu. Bảy chỗ đầy đặn v.v… Thân cao ngay thẳng. Lưỡi rộng dài v.v… Do thường tu nên được năm tướng: ngón tay thon dài, gót chân đầy đặn, tay thẳng dài quá đầu gối, thân đầy đặn, răng dày khít. Vì tu vô tội nên được các tướng còn lại.
Đối với các chúng sinh không giận dữ, nên được hai tướng là tay chân mềm mại, da thịt mềm dịu. Khi tu theo thứ lớp nên được tướng bắp chân như nai chúa. Tâm thiện hành hoan hỷ, theo ánh sáng, âm thanh nên được bốn tướng, là hào quang chiếu sáng một tầm, trên thân sáng chói như vàng ròng, răng trắng trong, chùm lông trắng chiếu sáng giữa hai chặng mày. Nghe khen không vui, che giấu công đức, nên được tướng nam căn ẩn kín như mã vương. Thiện căn đã tu hồi hướng Bồ-đề, nên được bốn tướng: lông trên thân đẹp đẽ, bốn mươi cái răng, lần lượt được thượng vị và nhục kế. Siêng tu tinh tấn nên được hai tướng, là thân trên như sư tử, hai má nhô cao đầy đặn. An tâm chúng sinh như với con một, nên được ba tướng, là răng dày khít, mắt xanh biếc, lông mi giống ngưu vương. Tu tập pháp thiện không chán nên được các tướng còn lại. Đó gọi là bốn thứ khéo tu nghiệp nên được ba mươi hai tướng của bậc đại nhân.
Bồ-tát nơi địa chủng tánh là xứ chủng tử của tướng tốt. Bồ-tát nơi địa giải hành tu tập phương tiện. Bồ-tát nơi địa tâm tịnh thì đạt được. Bồ-tát nơi các địa khác thì dần dần thanh tịnh thù thắng. Địa Như Lai tất cánh là vui tịnh vô thượng. Đấy là lược nói về các tướng, vì các chúng sinh bậc thượng, trung, hạ, ngoài ra tất cả pháp Phật đều là tướng của bậc đại nhân. Những tướng đó và một trăm bốn mươi tướng còn lại nơi thân tốt đẹp, nên nói là vẻ đẹp tùy hình. Lược nói, tất cả phước đức của chúng sinh chứa nhóm bằng tướng một sợi lông. Phước đức chứa nhóm của tất cả tướng một sợ lông bằng một tùy hình hảo. Phước đức chứa nhóm của tất cả tùy hình hảo tăng đến trăm lần mới được một tướng, trừ bạch hào và nhục kế, công đức của tất cả tướng khác phải tăng đến ngàn lần, mới được tướng bạch hào. Công đức của tướng bạch hào tăng đến trăm ngàn lần, mới được tướng vô kiến đảnh, nhục kế. Công đức của tướng bạch hào tăng đến ức trăm ngàn lần, mới được phần nhỏ tướng pháp âm của Như Lai, Như Lai tùy ý phát ra âm thanh thanh tịnh, Phạm âm ấy lan xa cho đến vô lượng thế giới trong mười phương. Như vậy, Như Lai có vô lượng công đức chứa nhóm không thể nghĩ bàn.
Lại nữa, nghiệp thiện của tướng tốt có ba thứ vô lượng. Ba A-tăng-kỳ kiếp tu tập, gọi là kiếp vô lượng. Tạo an lạc cho tất cả chúng sinh, gọi là tâm vô lượng. Đủ vô số các thứ nghiệp thiện, gọi là hành vô lượng. Vô lượng phước đức nầy là hành trang tu tập sinh khởi tướng tốt của Như Lai.
Bốn nhất thiết chủng thanh tịnh: Một là thân tịnh. Hai là cảnh giới tịnh. Ba là tâm tịnh. Bốn là trí tịnh.
Thân phiền não tập, xả lìa trọn vẹn, được thân tối thượng, sinh diệt tự tại, đó gọi là thân tịnh. Vô số sự hiện hóa cùng các điều ngôn thuyết nơi tất cả cảnh giới đều tự tại không chướng ngại, đó gọi là cảnh giới tịnh. Phiền não đều xa lìa, thiện căn thành thục, đó gọi là tâm tịnh.
Lìa bỏ tất cả vô minh cấu uế, tất cả mọi hiểu biết đều tự tại vô ngại, đó gọi là trí tịnh.
Mười lực của Như Lai: Một là trí lực xứ phi xứ. Hai là trí lực tự nghiệp. Ba là trí lực của thiền giải thoát Tammuội chánh thọ. Bốn là trí lực nơi các căn lợi độn. Năm là trí lực của vô số lý giải. Sáu là trí lực của vô số cảnh giới. Bảy là trí lực của chí xứ đạo. Tám là trí lực túc mạng. Chín là trí lực sinh tử. Mười là sinh tử lậu tận. Mười lực nầy như trong kinh phần Mười lực đã nói rộng. Ngôn ngữ đã giảng nói không trái với "như", vì thế nên gọi là Đa-đà-a-gia-đà (Như Lai). Quả tịnh và bất tịnh, nương vào nhân sai khác, đó gọi là thị xứ. Quả tịnh bất tịnh do nhân sai khác nên trái nhau, đó gọi là phi xứ. Lìa trí tăng thượng mạn, đó gọi là trí như thật, như phẩm Bồđề vô thượng ở trước đã nói: Trí nhất thiết, trí vô ngại, trí thanh tịnh, đó gọi là lìa trí tăng thượng mạn. Có khả năng tạo tất cả thứ lợi ích cho chúng sinh, tất cả ma oán đều lìa bỏ, được thù thắng, đó gọi là lực. Tu tập thâu nhận tùy theo ý muốn được tự tại, đó gọi là thành tựu. Niết-bàn vô thượng, đó gọi là thắng diệu. Đắc tám Thánh đạo, xa lìa tất cả não loạn sợ hãi, đó gọi là an ổn. Tự biết chỗ đã đắc gọi là tự tri.
Từ chỗ chứng đắc pháp, đem tâm thương xót vì người mà giảng nói rộng, đó gọi là chuyển Phạm luân. Vì sao? Vì Như Lai đối với các thứ não loạn nầy đều thanh tịnh, tịch diệt, trong mát, chân thật, khi bắt đầu chuyển khiến tất cả chúng sinh đều được thanh tịnh, đó gọi là Phạm luân. Được giáo pháp tối thượng, gồm thâu lời Đại sư vô thượng nói, tự chỗ chứng đắc phá trừ đạo khác, đối với các luận khác không sinh yếu kém, đối với tất cả các luận đều là thắng diệu vô thượng, vì bốn chúng giảng nói, đó gọi là sư tử gầm rống. Lược nói về mình an, người an, mình người đều an, khai mở, hiển bày, dạy trao, tuyên thuyết. Lại lược nói về đắc nghĩa, đắc phương tiện. Hoặc trời, hoặc người, có cầu việc gì đều ở nơi ta đạt được, đấy gọi là đắc phương tiện, như bệnh được lành, trừ phiền não mà an ổn. Lại vì người mà đối trị, đó gọi là chuyển Pháp luân. Có khả năng khiến tất cả sự tà hư vọng được các đối trị, các bệnh được lành, đó gọi là sư tử gầm vang. Nếu chỗ tạo nghiệp thành tựu đã diệt, đó gọi là quá khứ. Nếu chưa làm chưa diệt, mà là sẽ làm đó gọi là vị lai. Nếu chỗ tạo nghiệp, không phải tạo tác đã diệt, mà là đang làm đó gọi là hiện tại.
Dùng hành phân biệt lại có ba thứ, đó là nghiệp thân khẩu ý. Dùng thọ pháp phân biệt lại có bốn thứ. Có thọ pháp hiện đời được báo vui, đời khác báo khổ nói rộng như trong phẩm Tự lợi tha lợi ở trước. Hiện pháp, đời sau, hoặc an hoặc không an, tùy theo sự ứng hợp mà giảng nói pháp lợi ích, đó gọi là xứ phương tiện. Nếu số chúng sinh dùng số phi chúng sinh làm cảnh giới có sự tạo tác, đó gọi là chúng sinh. Thiện căn đã làm, đó gọi là nhân. Ái cùng với không ái, thành quả phước họa đó gọi là báo. Lược nêu tất cả thời, tất cả hành, tất cả xứ phương tiện, tất cả chúng sinh, tất cả cảnh giới, tất cả nhân, tất cả họa, tất cả phước, như vậy, tất cả Như Lai đều biết rốt ráo, không gì hơn.
Bốn thiền tám giải thoát: Đối với thiền giải thoát tâm được tự tại, các thứ sắc tượng kia, tùy ý đều thành, đó gọi là thiền giải thoát, Tam-muội chánh thọ, như nói Tam-muội chánh thọ của Đức Thế Tôn. Như chánh thọ đó, ánh sáng soi chiếu đến cõi Phạm thiên, âm thanh thuyết pháp vi diệu, chỉ nghe tiếng không thấy hình tướng, do nghĩa nầy nên Như Lai nhập hình tượng loại chung với thế gian, không chung với thế gian, Tam-muội có thể chóng thành tựu. Đối với thiền giải thoát, tâm được tự tại, tùy ý đều thành, vì thế nên gọi là thiền giải thoát, Tam-muội chánh thọ.
Lại nữa, ở trong các thiền… có hai thứ phiền não: Một là chưa tu phương tiện, phiền não gây chướng ngại khiến không được tu. Hai là đã đắc tự địa, phiền não nơi các triền sai khiến, trái với đạo thắng tiến. Như Lai dùng vô số các loại ngôn giáo thế tục, tùy theo hình sắc của họ, theo chỗ thích hợp, khiến họ được thiền…, tu tuệ đầy đủ, lìa phiền não đạt thanh tịnh. Hoặc đắc hoặc chưa đắc, hoặc kém hoặc hơn, đều nhận biết như thật, vì thế gọi là thiền giải thoát, Tam-muội chánh thọ. Biết như thật, hướng thành thục nơi năm căn như tín v.v... có hạ trung thượng, đó gọi là các căn lợi độn. Từ người khác sinh tín và tự tư duy, làm phương tiện khởi dục hạ trung thượng, đó gọi là vô số lý giải, kiến lập vô số chủng tánh, đó là chủng tánh của Tam thừa, tánh chúng sinh tham dục… cho đến tám vạn bốn ngàn hành, đó gọi là vô số cảnh giới.
Biết các môn độ tùy thuận đối trị. Tham dục thì quán bất tịnh, nói rộng như trong địa Thanh văn. Đó gọi là tất cả chí xứ đạo. Với lại, các nhóm loại đều trái nhau, khởi sự hiểu biết khác, thường muốn cùng tranh luận, giống như Sa-môn ngoại đạo, Bà-la-môn, tất cả các thứ đều hướng đến đời nầy đời khác, cũng gọi là trí lực chí xứ đạo, như trong kinh thời đã nói rộng.
Biết số tục của chúng sinh trong bốn phương, kiến lập đủ các thứ danh tự, đó là tám thứ việc của quá khứ, sáu thứ đồng hành, như vậy vô số các thứ đều có thể hiểu rõ. Tám thứ là: Tên gọi như thế, sinh như thế, chủng tánh như thế, ăn uống như thế, khổ vui như thế, thọ lâu như thế, trụ lâu như thế, giới hạn của thọ mạng như thế. Sáu thứ đồng hành là: Tục số danh tự về sắc như "sát lợi", cha mẹ, ăn uống, thiện ác, thọ mạng. Tám thứ sự, sáu thứ đồng hành với thân mình và người khác, nói như thế nầy: Đây là tên ta, ta là Sát-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủđà, đây là cha mẹ ta, ta ăn uống như vậy, ta làm việc thiện ác như vậy, hoặc tuổi nhỏ, hoặc trung niên, hoặc lớn tuổi. Sáu việc đồng làm như thế, dùng trí túc mạng đều nhận biết như thật.
Tất cả thiền gọi là Thiên trụ. Nương vào thiền được nhãn (mắt) cho nên gọi là thiên nhãn tịnh. Quả đầy đủ nên gọi là vui tịnh. Trong loài người không có điều đó nên gọi là vượt hơn người. Tuy nơi các trời cõi Dục có quả báo về thiên nhãn, nhưng trong loài người cũng không phải là không có. Chúng sinh sắp chết gọi là lúc chết. Tối tăm có hai thứ: Hình tượng giống như vậy, nương vào trung ấm sinh, như đêm đen ánh sáng nơi lông dê càng tối, nên gọi là sắc xấu. Bạch tịnh có hai thứ: Hình tượng giống như vậy, nương vào trung ấm sinh, như ánh sáng của trăng sáng, áo dệt ở Ba-la-nại, nên gọi là sắc đẹp. Dấy khởi giới ác đó gọi là giới ác, thân khẩu ý hành ác gồm đủ các thứ tà kiến, hành ác thành hình, phỉ báng Hiền Thánh, đó gọi là phỉ báng do ác kiến. Chấp trước tà kiến, nhân tà, quả tà, duyên như vậy tạo ra tất cả nghiệp tà, tạo nghiệp tà rồi, đời hiện tại thọ vui, đời sau thọ khổ báo, đó gọi là thọ nhận nhân của pháp tà tạo thành. Vô số các thứ pháp ác sinh trong đường ác, đó gọi là nhân; danh sắc kia phân ly, gọi là thân hoại, sinh lực đều hết, gọi là mạng chung. Hành ác phi pháp đó gọi làm ác, thọ khổ xúc tột bực nơi đêm dài sinh tử không ngừng, đó gọi là nẻo ác. Rơi vào chỗ rất thấp trái với tâm đại bi… đó gọi là đọa. Tăng thượng sự đáng chán, gọi là Nê-lê. Cùng với trên mâu thuẫn, đó gọi là phần tịnh. Nhân nơi hành thiện sinh, đó gọi là nẻo thiện, chỗ thọ nhận tự nhiên, đấy gọi là thiên (trời). Tất cả lậu hoàn toàn không còn, đoạn tất cả sử, tâm vô lậu đối trị, trí vô lậu đệ nhất ý tăng thượng, tuệ tăng thượng, hữu lậu dứt hết, đấy gọi là tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Nương vào kiến đạo, tu đạo, tâm được giải thoát, tuệ được giải thoát, đó gọi là đời sau. Chứng đắc sáu thần thông, tự biết như thật, có thể vì người khác giảng nói, vì thế nói tự biết, tác chứng: Sự sinh của ta đã hết, phạm hạnh đã lập, nói rộng như vậy.
Mười lực của Như Lai có bảy loại: Một là tự tánh. Hai là phân biệt. Ba là bất cộng. Bốn là như nhau. Năm là tạo nghiệp. Sáu là thứ lớp. Bảy là sai biệt.
Tự tánh, có chỗ nói là tự tánh của năm căn, có chỗ nói là tự tánh của trí tuệ. Tự tánh của trí tuệ nghĩa là nói trí lực xứ phi xứ, không nói lực xứ phi xứ như tín v.v… Như trí lực xứ phi xứ, các lực khác cũng vậy. Về phân biệt, lược nói có ba thứ: Một là phân biệt thời: Quá khứ, vị lai, hiện tại nhập nơi nhất thiết trí. Hai là phân biệt chủng: Tất cả pháp hữu vi nơi tự tướng, cộng tướng, nhập nơi tất cả chủng loại. Ba là phân biệt chúng sinh: Tất cả giới chúng sinh nhập nơi tất cả lợi ích. Ba thứ phân biệt như vậy, nói rộng thì có vô lượng.
Bất cộng nghĩa là mười lực của Như Lai không chung với hàng Thanh văn, Phật-bích-chi.
Như nhau, nghĩa là hết thảy mười lực của Như Lai là bình đẳng, không có hạ, trung, thượng.
Tạo nghiệp, nghĩa là trí lực xứ phi xứ, nhân quả chân thật đều nhận biết như thật. Hàng phục sự tranh luận về nhân quả, Sa-môn, Bà-la-môn trí lực của tự nghiệp, tự tạo ra nghiệp, nghiệp nầy thọ quả đều nhận biết như thật. Hàng phục sự tranh luận về thí phước, Sa-môn, Bà-lamôn nơi trí lực thiền giải thoát, Tam-muội chánh thọ. Ba thứ thị hiện điều phục truyền trao, hàng phục, đối trị tranh luận trái nhau. Sa-môn, Bà-la-môn nơi trí lực các căn độn, lợi, đối với các chúng sinh căn tánh hạ, trung, thượng, đều nhận biết như thật, biết họ thích hợp điều gì, cần phương tiện gì, để vì họ thuyết pháp. Trí lực của vô số lý giải, đối với các chúng sinh có sự hiểu biết hạ, trung, thượng lý giải tịnh, bất tịnh đều nhận biết như thật, dạy tu giải tịnh, lìa giải bất tịnh. Trí lực của các thứ giới, đối với các chúng sinh thuộc cảnh giới hạ trung thượng đều nhận biết như thật. Như nơi tâm kia, căn kia, ý muốn kia, sai khiến kia, từng thứ kia đều dùng môn độ chỉ dạy truyền trao sự lợi ích. Trí lực chí xứ đạo, Đức Như Lai vì các chúng sinh, dùng đủ các môn độ, đủ các cách dạy bảo, trao truyền như địa Thanh văn thứ lớp khai mở, hiển bày, dạy trao, tuyên thuyết.
Thế nào là Như Lai dạy trao nghiệp ban đầu nơi Bồ-tát, với các thứ Tam-muội để thâu nhận trụ tâm? Như Lai vì những người không dua nịnh quanh co dạy dỗ khiến họ tu học. Ngài nói như thế nầy: Thiện nam tử! Ông phải một mình ở chỗ vắng lặng, vui thích hết mực về tịch tĩnh, suy nghĩ về những danh tự mà cha mẹ, sư trưởng đã tạo ra, như danh tự nầy, sáu nhập trong, ngoài, hai bên và chính giữa, tất cả đều không, tự tánh cũng không, chỉ là danh tưởng được thiết lập. Suy nghĩ như vậy, về pháp không thể có được nên không ở vị lai khởi tưởng sẽ đến. Thiện nam tử! Trong hiện tại, các tạo tác của nhãn, tên gọi nhãn, tưởng nhãn, sự bày hiện của nhãn, phải tự quán sát: Nhãn của ta hãy còn không thể có được, huống gì là tên gọi, tưởng, thiết lập nói là nhãn. Như vậy, những danh, tưởng, sự thiết lập, tất cả đều không có? Chúng thảy đều không chân thật, nên tự tánh của nhãn kia cũng không. Vì sao? Vì tự tánh kia không phải tên gọi nhãn, tưởng nhãn, sự hiện bày của nhãn, nhận biết pháp sanh. Đó chỉ là danh tự ngôn thuyết mà sinh nhận biết của nhãn. Không phải tánh của nhãn kia có thể nghe, có thể biết ở nơi danh ở nơi sự mà sinh ra sự nhận biết của nhãn. Vì thế nên suy nghĩ: Về tên gọi nhãn, tưởng nhãn, sự thiết lập nhãn từ xưa nay, thì các pháp đương lai cũng đều không thể có được. Như nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, cho đến kiến, văn, giác, tri, hoặc cầu, hoặc đắc, hoặc biết, hoặc quán đều cũng như vậy. Tất cả tưởng pháp cho đến tưởng đương lai đều như vậy. Đạo phương tiện thâu nhận, tưởng về hoại ngã cho đến tưởng về hoại tất cả pháp cũng đều như vậy. Tất cả quán sát khéo léo vốn nhận biết, tất cả tưởng pháp, tưởng đương lai, tất cả tưởng về hư giả, không có tưởng về không tư duy, không có …, tất cả nghĩa đều không có gì thâu nhận, thì sẽ chứng đắc chủng tánh Tam-muội trí tuệ thanh tịnh của Như Lai. Các Bồ-tát kia đắc quán bất tịnh, thực hành tâm từ, quán sát duyên khởi, phân biệt các cõi, niệm hơi thở xuất nhập, đạt được sơ thiền, cho đến phi tưởng phi phi tưởng xứ, Bồ-tát tư duy về vô lượng Tammuội chánh thọ, dần dần cho đến khi đắc Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, đó gọi là chí xứ đạo của Bồ-tát. Như Lai ở quá khứ, vì Bồ-tát sơ nghiệp mà chỉ dạy trao truyền như vậy. Chư Phật vị lai cũng sẽ chỉ dạy như vậy. Chư Phật hiện tại cũng chỉ dạy như vậy. Thanh văn thừa như vậy mà tư duy, chóng đắc thần thông, trí vô ngại, hết thảy trí lực chí xứ đạo, ra khỏi tất cả đường khổ, nhận biết như thật, lìa đạo bất xuất, đạo xuất mà tạo lợi ích. Trí lực túc mạng, quán sát túc mạng, đối với thiện, đối với ác, hoặc tâm nhàm chán, hoặc tâm thanh tịnh điều phục, thuyết pháp điều phục. Thường luận nơi Sa-môn, Bà-la-môn. Dùng trí lực sinh tử nói về nơi chốn sinh đến của chúng sinh trong sinh tử, điều phục đoạn trừ Diệt luận nơi Sa-môn, Bà-la-môn. Dùng trí lực lậu tận điều phục nghi hoặc về giải thoát nơi Sa-môn, Bà-la-môn.
Thứ lớp nghĩa là Như Lai chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng thì liền đắc mười lực. Về sau, theo thứ tự nhân quả của bộ phận A duy tam Phật pháp hiện ra ở trước, dùng trí lực xứ phi xứ, quán sát bộ phận nhân quả, quả của dục giới có sai khác. Dùng trí lực tự nghiệp quán sát tự nghiệp để vì chúng sinh thuyết pháp, khiến lìa nghiệp ác, tu hành nghiệp thiện. Vì đạo thế tục được lìa dục nên đem trí lực của thiền giải thoát Tammuội chánh thọ chỉ dạy các chúng sinh. Lại vì xuất thế, lìa dục nên đem trí lực của thiền giải thoát Tam-muội chánh thọ, trước tiên dạy cho chúng sinh, để đạo thế tục lìa dục, sau được lìa dục của đạo xuất thế gian, muốn khiến chúng sinh được lìa dục của đạo xuất thế gian. Đem trí lực các căn lợi độn quán sát các căn, biết các căn rồi, muốn biết hy vọng, dùng trí lực của vô số thứ giải quán hy vọng kia, quán hy vọng rồi dùng trí lực của vô số thứ giới, quán sát căn sử, tùy theo phương tiện cảnh giới nơi môn độ kia mà độ thoát. Đem tất cả trí lực chí xứ đạo, đối với cảnh giới, phương tiện, môn độ tâm trụ thâu nhận. Tâm trụ hành thanh tịnh rồi, xa lìa các kiến như thân kiến, thường kiến, đoạn kiến, để nói trung đạo. Lìa tất cả phiền não nên nhập vào trí lực túc mạng và trí lực sinh tử. Vì nhằm dứt sự trói buộc do không đoạn phiền não, khởi tăng thượng mạn nên dạy khiến xa lìa, vì thế nhập trí lực lậu tận.
Lại nữa, thứ lớp nghĩa là A duy tam Phật pháp, chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng xong, trước tiên dùng trí lực xứ phi xứ, quán sát duyên khởi pháp đệ nhất nghĩa mà an trụ. Nương vào pháp đệ nhất nghĩa an trụ trí rồi, dùng trí lực tự nghiệp quán các thứ nghiệp của phần tại gia. Quán các thứ nghiệp của phần tại gia xong, dùng trí lực thiền giải thoát Tam-muội chánh thọ, quán phần xuất gia. Làm sao khiến cho phần xuất gia nầy đối với khổ cầu giải thoát, nên vì đó mà giảng nói đạo. Khởi tâm đại bi, Phật nhãn quán sát, đem trí lực của các căn lợi độn quán sát các căn hạ, trung, thượng vì đó giảng nói pháp. Ngoài ra, trí lực của vô số lý giải thứ lớp như trước nói.
Lại nữa, thứ lớp nghĩa là A duy tam Phật pháp, dùng trí lực xứ phi xứ, quán sát pháp giới duyên khởi, đem trí lực tự nghiệp quán sát cõi chúng sinh, thấy những chúng sinh nầy tạo nghiệp như vậy, thọ quả như vậy. Quán pháp giới và giới chúng sinh rồi, đem trí lực của thiền giải thoát Tam-muội chánh thọ, vì chúng sinh khổ, thị hiện ba thứ mà dạy bảo, trao truyền. Trí lực của những căn độn lợi … còn lại thì dùng đạo độ thoát cho tất cả chúng sinh, khiến thoát các khổ.
Sai biệt, nghĩa là biết nghiệp thiện, bất thiện, được quả ái, bất ái, đấy gọi là trí lực xứ phi xứ. Biết nghiệp thiện, bất thiện, đắc quả ái, bất ái, không tác, không thọ, cho đến thiền giải thoát…, nghiệp nầy không phải là nghiệp kia, đó gọi là trí lực tự nghiệp. Biết thiền giải thoát… thị hiện ba thứ dạy trao, cho đến biết tâm tịnh cùng câu sinh tương ưng. Đó gọi là trí lực của thiền giải thoát Tam-muội chánh thọ. Biết căn hạ trung thượng, đó gọi là trí lực của các căn lợi độn. Cho đến biết các căn nơi phương tiện sinh hy vọng kia, cũng gọi là trí lực của các căn lợi độn.
Biết đủ các thứ hy vọng, đó gọi là trí lực của vô số lý giải.
Giải (hiểu) có sáu thứ: Một là giải bất xuất: Nghĩa là hiểu, hy vọng về Ma-hê-thủ-la, Na-la-diên, Phạm thế v.v… Hai là giải xuất: Nghĩa là hiểu, hy vọng về ba thừa. Ba là giải viễn tịnh: Nghĩa là hiểu hy vọng về sự thành thục bậc hạ, trung. Bốn là giải cận tịnh: Nghĩa là hiểu hy vọng về sự thành thục bậc thượng. Năm là hiểu về hiện pháp đắc Niết-bàn: Nghĩa là hiểu hy vọng thừa Thanh văn đắc Niết-bàn. Sáu là hiểu vị lai đắc Niết-bàn: Nghĩa là hiểu hy vọng Đại thừa đắc Niết-bàn. Cho đến hiểu biết về thí dụ cho các chủng tử vốn dấy khởi tạo tác, cũng gọi là trí lực của vô số lý giải. Giới phân biệt có bốn thứ: Như chủng tử tánh gọi là trí lực của vô số lý giải. Biết vô số chủng tử phân biệt, đó gọi là trí lực của vô số giới, cho đến biết pháp Niết-bàn và thuận theo dấu vết của đạo nơi cảnh giới, gọi là trí lực của vô số giới. Biết tất cả các dấu vết của vô số phiền não, vô số thanh tịnh, đó gọi là trí lực chí xứ đạo. Cho đến biết túc mạng nơi nhân của tất cả nẻo, cũng gọi là trí lực chí xứ đạo. Biết sáu thứ ngôn thuyết của quá khứ, đó gọi là trí lực túc mạng, cho đến biết chúng sinh quá khứ sinh tử, cũng gọi là trí lực túc mạng. Biết sinh tử vị lai đó gọi là trí lực sinh tử. Cho đến biết tự nghĩa nơi chúng sinh vị lai sinh tử chưa rốt ráo, cũng gọi là trí lực sinh tử. Biết rốt ráo tự nghĩa nơi hiện pháp đắc Niết-bàn, đó gọi là trí lực lậu tận. Như vậy mười thứ trí lực, mỗi thứ đều có sai biệt.
Bốn vô úy như kinh nói: Như Lai do bốn việc nầy, ở trong đại chúng tự chứng đắc không có gì sợ hãi (vô sở úy): Chướng trí giải thoát, tất cả pháp bình đẳng giác, không chung với Thanh văn là vô úy thứ nhất. Chướng phiền não giải thoát chung với Thanh văn là vô úy thứ hai. Ra khỏi đường khổ là vô úy thứ ba. Chướng đạo pháp là vô úy thứ tư. Như Lai đối với bốn nghĩa nầy tự biết như thật. Nếu có người phỉ báng nói là không biết, thì không có điều đó. Do không thể có điều ấy nên được không có gì sợ hãi, không khiếp nhược, không nghi hoặc, tự biết quyết định, có thể làm bậc Đại sư tự an mình và an người. Hai xứ trước đầy đủ, là con đường tự an. Hai xứ sau đầy đủ là con đường an cho người khác.
Tất cả pháp bình đẳng giác là hướng đến các Bồ-tát Đại thừa. Giải thoát chướng phiền não là hướng đến thừa Thanh văn, Duyên giác. Ra khỏi khổ đạo và làm chướng ngại đạo pháp là cả hai đều cùng làm. Như Lai vì các Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác tu hành ra khỏi đường khổ, nên giảng nói Tu-đa-la (kinh). Kết tập kinh tạng nghĩa là nói hành Bồ-tát để lập tạng Bồ-tát, nói hành Thanh văn để lập tạng Thanh văn.
Ba niệm xứ như nơi kinh đã nói. Như Lai nơi đêm dài sinh tử khởi suy nghĩ: Ta khéo hành trì pháp luật, làm đại pháp chủ, đối với việc thọ, không thọ, không khởi tâm buồn phiền. Lược nói về ba hạng chúng: Một là hướng đến nẻo chánh. Hai là hướng đến nẻo tà. Ba là không phải chánh không phải tà. Đối với ba chúng nầy dùng tâm chánh niệm không tăng, giảm.
Ba bất hộ như trong kinh nói. Lược nêu tất cả việc làm che giấu đều đoạn, vì thế nên Như Lai hiện bày ba bất hộ. A-la-hán còn có Đột-cát-la vô ký, hoặc có khi quên lầm, chỉ có Như Lai, tất cả đều không, tất cả đều chân thật. A-la-hán hoặc khi luận nghị, sợ rơi vào chỗ thua kém, hoặc khi không vui, hoặc khi tánh vội gấp, thế nên tự hộ (giữ gìn), không để cho tập khí khởi nghiệp thân, khẩu, ý bất tịnh. Như vậy hết thảy Như Lai đều không hộ.
Đại bi như nơi phẩm Cúng dường tập cận vô lượng ở trước đã nói.
Pháp không quên nghĩa là Như Lai đã làm việc gì, thường thuận theo nhớ nghĩ, tất cả việc làm, tất cả lời nói, tất cả phương tiện thiện xảo, tất cả thời, đối với các việc ấy, luôn nhớ không quên.
Đoạn trừ các tập, nghĩa là Như Lai cử động, dừng nghỉ, xem xét, nói năng, đi, đứng, đều lìa bỏ tập khí còn lại tương tợ phiền não đã dấy khởi. Các A-la-hán cử động, dừng nghỉ, xem xét, nói năng, đi đứng, còn có tập khí sót lại tương tợ phiền não dấy khởi. Như Lai thì đoạn hẳn, vì thế nên gọi là đoạn trừ các tập.
Nhất thiết chủng, diệu trí nghĩa là Như Lai biết ba thứ pháp: Nghĩa tạo lợi ích, phi nghĩa tạo lợi ích, phi nghĩa phi phi nghĩa tạo lợi ích. Tất cả pháp trí biết phi nghĩa tạo lợi ích, phi nghĩa phi phi nghĩa tạo lợi ích,, đó gọi là nhất thiết chủng trí.
Tất cả pháp trí biết nghĩa tạo lợi ích, đó gọi là diệu trí. Nhất thiết chủng trí và diệu trí, nói chung gọi là Nhất thiết chủng diệu trí. Đấy gọi là lược nói một trăm bốn mươi pháp bất cộng, tất cả tướng hảo, Bồ-tát với thân sau cùng đắc pháp Bồ-đề phần vui tịnh, nơi cội Bồ-đề mới được đầy đủ. Thân tối hậu của Bồ-tát tu ba mươi bảy pháp Bồ-đề phần, đắc các tướng, Tam-muội lìa chướng, được gồm thâu ở Tam-muội kim cang, lần lượt nhất tâm, liền chứng đắc mười lực, cho đến nhất thiết chủng diệu trí, vui tịnh vô thượng. Tất cả chỗ hiểu biết đều không ngại, không chướng. Vui tịnh lìa cấu uế bình đẳng mở bày tỏ ngộ, vượt qua tất cả hành Bồ-tát, hành hạnh Như Lai, được thân vô thượng. Trí Bồ-tát nơi địa cứu cánh và trí Như Lai có gì sai khác? Trí Bồ-tát của địa cứu cánh giống như nhìn qua vải thưa, trí Như Lai như bỏ vải thưa. Trí Bồ-tát như ở xa thấy sắc, trí Như Lai như ở gần thấy sắc. Trí Bồ-tát như mắt có màng mỏng khi nhìn xem, Trí Như Lai như mắt tịnh nhìn thấy. Trí Bồ-tát như ở trong thai nhìn xem, trí Như Lai như khi sinh ra nhìn thấy. Trí Bồ-tát như trong mộng nhìn xem, trí Như Lai như khi tỉnh dậy nhìn thấy. Đây là sự sai biệt về trí tuệ của Bồ-tát nơi địa cứu cánh và trí tuệ của Như Lai.
Chư Phật Như Lai trong mười phương thế giới, thực hành Phật sự, tạo lợi ích cho chúng sinh, lược nói có chín thứ. Những gì là chín? Một là muốn khiến cho chúng sinh tâm tín thanh tịnh, thọ thân trượng phu, sinh khởi các tướng tốt. Hai là muốn tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh, đoạn trừ tất cả nghi, vì thế khởi mười lực của Như Lai. Ba là đem mười lực của Đức Phật, khởi tất cả nghĩa, khai phát tất cả tri kiến của Như Lai, giải đáp tất cả các nghi vấn, hàng phục tất cả các luận tà, kiến lập luận chánh, nên khởi bốn vô sở úy của Như Lai. Bốn là trí tuệ của Như Lai, hoặc trụ hoặc chẳng trụ, theo đó mà điều phục, lìa các phiền não, nên khởi ba niệm xứ. Năm là như trước đã nói, như vậy mà hành tác, nên khởi ba bất hộ. Sáu là thường dùng Phật nhãn, ngày đêm quán sét tất cả thế gian, nên khởi tâm đại bi. Bảy là đối với tất cả chúng sinh hết thảy những việc phải làm, đều đã làm, nên khởi pháp không quên. Tám là Như Lai làm gì đều tùy thuận nơi như không có sót lại, nên khởi đoạn trừ các tập. Chín là pháp phi nghĩa tạo lợi ích, phi nghĩa phi phi nghĩa tạo lợi ích, tất cả đều xa lìa, pháp nghĩa tạo lợi ích thì phân biệt hiển bày, nên khởi nhất thiết chủng diệu trí. Như Lai đối với một trăm bốn mươi pháp bất cộng nầy, tạo ra chín thứ Phật sự, nói rộng tức có đến vô lượng, đó gọi là Như Lai trụ, đó gọi là kiến lập. Vì sao? Vì chỗ học của Bồ-tát nương vào đó mà kiến lập hết thảy những sự lợi ích cho chúng sinh, nên gọi là kiến lập. Tự lợi lợi tha, không như Thanh văn, Duyên giác, nên gọi là bất cộng. Tất cả pháp Phật như đại bi, không quên, đoạn trừ các tập, nhất thiết chủng diệu trí, hàng Thanh văn, Duyên giác đều không thể đắc được, ngoài ra tất cả loại khác cũng không đầy đủ, vì thế gọi là bất cộng. Ở đây chỉ bày đầy đủ việc Bồ-tát học đạo, và quả học đạo. Hết thảy Bồ-tát học đạo, cùng quả học đạo, hết thảy các loại thuyết xứ chân thật, thế nên gọi là địa Bồ-tát, gọi là tạng Bồ-tát, gọi là Ma-đắc-lặc-già, gọi là Đại thừa gồm thâu, gọi là hiển thị không hoại, gọi là căn bản của trí thanh tịnh, không chướng ngại.
Nếu có hàng trời, người, A-tu-la, phi nhân, Sa-môn, Bà-la-môn, đối với địa Bồ-tát khởi tin hiểu kiên cố, nghe, lãnh thọ, tu tập, vì người nói rộng, biên chép kinh quyển, đủ loại cúng dường, thì công đức có được, cùng với Đức Thế Tôn đối với tạng Bồ-tát, vì Bồ-tát sơ nghiệp khai mở, chỉ bày, dạy bảo, tuyên thuyết, công đức có được là giống nhau, không sai khác. Vì sao? vì địa Bồ-tát, tạng Bồ-tát nầy, chỉ bày pháp luật của Bồ-tát, khiến nhiều chúng sinh thọ trì, suy nghĩ, kiến lập pháp tiếp pháp hướng, dần dần chuyển thêm rộng lớn, không dấy khởi tướng trạng pháp của thời tượng pháp phải diệt tận, có thể khiến cho nghĩa thật của thời tượng pháp sáng rõ, có thể khiến cho chánh pháp vĩnh viễn không diệt tận. Vì thế, nên đối với địa Bồ-tát khởi tin hiểu kiên cố, nghe thọ, tu tập, vì người nói rộng, biên chép, cúng dường, công đức có được là vô lượng vô biên.