TẠNG LUẬN
SỐ 1595 - NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN THÍCH
Tác giả: Bồ-Tát Thế Thân Hán dịch: Đời nhà Trần, người nước Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Chân Đế
A. GIẢI THÍCH Y CHỈ TRONG THẮNG TƯỚNG
CHƯƠNG 3: CHÚNG DANH (TIẾP THEO)
CHƯƠNG 4: LÀM NHÂN QUẢ LẪN NHAU
CHƯƠNG 5: NHÂN QUẢ BIỆT BẤT BIỆT
B. GIẢI THÍCH ƯNG TRI THẮNG TƯỚNG (THỨ 2)
B. GIẢI THÍCH ƯNG TRI THẮNG TƯỚNG (tiếp theo)
C. GIẢI THÍCH ƯNG TRI NHẬP THẮNG TƯỚNG (THỨ 3)
CHƯƠNG 5: NHẬP PHƯƠNG TIỆN ĐẠO
D. GIẢI THÍCH NHẬP NHÂN QUẢ THẮNG TƯỚNG (THỨ 4)
CHƯƠNG 11: HỖ HIỂN (LÀM SÁNG TỎ CHO NHAU)
G. GIẢI THÍCH NHẬP NHÂN QUẢ TU SAI BIỆT THẮNG TƯỚNG (THỨ 5)
Trí chướng rất mờ tối,
Là chấp riêng chân tục,
Do như lý, như lượng,
Trí sáng Vô phân biệt.
Phá thành Vô Đẳng giác,
Diệt tâm mê không sót,
Thường trụ đức viên trí,
Hằng tùy hạnh đại bi.
Như căn tánh chúng sinh,
Cực giải thoát chân đạo,
Nói cho thập phương giới,
Năng vô công dụng tâm.
Do vô phân biệt trí,
Không trụ nơi sinh tử,
Vì thường khởi đại bi,
Không nhập vào Niết-bàn.
Do nhiếp trí phương tiện,
Đến cực lợi tự tha,
Con đem thân khẩu ý,
Đảnh lễ Phật Thế Tôn.
Vô thượng Chánh pháp ấy,
Như Lai tự giác thuyết,
Nếu người giỏi chánh hạnh,
Đến dấu cam lồ diệu.
Nếu phỉ báng pháp này,
Chìm hầm cuồng không đáy,
Do trí và tín tâm,
Đảnh lễ pháp chân thật.
Trụ đạo, trụ quả Tăng,
Thắng khắp tất cả chúng,
Trí đạo tục thanh tịnh,
Phước điền của thế gian.
Thiện nhỏ đem vào đó,
Rộng lớn như hư không,
Thành tựu thế gian lạc,
Và Niết-bàn thanh lương.
Con nhất tâm đảnh lễ.
Phật Thánh, chúng đệ tử
Người thông minh tà mạn,
Tu A-hàm thoái lui.
Nói làm theo tự chấp,
Không được chứng chánh lý,
Thờ Bồ-tát Di-lặc,
Y chỉ nhật quang định.
Soi rõ thật pháp tướng,
Vô động và xuất thế,
Vì bọn ta mà nói,
Chánh pháp chân đạo lý.
Như trời trăng mùa Thu,
Văn từ khắp thế gian,
Thậm thâm đại chủng chủng,
Cú nghĩa nương liễu kinh.
Khiến cho người thông tuệ,
Hạ tâm khởi tôn kính,
Pháp tế mật khó thông,
Trí chấp nhiễm không ngại.
Tám pháp đời như lợi v.v…
Tâm thường không nhiễm trước,
Vô ngại xứng với nghĩa,
Người thông mẫn hằng tụng.
Trời, người đều khắp biết,
Đảnh lễ chân Đại sư,
Biện thuyết thường vô tận,
Mưa cam lồ văn nghĩa.
Nương vào tùy phần nghe,
Cũng như chim xin mưa,
Duyệt xem tạng quyết định,
Giải thích Nhiếp Đại Thừa,
Nguyện lời này lợi ích,
Cho những người sợ hãi!
----------------------------------
Giải thích: Phẩm này có ba chương:
- Chương 1: Vô đẳng Thánh giáo.
- Chương 2: Thứ tự mười nghĩa.
- Chương 3: Chúng danh.
Luận nói: Nhiếp Đại Thừa Luận tức là A-tỳ-đạt-ma giáo và Đại thừa Tu-đa-la.
Giải thích:
Hỏi: Câu nói này dựa vào nghĩa nào và nhân nào mà khởi?
Đáp: Nương vào Thật Tánh thậm thâm quảng đại tất cả sở tri y của các pháp. Nếu lìa oai lực của Phật Bồ-tát thì ai là người có công năng để có khả năng nói nghĩa này?
Hỏi: Tại sao tạo luận phải do tướng này mà nói?
Đáp: Nếu lìa tên gọi A-tỳ-đạt-ma, thì không biết Luận này là Thánh giáo. Vì nghĩa này vậy.
Lại nữa, vì để hiển thị tên Kinh, ví như Kinh Thập Địa.
Hỏi: Hiện tại tạo luận này, dụng của nó như thế nào? Đáp: Vì muốn khiến cho chúng sinh điên đảo ngu si vô trí được giải thoát. Lại nữa, Luận nầy nói tên A-tỳđạt-ma và Đại-thừa Tu-đa-la là muốn hiển bày loại pháp môn riêng của Như Lai, và hiển bày tên gọi riêng của Luận này. Nói Đại-thừa, là muốn phân biệt rõ với A-tỳđạt-ma của Tiểu thừa.
Hỏi: Tại sao không chỉ nói tên A-tỳ-đạt-ma mà còn phải nói tên Tu-đa-la?
Đáp: Vì có A-tỳ-đạt-ma không phải là Thánh giáo. Lại nữa, nói tên A-tỳ-đạt-ma vì để hiển thị luận này chính là Bồ-tát tạng.
Hỏi: Lại nữa, lập tạng là muốn làm gì?
Đáp: Là để diệt trừ chính mình còn mê hoặc trong Đại thừa, tức phiền não của Bồ-tát. Tại sao vậy? Vì Bồtát lấy phân biệt làm phiền não. A-tỳ-đạt-ma, lấy pháp tánh thậm thâm rộng lớn làm tướng.
Hỏi: Bồ-tát Tạng nầy gồm có mấy thứ?
Đáp: Cũng có ba thứ, tức Tu-đa-la, A-tỳ-đạt-ma và Tỳ-na-da. Ba thứ nầy do các Thừa trên dưới sai biệt cho nên thành hai thứ, là Thanh-văn tạng và Bồ-tát tạng.
Hỏi: Ba thứ nầy và hai thứ kia tại sao gọi là tạng?
Đáp: Do có khả năng gồm thâu được, tức gồm thâu tất cả nghĩa ưng tri của bất cứ pháp nào.
Hỏi: Tại sao thành ba thứ mà lại có lập riêng chín thứ?
Đáp: Tu-đa-la, là để đối trị nghi hoặc của người khác. Nếu có người nổi lên ngờ vực pháp nầy thì giúp cho họ được trí quyết định. Cho nên, thành lập Tu-đa-la. Để đối trị với hai giới mà riêng lập Tỳ-na-da. Do Phật ngăn cản sự thọ dụng có tội lỗi mà lập Tỳ-na-da để đối trị với giới hạn của việc thọ dụng của các hành động ái lạc. Do Phật tùy hỷ trong thọ dụng không có tội lỗi mà lập Tỳ-na-da để đối trị với giới hạn của các hành đông khổ sở (khổ hạnh). Vì để đối trị tự kiến chấp thủ mà riêng lập A-tỳ-đạt-ma, nó có khả năng làm sáng tỏ thật tướng của pháp không điên đảo. Lại nữa, vì nói ba thứ tu học, mà riêng lập Tu-đa-la. Vì thành tựu sự nương vào giới và tâm học mà riêng lập Tỳ-na-da. Tại sao vậy? Nếu người trì giới thì tâm không có hối, do không có hối mà có thể lần lượt đắc định. Vì thành tựu sự nương vào Tuệ học mà riêng lập A-tỳ-đạt-ma. Tại sao vậy? Vì có thể chọn lựa nghĩa không điên đảo. Lại nữa, chính sự thuyết pháp và nghĩa đều do Tu-đa-la, thành tựu nghĩa của pháp thì do Tỳ-na-da. Tại sao vậy? Nếu người tu diệt hoặc theo Tỳ-na-da thì được thông đạt hai Pháp nầy và nghĩa của nghĩa pháp, quyết định thắng trí đó do A-tỳ-đạt-ma mà được. Do chín nhân duyên mà thành lập Tam tạng.
Hỏi: Thông dụng của Tam tạng nầy như thế nào?
Đáp: Để giải thoát sinh tử là thông dụng của nó.
Hỏi: Làm thế nào để được giải thoát?
Đáp: Có thể huân, giác, tịch và thông cho nên được giải thoát. Do nghe (Văn) và suy nghĩ về (Tư) Tam tạng cho nên có thể huân tập, do huân tập cho nên giác biết, do giác biết cho nên được tịch tĩnh, do tịch tĩnh cho nên thông suốt, do thông suốt cho nên được giải thoát. Nếu nói sơ lược Tam tạng thì từng tạng đều có bốn nghĩa. Nếu có khả năng hiểu rõ nghĩa nầy thì Bồ-tát có đủ Nhất thiết trí. Nếu Thanh-văn có thể hiểu rõ nghĩa của một câu hay một bài kệ thì đạt đến vị chấp dứt lưu chuyển sinh tử (Lưu tận).
Hỏi: Từng tạng đều có bốn nghĩa là thế nào?
Đáp: Bốn nghĩa của Tu-đa-la: Vì để hiển thị bốn nghĩa sau đây nên gọi là Tu-đa-la.
1. Y, là xứ, là nhân (người), là dụng. Nương vào ba thứ xứ, nhân, dụng nầy mà Phật nói Tu-đa-la, cho nên gọi là Y.
2. Tướng là tướng của hai đế chân và tục, cho nên gọi là Tướng.
3. Pháp là ấm, giới, nhập, duyên sinh, đế, thực (ăn), định, vô lượng, vô sắc, giải thoát, chế nhập, biến nhập, trợ đạo, vô ngại biện, vô tránh… cho nên gọi là pháp.
4. Nghĩa là sự đã làm cho nên gọi là nghĩa. Sinh đạo diệt hoặc gọi là sự.
Bốn nghĩa của A-tỳ-đạt-ma là Đối, Số, Phục, Giải:
1. Đối là pháp đối hướng vô trụ xứ Niết-bàn. Tại sao vậy? Vì có khả năng làm rõ đế đạo môn cho nên gọi là đối.
2. Số là tùy một pháp trong các pháp, hoặc lấy danh, hoặc lấy tướng riêng, hoặc lấy tướng chung, các số hiển thị là một pháp nầy cho nên gọi là số.
3. Phục là pháp nầy có khả năng hàng phục các thuyết khác về hai thứ năng lập và năng phá đều do chánh thuyết, phương tiện y chỉ cho nên gọi là phục.
4. Giải là nghĩa của A-tỳ-đạt-ma và Tu-đa-la dễ hiểu cho nên gọi là Giải.
Tỳ-na-da có bốn nghĩa: Do tội lỗi, do duyên khởi, do hoàn tịnh, do xuất ly.
Tội lỗi là tội ngũ thiên và thất tụ.
Duyên khởi có bốn thứ, hoặc có tám thứ:
Bốn thứ:
1. Vô tri.
2. Phóng dật.
3. Phiền não xí thạnh.
4. Khinh mạn.
Tám thứ:
1. Do tâm, không do thân khẩu. 2. Do thân, không do tâm khẩu.
3. Do khẩu, không do thân tâm. 4. Do tâm thân, không do khẩu. 5. Do thân khẩu, không do tâm.
6. Do tâm khẩu, không do thân.
7. Do thân, khẩu, tâm.
8. Không do thân, khẩu, tâm.
Hoàn tịnh là do thiện tâm, không do đối trị. Phật thiện tâm là như gốc thọ trì và đối trị.
Xuất ly có bảy sự: 1. Mỗi mỗi phát lộ, ngăn chặn sự nối tiếp. 2. Phạt thọ và học. 3. Trước chế giới sau khai mở giới đã chế trước, sau đó do ý riêng cho nên khai mở. 4. Xả thêm nếu đại chúng tụ tập đồng ý như trước, xả thêm người phạm tội trước thì đó là hoàn tịnh. 5. Chuyển y Tỳ-kheo và Tỳ-kheo ni, chuyển hai căn nam nữ nếu không có tội chung. 6. Như thật quán: Do bốn thứ pháp Uất-đà-na quán sát các pháp. Lại nữa, như đối trị pháp tướng, hằng quán sát tội của tự mình. 7. Pháp nhĩ đắc: Nếu thấy Tứ đế tiểu tùy thì tiểu tội, không sửa đổi cho nên phạm, là do sở đắc của pháp vốn như vậy.
Lại nữa, Tỳ-na-da có bốn nghĩa: 1. Nhân (người), là Phật, Thế Tôn căn cứ vào người mà lập giới. 2. Lập chế nghĩa là đã nói lỗi xong rồi, đại sư tập hợp chúng lập ra Học xứ. 3. Phân biệt nghĩa là đã sơ lược lập chế giới rồi, giải thích rộng thêm. 4. Trong lập chế giới nầy thế nào là phạm tội, thế nào là không phạm, hiện tại sẽ giải thích bản văn.
Luận nói: Trước Phật Thế Tôn.
Giải thích: Có ý muốn làm sáng tỏ sự cung kính và lời nói không khác.
Luận nói: Bồ-tát Ma-ha-tát khéo nhập cú nghĩa của Đại-thừa.
Giải thích: Đã được công đức của các Đà-la-ni. Do công đức nầy mà có khả năng nhiếp trì văn cú và nghĩa lý, cũng có thể như lý mà nói năng hiển thị cho nên gọi là thiện nhập (khéo nhập). Tại sao chỉ nói Bồ-tát Ma-hatát mà không nói tên? Vì muốn hiển thị nhiều Bồ-tát Ma-ha-tát có chung công năng này. Tại sao nói hai tên? Vì muốn hiển thị đầy đủ hai công hạnh.
Luận nói: Muốn hiển thị Đại-thừa có công đức thù thắng nương vào giáo pháp Đại-thừa.
Giải thích: Chỉ trong Đại-thừa mới có công đức thù thắng, còn trong các thừa khác thì không có. Vì để thuyết minh công đức Bất cộng của Đại-thừa, cho nên nói rằng Muốn hiển thị Đại-thừa có công đức thù thắng nương vào giáo pháp Đại-thừa.
Luận nói: Nói lời như vậy: Chư Phật Thế Tôn có mười tướng thù thắng, điều Phật nói là vô đẳng, vượt hơn các sự giáo huấn khác.
Giải thích: Lời nói nầy là muốn thuyết minh chỗ nào để hiển thị Đại-thừa có tướng công đức thù thắng? Là thật có và lợi tha, như trong giải thích mười hiệu của chư Phật Thế Tôn.
Luận nói: Mười tướng thù thắng.
Giải thích: Do mười tướng của y chỉ khác nhau cho nên nói rất thắng diệu và lấy mười nghĩa làm nhân, ngôn thuyết làm quả. Vì nghĩa thù thắng cho nên nói là vô đẳng
Luận nói: 1. Tướng nương tựa của ứng tri (pháp sở tri).
Giải thích: Hiểu biết là pháp của phẩm tịnh và phẩm bất tịnh, tức là tam tánh, tam tánh nầy y chỉ nhân của tam tánh, tức là y chỉ tướng thù thắng. Do y chỉ tướng thù thắng nầy mà ngôn thuyết của Như Lai cũng thù thắng, tức là A-lại-da thức y chỉ, vào tướng thù thắng này. Ví như thạch tử (đứa con bằng đá) cho đến trí quả thù thắng cũng như vậy.
Luận nói: 2. Tướng ứng tri thù thắng.
Giải thích: Tướng nầy thường biết rõ tự tánh, hoặc thật tướng.
Luận nói: 3. Tướng hội nhập ứng tri thù thắng.
Giải thích: Tướng nầy chính là sự thể nhập vào tam tánh, tức năng nhập và sở nhập, hay còn gọi là duy thức. Luận nói: 4. Tướng hội nhập nhân quả thù thắng.
Giải thích: Hội nhập vào duy thức, chính là bố thí… thuộc sáu pháp. Ba-la-mật thế gian ở vị trong nguyện vui lòng còn nhập vào quả tức là đi hội nhập duy thức. Sau đó, sáu Ba-la-mật sau đó ở ngôi vị thông đạt chuyển thành quả, gọi là xuất thế gian.
Luận nói: 5. Tướng tu nhân quả có phần thù thắng khác biệt.
Giải thích: Hội nhập nhân quả tức là thể nhập hành sáu Ba-la-mật của thế gian và xuất thế gian. Tu là thường huân tập bốn đức để tham dự vào trong địa vị tu đạo. Vì địa bất đồng cho nên gọi là sai biệt, tức là mười địa như:
Hoan hỷ…
Luận nói: 6. Tu khác biệt thù thắng nương vào giới học.
Giải thích: Đây chính là học giới sai biệt trong việc tu tập của các địa. Do nương vào giới mà Bồ-tát tu quán, tức là tất cả giới của Bồ-tát trong mười địa, đối với các pháp ác không khởi tâm trở lại.
Luận nói: 7. Tướng thù thắng nương tựa vào tâm học.
Giải thích: Chữ Học đã giải thích như trước. Tâm tức là định. Định lấy sự nhất tâm làm thể. Do nương vào sự nhất tâm mà tu tập, nghĩa là định của tất cả Bồ-tát gọi là nương vào tâm mà tu học.
Luận nói: 8. Tướng thù thắng của việc nương vào trí tuệ.
Giải thích: Vì có thể đắc quả cho nên gọi là nương vào trí tuệ. Do lấy trí tuệ làm chỗ nương, nên mới khởi tâm hành tu tập. Trí tuệ đó gọi là Vô phân biệt.
Luận nói: 9. Tướng thù thắng của quả Học tịch diệt. Giải thích: Tịch diệt có ba thứ: 1. Tối thắng. 2. Phẩm loại. 3. Tự đối giải thoát định trí. Chướng ngại bị diệt trừ tức liền đắc vô trụ xứ Niết-bàn.
Luận nói: 10. Tướng thù thắng của trí tuệ sai biệt.
Giải thích: Là đã lìa tất cả chướng trí. Trí tức là vô phân biệt trí, gọi là đạo đối trị sai biệt. Đây cũng là trí của Phật Như Lai đã lìa tất cả chướng tùy miên. Trí nầy là sai biệt của Vô phân biệt trí.
Luận nói: Do mười nghĩa tướng thù thắng này, nên pháp mà Như Lai nói vượt hơn các giáo pháp khác. Như vậy, giải thích văn cú của Tu-đa-la để hiển thị rõ Đại thừa đúng là Phật thuyết.
Giải thích: Làm sao có thể hiển thị được? Do giải thích sơ lược văn cú nầy để trình bày rõ mười nghĩa trên, trong Tiểu thừa không có nói đến chỉ có Đại thừa mới có nói.
Luận nói: Lại nữa, tại sao trong đây giải thích sơ lược mà có thể hiển thị Đại thừa thù thắng hơn các giáo pháp khác? Quá trình giải thích sơ lược nầy nhằm nêu rõ mười nghĩa trên, chỉ có Đại thừa mới có, còn Tiểu thừa thì không. Những gì là mười? Nói rằng thức A-lại-da gọi là tướng, nương tựa của ứng tri. Tướng của ứng tri là ba thứ tánh là: 1. Y tha tánh. 2. Phân biệt Tánh. 3. Chân thật tánh. Tướng hội nhập ứng tri là hội nhập Duy thức giáo thuyết, tướng hội nhập nhân quả là nói sáu pháp Ba-lamật.
Giải thích: Tại sao vậy? Do đạo lý pháp duy thức, được hội nhập ba tánh, ở vị tu nhân với nguyện cầu ưa thích nên nói. Sáu pháp Ba-la-mật tuy là pháp thế gian, nhưng có thể dẫn đến pháp xuất thế, vì có thể sinh đạo duy thức. Đây gọi là hội nhập nhân của ba tánh. Bồ-tát đã nhập địa, thì đi vào sáu Ba-la-mật xuất thế đã thanh tịnh tức hội nhập nhân quả của ba tánh.
Luận nói: Mười địa của Bồ-tát, gọi là tướng nhập vào nhân quả tu sai biệt.
Giải thích: Mười thứ Bồ-tát địa xuất thế, gọi đó là nhập nhân quả tu sai biệt.
Luận nói: Cấm giới mà Bồ-tát giữ gìn bảo vệ, gọi là tướng giới học tu sai biệt. Các định Thủ-lăng-già-ma hư không, gọi là tướng tâm học Vô phân biệt trí, gọi là tướng tuệ học. Vô trụ xứ Niết-bàn gọi là tướng tịch diệt của quả. Học Ba thân của Phật tức là Tự tánh thân, Ứng thân và Hóa thân. Ba thân nầy gọi là tướng quả trí vô phân biệt.
Giải thích: Trong địa có ba thứ tu quán, gọi là ba thứ nương vào học xứ quả của học này tức là diệt nghĩa là diệt trừ ba chướng. Vô phân biệt trí gọi là nương vào tuệ học. Trí nầy không, có sự phân biệt bốn đảo như Thanhvăn và không có sự phân biệt về tất cả pháp như Bồ-tát nên gọi là Vô phân biệt. Đó là hai tướng khác biệt của vô phân biệt trí. Như vậy ba thân thì Phật là quả vô phân biệt trí. Nếu lìa tự tánh thân và pháp thân không thành, ví như nhãn căn. Nếu lìa pháp thân thì Ứng thân không thành, ví như nhãn thức lìa nhãn căn thì không thể thành Phải biết hai thứ nầy là do năng y và sở y mà được tương ưng. Nếu lìa Ứng thân, thì đã nhập Đại địa không thọ dụng pháp lạc của Bồ-tát. Nếu không có thọ dụng pháp lạc thì tư lương của Bồ-đề không được đầy đủ. Ví như thấy sắc, nếu lìa Ứng thân thì Hóa thân không thành. Nếu không có Hóa thân thì chư Bồ-tát trong hạnh nguyện ưu thích, và Thanh-văn trong hạnh nguyện ưa thích yếu ớt mới bắt đầu phát khởi tu hành đều không được thành.
Cho nên quyết định phải có ba thân.
Luận nói: Như vậy mười loại xứ chỉ trong Đại thừa mới có, khác với Tiểu thừa cho nên nói là đệ nhất.
Giải thích: Mười loại xứ nầy là nhân của Vô thượng Bồ-đề, thứ tự dẫn nhau cho đến Vô thượng Bồ-đề.
Luận nói: Phật Thế Tôn chỉ nói mười nghĩa nầy cho Bồ-tát.
Giải thích: Đại thừa chỉ là Phật nói, Tiểu thừa là nói chung. Đại thừa là chỉ nói cho Bồ-tát, không vì Nhị Thừa mà nói. Do ba nghĩa nầy cho nên Đại thừa thù thắng hơn Tiểu thừa.
Luận nói: Cho nên nương vào Đại thừa mà Chư Phật Thế Tôn có mười tướng thù thắng, lời nói của Phật không thể sánh kịp vượt hơn các giáo phái khác. Lại nữa, tại sao lời nói không thể sánh kịp, của mười tướng thù thắng nầy được nói ra, không thể có gì thể sánh kịp có thể hiển thị Đại thừa? Là chính vì Như Lai nói để ngăn chặn Tiểu thừa, quyết định đây không phải Đại thừa. Vị trong Tiểu thừa chưa từng thấy mười nghĩa này, tùy giải thích một nghĩa thì chỉ thấy giải thích trong Đại thừa. Lại nữa, mười nghĩa nầy có thể dẫn đến Vô thượng Bồđề, thành tựu và tùy thuận không trái nhau.
Giải thích: Có ba nghĩa làm chứng cho mười nghĩa có thể dẫn đến Vô thượng Bồ-đề, vì là nhân của Vô thượng Bồ-đề. Thành tựu là nếu căn cứ theo Thánh giáo và chánh lý thì chọn lựa tư duy mười nghĩa nầy thành tựu. Không thể phá hoại, ví như đã thấy đạo tướng mà bậc Đạo sư đã nói. Tùy thuận, nếu người hạnh quán đang ở địa vị tu tập, thì mười nghĩa nầy tùy thuận tu quán mà trụ, ví như tùy thuận theo đạo của Đạo sư nói đạo mà trụ.
Không trái nhau, là trong mười địa không có nhân chướng ngại, ví như: Trong đạo mà Đạo sư đã dạy không có chướng giặc cướp, cọp, chó sói... Lại nữa, có sinh tử và Niết-bàn trong các địa không chướng ngại nhau. Do đó mười nghĩa có thể dẫn đến Vô thượng Bồ-đề.
Luận nói: Vì các chúng sinh mà đắc trí của Nhất thiết trí.
Giải thích: Do mười nghĩa nầy có đủ ba đức là: 1. Vô đẳng cảnh.
2. Vô đẳng hạnh. 3. Vô đẳng quả. Nếu ai Văn, Tư, Tu ba đức nầy thì chắc chắn họ sẽ đắc Vô thượng Bồ-đề, cho nên nói rằng Vì các chúng sinh mà đắc trí của Nhất thiết trí.
Luận nói: Kệ nói rằng:
Y và tướng ứng tri,
Nhập nhân quả tu khác,
Tam học và quả diệt,
Thuộc trí Vô thượng thừa.
Mười nghĩa, khác không có,
Thấy đây nhân Bồ-đề,
Nên Đại thừa Phật nói,
Nói mười nghĩa thù thắng.
---------------------------------------
Luận nói: Tại sao mười nghĩa nầy nói thứ tự như vậy? Bồ-tát sơ học trước phải quán các pháp nhân duyên như thật. Do quán nầy nên đối với mười mười hai nhân duyên phát sinh thông Tuệ, sau đó đối với pháp duyên sinh phải hiểu rõ thể tướng của nó. Trí có thể lìa lỗi nhị biên tăng ích, tổn giảm. Chánh tu như vậy, phải thông đạt các tướng sở duyên như thật, sau đó phải giải thoát phải các chướng ngại. Tâm đã thông đạt thật tướng, rồi tiếp đến đối với sáu Ba-la-mật đã được hành làm cho thành tựu thêm, khiến cho thanh tịnh không bị lỗi nữa. Do nương vào thanh tịnh bên trong ý thức, nên kế đó thanh tịnh bên trong gồm thâu các Ba-la-mật. Nương vào mười địa sai biệt, tu tùy một trong ba A-tăng-kỳ kiếp. Kế đó tam học của Bồ-tát trước viên mãn. Đã viên mãn rồi thì đạt được học quả Niết-bàn và Vô thượng Bồ-đề. Từng bước về sau phải được tu theo thứ tự mười nghĩa. Trong đây nói thứ tự thì tất cả Đại thừa đều được viên mãn.
Giải thích: Cảnh giới của mười nghĩa nầy có thứ tự, thì chánh hành cũng có thứ tư. Do quán thấy thứ tự nầy mà lập nên thứ tự mười nghĩa. Lại nữa nếu người nào hiểu rõ nhân của các pháp, đối với mười hai nhân duyên thì chứng đắc thông tuệ. Tại sao vậy? Vì quả từ nhân sinh ra, không từ Tự Tại Thiên hay nhân không bình đẳng sinh ra, cũng không phải không có nhân sinh ra, cho nên lập nhân trí và quả trí. Tiếp theo là pháp từ nhân sinh ra, Bồ-tát phải biết tướng của nó. Thế nào là tướng? Tánh phân biệt thật sự không có thể, chấp cho là có thì gọi là tăng ích; thật sự có tánh chân thật mà chấp cho là không thì gọi là tổn giảm. Sự tăng ích không tổn giảm “có” gọi là nhị biên. Thông tuệ có khả năng lìa nhị biên này. Tiếp theo là chỗ chấp chỉ có thức, do trí nầy thì tương ưng đó có thể thông đạt. Do thông đạt nầy mà không có chướng ngại nào nữa. Tiếp theo là tùy thuận nhập duy thức. Sáu Ba-la-mật của thế gian nương vào tục đế, được nương vào chỗ nhiếp của chân đế thanh tịnh ý thì sáu Ba-la-mật của xuất thế gian cũng phải học. Kế tiếp trong mười địa tùy theo sự sai biệt mà phải tu tập mỗi A-tăng-kỳ kiếp không đồng với sự tu tập chứng đắc của Thanh-văn. Tại sao vậy? Thanh-văn trong ba đời, gieo xuống chủng tử đối trị Chủng, thành thục đối trị đạo. Đối trị đạo thành thục cho nên trong đời thứ ba, giải thoát tam giới, đắc quả A-la-hán. Tiếp theo trong việc tu tập sai biệt này, ba học giới, định, Tuệ phải khiến cho viên mãn. Tiếp theo ba học quả Niết-bàn thì phiền não chướng và trí chướng đều diệt; Vô thượng Bồ-đề và ba thân, những pháp nầy phải nên biết. Nói thứ tự như vậy, nếu lập Đại thừa thì cũng không ra ngoài pháp này. Tại sao vậy? Nếu muốn giải thích nghĩa của duyên sinh thì nhập vào trong A-lại-da thức. Nếu muốn giải thích pháp tướng thì nhập vào ba tánh nhiếp. Nếu muốn giải thích đắc thì nhập vào trong duy thức. Nếu muốn giải thích nhân quả thì nhập vào duy thức quán xứ. Nếu muốn giải thích địa thì nhập vào nhân quả xứ. Nếu muốn giải thích ba học thì nhập vào mười địa. Nếu muốn giải thích diệt thì nhập vào ba học xứ. Nếu muốn giải thích Vô thượng Bồ-đề và ba thân thì nhập vào Vô trụ xứ Niết-bàn thâu nhiếp. Nếu nói Phật thể và nhân quả thì theo số như đây, cho nên nói thứ tự lại có giải thích khác. Mười nghĩa nầy có thể dẫn Vô thượng Bồ-đề, sinh khởi trí vô phân biệt. cho nên gọi là thành tựu, cùng với tứ đạo lý và tam lượng không trái nhau cho nên gọi là tùy thuận, không phải trước tùy thuận, sau trái nhau. Như Kệ nói rằng: Hay trì ái và bi, tùy thuận đối với thiện, không ngã kiến hắc bạch, có ích cũng có tổn, cho nên nói không trái nhau. Có khả năng sinh trí của Nhất thiết trí. Đối với hết thảy pháp vô gián, như lượng, như lý, mà trí sinh. Lại có giải thích khác, lấy phần sau giải thích phần trước.
-------------------------------------
Luận nói: Nay đầu tiên nói về chỗ nương tựa của ứng tri, đặt tên là A-lại-da thức. Đức Thế Tôn ở đâu nói thức nầy, và nói thức nầy tên A-lại-da? Như Phật Thế Tôn trong A-tỳ-đạt-ma kệ tóm lược ý chính nói: Giới nầy từ vô thủy, tất cả pháp y chỉ, nếu có các cõi đạo và có đắc Niết-bàn.
Giải thích: Nay muốn dẫn A-hàm làm chứng cho Thể và tên của A-lại-da thức A-hàm. Là Đại thừa A-tỳđạt-ma, trong đó Phật Thế Tôn nói kệ. Giới này, là Alại-da thức giới, lấy giải giải thích là tánh. Nên Giới nầy có năm nghĩa: 1. Nghĩa thể loại, là tất cả chúng sinh không ra ngoài thể loại này. Do thể loại nầy mà chúng sinh không khác nhau.
2. nghĩa nhân, là vì tất cả pháp của Thánh nhân như tứ niệm xứ… đều duyên giới nầy mà sinh. 3. Nghĩa sinh, là sở pháp thân sở đắc của Thánh nhân, là do tin ưa pháp môn của giới nầy mà được thành tựu. 4. Nghĩa chân thật, là tại thế gian thì không bị hoại, tại xuất thế gian thì bất tận.
5. Nghĩa tàng chứa nếu xứng với tự tánh thiện của pháp nầy thì trở thành trong pháp này. Nếu ngoài pháp nầy tuy tương ưng, thì trở thành lời chê trách. Cho nên căn cứ theo giới này, Phật Thế Tôn nói: Này các Tỳ-kheo! Chúng sinh sơ cơ không thể liễu đạt, họ bị vô minh tham ái che kín trói buộc, hoặc lưu chuyển, hoặc tiếp xúc, có khi tại địa ngục, có khi tại súc sinh, có khi trong loài quỷ, có khi làm A-tu-la, có khi ở cõi người, có khi sanh cõi trời. Nầy Tỳ-kheo! Các ông thọ khổ thời gian lâu dài như vậy, tăng thêm tham ái, thường bị máu chảy. Do đây làm chứng cho nên biết từ thời vô thủy, như Kinh nói: Bạch Thế Tôn! Thức giới nầy là y, là trì, là xứ, hằng tương ưng, và trí không tách rời nhau không xả bỏ, là công đức vô vi của chư Phật nhiều như số cát sông Hằng. Bạch Thế Tôn! Không phải trí tương ưng, ly tán và xả bỏ, vì các pháp hữu vi và y chỉ, giữ gìn và an trú. Nói “tất cả pháp y chỉ”, như trong Kinh nói: Bạch Thế Tôn! Nếu Như Lai tạng là có do không hiểu rõ, thì có thể nói sinh tử là có. Cho nên nói “nếu có, có các cõi”, như trong Kinh nói: Bạch Thế Tôn! Nếu Như Lai tạng là không có thì không có chán ghét khổ, không có ưa muốn Niết-bàn, cho nên nói “có đắc Niết-bàn”. Lại nữa, giới nầy từ vô thủy, tức là hiển thị nhân. Nếu không lập nhân thì có thể nói hữu thủy.
Tất cả pháp y chỉ, là do thức nầy làm nhân của tất cả pháp, cho nên nói tất cả pháp y chỉ. Nếu có thì có cõi và có đắc Niết-bàn, tức là chỗ u chỉ của tất cả pháp. Nếu có đạo các cõi thì có quả báo, cũng có chúng sinh do quả báo nầy mà thọ sinh, sự chuyển dịch (chuyển y) có thể khiến cho hiểu hai thuyết tà chánh phân biệt khác nhau, sau cùng là đắc chánh hạnh thượng phẩm, xứng đáng được công đắc thù thắng. Do phiền não y chỉ cho nên sinh cực trọng phiền não và thường khởi phiền não, là bốn thứ sai biệt của quả báo gọi là y chỉ thù thắng (mạnh). Nếu ngược lại bốn thứ nầy thì gọi là y chỉ yếu. Trong sinh tử không chỉ cõi v.v... chẳng có mà nghĩa Niết-bàn cũng chẳng có. Tại sao vậy? Vì nếu có phiền não thì có giải thoát. Sự Y chỉ của ứng tri cũng có Ahàm, có thể làm chứng cho tên A-lại-da thức.
Luận nói: Trong A-tỳ-đạt-ma lại nói kệ:
Các pháp nương tạng trụ,
Nhất thiết chủng tử thức,
Gọi là A-lại-da,
Ta vì thắng nhân nói.
Giải thích: “Các pháp nương tạng trụ”, câu thứ hai, Nhất thiết chủng Tử thức giải thích câu thứ nhất là do nghiệp phiền não cho nên biến đổi, A-lại-da thức tương tục, quả báo trước, sau đó thành nhân. “Gọi là A-lại-da”, là hiển thị nghĩa để làm chứng cho danh và lấy danh làm đề mục cho thức. “Ta vì thắng nhân nói”, thắng nhân là chư Bồ-tát, là Cảnh giới nương tựa của Bồ-tát và có thể chướng ngại Bồ-tát đạo, cho nên Phật Thế Tôn nói cho Bồ-tát.
Luận nói: Hai bài kệ của A-hàm nầy chứng minh cho thể của thức và danh. Tại sao Phật nói thức nầy tên là Alại-da”?
Giải thích: Lời nói nầy là muốn hiển thị nhân của sự lập danh.
Luận nói: Vì tất cả pháp trong cõi biến dịch bất tịnh, ẩn tàng trong đó làm quả.
Giải thích: Tất cả là chỉ cho ba đời. Trong ba đời, lấy chánh khi sinh có thể sinh pháp thuộc phẩm vị bất tịnh. Nói ngược với năm thứ phẩm tịnh thì gọi là phẩm bất tịnh.
Luận nói: Vì thức nầy ẩn tàng trong các pháp làm nhân.
Giải thích: Các pháp, là quả của A-lại-da thức, tức là các pháp thuộc phẩm bất tịnh, A-lại-da thức trụ ẩn trong quả nầy mà làm nhân.
Luận nói: Lại nữa, các chúng sinh ẩn tàng trong thức nầy do chấp tướng ngã, cho nên gọi là A-lại-da thức.
Giải thích: Tạng nghĩa là chấp giữ. Căn cứ theo Ađà-na thức và ý thức, thì nói tên là chúng sinh. Tại sao vậy? Vì tất cả chúng sinh không có Vô Ngã chấp. Nếu khởi chấp ngã thì duyên vào cảnh gì hay duyên bản thức mà khởi? Vì một loại tương tục vi tế không đoạn.
Luận nói: A-hàm nói rằng như trong Kinh Giải Tiết đã nói kệ:
Chấp trì thức thâm tế,
Pháp chủng tử hằng lưu,
Phàm phu, ta không nói,
Kia chớ chấp làm ngã.
Giải thích: Trước đã dẫn Kệ của A-tỳ-đạt-ma làm chứng, trong đây lại dẫn kệ của kinh để làm chứng. Atỳ-đạt-ma lấy lý làm chính, Kinh thì lấy giáo làm chính. Giáo thì phải có lý, lý thì phải thuận giáo, hai thứ nầy gọi là chứng cứ. Nếu lìa hai thứ chứng cứ nầy mà lập nghĩa thì không thành. Chứng nầy xuất từ kinh Tiết: Phật bảo Bồ-tát Quảng tuệ rằng: Nầy Quảng Tuệ! Trong lục đạo sinh tử, những chúng sinh đó, tùy tại tụ chúng sinh, hoặc thọ noãn sinh, thai sinh, thấp sinh và Hóa sinh, trong đó được thân và thành tựu. Khi mới thọ sinh, Nhất thiết chủng thức trước hết thành thục với đại mà tăng trưởng viên mãn, nương vào hai chấp thủ, là thân hữu dựa vào sắc căn và tướng danh tập khí phân biệt về ngôn thuyết sai khác. Hoặc trong cõi Sắc có hai chấp thủ, hoặc trong cõi Vô sắc không có hai chấp thủ. Nầy Quảng Tuệ! thức nầy hoặc gọi là A-đà-na. Tại sao vậy? Vì do Bản thức nầy có thể chấp trì thân, hoặc gọi là A-lại-da thức. Tại sao vậy? Vì Bản thức nầy đối với thân thường tàng ẩn đồng cùng thành hoại, hoặc gọi là Chất-đa. Tại sao vậy? Vì thức nầy là chỗ sinh trưởng của các trần sắc thanh hương vị xúc. Nầy Quảng Tuệ! Nương theo duyên bản thức nầy thì thức tụ được sinh, là nhãn thức cho đến Ý thức nương vào thức hữu, nhãn căn duyên sắc trần bên ngoài thì nhãn thức được sinh, cùng với nhãn thức đồng thời chung cảnh, thì có ý thức phân biệt khởi. Nếu một nhãn thức sinh, thì lúc đó một ý thức phân biệt sinh, cùng với nhãn thức đồng cảnh. Nhãn thức nầy nếu chung với hai thức, hoặc ba, bốn, năm thức cùng khởi, thì lúc đó có một ý thức phân biệt cùng với năm thức duyên chung cảnh mà sinh, như sông lớn chảy, nhân có thể nổi sóng đến thì một lượn sóng dấy khởi. Nếu có hai hoặc nhiều nhân có thể nổi sóng đến thì có nhiều lượn sóng dấy khởi. Sông đó thường chảy không bỏ phế, không đứt đoạn. Lại nữa, trong mặt gương thanh tịnh tròn sáng, nếu có một nhân ảnh có thể khởi đến thì một ảnh khởi. Nếu có hai hay nhiều nhân ảnh có thể khởi đến thì nhiều ảnh khởi, mặt gương tròn đó không chuyển thành ảnh, cũng không bị tổn giảm, bản thức nầy cũng như nước chảy và mặt gương. Nương vào bản thức này, nếu có một nhãn thức duyên nhãn thức khởi đến thì một nhãn thức khởi, cho đến nếu có năm thức năm nhân của thức có thể khởi đến thì năm thức khởi. Nầy Quảng Tuệ!
Như vậy, Bồ-tát nương vào trí pháp như thật mà có thông tuệ, có thể thông đạt nghĩa bí mật của tâm ý và thức. Do nghĩa như vậy các Như Lai như lí, như lượng, không ghi nhận nói chư Bồ-tát có thể thông đạt nghĩa bí mật của tâm, ý, thức. Nầy Quảng Tuệ! Chư Bồ-tát do như thật không thấy bản thức và A-đà-na thức, bên trong bên ngoài, không thấy tạng trụ, không thấy Sinh và trưởng, không thấy thức, nhãn, sắc và nhãn thức, không thấy nhĩ, thanh và nhĩ thức, cho đến không thấy thân, xúc và thân thức. Nầy Quảng Tuệ! Chư Bồ-tát nương vào pháp như trí mà có thông tuệ, có thể thông đạt nghĩa bí mật của tâm, ý và thức. Các Đức Phật Như Lai, do nghĩa như vậy, ghi nhận nói Chư Bồ-tát có thể thông đạt nghĩa bí mật của tâm, ý và thức. Lại nữa, dẫn Kệ để giải thích lại nghĩa của Kinh đã nói: Chấp trì thức thâm tế. Tại sao thức nầy hoặc gọi là A-đà-na thức? Vì có thể chấp trì tất cả hữu sắc các căn là năng báo trì hữu y năm căn và tập khí của các tướng, cho nên thức nầy cũng gọi là A-đà-na. “Thâm tế”, là khó diệt trừ và khó hiểu. “Pháp chủng tử hằng lưu”, là chỗ nương trụ của tất cả phẩm bất tịnh pháp có thể sinh khởi và huân tập, như dòng nước, niệm niệm sinh diệt tương tục không gián đoạn. “Phàm phu ta không nói”, vì những người phàm phu không có hạnh thậm thâm, không cầu Nhất thiết trí, căn cơ chậm lụt, cho nên không nói cho họ và Nhị Thừa. “Kia chớ chấp làm ngã” là một tướng khởi thì tương tục sinh trưởng. Nếu chúng sinh nương vào kinh mà khởi tà phân biệt, tức là chấp thức nầy làm ngã. Vì sợ khởi tà chấp cho nên ta không nói cho họ.
Luận nói: Tại sao thức nầy hoặc nói là A-đà-na thức? Giải thích: Trước đã dẫn chánh lý và chánh giáo, để chứng minh thức tên là A-lại-da. Tại sao bây giờ lại nói thức tên là A-đà-na?
Luận nói: Có thể chấp trì tất cả các căn hữu sắc, vì tất cả thọ sinh lấy làm y chỉ. Tại sao vậy? Vì các căn hữu sắc là chỗ chấp thủ của thức này, không hoại không mất cho đến tương tục đến đời sau. Lại nữa, chính khi thọ sinh, có thể giữ lấy việc sinh, giữ gìn ấn. Cho nên thân trong báu nẻo đều giữ gìn như thế, và sự, dụng của việc chấp giữ này đều thuộc thức này gìn giữ cho nên gọi là A-đà-na.
Giải thích: Nay là lập đạo lý để làm thành tên A-đàna. Nguyên tắc, là có thể chấp trì tất cả các căn hữu sắc, do thức nầy chấp trì năm căn hữu sắc, không giống như thân của người chết đang vào lúc biến hoại, vị sình đen hoại rã. Nếu đến lúc chết thì A-lại-da thức xả lìa năm căn, lúc đó các tướng sình đen hoại rã liền khởi, cho nên quyết định biết do chỗ chấp trì của thức nầy trong một thời kỳ mà năm căn không bị rã hoại. “Vì tất cả thọ sinh lấy làm y chỉ”, đây là câu nói lập lại để đáp câu hỏi trước. Thức này, khi chúng sinh chính lúc thọ sinh thì có thể sinh khởi việc chấp thủ ấm giới. Đây là nắm lấy thể tánh chỗ chấp trì của thức. Do thức nầy là thức chánh thọ sinh, cho nên khi chính thọ sinh, tất cả sinh loại đều do thức nầy gồm thâu. Một thời kỳ thọ thân cũng là chỗ nhiếp của thức này. Vì chủng tử của thân trong A-lại-da thức có sẵn đầy đủ. Do nghĩa đó, cho nên A-lại-da thức cũng gọi là A-đà-na thức.
Luận nói: Hoặc gọi là tâm, như Phật Thế Tôn nói tâm, ý và thức.
Giải thích: A-lại-da thức và ý, thấy hai nghĩa nầy không đồng nghĩa với chữ tâm, cũng phải có khác nhau. tướng khác nhau của ba thứ nầy như thế nào?
Luận nói: Ý có hai thứ, một là có thể cùng với kia sinh khởi sự nương tựa của thứ đệ duyên. Trước hết diệt thức làm ý, lại cũng lấy thức sinh y chỉ làm ý.
Giải thích: Nếu tâm trước diệt tâm sau sinh, vô gián có thể sinh tâm sau, gọi đây là ý. Lại có ý có thể làm y chỉ của chánh sinh thức, cùng với hiện thức không hại nhau. Hai thức nầy làm sinh duyên thức cho nên gọi là ý. Chánh sinh thì gọi là thức, tức là ý và thức khác nhau. Luận nói: Hai là ý nhiễm ô, cùng với bốn phiền não hằng tương ưng.
Giải thích: Đây là muốn giải thích A-đà-na thức.
Những gì là bốn phiền não?
Luận nói: 1. Thân kiến. 2. Ngã mạn. 3. Ngã ái. 4. Phiền não.
Giải thích: Ngã kiến là tâm chấp ngã, tùy theo tâm nầy mà khởi ngã mạn. Ngã mạn là do chấp ngã mà khởi tâm cống cao, nhưng thật ra không có ngã khởi. Ngã tham gọi là ngã ái. Ba thứ hoặc nầy lấy chung vô minh làm nhân, là nhân quả chân thật. Tâm mê muội thì không hiểu, gọi là vô minh.
Luận nói: Thức nầy là chỗ nương tựa của các phiền não thuộc thức khác. Phiền não thuộc thức nầy do thức y chỉ thứ nhất sinh và do ý thứ hai nhiễm ô.
Giải thích: Thức nhiễm ô nầy do thức y chỉ thứ nhất sinh và do thức thứ hai làm nhiễm ô, thứ tự đã diệt rồi gọi là ý. Các thức còn lại muốn sinh thì có thể cùng sinh với y chỉ. thức thứ hai gọi là thức nhiễm ô, vì là chỗ y chỉ của phiền não. Nếu người chính đang lúc khởi thiện tâm thì cũng có thức này.
Luận nói: Do duyên trần và sự hay phân biệt thứ tự cho nên hai thức nầy gọi là ý.
Giải thích: Vì có khả năng lãnh lấy trần cho nên gọi là thức, có thể cùng với thứ khác sinh cho nên gọi là ý. Thức thứ hai là ngã tướng, hoặc y chỉ với sự năng phân biệt cho nên gọi là ý.
Luận nói: Làm sao biết được có tâm nhiễm ô?
Giải thích: Lấy đạo lý nào để thành lập nghĩa nầy?
Luận nói: Nếu không có tâm vô minh độc hành nầy thì không thể nói có hiện hữu.
Giải thích: Tướng của vô minh độc hành như thế nào? Nếu người chưa đắc được đạo đối trị, thì mê lầm gây chướng ngại cho trí tuệ chân thật, gọi là vô minh độc hành. Vô minh nầy đối với năm thức là không có. Tại sao vậy? Như người đang tại năm thức mà không thể bị chướng. Tại sao vậy? Nếu là chỗ sinh của đạo đối trị, thì nơi chướng ngại đó đối với ý thức nhiễm ô ở đây cũng không có. Tại sao vậy? Chỉ vì tâm mê hoặc nầy xứng với sự nhiễm ô. Rồi cùng với các hoặc khác tương ưng đồng hành, nên tên độc hành không thành. Nếu ông nói thức thứ sáu do vô minh độc hành nhiễm ô, thì thức thứ sáu hoàn toàn không thanh tịnh, vì vô minh nầy không hề tạm thời ngơi nghỉ. Tại sao vậy? Các tâm bố thí… trở thành thiện, vì thức thứ sáu hằng cùng với vô minh tương ưng? Nếu có người nói tâm cùng với thiện tương ưng sinh, thì người nầy có lỗi. Nếu thức thứ sáu hằng bị nhiễm ô thì không được dẫn đến đạo đối trị sinh. Nếu ai nói tâm nhiễm ô tương ưng có riêng thiện tâm, thì thiện tâm nầy có thể dẫn sinh đạo đối trị. Do đó tâm nhiễm ô liền diệt mất. Nếu nói như vậy thì không có lỗi.
Luận nói: Cùng với năm thức tương tự thì pháp nầy đáng lẽ không có. Tại sao vậy? Năm thức nầy cùng một lúc có thứ tự nương tựa là các căn như: Nhãn…
Giải thích: Cũng như năm thức Nhãn và năm căn nhãn… cũng đồng thời làm y chỉ. Ý thức thì phải có đồng thời y chỉ, nếu không thì lập các thức khác cũng không có y chỉ này. Như nhãn thức không có y chỉ thì không được sinh. Ý thức cũng phải như thế.
Luận nói: Lại nữa, tên ý đáng lẽ không có nghĩa.
Giải thích: Tại sao không có nghĩa? Nếu lập tâm diệt trước làm ý, thì ý nầy chỉ có danh không có nghĩa. Tại sao vậy? Vì ý lấy sự hiểu biết làm nghĩa. Trong vô thức thì làm sao có thể lập được! thức đó tùy theo sáu thức trước đã diệt, thì ý nầy là bất khả đắc, không thể biết rõ được vì vô thể.
Luận nói: Lại nữa, định vô thức và định diệt tâm đáng lẽ khác nhau. Tại sao vậy? Vì định Vô tưởng là chỗ hiển thị của tâm có nhiễm ô. Định diệt tâm thì không như vậy. Nếu không như thế thì hai định nầy phải không khác nhau.
Giải thích: Nếu người lập tâm có nhiễm ô, người nầy đối với định Vô tưởng thì nói là tâm nhiễm ô, đối với định Diệt tâm thì nói tâm không nhiễm ô. Đối với hai định của người nầy là có sai biệt, nếu không như vậy thì đối với hai định, ý thức không hiện hành, vì hai định không khác nhau.
Luận nói: Lại nữa, đối với trời Vô tưởng, một thời hạn phải thành, không lưu chuyển, không mất, vì không có nhiễm ô, hoặc trong đó không có ngã kiến và ngã mạn. Lại nữa, trong môi lúc khởi ngã chấp khắp trong các tâm thiện ác và vô ký. Nếu không như vậy thì ác tâm tương ưng với ngã chấp. Mê lầm về ngã và ngã sở, được hiện hành, trong thiện và vô ký thì mê lầm đó không được hiện hành. Nếu lập hai tâm sinh cùng lúc thì không có lỗi này. Nếu lập cùng với thức thứ sáu tương ưng hiện hành thì có lỗi này.
Giải thích: Sinh lên trời Vô tưởng nếu không có tâm nhiễm ô, trong một thời kỳ sinh thì không có ngã chấp và ngã mạn. Sự sinh nầy không bị lưu chuyển diệt mất. định nầy không phải là chỗ chán ghét của Thánh nhân, nhưng đã là chỗ chán ghét của Thánh nhân cho nên biết định nầy có thức nhiễm ô. Do chấp ngã hằng đeo đuổi,… các thiện như bố thí thường bị sự chấp ngã xen tạp và chấp ngã hằng đeo đuổi. Nếu lìa vô minh thì không có sự này. Vô minh nầy nếu lìa thì y chỉ không được có. Y chỉ của Vô minh nầy nếu lìa A-đà-na thức thì không có thể riêng biệt.
Luận nói:
Không độc hành vô minh,
Và tương tự năm thức,
Hai định không sai biệt,
Tên ý không có nghĩa.
Vô Tưởng, vô ngã chấp,
Một kỳ sinh không mất,
Trong thiện ác vô ký,
Chấp ngã không nên khởi.
Lìa tâm nhiễm, không có,
Hai và ba trái nhau,
Không có những xứ này
Chấp ngã không được sinh.
Chứng thấy nghĩa chân thật,
Chướng hoặc khiến không khởi,
Thường hiện hành mọi xứ,
Gọi độc hành vô minh.
Luận nói: Vì tâm nầy nhiễm ô nên thuộc vào tánh vô ký.
Giải thích: Tâm nầy là chỗ nương tựa của vô minh. Trong ba tánh thì tâm nầy thuộc Tánh nào? Do nhiễm ô cho nên thuộc tánh hữu phú vô ký. Tại sao vậy? Vì có nhiễm ô. Thế nào là có nhiễm ô?
Luận nói: Thường tương ưng với bốn hoặc.
Giải thích: Không hiểu rõ cảnh vô ngã cho nên khởi chấp ngã. Do khởi chấp ngã mà khởi ngã ái và ngã mạn. Bốn hoặc nầy luôn khởi ở tất cả xứ.
Luận nói: Ví như hoặc của cõi Sắc và cõi Vô sắc là hữu phú vô ký, thì phiền não của hai cõi nầy là chỗ tàng của Xa-ma-tha.
Giải thích: Giới lấy tánh sinh làm nghĩa. Lìa dâm dục và đoạn thực dục, do sắc dục sinh cho nên gọi là sắc giới. Lìa Dục của hai giới dưới, do không có Sắc dục sinh cho nên gọi là cõi vô sắc. Hoặc của hai giới nầy tuy cùng với thô thứ sáu thức tương ưng, nhưng không mất tánh vô ký, vì do chỗ ẩn tàng của tám định. Nếu hoặc nầy tại tâm tán loạn của dục giới thì phải trở thành bất thiện, vì do y chỉ thô. Nếu cùng với thức thứ hai (bất thiện) tương ưng thì tuy không ở trong định, nhưng cũng không phải bất thiện, vì y chỉ rất vi tế. Nếu tại Sắc giới và cõi vô sắc, y chỉ tuy thô, là chỗ nhiếp của tám định, vì tâm nhu nhuyễn hoạt bát cho nên cũng không phải bất thiện. Vì có thể sinh sinh tử nên cũng không phải là thiện, cho nên thuộc tánh hữu phú vô ký. Chỗ khởi hoặc của thức thứ hai dấy khởi cũng như thế, vì y chỉ tế cho nên không phải bất thiện. Vì nhân của sinh tử cho nên cũng không phải là thiện.
Luận nói: Tâm nầy hằng sinh không bỏ phế.
Giải thích: Tâm nhiễm ô nầy trong ba tánh, tám định, định vô tưởng và trời vô tưởng, hằng sinh không bỏ phế.
Luận nói: Thể thứ hai của tầm, lìa A-lại-da thức không thể được.
Giải thích: Thức thứ hai duyên thức thứ nhất mà khởi chấp ngã, nếu lìa thức thứ nhất thì thức thứ hai nầy không được khởi, cho nên biết có thức thứ nhất hiện tại thành tựu thức thứ hai, vì để hiển thị thức thứ nhất.
Luận nói: Cho nên A-lại-da thức thành tựu làm ý. Nương vào đây, lấy làm chủng tử thì các thức khác được sinh.
Giải thích: Lìa thức thứ nhất thì không có riêng thức thể để làm thức thứ hai. nhân và nhân của sinh khởi thức, Phật nói tên là tâm, tên nầy làm đề mục cho thức thứ hai. Phật nói tên là thức, thì tên nầy làm đề mục cho lục thức. Phật nói tên là ý, thì tên nầy làm đề mục cho thức thứ nhất. Tại sao vậy? Vì thức thứ hai và sinh khởi thức, nếu trước thức đã diệt và sau đó thức sắp muốn sinh, thì phải nương vào thức thứ nhất mà sinh và có thể sinh tự loại, gọi là ý căn.
Luận nói: Tại sao ý nầy lại nói là tâm? Vì chỗ tụ tập của nhiều thứ huân tập hạt giống.
Giải thích: Thức thứ nhất hoặc gọi là Chất-đa. Chấtđa có nghĩa gì? Là nghĩa chủng chủng và nghĩa tư trưởng. Chủng chủng, tự nó có mười Nghĩa: 1. Tăng thượng duyên. 2. Duyên duyên. 3. Giải tướng. 4. Cộng tác. 5. Nhiễm ô. 6. Nghiệp huân tập. 7. Nhân. 8. Quả. 9. Đạo. 10. Địa. Trong nghĩa nầy mỗi mỗi đều có nhiều loại nghĩa cho nên nói là chủng chủng.
Tư trưởng có ba nghĩa:
Do mười pháp nầy tụ tập, khiến cho tâm nối tiếp trụ lâu.
1. Tâm nầy có thể nhiếp trì chủng tử của tất cả pháp. 3. Là nơi chủng tử huân tập tư trưởng của các pháp. Chủng Tử, là nhân của công năng sai biệt. Sở tư trưởng, là biến dị thành ba giới. Do nghĩa này, cho nên Phật nói thức thứ nhất cũng gọi là Chất-đa.
Luận nói: Tại sao đối với Thanh-văn Thừa không nói tâm tướng này, và nói tên A-lại-da, A-đà-na? Là chỗ nhiếp của cảnh giới vi tế.
Giải thích: Câu hỏi mỗi mỗi đều hỏi về danh và thể, câu đáp thì đáp chung cho hai câu hỏi. Thức nầy trong chỗ hiểu biết thì rất vi tế. Vì không phải sở duyên của nhị thừa. Thức cũng là cảnh giới, nếu người cầu Phật quả, thì cần phải thông đạt thức này. Thức nầy là chỗ nương ẩn của chín nghĩa về sự hiểu biết, cho nên gọi là sở nhiếp. Lại nữa, Bồ-tát có cảnh giới rất vi tế, nên thức nầy khó hiểu cho nên thuộc cảnh giới ẩn chứa vi tế.
Luận nói: Tại sao Thanh-văn không có vị trí cao để đạt được Nhất thiết trí?
Giải thích: Tại sao đối với Thanh-văn thừa không nói cảnh giới vi tế? Vì họ không khởi chánh cần để cầu biết cảnh giới của Như Lai, tu hành chỉ vì tự lợi. Hoặc chướng của họ do khổ trí, tập trí… Quán hành thô thiển đều có thể diệt trừ được.
Luận nói: Cho nên đối với Thanh-văn lìa thuyết nầy là do thành tựu trí, khiến cho bản nguyện viên mãn, cho nên không nói cho họ.
Giải thích: Chư Phật thấy Thanh-văn ít ham muốn biết đủ, cầu trừ chướng hoặc của tự mình. Chướng nầy nếu lìa trí nầy thì do trí khác có thể được trừ diệt. Bản nguyện được thành tựu, không vì giải thoát chướng cho người khác, không phát nguyện cầu pháp thân của Như Lai, tu hành đạo nhiệm mầu vi tế, cho nên không nói cho họ.
Luận nói: Các Bồ-tát phải có quả vị thù thắng để đạt được Nhất thiết trí, cho nên Phật nói cho họ.
Giải thích: Các Bồ-tát cầu diệt hoặc chướng trí chướng của mình và người khác, cho nên tu hành chánh cần. Do đó, Phật vì Chư Bồ-tát mà nói.
Luận nói: Tại sao lìa trí nầy mà đắc Vô thượng Bồđề, là không có chuyện như vậy?
Giải thích: Nếu lìa cảnh vi tế nhiệm mầu, mà tu mười loại thứ tự thì không được thành. Nếu lìa sự tu tâm nầy mà phiền não dễ trừ, pháp thân dễ đắc thì không có nghĩa như vậy.
Luận nói: Lại nữa, thức nầy đối với Thanh-văn thừa, do tên khác mà Như Lai đã từng thị.
Giải thích: Lại có đạo lý khác có thể tin thức nầy là có. Tại sao vậy? Vì đối với Thanh-văn thì nghĩa nầy do một tên gọi khác, nơi nơi đều thị hiện rõ.
Luận nói: Như Kinh Tăng Nhất A-Hàm nói: Đối với thế gian sự hỷ lạc của A-lại-da, sự yêu mến A-lại-da, tập khởi của A-lại-da, chấp vào A-lại-da, diệt của A-lại-da, Như Lai thuyết chánh pháp.
Giải thích: Câu thứ nhất lược nói căn bản. Ba câu sau thì căn cứ hiện tại, quá khứ và vị lai. Giải thích rộng thêm: Trước A-lại-da, là căn cứ đời hiện tại. Tập A-lạida, là căn cứ đời quá khứ. Ái A-lại-da, là căn cứ theo đời vị lai.
Lại có giải thích khác: Hỷ, lạc A-lại-da, là đời hiện tại. Thế nào là đời hiện tại? Hỷ Lạc A-lại-da do chấp trước A-lại-da của đời quá khứ, do quá khứ và hiện tại niệm niệm huân tập A-lại-da, cho nên vị lai có ái A-lạida. Lại nữa, hoặc là chấp bốn câu nghĩa nầy không khác nhau. Nếu không khác nhau thì tại sao có bốn câu? Như chỗ thuyết minh của Quyết định tạng Luận thì có hai thứ ái: Hữu ái và Vô hữu ái. Hữu ái tức là ái nhiễm trong ba cõi. Vô hữu ái là cắt đứt yêu mến ba cõi. Hỷ lạc, nếu người sinh tại cõi Dục, duyên đã đắc trần sinh ra hỷ duyên, chưa đắc trần thì sinh sự chấp trước lạc. Nếu người sinh tại cõi Sắc, chưa lìa Dục của Sắc giới, thì sinh ra tham trước Sắc giới và Sắc giới trần do đã đắc Sắc giới định, trong định sinh ra nhiễm, không ưa thích chỗ chưa đắc định, trong đó chấp làm giải thoát cho nên gọi là nhiễm trước. Tập, nếu người sinh tại cõi vô sắc, chưa lìa muốn của cõi vô sắc, thì trước hết quán sát sai lầm của cõi Dục, mà muốn sinh vào cõi Sắc, sau đó quán sai lầm của cõi Sắc, xả bỏ muốn cõi Sắc, muốn sinh vào cõi vô sắc. Muốn nầy do chỗ thành của các định huân tập, cho nên gọi là Tập. Ba thứ nầy gọi là Hữu ái, nương vào thường kiến mà khởi. Ái, nếu người có nhiều hạnh ác, sợ thọ khổ báo, hoặc chấp đoạn kiến để mong không sinh trở lại, gọi đó là ái. Một thứ ái nầy tức là Vô hữu ái, nương vào đoạn kiến mà khởi. Hoặc căn cứ bốn đảo giải thích, hoặc căn cứ bốn ái để giải thích bốn câu này, tức là ẩm thực, y phục, trụ xứ, Hữu ái và Vô hữu ái. Hoặc muốn hiển thị sự biện giải của pháp biện để khiến cho đệ tử đắc nhân của pháp biện luận. Hoặc muốn sáng tỏ một nghĩa có nhiều tên, hoặc muốn khiến cho người căn thấp kém, nếu quên nghĩa nầy thì còn tên khác mà được nhớ lại. Hoặc muốn giúp cho người căn thấp kém, do lập lại tên nhiều lần mà được hiểu. Hoặc muốn cho đệ tử phương khác, nếu không hiểu một tên, thì do các tên còn lại mà được hiểu, cho nên nói bốn câu, tên thì khác, mà nghĩa thì đồng.
Luận nói: Thế Gian ưa nghe.
Giải thích: Là nương vào hai căn tín và trí.
Luận nói: Cho nên thuộc nhĩ.
Giải thích: Chỉ rõ lìa tâm tán loạn, tức là định căn.
Luận nói: Tác ý dục tri.
Giải thích: Là chỉ rõ khởi cung kính không phóng dật, tức là niệm căn.
Luận nói: Sinh khởi chánh cần.
Giải thích: Do đây mà khởi dũng mãnh, bỏ ác giữ thiện, tức là căn tinh tấn. Điều trong đây nói rõ ra tức là ba thứ tuệ. (Văn, tư, tu)
Luận nói: Mới được diệt tận A-lại-da.
Giải thích: Đây là thuyết minh đạo quả, tức là tận vô sinh trí.
Luận nói: Cho đến thọ hành Chánh pháp tương tự của Như Lai.
Giải thích: Như lời dạy mà làm, đó là thọ trì hành theo danh cú vị của Như Lai đã nói oan thì gọi chánh pháp. Đề những nghĩa của danh, cú, vị đặt ta gọi là pháp tương tự. Lại nữa, chánh pháp là chánh thuyết, pháp tương tự là chánh hạnh và chánh đắc. Lại nữa, chánh pháp lấy A-hàm làm thể, tương tự pháp lấy sở đắc làm thể.
Luận nói: Do Như Lai xuất thế là việc hiếm có. Pháp không thể nghĩ bàn hiển thị hiện trong thế gian. Như bản thức, đây là bốn thứ công đức của Như Lai xuất thế. Kinh do nghĩa riêng biệt, đối với Thanh-văn Thừa thì thức nầy đã từng chỉ rõ.
Giải thích: Vì nghĩa khác có ba thứ:
1. Ý riêng khác, là Như Lai muốn nói công đức xuất thế của tự mình, không phải muốn hiển thị A-lại-da thức. Vì thức nầy cùng với công đức tương ưng, cho nên nói thức này.
2. Tên riêng khác: Như Lai chỉ nói tên gọi mà không nói nghĩa.
3. Nghĩa riêng khác: Vì thuộc cảnh giới vi tế, đối với Nhị thừa không thích nghi nói ra, vì chỉ do nghĩa tương ưng, nên nói tên mà không giải thích nghĩa.
Luận nói: Lại nữa, trong A-hàm của Ma-ha-tăng-kỳ bộ nói do tên sai biệt của A-lại-da thức gọi là Căn bản thức, nên thức nầy hiển hiện ví như cây nhờ vào gốc rễ.
Giải thích: Vì thức nầy làm nhân của tất cả thức, là căn bản của các thức, ví như gốc rễ của cây, dựa vào đây mà có cành lá nhánh v.v… nên gọi là gốc rễ của cây. Nếu lìa gốc nầy thì cành, lá… không thành. Thức nầy làm căn bản của các thức khác cũng vậy.
Luận nói: Di-sa-tắc bộ cũng lấy tên khác gọi cho thức nầy là: Cùng tận ấm sinh tử. Tại sao vậy? Hoặc sắc và tâm có khi thấy đoạn tương tục. Trong tâm nầy, chủng tử của nó không có đoạn tuyệt.
Giải thích: Tại sao nói thức nầy là sự cùng cực của ấm sinh tử Ấm sinh tử ấm không ra khỏi sắc và tâm. Sắc có khi thì có trong các định liên tục đứt đoạn. Như cõi Vô sắc, tâm cũng có khi có trong các định liên tục đứt đoạn. Như Vô tưởng thiên, trong A-lê-da thức, chủng tử của tâm không có đoạn diệt. Tại sao vậy? Do sự huân tập chủng tử nầy, nên đối với cùng tận của ấm sinh tử hằng tồn tại bất tận. Sau đó sắc và tâm nhờ vào chủng tử nầy mà sinh trở lại. Vì trước Vô dư Niết-bàn ấm nầy chưa dứt hết, cho nên gọi là cùng tận ấm sinh tử.
Luận nói: Như vậy, sự nương tựa của ứng tri, A-dàna và A-lê-da.
Chất-đa căn bản thức cùng tận ấm sinh tử v.v…
Giải thích: Ba tên gọi trước được thiết lập riêng trong Đại thừa. Tên gọi Chất-đa được thiết lập chung của Đại thừa và Tiểu thừa. Căn bản thức do Ma-ha-tăng-kỳ bộ lập. Cùng tận ấm sinh tử do Di-sa-tắc bộ lập. Đẳng (vân vân) tức còn có Chánh Lượng Bộ lập danh là Quả báo thức thì Thượng Toạ bộ đặt tên là Hữu phần thức.
Luận nói: Do các danh nầy có trong tiểu thừa mà Alê-da đã trở thành vương lộ (con đường của vua đi).
Giải thích: Do nhiều tên nầy rộng hiển thị bản thức, cho nên dễ nhìn thấy cũng như đường cái lớn. Đường cái lớn có ba nghĩa: 1. Thẳng tắp không có lối rẽ. 2. Phẳng rộng. 3. Quang minh không chướng ngại. Bản thức cũng như vậy, thẳng tắp không có lối rẽ thí như định vô ngại, phẳng rộng thí như Đại thừa và Tiểu thừa đều hoằng dương nghĩa nầy, quang minh không chướng ngại thí như dẫn vô lượng đạo lý để chứng thức nầy, cho nên ví như là đường cái lớn.
Luận nói: Lại có các Sư khác, chấp ba thứ tâm, ý và thức chỉ là tên khác nhau mà nghĩa thì đồng. Nghĩa đó không đúng.
Giải thích: Nghĩa nầy căn cứ theo tiểu thừa mà chất vấn ngược lại tiểu thừa. Tiểu thừa nói: A-lê-da thức và A-đà-na thức, do tự chấp hẹp hòi, trong đồng nghĩa khác tên lập ra nghĩa khác. Thuyết nầy không đúng. Tại sao vậy?
Luận nói: Ý và thức đã thấy nghĩa khác nhau, nên biết nghĩa của tâm cũng phải có khác.
Giải thích: Trong tiểu thừa lập ý và thức, danh nghĩa đều khác nhau, Năng liễu biệt gọi là thức. Nếu liễu biệt đã chấm dứt, có khả năng làm phương tiện sinh thức sau thì gọi là ý. Thức do nghĩa liễu biệt. Ý do nghĩa phương tiện sinh. Như trong tiểu thừa hai tên có hai nghĩa. Bản thức có thể không có tên, cho nên biết, tên gọi tâm lẽ ra đặt cho bản thức thì nghĩa nầy không thể trái nghịch.
Luận nói: Lại có Sư khác chấp là Như Lai nói thế gian ưa thích A-lê-da của thế gian.
Giải thích: Các luận sư của tiểu thừa căn cứ theo tên A-lê-da mà khởi chấp khác nhau. A-lê-da muốn hiển thị nghĩa gì? A-lê-da là yêu say đắm vào cảnh giới.
Luận nói: Như vừa nói thì trong đây có năm thủ uẩn gọi là A-lê-da.
Giải thích: Nghĩa của cảnh yêu say đắm khác nhau. Hoặc chấp là năm thủ ấm, Thủ là tên khác của tham ái. Chính năm ấm mà tham ái bám lấy từ năm ấm gọi là thủ ấm. Thủ ấm nầy là chỗ ái nhiễm của chúng sinh, gọi là A-lê-da.
Luận nói: Lại có sư khác chấp lạc thọ và dục tương ưng gọi là A-lê-da.
Giải thích: Năm ấm nầy không phải ái chỗ ái trước (yêu say đắm), hoặc không có lạc thọ đối với lạc thọ, hoặc không có điên đảo, thì làm thế nào sinh ra yêu say đắm năm ấm? Thế nên trong lạc thọ, tâm dục điên đảo chưa diệt. Lạc thọ nầy là chỗ ái trước (yêu say đắm), vì năm ấm và lạc thọ tương ưng, nói năm thủ ấm là chỗ ái trước, cho nên lạc thọ chính là chỗ ái trước (yêu say đắm).
Luận nói: Lại có luận sư khác, chấp thân kiến cho là A-lê-da.
Giải thích: Hoặc có người nói lạc thọ là chỗ ái trước, thì nghĩa nầy không đúng. Lạc thọ nầy do có thể an lạc tự ngã, vì ái tự ngã cho nên mới ái lạc thọ này. Ví như người yêu thích sống lâu cho nên ưa chất dinh dưỡng của sự sống lâu. Như vậy yêu ngã cho nên yêu chất dinh dưỡng của ngã.
Luận nói: Các Sư có những chấp như vậy.
Giải thích: Vì nhiếp các chấp khác cho nên có người nói thọ mạng là nơi ái trước, có người nói đạo là nơi ái trước, có người nói sáu trần là nơi ái trước, có người nói kiến và trần là nơi ái trước.
Luận nói: Mê A-lê-da, do A-hàm và tu đắc cho nên chấp như vậy. Giải thích: Như vậy, các luận Sư trong tiểu thừa không hiểu rõ A-lê-da thức. Tại sao không hiểu rõ? Không hiểu rõ có hai thứ, một là do giáo và hai là do hành. Giáo chính là A-hàm của tiểu thừa, vì A-hàm không phán quyết nghĩa của thức nầy một cách như lý. Dựa vào A-hàm thì mê thức này. Hành chính là đạo thô thiển, vì không có đạo lý để có thể chứng nghĩa của thức này. Vì hạnh cũng mê thức này.
Luận nói: Do tùy theo giáo và hạnh của tiểu thừa, cho nên chỗ lập nghĩa của các luận sư đó không đúng.
Giải thích: Các luận sư nương vào tiểu thừa giáo và lìa A-lê-da thức mà lập tên riêng, hoặc căn cứ theo tiểu thừa đạo mà suy lường, thì nghĩa nầy cũng không trúng. Vì Tiểu thừa lý tự làm chỗ trái nghịch của Tất-đàn.
Luận nói: Hoặc có người không mê A-lê-da thức, nhưng căn cứ theo tên gọi của tiểu thừa mà thành lập nghĩa nầy, thì thức đó rất thù thắng.
Giải thích: Người không mê là Bồ-tát. Do A-hàm và thực hành sự quán sát căn tánh con người, rồi nương vào căn tánh đó mà lập A-hàm. Đối với bậc phẩm dưới thì nói bí mật, đối với bậc phẩm trên thì không có nói bí mật, cho nên có thuyết minh đủ các thức. Do A-hàm nầy mà Bồ-tát không mê thức này. Do hành, nếu ai tu hành có khả năng hoặc cõi Dục, là thấy tự thân bị hoặc của cõi Sắc trói buộc, cho đến cõi Vô sắc cũng như thế. Nếu tu hành ra khỏi cõi Vô sắc, thì thấy thân bị trói buộc trong A-lê-da thức. Vì diệt trừ trói buộc nầy cho nên tu Thập Địa. Do hành thậm thâm của chư Bồ-tát, cho nên không mê thức này. Nếu người có thể hiểu rõ thức nầy, lấy tên của tiểu thừa làm đề mục cho thức nầy, thì danh và nghĩa tương xứng, thành lập danh nghĩa rất là thù thắng.
Luận nói: Thế nào là tối thắng?
Giải thích: Vì hiển thị nghĩa của Tiểu thừa có lỗi, trong nghĩa của Đại thừa thì không có lỗi, cho nên Đại thừa an lập là tối thắng. Tiểu thừa có lỗi là thế nào?
Luận nói: Nếu chấp thủ ấm gọi là A-lê-da, thì trong cõi ác đi theo một đạo, hoàn toàn là nơi nhận khổ sinh trong đó.
Giải thích: Cõi ác tức là bốn cõi ác, tùy trong bốn cõi ác mà đi vào một đạo. Đạo nầy quyết định là thuần quả báo của nghiệp ác. Vì thọ lãnh các thứ tướng tạp không sót, gọi là nơi hoàn toàn nhận khổ. Trong đó, có khi sinh cảm giác an vui, thì vui nầy đối với cõi ác không phải quả của quả báo, chỉ có danh tướng tương tự quả. Chỉ lấy khổ thọ làm quả của quả báo, là nơi cõi ác của người tội thọ khổ báo, nói rằng thọ sinh trong đó.
Luận nói: Thủ ấm nầy rất đáng chán ngán.
Giải thích: Khi sinh khi trụ không thể chịu đựng, cho nên nói đáng chán ghét. Vì trong khổ nầy hằng khởi ý diệt lìa tham dục, nói: Ta khi nào mới chết, khi nào mới lìa ấm này? Cho nên gọi là ngán.
Luận nói: Trong thủ ấm hoàn toàn không đáng ưa, vì không xứng với đạo lý hỷ lạc của chúng sanh.
Giải thích: Ấm của ác đạo nầy hoàn toàn là chất dinh dưỡng của khổ não. Tại sao trong đó sinh ái mà trái với đạo lý hỷ lạc? Nếu nói thủ ấm là A-lê-da, thì nghĩa nầy không thành.
Luận nói: Tại sao vậy? Vì chúng sanh trong đó hằng mong thủ ấm đoạn tuyệt không sinh.
Giải thích: Chúng sanh trong đó do khổ khổ nầy mà mong ước vui vẻ bị diệt mất, chỉ còn lại ấm. Nguyện vui vẻ khiến cho ấm không sinh lại nữa.
Luận nói: Nếu lạc thọ đó tương ưng với dục, thì từ bậc trụ định thứ tư cho đến cõi trên đều không có thọ này.
Giải thích: Thọ nầy không ở khắp ba cõi, chỉ có thọ nầy một phần trong sinh tử.
Luận nói: Nếu người đã đắc thọ nầy, và do cầu đắc cõi trên thì liền sinh chán ghét.
Giải thích: Nếu ai đã sinh vào nơi an vui rồi, thì đắc định an vui, thấy vui nầy thô động, là chỗ phóng dật, khó thành mà dễ hoại, cho nên khởi tâm chán sợ mà cầu đắc tịch tĩnh của cõi trên. Đó là chán ghét vui nầy, mà đối với nơi an vui sinh khởi lìa tâm dục, đối với trong chỗ không hỷ không lạc thì sinh tâm hỷ lạc.
Luận nói: Cho nên trong đó, hỷ lạc của chúng sanh không xứng đạo lý.
Giải thích: Hoặc lạc không khắp ba cõi, nếu người thọ lạc cầu lìa lạc nầy, lập lạc nầy làm nơi ái nhiễm thì không xứng đạo lý.
Luận nói: Hoặc là thân kiến, người trong chánh pháp tin ưa vô ngã, nếu không phải sở ái của người đó thì trong thân kiến đó không sinh hỷ lạc.
Giải thích: Hoặc nói thân kiến là nơi ái trước thì cũng như vậy. Tại sao vậy? Vì người trong Phật pháp, hoặc căn cứ theo Văn tuệ, hoặc căn cứ theo Tư tuệ và tu Tuệ mà tin vô ngã và ưa thích vô ngã, phát nguyện tu đạo vì diệt trừ ngã kiến, cho nên ngã kiến không phải điều mà họ yêu thích. Do cầu trí vô sinh mà khiến cho ngã kiến và ngã ái trong vị lai không sinh trở lại, cho nên trong đó không sinh hỷ lạc. Thân kiến nầy là cái mà một phần chúng sanh say đắm, một phần chúng sanh không say đắm. Không thể nói thân kiến là nơi yêu say đắm.
Luận nói: A-lê-da thức nầy, tâm chúng sanh chấp làm tự nội ngã.
Giải thích: Chúng sanh trong sáu đường khởi tâm chấp trước, cho rằng pháp nầy là ngã, là tự nội ngã. Nội ngã nầy thanh tịnh tự tại, có thể chứng làm tướng, do ngoại cụ (vật dụng bên ngoài). Hoặc vui hoặc khổ. Người đó đã khởi ngã kiến như vậy.
Luận nói: Nếu hoàn toàn sinh trong đường khổ thì nguyện ấm khổ của người đó vĩnh viễn diệt không khởi. Giải thích: Người nầy nếu có nhân duyên nghiệp ác, hoàn toàn đọa trong ác đạo thọ khổ, người đó cho rằng ngã là thanh tịnh, không có biến đổi, do ngoại cụ chỉ có chứng được sự biến đổi và nhiễm ô mà khởi tâm không yêu thích, mong ngã và ngoại cụ vĩnh viễn lìa nhau. Tại sao vậy?
Luận nói: A-lê-da thức bị ngã ái trói buộc, chưa từng có nguyện lạc diệt trừ tự ngã.
Giải thích: Do không hiểu rõ thức nầy mà duyên theo thức nầy khởi ngã chấp, do ngã chấp khởi ngã ái, do ngã ái mà không cầu diệt ngã, vì muốn ngã nầy an lạc và cầu lìa ngoại cụ.
Luận nói: Từ cõi thứ tư trở lên, chúng sanh thọ sinh, tuy không có lạc nhưng có thọ dục lạc, trong A-lê-da thức thì tự ngã ái đuổi theo không rời.
Giải thích: Trước đã thuyết minh chúng sanh trong đường ác, chỉ có cầu lìa khổ mà không có muốn xả bỏ ngã tâm, trong đây thì thuyết minh chúng sanh đang ở tại xả thọ xứ, không có lạc thọ đáng ưa thích, chán ghét lạc thọ như người trong đường khổ chán vui thọ một khổ, không có nhân duyên trong A-lê-da thức, vì muốn xả ngã ái. A-lê-da thức là nơi ái nhiễm.
Luận nói: Lại nữa, người trong chánh pháp, tuy nguyện lạc vô ngã trái nghịch với thân kiến, nhưng trong A-lê-da thức cũng tự ngã ái.
Giải thích: Phục Thứ (lại nữa) trước là căn cứ theo người ngoài Phật pháp, Phục Thứ (lại nữa) nầy thì căn cứ theo người trong Phật pháp, tự có ba phẩm: 1. Tại Chánh Tư. 2. Tại Chánh Tu. 3. Tại Hữu Học. Người trong ba phẩm nầy, có hai người chế phục ngã kiến, có một người diệt ngã kiến. Tại sao vậy? Vì hai người trước do so sánh mà biết vô ngã, một người sau thì do chứng biết vô ngã. Nói trái nghịch thân kiến là trong A-lê-da thức, đã lâu niệm niệm huân tập ngã ái, truy trái nghịch thân kiến, nhưng ngã ái trong Bản thức cũng còn hằng đeo đuổi, cho nên thân kiến không phải nơi ái nhiễm, không nên gọi là A-lê-da.
Luận nói: Lấy A-lê-da an lập nghĩa này thì trở nên tối thắng, đó là thành lập tên A-lê-da.
Giải thích: Do nơi ái nhiễm nầy, so sánh chỗ chấp danh và nghĩa của chủng tử nên không xứng nhau. Nếu lấy tên nầy so sánh với nghĩa thứ nhất thì danh nghĩa tương xứng, cho nên dẫn chỗ lập danh đó thành lập bản thức thì trở thành tối thắng. Trong phẩm nầy tổng nhiếp các danh để dẫn đạo lý và hiển thị các thức, cho nên gọi là Phẩm Chúng danh.
------------------------------------
Giải thích: Phẩm nầy có bảy chương: 1. Tướng. 2. Huân tập. 3. Bất nhất dị. 4. Lẫn nhau làm nhân quả. 5. Nhân quả biệt và bất biệt. 6. Duyên sinh. 7. Bốn duyên.
Luận nói: Lại nữa, thành lập thức nầy, làm sao có thể thấy được?
Giải thích: Đã nương vào Chúng danh để lập A-lêda thức. Do Chúng danh nầy mà thể tướng của A-lê-da thức không thể hiểu rõ. Nếu không hiểu rõ thể tướng thì khó hiểu thức này. Hiện tại là muốn khiến cho thông đạt thức nầy, cho nên tiếp theo là phải hiển thị thể tướng của nó.
Luận nói: Tướng nầy lược nói có ba thứ: 1. Lập tự tướng. 2. Lập nhân tướng. 3. Lập quả tướng. Lập tự tướng, là nương vào tất cả tập khí của phẩm pháp bất tịnh, làm cho tướng kia được sinh, nhiếp trì chủng tử làm khí (vật), đó gọi là tướng.
Giải thích: Trong Luận Quyết định tạng, thuyết minh bản thức có tám tướng, nói rộng hơn khác với luận nầy, cho nên luận nầy nói là sơ lược ba thứ. Nghĩa tự tướng là thế nào? Nương vào tất cả pháp Phẩm bất tịnh, huân tập pháp nầy là tối thắng, vì làm cho pháp nầy được sinh công năng. Tướng của công năng nầy như thế nào? Là nhiếp trì chủng tử. Thế nào là nhiếp trì? Huân tập thành một cho nên nói nhiếp trì.
Luận nói: Lập nhân tướng, là thức của tất cả chủng tử nầy, làm cho sinh Pháp bất tịnh, hằng khởi làm nhân, đó gọi là nhân tướng.
Giải thích: Trong tám thức, chỗ huân tập của Pháp bất tịnh tùy theo mỗi một thức, đã đắc công năng thù thắng làm cho sinh Pháp nầy, sau chuyển thành nhân, đó gọi là nhân tướng.
Luận nói: Lập quả tướng, là thức nầy nương vào nhiều loại tập khí vô thủy của pháp bất tịnh mới được sinh, đó gọi là quả tướng.
Giải thích: Y chỉ trên sự huân tập của ba thứ pháp bất tịnh nầy, sau đó thức nầy được sinh, khiến cho nhiếp tàng tập khí vô thủy, đó gọi là quả tướng.
-------------------------------------
Luận nói: Pháp nào gọi là tập khí? Tên của tập khí nầy muốn hiển thị nghĩa gì?
Giải thích: Hai câu hỏi nầy có gì khác nhau? Câu hỏi trước là chỗ đề mục nghĩa của danh, câu hỏi sau là chỗ đắc danh của nghĩa.
Luận nói: Pháp nầy cùng với tập khí kia tương ưng, cùng sinh cùng diệt, sau đó biến thành sinh nhân của tập khí kia. Đó là nghĩa được làm sáng tỏ. Ví như cây gai do hoa huân tập, gai và hoa đồng thời sinh diệt, hoa kia luôn sinh làm nhân phát khởi cho mùi hương của cây gai.
Giải thích: Pháp nầy là hay thọ nhận huân tập. Tập khí kia là pháp có khả năng huân tập, cùng là cùng một thời một xứ đồng sinh đồng diệt. Nếu pháp có sinh diệt thì có năng huân và sở huân. Nếu khác với đây thì không đúng. Năng huân thì liên tục ngắn lại. Sở huân thì liên tục dài ra, cho nên năng huân thì đã lui dần đi, sở huân thì hằng tồn tại. Sau đó biến thành sinh nhân của tập khí kia. Biến tức là hợp với tập khí kia và giống như tập khí kia sinh công năng. Pháp nầy cũng lại như vậy, Pháp nầy tức là nghĩa đã được làm sáng tỏ. Nghĩa tức là chỗ làm đề mục của danh. Danh tức là nơi thành tựu của nghĩa.
Luận nói: Nếu người có hành về dục, thì có tập khí của dục.
Giải thích: Niệm khởi phiền não gọi là hành, hành nầy có tập khí.
Tập khí có tướng gì?
Luận nói: Là tâm và dục đồng sinh đồng diệt. Hành kia niệm niệm sinh, thì Sinh nhân của tâm nầy đổi khác.
Giải thích: Nghĩa đồng sinh diệt cũng như trước. Hành kia là hành của các dục, Niệm niệm, hoặc là căn cứ theo một đời, hoặc căn cứ theo một thời, trước kia chưa có huân tập, nay biến đổi làm cho sinh nhân kia có thể biến đổi tâm, gọi là huân tập. Đây là một loại trong phẩm bất tịnh, gọi là phiền não trược.
Luận nói: Như người đa văn thì có tập khí đa văn.
Giải thích: Người đa văn hoặc ở tại tư vị, hoặc tại tu vị mà có tập khí đa văn. đa văn nầy có tướng gì?
Luận nói: Sở văn của tư niệm cùng chung sinh diệt với tâm.
Giải thích: Như điều nghe chất vị của danh cú ở trước, dẫn nhiều đạo lý, hằng tư duy suy lường, chánh tư và ý thức trong tư duy suy lường đó cùng sinh cùng diệt. Luận nói: Niệm niệm kia sinh làm sinh nhân của tâm minh liễu.
Giải thích: Sở văn của chánh tư đó, trong ý thức niệm niệm sinh diệt. Ý thức trong sở Văn đã rõ ràng thì huân tập vào A-lê-da thức. Ý thức hoặc diệt, sau đó lại sắp khởi, thứ tự chuyển biến là thù thắng. Do huân tập nầy thành tựu, do đó sự thông minh không mất.
Luận nói: Vì do huân tập nầy được kiên trụ.
Giải thích: Đối với Tư tuệ thì được kiên cố, đối với tu Tuệ thì được trụ.
Luận nói: Cho nên nói người nầy là có khả năng duy trì pháp.
Giải thích: Do huân tập nầy có thể không quên mất, nếu người duyên riêng các sự khác, thì cũng gọi là người có khả năng duy trì pháp.
Luận nói: Đối với A-lê-da thức, phải biết đạo lý như vậy.
Giải thích: Nếu huân tập thiện ác, thì đạo lý sinh khởi phải nên biết như vậy.
--------------------------------------
Luận nói: Chủng tử nhiễm ô nầy, cùng với A-lê-da thức giống và khác như thế nào?
Giải thích: Chủng tử của phẩm Pháp bất tịnh đó, trong A-lê-da thức, có thể khác hay là không khác vì có thể riêng. Nếu như thế thì có lỗi gì? Nếu khác thì các chủng tử đáng lẽ có từng phần sa biệt, thì A-lê-da thức cũng đáng lẽ cũng phải trở thành vô lượng phần như vậy. Nếu chủng tử tự khác với bản thức thì nghĩa không khác từng sát-na diệt sẽ không thành. Nếu thức nầy cùng với chủng tử khác nhau, thì sự huân tập của hai nghiệp thiện ác trong thức sẽ tùy theo nghiệp hoặc thiện hoặc ác mà sinh khởi chủng tử. Ông thừa nhận chủng tử là vô ký, thì tại sao lại được khác? Thức nầy nếu không khác với chủng tử thì chủng tử kia là nhiều và thức nầy là một. Sao không khác? Câu vấn nạn nầy hiển thị ra hai thứ lỗi, là lìa hai lỗi của chủng tử kia mà vấn nạn. Phải nên hiểu rõ nghĩa của không phải một và không phải khác.
Luận nói: Không do vật thể riêng khác cho nên khác, hoà hợp như vậy tuy khó phân biệt nhưng không phải không khác.
Giải thích: A-lê-da thức nầy cùng với chủng tử cùng sinh như vậy. Tuy có năng y và sở y, không do thể riêng cho nên khác, như nhãn căn và nhãn thức, nhãn căn lấy sắc làm thể, nhãn thức lấy vô sắc làm thể. Thức nầy và chủng tử không có khác thể nầy, cho nên không thể nói là khác. Đã không thể nói khác, tại sao không nói chúng là một? Như vậy hoà hợp tuy khó phân biệt, nhưng năng y là giả, không có thể, sở y là thật, có thể. Giả và thật hoà hợp thì khác tướng khó phân biệt được, vì không có hai thể, ví như hai đế Khổ và Tập. Tập đế thật có quả báo, năm ấm làm thể, Tập đế là giả danh, nương vào khổ đế mà được hiển, không có thể riêng, mượn nói là nhân.
Năm ấm tuy khó phân biệt nhưng không phải không khác. Thức và chủng tử cũng như thế. Tại sao vậy?
Luận nói: A-lê-da thức như vậy mà sinh.
Giải thích: Nếu không khác như trước kia khi huân tập chưa sinh, thì thức nầy chỉ là quả báo, không thể làm tác nhân cho pháp khác. Nếu khi huân tập sinh, thì thức nầy cũng phải như vậy mà sinh, cùng với bản thức không khác. Đã không có nghĩa nầy cho nên không phải không khác. Không có nghĩa nầy là thế nào?
Luận nói: Khi huân Tập sinh thì có công năng thù thắng khác biệt, gọi là tất cả chủng tử.
Giải thích: thức nầy trước kia chưa có công năng huân tập sinh, sau đó mới có công năng cho nên khác với lúc trước. Thức trước chỉ là quả báo, không được gọi là tất cả chủng tử, thức sau có thể làm sinh nhân của Pháp khác, được gọi là tất cả chủng tử. Thức trước chỉ sinh tự (chính nó) tương tục, thức sau có thể sinh tự và tha tương tục cho nên thù thắng hơn thức trước, ví như hạt lúa, có công năng tự sinh mầm của nó. Nói hạt lúa là hạt giống, hạt lúa nếu để chỗ trống lâu ngày, hoặc bị lửa làm hại thì nó mất công năng, tướng của hạt lúa thì không khác, nhưng vì mất đi công năng cho nên không gọi là hạt giống. Thức nầy cũng như thế, nếu có công năng sinh tất cả pháp và do cùng với công năng tương ưng cho nên gọi là tất cả chủng tử. Nếu công năng nầy rơi mất không còn, thì chỉ gọi là quả báo thức, không phải là tất cả chủng tử. Cho nên không phải không khác.
-----------------------------------
Luận nói: Tại sao A-lê-da thức cùng với nhiễm ô, đồng thời làm nhân lẫn nhau?
Giải thích: A-lê-da thức, hoặc làm nhân của tất cả Pháp, hoặc làm quả của tất cả pháp tất cả Pháp đối với A-lê-da thức cũng như thế. Như nghĩa nầy làm sao có thể biết được? Để hiển thị nghĩa nầy cho nên phải nói thí dụ.
Luận nói: Ví như ánh sáng đèn cùng với tim đèn sinh lửa và đốt cháy tim đèn, là đồng thời làm nhân lẫn nhau. Giải thích: Do thể của tim đèn làm y chỉ mà có thể sinh ra lửa, ánh sáng tim đèn là nhân sinh của ánh sáng. Ánh sáng và lửa trong từng sát-na sinh có khả năng đốt cháy tim đèn, lửa ánh sáng lại làm nhân cho tim đèn đốt cháy. A-lê-da cùng với tất cả pháp kia là có chung nhân sinh. Phải nên hiểu nghĩa này. Tại sao vậy? Vì nhân nầy hiện tại đang trụ chưa hoại, thì sự sinh quả cũng có thể thấy.
Luận nói: Lại nữa, như bó lau cùng lúc nương tựa, giữ lẫn nhau, cho nên dựng đứng được.
Giải thích: Như hai bó lau, trong mỗi mỗi sát-na dựa vào nhau và giữ lẫn nhau.
Luận nói: Phải biết bản thức và năng huân tập làm nhân lẫn nhau. Nghĩa đó cũng vậy. Nếu như thức làm nhân cho pháp nhiễm ô, thì pháp nhiễm ô làm nhân cho thức.
Giải thích: A-lê-da thức nầy làm nhân sinh chủng tử.
Nếu không có thức nầy thì ba nghiệp sinh diệt không có nơi nương tựa. Như thể mất thì công năng cũng vậy. Cho nên, do thức nầy, thể của các pháp sinh thì công năng cũng được lập. Thế nên bản thức làm sinh nhân cho tất cả pháp kia, tất cả pháp kia cũng như thế. Nếu các pháp không có thức nầy khởi, thì không có đạo lý hiện hữu trong hiện tại và chuyển pháp sau khác với pháp trước, sự biến dị nầy là quả của tất cả pháp kia.
Luận nói: Tại sao vậy?
Giải thích: Tại sao không nói riêng sự tương đối của các pháp khác chúng làm nhân quả mà chỉ nói rõ thức và pháp nhiễm ô làm nhân quả lẫn nhau? Đó là ngoại đạo hoặc là nhị thừa mới hỏi như vậy.
Luận nói: Lìa hai pháp nầy thì không thể được các nhân khác.
Giải thích: Trong thế gian, lìa hai pháp phân biệt và y tha, thì không còn có pháp nào khác. A-lê-da thức là y tha tánh, các pháp khác là phân biệt tánh. Hai pháp nầy gồm thâu tất cả pháp, đều bao gồm hết tất cả ba cõi chỉ có thức, cho nên lìa hai pháp nầy thì các nhân khác không thể được. Nếu hai pháp có chung nhân là công lực, thì quả tùy theo phẩm loại của nhân và phẩm loại đó cũng phải như vậy.
-----------------------------------
Luận nói: Thế nào là huân tập chủng tử không khác và không nhiều, mà có thể khiến cho chủng tử có khác và nhiều làm nhân sinh các pháp?
Giải thích: Câu hỏi nầy muốn vấn nạn nhân câu hữu thì không thành câu vấn nạn, vì sự chấp quả và nhân không đồng thời. Nếu vấn nạn nhân của quả báo thì có thể thành vấn nạn. Nhân của quả báo thì chắc chắn là hữu ký. Quả của quả báo thì chắc chắn không đồng thời với nhân.
Luận nói: Ví như nhiều sợi tơ kết thành áo, thì chiếc áo không có nhiều màu sắc. Nếu đem nhuộm, thì các thứ tướng mạo trên chiếc áo mới được hiển thị hiện.
Giải thích: Dẫn thí dụ nầy là muốn thuyết minh nhân quả của quả báo đều được thành lập. Như người muốn trên chiếc áo hiển thị hiện các hình tướng, thì trước hết dùng tơ may áo. Áo nầy đang may thì các tướng mạo đều giống nhau. Sau khi đem vào dụng cụ nhuộm thì có nhiều tướng mạo hiển hiện.
Luận nói: Như vậy A-lê-da thức, là sở huân của tất cả pháp.
Giải thích: A-lê-da thức là sở huân của ba nghiệp thiện, ác và bất động, như sự may áo.
Luận nói: Khi huân tập thì chỉ có một tánh, không có nhiều thứ.
Giải thích: Khi huân tập thì tự nó có ba thứ: 1. Thời điểm phương tiện làm. 2. Thời điểm chính thức làm. 3. Thời điểm làm sau đó. Lại có ba thứ nữa: 1. Thời điểm Tự tác. 2. Thời điểm giáo tha tác. 3. Thời điểm tùy hỷ tác thời. chủng tử cùng với A-lê-da thức đồng là tánh vô ký. Nếu lìa thức nầy thì mỗi mỗi đều là khác thể.
Luận nói: Nếu sinh quả và vật nhuộm hiện tiền thì có các chủng loại tướng mạo không thể tính đếm, hiển hiện trong A-lê-da thức.
Giải thích: Nếu mọi điều kiện đã đủ, như chiếc áo đang đưa vào vật nhuộm. Như vậy chủng tử và bản thức đối với hiện tại sinh thì, tùy theo một thời trong ba thời sau được hiện tiền thì có chủng loại tướng mạo quả báo không thể tính đếm hiển hiện trong thức này. Cho nên khi huân tập tuy là không khác, nhưng khi quả báo đã thuần thục thì có vô lượng sai biệt, ví như nhuộm áo. Nếu ý ông cho rằng quả báo quyết định lấy hữu ký làm nhân thì tại sao lấy vô ký làm nhân? Nghĩa nầy không khác nhau, tại sao vậy? Vì người kia đối với quả mà nói nhân. Đại thừa thì đối với quả mà nói quả.
Luận nói: Duyên sinh nầy đối với Đại thừa, rất là sâu xa vi tế.
Giải thích: Muốn chỉ rõ Đại thừa khác với Tiểu thừa thì Đại thừa có đú ba thứ duyên sinh, tiểu thừa thì chỉ có hai thứ. Duyên sinh thứ nhất của Đại thừa thì trong tiểu thừa không có. Tại sao Đại thừa thì có mà tiểu thừa thì không? Vì duyên sinh thứ nhất nầy rất sâu xa vi tế, cho nên đối với các thừa khác không nói. Trí của phàm phu không thông đạt cho nên nói vi tế, trí của A-la-hán và Độc giác không thể suy lường đến tận cùng cho nên nói thậm thâm. Duyên sinh nầy có mấy loại? Nếu nói rộng thì có ba thứ, nếu nói sơ lược thì có hai thứ. Những gì là hai thứ?
Luận nói: Hoặc lược nói có hai thứ duyên sinh:
1. Phân biệt tự tánh.
2. Phân biệt ái phi ái.
Giải thích: Do hai tên nầy mà hai thứ duyên sinh khác nhau đã được chỉ rõ.
Luận nói: Y chỉ A-lê-da thức mà các pháp sinh khởi, đó gọi là phân biệt duyên sinh tự tánh.
Giải thích: Do chủng tử của các pháp, nếu nương vào A-lê-da thức, mà các pháp khi sắp sinh nếu đủ ngoại duyên, nương vào A-lê-da thức thì lại được sinh khởi. Các pháp sinh khởi thì lấy A-lê-da thức là nhân chung, gọi là phân biệt tự tánh. Tại sao vậy? Thể tánh của mọi pháp sinh khởi phân biệt sai biệt thì đồng lấy A-lê-da thức làm nhân. Nếu phân biệt tự tánh duyên sinh của các pháp thì tánh nầy chỉ có A-lê-da thức.
Luận nói: Do phân biệt tự tánh nhân duyên của các pháp.
Giải thích: Phẩm loại của các pháp khắp trong ba cõi, nếu phân biệt nhân sinh khởi thì chỉ có một thức. Nếu phân biệt tánh của các pháp, thì tức là thức này. Nếu phân riêng sai biệt của các pháp thì đều từ thức nầy sinh. Cho nên các pháp do thức nầy đều đồng một tánh. Duyên sinh thứ hai là phân biệt ái phi ái.
Luận nói: Lại có mười hai phần duyên sinh, gọi là phân biệt ái và phi ái (yêu và không đáng yêu).
Giải thích: Căn cứ theo ba đời mà lập ra mười hai phần, để hiển thị nhân, hiển thị quả, và hiển thị nhân quả.
Tách rời bản tám phần căn bản làm mười hai phần. Tám phần Căn bản không ra ngoài ba pháp, là phiền não, nghiệp và quả báo:
1. Phiền não, ví như từ chủng tử sinh mầm, từ phiền não sinh phiền não, từ phiền não sinh nghiệp quả, từ phiền não sinh quả báo cũng vậy.
Lại nữa, ví như rồng trong ao nước thường không cạn, phiền não hoặc đang sinh liên tục không cùng. Lại nữa, ví như rễ cây chưa nhổ sạch, thời tiết đến thì liền sinh, chưa trừ gốc phiền não thì quả báo trong sáu đường hằng khởi.
2. Nghiệp, ví như hạt gạo có trấu thì có thể sinh mầm, nghiệp có lưu chuyển thì có thể cảm báo. Lại nữa, như Ô-sa hy, nghĩa là khi cây chuối trổ quả, cây tre ra quả, quả khi chín thì nó chết, nghiệp đã thuần thục thì không sinh lại nữa. Lại nữa, như cây và hoa là nhân gần sinh quả, nghiệp cũng như vậy, là nhân gần sinh quả.
3. Quả báo, ví như thức ăn thức uống đã chín, thức ăn uống đã chín thành thục chỉ thích ứng thọ dụng, không còn chín thêm nữa. Nếu quả báo đã thành thục thì không kết thêm hậu báo nữa. Nếu kết lại quả báo nữa thì không được giải thoát. Mười hai duyên sinh không ra ngoài ba thứ này. Mười hai phần nầy, có thể phân biệt có hai thứ mà sinh thân vô cùng và sai biệt, vì do duyên kia sinh. Tại sao vậy? Vì vô minh nầy có ba phẩm nghiệp duyên sinh, là phước, phi phước và bất động. Do hành nầy có ba phẩm, cho nên các thức hoặc là sinh tùy theo phước hạnh, hoặc là sinh tùy theo phi phước hành, hoặc sinh tùy theo bất động hành. Trong ba phẩm nầy, phước hành và bất động hành là đáng ưa, phi phước hành thì không đáng ưa. Cho nên nói phân biệt ái và phi ái.
Luận nói: Từ đường thiện, đường ác, chia ra ái phi ái sinh ra các thứ nhân khác.
Giải thích: Đường lành là ái, đường ác là phi ái. Trong đường lành và dữ nầy có vô lượng thứ phân biệt sai khác. Sai biệt nầy không ngoài mười hai thứ duyên sinh, tức là lấy mười hai duyên sinh làm nhân của sai biệt mà nói là mười hai duyên sinh phân biệt ái và Phi ái.
Luận nói: Có người đối với A-lê-da thức, mê duyên sinh thứ nhất.
Giải thích: Trong mê có ba hoặc: 1. Vô tri. 2. Nghi tri. 3. Điên đảo tri. Nếu khởi ba thứ hoặc nầy thì hai thứ kiến, hoặc là chấp bất bình đẳng nhân, hoặc là chấp vô nhân. Chấp bất bình đẳng nhân là thế nào?
Luận nói: Hoặc chấp tự tánh là nhân sinh tử.
Giải thích: Tăng-khư dẫn năm nghĩa để chứng minh tự tánh là thật có:
1. Do biệt thì có tổng, để biết có tự tánh. Trong thế gian nếu là biệt vật thì quyết định có tổng vật. Ví như một cân vàng dùng làm vòng xuyến, các vòng xuyến là vật riêng biệt có số lượng, thì biết vàng là vật chung cũng có số lượng. Do thấy sự biến dị sai biệt có số lượng, nên biết tự tánh chung cũng có số lượng.
2. Do ngọn tương tự gốc, để biết có tự tánh. Ví như một cân bạch đàn phân làm nhiều mảnh, hương thơm trong mỗi mỗi mảnh tương tự gốc. Do trong biến khác sai biệt đều có ba đức, đó là ưu (lo), hỷ (mừng) và ám (tối tăm), nên biết trong tự tánh chung cũng có ba đức.
3. Do Sự có năng, để biết có tự tánh. Ví như thợ rèn trong lò rèn thì có khả năng, cho nên có thể làm ra các khí vật, do tự tánh trong biến dị có thể, cho nên có thể tạo ra vạn vật. Khả năng nầy nếu không nương vào “năng” thì không thành.
4. Do nhân quả sai biệt để biết có tự tánh. Ví như lấy đất làm nhân, lấy bình làm quả. Như vậy lấy tự tánh làm nhân, lấy biến dị làm quả.
5. Do ba cõi không phân biệt, biết có tự tánh. Nếu thế gian hoại thì mười một căn hoại biến thành năm đại, năm đại hoại thì biến thành năm duy lượng, năm duy lượng hoại thì biến thành ngã mạn, ngã mạn hoại thì biến thành trí. Trí hoại thì biến thành tự tánh. Ba cõi đối với tự tánh không có phân biệt trở lại nữa. Nếu khi thế gian khởi, thì từ tự tánh khởi trí, từ trí khởi ngã mạn, cho đến từ năm đại khởi mười một căn. Nếu khi không có tự tánh hoại, thì đáng lẽ là hết sạch, không có nghĩa khởi lại nữa, nếu khởi lại nữa thì không có gốc, không có nghĩa thứ tự sinh.
Luận nói: Hoặc chấp nghiệp đời trước (đời trước tạo tác).
Giải thích: Lộ-kha-da-kha nói: Tất cả nhân của thế gian chỉ có nghiệp đời trước, vì công lực hiện tại không thể cảm quả, cũng không phải nhân. Như hai người trong thế gian cùng thờ một chủ, đều có công lực, một người thì dùng lễ gặp chủ, một người thì không như vậy, cho nên biết chỉ do nghiệp đời trước. Chưa phân tích công lực hiện tại.
Luận nói: Hoặc chấp tự tại biến Hóa.
Giải thích: Như các giả lập trước đều không thành nhân, chỉ có một nhân gọi là tự tại, khiến cho chúng ta sinh thiện ác luân chuyển sinh tử, sau đó khiến cho khởi chán lìa cầu được giải thoát. Tự tại nhân luận sinh nơi trí tuệ, giải thoát các trói buộc đạt được thể tự tại.
Luận nói: Hoặc chấp tám ngã tự tại.
Giải thích: Như các Sư Bệ-thế Na-da-tu-ma chấp ngã là tướng gì, đức gì? Trí tánh làm tướng, tám thứ tự tại làm đức, như lửa lấy nhiệt làm tướng. ngã cũng như vậy, nếu độc lập tồn tại và tạp trụ thì trí tánh không có thay đổi, lấy trí tánh làm tướng. Tám tự tại:
1. Đối với tế và cực tế.
2. Đối với đại và cực đại.
3. Đến khắp.
4. Tùy ý.
5. Không có hệ thuộc.
6. Biến Hóa.
7. Thường không biến dị.
8. Thanh tịnh vô ưu.
Luận nói: Hoặc chấp không có nhân.
Giải thích: Do không hiểu rõ một phần nhân quả của thế gian, mà lấy ví dụ các quả khác đều cho là vô nhân.
Luận nói: Nếu mê duyên sinh thứ hai, thì chấp ngã là tác giả và thọ giả.
Giải thích: Cũng do ba hoặc cho nên không hiểu rõ duyên sinh thứ hai. Hoặc tăng giảm nhân quả và sự, gọi đó là không hiểu duyên sinh thứ hai. Tăng nhân, là trừ các nhân của vô minh ra, lập bất bình đẳng nhân làm nhân. Giảm nhân, là không có nhân của hành. Tăng quả, là hành vốn tự có thể, sau đó duyên vô minh mà sinh. Giảm quả, là vô hành làm quả của vô minh. Tăng sự, là vô minh sinh hành, lìa thì có nhiều duyên hoà hợp, có biệt sự của vô minh và biệt sự của năng tác hành. Giảm sự, là chấp vô minh không có công năng sinh hành, vì vô minh vô động và vô tác. Nếu lìa ba sự tăng giảm nầy, thì gọi đó là phân biệt duyên sinh thứ hai. Nếu không được phân biệt như vậy, là mê duyên sinh và khởi tăng ích chấp, tức là chấp ngã, chấp tác giả và chấp thọ giả. Trước là căn cứ theo bản thức mà khởi ngã chấp, sau là căn cứ theo nhân quả mà khởi tác giả chấp và thọ giả chấp. Nếu ngã làm nhân thì gọi là tác giả, nếu ngã thọ báo thì gọi là thọ giả.
Luận nói: Ví như nhiều người sinh ra đã mù, chưa từng thấy voi.
Giải thích: Nhiều người” là thí dụ cho Nhất-xiển-đề và ngoại đạo, “sinh ra đã mù” là thí dụ cho mê nhân quả thể tánh của A-lê-da thức và ba thứ vô minh, “chưa từng thấy” là thí dụ không thể hiểu rõ, “voi” là thí dụ cho Alê-da thức. Sinh ra đã mù là trong một thời kỳ thọ báo chưa từng thấy sắc, Nhất-xiển-đề và ngoại từ vô thủy sinh tử đến nay chưa từng hiểu rõ ba tướng của A-lê-da thức.
Luận nói: Có người dạy họ, khiến họ sờ voi để chứng biết.
Giải thích: Có người” là ví dụ tà sư. “Dạy họ” là ví dụ thuyết tà pháp. “Khiến họ sờ voi để chứng biết” là ví dụ sai bảo họ sinh tư duy bất chánh và thiên kiến.
Luận nói: Có những người mù, hoặc sờ lên vòi của nó, hoặc sờ ngà nó, hoặc sờ tai nó, hoặc sờ chân nó, hoặc sờ đuôi nó, hoặc sờ lưng nó. Có người hỏi họ, voi là tướng gì? Những người mù đáp rằng, hoặc voi như cái cán cày, hoặc nói như cái chày, hoặc nói như cái ky, hoặc nói như cái cối, hoặc nói như cái chổi, hoặc nói như hòn đá núi. Nếu người không hiểu rõ hai thứ duyên sinh thì vô minh sinh ra mù, hoặc nói tự tánh làm nhân, hoặc nói nghiệp đời trước, hoặc nói tự tại biến Hóa, hoặc nói tám tự tại, hoặc nói vô nhân, hoặc nói tác giả và thọ giả.
Giải thích: Lục xúc là thí dụ cho sáu thứ thiên chấp: 1. Tự tánh. 2. Túc tác. 3. Tự tại. 4. Ngã. 5. Vô nhân. 6. Tác giả và thọ giả. Đẳng (vân vân) là đồng với sáu mươi hai thứ kiến.
Luận nói: Do không hiểu rõ thể tướng và nhân quả tướng của A-lê-da thức, thì giống như những người mù bẩm sinh kia, họ nói khác nhau.
Giải thích: Phẩm thứ nhất lập tự thể để hiển thị tự tướng, lập nhân để hiển thị nhân tướng, lập quả để hiển thị quả tướng. Hai loại người nầy do vô minh, không hiểu rõ ba tướng của bản thức, cho nên không thể thông đạt phân biệt tự tánh duyên sinh, mà khởi lên năm thứ chấp về tự tánh; không thể thông đạt duyên sinh của ái và phi ái mà khởi chấp thứ sáu là tác giả và thọ giả.
Luận nói: Hoặc lược nói thể tướng của A-lê-da thức, là quả báo thức, là Nhất thiết chủng tử.
Giải thích: Nhân tướng của A-lê-da thức, là có tất cả pháp huân tập trong A-lê-da thức cho nên gọi là nhân. Quả tướng, thức nầy là sở huân của các pháp khác cho nên thành tựu quả của các pháp. Thể tướng, là quả báo thức. Nhất thiết chủng tử là thể tướng của nó.
Luận nói: Do thức nầy nhiếp hết tất cả thân trong ba cõi, tất cả tứ sinh trong sáu đường.
Giải thích: Thân ba cõi, là đồng loại và không đồng loại sai biệt trong và bốn loài sáu đường, thức nầy nếu thành thục thì có thể thành thể của sáu đường. Tại sao vậy? Vì sở huân của ba nghiệp là chủng tử của các cõi. Do nghĩa nầy, tất cả chúng sanh và tất cả đạo trong ba cõi đều gom hết vào thức này.
Luận nói: Vì hiển thị nghĩa nầy cho nên nói kệ:
Ngoại nội không hiểu rõ,
Hai tánh chỉ giả danh,
Và tất cả chân thật.
Chủng tử có sáu thứ,
Niệm niệm diệt, câu hữu,
Cùng theo đến trị tế,
Quyết định, quán nhân duyên,
Năng dẫn hiển thị tự quả.
Kiên vô ký khả huân,
Cùng năng huân tương ưng,
Hoặc khác không thể huân,
Nói là huân thể tướng,
Sáu thức không tương ưng,
Ba sai biệt trái nhau,
Hai niệm không đồng có,
Đời khác lệ cũng vậy,
Chủng tử ngoại nội nầy, nhân năng sinh, năng dẫn, Khô chết cũng tương tục, Sau đó mới diệt hết.
Giải thích: Đã nói A-lê-da thức làm chủng tử (hạt giống) của tất cả pháp, bây giờ lại muốn hiển thị nghĩa của chủng tử cho nên nói kệ này.
“Ngoại Nội không hiểu rõ” là đối với hai thứ chủng tử:
1. Ngoại.
2. Nội.
Ngoại chủng tử là lúa, mè… đối với hai tánh thiện ác không hiểu rõ là hữu ký. Nội chủng tử là A-lê-da thức, đối với hai thánh thiện ác thì hiểu rõ. Hoặc lấy nhiễm ô và thanh tịnh làm hai tánh, chỉ có giả danh và chân thật. Ngoại chủng tử chỉ là giả danh, tại sao vậy? Vì tất cả pháp chỉ có thức. Nội chủng tử là chân thật, tại sao vậy? Vì tất cả pháp lấy thức làm gốc.
“Nhất thiết chủng tử có sáu thứ”, như vậy nội và ngoại chủng tử chẳng qua là sáu thứ. Những gì là sáu? “Niệm niệm diệt”, hai thứ chủng tử nầy diệt trong từng sát-na, trước sinh sau diệt không có gián đoạn, pháp nầy được thành chủng tử, tại sao vậy? Vì pháp thường trụ thì không thành chủng tử, vì trong tất cả thời không có sai biệt cho nên một gọi là niệm niệm diệt. “Câu hữu”, là câu hữu thì thành chủng tử, vì không phải quá, vị lai và không phải lìa nhau, lúc đó chủng tử có, tức là lúc nầy chủng tử sinh, cho nên cả hai gọi là câu hữu. “Cùng theo đến trị tế” trị là đạo của kim cương tâm, A-lê-da thức trong lúc nầy công năng mới hết, cho nên gọi là tế (bờ mé). Ngoại chủng tử đến khi quả chín và căn hoại thì công năng mới hết, cho nên chủng tử thứ ba gọi là “Cùng theo đến trị tế. “Quyết định”, do quyết định nầy mà không từ nơi tất cả, tất cả được sinh nhân quả, gồm quyết định hoặc là chủng tử của quả nầy, quả nầy được sinh cho nên chủng tử thứ bốn gọi là quyết định. “Quán nhân duyên”, do chủng tử nầy quán riêng nhân duyên mới sinh quả trở lại, cho nên không phải mọi lúc, không phải tất cả sinh. Khi ấy, nếu có nhân thì lúc đó được sinh, cho nên không hằng sinh. Nếu không quán nhân mà thành nhân, thì một nhân trở thành tất cả nhân quả. Vì quán mà nhân duyên thành, không tràn lan làm nhân, cho nên chủng tử thứ năm là quán nhân duyên. “Năng dẫn hiển thị tự quả”, là tự chủng tử có khả năng dẫn sinh tự quả. Nếu A-lê-da thức có khả năng dẫn sinh quả của A-lê-da thức, thì cũng như hạt lúa có thể dẫn sinh hạt lúa, cho nên chủng tử thứ sáu là năng dẫn hiển tự quả. Sáu thứ như vậy là nghĩa nhân quả sinh. Phương tiện như vậy, khiến cho sự huân tập tướng mạo dễ thấy. Bây giờ nói thêm.
Kiên vô ký khả huân, cùng năng huân tương ưng”, nghĩa chữ huân có bốn thứ:
1. Hoặc tương tục kiên trụ khó hoại, thì có thể thọ huân tập. Nếu kinh động thì không được như vậy, ví như gió không thể thọ huân tập, tại sao vậy? Vì gió nầy nếu tương tục nội trong một do-tuần, huân tập cũng không thể đuổi theo được, vì sự tán động. Hoặc nhìn xem chỗ xông ướp (huân tập) dầu của ba hoa (sóng hoa), trong một trăm do-tuần thì có thể đuổi theo được, vì kiên trụ.
2. Hoặc vô ký khí có thể thọ huân, do đó hành tỏi không thọ huân, vì mùi hôi của nó, trầm hương và xạ hương cũng không thọ huân, vì mùi thơm của nó. Nếu vật không bị thơm hôi ướp vào thì có thể thọ huân, cũng như y phục…
3. Hoặc Khả huân có thể thọ huân, do đó vàng bạc đá… Đều là bất khả huân, vì không thể thọ huân. Hoặc vật như y phục trơn láng, vì có thể thọ huân, cho nên gọi là Khả huân.
4. Hoặc năng sở tương ưng thì có thể thọ huân, hoặc sinh vô gián, gọi là tương ưng cho nên được thọ huân, hoặc bất tương ưng thì không thể thọ huân, hoặc cái khác không thể huân thì gọi là huân thể tướng. Nếu khác với bốn nghĩa nầy thì không thể huân. Cho nên lìa A-lê-da thức thì các pháp khác không thể thọ huân, vì A-lê-da thức có đủ sáu nghĩa trước: 1. Niệm niệm sinh diệt. 2. Cùng với sinh khởi thức đồng thời có. 3. Cùng theo đến trị tế, tận cùng nơi sinh tử. 4. Quyết định là nhân của thiện ác. 5. Quán phước hạnh, phi phước hạnh và bất động là nhân, đối với hai đạo yêu, ghét thành thục làm thể của đạo. 6. Có thể dẫn hiển thị đồng loại quả và nhất thiết sinh khởi thức.
Tuy có đủ sáu nghĩa được làm chủng tử, nhưng chỉ tương phản với bốn nghĩa của huân tập. Do A-lê-da thức có đủ sáu nghĩa của chủng tử và bốn nghĩa của huân tập mà có thể thọ huân tập chuyển thành chủng tử. Các thức khác thì không như vậy. Tại sao vậy? Vì sáu thức không có tương ưng, sáu thức không có nghĩa tương ưng trước sau, vì dễ động và dễ hoại. Lại nữa, không phải chỉ có dễ động hoại mà không có tương ưng. Lại có các nghĩa khác: Ba thứ sai biệt trái nhau, là tùy theo mỗi mỗi thức, riêng y chỉ mà sinh, riêng cảnh giới mà sinh, riêng giác quán và tư duy mà sinh, riêng tưởng mà sinh, cho nên gọi là tương vi. Sáu thức không tương thông lẫn nhau cho nên sai biệt, vì sai biệt cho nên trái nhau. Các Sư Kinh Bộ nói: Niệm trước huân niệm sau, tại sao vậy? Vì hai trong một sát-na không cùng khởi, không được đồng thời. nghĩa nầy thì không phải như thế. Tại sao vậy? Vì một niệm không còn đi với hai là năng huân và sở huân trong cùng lúc, đồng sinh đồng diệt thì nghĩa huân tập được thành, nếu không đồng thời thì nghĩa huân tập không thành. Tại sao vậy? Nếu năng huân còn mà sở huân chưa sinh, đến khi sở huân sinh thì năng huân đã mất, sát-na trước và sau đồng thời khởi là không có chỗ như vậy. Do đó sáu thức không đồng thời khởi thì không có huân tập. Nếu ông nói có thức sinh loại, tướng nó như vậy cho nên có thể thọ huân thì nghĩa đó không đúng. Ngoài sinh ra, các ví dụ khác cũng phải như vậy. Nếu ông chấp nghĩa bất tương ưng cũng được huân tập lẫn nhau, thì đó không phải chỗ chấp nghĩa của ông, phải nên ví dụ chỗ chấp của ông, như nhãn… các căn cùng với thức không đồng cho nên gọi là dư thừa. Các sắc căn nầy thanh tịnh đồng loại thì cũng phải huân tập lẫn nhau, vì tuy đồng sắc loại nhưng mà không tương ưng. Nếu ông không thừa nhận không huân tập lẫn nhau, thì sáu thức cũng vậy, dù đồng thức loại nhưng không tương ưng. Như thế nào mới được nói huân tập lẫn nhau? Trước đã nói hai thứ chủng tử, là ngoại chủng tử và nội chủng tử. Nếu cho rằng nhân và nghĩa đồng loại thì trở thành hai thứ nhân, một là sinh nhân và hai là dẫn nhân. Để hiển thị nghĩa nầy cho nên nói ngoại chủng và tử nội chủng tử nầy có thể sinh nhân và dẫn nhân. Ngoại chủng tử và nội chủng tử nếu làm sinh nhân và dẫn nhân, thì tướng của nó như thế nào? Có thể sinh mầm… cho đến quả chín, là ngoại sinh nhân, có khả năng sinh quả báo cho đến mạng chung là nội sinh nhân. Dẫn nhân, là khô chết nhưng vẫn còn tương tục rồi sau đó mới diệt hết, thì ngoại chủng tử như lúa cũ, nội chủng tử như thân đã chết, nhưng do dẫn nhân cho nên còn tương tục trụ. Nếu hai thứ nầy chỉ có sinh nhân, sinh nhân đã mất, thì quả liền phải diệt, không được tương tục trụ. Nếu ông nói, do sátna chuyển chuyển tương sinh thì sát-na trước làm tác nhân của sát-na sau, cũng còn tương tục trụ, nếu như thế thì tối hậu không nên đều diệt hết. Vì đã không có hai nghĩa nầy, cho nên biết chỉ riêng có dẫn nhân. Hai nhân nầy, ví như người bắn cung, mũi tên là sinh nhân, cây cung là dẫn nhân, mũi tên lìa dây đi xa có chỗ đến, nếu chỉ lấy mũi tên làm nhân, không lấy cây cung là nhân thì mũi tên không được đi xa. Nếu nói mũi tên sát-na trước sinh mũi tên sát-na sau cho nên mũi tên được đi xa, có nghĩa là mũi tên không bị rơi rớt. Ngoại chủng tử và nội chủng tử cũng vậy. Do sinh nhân hết cho nên khô chết, do Dẫn nhân hết cho nên diệt tận.
Luận nói:
Ví như ngoại chủng tử,
Nội chủng không như vậy.
Nghĩa nầy lấy hai bài kệ để hiển thị nó:
Ngoại chủng không huân tập,
Nội chủng không như vậy,
Văn (nghe)… Không có huân tập,
Quả sinh phi đạo lý.
Đã khởi và chưa khởi,
Được và mất trái nhau,
Do nội ngoại được thành
Cho nên nội có huân.
Giải thích: Nếu nội chủng tử và ngoại chủng tử không khác nhau, thì nhãn… các căn đồng là bốn đại thanh tịnh, tại sao không huân lẫn nhau? Vì là bên ngoài. Ngoại chủng tử có ba nghĩa, khác với nội chủng tử. Do đó, nội chủng tử huân tập mà y chỉ ngoại chủng tử thì không phải như vậy. Để hiển thị nghĩa đó cho nên nói hai bài Kệ. “Ngoại không có huân tập, nội chủng không như vậy”, là ngoại chủng tử như lúa mè… Do công năng mà thành, không do huân tập mà thành. Nội chủng tử thì không như vậy, chắc chắn do huân tập mà thành. Nghĩa nầy không phải chứng cảnh giới thì làm sao biết được? “Văn (nghe)… Không có huân tập, quả sinh phi đạo lý”, hoặc đối với nội chủng tử không có huân tập, thì khi chưa học, văn, tư, tu Tuệ chưa sinh, từ khi học thì Văn tuệ, sau đó là Tư tuệ cũng chưa sinh. Tại sao vậy? Vì đồng với không có huân tập. Đã không có nghĩa nầy, cho nên biết nội chủng tử do huân tập mà thành chủng tử. Không có huân tập thì không thành. Nếu đối với nội không có huân tập, thì có lỗi gì? “Đã khởi và chưa khởi, được và mất trái nhau”, là nếu nội chủng tử không có huân tập thì có hai lỗi: 1. Chưa khởi mà phải được, đã khởi mà phải mất. Hoặc không có huân tập trong tương tục làm nhân, thì các quả khổ vui nầy không phải do nhân tạo ra, tức là không làm mà được. Hoặc đã khởi công dụng đối với tâm mà không có huân tập, thì không nhân mà có khả năng được quả, tức là đã tạo tác mà mất. Nghĩa nầy trong thế gian trái nhau, cùng với đạo lý cũng trái nhau, cho nên bản thức là chỗ huân tập của ba nghiệp mà được thành nhân. Lại nữa, tại sao lúa mè… Không có huân tập mà được thành chủng tử? “Do nội ngoại được thành, cho nên nội có huân. Ngoại nếu thành chủng tử mà không do tự khả năng, thì chắc chắn do nội chủng tử huân tập cảm ứng ngoại mà thành chủng tử. Tại sao vậy? Tất cả ngoại pháp lìa nội pháp thì không thành, cho nên đối với ngoại chủng tử thì không thành huân tập: Một là do nội có huân tập được thành chủng tử. Hai là nếu nội không có chủng tử thì khi chưa khởi mà được, khi đã khởi thì bị mất, không có nghĩa như vậy. Ba là ngoại chủng tử do nội mà được thành, cho nên nội khác ngoại thì chắc chắn có huân tập, trước đã nói phân biệt duyên sinh, ái phi ái duyên sinh, bây giờ nói thêm thọ dụng duyên sinh. tướng nó như thế nào?
Luận nói: Các thức còn lại thì khác với A-lê-da thức, là tất cả sinh xứ và đạo của sinh khởi thức, phải biết đó là thọ dụng thức.
Giải thích: Sáu thức nầy tại sao gọi là sinh khởi thức? Tự nó có hai nghĩa, là chủng tử trong bản thức, vì do thức nầy sinh khởi. Sáu thức nầy là do nghiệp phiền não duyên khởi: Một là có khả năng huân tập bản thức, khiến cho thành chủng tử. Chủng tử có hai khả năng một là năng sinh, hai là năng dẫn. Do có hai khả năng nầy mà sáu thức gọi là sinh khởi thức. Do quả có hai khả năng cho nên nhân được hai tên. Hai là nhân trong bản thức khi chín muồi, thì sáu thức tùy theo nhân sinh khởi, là thọ dụng các quả báo yêu, ghét. Thức nầy gọi là sinh khởi thức, cũng gọi là thọ dụng thức, vì do sự sinh khởi của nhân quá khứ, khiến cho thọ dụng quả báo, mà được hai tên sinh khởi và thọ dụng. Tất cả sự thọ thân của sinh khởi thức nầy là các xứ tứ sinh và sáu cõi, vì có thể thọ quả báo. Phải biết đây gọi là thọ dụng thức. Thọ dụng thức nầy tướng mạo như thế nào?
Luận nói: Như Kệ trong Trung Biên Luận nói:
Một gọi là duyên thức,
Hai gọi là thọ thức,
Liễu thọ là phân biệt,
Khởi hành các tâm pháp.
Giải thích: Một gọi là duyên thức”, vì A-lê-da thức là nhân duyên của sinh khởi thức, gọi là duyên thức. “Hai gọi là thọ thức”, ngoài ra các thức khác trước đã nói là sinh khởi thức, hiện gọi là thọ thức. Có thể duyên trần mà khởi, trong mỗi mỗi trần có thể thọ dụng khổ lạc, cho nên gọi là thọ thức, tức là thọ ấm. “Liễu thọ gọi là phân biệt”, ba thứ thọ nầy, hoặc có riêng tâm năng liễu biệt, gọi đây là thọ khổ, đây là thọ vui, đây là cảm thọ không khổ không vui. Thức nầy gọi là phân biệt thức, tức là tưởng thức. “Tâm pháp của khởi hành”, Tác ý gọi là khởi hành, là tác ý nầy rất ưa các ác kia, do tư cho nên gọi là tác ý, tác ý nầy có thể khiến cho tâm có thể bỏ đây thọ kia mà gọi là khởi hành. Khởi hành tức là hành ấm. Sáu thức gọi là tâm, vì từ tâm ban đầu nầy sinh ra ba tâm sau, gọi là tâm pháp.
Luận nói: Hai thức nầy làm nhân lẫn nhau, như kệ trong Đại thừa A-tỳ-đạt-ma nói:
Các pháp trong tạng thức,
Thức trong pháp cũng vậy,
Hai thứ làm nhân nhau,
Cũng làm quả lẫn nhau.
Giải thích: Những câu kệ nầy muốn hiển thị bản thức và thọ dụng thức làm nhân quả lẫn nhau, lấy A-hàm để làm chứng, cùng với A-hàm không trái nhau thì quyết định đáng tin. Lại nữa, nếu không làm các câu kệ đó thì chưa biết các chứng cứ nầy từ đâu mà ra, là lời nói của Thánh hay không phải lời nói của Thánh, cho nên nói các câu kệ này. “Các pháp trong tạng thức, thức trong pháp cũng vậy. Nếu bản thức làm nhân các pháp, thì các pháp làm quả, ắt nương ẩn trong bản thức. Nếu các pháp làm nhân của bản thức, thì bản thức làm quả, ắt nương ẩn trong các pháp. “Hai thứ làm nhân nhau, cũng làm quả lẫn nhau”, là nếu bản thức làm nhân của các pháp kia, thì các pháp làm quả của bản thức. Nếu các pháp kia làm nhân của bản thức, thì bản thức làm quả của nó. Như vậy lý của nhân quả, có Phật hay không có Phật, pháp vốn thường trụ như vậy.
--------------------------------
Giải thích: Như vậy ba thứ duyên sinh:
1. Cùng sinh tử duyên sinh.
2. Ái phi ái đạo duyên sinh.
3. Thọ dụng duyên sinh.
Ba thứ duyên sinh nầy có bốn thứ duyên.
Luận nói: Hoặc trong duyên sinh thứ nhất, các pháp cùng với thức lẫn nhau làm nhân duyên.
Giải thích: nhân duyên đã hiển thị thì không cần hỏi lại nữa. Tại sao vậy? Vì các pháp huân tập trong A-lê-da thức, được làm nhân quả lẫn nhau.
Luận nói: Trong “duyên sinh” thứ hai, chư pháp là duyên gì? Là tăng thượng duyên.
Giải thích: Do vô minh tăng trưởng mà các hành được sinh. Tăng Thượng có hai thứ: 1. Bất tương ly. 2. Đản hữu (chỉ có). bất tương ly, như nhãn căn làm nhãn thức tác khởi tăng thượng duyên. Đản hữu, như màu trắng có thể hiển thị hiện màu đen. Hoặc hành của vô minh có đủ hai thứ tăng thượng duyên, nếu không có khổ thì hành của vô minh cõi dưới không sinh, nếu hành đã sinh mà không có tu đạo vô minh thì các hành không thuần thục. Tại sao vậy? Vì bậc Tu-đà-hoàn không tạo hoặc sinh báo nghiệp, bậc A-na-hàm không thọ sinh báo của cõi dưới.
Luận nói: Lại nữa, có mấy duyên có thể sinh sáu thức? Có ba duyên, là tăng thượng duyên, duyên duyên và thứ đệ duyên.
Giải thích: Từ căn sinh cho nên là tăng thượng duyên. Từ duyên trần cho nên là duyên duyên. Thức trước diệt thì thức sau sinh là thứ đệ duyên. Khi thức trước có thể cùng với thức sau sinh, khoảng giữa không có ngăn cách cho nên gọi là “thứ đệ”.
Luận nói: Như vậy ba duyên sinh: 1. Cùng sinh tử duyên sinh; 2.
Yêu, ghét đạo duyên sinh; 3. Thọ dụng duyên sinh có đủ bốn duyên.
Giải thích: Vì bốn duyên ấy căn cứ theo ba thứ duyên sinh, có đủ và không đủ. Nếu ngay chỗ hiển thị liễu nghĩa thì đều không đủ bốn duyên. Nếu ngay chỗ ẩn mật nghĩa thì đều có đủ bốn duyên.
Giải thích: Phẩm này có sáu chương:
- Chương I. Phiền não bất tịnh phẩm.
- Chương II. Nghiệp bất tịnh phẩm.
- Chương III. Sinh bất tịnh phẩm.
- Chương IV. Thế gian tịnh phẩm.
- Chương V. Xuất thế gian tịnh phẩm.
- Chương VI. Thuận đạo lý.
Luận nói: A-lê-da thức này đã thành lập do chúng danh và thể tướng.
Giải thích: Như bản thức này, chúng danh đã nói thể tướng, đã thành lập hai nghĩa này, chỉ đối với bản thức như lý mà được thành, không phải đối với các thức khác. Bây giờ để chỉ rõ hai nghĩa này, đối với lý, phi lý và các luận sư cùng nhau thiết lập tranh luận.
Luận nói: Làm sao biết được A-lê-da thức lấy nhiều tên (chúng danh) như vậy? Như Lai nói thể tướng cũng như thế, không nói đó là sinh khởi thức.
Giải thích: Kia nói: chúng danh và thể tướng như vậy, trong pháp tôi cũng có, nhưng không có A-lê-da thức, tại sao nói chúng danh và thể tướng kia quyết định thuộc A-lê-da thức, không thuộc các thức khác. Vì đáp câu hỏi này nên Luận nói.
Nếu lìa A-lê-da thức danh tướng đã lập này, thì phẩm bất tịnh và tịnh đều không thành tựu.
Giải thích: Nếu ông nói lìa bản thức để an lập danh và thể tướng này đối với các thức khác, thì sự an lập đó không thành, tại sao vậy? Vì chỗ trái nghịch của ba nghĩa. Ba nghĩa này là chánh pháp Tất-đàn của Như Lai, là phẩm bất tịnh, tịnh và chánh đạo lý, nghĩa này do bản thức mà được lập. Nếu ông bác bỏ không có bản thức, thì ba nghĩa này không có chỗ an lập, thì không thành nghĩa này. Điều mà Như Lai lập là thành tựu vững chắc, trái với chỗ chấp của ông, chỗ chấp của ông thì hoại, cho nên chúng danh và thể tướng không lìa bản thức.
Luận nói: Phẩm Phiền não bất tịnh, phẩm nghiệp bất tịnh, phẩm sinh bất tịnh, phẩm thế gian tịnh và xuất thế gian tịnh phẩm đều không thành tựu.
Giải thích: Vì khai mở ba chương thành sáu chương cho nên nói lại các tên đó.
Luận nói: Vì sao phẩm phiền não bất tịnh không thành tựu? Chỗ tạo tác khởi và huân tập chủng tử của căn bản phiền não và thiểu phần phiền não đối với sáu thức không được thành tựu. Tại sao vậy? Vì nhãn thức cùng với hai hoặc lớn nhỏ của dục đồng thời khởi và đồng thời diệt.
Giải thích: Vì dục nương vào tâm mà khởi, tùy theo tâm và ba đời mà đồng thời khởi và đồng thời diệt. Đó là chỉ rõ các dục huân tập tâm.
Luận nói: Nhãn thức này là chỗ huân của hoặc thành lập chủng tử, mà các thức khác thì không như thế.
Giải thích: Nhãn thức này cùng với dục đồng thời khởi đồng thời diệt, luôn luôn được huân tập khắp cho nên thành chủng tử. Còn nhĩ thức thì không huân tập do bị các thức khác ngăn chặn.
Luận nói: Nhãn thức đó đã diệt, hoặc các thức khác gián đoạn khởi thì huân tập và nương tựa của huân tập đều không thể được.
Giải thích: Nếu ở trong lĩnh vực vô thức, là Vô Tưởng định, thì nói là thức đã diệt. Nếu trong lĩnh vực hữu thức, thì nhĩ thức đều gián đoạn khởi, cho nên nhãn thức diệt. Chủng tử của huân tập sinh trong hai thứ diệt này, và chỗ y chỉ nhãn thức đều không thể được.
Luận nói: Nhãn thức trước kia đã mất thì hiện tại không có Thể, hoặc chỗ xen của các thức khác. Từ khi đã diệt là không có pháp mà có dục câu sinh là việc không thể thành tựu.
Giải thích: Nếu nhãn thức đã do hai thứ diệt mất, trước rồi hiện tại không có thể của nhãn thức và dục, đó là đã diệt vô pháp. Nhãn thức sau nếu cùng với dục đồng thời sinh, khi dục trước đã diệt nhãn thức và dục, làm cho chủng tử sinh khởi nhãn thức và dục. Nghĩa này không được thành tựu. Tại sao vậy? Vì nhân đã diệt mất. Luận nói: Ví như từ quá khứ đã diệt hết nghiệp, thì quả báo không được sinh.
Giải thích: Nghiệp quá khứ có hai thứ là hữu công năng và không công năng. Nếu quả báo đã thuần thục thì không còn công năng nữa. Nghiệp này có hai nghĩa: 1. Đã quá khứ. 2. Đã diệt tận. Quả của quả báo không có nghĩa từ nghiệp này sinh, hữu dục và nhãn thức cũng nên như vậy, không thể nói sinh từ chủng tử đã diệt. Nếu người chấp nói thức trước đã diệt là có, vì pháp quá khứ là có, như các Sư Tỳ-bà-sa đã chấp, thì sự chấp này chỉ có ngữ mà không có nghĩa. Tại sao vậy? Nếu pháp là có thì tại sao nói các pháp của quá khứ? Do nghĩa này mà quả của quả báo sinh không như đạo lý, vì sự huân tập không có.
Luận nói: Lại nữa, nhãn thức và dục đồng thời sinh khởi thì huân tập không thành.
Giải thích: Nhãn thức ấy là khi chưa nhập diệt tâm định và chưa bị các thức khác làm gián đoạn, thì cùng với dục câu sinh, sau đó nhập diệt tâm định và bị các thức khác làm gián đoạn thì huân tập cũng không thành. Luận nói: Vì sao? Chủng tử này không được trụ trong dục, vì dục y chỉ thức. Lại nữa, vì dục nơi tiếp không kiên trụ.
Giải thích: Chủng tử nếu trụ thì nương vào pháp của chính nó tồn tại, và tương tục ở pháp kiên trụ, thì hai nghĩa này trong dục đều không có, vì dục không phải nơi nương tựa của chủng tử.
Luận nói: Dục này đối với các thức khác cũng không có huân tập, vì chỗ y chỉ riêng khác, vì các thức khác không cùng lúc khởi cùng lúc diệt.
Giải thích: Chủng tử không được trụ trong dục, phải nên trụ trong các thức khác. Cũng không có nghĩa này, tại sao vậy? Vì y chỉ riêng khác. Lại nữa vì sinh và diệt không cùng lúc. Y chỉ riêng khác là nhãn thức lấy nhãn căn làm y chỉ. Nhĩ thức lấy nhĩ căn làm y chỉ, cho đến ý thức lấy ý căn làm y chỉ. Do các thức y chỉ này mà từng thứ xứ đều không được tương ưng, cho nên thức này huân tập thì không được trụ vào thức kia. Sinh và diệt không cùng lúc, là vì căn, trần và tác ý đều không đồng nhau, không có nghĩa cùng lúc sinh diệt. Sinh diệt đã không cùng lúc, tại sao được lấy thức này huân tập với thức kia? Do đó các nghĩa huân tập đều không được thành. Nếu ông nói chủng tử này trụ trong đồng loại thức, thì nghĩa này cũng không đúng. Tại sao vậy?
Luận nói: Đồng loại với đồng loại không được huân lẫn nhau, vì không có đồng thời cùng sinh diệt.
Giải thích: Nhãn thức không được huân tập với nhãn thức. Tại sao vậy? Vì trong một thời hai nhãn thức không được cùng sinh, nếu không cùng sinh thì không có cùng diệt.
Luận nói: Do đó nhãn thức không bị các hoặc lớn nhỏ của dục huân tập, nó cũng không bị thức đồng loại huân tập.
Giải thích: Do nghĩa trước, nên nhãn thức không được huân tập bởi loại khác cũng như đồng loại.
Luận nói: Suy lường nhãn thức như vậy, các thức còn lại cũng phải suy lường như vậy. Lại nữa, nếu chúng sinh từ Vô tưởng Thiên trở lên bị đọa xuống, thức ban đầu thọ chỗ nhiễm hoặc lớn nhỏ của cõi dưới sinh, thức này khi sinh thì phải không có chủng tử.
Giải thích: Từ cõi trên đọa xuống thọ sinh cõi dưới, thì thức thọ sinh ban đầu chắc chắn bị hoặc làm nhiễm. Thức này và hoặc từ chủng tử nào sinh? Nếu nói từ cõi trên sinh là nghĩa không đúng, tại sao vậy? Vì cõi trên và cõi dưới cả hai đều trái nhau không đồng thời khởi, không được huân tập lẫn nhau. Nếu nói từ tâm chưa đắc định cõi trên sinh ra tâm ban đầu của cõi dưới, thì cũng không đúng.
Luận nói: Vì sao? Vì sự huân tập cùng với y chỉ của hoặc này đều đã diệt hết trong quá khứ không còn.
Giải thích: Thức ban đầu này phải chỉ sinh với không có nhân, huân tập và y chỉ này diệt hết đã lâu cho nên không được lấy y chỉ và huân tập này làm nhân.
Luận nói: Lại nữa, thức đối trị hoặc đã sinh, thì các thức khác trong thế gian đều đã diệt hết. Nếu không có A-lê-da thức thì thức đối trị này cùng chung với chủng tử của các hoặc lớn nhỏ đồng thời tồn tại, nghĩa này không thành.
Giải thích: Nếu ông bác không có bản thức, thì không tránh khỏi hai lỗi không thể xa lìa: 1. Trong cõi người, Thánh đạo và phiền não đều tồn tại, thì nghĩa đó không thành. Nếu không có hoặc này thì tu các đạo khác, vô dụng lẽ ra không có người bốn đạo và ba quả, chỉ có người vô học, nghĩa này cùng với chánh giáo trái nhau, có lỗi không thể xa lìa. 2. Trước vô lưu đã diệt, tâm của thế gian lại muốn khởi, thì không có nhân có thể khiến cho tâm này được sinh. Nếu tâm hữu lưu không có nhân mà vẫn sau tâm vô lưu tự nhiên mà được sinh thì không có người Vô học, lỗi này cũng là lỗi không thể xa lìa.
Như người Tu-đà-hoàn hướng, chính khi sinh kiến đế đối trị đạo, thì sáu thức của thế gian vì trái với đạo, vì không được câu sinh nên các thức của thế gian đều đã diệt hết, phiền não còn lại thì do y chỉ diệt, do đó công năng cũng diệt, cho nên đối trị thức cùng với chủng tử của hoặc lớn nhỏ đều tồn tại thì nghĩa này không thành. Nếu như thế thì đâu cần dùng tu đạo?
Luận nói: Vì sao? Tự tánh giải thoát, tâm vô lưu và hoặc không được đồng thời khởi đồng thời diệt.
Giải thích: Đồng loại làm tự tánh, như ý thức có phiền não, và thức vô lưu không có phiền não. Tuy khác nhau là có hoặc hay không có hoặc, nhưng đồng là loại thức cho nên gọi là tự tánh. Giải thoát nghĩa là lìa, nếu thức phiền não cùng với vô lưu thức đồng thời khởi, thì tự tánh không được giải thoát, vì khi tâm thức vô lưu khởi thì các thức khác không được sinh. Chúng đã lìa nhau cho nên gọi là giải thoát.
Luận nói: Lại nữa, sau khi xuất quán, chính là khởi tâm thế gian.
Giải thích: Người Hữu học Tu-đà-hoàn đã đắc đạo rồi, sau khi xuất quán thì khởi tâm xuất thế hay là khởi tâm thế gian? Nếu khởi tâm xuất thế thì không có nghĩa là xuất quán, nếu khởi tâm thế gian thì do nhân gì được sinh?
Luận nói: Các hoặc huân tập đã diệt mất từ lâu.
Giải thích: Khi nhập quán trước đó thì các hoặc huân tập đã diệt mất, tại sao không có nhân mà được sinh Tâm thế gian.
Luận nói: Ý thức Hữu lưu không có chủng tử sinh thì lẽ ra được thành.
Giải thích: Nếu thức như vậy không do nhân sinh thì không được nghĩa giải thoát, hoặc tâm của người Vô học cũng lẽ ra không có nhân mà sinh.
Luận nói: Cho nên lìa A-lê-da thức thì phiền não nhiễm ô không được thành.
Giải thích: Nếu ông bác bỏ không có thức này thì phiền não nhiễm ô làm sao lập được!
--------------------------------------
Giải thích: Nếu người bác bỏ không có bản thức, thì người đó không có đạo lý có thể thành lập nghĩa của nghiệp nhiễm ô.
Luận nói: Lại nữa, nghiệp nhiễm ô tại sao không được thành?
Duyên hành sinh thức phần, nghĩa này không được thành.
Giải thích: Hành có ba phẩm, là phước, phi phước và bất động. Niệm niệm sinh diệt, nếu lìa bản thức thì công năng của nó an lập chỗ nào? Nếu ông nói an lập trong sáu thức, thì nghĩa đó không đúng, vì sáu thức không thể nhiếp trì công năng của các nghiệp. Trong phiền não nhiễm ô nói ở trước đã chỉ rõ nghĩa này đầy đủ.
Luận nói: Nếu không có nghĩa này, thì không thành nghĩa duyên thủ sinh hữu, nghiệp nhiễm ô không thành.
Giải thích: Nếu không có thức công năng của nghiệp, nghĩa là Hành duyên thức, duyên thủ sinh hữu, thì không có đạo lý để được thành. Tại sao vậy? Thức này là sở huân của ba hành, vì tùy theo bốn thủ, do huân tập viên mãn cho nên thức trở thành hữu, thức này hoặc là diệt mất hoặc bị thức khác làm cho gián đoạn, thì thể của thức này đã mất, công năng cũng tùy theo đó mà diệt. Sẽ an lập ở đâu? Hành này có hai công năng của nghiệp, cho nên nghiệp nhiễm ô không thành. Nói nhiễm ô là nghiệp này cùng với phiền não tương ưng cho nên gọi là nhiễm ô. Lại nữa, từ nhiễm ô sinh cho nên gọi là nhiễm ô, có khả năng cảm quả báo nhiễm ô trong sáu đường sinh tử cho nên gọi là nhiễm ô.
----------------------------------------
Giải thích: Nếu lìa bản thức sinh nhiễm ô thì không có đạo lý đó, nghĩa này không thành. Nay sẽ nói đến.
Luận nói: Lại nữa, thế nào là sinh nhiễm ô, nghĩa này không thành tức kết sinh không thành.
Giải thích: Sự sống này nếu mất thì do công năng của nghiệp, kết với hậu báo tiếp với tiền báo, nghĩa này không thành tựu. Tại sao vậy?
Luận nói: Nếu người đối với bất tĩnh địa có tâm thoái đọa, thì khi đang ở tại trung ấm, khởi ý thức nhiễm ô mới được thọ sinh.
Giải thích: Bất tĩnh địa thoái lui đời trước mà đọa đời sau cho nên gọi là thoái đọa. Thọ sinh có hai thứ, một là hoặc có thân trung ấm, hai là hoặc không có thân trung ấm. Nay nói riêng việc thọ trung ấm, nếu đang khi trung ấm sắp sửa thọ sinh, trước hết phải khởi thức nhiễm ô thì mới được thọ sinh.
Luận nói: Thức nhiễm ô này diệt mất trong thân trung ấm.
Giải thích: Nhiễm ô thức của trung ấm này, duyên sinh hữu làm cảnh, thức này diệt trong thân trung ấm. Tại sao vậy? Vì sinh ấm không có nhiễm ô.
Luận nói: Thức đó nương vào Kha-la-la, biến hợp trong thai mẹ mà thọ sinh.
Giải thích: Thức đó tức là ý thức, vì trong một thời kỳ cùng với Kha-la-la tương ưng, cho nên nói là nương vào Kha-la-la. Quả báo thức này khác với nhiễm ô thức trước cho nên nói là biến. Do công năng của nghiệp đời trước khởi gió nổi lên, hòa hợp với màu đỏ trắng (tinh cha, huyết mẹ) khiến cho đồng với thức cho nên gọi là hợp. Gọi đó là thọ sinh.
Luận nói: Nếu chỉ có ý thức biến thành y chỉ của Kha-la-la, thì ý thức này trong thai mẹ có ý thức khác khởi, không có nghĩa như vậy.
Giải thích: Nếu ông chấp thức này nhập vào Kha-lA-la thường chỉ là ý thức, thì nếu căn, trần, ý thức sinh khởi, thì cùng với ý thức kia là đồng hay là khác? Nếu nói đồng thì khi thức này mất, Kha-la-la liền hoại diệt. Nếu bất đồng thì không nên gọi là ý thức. Tại sao vậy? Vì ý thức lấy chung thức của ba tánh làm căn, còn thức này thì chỉ lấy nhiễm ô thức làm căn. Ý thức duyên ba đời làm cảnh, cảnh giới của thức này thì không thể biết. Ý thức có khi hưng có khi phế, thức này thì hằng hữu không có phế cho nên không đồng với ý thức. Lại nữa, nếu đồng thì trong địa vô thức phải không có thức này. Nếu không có thức này, thì không nên nói nhập vô tâm định thức không rời thân. Lại nữa, nếu không có thức thì thân phải hoại, cho nên không thể nói thức này là ý thức. Nếu ông nói ý thức này không thể phân biệt, căn trần sinh khởi y chỉ thức này, và trong thai mẹ riêng sinh ra ý thức, thì nghĩa đó không đúng. Tại sao vậy?
Luận nói: Trong thai mẹ, hai ý thức cùng khởi một lúc thì không có nghĩa như vậy.
Giải thích: Đây là nói để chứng minh nghĩa không có ý thức ở trên. Vì hai ý thức đồng tánh thì chắc chắn không câu sinh, vì không cùng tác ý. Ý thức này nương vào Kha-la-la, cùng với đỏ trắng hoà hợp chung chỗ y chỉ, thức này có riêng ý thức khác sinh, cùng khởi một lúc, thì thức của Kha-la-la này không thành ý thức. Tại sao vậy? Vì luôn lấy nhiễm ô thức làm y chỉ. Thức được y chỉ (sở y) này bị nhiễm bởi dục v.v… duyên mà khởi lên cảnh sinh hữu. Thức năng y chỉ đã là quả báo thì chỉ có tánh vô ký. Cảnh sở duyên lại cũng không thể biết, nên không thể lập làm ý thức. Nếu lập cảnh sở duyên này làm ý thức thì không có nghĩa cùng khởi. Nếu có cùng khởi thì phải đồng với liễu biệt, phải đồng diệt vô. Nếu đồng liễu biệt không có diệt tâm định, thì một liễu biệt tâm diệt mất, một liễu biệt tâm còn. Nếu đồng diệt vô thì không có công dụng tự nhiên Niết-bàn, vì tâm không khởi lại nữa.
Luận nói: Ý thức đã biến dị.
Giải thích: Thức mới thọ sinh đã biến dị thành KhA-la-la.
Luận nói: Không thể thành lập làm ý thức.
Giải thích: Gồm có ba nghĩa, không thể lập thức thọ sinh ban đầu làm ý thức.
Luận nói: Vì y chỉ không thanh tịnh.
Giải thích: Ý thức từ tâm của ba tánh sinh ra, thức thọ sinh ban đầu thì chắc chắn từ nhiễm ô thức sinh ra, tức là chỗ y chỉ không thanh tịnh.
Luận nói: Nó duyên cảnh thời kỳ lâu dài.
Giải thích: Thức thọ sinh ban đầu từ đầu đến cuối duyên cảnh không bỏ phế. Ý thức duyên cảnh thì dễ mất bất định.
Luận nói: Cảnh sở duyên không thể biết.
Giải thích: Cảnh mà thức thọ sinh ban đầu duyên là không thể biết. Ý thức duyên cảnh ba đời và cảnh không thuộc ba đời, thì ý thức này có thể biết. Do ba nghĩa này khác nhau, cho nên không thể lập làm ý thức.
Luận nói: Hoặc ý thức này đã biến dị.
Giải thích: Nếu ý thức thọ sinh đã cùng với đỏ trắng hoà hợp thì biến thức trước thành thức sau, thì tất nhiên thức sau khác với thức trước.
Luận nói: Lúc đó ý thức trở thành Kha-la-la.
Giải thích: Do thành Kha-la-la cho nên biến dị.
Luận nói: Thức này là chủng tử của tất cả pháp làm y chỉ cho thức này sinh các thức khác, và làm chủng tử của tất cả pháp.
Giải thích: Là phải lấy thức thọ sinh làm chủng tử của tất cả pháp.
Nó làm chỗ tựa để cho các thức sinh, làm chủng tử của tất cả pháp.
Luận nói: Nếu ông chấp thức đã biến dị là Nhất thiết chủng tử thức, tức là A-lê-da thức, thì ông tự lấy tên riêng mà thành lập cho là ý thức.
Giải thích: Nếu ông chấp thức thọ sinh làm thức của chủng tử, thì giống với nghĩa mà tôi đã nói, tức là nói Alê-da thức làm chủng tử thức, nhưng ông tự không nói A-lê-da thức, mà lập riêng gọi là ý thức.
Luận nói: Hoặc ông chấp thức năng y chỉ là Nhất thiết chủng tử thức.
Giải thích: Y chỉ thức thọ sinh, lại sinh ra thức khác thì gọi là năng y chỉ thức, làm Nhất thiết chủng tử thức.
Luận nói: Cho nên, thức này do y chỉ mà thành nhân cho cái khác.
Giải thích: Biệt thức đã từ cái khác sinh ra, thì không thể tự làm chủng tử, cho nên thức này do y chỉ thức thọ sinh mới thành chủng tử mà được làm nhân cho cái khác. Luận nói: Thức sở y chỉ này, nếu không phải Nhất thiết chủng tử thức, thì năng y chỉ gọi là Nhất thiết chủng tử thức. Nghĩa đó không thành.
Giải thích: Biệt thức không thể tự làm chủng tử, do nương vào nhân khác mà được thành chủng tử, sở y thức thọ sinh không phải chủng tử, thì thức năng nương tựa lập làm chủng tử thức, nghĩa này lẽ nào mà thành được!
Luận nói: Cho nên thức này gửi sinh biến dị thành Kha-la-la, nên không phải là ý thức.
Giải thích: Thức này tức là A-lê-da thức, nó không được gọi là ý thức.
Luận nói: Chỉ là quả báo, cũng là tất cả chủng tử. Nghĩa này được thành.
Giải thích: Từ chủng tử sinh ra, cho nên gọi là quả báo thức, có khả năng nhiếp trì chủng tử, nên cũng gọi là chủng tử thức. Nếu nói nghĩa như vậy mới được thành. Luận nói: Lại nữa, nếu chúng sinh đã thác sinh, có khả năng nắm giữ các sắc căn khác, lìa quả báo thức thì không thể được.
Giải thích: Trước đã thuyết minh nghĩa chính khi thọ sinh, bây giờ thuyết minh nghĩa sau khi thọ sinh. Trước đã thuyết minh chúng sinh đang trong thai, bây giờ thuyết minh chúng sinh xuất thai. Nói chúng sinh đã thác sinh, nếu chúng sinh đã thác sinh, thì quyết định có ba nghĩa: 1. Chấp trì không bỏ phế. 2. Nhiếp trì chung các căn. 3. Thể là quả báo vô ký. Nếu lìa A-lê-da thức thì ba nghĩa này không thể được thành.
Luận nói: Vì sao? Vì các thức khác quyết định có y chỉ riêng.
Giải thích: Vì muốn dẫn đạo lý để chứng minh cho nên nói vì sao. Trong sáu thức, tùy mỗi một thức mà gọi các thức còn lại là các thức khác. Nhãn thức quyết định lấy nhãn căn làm y chỉ, cho đến thân thức quyết định lấy thân căn làm y chỉ, thuyết minh sự y chỉ khác biệt để chỉ rõ không thể chấp trì chung.
Luận nói: Kiên trụ không lâu.
Giải thích: Trong năm thức, tùy căn sở y của tự mỗi thức nếu có thể chấp trì, thì thức này không kiên trụ lâu, vì tương tục dễ hoại, hoặc trong địa vô thức cho nên hoại, hoặc các thức khác gián đoạn khởi cho nên hoại.
Luận nói: Nếu sắc căn này không có chấp trì, thì cũng không được thành.
Giải thích: Như sắc căn của người chết không có thức chấp trì thì liền rã hoại. Nếu lìa thức chấp trì thì các căn cũng phải như vậy. Nghĩa này không thành.
Luận nói: Lại nữa, thức này và danh sắc lại nương lẫn nhau ví như bó lau nương nhau cùng đứng, thức này không thành.
Giải thích: Trong Kinh, Phật Thế Tôn nói: Thức nương vào danh sắc mà sinh, danh sắc nương vào thức mà sinh, gọi đó là bốn ấm phi sắc. Sắc tức là Kha-la-la, thì cái nào nương vào danh sắc? Thức do danh sắc này làm y chỉ, sát-na truyền sinh tương tục, lưu chuyển không dứt, có thể nhiếp giữ danh sắc khiến cho thành tựu không hoại. Thức này gọi là nương vào danh sắc. Thức nếu phế bỏ, không có bản thức, lấy sáu thức làm thức thì nghĩa này không thành. Nếu lìa A-lê-da thức, thì trong sáu thức là chỉ thức nào? Câu hỏi này muốn chỉ rõ cái gì? Là muốn chỉ rõ các thức khác không thành thức thực sự.
Luận nói: Lại nữa, nếu lìa quả báo thức, thì tất cả cầu sinh (trung ấm) đã sinh chúng sanh với thức thực không thành.
Giải thích: Câu nói này muốn chỉ rõ bản thức, có thể tạo thành thức thực của danh sắc chúng sanh. Tại sao? Vì Phật Thế Tôn nói: Thực có bốn thứ, vì cầu sinh đã sinh chúng sinh, tương tục được trụ. Nên nói bốn loại thực, Những gì là bốn? 1. Đoạn thực. 2. Xúc thực. 3. Tư thực. 4. Thức thực. Đoạn thực lấy sự biến thành làm tướng. Tại sao vậy? Đoạn thực này nếu biến dị thì có thể làm các sự lợi ích của thân, đó gọi là đoạn thực. Xúc thực là nương vào trần làm tướng. Do duyên các trần của sắc, có thể làm sự lợi ích cho thân, đó gọi là xúc thực. Tư thực là cầu đắc làm tướng, ý cầu đắc này có thể làm sự lợi ích cho thân, như người đói khát đến nơi ăn uống, cầu được ăn uống, khiến cho thân không chết, đó gọi là Tư thực. Thức thực là chấp trì làm tướng. Do thức này chấp trì thân cho nên trụ không hoại. Nếu không có thức chấp trì thân đồng như người chết, tức là hoại rã, đó gọi là Thức thực. Cho nên các ông cũng phải tin thọ nghĩa của thức thực như vậy, để có thể làm sự lợi ích cho thân. Do đó gọi trong bốn loại thực này thì xúc thực thuộc sáu thức; tư thực thuộc ý cầu đắc, đoạn thực thuộc sắc không quan hệ với tâm. Thức thực trong ba nghĩa thì thuộc nghĩa nào? Nếu ông không nói có A-lê-da thức, thì nương vào thức nào để nói thức thực này. Lại nữa, như người trong cơn ngủ say, không mộng và tâm mê ngất, sáu thức đã diệt; nhập diệt tâm định thì sáu thức đã diệt. Lại nữa, không có ba thứ đoạn thực, xúc thực và tư thực, pháp nào giữ thân khiến cho không hoại? Nếu không có A-lê-da thức chấp trì thì thân này sẽ hoại, cho nên biết chắc phải lấy A-lê-da thức làm thức thực.
Luận nói: Tại sao vậy? Nếu lìa quả báo thức, trong nhãn thức… Tùy có một thức tạo thành sự thực (ăn) của chúng sinh thọ sinh trong ba cõi, thì không thấy có công năng.
Giải thích: Nếu lìa bản thức mà trong sáu thức tùy một thức, chúng sinh đã thọ sinh trong ba cõi thì không thấy thức này có công năng để có thể khởi sự ăn uống (Tác thực sự). Cho nên biết rằng các thức khác làm thức thực thì nghĩa này không thành.
Luận nói: Nếu người từ đời này chết sinh Tĩnh địa cõi trên, do ý thức tán động nhiễm ô đối với chỗ thọ sinh kia.
Giải thích: Trong Tĩnh địa lìa bản thức thọ sinh thì nghĩa này không thành. Như người thọ sinh thì chắc chắn là do tâm nhiễm ô. Nếu thọ sinh vào Tĩnh địa, thì ắt do tâm nhiễm ô tán loạn. Nhiễm ô là bị hoặc của tĩnh địa làm nhiễm ô. Hoặc này tướng thế nào mà thọ tưởng (ăn) vị của định? Hoặc này nhất định tại Tĩnh địa. Nếu người từ tán địa mà chết, dùng tâm tán loạn cõi dưới, thọ sinh vào cõi trên, thì không có nghĩa đó. Tại sao vậy? Hễ thọ sinh là do tâm tán loạn. Nếu lìa bản thức thì thức tán loạn này không thể được. Nếu người là người lìa dục, thì từ cõi Dục này sinh lên cõi Sắc và Vô sắc. Nhiễm ô tức là trung ấm tâm, khởi hoặc của cõi trên. Tán loạn tức là thức chánh thọ sinh. Thọ sinh nơi kia, tức là phương tiện sinh và chánh sinh.
Luận nói: Thức nhiễm ô tán loạn này, trong tĩnh địa lìa quả báo thức. Nếu có chủng tử khác thì nghĩa này không thành.
Giải thích: Nếu thọ chính sinh thì ắt có đủ bốn nghĩa: 1. Lấy nhiễm ô làm căn. 2. Tán động làm vị. 3. Quả báo làm thể. 4. Chủng tử hữu dư làm công năng. Nếu lìa bản thức thì bốn nghĩa này không thể được. Phải tin có A-lêda thức, tại sao vậy? Vì Tĩnh địa tâm huân tập trong thức này, từ vô thuỷ đến nay còn thừa chưa hết. Do công năng trong Tĩnh địa này có chủng tử, tán động, quả báo thức đối với nơi đó thọ sinh.
Luận nói: Lại nữa, nếu chúng sinh sinh vào cõi Vô sắc.
Giải thích: Đây là chỉ rõ đã giải thoát cõi Sắc.
Luận nói: Lìa Nhất thiết chủng tử quả báo thức.
Giải thích: Bản thức hoặc không có, hoặc thật có, ông bác rằng không có, cho nên gọi là lìa xa.
Luận nói: Nếu sinh nhiễm ô tâm và thiện tâm.
Giải thích: Nếu trong định khởi tâm nhiễm ô thọ tưởng vị định, hoặc tâm thiện hữu lưu của địa trên.
Luận nói: Không có chủng tử này cùng y chỉ hai thức nhiễm ô và thiện đều không được thành.
Giải thích: Không có chủng tử nghĩa là vô nhân. Do không có nhân cho nên không có y chỉ. Lại nữa, nếu không có chủng tử thì đó là vô nhân. Nếu không có nhân thì từ đâu mà sinh, nếu không có y chỉ? Thế nào là tương tục được trụ, tại sao vậy? Hai tâm này do bản thức gốm thâu, cho nên từ tự chủng tử sinh. Vì y chỉ bản thức cho nên được tương tục trụ.
Luận nói: Đối với vô Sắc giới nếu khởi tâm vô lưu, tâm thế gian còn sót đã diệt hết, thì phải vứt bỏ đối với đạo này.
Giải thích: Nếu người đã thọ sinh vào cõi Vô sắc, khởi xuất thế tâm, thì tâm thế gian ắt diệt hết. Nếu lìa bản thức thì phải xả báo cõi Vô sắc, không do công dụng liền nhập vô dư Niết-bàn. Đã không có nghĩa này, cho nên không thể bác rằng không có thức này.
Luận nói: Nếu chúng sinh sinh trong Phi tưởng phi phi tưởng, khởi bất dụng xứ tâm và tâm vô lưu, thì liền xả hai Xứ.
Giải thích: Nếu Thánh nhân sinh trời Phi tưởng phi phi tưởng, có khi nương vào bất dụng xứ địa khởi tâm vô lưu, vì bất dụng xứ tâm sáng tỏ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ tâm thì mờ tối. Do hiểu rõ địa người này tu tâm vô lưu. Nếu đắc tâm vô lưu thì liền xả hai địa Phi tưởng phi phi tưởng và bất dụng xứ.
Luận nói: Vì sao tâm vô lưu là xuất thế tâm, Phi tưởng phi phi tưởng đạo không phải y chỉ của nó, bất dụng xứ đạo cũng không phải y chỉ của nó?
Giải thích: Đạo thứ nhất và đạo thứ hai là thế gian pháp, không được làm y chỉ cho tâm vô lưu. Ai sinh vào địa khác, thì riêng lấy tâm của địa khác. Hai địa này cũng không phải tâm này y chỉ. Tại sao vậy? Vì tâm này hiểu rõ, không y chỉ đạo thứ nhất, vì đã xả đạo thứ hai, đạo thứ hai cũng không được làm y chỉ cho tâm vô lưu.
Luận nói: Thẳng đến Niết-bàn cũng không phải y chỉ.
Giải thích: Do có tâm vô lưu còn sót phiền não nên ba nghĩa này thuyết minh y chỉ đã không thành. Nếu lìa bản thức thì tâm vô lưu y chỉ pháp nào?
Luận nói: Lại nữa, như người đã tạo thiện nghiệp và ác nghiệp.
Giải thích: Nếu người trong thế gian, tạo… mười nghiệp thiện bất sát sinh, thì quyết định phải được sinh quả báo nhân thiên. Nếu tạo mười nghiệp ác sát sinh, thì phải bị sinh quả báo trong bốn cõi ác.
Luận nói: Chính khi xả thọ mạng nếu lìa A-lê-da thức, hoặc cõi trên hoặc cõi dưới thứ tự y chỉ, thì cảm xúc sờ vào thân lạnh không được thành.
Giải thích: Người đó trong lúc chết, nếu có nghiệp thiện thì quyết định được hướng thượng, nếu có nghiệp ác thì quyết định phải sinh cõi dưới. Nếu ông không tin có bản thức, tại sao thân y chỉ này hoặc có cảm xúc sờ vào thân lạnh ở dưới, lạnh ở trên, thứ tự được thành? Nếu không có bản thức, thì làm sao được thành bản thức để có thể chấp trì năm căn? Bản thức nếu xả thì thân y chỉ tùy theo chỗ của thức xả mà cảm xúc sờ vào thân lạnh thứ tự được khởi ngay chỗ xả ấy thành thân chết.
Luận nói: Cho nên sinh nhiễm ô, lìa quả báo thức của tất cả chủng tử, thì không thể được lập.
Giải thích: Sinh nhiễm ô tức là sự thọ sinh được sinh, y chỉ chấp trì là nhân quả nhiễm ô, gọi chung là nhiễm ô. Lại nữa, sinh tử đối lập với Niết-bàn, cho nên gọi là nhiễm ô. Bản thức là Tập đế cho nên gọi là chủng tử. Vì là Khổ đế nên gọi là quả báo. Làm nhân cái khác cho nên gọi là chủng tử. Quả cái khác cho nên gọi là quả báo. Nếu lìa thức này sinh nhiễm ô, thì nghĩa này không thành.
Giải thích: Do đạo lý như vậy mà phẩm tịnh thế gian không được thành. Bây giờ sẽ nói về nó.
Luận nói: Vì sao phẩm tịnh của thế gian không được thành? Nếu chúng sinh chưa lìa dục của cõi Dục, thì chưa đắc tâm của cõi Sắc.
Giải thích: Nếu người lìa dục cõi Dục thì đắc tâm của cõi Sắc, phải tu gia hạnh người tu này có hai loại: 1. Người đang quán hành. 2. Người mới phát Tu hành. Người đang Quán hành, thì đang ở trong Văn tuệ và Tư tuệ. Văn tuệ và Tư tuệ, mỗi mỗi đều có ba phẩm. Tu tập khiến cho tăng trưởng gọi là gia hạnh. Người mới phát tu hành, tức là mới tu Văn tuệ. Hai người này đều chưa lìa dục của cõi Dục, đều chưa đắc Định vị lai. Định vị lai tức là tâm cõi Sắc.
Luận nói: Trước hết khởi thiện tâm cõi Dục, cầu lìa dục cõi Dục, tu hạnh quán tâm.
Giải thích: Nếu người chưa đắc tâm của cõi Sắc, mà được trong Văn tuệ, thì gọi là trước hết khởi tâm thiện của cõi Dục. Trong Văn tuệ, mong lìa dục của cõi Dục mà quán tâm chính là Tư tuệ và tu tuệ, lìa dục cõi Dục cho nên tu hành Tư tuệ và tu tuệ.
Luận nói: Tâm gia hạnh cõi Dục này cùng với tâm cõi Sắc không cùng lúc khởi diệt, cho nên không phải sở huân.
Giải thích: Văn tuệ và Tư tuệ, mỗi mỗi đều có phẩm, tức là gia hạnh. Tại sao tâm này cùng với tâm cõi Sắc không cùng lúc khởi diệt? Vì một là thô tế khác nhau, hai là do động và tịnh khác nhau, ba là do tu tự tánh khác nhau và bốn là do sự ràng buộc và xa lìa khác nhau, cho nên không được cùng lúc khởi diệt. Nếu không là đồng thời có thì tâm ở cõi Sắc không được huân tâm của cõi Dục.
Luận nói: Cho nên tâm thiện của cõi Dục không phải là chủng tử của tâm thiện cõi Sắc.
Giải thích: Tâm cõi Dục đã không bị tâm cõi Sắc huân tập, không phải chủng tử của tâm ở cõi Sắc, thì tâm ở cõi Sắc sinh không có nhân duyên. Nếu không có nhân duyên thì làm sao được sinh? Nếu ông nói trong vô thủy sinh tử đã sinh quả báo của tâm cõi Sắc chưa thuần thục, chủng tử này chưa diệt, có thể là tác nhân của tâm cõi Sắc hiện tại, nghĩa đó không đúng, tại sao vậy?
Luận nói: Tâm cõi Sắc quá khứ vô lượng, bị cách ngăn bởi kiếp khác và tâm khác, về sau không thể lập vì chủng tử của thức của địa tĩnh lự (cõi Sắc) đã không có. Giải thích: Trong vô thủy sinh tử tâm cõi Sắc được sinh trước, lấy đây làm chủng tử, thì chủng tử này đã không có pháp nhiếp trì, kiếp đã diệt mất, trong sáu đường có vô lượng kiếp, trong mỗi mỗi kiếp có vô lượng tâm, ngăn cách chỗ khởi tâm trước kia. Chủng tử này diệt hết từ lâu, làm thế nào chủng tử này được lập là nhân của tâm cõi Sắc.
Luận nói: Cho nên nghĩa này được thành.
Giải thích: Do nghĩa mà ông đã lập không thành, nên nghĩa mà tôi lập được thành. Tại sao được thành?
Luận nói: Là tất cả chủng tử của tâm tĩnh lặng cõi
Sắc, quả báo thức thứ tự truyền lại, lập làm nhân duyên.
Giải thích: Những gì có được trong vô thủy sinh tử, không phải do chí định và bốn định huân tập, bản thức lấy làm chủng tử, được bản thức nắm giữ, thứ tự tương tục truyền lại đến nay không dứt, được lập làm nhân duyên của tâm tĩnh lặng cõi Sắc. Tâm tĩnh lặng cõi Sắc nếu sinh, thì từ tự chủng tử này mà sinh, cho nên không giống với cái chấp không có nhân duyên của ông. Nếu lấy chủng tử đời trước làm nhân duyên, thì hiện tại sự tu văn, tư, và tu tuệ, các chủng tử này còn dụng vào việc gì?
Luận nói: Tâm gia hạnh thiện này lập làm tăng thượng duyên.
Giải thích: Tâm gia hạnh thiện không phải không có công dụng. Do tăng thượng lực này mà tâm của cõi Sắc sinh khởi. Nếu không có tâm gia hạnh này thì không phá được dục của cõi Dục. Nếu dục của cõi Dục không diệt, thì chủng tử của cõi Sắc trước không được sinh tâm cõi Sắc hiện tại. Gia hạnh chỉ được tạo ra tăng thượng duyên của tâm cõi Sắc, không được làm nhân duyên.
Luận nói: Như vậy trong tất cả cõi lìa dục, nghĩa đó nên biết. Như vậy nghĩa phẩm vị thanh tịnh của thế gian, lìa quả báo thức của tất cả chủng tử thì không thể lập.
Giải thích: Hoặc căn cứ theo bốn định lìa dục của cõi Dục, hoặc căn cứ vào lìa dục và cõi Sắc, thì nhân duyên và tăng thượng duyên của tâm cõi Sắc và cõi vô Sắc đều phải hiểu rõ như vậy.
-----------------------------
Luận nói: Tại sao phẩm thanh tịnh của thế gian lìa A-lê-da thì không thể được lập?
Giải thích: Bây giờ sẽ nói nghĩa này.
Luận nói: Phật Thế Tôn nói: Từ việc nghe âm thanh khác, và tự suy nghĩ chơn chánh, do hai nhân này mà cái thấy chánh kiến được sinh.
Giải thích: Phẩm thanh tịnh lấy chánh kiến đặt hàng đầu. Chánh kiến này lấy pháp gì làm tăng thượng duyên? Là từ một nơi khác nghe âm thanh và khởi chánh tư duy, hai nhân này tức là tăng thượng duyên của chánh kiến. Hai nhân này mỗi mỗi đều có bốn nghĩa: 1. Có loại chánh kiến thuộc Văn tuệ, vì từ nơi khác nghe âm thanh làm nhân. Có loại chánh kiến thuộc Tư tuệ, là chánh tư duy làm nhân. 2. Hoặc chánh kiến của Thanh-văn, thì từ nơi khác nghe âm thanh làm nhân. Hoặc chánh kiến của Độc Giác và Bồ-tát, thì lấy chánh tư duy làm nhân. 3. Căn cứ kẻ độn căn làm câu thứ nhất, căn cứ theo kẻ lợi căn làm câu thứ hai. 4. Căn cứ Tư tuệ làm câu thứ nhất, căn cứ theo tu tuệ làm câu thứ hai. Do hai nhân này mà chánh kiến được sinh. Hai nhân này đối với chánh kiến là tăng thượng duyên. Nay nói nhân ấy là tên chung, tức là nói duyên làm nhân.
Luận nói: Nghe âm thanh khác và suy nghĩ chân chánh này, không thể huân tập nhĩ thức và ý thức, hoặc cả hai nhĩ và ý.
Giải thích: Âm thanh khác, là pháp môn mà Phật Bồtát thành lập. Nghe âm thanh khác là từ những gì được nghe mà hiểu, tức là văn tuệ. Chánh tư duy là như những gì được nghe mà chọn lựa thị phi, tức là Tư tuệ. Hai tuệ này không có nghĩa huân tập riêng từng thứ nhĩ thức và ý thức, cũng không có nghĩa huân tập song song cho cả hai.
Luận nói: Tại sao vậy?
Giải thích: Hai tuệ này tại sao không thể huân tập cho nhĩ thức và ý thức?
Luận nói: Nếu người như nghe mà hiểu và suy nghĩ chân chánh về các pháp, thì lúc đó nhĩ thức không được sinh.
Giải thích: Nếu người đã nghe âm thanh khác, sau đó trong sự sinh Văn tuệ Tư tuệ, thì Văn tuệ Tư tuệ là ý thức, lúc đó nhĩ thức không được sinh, đồng thời Văn tuệ và Tư tuệ không được huân tập nhĩ thức.
Luận nói: Ý thức cũng không được sinh.
Giải thích: Khi sắp sinh chánh kiến, ý thức tương ưng của Tư tuệ cũng không được sinh.
Luận nói: Vì thức phân biệt loạn động khác xen vào. Giải thích: Tại sao không được sinh? Do có thức phân biệt tán loạn khởi xen vào giữa, cho nên Tư tuệ này không được sinh liền.
Luận nói: Nếu cùng với Chánh tư duy tương ưng sinh.
Giải thích: Đây là thuyết minh Tư tuệ của thời điểm các căn vị tri và dục tri sắp sinh.
Luận nói: Ý thức này diệt mất đã lâu.
Giải thích: Khi Tư tuệ bắt đầu sinh thì ý thức diệt mất đã lâu.
Luận nói: Sở huân của Văn tuệ đã không có sự huân tập chung.
Giải thích: Tư tuệ do đa văn huân tập mới được trước đây, cùng với sự huân tập đều lui về quá khứ.
Luận nói: Tại sao sau đó lấy thức trước làm chủng tử thì thức sau được sinh?
Giải thích: Không thể lấy Tư tuệ mới đắc làm chủng tử để được sinh Tư tuệ sau, Tư tuệ trước diệt mất đã lâu, khoảng giữa bi tâm khác làm gián đoạn của tâm khác, không được vượt qua công năng của Tư tuệ trước. Trong Tư tuệ sau, thì Tư tuệ sau mỏng yếu, cũng không thể dẫn khởi chánh kiến, cũng không được nói thức này làm chủng tử sinh chánh kiến. Trong đây thuyết minh không có nghĩa trước sau huân tập nhau. Chưa luận chỗ không đồng thời huân tập nhau.
Luận nói: Lại nữa, tâm thế gian tương ưng với chánh tư duy. Tâm xuất thế gian tương ưng với chánh kiến. Hai thứ tâm này không có khi nào được sinh chung diệt chung.
Giải thích: Chánh Tư tuệ và Chánh tu tuệ, từ bốn niệm xứ đến thế đệ nhất là địa vị của nó. Tâm này chưa chứng thấy tứ đế, gọi là tâm thế gian. Đã chứng thấy Tứ đế thì gọi là pháp lìa tự tánh của xuất thế gian tức là tu đắc pháp cho nên gọi là tâm thanh tịnh. Chánh kiến là phần thứ nhất trong tám thánh đạo. Chánh kiến này cùng với ba mươi bảy phẩm trợ đạo không tương ưng. Do tu đắc tâm thanh tịnh, ba mươi bảy phẩm trợ đạo mới sinh. Do ba mươi bảy phẩm trợ đạo sinh khởi cho nên được xa lìa khỏi thế gian, từ vô thủy đến nay, tâm thế gian và tâm xuất thế gian không có nghĩa đồng thời sinh và đồng thời diệt, vì tánh trái nhau.
Luận nói: Do đó, tâm thế gian này không quan hệ với sự huân tập của thanh tịnh.
Giải thích: Đã không đồng thời sinh diệt cho nên không có nghĩa huân tập lẫn nhau.
Luận nói: Đã không có sự huân tập, thì không được thành chủng tử xuất thế.
Giải thích: Tư tuệ nếu được huân tập bởi tâm xuất thế, thì có thể được thành chủng tử xuất thế. Đã không có nghĩa bị huân tập, cho nên nghĩa chủng tử xuất thế không thành.
Luận nói: Do đó nếu lìa quả báo thức của tất cả chủng tử thì xuất thế thanh tịnh cũng không được thành. Giải thích: Nếu lìa bản thức thì tâm xuất thế đã không có nhân duyên cho nên không được thành.
Luận nói: Vì sao trong đó, sự huân tập của Văn và Tư không có nghĩa có thể nhiếp lấy huân tập chủng tử xuất thế?
Giải thích: Trong đó tức là trong Tư tuệ, trong Tư tuệ có đa văn huân tập. Nếu xưa nay đã khởi tâm xuất thế huân tập, thì Tư tuệ này có thể được nghĩa sẽ là Tư tuệ nhiếp trì sự huân tập xuất thế làm chủng tử. Nhưng xưa nay đã chưa từng khởi tâm xuất thế để huân tập Tư tuệ, cho nên không có đạo lý được nói là Tư tuệ nhiếp trì sự huân tập xuất thế làm chủng tử.
Luận nói: Vì sao quả báo của tất cả chủng tử. Thức trở thành nhân của phẩm bất tịnh, hoặc có thể làm nhân nhiễm trược để đối trị với tâm xuất thế thanh tịnh?
Giải thích: Bản thức không nên làm nhân của phẩm bất tịnh. Nếu lập bản thức là nhân nhiễm trược để đối trị tâm xuất thế, thì không được lấy bản thức làm nhân của phẩm bất tịnh. Phẩm bất tịnh tức là tập đế và khổ đế, tức chủng tử của nghiệp phiền não. Tập đế đó có thể sinh ra sinh tử, tức là khổ đế nhiễm trược đối trị liền diệt trừ. Hoặc làm nhân của tâm xuất thế, tức là sinh đạo diệt hoặc. Sinh đạo cùng với phẩm bất tịnh trái nhau, đã lập làm đối trị nhiễm trược và nhân của tâm xuất thế, không nên nói là nhân của phẩm bất tịnh.
Luận nói: Tâm xuất thế này xưa nay chưa từng sinh tập, cho nên quyết định không có sự huân tập.
Giải thích: vô thủy đến nay chưa từng sinh tâm xuất thế, đã không sinh thì huống chi lại tu tập? Do đó tâm xuất thế quyết định không nghi ngờ là nó không được huân vào bản thức.
Luận nói: Nếu không có sự huân tập, thì tâm xuất thế này từ nhân nào sinh?
Giải thích: Nếu có sự huân tập là chủng tử, thì tâm xuất thế có thể được có nhân, nhưng đã không có huân tập thì tâm xuất thế do không có nhân mà sinh.
Luận nói: Ông nay phải đáp rằng.
Giải thích: Chưa thấy có đạo lý của nhân, cho nên hỏi vặn để khiến cho đáp.
Luận nói: Do pháp giới thanh tịnh sở lưu chánh văn huân tập làm chủng tử nên tâm xuất thế được sinh.
Giải thích: Muốn lựa riêng với chỗ đắc pháp giới của nhị thừa, cho nên nói pháp giới thanh tịnh. Tại sao khác với chỗ đắc của nhị thừa? hoặc chướng và trí chướng của pháp giới này, diệt hết không thừa cho nên nói là tối thanh tịnh. Pháp giới, là như lý như lường thông với ba vô tánh, lấy làm thể của nó. Chỗ gìn giữ, chính là thuyết chánh pháp, là mười hai Bộ Kinh. Sự nghe đúng đắn, là nhất tâm cung kính không có nghe điên đảo. Cái nghe đúng đắn này mà có sáu thứ huân tập, ý nghĩa khởi trong bản thức. Tâm xuất thế nếu sinh, thì chắc chắn do cái nghe đúng đắn này mà được sinh.
Luận nói: Sự huân tập Văn tuệ này, là cùng với Alê-da thức đồng tánh hay là bất đồng tánh?
Giải thích: Nếu như thế thì có lỗi gì?
Luận nói: Nếu là tánh của A-lê-da thức, tại sao có thể trở thành đối trị chủng tử của thức này. Nếu bất đồng tánh, thì Văn tuệ chủng tử lấy pháp gì làm y chỉ?
Giải thích: Nếu là Tánh của bản thức, thì tại sao tự tánh có thể làm đối trị? Vì diệt đối với tự tánh. Nếu bất đồng tánh thì sự huân tập Văn tuệ này phải riêng có y chỉ.
Luận nói: Đến Vô thượng Bồ-đề của chư Phật, là sự huân tập Văn tuệ sinh, tùy tại một nơi y chỉ, trong đó cộng quả báo thức đều sinh.
Giải thích: Công năng của cái nghe này từ đâu mà sinh? Tương tục đến ngôi nào? Chư Bồ-tát từ Thập tín trở lên cho đến Vô thượng Bồ-đề công năng nghe này tương tục trụ không mất. Chưa có công năng mới để sinh thì đã có công năng chưa diệt để trụ. Sinh và trụ này trong sáu đường, thân và xứ năm ấm tùy y chỉ một đạo. Trong thân sáu cõi cùng với bản thức câu sinh tương tục bất tận. Tuy cùng với bản thức bất đồng Tánh, nhưng cùng với bản thức câu sinh.
Luận nói: Ví như sữa và nước.
Giải thích: Nước cùng với sữa tuy hoà hợp, nhưng tánh của nó bất đồng mà được câu sinh.
Luận nói: Sự huân tập nghe này tức là chẳng phải bản thức, vì đã thành đối trị chủng tử của thức này.
Giải thích: Công năng nghe này là đối trị của bản thức, không đồng tánh với bản thức. Dù không đồng tánh, nhưng vì không trái nhau cho nên hằng đồng thời khởi. Tại sao làm đối trị của bản thức?
Luận nói: Trong đây nương vào phẩm hạ sự huân tập mà sự huân tập phẩm trung sinh khởi; nương vào sự huân tập trung phẩm mà sự huân tập phẩm thượng sinh khởi.
Giải thích: Trong đây, tức là trong chỗ nương tựa và trong bản thức. Công năng của sự huân tập cái nghe của ba phẩm, là hạ trung thượng. Hạ tức là Văn tuệ, trung tức là Tư tuệ, thượng tức là tu tuệ. Lại có ba phẩm nữa, là ngay trong ba thứ tuệ này mỗi mỗi khai mở làm ba phẩm. Lại có ba phẩm nữa, là phẩm giải thoát phần, phẩm thông đạt phần và phẩm thông đạt. Văn có ba nghĩa: 1. Văn tư lương, là chỗ phát ra của âm thanh, đây gọi là cú vị (chất vị của câu). 2. Thể nghe, là nhĩ thức. 3. Văn quả là Văn tuệ và chỗ hiểu rõ pháp môn của Văn tuệ. Sự huân tập cái nghe của ba phẩm này tùy theo một phẩm mà sinh, tùy theo một phẩm của công năng đối trị thuộc bản thức. Nếu phẩm hạ sinh, là có khả năng đối trị phẩm thượng thuộc bản thức, cho đến nếu Thượng Phẩm sinh, là hay đối trị phẩm hạ thuộc bản thức.
Luận nói: Tại sao vậy?
Giải thích: Câu hỏi này có ba ý nghĩa: 1. Tại sao có ba Phẩm. 2.
Tại sao tương sinh. 3. Tại sao có thể đối trị.
Luận nói: Vì mỗi niệm gia hạnh về Văn, Tư, Tu.
Giải thích: Mỗi niệm chỉ rõ luôn thực hành gia hạnh không gián, nhằm chỉ rõ sự tạo tác làm khởi công dụng không phải tu học xa xôi. Do niệm niệm gia hạnh mà có ba phẩm, được tương sinh cho nên được đối trị. Nếu do niệm niệm gia hạnh mà thành ba phẩm và tương sinh thì nghĩa này khỏi phải nghi ngờ. Tại sao niệm niệm gia hạnh mà thành bản thức đối trị?
Luận nói: Sự huân tập cái nghe đó, hoặc là thượng, hạ, trung phẩm, phải biết đó là chủng tử của pháp thân.
Giải thích: Pháp gì gọi là pháp thân? Chuyển y gọi là pháp thân. Tướng của chuyển y là thế nào? Thành thục tu tập nương vào mười địa và Ba-la-mật. Tướng nó là công đức chuyển y, ra khỏi. Do sự huân tập cái nghe mà bốn pháp được thành: 1. Tin ưa đại thừa là đại chủng tử thanh tịnh. 2. Bát-nhã Ba-la-mật là chủng tử của đại ngã. 3. Hư không khí tam-muội là chủng tử của sự an vui tất định. 4. Đại bi là chủng tử thường hằng. Thường lạc ngã tịnh là bốn đức của pháp thân. Sự huân tập cái nghe này và bốn pháp đó là chủng tử của bốn đức. Khi bốn đức viên mãn thì bản thức đều diệt hết. Sự huân tập cái nghe và bốn pháp đã làm chủng tử của bốn đức, có thể đối trị bản thức, thì sự huân tập cái nghe chính là chủng tử của năm phần pháp thân. Sự huân tập cái nghe là hành pháp chưa có, nhưng có năm phần pháp thân; cũng chưa có mà có, thì chính là chủng tử của năm phần pháp thân. Sự huân tập cái nghe chỉ là chủng tử của bốn đức đạo, thì bốn đức có thể thành để chỉ rõ bốn đức. Bốn đức xưa nay là có, không từ chủng tử sinh mà từ nhân đặt tên, cho nên xứng với chủng tử.
Luận nói: Do đối trị A-lê-da thức sinh, cho nên nó không thuộc vào tánh A-lê-da thức.
Giải thích: Sự huân tập nghe này không phải làm tăng thêm bản thức mà sinh, vì muốn tổn giảm thế lực của bản thức mà sinh, cho nên có thể đối trị bản thức, cùng với tánh của bản thức trái nhau, không bị thu vào tánh của bản thức. Đây là chỉ rõ pháp thân là quả của sự huân tập nghe.
Luận nói: Pháp giới xuất thế tối thanh tịnh lưu xuất.
Giải thích: Ra khỏi bảy thứ khổ đế, diệt ba thứ tập đế gọi là xuất thế, là chân như của ba vô tánh vốn không có nhiễm ô. Sau đó lìa ba chướng cấu uế cho nên gọi là thanh tịnh tối thắng, đạo của ba thừa từ pháp này mà sinh cho nên gọi là giới, là sự huân tập nghe từ pháp giới tối thanh tịnh lưu xuất. Không thuộc vào tánh bản thức. Đây là chỉ rõ pháp thân là nhân của sự huân tập của cái nghe. Nhân của sự huân tập cái nghe khác với bản thức, quả của sự huân tập cái nghe cũng khác với bản thức. Thể của sự huân tập cái nghe cùng với bản thức là đồng hay là khác?
Luận nói: Tuy pháp thế gian nhưng lại thành tâm xuất thế.
Giải thích: Như ý thức tuy pháp là thế gian, nhưng có thể thông đạt chân như của bốn đế và do đối trị chướng của bốn đế cho nên trở thành tâm xuất thế. Sự huân tập nghe cũng như thế, tuy là pháp thế gian, nhưng vì nhân quả đều là pháp xuất thế, thế nên cũng thành tâm xuất thế.
Luận nói: Tại sao vậy?
Giải thích: Tại sao vậy? Vì pháp này chỉ là xuất thế, không phải pháp thế gian nên có bốn thứ đối trị.
Luận nói: Tâm xuất thế thanh tịnh của chủng tử này khi chưa khởi, thì tất cả tâm trên để đối trị hoặc chướng.
Giải thích: Đây là thứ nhất, chỉ rõ sự đối trị ác tâm. Do đây mà sự huân tập cái nghe hiểu rõ chánh lý, có khả năng biết các sai lầm của các trần, đối với phi lý và các trần mà sinh khởi tâm chán ghét. Tâm chán ghét này có thể đối trị tâm hoặc nhiễm ô phẩm trên, tức là công năng của sự huân tập cái nghe. Đây gọi chủng tử của tâm đối trị chán ghét, tức là sự huân tập cái nghe. Các căn vị tri và dục tri của Bồ-tát, gọi là tâm xuất thế thanh tịnh. Tâm này khi chưa khởi, là sự huân tập cái nghe, thuộc lãnh vực của Văn tuệ và Tư tuệ. Trong lãnh vực nghe, tư duy, trước kia khi chưa đắc Văn tuệ và Tư tuệ, do cái thấy điên đảo và tư tưởng điên đảo, Kiến đạo và Tu đạo đã phá phiền não hằng khởi tâm cao thượng. Sinh bốn ác nghiệp và bốn ác báo thuộc cõi ác, do đắc pháp này, nên phiền não chưa sinh và nghiệp quả báo đều không khởi được.
Luận nói: Tất cả đối trị sự sinh khởi trong ác đạo.
Giải thích: Đây là thứ hai, chỉ rõ sự đối trị trừ diệt. Do sự huân tập cái nghe khởi dựa vào tương tục, khiến cho tương tục nhập vào tụ chánh định, sự huân tập cái nghe tùy theo đó mà sinh và diệt pháp ác, có khả năng đoạn dứt bốn ác đạo và làm phát sinh thiện đạo. Trước kia đã từng khởi nghiệp ác, phải dẫn đến bốn đường ác, nay do pháp này mà diệt trừ không thọ lại nữa.
Luận nói: Tất cả đối trị hành động ác khiến khổ hoại diệt”
Giải thích: Đây là thứ ba, chỉ rõ sự đối trị bằng cách xa lánh. Nghiệp ác hậu báo đã tạo trong vô thủy sinh tử, có thể khiến cho đọa lạc vào bốn đường ác trong, khi thọ báo về sau. Pháp này có khả năng thay đổi khiến hậu báo không có, liền đó là nghĩa khổ bị hoại diệt.
Luận nói: Có thể dẫn tương tục khiến cho sinh và xứ đó, tùy thuận tương phùng và phụng sự chư Phật Bồ-tát. Giải thích: Đây là thứ tư, hiển chỉ rõ đối trị bằng cách nương tựa và thu nhiếp. Có khả năng dẫn năm ấm tương tục, khiến cho khi sinh ra có xứ của chư Phật Bồ-tát, tùy thuận tương phùng và phụng sự. Gặp nhau bất ngờ gọi là phùng, thuỷ chung phụng mệnh vâng lời gọi là phụng sự. Người đó nương vào thiện tri thức. Thiện tri thức giúp người ấy sinh thiện căn mà tu bố thí và ái ngữ nhiếp. Vì khiến cho người kia thành thục thiện căn mà tu lợi hành nhiếp. Vì khiến cho người kia đắc giải thoát thiện căn mà tu đồng lợi nhiếp. Nương vào sự thu nhiếp để chỉ rõ bốn nghĩa của sự đa văn: 1. Đa văn y chỉ, là thiện tri thức. 2. Đa Văn nhân, là tâm Bồ-đề. 3. Đa văn thanh tịnh, là như giáo tu hành. 4. Đa văn quả, là tự lợi và lợi tha. Đa văn thứ nhất có nghĩa là gặp gỡ, ba thứ đa văn sau có nghĩa là phụng sự. Lại nữa, ba thứ đối trị trước nương vào đối trị thứ bốn, đối trị thứ tư thì gồm thâu ba pháp đối trị trước. Tại sao vậy? Nếu không có thiện tri thức thì ba thứ trước không được thành. Ba thứ trước nương vào thứ tư. Ba thứ trước tức là công năng của thiện tri thức, bị gom vào đa văn thứ tư.
Luận nói: Sự huân tập nghe này tuy là pháp thế gian nhưng là đều có được của Bồ-tát mới tu quán, phải biết pháp này thuộc về sự thu nhiếp của pháp thân.
Giải thích: Nhĩ thức nghe âm thanh dẫn khởi ý thức, nương vào văn cú mà hiểu rõ nghĩa của nó, niệm niệm luyện tập sinh ra công năng, nắm giữ không mất gọi là sự huân tập cái nghe. Do nghĩa này cho nên nói là pháp thế gian. Bồ-tát có hai lãnh vực: 1. Tại phàm vị. 2. Tại thánh vị. Từ sơ phát tâm đến thập tín trở lại, đều là lãnh vực phàm phu. Từ Thập giải trở lên đều thuộc lãnh vực Thánh. Người mới tu quán tức là phàm phu Bồ-tát, hoặc chỗ đắc sự huân tập nghe của Bồ-tát mới tu quán gọi là pháp thế gian. Tuy là pháp thế gian nhưng mà là nhân chứng đắc của pháp thân, thuộc sự thu nhiếp của pháp thân.
Luận nói: Hoặc điều có được Thanh-văn và Duyêngiác, là thuộc vào giải thoát thân.
Giải thích: Như chỗ có sự huân tập cái nghe của người đã đắc quả cứu cánh của hành nhị thừa, thì còn thuộc sự thu nhiếp của thân giải thoát, huống chi Thanhvăn, Duyên-giác và Bồ-tát. Tại sao vậy? Hai người này chỉ đắc thân giải thoát, không thể đắc pháp thân Như Lai.
Hai người này do có thân giải thoát mà họ được ngang bằng với Như Lai không do pháp thân. Như Lai thì do đắc pháp thân, nên tất cả chúng sinh không ai sánh bằng. Bản thức và sự huân tập cái nghe, tuy tương ưng cùng khởi cùng diệt, nhưng bản thức thì giảm dần, không phải bản thức tương tục tăng. nghĩa này tôi hiện đang nói.
Luận nói: Sự huân tập cái nghe này không phải chỗ thu nhiếp A-lê-da thức, mà thuộc sự thu nhiếp của pháp thân và thân giải thoát. Như vậy, từ hạ trung đến thượng phẩm thứ tự tăng dần. Như vậy, quả báo thức thứ tự giảm dần.
Giải thích: Thể của sự huân tập nghe là pháp xuất thế, nhân quả của sự huân tập nghe thuộc sự thu nhiếp của pháp thân và thân giải thoát. Thể của bản thức là pháp xuất thế gian. Nhân của sự huân tập cái nghe là tập đế, quả của sự huân tập cái nghe là khổ đế. Do vậy tự tánh của hai pháp này trái nhau. Do nghĩa này cho nên sự huân tập cái nghe tăng dần, bản thức thì giảm dần. Hạ phẩm của sự huân tập cái nghe sinh thì thượng phẩm của bản thức giảm. Sự huân tập cái nghe tăng đến trung phẩm thì trung phẩm của bản thức giảm. Sự huân tập của cái nghe tăng đến phẩm thượng thì phẩm hạ của bản thức giảm.
Luận nói: Y chỉ tức là chuyển.
Giải thích: Do đạo đế tăng thì Tập đế giảm. Đạo đế tức là phước đức và trí tuệ, tập đế tức là chủng tử trong bản thức. Do phước đức và trí tuệ tăng dần thì chủng tử giảm dần, cho nên được chuyển y. (chuyển chỗ nương tựa)
Luận nói: Nếu y chỉ hoàn toàn chuyển là có chủng tử, thì quả báo thức liền không có chủng tử tất cả đều hết.
Giải thích: Y chỉ tức là pháp thân của Như Lai, thứ tự tăng dần sinh ra đạo đế và thứ tự giảm dần Tập đế, đó gọi là hoàn toàn xả. Sơ địa đến nhị địa, cho đến được thành Phật, đó gọi là chuyển. Nghiệp phiền não diệt cho nên nói là không còn chủng tử. Đây là chỉ rõ Hữu dư Niết-bàn. Quả báo tắt ngấm, cho nên nói tất cả đều hết. đây là chỉ rõ Vô dư Niết-bàn. Do nghĩa này, bản thức cùng với đạo tuy là câu sinh, nhưng có tăng giảm khác nhau.
Luận nói: Nếu bản thức và phi bản thức cùng khởi cùng diệt, thì cũng như nước và sữa hoà hợp vậy tại sao bản thức diệt, phi bản thức không diệt?
Giải thích: Trước đã đưa ra nước sữa hòa hợp để ví dụ bản thức và phi bản thức hoà hợp, lại còn đưa ra ví dụ này để vấn nạn. Nước và sữa hoà hợp, đã có sinh diệt thì phải đồng thời, không có nghĩa diệt hết chỉ một thứ nước hay sữa. Bản thức và Phi bản thức hoà hợp cũng như vậy, tại sao một diệt một còn?
Luận nói: Ví như sữa mà ngỗng uống trong nước.
Giải thích: Đây là lấy ví dụ để giải thích vấn nạn. Nước sữa tuy hoà hợp, nhưng khi con ngỗng uống, thì chỉ uống sữa mà không uống nước, cho nên sữa tuy hết mà nước thì không cạn. Bản thức cùng với phi bản thức cũng vậy, tuy hoà hợp nhưng một diệt một còn.
Luận nói: Cũng như thế gian khi lìa dục, sự huân tập của bất tĩnh địa diệt, sự huân tập của tĩnh địa tăng, thì nghĩa chuyển y của thế gian được thành. Chuyển y của xuất thế cũng như vậy.
Giải thích: Trước đã dẫn sự thế gian hiểu rõ làm thí dụ. Sau đây dẫn sự người trí thế gian hiểu rõ làm thí dụ. Như người thế gian lìa dục, thì phiền não và nghiệp chủng tử của bất tĩnh địa trong bản thức diệt mất. Công đức thiện căn của tĩnh địa sự huân tập viên mãn, thì chuyển chỗ y của cõi dưới thành chỗ y của cõi trên. Chuyển y của xuất thế cũng như vậy, do công năng của bản thức giảm dần, sự huân tập nghe thứ tự giảm dần, bỏ chỗ dựa phàm phu mà làm Thánh. Chỗ Thánh nhân dựa là sự huân tập nghe và tánh giải thoát hoà hợp. Trên nền tảng đó, tất cả bậc Thánh đều nương vào đấy mà sinh.
Luận nói: Nếu người nhập định diệt tâm, do nói thức không lìa thân, cho nên quả báo thức trong định đáng lẽ không lìa thân.
Giải thích: Chương nầy lại dẫn ra một đạo lý không trái nghịch nhằm chứng rõ Bản thức thật có. Nếu người cho rằng quả thứ ba, thứ tư Duyên-giác và Bồ-tát vì đạt được trụ ở tịch tĩnh và lìa lỗi thoái chuyển nên Thánh nhân tu định diệt tâm, không phải thể của diệt tâm xứng với diệt tâm, mà vì pháp của diệt tâm cho nên gọi là diệt tâm. Do năng y theo sở y nên lập tên của tâm. Phật Thế Tôn nói: Khi nhập định nầy thì thức không lìa thân, thức nầy chỉ là quả báo thức. Nếu lìa thức nầy mà nói tùy một thức khác trong sáu thức không lìa thân thì nghĩa nầy không thành. Tại sao vậy? Tu định diệt tâm nầy là vì đối trị thức sinh khởi, do quán thấy sinh khởi thức có lỗi không tịch tĩnh. Lỗi, là sáu thức duyên với trần cảnh bên ngoài, có nghĩa là khởi tư duy không chánh đáng. Do tư duy không chánh đáng mà định bị thoái chuyển. Đây là lỗi thứ nhất. Do thức sinh khởi thức trong sự tán động, chướng ngại nên không được sự tịch tĩnh vi tế nhất, đây là lỗi thứ hai. Khi đã đắc, thì thoái chuyển, khi chưa đắc thì không thoái chuyển. Để đối trị hai lỗi nầy cho nên tu định diệt tâm. Nếu thành lập thức không lìa thân, thì nên biết đó là bản thức.
Luận nói: Tại sao vậy?
Giải thích: Lại lấy nghĩa gì để chứng biết? Thức không lìa thân chỉ là bản thức.
Luận nói: Định diệt tâm không phải thức nầy đối trị. Giải thích: Nếu người muốn được trụ tịch tĩnh thì không quán lỗi của thức nầy thì không vì đối trị thức nầy, mà tu định diệt tâm. Do đó khi chính đang nhập định diệt tâm thì không diệt thức nầy, tức đây nói thức nầy không lìa thân.
Luận nói: Làm sao biết như vậy?
Giải thích: Nghĩa như vậy làm sao biết được? Tại sao không nói khi nhập định diệt tâm thì thật ra không có Tâm trở lại? Vì tâm không phải diệt vĩnh viễn, sau đó sinh trở lại, cho nên nói thức không lìa thân. Phật Thế Tôn nói: Nếu người nhập định thứ tư, thì thân hành không đoạn. Nếu người nhập định thứ hai thì ngôn hành đoạn. Nếu người nhập định diệt tâm thì tâm hành đoạn. Như vậy thân hành đoạn mà thân không diệt, tâm cũng phải như thế, chỉ có tâm hành diệt mà tâm không diệt, cho nên nói thức không lìa thân. Tại sao không nói như thế này? Nếu người chấp nhập định diệt tâm, sau khi xuất định thì tâm sinh trở lại, do nghĩa nầy mà nói thức không lìa thân thì nghĩa đó không đúng. Tại sao vậy?
Luận nói: Nếu xuất từ định nầy, thì thức không nên sinh lại nữa.
Giải thích: Nếu tại định nầy thức tương tục đoạn, không còn thừa lại, thì không có nghĩa từ định nầy xuất và thức sinh trở lại.
Luận nói: Tại sao vậy?
Giải thích: Đây là muốn dẫn thêm đạo lý để thành tựu nghĩa nầy.
Luận nói: Quả báo thức nầy đã đoạn, nếu lìa thì khi thác sinh thì không sinh lại nữa.
Giải thích: Như quả báo một đời người đã hết, thì quả báo tương tục thức vĩnh viễn đoạn dứt, không có nghĩa sinh trở lại. Nếu thức sinh lại thì thác thân vào đời khác. Nếu lìa sự thác thân đời khác, thì quả báo thức trở lại sinh trong bản thân, là không có chỗ như vậy. Cho nên biết khi nhập định diệt tâm, nói thức lìa thân thì đó chỉ là bản thức.
Luận nói: Nếu người nói định diệt tâm có tâm, thì điều mà người nầy nói đây không phải là tâm.
Giải thích: Nói có tâm thứ sáu gọi là có tâm rồi, căn cứ tâm thứ sáu mà nói thức không lìa thân, như điều mà người kia nói thì không thành tâm.
Luận nói: Tại sao vậy?
Giải thích: Muốn dẫn thêm đạo lý để phá thức thứ sáu, lập bản thức để làm sáng tỏ không lìa thân. Nếu tách rời tướng trong sinh khởi thức, bản thức như trước đã lập, tùy chấp một thức nào đó mà nói trong định diệt tâm có thức (thức thứ sáu) thì Nghĩa nầy không đúng. Tại sao vậy?
Luận nói: Vì nghĩa của định không thành.
Giải thích: Sau đây lấy mười nghĩa để chỉ rõ nghĩa lỗi lập có tâm trong định diệt tâm. Đây là lỗi thứ nhất. Tâm cùng với tâm pháp chưa từng thấy nó lìa nhau. Như tâm pháp khác cùng với tâm pháp khác, như tưởng không có lúc nào lìa thọ, thọ cũng không có lúc nào lìa tưởng. tâm và tâm pháp cũng vậy, không có lúc nào lìa nhau. Nếu không lìa nhau thì định Diệt thọ tưởng và định diệt tâm đều không được thành. Do diệt ba pháp cho nên định nầy được thành, nhưng ba pháp đã không diệt cho nên định nầy không thành. Nếu người chấp có bản thức cho rằng thức không lìa thân thì không có lỗi nầy. Tại sao thức khác đều diệt, riêng thức nầy không diệt? Người tu định diệt tâm cầu được an trú ở tịch tĩnh để đối trị tâm có khả năng gây chướng ngại sự tịch tĩnh trụ và tâm pháp. Khi định diệt tâm sinh, thì không vì đối trị, không minh liễu bản thức mà tu định diệt tâm. Các thức khác diệt, thức nầy không diệt. Lại nữa, trong định nầy nếu lìa bản thức, thì các thức khác không thành.
Luận nói: Tướng và cảnh để hiểu không thể đạt được.
Giải thích: Đây là lỗi thứ hai. Nếu chấp tâm và tâm pháp là có, thì chắc chắn là có tướng hiểu biết và cảnh giới để hiểu. Tướng hiểu biết có hai thứ: 1. Không phân biệt. 2. Có phân biệt. Không phân biệt tức là năm thức, Ý thức thì có phân biệt, hoặc là không phân biệt. Nếu không phân biệt thì sáu thức đồng chứng biết. Nếu có phân biệt thì là do so sánh mà biết. Cảnh giới tức là sáu trần và chân như của sáu trần, tâm và tâm pháp thì tướng và cảnh giới để hiểu là, đều có thể phân biệt hiểu rõ tướng và cảnh giới. Trong định nầy việc đó đã không thể nắm bắt được, thì biết trong định nầy quyết không có thức nào khác. Nếu nói trong định nầy có bản thức thì không có trở ngại gì, vì thức nầy có thể sinh chỗ hiển thị của y chỉ.
Luận nói: Có lỗi cùng với thiện căn tương ưng.
Giải thích: Đây là lỗi thứ ba. Lại nữa, nếu chấp định nầy có thức khác sinh thì thức nầy không ra ngoài ba tánh thiện, ác và vô ký. Tâm nầy không thể lập làm tánh thiện vì có lỗi cùng với thiện căn tương ưng. Do tâm nầy cùng với thiện căn kia trái nhau. Nếu thức không cùng với thiện căn tương ưng, mà tự tánh là thiện, thì không có nghĩa nầy. Tâm này thiện thì quyết định cùng với thiện căn tương ưng, nếu nói do định tâm là thiện, nên nói định là thiện thì nghĩa đó không đúng, không phải chỗ thừa nhận của ông cùng với thiện căn vô tham tương ưng, nghĩa nầy phải phù hợp thôi do mất nghĩa định diệt tâm. Tại sao vậy? Vì thiện tâm chung không có riêng, tất cả tâm pháp đều không lìa nhau, nếu không lìa nhau thì thọ và tưởng cũng không diệt mất, cho nên không thể lập tâm nầy là thiện.
Luận nói: Vì cùng với ác và vô ký không tương ưng. Giải thích: Đây là lỗi thứ tư. Lại nữa, cũng không thể lập tâm nầy làm tánh ác và vô ký, vì hai tánh nầy không thành tựu. Khi lìa dục cõi Dục, thì tất cả pháp ác đều diệt, cho nên không phải tánh ác. Do định nầy là thiện, nên không thể lập tâm nầy làm tánh vô ký.
Luận nói: Vì lỗi tưởng và thọ sinh khởi.
Giải thích: Đây là lỗi thứ năm. Lại nữa, không thể nói tâm nầy là thiện, vì có lỗi tưởng và thọ sinh. Nếu lìa thiện căn thì tánh thiện không thành, cho nên thiện tâm chắc chắn tương ưng với thiện căn. Nếu như chắc chắn tương ưng với thiện căn, thì cũng phải chắc chắn tương ưng với thọ tưởng. Không có nhân nào khác, cho nên nghĩa nầy không thành. Sở đối trị là có thì năng đối trị cũng là có, ví như dục đang khi sinh quán bất tịnh thì không được có. Nếu ông không thừa nhận nghĩa nầy, thì do đó mà biết không thành tâm thiện.
Luận nói: Vì đối với ba hoà hợp thì chắc chắn có xúc, đối với các định khác thì có công năng.
Giải thích: Đây là lỗi thứ sáu. Lại nữa, nếu tin nhận bản thức, thì trong định nầy không có lỗi xúc sinh, cho nên ví dụ như các định khác. Nếu trong định diệt tâm khác với bản thức, có riêng thiện tâm sinh, thì tâm nầy chắc chắn không lìa xúc. Nhân định sinh an làm tướng, có thể sinh lạc thọ, lạc xúc, bất khổ xúc và bất lạc xúc phải sinh. Nhân đây mà an lập xúc. Lạc thọ, bất khổ thọ và bất lạc thọ chắc chắn phải sinh. Tại sao vậy? Vì đối với các định khác thì làm hai thứ thọ, lạc thọ và xả thọ, đã thấy có công năng, định nầy cũng như thế, vì không có chướng ngăn, cho nên định nầy cũng phải nương vào xúc mà sinh thọ. Nghĩa đó không đúng. Tại sao vậy?
Luận nói: Vì chỉ có diệt tưởng là lỗi.
Giải thích: Đây là lỗi thứ bảy. Lại nữa, nếu tin do xúc mà định nầy có thọ, thì định nầy chỉ có vô hữu tưởng, là nghĩa không đúng. Tại sao vậy? Phật Thế Tôn nói: Tưởng và thọ đều không có.
Luận nói: Vì lỗi thiện căn của tác ý và tín… sinh khởi.
Giải thích: Đây là lỗi thứ tám. Lại nữa, xúc nầy không nên có. Đối với các thức xứ khác thì đều có tương ưng với xúc, khi sinh thì có lỗi thiện căn của tác ý và tín… sinh khởi. Nếu có xúc cùng với tâm tương ưng sinh, thì Phật Thế Tôn nói: Tác ý và thọ… chắc chắn cùng với xúc câu sinh. Nếu có tác ý thì chắc chắn có thể sinh tâm thiện v.v... Thiện căn như Tín… thì tùy theo tác ý mà khởi. Nghĩa đó không đúng, không tránh khỏi lỗi ở trước đã nói. Nếu ông muốn lìa lỗi ở trước đã nói và lỗi trái với A-hàm, và do chán ghét tâm pháp, cho nên chỉ trừ bỏ tâm pháp nầy, thì định nầy chỉ có tâm mà không có tâm pháp. Đó là nghĩa không đúng. Tại sao vậy? Vì từ sở y bạt trừ năng y, là không có đạo lý.
Luận nói: Bạt trừ năng y mà lìa sở y thì không thể được.
Giải thích: Đây là lỗi thứ chín. Lại nữa, nếu như ông nói: Do trong định phương tiện nầy chán ghét xúc thọ tưởng mà trừ bỏ tâm pháp, nhưng có tâm không có xúc, là nghĩa không đúng. Tại sao vậy? Vì từ sở y mà trừ bỏ năng y là không thể được. Sở y là tâm, năng y là tâm pháp, tâm và tâm pháp là sự của sở y và năng y. Từ vô thủy sinh tử đến nay thường không lìa nhau. Do sự tương dẫn nầy, cho nên tâm phải thành tựu cùng với thiện căn của vô tham… tương ưng. Nếu ông nói định và định phương tiện khởi thì chắc chắn cùng với thiện căn của vô tham… khác nhau. Thiện căn của vô tham… không sinh, chỉ có thiện tâm sinh. Đối với các Kinh Luận khác chưa hề thấy có nghĩa nầy. Nếu nhân của các pháp có tương ưng, thì tướng của nó tương tự quả cũng có tương ưng, chỗ chấp nầy không đúng.
Luận nói: Vì có thí dụ.
Giải thích: Đây là lỗi thứ mười. Lại nữa, Phật Thế Tôn nói: Trong định nầy, tất cả thân hành, ngữ ngôn hành và tâm hành đều diệt mất không khởi. Thân hành, là hai hơi thở ra vào, ngữ ngôn hành, là giác quán và tư duy. Tâm hành, là tác ý, tưởng, thọ… nếu như giác quán và tư duy đã diệt mất, ngữ ngôn hành thì không sinh. Như vậy tâm hành nếu diệt thì tâm cũng tùy theo đó mà diệt. Nếu ông nói như khi thân hành diệt, thì thân của người trụ trong định không hoại diệt, như vậy tâm hành trong định tuy diệt mà tâm không diệt, nghĩa nầy cũng không đúng. Tại sao vậy?
Luận nói: Như không phải tất cả hành, tất cả hành thì không phải như vậy.
Giải thích: Thân hành khi diệt mất thì có nhân riêng để trụ, có thể trì giữ khiến cho thân không hoại diệt. Như Phật Thế Tôn nói: Nếu lìa hai hơi thở ra vào, ẩm thực và thức thọ mạng, thì có thể trì giữ thân nầy khiến cho không hoại. Như khi thân hành diệt mất, thì có pháp khác trì giữ thân khiến nó trụ. Tâm hành khi diệt mất thì không có pháp khác trì giữ tâm khiến nó không diệt. Cho nên điều ông lập cùng với nghĩa nầy không đồng. Do đó trụ nầy do đạo lý ấy mà quyết định không có tâm. Nếu không có tâm, tại sao Phật Thế Tôn nói: Thức không lìa thân? Đó là tâm của quả báo. Phật Thế Tôn nói là thức. Nếu khi xuất quán, thì tất cả chủng tử thức nầy sinh. Do thức sau có nhân, và thân trong định cũng có thức nuôi sống, cho nên biết bản thức quyết định có. Nếu thức đó xưa nay là năng y và sở y làm công dụng lớn lao, bạt trừ năng y khiến cho lìa sở y thì không có nghĩa như vậy. Tại sao vậy? Vì do thí dụ mà thành. Trong thế gian từ xưa đến nay, cho đến tận bờ mé vị lai, thường không lìa nhau, hằng cùng sinh khởi, không có đạo lý bạt trừ năng y khiến cho lìa sở y. Cũng như bốn đại và sự tạo ra sắc của bốn đại, không có đạo lý khiến cho sở tạo lìa năng tạo. Tâm pháp cũng như vậy, không thể khiến cho lìa y chỉ, cho nên đối với định vô tâm dừng nghĩ thì có tâm pháp và vô tâm pháp, là nghĩa không đúng. Nếu ông chấp từ sở y bạt trừ năng y, thì nghĩa nầy không thành. Do chỉ chán ghét thọ và tưởng thì chỉ có hai pháp nầy diệt. Trong định nầy hai pháp không được hiện hành, các pháp khác cũng như thế. Nghĩa đó không đúng. Tại sao vậy? Nếu không phải tất cả hành, thì có thể bị diệt như vậy, không phải trong tất cả hành mà bị diệt như vậy. Nếu khắp các hành diệt thì tâm chắc chắn tùy theo đó mà diệt, Phật Thế Tôn không phải nói thức không lìa thân. Do có thức nầy mà biết Như Lai vì thành lập bản thức trong định là có. Lại nữa, Kinh nói: “Thức không lìa thân”, đây là nói nếu lìa bản thức, căn cứ theo các thức khác thì không thành. Tại sao vậy? Vì định diệt tâm nầy là đối trị thức sinh khởi, cho nên sinh do quán thì thức sinh khởi nầy không tịch tĩnh. Nếu có ai chấp khi xuất định thì tâm sinh trở lại, căn cứ nghĩa nầy cho nên có câu nói “không lìa”, nghĩa nầy cũng không đúng. Tại sao vậy? Nếu có nghĩa như vậy, thì tâm của người xuất định không sinh lại quả báo thức. Nếu tương tục đoạn lìa, nương gởi sau khi sinh, không có nghĩa sinh lại. Nếu có ai lìa bản thức, do ý thức mà cho rằng định diệt tâm có tâm, thì sự chấp tâm của người đó không được thành, vì ba tánh thiện ác và vô ký không thành. Do nói định nầy là thiện làm tánh cho nên không phải là ác. Vô ký cũng như vậy. Tâm oai nghi, tâm công xảo và tâm biến Hóa, trong định nầy không được có. Nếu nói có tâm quả báo vô ký thì tức là bản thức, vì không có vô ký thứ năm. Nếu ông nói tâm nầy là thiện thì phải cùng với các thiện căn của vô tham… Tương ưng. Tại sao vậy? Vì tâm nhiễm ô đã diệt mất khi thiện tâm khởi. Ý Căn cũng có cảnh giới, cũng có ba pháp hoà hợp, tại sao không sinh xúc? Nếu có xúc thì tại sao không có thọ? Nếu như thế thì nghĩa của định diệt tâm không thành, vì tâm và tâm pháp trong đó không diệt mất. Nếu ai chấp định nầy là thiện, vì do dẫn nhân, trong phương tiện có công dụng của thiện tâm nầy, có thể dẫn định tâm nầy, thì định tâm là quả tương tự. Tuy lại là thiện, nhưng không cùng với thiện căn của vô tham… tương ưng. Cho nên Như Lai vì muốn chỉ rõ xúc sinh thọ, nên trước hết muốn lựa riêng hoà hợp, nương vào căn duyên trần và sinh thức. Do ba thứ nầy có năng lực hoà hợp cho nên xúc sinh thọ. Nếu ba hoà hợp không có năng lực, thì chỉ sinh xúc mà không sinh thọ. Cho nên định nầy tuy lại là thiện, nhưng không có khả năng tạo tác mà có khà năng hoà hợp cho nên không có thọ và tưởng. Tâm phương tiện đó có ba thiện căn tương ưng, quả tương tự thì không như vậy. Nghĩa đó không đúng. Tại sao vậy? Vì từ sở y bạt trừ năng y thì không thể được. Những nghĩa nầy khó nói đủ như trước.
Luận nói: Nếu có người chấp sắc tâm thứ tự sinh, là chủng tử của các pháp thì chấp nầy không đúng.
Giải thích: Nếu có người chấp sắc của sát-na trước là sắc nhân của sát-na sau, có thể làm sắc sau khởi chủng tử, thức sát-na trước là nhân của thức sát-na sau, có thể làm chủng tử tạo tác của thức sau thì sự chấp nầy không đúng.
Luận nói: Tại sao vậy? Vì đã có lỗi trước, lại có lỗi khác.
Giải thích: Lỗi trước là nếu thức tương tục đoạn, thì thức sau không có nhân đáng lẽ không được sinh. Lại nữa, quả báo trong một thời kỳ đã hết, lìa sự nương gởi vào thai sau thì không có nghĩa sinh trở lại nữa, có lỗi như vậy, trước đã thuyết minh đầy đủ người có khởi chấp nầy. Nếu người từ cõi Vô sắc thoái chuyển thì sinh lại cõi dưới cõi Hữu sắc, sắc sau nếu phải sinh, nhưng chủng tử trước đã diệt lâu rồi, thì sắc nầy từ nhân nào mà sinh! Luận nói: Lỗi khác, là nếu người từ Vô Tưởng Thiên thoái chuyển và xuất định diệt tâm, thì sự chấp trong đây không thành.
Giải thích: Sinh Vô tưởng Thiên và nhập định diệt tâm, thì tâm diệt đã lâu, sau đó nếu thoái chuyển sinh xuống và xuất định, thì làm sao được thành tựu tâm trước, để sau đó sinh nhân của tâm? Nếu quyết định định như vậy thì…
Luận nói: Tâm tối hậu của A-la-hán cũng không được thành.
Giải thích: A-la-hán không có nghĩa nhập Vô Dư Niết-bàn. Tại sao vậy? Vì sắc sau và tâm sau làm nhân chưa hết, cho nên phải biết nghĩa nầy.
Luận nói: Nếu lìa thứ đệ duyên thì sự chấp nầy không thành.
Giải thích: Đây là sắc của sát-na trước, do thứ đệ duyên, cùng với sắc sau tương ưng, thức cũng như vậy, vì không do nhân duyên cho nên trước và sau tương ưng. Do đó sự chấp nầy nếu lìa thứ đệ duyên mà lập nghĩa nhân duyên thì sự chấp nầy không thành, vì trái với giải thoát.
Luận nói: Như vậy, nếu lìa tất cả chủng tử thì phẩm tịnh và phẩm bất tịnh của quả báo thức đều không được thành. Do đó tâm có nghĩa thành tựu, phải tin biết nương vào đều nói tướng ở trước. Bây giờ làm Kệ nói thêm.
Giải thích: Nghĩa nầy có đủ như trước giải thích, nếu người chỉ ở tại thức sinh khởi, không ở tại nghiệp chuyển y của bản thức thì không thành. Để chỉ rõ nghĩa nầy cho nên nói ba bài kệ.
Luận nói:
Bồ-tát nơi thiện thức,
Thì lìa năm thức kia,
Không có tâm nào khác, chuyển y,
Chuyển y phương tiện gì?
Hoặc đối trị chuyển y,
Phi Diệt nên không thành,
Quả nhân không sai biệt,
Trong diệt thì có lỗi.
Không chủng tử, Vô pháp,
Nếu nhận làm chuyển y,
Nơi không hai thứ Vô,
Nghĩa chuyển y không thành.
Giải thích: Bồ-tát có hai loại, là phàm phu và Thánh nhân. Thập tín trở lại là Bồ-tát phàm phu, thập giải trở lên là Thánh nhân. Hiện tại muốn thuyết minh chuyển phàm phu y làm Bồ-tát Thánh nhân y. Chuyển y nầy nương vào thức nào mà được thành? Chỉ là trong bản thức mà được thành. Nếu không có bản thức, thì đối với các thức khác không được thành. Làm sao biết được như vậy? Ba bài kệ sẽ lần lượt chỉ rõ ra nghĩa nầy. Lìa ác vô ký cho nên nói là thiện, là thức thứ sáu cho nên nói là thức. Thiện nầy là tâm xuất thế tương ưng với ba mươi bảy phẩm trợ đạo, gọi là thiện thức. Thiện thức nầy lìa năm pháp tán động pháp, cùng với năm thức hằng không tương ưng, cho nên nói là lìa năm thức kia. Làm sao được lìa nhau mà sinh? Tất cả thời đều sinh như vậy.
Luận nói: Không có tâm nào khác.
Giải thích: Lìa ý thức nhiễm ô và thức thiện hữu lưu. Nếu chỉ nói thiện thức mà không nói Không có tâm nào khác, thì thức thiện hữu lưu đã ở trong đó.
Luận nói: Chuyển Y lấy gì làm phương tiện?
Giải thích: Tất cả chủng tử nhiễm trược là diệt lìa, chỉ có bản thức là còn, gọi đó là tướng chuyển y. Phương tiện gì để làm? Như bài kệ sau nói.
Luận nói: Hoặc đối trị chuyển y.
Giải thích: Nếu ông nói do đối trị sinh cho nên y chỉ chuyển khác, do đó nói đối trị chuyển y thì nghĩa nầy không đúng.
Luận nói: Chẳng diệt cho nên không thành.
Giải thích: Không lấy diệt làm chuyển y, vì có hai nghĩa không thành: 1. Nếu đối trị sinh mà chủng tử không diệt, thì nghĩa y có lỗi như trước gọi là chuyển y. 2. Đối trị là Liễu nhân của chuyển y, không phải thể của chuyển y; đối trị là Đạo đế, chuyển y là giải thoát và pháp thân, tức là diệt đế, phải lấy chủng tử diệt làm chuyển y. Nếu ông chấp đối trị sinh, nhiễm trược chủng tử diệt, thì trong một thời mà có hai nghĩa nầy. Tại sao lấy diệt làm chuyển y, không lấy đạo làm chuyển y? Vì chấp đó có lỗi.
Luận nói: Quả nhân không sai biệt, trong diệt thì có lỗi.
Giải thích: Quả là Diệt đế, nói tên là Niết-bàn, nhân là Đạo đế, nói tên là đối trị. Nếu đối trị là nhân quả của Diệt đế thì trở thành một. Nếu thành một thì có lỗi gì?
Hoặc đắc đối trị tức là Bát Niết-bàn, hoặc có người lập Diệt đế làm chuyển y, là phải lấy chủng tử diệt làm chuyển y hay là phải lấy thức diệt làm chuyển y?
Luận nói: Không có chủng tử và vô pháp, nếu nhận làm chuyển y.
Giải thích: Nếu có người nói năng y sở y diệt gọi là chuyển y, trong ý thức thì năng y chủng tử diệt, năng y chủng tử đã diệt, thì sở y ý thức cũng diệt, do đó gọi là chuyển y. Nếu thừa nhận hai nghĩa nầy làm chuyển y, thì điều đó không đúng.
Luận nói: Nơi không có hai thứ vô, nghĩa chuyển y không thành.
Giải thích: Sinh khởi thức thứ sáu ở trong định nếu không thể ngay thời điểm hiện tại không có, chủng tử không có, không có tạo tác cũng không có thì nghĩa chuyển y không thành. Nếu có Bản thức và chủng tử của Sinh khởi thức huân tập đã sinh, trụ trong Bản thức, thì sinh khởi thức tuy vậy mà không tồn tại có thể làm cho chủng tử không có và sinh khởi thức không có, nói đó là chuyển y. nếu lìa bỏ Bản thức, không hai thứ không có như đã nói, thì nghĩa chuyển y không thành. Vì nghĩa ấy nên quyết định phải tin rằng có Bản thức.
-------------------------------------------
Giải thích: Phẩm nầy tổng cộng có hai chương, Biệt có bảy chương. Tổng có hai chương là: 1. Huân tập. 2. Sự dụng. Biệt có bảy chương là:
1. Ngôn thuyết. 2. Ngã kiến. 3. Hữu phân. 4. Dẫn sinh. 5. Quả báo. 6. Duyên tướng. 7. Tướng mạo. Ba phẩm trước đã thành lập bản thức, là có Phẩm loại sai biệt, bây giờ sẽ nói thêm.
Luận nói: Sai Biệt của A-lê-da thức là thế nào?
Giải thích: Đây là hỏi về bản thức, là tánh có sai biệt hay là sự có sai biệt?
Luận nói: Nếu nói tóm lược, hoặc là ba thứ, hoặc là bốn thứ sai biệt.
Giải thích: Nay căn cứ nơi sự mà thuyết minh sai biệt, chỉ có một bản thức, thì tánh của nó không khác.
Căn cứ vào sự thì hoặc là ba thứ hoặc là bốn thứ, hoặc là bảy thứ sai biệt.
Luận nói: Ba thứ sai biệt, là do ba thứ huân tập khác nhau, gọi là Ngôn Thuyết, Ngã Kiến và Hữu Phân huân tập sai biệt.
Giải thích: Trong luận bản sở dĩ không giải thích ba thứ sai biệt nầy, mà sau đó giải thích tướng biểu hiện thù thắng, phần đầu tự phân riêng ba nghĩa nầy, cho nên nay không giải thích. Do huân tập ngôn thuyết sai biệt, là chỉ có một bản thức do huân tập sai biệt cho nên có ba thứ. Ngôn thuyết lấy danh làm thể. Danh có hai thứ, là danh ngôn thuyết và danh tư duy. Hai thứ danh nầy lấy âm thanh làm gốc, căn cứ theo năng kiến, sắc căn và có âm thanh gọi là nhãn, niệm niệm huân tập ngôn thuyết nầy, trong đó khởi ái huân tập bản thức, huân tập nầy là nhân sinh nhãn căn. Nếu quả báo nhãn căn phải sinh, thì trong bản thức nầy, ngôn thuyết ái huân tập sinh khởi, cho nên lập sự huân tập ngôn thuyết làm nhân của nhãn căn, như nhãn căn đối với nhĩ căn… tất cả sự huân tập ngôn thuyết sinh, đều thuận theo hiểu như vậy. Đó là sai biệt thứ nhất của bản thức.
------------------------------------
Luận nói: Do sự huân tập ngã kiến sai biệt.
Giải thích: Thức có nhiễm ô, do ngã kiến v.v… y chỉ vào. Cho nên đối với bản thức khởi huân tập ngã kiến và ngã kiến sở. Do huân tập nầy mà khởi phân biệt, là tự thì làm ngã kiến, khác ngã kiến thì làm tha. Đó là sai biệt thứ hai của bản thức.
-------------------------------
Luận nói: Do sự huân tập về hữu phần có sai biệt.
Giải thích: Do tùy theo nghiệp thiện, ác và bất động, mà sự thọ sáu căn trong sáu đạo có sai biệt, do đó bản thức có ba cõi và sáu đường sai biệt. Đó là sai biệt thứ ba của bản thức.
--------------------------------
Luận nói: Bốn thứ sai biệt: 1. Dẫn sinh sai biệt. 2. Quả báo sai biệt. 3. Duyên tướng sai biệt. 4. Tướng mạo sai biệt. Dẫn sinh sai biệt là huân tập pháp mới sinh. Nếu không có huân tập này thì duyên hành sinh thức duyên thủ sinh hữu nghĩa đó không thành.
Giải thích: Dẫn sinh chủng loại sai biệt nó có tướng gì? Là huân tập mới sinh. Nếu không có dẫn sinh bản thức sai biệt, thì thức do hành sinh diệt đã huân tập do thuộc thủ thâu nhiếp, đối với sinh thì hữu khởi, hữu nầy không được thành; từ đây mà có sinh khởi, do đó nói đây là hữu pháp, thủ và thiện ác là quả của đời trước đã thường huân tập.
------------------------------------
Luận nói: Quả báo sai biệt, là nương vào hành ở trong lục đạo mà pháp nầy thành thục. Nếu không có pháp nầy để thọ sinh đời sau, hết thảy các pháp sinh khởi là nghĩa nầy không thành.
Giải thích: Hành và hữu làm dẫn nhân, trong lục đạo thành thục thì bản thức gọi là dẫn. Nếu không có dẫn nầy thì sinh lại làm các căn của pháp nhãn. Các trần của sắc nếu sinh lại thì không được thành. Pháp nầy tức là quả báo.
---------------------------------
Luận nói: Duyên tướng sai biệt, là trong tâm nầy có tướng có thể khởi ngã chấp. Nếu không có duyên tướng nầy thì tướng Cảnh chấp ngã trong các tâm khác, không thành nghĩa này.
Giải thích: Bản thức nầy làm ngã chấp của thức thứ hai, ngã kiến của thức thứ sáu làm duyên tướng, bản thức đó nếu không có duyên tướng sai biệt thì lấy thân kiến làm nhân, thì cảnh sở duyên của ngã chấp không được thành. Đó gọi là quả tương tự.
---------------------------------
Luận nói: Tướng mạo sai biệt, là thức nầy có cộng tướng, có bất cộng tướng, tường của chủng tử không thọ sinh, tướng của chủng tử có thọ sinh.
Giải thích: Phẩm loại của tướng mạo có nhiều thứ, nếu nói tóm lược thì có bốn thứ.
Luận nói: Cộng tướng là khí thế gian chủng tử, bất cộng tướng là các biệt nội nhập chủng tử. Lại nữa, cộng tướng, là vô thọ sinh chủng tử; bất cộng tướng, là hữu thọ sinh chủng tử.
Giải thích: Bản thức cùng với tất cả chúng sinh đồng công năng, là sinh nhân chỗ cộng dụng khí thế giới của chúng sinh. Lại nữa, cộng tướng là vô thọ sinh chủng tử, bản thức nầy là vô giác thọ pháp, gọi là sinh nhân của tứ đại và ngũ trần bên ngoài. Nếu không có tướng mạo bản thức như vậy thì khí thế giới đồng dụng nhân của chúng sinh không thành. Bất cộng tướng là các biệt nội nhập chủng tử, các biệt là căn cứ theo tự và tha mà lập, cảnh giới không đồng, chủng loại không đồng và thủ tướng không đồng, cho nên gọi là các biệt. Lại nữa, căn cứ theo theo tự để làm nội, căn cứ theo tha để làm ngoại, là sinh nhân của các nội căn trần là bất cộng tướng, là hữu thọ sinh chủng tử. bản thức nầy là hữu giác thọ pháp sinh nhân, nếu không có tướng mạo thứ hai thì chúng sinh và thế giới không được thành. Nếu do nhân khác mà được thành thì không có giác không có thọ đồng như gỗ đá. Hai chủng tử nầy, chủng tử nào bị Thánh đạo phá?
Luận nói: Nếu khi đối trị khởi, thì không cùng Sở đối trị diệt.
Giải thích: Đây là bất cộng chủng tử, nếu khi đạo khởi, thì nó trái với đạo, ắt bị đạo phá. Tại sao vậy? Không có người nầy đắc đạo mà người kia được giải thoát. Đối với cộng chủng tử thì đạo có công dụng gì?
Luận nói: Đối với cộng chủng tử thức, là chỗ trì chánh kiến thanh tịnh của tha phân biệt.
Giải thích: Đạo đối với vô công dụng của cộng chủng tử cũng có công dụng, như đối với công dụng của bất cộng chủng tử. Trong đây thì không có cho nên nói vô công dụng. Khi đắc đạo về sau thì những điều trông thấy đều thanh tịnh, khác với những điều thấy trước, cho nên nói cũng có công dụng. Tại sao đạo đối với cộng chủng tử không đồng công dụng? Do chỗ trì của tha phân biệt. Nếu như thế thì đạo đối với cộng chủng tử có công dụng gì? Chỉ trừ phân biệt ra, trong cảnh giới khởi vô phân biệt. Pháp nhãn đối với cảnh giới thanh tịnh, vì chỉ duyên với vô tánh. Nếu căn cứ theo từ bi và bát-nhã lại khởi phân biệt nữa, thì phân biệt nầy y chỉ chân như, sở phân biệt trở thành cõi thanh tịnh, duy nhất cảnh giới. Tại sao những gì thấy của chúng sinh bất đồng?
Luận nói: Ví như người tu Quán hành, đối với một loại vật mà có các thứ Nguyện lạc, các thứ quán sát tùy tâm mà thành lập.
Giải thích: Do tâm biến Hóa của người Quán hành, đối với một loại vật mà chúng sinh thấy khác nhau, vì chỗ trì của cảnh giới tha phân biệt như vậy. Người tu Quán hành trong đó được cái thấy thanh tịnh.
Luận nói: Trong đây Kệ nói:
Khó diệt và khó hiểu,
Nói tên là cộng kết,
Người quán hành tâm khác,
Do tướng đại thành ngoại.
Người thanh tịnh chưa diệt,
Trong đây kiến thanh tịnh,
Thành tựu cõi Phật tịnh,
Do Phật kiến thanh tịnh.
Giải thích: Kết có hai thứ: 1. Tướng kết. 2. Thô trọng kết. Tướng kết thì khó hiểu, thô trọng kết thì khó diệt. Tâm phân biệt các trần gọi là tướng kết, do phân biệt nầy mà khởi hoặc của các dục, sân… gọi là thô trọng kết. Nếu đắc vô phân biệt Trí thì liền hiểu tướng kết. Tướng kết không khởi thì kết thô trọng liền tùy theo đó mà diệt. Lại nữa, giải thích khó diệt là căn cứ theo vô gián đạo, vì vô gián đạo khó đắc. Khó hiểu là căn cứ theo giải thoát đạo. Vì vô gián đạo khó đắc mà giải thoát đạo khó đắc. Trong cộng cảnh giới mà khởi kết cho nên gọi là cộng kết. Nếu căn cứ theo sự tương tục thì không gọi là cộng. Tại sao hoặc nầy khó diệt và khó hiểu?
Luận nói: Quán hành tâm khác nhau, do tướng đại thành Ngoại.
Giải thích: Lìa thức thì không có ngoại cảnh riêng, cho nên người Quán hành chỉ quán nội pháp, là không có gì mà không quán ngoại pháp cho nên nói tâm khác nhau mà phân biệt tướng, chung với thập phương thế giới cho nên nói là tướng đại. Quán tâm cùng với nội chủng tử trái nhau, cùng với bên ngoài không quan hệ cho nên nói là ngoại. Do ba nghĩa nầy cho nên Ngoại kết khó hiểu và khó diệt. Nếu kết nầy có ba nghĩa khó hiểu và khó diệt, thì Quán hành tu đạo đối với kết nầy có công năng gì?
Luận nói: Người Tanh Tịnh chưa diệt, trong đây kiến thanh tịnh.
Giải thích: Khi đối trị đạo sinh thì bất cộng chủng tử diệt, là người Quán hành hoặc thanh tịnh từng phần, hoặc thanh tịnh đủ phần. Tuy chưa diệt ngoại tướng, nhưng trong đó, pháp nhãn và Tuệ nhãn thanh tịnh không có chấp.
Luận nói: Thành tựu cõi Phật tịnh.
Giải thích: Nếu có trí Tuệ và từ bi, khởi phân biệt vì lợi tha, thành tựu cõi Phật tịnh là công năng của nó. Cõi Phật tịnh nầy nhân duyên gì mà được thành?
Luận nói: Do Phật kiến thanh tịnh.
Giải thích: Sơ địa là bồ-tát kiến, vị trong sơ địa thanh tịnh là kiến đạo thanh tịnh. Kiến đạo thanh tịnh gọi đó là Phật kiến thanh tịnh. Do thanh tịnh nầy mà có thể đắc Phật độ thanh tịnh, huống chi tu vị và cứu cánh vị. Lại nữa, chân như quán gọi đó là Phật kiến, tại sao vậy? Nếu đến cứu cánh vị, thì chỗ đắc Chân như quán không khác với kiến đạo thanh tịnh nầy, cho nên gọi đó là Phật kiến. Lại nữa, y theo Phật chánh giáo mà tu thì có thể đắc kiến nầy, cho nên gọi là Phật kiến. Lại nữa, Bồ-tát cũng được gọi là Phật, vì quyết định phải được thành Phật, do thọ tên của quả mà được gọi là Phật kiến. Lại nữa, đối trị đạo của Bồ-tát sinh thì Bất cộng chủng tử diệt, là đủ ba thứ thanh tịnh: 1. Pháp Nhãn thanh tịnh. 2. Phật độ thanh tịnh. 3. Kiến Phật thanh tịnh, là thấy Ba thân. Bồ-tát duyên Phật mà khởi kiến cho nên gọi là Phật kiến.
Luận nói: Lại có bài Kệ khác.
Giải thích: Kệ nầy muốn chỉ rõ chỗ nào để hiển thị hai nghĩa? Một là Bồ-tát đối với nội tu quán không y theo ngoại. Hai là do quán nầy chỉ có thức không có ngoại trần. Đó là hai nghĩa hiển thị lẫn nhau.
Luận nói: Người có nhiều thứ nguyện và kiến Quán hành có thể thành.
Giải thích: Người Quán hành hoặc là tự mình tự tại, hoặc là muốn dẫn người khác khiến cho thọ chánh giáo cho nên nguyện, các thứ nguyện biến khác đều được thành. Nếu nguyện đã thành thì tự kiến và tha kiến như điều ước nguyện đều được thành. Nguyện nầy là có cảnh riêng khác hay là một cảnh?
Luận nói: Trong một loại vật.
Giải thích: Nếu người có nhiều Quán hành thì biệt nguyện và đồng nguyện đều có thể biến khác một cảnh, biến khác nầy được thành. Tại sao được thành?
Luận nói: Tùy ý người đó được thành.
Giải thích: Thật ra không có ngoại cảnh mà chỉ có thức, do đó mỗi mỗi đều tùy ý biến dị của người kia mà được thành. Nếu thật có ngoại cảnh, thì nguyện của người Quán hành không thành, vì nhân không thành, sở kiến biến dị của tự và tha cũng không được thành.
Luận nói: Nhiều thứ kiến thành cho nên sở thủ chỉ có thức.
Giải thích: Do thức của người Quán hành làm tăng thượng duyên, thức của người khác biến dị. Nếu như nguyện của người Quán hành sáng lên, thì biết chắc không có ngoại trần mà chỉ có bản thức. Trước đã thuyết minh định giác thọ nhân là bất cộng chủng tử, định bất giác thọ nhân là cộng chủng tử. Bây giờ sẽ nói thêm về cộng nhân và bất cộng nhân đồng sinh một quả.
Luận nói: Là bất cộng bản thức sai biệt, có giác thọ sinh chủng tử. Nếu không có thức nầy thì sinh duyên của chúng sinh và thế giới không thành. Là cộng A-lê-da thức vô thọ sinh chủng tử, nếu không có thức nầy thì sinh duyên của khí thế giới không thành.
Giải thích: Hai nhân của cộng và bất cộng sinh năm căn bên trong và năm trần bên ngoài, làm tác y chỉ của tự lục thức, làm hoặc của bất cộng nhân, là cảnh giới của sáu thức khác, làm hoặc của cộng nhân. Nếu không song song làm sở hoặc của hai nhân, thì không có sắc ấm và không thấy lẫn nhau.
Luận nói: Lại nữa, thức thô trọng tướng và thức tế khinh tướng.
Giải thích: Đoạn văn nầy chỉ rõ bản thức là tương tự quả của hai nghiệp thiện ác, cũng là sinh nhân của hai nghiệp thiện ác.
Luận nói: Thức thô trọng tướng, là chủng tử của hai thứ đại hoặc và tiểu hoặc.
Giải thích: Đối với lý và sự, tâm không có công năng cho nên gọi là thô trọng. Tất cả hoặc và nghiệp trong vị lai đều từ thức nầy sinh cho nên gọi là chủng tử.
Luận nói: Thức tế khinh tướng, là tất cả chủng tử của thiện pháp hữu lưu.
Giải thích: Đối với lý và sự, tâm có công năng cho nên gọi là nhẹ nhàng, là tất cả tín… năm căn thiện trong vị lai đều từ thức nầy sinh cho nên gọi là chủng tử.
Luận nói: Nếu không có thức nầy do nghiệp quả trước có thắng năng, không có thắng năng y chỉ sai biệt thì không được thành.
Giải thích: Nếu không có thức nầy thì phần tập quả và quả báo quả đều không được thành. Tập quả là quả tương tự. quả báo quả là bản thức của sáu đường. Trong bản thức lại có tướng nặng, thô và nhẹ nhàng vi tế. Tập quả cũng gọi là quả tương tự. Thắng năng là y chỉ của quả tương tự. Quả của báo quả đó trong thiện đạo có trời và người khác nhau, trong ác đạo có địa ngục, súc sinh… khác nhau. Nói y chỉ sai biệt là y chỉ của thiện đạo có thắng năng, y chỉ của ác đạo không có thắng năng. Nếu bản thức không có nhân quả của hai tướng nầy thì nghĩa đều không thành.
Luận nói: Lại nữa, có hai loại bản thức là hữu thọ tướng và bất thọ tướng.
Giải thích: Đây là muốn làm rõ công năng hữu tận và bất tận trong bản thức.
Luận nói: Hữu thọ tướng, là thức chủng tử thiện ác của quả báo đã thuần thục.
Giải thích: Bản thức nầy trước kia đã có chủng tử và quả báo thiện ác, hoặc đều là chủng tử ứng dụng thuần thục đã hết, chỉ có bản thức đang nói, bản thức nầy là hữu thọ tướng.
Luận nói: Bất thọ tướng, là chủng tử danh ngôn huân tập.
Giải thích: Bản thức nầy, trong sinh tử thọ dụng vô tận, đồng nghiệp chủng tử do đó có nhân tương tục không đoạn, gọi là bất thọ tướng. Thể của bất thọ tướng như thế nào? Là chủng tử danh ngôn, trước hết lấy âm thanh làm đề mục, tất cả pháp làm ngôn, sau đó không phát ngôn trực tiếp mà dùng tâm duyên âm thanh đầu tiên để làm danh, danh nầy lấy phân biệt làm tánh. Nếu lấy danh nầy để phân biệt nội pháp, thì hoặc là thêm hoặc bớt, hoại chánh lý lập phi lý gọi là nhục phiền não (Phiền Não thịt). Nếu lấy danh nầy để phân biệt ngoại trần, khởi dục, sân… gọi là bì phiền não (Phiền Não da). Nếu lấy danh nầy để phân biệt sai biệt của tất cả thế pháp và xuất thế pháp, lìa hai thứ phân biệt trước, gọi là tâm phiền não, do đó tất cả phiền não đều lấy phân biệt làm thể, chướng ngại vô phân biệt cảnh và vô phân biệt trí. Tại sao nói danh ngôn nầy làm bất thọ tướng?
Luận nói: Vì vô lượng thời hý luận sinh chủng tử.
Giải thích: Bốn loại ngôn thuyết của thế gian gọi là hý luận, đó là kiến, văn, giác và tri, chỉ vì danh ngôn phân biệt có bốn thứ nầy mà không duyên thật nghĩa, cho nên gọi là hý luận, căn cứ theo tiền tế và hậu tế thì hý luận không cùng tận, cho nên nói vô lượng thời hý luận. Hý luận nầy sinh hay khởi là do danh ngôn huân tập sinh cho nên nói danh ngôn huân tập làm chủng tử hý luận. Nếu không có hai thứ phân biệt nầy thì có lỗi gì?
Luận nói: Nếu không có thức nầy thì hữu tác nghiệp và bất tác nghiệp của thiện ác do cùng với quả báo cho nên nghĩa thọ dụng tận không thành.
Giải thích: Nếu không có bản thức của hữu thọ tướng, thì hai nghiệp thiện ác niệm niệm có tác và bất tác, do bố thí cùng với công năng của quả báo diệt tận không sinh lại nữa, cho nên gọi là thọ dụng, nghĩa nầy không thành, vì mất đi nghĩa giải thoát. Nếu không có bất thọ thì có lỗi gì?
Luận nói: Danh Ngôn huân tập sinh khởi, mới sinh cũng không thành.
Giải thích: Nếu lìa danh ngôn huân tập trước, thì thời hiện lại và thời vị lai chưa từng có, nhưng có danh ngôn huân tập nầy thì không được thành. Tại sao vậy? Đẳng Lưu quả nếu không có đồng loại nhân thì không được sinh. Nếu được sinh thì A-la-hán và Duyên-giác đoạn tận phiền não đáng lẽ phải sinh phiền não lại. Nếu không sinh thì đáng lẽ không có Căn Bản phiền não, nếu không có căn bản phiền não thì không có nghiệp. Nếu không có phiền não nghiệp thì không có hữu và sai biệt. Hai đế Tập và Khổ tự nhiên diệt tận, tức là Niết-bàn khỏi nhọc tu đạo. Do hai nghĩa nầy không có, thì không có giải thoát và tự nhiên giải thoát, cho nên biết quyết định có hai tướng thọ và bất thọ.
Luận nói: Lại nữa, có thí dụ về tướng và thức.
Giải thích: Ví như huyễn sự (ảo thuật), tạo nhân loạn tâm cho voi ngựa, như vậy thí dụ tướng và bản thức là hư không phân biệt chủng tử, làm nhân của tất cả điên đảo loạn tâm.
Luận nói: Như huyễn sự, nai khát nước, mộng tướng và mờ tối, thí dụ cho thức thứ nhất giống các sự như vậy.
Giải thích: Bốn sự nầy thí dụ cho bốn điên đảo. Huyễn sự thí dụ cho ngã chấp, nai khát nước thí dụ cho ngã ái, mộng tướng thí dụ cho ngã mạn, mờ tối thí dụ cho vô minh. Bốn thí dụ nầy đồng với thí dụ bản thức. Bản thức giống như bốn sự nầy. Huyễn sự có thể sinh ra tà chấp của chúng sinh, nai khát nước có thể sinh ra tham ái của chúng sinh; mộng tướng có thể sinh ra loạn tâm của chúng sinh, mờ tối có thể chướng ngại quan sát thấy cảnh rõ ràng của chúng sinh. A-đà-na thức nếu chưa diệt, thì có thể biến dị bản thức sinh sáu thức, khởi bốn thứ tâm điên đảo ở trên, cho nên nói bản thức giống các sự như vậy.
Luận nói: Nếu không có chủng tử hư vọng phân biệt, thì thức nầy không thành nhân duyên điên đảo.
Giải thích: Nếu không có một phần của bản thức tương ưng với A-lê-da thức, thì bản thức không thành nhân duyên của bốn điên đảo. Tại sao? Bản thức như vậy là nhân duyên chủng tử của hư vọng phân biệt, tất cả hư vọng phân biệt đều từ bản thức nầy sinh ra.
Luận nói: Lại có cụ tướng và bất cụ tướng.
Giải thích: Căn cứ theo tướng thí dụ nầy lai thức và bản thức, lại trở thành hai tướng: 1. Cụ phược tướng. 2. Bất cụ phược tướng.
Luận nói: Nếu trói buộc chúng sinh đầy đủ thì có cụ tướng.
Giải thích: Là chúng sinh chưa lìa dục cõi Dục, có đủ ba thứ phiền não cho nên gọi là cụ tướng.
Luận nói: Nếu được lìa dục thế gian, thì có tướng tổn hại.
Giải thích: Nếu chúng sinh lìa dục, dục cõi Sắc, thì có đầy đủ nhục phiền não và tâm phiền não, bì phiền não thì có nghĩa dần dần bị tôn hại. Hai thứ nầy là căn cứ theo phàm phu.
Luận nói: Nếu hữu học Thanh-văn và các Bồ-tát thì có nhất phần diệt ly tướng.
Giải thích: Nhục phiền não một phần đã hết, bì phiền não thì hoặc là bị tổn hoặc là chưa bị tổn.
Luận nói: Hoặc A-la-hán, Duyên-giác, Như Lai, có cụ phần diệt ly tướng. Tại sao vậy? Vì A-la-hán và Độc giác đơn diệt hoặc chướng, Như Lai thì song diệt hai chướng là hoặc chướng và trí chướng.
Giải thích: A-la-hán và Độc giác chỉ diệt lìa hoặc (mê lầm) phá kiến đạo và tu đạo, nay hoặc đó bị diệt hết cho nên không có giải thoát chướng còn Như Lai thì diệt lìa hết trọn ba phiền não, cho nên bản thức của Như Lai vĩnh viễn lìa tất cả giải thoát chướng và trí chướng, thức nầy hoặc gọi là trí vô phân biệt, hoặc gọi là vô phân biệt hậu trí. Nếu đối với chúng sinh khởi các sự lợi ích thì một phần gọi là tục trí. Nếu duyên với tất cả pháp vô tánh mà khởi thì một phần gọi là chân như trí, hai trí nầy hợp chung lại gọi là Ứng thân.
Luận nói: Nếu không có phiền não nầy thứ tự diệt tận thì không được thành.
Giải thích: Nếu không có cụ tướng và bất cụ tướng nầy thì phàm phu, hữu học thánh nhân và vô học Thánh nhân thứ tự diệt mất, nghĩa nầy không thành. Bản thức trong ba tánh, tại sao chỉ là tánh vô ký? Vì là quả báo.
Luận nói: Lí do nào quả báo của hai pháp thiện ác chỉ là vô phú vô ký.
Giải thích: Vì không phải phiền não nhiễm ô cho nên gọi là vô phú vô ký, không đồng với phiền não của cõi trên là hữu phú vô ký. Tại sao không đồng? Vì nhân là thiện ác mà quả báo là vô ký.
Luận nói: Vô Ký tánh nầy cùng với hai pháp thiện ác câu, sinh không trái nhau.
Giải thích: Do vô phú vô ký tánh cùng với hai tánh thiện ác không trái nhau, trong quả báo của vô ký thì hai nghiệp thiện ác được sinh. Do nghiệp sinh cho nên có hai đạo thiện ác.
Luận nói: Hai pháp thiện ác tự trái lẫn nhau.
Giải thích: Nếu quả báo là thiện ác, thì tánh của thiện ác trái nghịch lẫn nhau, nếu là thiện thì ác không được sinh, thì phải không có ác đạo;, nếu là ác thì thiện không được sinh, thì phải không có thiện đạo. Hai đạo của thiện và ác là tùy một không có đạo.
Luận nói: Nếu quả báo thành tánh của thiện ác, thì không có phương tiện để được giải thoát phiền não.
Giải thích: Nếu quả báo là tánh của thiện ác, thì từ thiện sinh lại quả báo thiện, từ ác sinh lại quả báo ác, do báo lại có báo thì sinh tử không đoạn, cho nên không được nghĩa giải thoát.
Luận nói: Lại nữa, không có phương tiện để được khởi thiện và phiền não.
Giải thích: Nếu quyết định là thiện thì phiền não không được khởi, nếu quyết định là ác thì thiện không được khởi.
Luận nói: Cho nên không có giải thoát và hệ phược. Giải thích: Nếu không có thiện thì không có giải thoát, nếu không có phiền não thì không có hệ phược.
Luận nói: Vì không có hai nghĩa nầy cho nên quả báo thức quyết định là vô Phú vô ký tánh.
Giải thích: Không có nghĩa không giải thoát, không có nghĩa không hệ phược, đã quyết định có giải thoát và hệ phược, cho nên biết bản thức quyết định là tánh vô ký.
Nghĩa này có bốn Chương: 1. Tướng. 2. Sai biệt. 3. Phân biệt. 4. Hiển liễu ý y.
Luận nói: Như vậy đã nói tướng y chỉ hiểu biết thù thắng, làm sao biết thắng tướng?
Giải thích: Trước nói thứ tự có mười nghĩa, đã giải thích tướng y chỉ thù thắng thứ nhất, tiếp theo phải giải thích tướng y chỉ thù thắng thứ hai. Nghĩa này có mấy số mục? Có tên gì? Có tướng gì? Ba thứ này làm sao thấy được?
Luận nói: Tướng y chỉ này nói tóm lược có ba thứ.
Giải thích: Dưới đây là đáp ba câu hỏi trước, thuyết minh sơ lược nói tướng thù thắng của ba thứ, tức là ba tên và ba tướng. Những gì là ba?
Luận nói: 1. Y tha tánh tướng. 2. Phân biệt tánh tướng. 3. Chân thật tánh tướng.
Giải thích: Câu nói này trước hết làm rõ số có ba, và tên gọi ba số này. Ba tướng tiếp theo văn sau giải thích.
Một hai ba là số, y tha phân biệt chân thật là danh.
Luận nói: Y tha tánh tướng.
Giải thích: Dưới đây giải thích về ba tướng.
Luận nói: Bản thức làm chủng tử, là sự gồm thâu các thức sai biệt của hư vọng phân biệt.
Giải thích: Do bản thức có thể biến dị là mười một thức. Bản thức tức là chủng tử mười một thức, mười một thức đã khác nhau cho nên nói là sai biệt. Phân biệt là tánh của thức. Cái gì là tánh của thức phân biệt? Phân biệt không thành có cho nên nói là hư vọng. Phân biệt làm nhân, hư vọng làm quả. Do quả hư vọng mà nhân phân biệt được sáng tỏ. Lấy tánh của phân biệt này gồm thâu hết tất cả các thức.
Luận nói: Thế nào là sai biệt”?
Giải thích: Ở đây không hỏi tánh chung, chỉ hỏi sai biệt của các thức.
Luận nói: Nghĩa là thân thức, thân giả thức, thọ giả thức, ưng thọ thức, chánh thọ thức, thế thức số thức, xứ thức ngôn thuyết thức, tự tha sai biệt thức, lưỡng đạo thiện ác sinh tử thức. Thân thức, thân giả thức, ưng thọ thức, chánh thọ thức, thế thức, số thức xứ trước, ngôn thuyết thức nhờ chủng tử ngôn thuyết huân tập sinh. Tự tha sai biệt thức, do chủng tử ngã kiến huân tập sinh. Thiện ác lưỡng đạo sinh tử thức, do chủng tử hữu phần huân tập sinh.
Giải thích: Thân thức là năm giới như nhãn giới… thân giả thức là thức nhiễm ô, thọ giả thức là giới của ý, ưng thọ thức là cõi Sắc sáu thứ ngoại giới. Chánh thọ thức là cảnh giới của sáu thức, thế thức là thức sinh tử tương tục không gián đoạn. Số thức là từ một cho đến A-tăng-kỳ số thức. Xứ thức là thức của khí thế giới, ngôn thuyết thức là thức của thấy, nghe hiểu biết. Chín thức như vậy, dựa vào ngôn thuyết huân tập khác nhau làm nhân. Sai biệt thức là thức của sự y chỉ sai biệt vào mình và người khác lấy sự huân tập ngã kiến làm nhân. Thiện ác lưỡng đạo sinh tử thức là thức của nhiều thứ sai biệt trong đường sanh tử lấy sự huân tập hữu phần làm nhân. Luận nói: Do các thức như vậy, là sự gồm thâu của tất cả thế giới, đạo và phiền não.
Giải thích: Tất cả thế giới tức là chỉ cho ba cõi và mười tám giới. Tất cả đạo tức là sáu đường. Trong giới này và đạo này có ba phiền não, tức là hoặc, nghiệp và quả báo, ba thứ này cũng gọi là phiền não, cũng gọi là trược, tục đế không ra khỏi các pháp này, tức là lấy mười một thức trước nhiếp các pháp này, chính vì đồng tánh cho nên được nhiếp nhau.
Luận nói: Tánh y tha làm tướng. Do hư vọng phân biệt liền được sáng tỏ lên.
Giải thích: Muốn làm rõ hư vọng phân biệt, thì chỉ lấy tánh y tha làm thể tướng. Loạn thức và loạn thức biến dị là hư vọng phân biệt, phân biệt tức là loạn thức, hư vọng tức là loạn thức biến dị. Hư vọng phân biệt, nếu rộng nói thì có mười một loại thức, nếu lược nói thì có bốn loại thức: 1. Tợ trần thức. 2. Tợ căn thức. 3. Tợ ngã thức. 4. Tợ thức thức. Hết thảy hư vọng phân biệt trong tất cả ba cõi, không ngoài nghĩa này, do thức như vậy thì liền được hiển hiện. Tuy nói thức gồm thâu hết tất cả hư vọng phân biệt như vậy, nhưng trong sự chấp hư vọng phân biệt này thì pháp nào làm tánh y tha? Pháp nào làm tánh phân biệt?
Luận nói: Các thức như vậy, sự gồm thâu của hư vọng phân biệt lấy duy thức làm thể.
Giải thích: Các thức như vậy, tức là làm rõ mười một thức và tứ thức. Trong trong tất cả pháp duy có thức, không có pháp nào khác nữa, cho nên duy thức làm thể. Thể này do hữu cho nên khác với tánh phân biệt. Vì do thâu vào tính chất hư vọng phân biệt nên tánh chân thật khác là không phải thật có, cũng thật không phải không, không tránh khỏi hư vọng, vì hư vọng này là tánh của nó. Cho nên nói đó là sự gồm thâu của hư vọng phân biệt.
Luận nói: Pháp trần hư vọng chẳng có để làm rõ sự y chỉ, đó gọi là tánh, tướng y tha.
Giải thích: Định vô sở hữu gọi là không có. Không có là không có vật, mà làm duyên duyên của sáu thức cho nên gọi là pháp trần hư vọng, tương tự căn trần và ngã thức. Các tâm biến đổi của sinh trụ và diệt rõ ràng cho nên gọi là hiển hiện, Hiển hiện này lấy tánh y tha làm nhân cho nên gọi là y chỉ. Ví như chấp ngã làm trần, thì trần này thật ra là không có, vì ngã là không có. Do tâm biến dị hiển hiện tương tự ngã cho nên nói là pháp trần hư vọng không thật có. Điều này trình bày rõ chỉ nương theo tánh y tha mà khởi. Tánh y tha làm rõ y chỉ của pháp trần hư vọng, cho nên nói đây là tánh tướng của y tha.
Luận nói: Tánh tướng phân biệt thật ra không có pháp trần, chỉ có thể của thức hiển hiện làm trần, gọi đó là tánh tướng phân biệt.
Giải thích: Như trần của vô ngã không có Thể riêng, duy thức làm Thể, không lấy thức làm tánh phân biệt. Sự biến đổi của thức hiển hiện làm ngã. Trần không có mà tương tự như có làm nơi chấp thủ của thức, gọi là tánh phân biệt.
Luận nói: Tánh tướng chân thật, là tánh y tha. Do tướng pháp trần này vĩnh viễn không có, nhưng cái này chẳng phải không, nên gọi là tánh tướng chân thật.
Giải thích: Nghĩa hư vọng vĩnh viễn không có nhân hiển hiện, vì thể hiển hiện không có, cũng không thể nắm bắt được. Ví như ngã, trần hiển hiện tựa như thật có, do hiển hiện này mà nương vào để chứng và suy xét ba lượng thuộc lời nói của thánh nhân. Tìm cầu thật thể của nó không thể nắm bắt được. Như ngã trần, thì pháp trần cũng vậy, vĩnh viễn không có Thể cho nên người và pháp đều là vô ngã. Vô ngã như vậy là thật có chẳng phải không, gọi đó là tánh tướng chân thật.
Luận nói: Do thân thức thì thân là thọ là thức, phải nên biết là nhiếp nhãn giới… sáu giới bên trong; Vì thức cũng thọ, phải nên biết là nhiếp sắc giới… sáu giới của thức giới bên trong. Vì chánh thọ thức, phải nên biết là nhiếp nhãn giới… sáu thức giới. Do các thức như vậy làm gốc, ngoài ra các thức khác là sai biệt của thức này.
Giải thích: Câu nói này muốn làm rõ nghĩa gì? Muốn làm rõ nghĩa tánh chân thật. Nếu không quyết định thuyết minh tất cả pháp chỉ có thức, thì tánh chân thật không được hiển hiện. Nếu không nói đủ mười một thức, thì nói về tục đế không hết. Nếu chỉ có năm thức trước, thì chỉ được nghĩa căn bản của tục đế, không được nghĩa sai biệt của tục đế. Nếu nói tục đế không khắp hết, thì chân đế không được minh liễu, chân đế không rõ ràng thì khiến cho tục đế chưa hết, cho nên có nói đủ mười một thức, thông nhiếp tục đế làm giống như mười tám giới có đủ căn trần thức, là không đúng.
Luận nói: Nhiều thức như vậy chỉ có thức, vì không có trần.
Giải thích: Sự biến dị của thức tuy có sự tướng nội ngoại không đồng, thật ra chỉ có một thức, vì không có thể riêng biệt của các trần cho nên đều lấy thức làm tên. Nếu không có trần thì thức này lìa trần, như vậy thọ dụng của yêu và ghét làm sao được thành?
Luận nói: Ví như mộng trong mộng, đã lìa các trần bên ngoài, hoàn toàn chỉ có thức. Các thứ sắc thanh hương vị xúc, các trần như nhà rừng đất núi… hiển hiện như thật, nhưng trong đó không có một trần nào là thật có.
Giải thích: Những cái thấy trong mộng có các thứ sai biệt, đều không có thật trần, đều là sự tạo tác của thức. Thọ dụng của yêu và ghét, nghĩa này cũng được thành.
Luận nói: Do thí dụ như vậy, tất cả xứ, phải nên biết, chỉ có thức. Những điều nói đó, nên biết là dụ huyễn sự, nai khác nước, mắt mờ, sự thấy trần của người tỉnh thì khắp nơi chỉ có thức. Ví như trần Cảnh trong mộng và người trong mộng tỉnh dậy, biết rõ mộng trần chỉ có thức. Khi tỉnh dậy thì không phải như thế, không có gì mà chẳng phải nghĩa này? Nếu người đã đắc trí giác chân như, thì đều có cái biết này, ví như người đang trong mộng chưa tỉnh thức thì giác này chưa sinh. Nếu người đã tỉnh thức thì mới có giác này. Như vậy nếu người chưa đắc trí giác chân như, thì cũng không có tỉnh giác này, nếu người đã đắc trí giác chơn như thì chắc chắn có cái biết này. Nếu người chưa đắc trí giác chơn như thì trong duy thức tại sao được khởi trí phân biệt? Do Thánh giáo và chân lý có thể được suy xét và độ lượng. Thánh giáo, như trong Kinh Thập Địa Thế Tôn nói: Này Phật Tử! Ba cõi chỉ có thức. Lại nữa, như trong Kinh Giải Tiết nói.
Giải thích: Do mộng này ví như đối với xứ của mười tám giới, phải nên biết chỉ có thức không có trần. Tại sao dẫn hai A-hàm để thuyết minh Thánh giáo? Vì trước là lược nói, sau là rộng nói, tức là lấy nghĩa trước để làm chứng cho nghĩa sau.
Luận nói: Lúc đó Di-lặc Bồ-tát Ma-ha-tát hỏi Phật Thế Tôn: Bạch Thế Tôn! Sắc tướng này là cảnh đối tượng của tâm định, là khác tâm, hay là không khác với tâm?
Giải thích: Hai chữ “Lúc đó” có ba nghĩa: 1. Bình đẳng thời, không có chìm nổi điên đảo. 2. Hoà hợp thời, là khiến cho sự nghe và người nghe được đúng đắn. 3. Chuyển pháp luân thời, là chánh thuyết và chánh thọ. Sắc tướng, là tám nhập trước của mười nhập trong tất cả nhập. Sắc tướng này là cảnh đối tượng của định tâm, làm tâm riêng biệt và cảnh riêng biệt, làm tâm như vậy và cảnh như vậy.
Luận nói: Phật Thế Tôn nói: Này Di-lặc! Không khác với tâm. Tại sao vậy? Ta nói chỉ có thức! Sắc tướng này là chỗ hiển hiện của thức cảnh giới.
Giải thích: Phật nói chỉ có thức, vì không có trần. Nếu như thế thì sắc này mà người Quán hành thấy là làm pháp gì? Như Kinh nói: Cảnh giới sắc tướng này là do thức hiển hiện, thật ra không có cảnh giới, là sự tạo tác của thức biến đổi. Trước nói duy thức, sau nói cảnh giới thức, hai nghĩa này có gì khác? Muốn hiển có hai phần, thức trước là thể của định, thức sau là cảnh của định. Thể này và cảnh này vốn là một thức, vì một thì tương tự năng phân biệt khởi, còn một kia thì tương tự sở phân biệt khởi.
Luận nói: Di-lặc Bồ-tát nói: Bạch Thế Tôn! Nếu quyết định Sắc tướng của cảnh giới khác với tâm định thì tại sao thức này lại lấy thức làm cảnh?
Giải thích: Nếu có thức khác là cảnh của thức, thì nghĩa duy thức không thành. Nếu duyên tự thể làm cảnh sự cũng không thành, vì thế gian không có loại này.
Luận nói: Phật Thế Tôn nói: Này Di-lặc! Không có pháp nào có khả năng nắm lấy pháp khác, tuy không thể nắm lấy thức này, nhưng biến sinh như vậy hiển hiện giống như pháp trần.
Giải thích: Thức này tướng mạo sinh khởi như vậy, trong định khởi hai thứ tướng: 1. Do hay nắm bắt tướng mà khởi bất đồng. 2. Chỗ nắm bắt tướng khởi bất đồng. Hai tướng này từ một thức đồng thời hiển hiện, các sắc tướng như xanh, và… Này là cảnh của định, không phải chỗ của thức nhớ nghĩ, vì do sắc này không ở tại xứ của định, như do chỗ chứng trước, sau đó lại ức trì (nhớ giữ), là không có nghĩa này. Trần cảnh khởi hiện tiền thì hiển hiện phân minh, thức nhớ nghĩ này có nhiễm ô. Chỗ thấy của sự phát khởi hiện tiền này thì phân minh thanh tịnh. Nếu ông nói hai cảnh của văn và tư là chỗ huân tập của niệm niệm, thì ngay lúc này đã đi qua, phải tư duy trở lại, như chỗ thấy trước kia, trong lúc này thấy lại nữa là nghĩa không đúng. Tại sao vậy? Vì đã đi qua cho nên hiện tại là không có. Thời gian của không có này nếu tương tự như trước kia sinh khởi, thì không phải chỗ thấy của trước kia. Là ý chỉ của duy thức đối với điều này mà càng rõ ràng. Cho nên nghĩa duy thức và nghĩa không có hiện hữu của pháp trần được thành.
Luận nói: Ví như nương nơi mặt mà thấy mặt, đó là ta thấy ảnh, ảnh này hiển hiện tương tự như một mặt khác.
Giải thích: Ví dụ này là làm rõ chỉ có mặt của mình mà không có ảnh khác, tại sao vậy? Vì đạo Lý của các pháp hoà hợp thì khó có thể suy lường, không thể thấy pháp mà cho là được thấy, cũng như bóng ảnh trong gương, thật ra không có pháp riêng, còn thấy mặt của mình là có ảnh riêng.
Luận nói: Định tâm cũng như vậy, hiển hiện tương tự pháp trần là khác với định tâm.
Giải thích: Định tâm có hai phần: 1. Phần tợ thức. 2. Phần tợ trần.
Hai thứ này thật ra chỉ là thức.
Luận nói: Do A-hàm và chỗ thành tựu đạo lý này, nghĩa duy thức hiển hiện.
Giải thích: A-hàm tức là hai quyển Kinh trước. Đạo lý là sắc quá khứ của thức nhớ nghĩ và duy trì, và ảnh mặt ví dụ cho đạo lý hiển nghĩa duy thức.
Luận nói: Tại sao như vậy?
Giải thích: Đây là hỏi tại sao nói chỉ có thức.
Luận nói: Lúc đó tâm của người thực hành pháp quán đang ở trong quán, nếu thấy xanh vàng… nhập khắp sắc tướng, tức là thấy tự tâm mà không thấy sắc xanh vàng… của các cảnh khác.
Giải thích: Hoặc do tâm tán loạn, thì năm thức có thể cho rằng duyên ngoại trần hiện tại mà khởi. Hoặc ý thức và tâm tán duyên trần quá khứ mà khởi, nếu trong quán thì chắc chắn không được duyên ngoại sắc làm cảnh. Sắc đang hiện tiền thì cũng không phải duyên cảnh quá khứ. Phải nên biết sắc đối tượng của định tâm tức là thấy tự tâm mà không thấy cảnh khác.
Luận nói: Do đạo lý này, trong tất cả thức, Bồ-tát đối với duy thức phải khởi so sánh mà biết như vậy. Đối với thức của màu xanh vàng… Không phải là không nhớ nghĩ và duy trì, vì thấy cảnh đang hiện tiền, đối với hai vị văn và tư. Ý thức nhớ nghĩ và duy trì, tức thức này duyên cảnh quá khứ, cảnh tương tự quá khứ khởi, cho nên được thành nghĩa duy thức. Do biết phân biệt này mà Bồ-tát chưa đắc trí giác chơn như, thì đối với nghĩa duy thức này mà được sinh trí biết phân biệt.
Giải thích: Trước đã thuyết minh mười một thức, nói chung mười tám giới. Trong mười tám giới có căn và có trần. Bồ-tát trong nghĩa duy thức phải nên quán. Sắc trong định đã không có cảnh riêng. Nếu lấy sắc trong định so sánh với sắc ngoài định, phải biết cũng không có riêng cảnh.
Luận nói: Là các loại thức này, trước đã nói”.
Giải thích: Mười một thức trước đã nói đủ, vì muốn lập câu vấn nạn, phải thuyết minh mười một thức đã nói trước.
Luận nói: Ví như sự huyễn và mộng, trong đó thức của nhãn thức… nghĩa duy thức được thành.
Giải thích: Trước nêu các huyễn sự để thí dụ không có căn và trần riêng khác, bây giờ thì muốn vấn nạn duy thức có thành hay không thành, thì phải dẫn các thí dụ đã nêu. Trong mười một thức có đủ mười tám giới, trước đã thuyết minh chánh thọ thức tức là cảnh giới sáu thức, có thể nói đó là nghĩa duy thức.
Luận nói: Thức của nhãn sắc thì có sắc, nghĩa duy thức làm sao thấy được.
Giải thích: Đây là vấn nạn mười giới không nên nói duy thức. Trước đã thuyết minh thân thức là năm căn, là nhãn thức cho đến thân thức; trước đã thuyết minh thức ưng thọ tức là năm trần, là sắc thức cho đến xúc thức, cho nên nói là thức của nhãn sắc. Hữu sắc có ba nghĩa: 1. Nhãn thức khi chưa sinh, trước đã có sắc. 2. Thức biến dị làm sắc cũng là hữu sắc. 3. Do cảnh của hữu sắc, nhãn thức tương tự sắc khởi, gọi là liễu biệt sắc. Nếu không có sắc và cảnh thì liễu biệt chỗ nào? Căn cứ mười giới này thì nghĩa duy thức đáng lẽ không thành.
Luận nói: Nhưng thức này do A-hàm và đạo lý, phải nên hiểu như trước.
Giải thích: Đây là đáp câu vừa hỏi, do hai Kinh trước và sự dẫn đạo Lý để thí dụ ở trước, phải nên hiểu như vậy.
Luận nói: Nếu sắc là thức, tại sao hiển hiện tựa sắc?
Giải thích: Đây là hỏi rằng, nếu nói không có riêng sắc và trần mà chỉ là bản thức thì tại sao hiển hiện tương tự sắc?
Luận nói: Tại sao kiên trụ tương tục? Vì trước và sau tương tự.
Giải thích: Đây là hỏi rằng, nếu là sự tạo tác của thức biến dị, thì đáng lẽ chợt khởi chợt diệt, chuyển đổi vô chừng, tại sao một sắc trong nhiều thời tương tục trụ lâu. Vì trước và sau một loại không có chuyển đổi, cho nên biết phải có sắc khác.
Luận nói: Do các điên đảo mà phiền não y chỉ.
Giải thích: Điên đảo là căn Bản của phiền não, do thức biến dị khởi các phân biệt. Phân biệt tức là điên đảo. Vì điên đảo cho nên sinh khởi tánh y tha và phân biệt tương ưng của các phiền não, tức là chỗ y chỉ xứ của phiền não điên đảo. Do điên đảo phiền não, mà khiến cho tánh y tha và tánh phân biệt tương ưng. Phiền não điên đảo cũng là chỗ y chỉ xứ của thức biến đổi.
Luận nói: Nếu không như thế thì đối với nghĩa của phi nghĩa, điên đảo không được thành.
Giải thích: Nếu không có nghĩa làm y chỉ cho nhau, thì thức không có biến đổi, việc không có sự vật mà phân biệt là có sự vật, thì không nên có điên đảo như vậy.
Luận nói: Nếu không có nghĩa điên đảo, thì hai thứ phiền não của hoặc chướng và trí chướng không được thành.
Giải thích: Nếu thức không biến dị phân biệt thì phi nghĩa làm nghĩa, lẽ nào có điên đảo! Nếu không có điên đảo thì không sinh phiền não. Nếu không có phiền não thì Thanh-văn không có giải thoát chướng, và Bồ-tát thì không có trí giải thoát tất cả chướng ngại.
Luận nói: Nếu không có hai chướng thì phẩm thanh tịnh cũng không được thành, cho nên các thức sinh khởi như vậy. Nên tin là thật!
Giải thích: Nếu không có phiền não thì lẽ nào có Thánh đạo, cho nên nghĩa này cũng không thành. Do đó phải tin rằng lìa thức này thì không có pháp nào khác!
Luận nói: Trong đây nói kệ:
Loạn nhân và loạn thể,
Sắc thức, vô sắc thức,
Nếu thức trước không có,
Thức sau không được sinh.
Giải thích: Trong pháp không, mà chấp có thì gọi là loạn động, nhân của loạn thức này do pháp nào sinh? Do sắc thức sinh. Cái gì là sắc thức? Nếu căn cứ theo năm thức, thì năm căn và năm trần gọi là sắc thức. Sắc này có thể sinh các nhãn thức…, thức trong thức sắc này tức là loạn nhân. Nếu thức này không khởi, thì không được trong không có mà chấp có. Pháp nào gọi là thể loạn động? Nếu căn cứ theo năm căn thì tức là năm thức. Nếu căn cứ theo ý căn thì chỉ là ý thức, không phải pháp thức. Pháp thức và sắc thức đều là nhân loạn động.
Luận nói: Nếu thức trước không có, thì thức sau không được sinh.
Giải thích: Thức trước là nhân loạn động, hoặc vốn không có. Thể loạn động là quả, tức là thức sau. Nếu không có nhân thì không được sinh.--------------------------------
Luận nói: Tại sao thân thức, thân là thức, thọ là thức, ưng thọ thức và chánh thọ thức, đối với tất cả sinh xứ bí mật lẫn nhau sinh chung.
Giải thích: Năm thức này tức là mười tám giới, đối với tất cả chỗ sinh khổ trong ba cõi, sáu đường và bốn loại sinh, mười tám loài này tại sao được bí mật lẫn nhau sinh chung?
Luận nói: Vì đầy đủ chỗ hiển bày của việc thọ sinh.
Giải thích: Đối với tất cả chỗ sinh trong một sát-na có đầy đủ mười tám giới. Mười tám giới đã không rời nhau, có khả năng làm nhân sáng tỏ, càng làm sáng tỏ sự sinh chung khắng khít. Lại nữa, căn trần thức chắc chắn không rời nhau, không có thọ sinh hữu căn mà không có trần và thức Thọ, còn lại hai thứ cũng như thế. Thọ một thứ thì có đủ hai thứ còn lại, lấy hai thứ còn lại để làm rõ một thứ này. Vì không rời nhau cho nên được sinh chung khắng khít.
Luận nói: Tại sao Thế thức, như trước đã nói có các thứ sai biệt sinh.
Giải thích: Đây lại hỏi năm thức trước, tức là mười tám giới đã nhiếp hết các pháp, có ứng dụng gì mà lại sinh sáu thức sau?
Luận nói: Vì sinh tử vô thủy tương tục không đoạn dứt.
Giải thích: Để thuyết minh nghiệp báo của chúng sinh vô thủy đến nay, sinh tử trong ba đời tương tục không dứt, cho nên phải lập thể của thức.
Luận nói: Vì chỗ nhiếp của vô thế giới chúng sinh vô lượng.
Giải thích: Để thuyết minh quả báo của chúng sinh có các giới bất đồng nhiều hay ít, như bốn giới, sáu giới, mười tám giới…, cho nên phải lập số thức để nhiếp tất cả số.
Luận nói: Vì chỗ nhiếp của vô khí thế giới vô lượng.
Giải thích: Để thuyết minh chỗ cư trú của chúng sinh, như trời, người và cõi ác có vô lượng sai biệt, cần phải lập xứ xứ thức để nhiếp tất cả xứ.
Luận nói: Vì sự tạo tác vô lượng lại làm sáng tỏ sự gồm thâu lẫn nhau.
Giải thích: Để thuyết minh sự thấy, nghe, hiểu biết mỗi mỗi đều nhiều loại nhân, nhân này có vô lượng ngôn thuyết và tác sự ngôn thuyết, cùng với sự thấy, nghe, hiểu biết lẫn nhau hiển thị, cho nên cần phải lập thức ngôn thuyết để nhiếp tất cả lời nói.
Luận nói: Vì chỗ thấy tóm của sự thu nhiếp vô lượng và sự thọ dụng sai biệt.
Giải thích: Nhiếp là căn cứ theo tự nhiếp và tha nhiếp, thọ dụng là sự thọ dụng của mình và người khác. Để thuyết minh chúng sinh mỗi mỗi đều cho rằng ngã có nhiều loại, và ngã sở cũng vậy, cho nên phải thiết lập tự tha sai biệt thức, để nhiếp tất cả sự sai biệt ấy.
Luận nói: Vì thọ dụng vô lượng là chỗ nhiếp của yêu, ghét, nghiệp và quả báo.
Giải thích: Quả của nghiệp thiện là ái, quả của nghiệp ác là tắng, chúng sinh thọ dụng hai nghiệp quả này có vô lượng thứ.
Luận nói: Vì sinh tử vô lượng là chỗ nhiếp của sự chứng đắc sai biệt.
Giải thích: Có sinh và có tử trong hai quả này, khi mới thọ là Sinh, tương tục sau khi sinh là đắc, sắp sửa tử là chứng, mạng đoạn dứt là tử, đó là vì thuyết minh chúng sinh thọ dụng hai nghiệp quả sinh tử, để nhiếp tất cả hai thứ thiện ác trong đường sinh tử.
Luận nói: Tại sao biện luận các thức như vậy? Vì khiến cho thành nghĩa duy thức.
Giải thích: Trước nói nghĩa năm thức đã thành duy thức, sau nói sáu thức, tại sao cũng khiến cho thành duy thức?
Luận nói: Nếu lược nói có ba tướng, thì các thức thành duy thức.
Giải thích: Sáu thức này nếu an lập khiến cho thành duy thức thì có ba thứ đạo lý, ba thứ đạo lý tức là ba tướng: 1. Nhập duy lượng. 2. Nhập duy nhị. 3. Nhập chủng chủng loại. Nhập có nghĩa là thông đạt. Thế nào là nhập duy lượng?
Luận nói: Chỉ có lượng thức.
Giải thích: Trong sáu thức, nếu Như lý mà nghiên cứu tìm tòi thì chỉ thấy có thức, không thấy pháp khác.
Tại sao vậy?
Luận nói: Vì ngoại trần không có sở hữu.
Giải thích: Các pháp bị nhận thức nếu lìa thức thì thật ra là không có sở hữu, cho nên nói sáu thức chỉ có lượng thức. Thế nào là nhập duy nhị?
Luận nói: Vì chỉ có hai thứ là chỗ nhiếp của tướng và kiến thức.
Giải thích: Nếu có thể thông đạt sáu thức của thế thức, thì một phần trở thành tướng, một phần thành kiến, gọi là nhập duy nhị. Nghĩa này như thế nào? Trong các thức tùy một thức một phần biến dị thành tướng của các sắc, một phần biến dị thành kiến cho nên gọi là duy nhị. Do sáu thức của thế thức không ra ngoài hai thức tánh này cho nên nói chỗ nhiếp của duy nhị. Thế nào là nhập chủng chủng loại?
Luận nói: Do nhiều loại tướng sinh chỗ thu nhiếp, nghĩa này thế nào? Tất cả thức này không có trần cho nên thành duy thức. Các thức có tướng, có kiến, nhãn… lấy sắc làm tướng. Các thức của nhãn lấy các thức làm kiến, ý thức lấy tất cả nhãn thức cho đến pháp thức làm tướng. Ý thức lấy ý thức làm kiến. Tại sao như vậy? Vì ý thức có thể phân biệt cho nên tương tự tất cả thức trần phân ra sinh khởi.
Giải thích: Là một nhãn thức, như điều phải thành, một phần năng khởi nhiều loại tướng, một phần năng thủ nhiều loại tướng. Năng thủ là kiến. Nếu ý thức nắm bắt ý thức, thì tất cả nhãn thức… và pháp thức làm tướng, ý thức làm năng kiến. Lại nữa, nhiều loại tướng sinh khởi, chỉ có ý thức là nhiều loại tướng, vì duyên cảnh bất định, các thức còn lại thì quyết định duyên một loại trần, không thể phân biệt. Nếu có thể phân biệt thì thành kiến, không thể phân biệt thì thành tướng. Do ba tướng này thành lập, sáu thức của thế thức làm duy thức thì nghĩa này hiện rõ ra.
Luận nói: Trong đây nói kệ:
Nhập duy lượng, duy nhị,
Người nhiều loại quán, nói,
Khi thông đạt duy thức,
Và lại lìa vị thức.
Giải thích: Bài kệ này chỉ ra ba thứ nghĩa Thông Đạt duy thức:
1. Thông đạt duy lượng bên ngoài pháp trần thật ra không có gì cả. 2. Thông đạt duy nhị, duy thức của tướng và kiến. 3. Thông đạt nhiều loại sắc sinh, vì chỉ có nhiều loại tướng mạo nhưng không có Thể khác nhau. Ba tướng như vậy, người nào có thể thông đạt? Chỉ có người Quán hành. Người Quán hành tự có hai thứ: 1. Bồtát nhập kiến vị. 2. Đắc tứ không định. Người Quán hành trước đã khởi thông đạt, sau đó nói cho người khác. Thông đạt này và nói, vị nào được thành?
Luận nói: Khi thông đạt duy thức, và phục lìa thức vị.
Giải thích: Từ Sơ địa cho đến chánh giác địa làm thông đạt duy thức vị; từ không xứ cho đến Phi tưởng phi phi tưởng, vô tưởng định và diệt tâm định là phục lìa thức vị. Sở thủ trần nếu không có thì tại sao nói thức làm năng thủ? Là nghĩa duy lượng không thành, nghĩa đó không đúng. Tại sao vậy? nghĩa duy thức không có lỗi, cũng không phải không có nghĩa năng thủ và sở thủ. Để lập nghĩa này cho nên chị rõ ba tướng nhập. Duy lượng là chị rõ duy thức không có trần. Sở thức đã không có, tại sao thành duy thức? Để thành lập nghĩa này cho nên nói duy nhị và mọi thứ. Duy nhị là tướng và kiến, tướng là sở thủ, kiến là năng thủ, mọi thứ cũng như vậy. Cho nên duy thức và năng thủ sở thủ, nghĩa này đều thành. Nửa bài kệ sau, giải thích như trước.
Luận nói: Các luận sư nói ý thức này theo nhiều loại nương tựa mà sinh khởi, đặt nhiều thứ.
Giải thích: Các Sư là các Bồ-tát, thành lập một ý thức thứ tự sinh khởi. Ý thức tuy là một, nếu y chỉ nhãn căn mà sinh thì được tên nhãn thức, cho đến y chỉ thân căn mà sinh thì được tên thân thức. Trong đây lại không có thức còn lại nào khác với ý thức, lìa A-lê-da thức thì bản thức này nhiếp chung vào ý thức, vì đồng loại. Thức này do nương tựa có được tên riêng.
Luận nói: Ví như nghiệp của tác ý, được tên là thân khẩu.
Giải thích: Nghiệp của tác ý này tuy là một, nếu nương vào thân môn mà khởi thì gọi là thân nghiệp; nếu nương vào khẩu môn mà khởi thì gọi là khẩu nghiệp. Ý thức cũng như thế, tùy theo sự nương tựa mà được tên riêng. Hoặc có người nói nhãn căn… không có phân biệt, nếu ý thức y chỉ các căn này mà sinh thì cũng không có phân biệt, ví như ý căn y chỉ bị hoặc làm nhiễm ô, do nơi tựa có nhiễm ô, nên thức năng y chỉ khi sinh cũng có nhiễm ô. Ý thức cũng vậy.
Luận nói: Thức này đối với tất cả y chỉ mà sinh.
Giải thích: Do nương tựa nhãn… Các thức mà các căn sinh.
Luận nói: Nhiều loại tướng mạo tương tự hai thứ pháp hiển hiện:
1. Tợ trần hiển hiện. 2. Tợ phân biệt hiển hiện.
Giải thích: Ý thức nương vào sáu căn sinh hiển hiện tương tự hai thứ pháp: 1. Đa loại pháp. 2. Nhất loại pháp. Đa loại pháp phần này thuộc trần, Nhất loại pháp là phân biệt thuộc kiến. Do hai trường hợp thức này, tuy nhất pháp nhưng một phần tợ trần hiển hiện và một phần tợ phân biệt trần hiển hiện, cho nên sự nói ở trước không có lỗi.
Luận nói: Tất cả xứ tương tự xúc hiển hiện.
Giải thích: Tất cả xứ là nơi có sắc, là hữu sắc xứ thì chắc chắn là có thân. Nếu có thân thì chắc chắn tợ xúc hiển hiện.
Luận nói: Nếu trụ ở cõi Sắc, thì ý thức nương vào thân mà sinh.
Giải thích: Tại sao có thân xứ là ắt có tương tự xúc? Vì ý thức phải nương vào thân mà sinh, tương tự xúc hiển hiện. Do ý thức này nương vào thân mà tương tự xúc sinh. Người Quán hành khi nhập quán tuy năm thức không khởi, nhưng khoảng giữa đối với sắc thân có hỷ lạc thọ sinh.
Luận nói: Ví như các hữu sắc căn, y chỉ thân mà sinh. Giải thích: Các hữu sắc căn, tức là các nhãn căn… khác với sắc thân, y chỉ nơi thân, do các căn này y chỉ thân, nương vào các căn này, đối với thân hoặc tổn hoặc tăng. Ý thức cũng như thế, vì y chỉ thân mà tương tự xúc hiển hiện, đối với thân cũng có tổn và tăng. Lại nữa, ví như thân căn y chỉ nơi thân, nếu có xúc duyên bên ngoài thì thân căn tương tự xúc mà khởi. Nếu tương tự xúc mà khởi thì trong tự y chỉ hoặc là tổn hoặc là tăng. Ý thức cũng như vậy, vì y chỉ thân cho nên tợ xúc mà khởi.
Luận nói: Trong đây nói kệ.
Giải thích: Các Bồ-tát nói là chỉ có ý thức mà không có năm thức khác, dẫn kệ của Kinh pháp Túc để thành lập nghĩa này.
Luận nói:
Viễn hành và độc hành,
Không thân trụ hang trống,
Điều phục, khó điều phục,
Là giải thoát ma trói.
Giải thích: Vì có thể duyên tất cả cảnh giới cho nên gọi là viễn hành, vì không có thức thứ hai cho nên gọi là độc hành. Không thân có hai nghĩa: 1. thân vô sắc. 2. Thân vô sinh. Bên trong thân gọi là lỗ trống, vì thức bên trong thân cho nên gọi là trụ trong hang trống. Trụ hang trống cũng có hai nghĩa: 1. Tâm tạng trong năm tạng, trong đó có lỗ, ý thức ở trong lỗ này cho nên gọi là trụ trong hang trống. 2. Các pháp thật ra là vô sở hữu mà chấp làm hữu, thức ở trong vô sở hữu này cho nên gọi là trụ trong hang trống. Xưa nay do phiền não xấu ác làm nhân cho nên gọi là khó điều phục. Nếu ai có khả năng điều phục thức này, khiến nó không tùy thuận Hoặc, Nghiệp mà được tự tại thì gọi là điều phục. Chướng hoặc trong ba cõi gọi là ma trói. Người này điều phục cái khó điều phục thì được giải thoát. Cũng có Thánh giáo khác để chứng minh nghĩa này.
Luận nói: Như Kinh nói: Các nhãn… năm căn này, cảnh giới đối tượng từng thứ, ý thức bám lấy phân biệt. Ý thức làm nhân sinh ra các căn kia.
Giải thích: Cảnh giới đối tượng sắc của năm căn này, nếu ý thức có thể duyên sắc thì lập làm nhãn thức, nhưng mỗi mỗi cảnh, ý thức đều đã có thể nắm lấy, cũng có thể phân biệt, cho nên năm thức vô dụng. Lại nữa, ý thức hoặc là thức của các loạn nhãn thì không sinh. Do ý thức biến dị sinh năm căn và năm thức, cho nên ý thức là nhân sinh ra các căn kia.
Luận nói: Lại có thuyết khác, phân riêng nói trong
Thập Nhị
Nhập, sáu thức Tụ gọi là ý nhập.
Giải thích: Đây là dẫn thêm lời nói trong thánh giáo để chứng minh chỉ có ý thức, không riêng có các thức khác. Như Lai trong Kinh, phân riêng mười hai nhập, hợp chung sáu thức tụ để làm ý nhập. Vì ba nghĩa này cho nên biết chỉ có ý thức mà không có các thức khác.
Luận nói: Chỗ an lập bản thức này làm nghĩa thức, trong đây tất cả thức gọi là tướng thức. Ý thức và y chỉ thức phải nên biết gọi là kiến thức. Tại sao vậy? Tướng thức này do là sinh nhân của kiến. Vì hiển hiện tương tự pháp trần cho nên khởi kiến sinh ra các sự y chỉ.
Giải thích: Bản thức trong hai thức, có thể được an lập làm tướng thức và kiến thức. Không phải an lập bản thức làm trần thức, trong đây tất cả thức gọi là tướng thức. Bản thức có thể được an lập tại nơi thức tướng và kiến thức xứ. Bản thức này lấy ý thức và thức y chỉ làm kiến thức, lấy thức của nhãn thức… và tất cả pháp làm tướng thức, vì sinh nhân này do duyên duyên. Trong hai xứ kia là sinh nhân của kiến, đối với pháp kia làm kiến, hiển hiện tương tự pháp trần cho nên kiến của ý thức tương tục trụ không đoạn nhân, làm sự y chỉ của thức này.
Luận nói: Các thức thành lập duy thức như vậy, thì tại sao các trần hiện tiền hiển hiện mà biết nó là chẳng có? Như Phật Thế Tôn nói: Nếu Bồ-tát tương ưng với bốn pháp, thì có thể tìm và có thể nhập tất cả thức không có trần.
Giải thích: Bốn pháp là trí, Bồ-tát nếu tương ưng với bốn trí, thì trong phương tiện có thể tìm hiểu lý được chánh giải có thể nhập, cho nên biết tất cả duy thức không có trần.
Luận nói: Những gì là bốn? Một là biết sự trái nghịch với thức tướng, ví như ngạ quỉ, súc sinh và trời, người, tuy đồng cảnh giới nhưng kiến thức có khác nhau.
Giải thích: Trong một cảnh giới nhưng sự phân biệt bất đồng cho nên gọi là trái nhau. Trái với thức cảnh gọi là tướng. Cảnh này thật ra không có gì cả, chỉ tùy theo thức biến dị cho nên sự phân biệt khác nhau. Bồ-tát nếu thông đạt lý này thì hiểu duy thức cho nên gọi là trí.
Luận nói: Hai là do kiến không có cảnh giới thức, ví như ảnh mộng về pháp trần trong quá khứ vị lai.
Giải thích: Có khi thấy lìa cảnh giới thức mà được sinh, ví như cảnh của thức trong quá khứ.
Luận nói: Ba là do tri lìa công dụng không có điên đảo được thành. Ví như trong thật có trần, do duyên trần mà khởi thức, không thành điên đảo, không do công dụng, như thật mà biết.
Giải thích: Bồ-tát hiểu như vậy, nếu pháp trần giống như chỗ thật có, lìa tu đối trị tự nhiên được thành, không có trí điên đảo, do như thật biết đã không có nghĩa này, cho nên biết thật ra không có trần, chỉ ở trong không mà chấp là có, cho nên thành điên đảo.
Luận nói: Bốn là do nghĩa trí tùy thuận ba tuệ.
Giải thích: Tất cả nghĩa của trần đều tùy theo ba tuệ, Bồ-tát có thể biết như vậy.
Luận nói: Tại sao như vậy?
Giải thích: Tại sao tất cả nghĩa đều tùy theo ba tuệ?
Luận nói: Tất cả Thánh nhân nhập quán.
Giải thích: Thánh nhân là Thanh-văn, Duyên-giác và Bồ-tát, các Thánh nhân này đang ở trong định gọi là nhập quán.
Luận nói: Được tâm tự tại.
Giải thích: Đã được tâm tùy sự thành, là trong nhập, trụ và xuất vị.
Luận nói: Do nguyện lạc tự tại.
Giải thích: Như vui điều mong ước, các trần đều tùy theo vui ấy mà biến khác.
Luận nói: Vì như nguyện vui mà nhiều pháp trần hiển hiện.
Giải thích: Nếu muốn khiến cho đất thành nước thì liền thành như ý. Các thứ lửa… cũng như vậy.
Luận nói: Nếu người Quán hành đã đắc Xa-ma-tha.
Giải thích: Người Quán hành có hai thứ: 1. Đắc chánh tư. 2. Đắc chánh tu, hiện đang thuyết minh người đắc chánh tu.
Luận nói: Tu pháp quán gia hạnh.
Giải thích: Pháp là mười hai Bộ Kinh của Tu-đa-la, y theo pháp tướng mà mười hai Bộ Kinh đã chỉ rõ, thuần thục tu hạnh Tỳ-bà-xá-na.
Luận nói: Chỉ tùy tư duy mà nghĩa hiển hiện.
Giải thích: Đối với một trong năm ấm tùy tâm tư duy, hoặc hiển hiện như bất tịnh, khổ, vô thường, không, vô ngã… cho đến mười sáu tướng đế đều tùy theo tư duy. Sự hiển hiện của tất cả pháp tướng cũng như vậy.
Luận nói: Nếu người đắc trí không phân biệt, nhưng chưa xuất quán không phân biệt, vì tất cả trần không hiển hiện, do các nghĩa của cảnh giới đều tùy thuận ba tuệ. Do các dẫn chứng trước thành tựu nghĩa duy thức, cho nên biết duy thức không có trần. Trong đây có sáu bài kệ làm rõ lại nghĩa trước. Sau kệ này, y theo trong trí học nên rộng phân biệt mà nói. Ngạ quỉ, súc sinh và trời, người đều như vậy. Giải thích:
Nếu Bồ-tát đã đắc trí không phân biệt, đang ở trong quán, hoặc trần cảnh như chỗ hiển hiện là thật có, thì trí vô phân biệt không thành, đã thật có trí vô phân biệt, cho nên biết đạo lý thật ra là không có gì cả.
---------------------------------
Luận nói: Nếu duy thức tợ trần hiển hiện thì y chỉ gọi là tánh y tha. Tại sao thành y tha và nhân duyên gì gọi là y tha?
Giải thích: Lìa trần thì chỉ có thức, thức này có thể sinh biến dị hiển hiện tựa trần. Như thể tướng và công năng này. Loạn thức gọi là tánh y tha, chỉ thấy loạn thức có tự thể, không thấy có thể khác. Tại sao thành lập thức này làm tánh y tha? Nếu nói có thể sinh biến dị thì sự biến dị đó nương vào thức này mà làm sở y của thể khác. Tại sao nói thức này làm tánh y tha?
Luận nói: Vì từ việc tự huân tập chủng tử mà sinh, lệ thuộc nhân duyên không được tự tại. Nếu sinh không có công năng thì qua một sát-na được tự trụ, gọi là y tha. Giải thích: Do nhân tự sinh ra, sinh đã không có tự khả năng dừng trụ, thì qua một sát-na cái gì tự nắm lấy được, do căn cứ theo cái khác mà nói, cho nên gọi là y tha.
Luận nói: Nếu tánh phân biệt nương vào y tha, thật không có sở hữu tợ trần hiển hiện. Tại sao thành phân biệt và nhân duyên gì gọi là phân biệt?
Giải thích: Câu hỏi này có ba ý: 1. Hỏi về y chỉ. tánh phân biệt này đã y chỉ vào tha thì đáng lẽ thành tánh y tha, tại sao gọi là phân biệt! 2. Hỏi về không có sở hữu, phân biệt này đã thật là không có gì, thì trong không có gọi đó có phân biệt gì? 3. Hỏi về tương tự trần. Phân biệt này đã tương tự trần hiển hiện, thì tại sao gọi là phân biệt và nhân duyên gì mà gọi là tánh phân biệt?
Luận nói: Tướng mạo vô lượng. Ý thức phân biệt điên đảo sinh nhân cho nên thành phân biệt.
Giải thích: Phân biệt tướng mạo của tất cả trần đó gọi là ý thức. Ý thức điên đảo sinh cảnh giới cho nên gọi là sinh nhân. Do đạo lý này cho nên thành phân biệt.
Luận nói: Không có tự tướng, chỉ thấy phân biệt, gọi là phân biệt.
Giải thích: Tự thể đã không có, chỉ thấy loạn thức, cho nên gọi là phân biệt.
Luận nói: Nếu tánh chân thật và tánh phân biệt vĩnh viễn không có gì cả làm tướng thì làm sao thành chân thật, và nhân duyên gì gọi là chân thật?
Giải thích: Tánh phân biệt đối với tánh y tha một phần vĩnh viễn không có, nếu lấy không có gì làm tướng, thì tại sao lập làm chân thật mà không lập làm phi chân thật? Cho nên nói cũng như vậy.
Luận nói: Do như, không đều như, cho nên thành chân thật.
Giải thích: Ba nghĩa sau đây để đáp hai câu hỏi. Thứ nhất là lấy nghĩa không trái nhau để hiển chân thật, như thế gian nói bạn chân thật.
Luận nói: Do thành tựu cảnh giới thanh tịnh.
Giải thích: Thứ hai là lấy nghĩa không điên đảo để hiển chân thật, do cảnh giới không có điên đảo mà đắc bốn thứ thanh tịnh. Như thế gian nói vật chân thật.
Luận nói: Do tối thắng trong tất cả thiện pháp.
Giải thích: Thứ ba là lấy nghĩa vô phân biệt để hiển chân thật, tức là năm thứ vô phân biệt, là năm thứ chân thật, như thế gian nói hạnh chân thật.
Luận nói: Thành tựu thắng nghĩa cho nên gọi là chân thật.
Giải thích: Đối với ba thứ thù thắng không bị hư mất cho nên gọi là thành tựu, do thành tựu cho nên chân thật. Luận nói: Lại nữa, nếu có phân biệt và bị phân biệt, thì tánh phân biệt thành tựu.
Giải thích: Muốn hỏi ba thứ nghĩa phân biệt này, cho nên trước đã bày ra tên của ba thứ phân biệt này.
Luận nói: Trong đây pháp gì gọi là phân biệt? Pháp gì là bị phân biệt? Pháp gì gọi là tánh phân biệt?
Giải thích: Từng thứ đều hỏi riêng để tìm cầu tướng khác của chúng.
Luận nói: Ý thức là phân biệt, vì có đủ ba thứ phân biệt.
Giải thích: Dưới đây đáp ba câu hỏi, đây là câu hỏi thứ nhất. Trong sáu thức chỉ lấy ý thức làm phân biệt, vì ý thức có đủ ba thứ phân biệt là tự tánh. Nhớ nghĩ và duy trì hiển hiện cho nên năm thức thì không phải như thế.
Luận nói: Tại sao vậy?
Giải thích: Tại sao vậy? Vì ý thức có đủ ba thứ phân biệt.
Luận nói: Thức này tự huân tập ngôn thuyết làm chủng tử.
Giải thích: Như nói tên căn trần, niệm niệm luyện tập tên này huân tập vào bản thức lấy làm chủng tử, do chủng tử này, sau đó ý thức tợ căn tợ trần mà khởi gọi là sắc thức. Chữ tự có hai nghĩa: 1. Như nhãn danh huân tập, chỉ có sinh nhãn, không sinh các pháp khác. Các huân tập khác cũng như thế cho nên gọi là tự. 2. Bổn vô pháp thể. Ngôn ngữ là sở tác của tự phân biệt, cho nên gọi là tự.
Luận nói: Và tất cả thức gọi là huân tập là chủng tử. Giải thích: Như nói tên sáu thức, luôn luôn luyện tập tên này huân tập và bản thức làm chủng tử, do chủng tử này, ý thức sau đó tợ sáu thức mà khởi, gọi là thức của thức.
Luận nói: Cho nên sự sinh này.
Giải thích: Do hai thứ huân tập chủng tử, ý thức này được sinh.
Luận nói: Do vô biên phân biệt và phân biệt tất cả xứ.
Giải thích: Ý thức là sở biến của hai thứ chủng tử này, vì công năng vô biên của phân biệt, tợ như tất cả cảnh giới sinh khởi.
Luận nói: Chỉ có phân biệt tên gọi là phân biệt.
Giải thích: Do nghĩa này cho nên chỉ có ý thức gọi là phân biệt.
Trong ba thứ phân biệt này, nói ý thức là phân biệt.
Luận nói: Y tha này chỉ là bị phân biệt.
Giải thích: Dưới đây đáp hai câu hỏi. Tất cả pháp bị phân biệt lìa thức thì không có riêng thể, cho nên lấy y tha làm bị phân biệt.
Luận nói: Là nhân có thể thành tánh y tha thì làm bị phân biệt.
Giải thích: Nếu không dựa vào nhân thì tánh y tha không thành. Nếu không có tánh y tha thì không có bị phân biệt. Do sáu thứ nhân thành tánh y tha, cho nên được lấy tánh y tha làm cái bị phân biệt.
Luận nói: Trong đây gọi là tánh phân biệt.
Giải thích: Trong đây thành nhân của tánh y tha, nói nhân này là tánh y tha.
Luận nói: Tại sao phân biệt có thể tính toán đo lường? Tánh y tha này giống như tướng của vạn vật.
Giải thích: Dưới đây đáp ba câu hỏi, trước hết là hỏi lại, sau đó thứ tự đáp. Câu này trước hết là hỏi tổng quát. Thế nào là ý thức do phân biệt? Vì có thể tính toán suy lường tánh y tha này, chỉ giống như tướng mạo của vạn vật, không phải chỉ giống như tướng mạo của một vật.
Luận nói: Duyên cảnh giới nào?
Giải thích: Dưới đây nêu ra sáu nhân để đặt câu hỏi. Duyên pháp nào để làm cảnh giới? Là tính toán đo lường tánh y tha.
Luận nói: Chấp tướng mạo gì?
Giải thích: Chấp tướng mạo gì? Đó là tính toán đo lường tánh y tha.
Luận nói: Làm sao để quán thấy?
Giải thích: Trước hết là dùng phương tiện gì để suy tầm, sau đó quyết đoán là tính toán đo lường tánh y tha. Luận nói: Duyên khởi là gì?
Giải thích: Dựa vào Duyên gì để phát khởi? Là tính toán đo lường tánh y tha.
Luận nói: Thế nào là ngôn thuyết?
Giải thích: Lấy gì để nói năng? Đó là tính toán đo lường tánh y tha.
Luận nói: Thế nào là tăng ích?
Giải thích: Thế nào là trong không có chấp có? Là tính toán đo lường tánh y tha. Ý thức gọi là phân biệt, y tha là sở phân biệt, do sáu nhân này mà ý thức có thể tánh phân biệt y tha. Bây giờ sẽ nói để hiển nghĩa này.
Luận nói: Do cảnh giới của danh.
Giải thích: Do tánh y tha lìa tất cả phân biệt, vì vô phân biệt làm thể, lập danh làm cảnh giới, phân biệt kế độ tánh này.
Luận nói: Trong tánh y tha, do chấp trước tướng.
Giải thích: Trước hết căn cứ theo tên mà phân biệt luyện tập tên này, cho nên chấp trước tên này làm tướng mạo, sau đó phân biệt tướng này, gọi là nhãn… các căn, sắc… các trần, thức… các tâm. Như vậy là đã chấp tướng mạo rồi!
Luận nói: Do phán quyết mà khởi kiến.
Giải thích: Trước hết là tư lương về thị phi, sau đó phán quyết “như những gì mà ta thấy”, nhãn… các căn cho đến thức… các tâm, đều là thật có những cái còn lại khác đều là nói dối, do kiến này cho nên ý thức kế độ y tha kiến thật đã khởi chấp rồi!
Luận nói: Do giác quán ngôn thuyết duyên khởi.
Giải thích: Như tự những gì mình khởi giác quán, tư duy là tự kế độ, hoặc như những gì mình chấp khởi giác quán nói năng giúp kẻ khác suy tính. Thế nào là nói năng giúp kẻ khác suy tính?
Luận nói: Do bốn thứ nói năng của kiến.
Giải thích: Như những gì nói năng không ra ngoài bốn thứ kiến, bốn thứ này căn cứ theo căn trần thức mà thành tựu, nhiếp hết tất cả phẩm loại của sở thuyết phân biệt. Căn cứ theo ngôn thuyết này mà khởi điên đảo.
Luận nói: Thật ra không có trần, cho là thật có làm tăng ích.
Giải thích: Như bốn thứ ngôn thuyết thật ra không có pháp, trong đó khởi chấp cho là thật có, đây gọi là tăng ích chấp.
Luận nói: Do nhân này cho nên có khả năng phân biệt.
Giải thích: Do sáu nhân ý thức này có thể tánh phân biệt y tha, khiến cho thành bị phân biệt, cho nên lấy nhân này làm tánh phân biệt.
Luận nói: Ba loại tánh là gì?
Giải thích: Đây là hỏi nghĩa của một và khác của ba tánh là gì!
Luận nói: Cùng với tha là khác hay là không khác?
Giải thích: Như tánh y tha cùng với hai tánh khác là một là khác.
Hai tánh còn lại lẫn nhau luận cũng như thế.
Luận nói: Không khác và chẳng phải không khác, phải nên nói như vậy.
Giải thích: Đáp câu hỏi, nói rõ cũng một cũng khác, phải nên y theo thuyết này.
Luận nói: Có nghĩa riêng, nên tánh y tha gọi là y tha. Giải thích: Dưới đây tổng nêu nghĩa cũng một cũng khác chỉ là một thức của thức, tức là tánh y tha. Trong tánh y tha lấy riêng đạo lý để thành lập ba tánh, ba tánh không phải là lẫn nhau, tức là nghĩa không khác và chẳng phải không khác.
Luận nói: Có nghĩa riêng thì tánh này thành phân biệt, có nghĩa riêng thì tánh này thành chân thật. Giải thích: Có đạo lý riêng thì tánh y tha này thành tánh phân biệt. Tánh chân thật cũng như thế. Luận nói: Nghĩa nào là nghĩa riêng gọi là y tha? Là từ huân tập chủng tử sinh lệ thuộc vào tha.
Giải thích: Dưới đây là chánh giải thích ba thứ nghĩa riêng. Huân tập có ba thứ: 1. Danh Ngôn huân tập, thức huân tập. 2. Sắc thức huân tập, thức của thức huân tập, kiến thức huân tập. 3. Phiền não huân tập, Nghiệp huân tập, quả báo huân tập. Từ chủng tử của ba thứ này mà sinh, lệ thuộc vào nhân, thành y tha, không phải hai tánh còn lại.
Luận nói: Lại có nghĩa gì mà tánh này thành phân biệt là tánh y tha này làm nhân phân biệt?”
Giải thích: thức lấy năng phân biệt làm tánh, năng phân biệt chắc chắn từ sở phân biệt sinh. Tánh y tha tức là sở phân biệt, làm sinh nhân của sở phân biệt, tức là phân biệt duyên. Duyên tánh y tha có hai nghĩa, nếu nói thức thể từ chủng tử sinh thì tự thuộc tánh y tha, nếu nói biến dị làm tướng mạo của sắc thì tánh này thuộc tánh phân biệt. Tướng mạo của sắc lìa thức thì không có riêng thể. Hiện tại nói tánh y tha làm nhân phân biệt, lấy nghĩa y tha biến dị làm nhân phân biệt, không lấy thức thể có nghĩa từ chủng tử sinh làm nhân phân biệt.
Luận nói: Là sở phân biệt cho nên thành phân biệt.
Giải thích: biến dị tướng mạo là sở phân biệt của thức, vì nghĩa cho nên thành lập sở phân biệt làm tánh phân biệt.
Luận nói: Còn nghĩa gì nữa mà tánh này thành chân thật? Tánh y tha này hoặc là thành chân thật, như sở phân biệt thật ra không phải có như vậy.
Giải thích: Tánh y tha biến dị làm sở phân biệt trần của các sắc. Trần này thật ra không giống như sở phân biệt là có. Căn cứ theo tánh y tha để thuyết minh trần là không có gì cả, tức là lấy tánh y tha thành tánh chân thật, để còn lại là có đạo, không thuyết minh tánh y tha là tánh vô vi chân thật.
Luận nói: Lại có nghĩa gì mà do một thức này thành tướng mạo của hết thảy mọi thứ thức?
Giải thích: Đây là hỏi thêm bởi đạo lý gì, chỉ là một thức, mà thành tám thức, hoặc thành mười một thức, cho nên nói là tất cả. Trong mỗi mỗi thức, như nhãn thức phân biệt các sai biệt xanh vàng… Có tướng mạo của chủng chủng thức. Chỉ có một thức là thức nào? Nguyên nhân hỏi lại câu hỏi này là trước đã giải thích nghĩa của chữ khác. Dưới đây giải thích nghĩa không khác, là muốn hiển tánh y tha này có đủ ba tánh. Một thức từ chủng tử sinh là nương vào tha mà có. Tướng mạo của chủng chủng thức là phân biệt, phân biệt thật không có gì cả là tánh chân thật
Luận nói: Thức của bản thức.
Giải thích: Một thức là một bản thức. Bản thức biến dị làm các thức, cho nên nói thức của bản thức. Hiện tại không luận là biến dị làm căn trần, cho nên chỉ nói thức của bản thức.
Luận nói: Chỗ khác sinh khởi thức và chủng chủng tướng mạo.
Giải thích: Chỗ khác tức là A-đà-na thức, sinh khởi tức là sáu thức, biến dị làm bảy thức, tức là tướng mạo của bản thức.
Luận nói: Lại nương vào tướng mạo này mà sinh.
Giải thích: Lấy bảy thức huân tập bản thức là chủng tử, chủng tử này lại biến dị bản thức làm bảy thức, bảy thức sau tức là từ chủng tử của tướng mạo trước sinh khởi.
Luận nói: Tánh y tha có mấy thứ?
Giải thích: Đây là hỏi loại và nghĩa của thể, gồm có mấy loại.
Luận nói: Nếu lược nói thì có hai thứ. Một là hệ thuộc huân tập chủng tử.
Giải thích: Đây là trước hết thuyết minh thể Loại của y tha, từ hai thứ huân tập sinh: 1. Từ nghiệp phiền não huân tập sinh. 2. Từ văn huân tập sinh. Do thể loại hệ thuộc hai thứ huân tập này, cho nên gọi là tánh y tha. Nếu thể Loại của quả báo thức làm tánh y tha, thì từ nghiệp phiền não huân tập sinh. Nếu thể loại của Tư tuệ và tu Tuệ xuất thế gian thì từ văn huân tập sinh.
Luận nói: Hai là hệ thuộc tánh của tịnh phẩm và bất tịnh phẩm không thành tựu. Do hai thứ hệ thuộc này nên gọi là tánh y tha.
Giải thích: Đây là giải thích tiếp theo nghĩa y tha. Nếu thức tánh phân biệt này thì thành phiền não, hoặc thành nghiệp, hoặc thành quả báo, tức là bất tịnh phẩm. Nếu Bát-nhã duyên tánh này thì không có sở phân biệt tức là thành tịnh phẩm, là cảnh giới thanh tịnh, đạo thanh tịnh, quả thanh tịnh. Nếu có tự tánh không y tha thì nên quyết định thuộc một Phẩm, đã không có định tánh thì thuộc tịnh phẩm hoặc bất tịnh phẩm. Do hai phần này, tùy một phần không thành tựu cho nên gọi là y tha.
Luận nói: Phân biệt tánh cũng có hai thứ. Một là do phân biệt tự tánh.
Giải thích: Như trong nhãn… các giới mà phân biệt một giới, hoặc nhãn hoặc nhĩ… gọi là phân biệt tự tánh. Luận nói: Hai là do phân biệt sai biệt.
Giải thích: Căn cứ theo vô thường… lại phân biệt các nhãn… này, gọi là phân biệt sai biệt.
Luận nói: Tánh chân thật cũng có hai thứ. Một tự tánh thành tựu.
Giải thích: Là hữu cấu chân như.
Luận nói: Hai là thanh tịnh thành tựu. Giải thích: Là vô cấu chân như.
Luận nói: Lại có phân biệt nữa thành bốn thứ: 1.
Phân biệt tự tánh. 2. Phân biệt sai biệt. 3. Hữu giác. 4. Vô giác. Hữu giác là có thể hiểu rõ danh ngôn chúng sinh phân biệt.
Giải thích: Nếu chúng sinh trước hết hiểu rõ bốn thứ danh ngôn của kiến, văn… nương vào danh ngôn mà khởi phân biệt cho nên gọi là hữu giác.
Luận nói: Vô hữu giác là không thể hiểu rõ danh ngôn chúng sinh phân biệt.
Giải thích: Nếu chúng sinh như trâu, dê… trước hết không thể hiểu rõ bốn thứ ngôn thuyết, do chúng sinh kia giống như sở phân biệt, không thể do ngôn ngữ thành lập, cho nên gọi là vô giác.
Luận nói: Lại nữa, phân biệt có năm thứ. Một là y danh phân biệt nghĩa tự tánh.
Giải thích: nghĩa, là pháp làm đề mục của danh. Trước đã biết tên của vật này, sau đó lấy nhờ tên này để phân biệt Vật này.
Luận nói: Ví như danh này làm đề mục cho nghĩa này.
Giải thích: Danh này xưa nay làm chủ thể này, cho nên được lấy danh này để phân biệt bám thể này.
Luận nói: Hai là y nghĩa phân biệt danh tự tánh.
Giải thích: Trước đã nhận biết thể của vật này nhưng chưa biết tên của nó, sau đó nghe nói tên nó, thì liền nhờ thể nhận biết trước kia mà phân biệt bám lấy danh này.
Luận nói: Ví như nghĩa này thuộc danh này.
Giải thích: Vì thể này vốn là chủ của tên này cho nên được lấy thể này để phân biệt nắm lấy tên này.
Luận nói: Ba là Y danh phân biệt danh tự tánh.
Giải thích: Như vật tên vật của nước khác, mới nghe chưa hiểu, sau đó nhờ quen với tên gọi đó phân biệt tên đó mới hiểu được tên đó.
Luận nói: Ví như phân biệt, chưa biết nghĩa của tên. Giải thích: Chưa biết nghĩa của tên này nói gì, cho nên không hiểu tên này.
Luận nói: Bốn là y nghĩa phân biệt nghĩa tự tánh.
Giải thích: Như thấy thể của vật này nhưng chưa biết tên của nó, lấy loại vật này để phân biệt nó mới biết thể của nó.
Luận nói: Ví như phân biệt danh nghĩa chưa biết”
Giải thích: Do chưa biết tên cho nên lấy nghĩa để phân biệt nghĩa.
Luận nói: Năm là y Nhị phân biệt Nhị tự tánh.
Giải thích: Như hai tên gọi vàng bạc, có hai thể của vàng bạc, hoàn toàn chưa biết rõ danh và thể của nó. Danh của vàng làm đề mục thì thể đỏ làm đề mục cho thể trắng, danh của bạc cũng vậy. Thể đỏ làm chủ thì danh của vàng làm chủ, danh của bạc và thể trắng cũng vậy.
Luận nói: Ví như danh này và nghĩa này, là nghĩa gì và danh gì?
Giải thích: Như ý vừa giải thích.
Luận nói: Nếu gồm thâu tất cả phân biệt, thì lại có mười thứ.
Giải thích: Như trước đã có cụ nhiếp nghĩa nhưng chưa thuyết minh phẩm loại. cụ nhiếp nghĩa là mười thứ phân biệt này, lại hiển thêm nghĩa nhiếp của phẩm loại. Lại nữa, thuyết minh nhiếp hết tất cả.
Luận nói: Một là căn bản phân biệt gọi là bản thức.
Giải thích: Là tự thể căn bản của tất cả phân biệt, phân biệt cũng là A-lê-da thức.
Luận nói: Hai là tướng phân biệt, là thức của sắc….
Giải thích: Phân biệt này lấy tướng làm tướng, tức là thức của sắc… các trần.
Luận nói: Ba là y hiển thị phân biệt, là thức của nhãn… các thức có y chỉ.
Giải thích: Phân biệt này lấy y và hiển thị làm tướng, cũng là sở phân biệt, cũng là năng phân biệt, tức là sáu căn và sáu thức. Sáu căn là sở y chỉ, sáu thức là năng y chỉ.
Luận nói: Bốn là tướng biến dị phân biệt.
Giải thích: Tướng là sáu trần. Phân biệt này lấy tướng biến dị làm tướng.
Luận nói: Là biến dị của lão….
Giải thích: Là thân bốn đại trước sau biến dị gọi là lão, nếu thức phân biệt lão này thì gọi là lão tướng biến dị phân biệt. Chữ đẳng (vân vân…) là gồm luôn cả bệnh và chết.
Luận nói: Thọ khổ lạc…
Giải thích: Khổ thọ và lạc thọ của thân và tâm trước sau biến dị, thức phân biệt thọ này thì gọi là thọ tướng biến dị phân biệt. Chữ đẳng (vân vân…) là gồm luôn cả bất khổ thọ và bất lạc thọ.
Luận nói: Mê lầm của các dục….
Giải thích: Tâm dục trước sau biến dị, thức phân biệt dục này thì gọi là dục tướng biến dị phân biệt. Chữ đẳng
(vân vân…) Là gồm luôn cả các mê lầm của sân, si…
Luận nói: Và biến dị của uổng thời tiết…
Giải thích: phi lý bức hại trói buộc là uổng, không trái với khí hậu lạnh nóng, tháng đủ tháng thiếu là thời tiết. Uổng và thời tiết trước sau biến dị, thức phân biệt uổng và thời tiết này gọi là uổng thời tiết tướng biến dị phân biệt. Chữ đẳng (vân vân…) là gồm luôn cả nhân duyên bức hại trói buộc, trái nghịch với khí hậu lạnh nóng đủ thiếu.
Luận nói: Địa ngục…
Giải thích: Là đạo biến dị, xả năm ấm này để thọ năm ấm của địa ngục đạo, các đạo trước sau biến dị thì gọi là đạo biến dị. Thức phân biệt đạo này thì gọi là đạo tướng biến dị phân biệt. Chữ đẳng (vân vân…) là gồm luôn cả năm đạo khác.
Luận nói: Biến dị của cõi Dục ….
Giải thích: Là cụ phược ly Phược sinh biến dị. Thọ sinh trong ba cõi, có cụ phược và ly phược trước sau biến dị. Thức phân biệt sinh này thì gọi là sinh tướng biến dị phân biệt. Chữ đẳng (vân vân…) là gồm luôn cả sắc giới và vô sắc giới.
Luận nói: Năm là y hiển thị biến dị phân biệt.
Giải thích: Là nhãn… các thức biến dị. phân biệt này lấy tướng của nhãn… các thức biến dị là tướng.
Luận nói: Là biến dị như trước đã nói.
Giải thích: Như chỗ nói trước là biến dị của lão… trong biến dị ngôi vị, giống như biến dị của nhãn…các thức.
Luận nói: Khởi biến dị phân biệt.
Giải thích: Ý thức cũng như sự nương dựa này hiển thị biến dị này mà phân biệt, cho nên gọi là y hiển thị biến dị phân biệt.
Luận nói: Sáu là tha dẫn phân biệt.
Giải thích: Phân biệt này nương vào tha ngôn thuyết mà sinh.
Luận nói: Là văn phi chánh pháp loại và văn chánh pháp loại.
Giải thích: Phân biệt này có hai thứ: 1. Thính văn phi chánh pháp làm loại phân biệt. 2. Thính văn chánh pháp làm loại phân biệt. Là hành ác pháp loại phân biệt và hành thiện pháp loại phân biệt. Tư và tu cũng như thế. Phân biệt này do nghe kẻ khác nói năng mà làm tướng, cho nên gọi là tha dẫn phân biệt.
Luận nói: Bảy là bất như lý phân biệt.
Giải thích: Là phân biệt trước, nghe phi chánh pháp làm nhân.
Luận nói: Là ngoại nhân chánh pháp, phi chánh pháp loại phân biệt.
Giải thích: Là chín mươi sáu thứ ngoại đạo, chính đang văn tư tu ngoại pháp.
Luận nói: Tám là như lý phân biệt.
Giải thích: Là phân biệt nghe chánh pháp trước làm nhân.
Luận nói: Là Nội nhân chánh pháp, nghe chánh pháp loại phân biệt.
Giải thích: Là Thanh-văn, Duyên-giác và Bồ-tát, đang văn tư tu nội pháp.
Luận nói: Chín là quyết phán chấp phân biệt, là bất như lý tư duy chủng loại.
Giải thích: Lấy bất chánh tư duy làm nhân.
Luận nói: Thân kiến làm căn bản, cùng với sáu mươi hai kiến tương ưng phân biệt.
Giải thích: Y chỉ ngã kiến, như đã nói rõ kiến Loại trong Kinh Phạm Võng, gọi là sáu mươi hai kiến tương ưng phân biệt”
Luận nói: Mười là tán động phân biệt, là mười thứ phân biệt của Bồ-tát.
Giải thích: Phân biệt của Bồ-tát không tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật, thì đều gọi là tán động. Kinh Bát-nhã Ba-la-mật nói mười thứ pháp đối trị mười thứ tán động này. Hai pháp đầu chính là Bát-nhã Ba-la-mật sự, là hiển chân không, đưa tục hữu thành thật hữu. Bồ-tát không thấy có Bồ-tát. Tiếp theo có năm Sự và có ba giải thích.
Giải thích thứ nhất: Khiển danh, sự và vật: 1. Khiển danh (khiển trách danh) có hai thứ, một là không thấy danh của Bồ-tát và hai là không thấy danh của Bát-nhã Ba-la-mật. Hoặc là trước khiển nhân danh (tên người), sau khiển pháp danh. 2. Khiển sự (khiển trách sự) có hai thứ, một là không thấy hành và hai là không thấy bất hành. Ba nghĩa này: Một là Bồ-tát năng hành và nhị thừa bất năng hành. Hai là không thấy chánh cần trợ đạo làm hành, không thấy chỗ đối trị của giải đãi làm hành. Ba là không thấy Bồ-tát Tu đạo chưa viên mãn cho nên hành, không thấy Bồ-tát Tu đạo đã viên mãn cho nên bất hành. 3. Khiển vật (khiển trách Vật) chỉ có một thứ. danh này là sự này, lấy vật nào làm căn bản? Lấy năm ấm làm căn bản, cũng không thấy năm ấm, tức là không thấy sắc, không thấy thọ tưởng hành thức.
Giải thích thứ hai: 1. Có hai thứ thuyết minh là không thấy nhân và pháp. 2. Có hai thứ thuyết minh là không thấy nhân hành pháp làm hành, và không thấy nhân bất hành pháp làm bất hành. 3. Có một thứ thuyết minh sở đối trị của hành tức là năm ấm. Năm ấm tức là hai đế Khổ và Tập, không thấy Tập có thể đoạn, không thấy Khổ có thể lìa.
Giải thích thứ ba: 1. Có hai thứ thuyết minh là không thấy năng hành nhân và sở hành đạo. 2. Có hai thứ thuyết minh là không thấy đạo và trợ đạo. 3. Có một thuyết minh là không thấy sở đối trị. Năm sự này, trong mỗi mỗi sự đều có đủ tám pháp.
Luận nói: Vô hữu tướng tán động.
Giải thích: vô hữu tướng là nhân của tán động. Để đối trị tán động này.
Kinh nói: Là Bồ-tát thì thật có Bồ-tát.
Giải thích: Do nói thật có để hiển có Bồ-tát, lấy chân như, không làm thể.
Luận nói: Hữu tướng tán động.
Giải thích: Hữu tướng là nhân của tán động. Để đối trị tán động.
Kinh nói: Không thấy có Bồ-tát.
Giải thích: Không thấy có Bồ-tát, là lấy phân biệt y tha làm thể.
Luận nói: Tăng ích tán động.
Giải thích: Vì có không có sở hữu của tăng ích, chấp tăng ích này tức là tán động. Để đối trị tán động này cho nên Kinh nói: Tại sao vậy? Vì sắc do tự tánh không.
Giải thích: Do phân biệt sắc tánh và tánh không của sắc.
Luận nói: Tổn giảm tán động.
Giải thích: Vì vô tổn giảm là thật có, chấp tổn giảm này tức là tán động. Để đối trị tán động này cho nên Kinh nói: Chẳng phải do không không.
Giải thích: Sắc này không do chân không cho nên không.
Luận nói: Nhất chấp tán động.
Giải thích: Cho rằng y tha phân biệt tức là không, chấp này tức là tán động, để đối trị tán động này cho nên Kinh nói: Là sắc không, chẳng phải sắc.
Giải thích: Nếu tánh y tha cùng với tánh chân thật là một tánh chân thật thì thanh tịnh cảnh giới tánh y tha đó cũng phải như vậy.
Luận nói: Dị chấp tán động.
Giải thích: Là sắc cùng với không khác (dị) nhau, chấp này tức là tán động. Để đối trị tán động này cho nên Kinh nói: Không có sắc khác với không, cho nên sắc tức là không, không tức là sắc”
Giải thích: Nếu sắc cùng với không khác nhau, thì không này không thành sắc ở trong pháp không, không thành tướng chung của sắc thì nghĩa này không thành. Ví như pháp hữu vi cùng với tướng vô thường không khác nhau, hoặc nắm lấy tánh phân biệt nói rằng sắc tức là không, không tức là sắc. Tại sao vậy? Vì phân biệt sắc này vĩnh viễn không có gì cả. Vĩnh viễn không có gì cả này tức là có tức là không. Không này tức là sắc không có gì cả, không giống như tánh y tha đối với tánh chân thật không thể nói được, vì nhất là do cảnh giới thanh tịnh và không thanh tịnh.
Luận nói: Thông tán động.
Giải thích: Chấp sắc có tướng chung làm tánh là có ngăn ngại, chấp này tức là tán động. Để đối trị tán động này cho nên Kinh nói: Tại sao vậy? Này Xá-lợi-phất! Chấp này chỉ có danh ấy gọi là sắc.
Giải thích: Chỉ có danh là tướng chung của sắc. Tại sao vậy? Vì nếu lìa danh sắc thì thật ra không có bản tánh.
Luận nói: Biệt tán động.
Giải thích: Đã chấp sắc có tướng chung, lại phân biệt sắc có các thứ sai biệt sinh, diệt, nhiễm và tịnh, thì chấp này tức là tán động. Để đối trị tán động này cho nên Kinh nói: Là tự tánh không sinh không Diệt, không nhiễm, không tịnh.
Giải thích: Sắc không có gì này làm tướng chung, nếu có sinh thì có nhiễm. Nếu có diệt thì có tịnh, do không có bốn nghĩa này cho nên sắc không có tướng riêng.
Luận nói: Như danh khởi thì nghĩa tán động khởi.
Giải thích: Như danh mà chấp nghĩa, thì đối với nghĩa bị tán động. Để đối trị tán động này cho nên Kinh nói: Đối với sự giả, lập danh để phân biệt các pháp.
Giải thích: Danh là chỗ tạo tác của hư giả, đối với các danh để phân biệt tất cả pháp.
Luận nói: Như nghĩa khởi thì danh tán động.
Giải thích: Như nghĩa đối với danh khởi lên chấp cũ, chấp này tức là tán động. Để đối trị tán động này cho nên Kinh nói: Do giả lập khách danh, để tùy nói các pháp.
Giải thích: danh không cùng với pháp đồng tướng, Kinh nói: Như Như tùy”, tức là nói sinh khởi chấp trước như vậy như vậy.
Giải thích: Tùy giả mượn lập danh để nói các pháp, cho rằng danh cùng với pháp không khác nhau.
Kinh nói: Tất cả danh như vậy, Bồ-tát không thấy, nếu không thấy thì không sinh chấp trước.
Giải thích: để đối trị mười thứ tán động, cho nên nói Bát-nhã Ba-la-mật, lấy thuyết này làm nhân không phân biệt trí sanh. Do trí không phân biệt mà diệt các hoặc của phân biệt.
Luận nói: Vì đối trị mười thứ tán động phân biệt này, trong tất cả giáo pháp Bát-nhã Ba-la-mật, Phật Thế Tôn nói: Trí không phân biệt, có thể đối trị mười thứ tán động này. Phải biết đầy đủ nghĩa của Kinh Bát-nhã Ba-la-mật, như Kinh Bát-nhã Ba-la-mật nói: Tại sao Bồ-tát hành trong Bát-nhã Ba-la-mật? Này Xá-lợi-phất! Là Bồ-tát thật có thì Bồ-tát không thấy có Bồ-tát, không thấy tên Bồ-tát, không thấy Bát-nhã Ba-la-mật, không thấy hành, không thấy bất hành, không thấy sắc, không thấy thọ tưởng hành thức. Tại sao vậy? Vì sắc do tự tánh không, chẳng phải do không không, là sắc không chẳng phải sắc, vì không có sắc khác với không; sắc tức là không, không tức là sắc. Tại sao vậy? Này Xá-lợi-phất! không sắc này chỉ có danh. Chỗ nói sắc là tự tánh không sinh không diệt không nhiễm không tịnh, đối với giả lập danh để phân biệt các pháp. Do giả lập Khách danh để tùy nói các pháp. Như như tùy là nói sinh khởi chấp trước như vậy như vậy. Tất cả danh như vậy Bồ-tát không thấy. Nếu không thấy thì không sinh chấp trước. Như quán sắc cho đến thức, cũng phải nên khởi quán như vậy, do văn cú của
Kinh Bát-nhã Ba-la-mật, phải tùy thuận tư duy mười thứ nghĩa sai biệt.
Giải thích: Như tám thứ quán sắc ấm, cũng nên khởi tám thứ quán bốn ấm còn lại, cho đến bốn sự trước cũng phải khởi tám thứ quán.
Luận nói: Nếu do biệt ý này, tánh y tha thành ra có ba tánh. Ba tánh đó tại sao có ba thứ khác nhau? Vì không xen tạp lẫn nhau.
Giải thích: Câu hỏi này trước hết là phân ba tánh khác nhau, kế đó thuyết minh tánh y tha có nghĩa riêng thành ba tánh. Hoặc trong tánh y tha thuyết minh ba tánh có ba thứ khác nhau thì ba tánh thành xen tạp, không thể nói thiên về một tánh nào! Tại sao vậy? Vì không xen tạp lẫn nhau.
Luận nói: Nghĩa không rời nhau.
Giải thích: Đạo lý có khác nhau cho nên không xen tạp.
Luận nói: Do đạo lý này mà tánh này thành y tha, không do đây mà thành tánh phân biệt và chân thật.
Giải thích: Đây tức như đã nói ở trước. Do đạo lý của chủng tử hệ thuộc, hệ thuộc tịnh phẩm và bất tịnh phẩm, nhưng thành y tha thì không thể lấy đạo lý này để khiến cho thành tánh phân biệt và chân thật.
Luận nói: Do đạo lý này mà tánh này thành phân biệt, chứ không do đạo lý này mà thành y tha và chân thật.
Giải thích: Đây tức như đã nói ở trước, do các đạo lý của tự tánh phân biệt, phân biệt sai biệt… cho nên thành tánh phân biệt. Không thể lấy đạo lý này để khiến cho thành y tha và chân thật.
Luận nói: Do đạo lý này mà tánh này thành chân thật, chứ không do đạo lý này mà thành y tha và phân biệt.
Giải thích: Đây tức như đã nói ở trước. Do đạo lý của sự thành tựu tự tánh, thành tựu sự thanh tịnh cho nên thành tánh chân thật cho nên không thể lấy đạo lý này để khiến cho thành y tha và phân biệt.
Luận nói: Làm sao biết được tánh y tha này? Do tánh phân biệt hiển hiện tương tự pháp, không cùng với tánh phân biệt đồng thể.
Giải thích: Câu hỏi này nói rằng, tánh phân biệt hiển hiện tương tự pháp, tương tự pháp này không lìa tánh y tha, lẽ ra cùng với tánh y tha đồng thể, nhưng tại sao nói nó không đồng thể!
Luận nói: Chưa được danh trước đối với nghĩa thì không nên sinh trí. Pháp cùng với danh là một, thì nghĩa này trái nhau.
Giải thích: Tánh y tha tuy cũng do một phần của tánh phân biệt, làm sáng tỏ nhưng không đồng thể với tánh phân biệt. Vì hiển thị nghĩa này cho nên lập ra ba chứng cứ. Đây tức là một chứng cứ. Nếu tánh y tha cùng với tánh phân biệt chung một thể thì sự chấp này trái nhau. Nếu tánh y tha cùng với tánh phân biệt chung một thể, thì trí này không khai tên đối với nghĩa phải sinh. Ví như lìa tên gọi bình thì đối với nghĩa của bình và trí của bình không sinh. Nếu nghĩa của bình cùng với tên của bình là một thể thì sự này không được thành, vì danh và nghĩa không đồng tướng. Nếu chấp danh và nghĩa chung một thể thì sự chấp này trái nhau. Chứng cứ này hiển thị danh là y tha, hiển thị nghĩa là phân biệt. Tại sao vậy? Vì y tha này là do sự phân biệt của danh.
Luận nói: Do danh nhiều. Nếu danh cùng với nghĩa là một, danh đã nhiều, nghĩa cũng phải nhiều, thì nghĩa và thể trái nhau.
Giải thích: Đây là chứng cứ thứ hai. Hoặc một nghĩa có nhiều danh. Nếu danh cùng với nghĩa chung một thể, như danh nhiều thì nghĩa cũng phải trở thành nhiều. Nếu như thế thì một nghĩa phải có nhiều thể. Một vật nhiều thể thì nghĩa này trái nhau. Do đó, nếu hai tánh chung một thể thì trở thành trái nhau thứ hai.
Luận nói: Do tên không định và thể tướng tạp thì nghĩa này trái nhau.
Giải thích: Ví như tên Cù làm đề mục cho chín nghĩa. Nếu nói danh cùng với nghĩa làm một thể, là hai thể trái nhau thì trở thành trái ngược nhau thứ ba. Chỗ đề mục các nghĩa của tên cù, tướng mạo bất đồng, do thừa nhận một thể thì một xứ của pháp trái ngược được thành, vì không có nghĩa này cho nên hai tánh không được làm một thể.
Luận nói: Trong đây nói kệ rằng.
Giải thích: Vì làm rõ lại nghĩa trước cho nên nói kệ. Bài Kệ thứ nhất làm rõ y tha và phân biệt không chung một thể. Nghĩa này được thành là do ba thứ trái nghịch.
Luận nói:
Danh trước không có trí, Nhiều tên và bất định, Nghĩa thành do đồng thể, Nhiều thể tạp trái nhau. Pháp không hiển tợ có, Vô nhiễm nhưng có tịnh, Cho nên ví việc huyễn, Cũng ví dụ hư không.
Luận nói: Nghĩa thành.
Giải thích: Tức là thuyết minh tánh y tha và tánh phân biệt không đồng thể thì nghĩa thành.
Luận nói: Danh trước không có trí, là đồng thể trái nhau.
Giải thích: Đây là trái nhau thứ nhất.
Luận nói: Nhiều tên đồng thể, là nhiều thể trái nhau. Giải thích: Đây là trái nhau thứ hai.
Luận nói: Và bất định, là đồng thể và tạp thể trái nhau.
Giải thích: Đây là trái nhau thứ ba. Bài kệ sau để dạy cho đệ tử, vì đệ tử đối với ba sự sinh nghi ngờ.
Luận nói: Pháp không hiển tương tự có, vô nhiễm nhưng có tịnh.
Giải thích: Đây là thuyết minh do hai thứ trái nhau mà sinh nghi. Không có pháp mà hiển pháp tương tự đó là trái nhau thứ nhất, trong không nhiễm mà có tịnh là trái nhau thứ hai.
Luận nói: Cho nên ví việc huyễn, cũng ví dụ hư không.
Giải thích: Tức là lấy ví dụ này để giải thích nghi ngờ của đệ tử. Ví dụ các ảnh tượng do huyễn Hóa thật ra không hiển hiện là có. Các pháp phân biệt cũng như thế, thật ra là không nhưng hiển hiện tựa như có. Có này cũng có thể thấy. Ví dụ như hư không, không vị vấy nhiễm bởi năm thứ ngăn cản như mây v.v… Tự tánh thanh tịnh, mọi ngăn cả như mây sau khi diệt mất thì cũng nói hư không là tịnh. Các pháp cũng như thế, tự tánh thanh tịnh không có ô nhiễm, nhưng do khách trần che lấp. Sau khi diệt chướng ngại thì thấy thanh tịnh.
Luận nói: Tại sao hiển hiện như vậy mà thật ra là chẳng có? Vì tất cả loại pháp của tánh y tha là chẳng phải không có.
Giải thích: Đây là hỏi rằng, nếu tánh y tha, chỗ hiển hiện như vậy mà không có gì thì tánh chất tất cả các pháp này cũng không phải không. Ý này là thế nào!
Luận nói: Nếu không có tánh y tha thì tánh chân thật cũng không có, tất cả không có gì mà không thành. Nếu không có tánh y tha và tánh chân thật thì không có lỗi của phẩm vị nhiễm ô và phẩm thanh tịnh, mà hai phẩm này được biết là chẳng phải không có, cho nên không phải tất cả đều không có. Trong đây nói kệ:
Không có tánh y tha,
Tánh chân thật cũng không,
Và thường không hai phẩm,
Là nhiễm ô, thanh tịnh.
Chư Phật Thế Tôn trong Đại thừa nói Kinh Tỳ-phậtlược, trong Kinh này nói: Thế nào là nên biết tánh phân biệt? Do nói phẩm Loại không và có, phải biết tánh này. Thế nào là tánh y tha nên biết? Do nói việc huyễn, Nai khát nước, tướng mộng, ánh sáng và bóng ảnh, tiếng vang trong hang động, trăng dưới nước, biến Hóa… các thí dụ như vậy, phải biết tánh của nó. Thế nào là tánh chân thật nên biết? Do nói bốn loại pháp thanh tịnh, phải biết tánh này.
Giải thích: Nếu không có tánh này thì tánh chân thật cũng không có. Tại sao vậy? Nếu có nhiễm ô thì có thanh tịnh, nếu cả hai pháp đều không thì tất cả đều không. Tất cả không, do phương tiện này có thể hiển thị sự bất thành của nó. Cái gì là phương tiện? Bác không có sinh tử và Niết-bàn, nghĩa này không thể lập. Do ô phẩm nhiễm và phẩm thanh tịnh có thể thấy, cho nên hai pháp hiển thị hiện. Nếu bác bỏ cho rằng không có, thì trở thành tà kiến, cũng gọi là huỷ báng tổn giảm. Cho nên tánh phân biệt là không có. Tánh y tha thì không thể bác rằng không có. Do đó mà biết phân biệt và y tha không được đồng thể.
Luận nói: Bốn loại pháp thanh tịnh. Một là pháp này xưa nay tự tánh vốn thanh tịnh, gọi là như hư không, thật tế, vô tướng chân thật, pháp giới
Giải thích: Do pháp đó tự tánh xưa này thanh tịnh. Sự thanh tịnh này gọi là như như. Đối với tất cả chúng sinh đều bình đẳng có, vì là tướng thông suốt. Do pháp này là có cho nên nói tất cả pháp gọi là Như Lai Tạng.
Luận nói: Hai là thanh tịnh không cấu nhiễm, là pháp này xa lìa tất cả chướng cấu uế của khách trần.
Giải thích: Như Lai Tạng đó lìa hoặc chướng và trí chướng, do đây mà vĩnh viễn thanh tịnh, chư Phật Như Lai được hiển hiện.
Luận nói: Ba là đạt được đạo thanh tịnh, tức tất cả pháp trợ đạo và các pháp Ba-la-mật.
Giải thích: Là đạt được đạo thanh tịnh của Bồ-tát, vì đạo này có thể được thanh tịnh, cũng gọi là đạo thanh tịnh, tức là Bát-nhã Ba-la-mật, và các pháp trợ đạo bốn niệm xứ…
Luận nói: Bốn là con đường phát sinh cảnh giới thanh tịnh, tức là nói về pháp đại thừa chơn chánh.
Giải thích: Đạo và Trợ đạo sinh khởi cảnh giới sở duyên, là mười hai bộ Tu-đa-la chánh thuyết, là tư lương thanh tịnh, cũng gọi là thanh tịnh.
Luận nói: Tại sao vậy?
Giải thích: Tại sao nói làm phát sinh cảnh giới đạo thanh tịnh? Vì thu nhiếp vào tánh chân thật, không phải phân biệt và y tha.
Luận nói: Đây nói là nhân thanh tịnh, không phải phân biệt, mà nó lưu xuất từ pháp giới thanh tịnh, không phải y tha do bốn loại thanh tịnh pháp này nhiếp hết tất cả pháp thanh tịnh.
Giải thích: Đây chính nói nếu thuộc tánh phân biệt thì phải thành nhân nhiễm ô, vì là nhân thanh tịnh, nên không phải tánh phân biệt. Nếu thuộc tánh y tha, thì như tánh y tha cũng phải trở thành hư vọng, nhưng sự lưu chảy của pháp giới thanh tịnh này làm thể cho nên không phải hư vọng. Vì vượt ngoài hai tánh cho nên thuộc tánh chân thật. Nếu nói tùy một thanh tịnh trong bốn thứ thanh tịnh, thì đây là nói trong đại thừa phải biết thuộc tánh chân thật. Thanh tịnh thứ nhất và thanh tịnh thứ hai, do không có biến dị cho nên trở thành chân thật. Thanh tịnh thứ ba và thứ tư do không có điên đảo cho nên trở thành chân thật.
Luận nói: Trong đây nói kệ.
Giải thích: Muốn lập lại nghĩa này cho rõ ràng, do đó nói kệ.
Luận nói:
Các huyễn hiển y tha,
Nói không hiển phân biệt,
Nếu nói bốn thanh tịnh,
Đây nói thuộc chân thật.
Thanh tịnh do bản tánh,
Đạo vô cấu duyên duyên,
Tất cả pháp thanh tịnh,
Bốn đều nhiếp phẩm loại.
Luận nói: Các huyễn hiển y tha.
Giải thích: Lĩnh vực đó, Như Lai nói tất cả pháp như sự huyễn, cho đến như thí dụ biến Hóa. Phải biết đây là nói y tha.
Luận nói: Nói không hiển phân biệt.
Giải thích: Nếu nói không có sắc cho đến không có tất cả pháp, phải biết lời nói này là nói phân biệt. Đây là dụng ý Như Lai nói tánh y tha, lấy các huyễn sự làm thí dụ. Bây giờ sẽ nói về nghĩa này.
Luận nói: Nếu nói bốn thứ thanh tịnh, thì thuyết này thuộc chân thật, thanh tịnh do bản tánh không có duyên với đạo cấu nhiễm. Tất cả pháp thanh tịnh thì bốn thứ thanh tịnh đều nhiếp các phẩm loại. Nhân gì, duyên gì là tánh y tha? Như sự nói việc huyễn của Kinh, chỗ hiển thị thí dụ, trong tánh y tha là để trừ nghi hoặc hư vọng của người khác. Tại sao người khác đối với trong tánh y tha sinh ra nghi hoặc hư vọng? Các thuyết trong tánh y tha có tâm nghi hư vọng như vậy. Nếu thật không có vật thì tại sao thành cảnh giới? Vì giải quyết nghi này cho nên nói thí dụ huyễn sự.
Giải thích: Đối với hư vọng khởi nghi cho là thật có, vì không tin là hư vọng cho nên gọi là nghi hư vọng. Pháp này nếu hiển hiện thành cảnh giới thì tại sao nói là hư vọng? Cho nên lấy huyễn sự để thí dụ tánh y tha, ví như các ảnh tượng huyễn Hóa thật ra không có, nhưng cũng thành cảnh giới. Các pháp cũng vậy, vì trừ các nghi này cho nên cần phải lập các thí dụ.
Luận nói: Nếu không có cảnh giới, thì Tâm và Tâm pháp làm sao được sinh? Để giải quyết nghi này, cho nên nói thí dụ Nai khát nước.
Giải thích: Nai khát nước là thí dụ cho tâm và tâm pháp. Lấy nước để thí dụ cho trần, nai do khát nước dao động sinh thức, duyên nước làm cảnh, nhưng thật ra không có nước. Cũng như vậy, tâm và tâm pháp khởi các sự biến dị, đối với chỗ không có trần mà sinh ra thức duyên trần.
Luận nói: Nếu thật không có trần, ái và phi ái, thì sự thọ dụng tại sao được thành? Vì giải quyết nghi này cho nên nói thí dụ các tướng mộng.
Giải thích: Ví như trong mộng, không thật có trần, nhưng cũng thấy có các thọ dụng yêu, ghét… trong tánh y tha này cũng vậy, không có thật trần mà cũng thấy có thọ dụng yêu, ghét…
Luận nói: Nếu thật không có pháp, thì nghiệp thiện, nghiệp ác, quả báo ái và quả báo phi ái làm sao được sinh? Vì để giải quyết nghi này cho nên nói thí dụ hình ảnh.
Giải thích: Ví như trong gương, không có thật ảnh trần, trên tướng mặt khởi ảnh thức. Ảnh trần này không phải không hiển hiện. Hai quả yêu, ghét cũng vậy, thật ra chẳng có mà hiển hiện tựa như có.
Luận nói: Nếu thật không có pháp thì tại sao các loại trí trí sinh?
Vì để giải quyết nghi này cho nên nói thí dụ ánh sáng và bóng ảnh.
Giải thích: Ví như người đùa với bóng, thấy bóng có các thứ tướng mạo, tùy theo bóng mà khởi lên các thứ thức, không có thật ảnh trần. Các thứ thức trần cũng vậy, thật ra là chẳng có gì mà có các thứ trần hiển hiện.
Luận nói: Nếu không có thật pháp thì tại sao nhiều loại ngôn thuyết khởi? Vì để giải quyết nghi này cho nên nói thí dụ tiếng vang trong hang động.
Giải thích: Ví như thật không có tiếng vang mà hiển hiện có thể nghe. Các sự nói năng cũng vậy, thật không có mà hiển hiện có thể nghe được.
Luận nói: Nếu thật không có pháp thì tại sao trở thành duyên pháp chân thật, cảnh giới của định tâm? Vì để giải quyết nghi này cho nên nói thí dụ nước và trăng. Giải thích: Ví như không có thật trần nước và trăng nhưng hiển hiện có thể thấy được, do nước sáng láng trong lặng. Nếu tâm người được định thì không có thật trần làm cảnh, nhưng cũng hiển hiện có thể thấy được. Nước thí dụ cho định, vì định tâm sáng láng trong lặng. Luận nói: Nếu thật không có pháp thì tại sao các Bồtát do đó khởi tâm, không có tâm điên đảo, vì người khác mà khởi các sự lợi ích, thọ sinh trong Lục đạo? Vì để giải quyết nghi này cho nên nói thí dụ biến Hóa.
Giải thích: Ví như không có trần thật mà biến Hóa, thì tùy theo chỗ làm của người biến Hóa mà các chỗ tạo tác đều thành trần được hóa, không phải không hiển hiện. Bồ-tát thọ sinh cũng như thế, thật không có thân thọ sinh sáu đường, làm sự lợi ích tất cả chúng sinh và thân thọ sinh cũng hiển hiện. Còn có nghĩa gì nữa? Phật Thế Tôn nói các thí dụ việc huyễn, lại có nghĩa khác. Bây giờ sẽ nói ý của Phật. Thí dụ huyễn sự là đối trị nhãn căn… sáu nội căn. Các căn như ảnh tượng huyễn Hóa, thật ra không phải có mà hiển hiện tựa như có. Nai khát nước là thí dụ khí thế giới. Do các đại này hiển hiện như nước, thật ra không có, nhưng đối với nai khát nước thì hiển hiện tựa như có, vì dao động. Khí thế giới này, chúng sinh chấp là sắc… pháp có thể thọ dụng, như chấp nước trong thí dụ nai khát nước, cho là có thể uống được. Để đối trị chấp này cho nên nói thí dụ mộng và tướng. Ví như sắc… các trần trong mộng là không có, nhân đó có thọ dụng yêu, ghét… để đối trị thân nghiệp cho nên nói thí dụ hình ảnh. Nương vào nghiệp thiện, ác của thân có riêng sắc tương tự hình ảnh sinh. Để đối trị khẩu nghiệp cho nên nói thí dụ tiếng vang trong hang động. Do thí dụ này làm rõ khẩu nghiệp là nhân mà có quả báo của khẩu nghiệp, cũng như tiếng vang trong hang động. Ý nghiệp có ba thứ: 1. Bất tịch tĩnh, tịnh địa là: Tán động nghiệp của cõi Dục. 2. Tịch tĩnh địa, tức là tu tuệ. 3. Văn tuệ và Tư tuệ. Để đối trị ý nghiệp của địa bất tịnh, cho nên nói thí dụ ánh sáng và bóng ảnh. Do thí dụ này mà làm rõ quả báo của ý nghiệp cũng như ánh sáng và cái bóng. Để đối trị ý nghiệp của cõi tịch tĩnh, cho nên nói thí dụ nước và trăng để hiển thị quả báo của ý nghiệp. Ví như nước và trăng, như trăng trong nước thật ra không có trăng mà hiển hiện tựa trăng, tịch tĩnh tâm cũng vậy, thật ra không có, nhưng trong tâm tịch tĩnh có dao động, quả của đời hiện tại và quả của đời vị lai hiển hiện. Lìa tâm tịch tĩnh này thì không có quả khác. Để đối trị ý nghiệp của phẩm loại văn và tư cho nên nói thí dụ biến Hóa. Nếu là văn và tư huân tập sinh quả báo nghiệp, ví như biến Hóa phẩm loại không có cũng hữu hiển hiện. Văn và tư sinh nghiệp quả báo cũng vậy, do pháp ba tánh như vậy này làm tướng thì Kinh mà Như Lai nói đều tùy thuận. Bây giờ sẽ nói tùy thuận nghĩa kinh.
Luận nói: Trong kinh Bà-la-môn Vấn nói: Nương vào nghĩa gì mà Thế Tôn nói những lời như vậy? Như Lai không thấy sinh tử, không thấy Niết-bàn. Trong tánh y tha, nương vào tánh phân biệt và nương vào tánh chân thật, sinh tử làm Niết-bàn, nương vào nghĩa không sai biệt. Tại sao vậy? Vì tánh y tha này do một phần của tánh phân biệt trở thành sinh tử, do một phần tánh chân thật mà trở thành Niết-bàn.
Giải thích: Tánh y tha không phải sinh tử, do tánh này nhân theo tánh chân thật mà thành Niết-bàn, nhưng tánh này không phải Niết-bàn. Tại sao vậy? Tánh này do phân biệt phần tức là sinh tử, do đó không thể quyết định nói là một phần. Nếu thấy một phần thì phần tánh còn lại không khác, cho nên không thấy sinh tử, cũng không thấy Niết-bàn. Do ý này cho nên Như Lai đáp Bà-la-môn như vậy.
Luận nói: Trong A-tỳ-đạt-ma Tu-đa-la, Phật Thế Tôn thuyết pháp có ba thứ: 1. Phần nhiễm ô. 2. Phần thanh tịnh. 3. Phần nhiễm ô thanh tịnh. Dựa vào nghĩa nào mà nói ba phần này? Trong tánh y tha thì tánh phân biệt làm phần nhiễm ô, tánh chân thật làm phần thanh tịnh, tánh y tha vừa làm nhiễm ô vừa làm thanh tịnh. Dựa vào nghĩa như vậy mà nói ba phần này.
Giải thích: Trong A-tỳ-đạt-ma Tu-đa-la, nói tánh phân biệt lấy phiền não làm tánh. Tánh chân thật lấy phẩm chất thanh tịnh làm tánh. Tánh y tha thì do có đủ hai phần cho nên lấy hai tánh làm tánh. Thuyết pháp có ba thứ: 1. Phiền não làm phần. 2. Thanh tịnh làm phần. 3. Hai pháp làm phần. Nương nghĩa này mà nói như vậy. Luận nói: Trong nghĩa này lấy gì làm thí dụ? Lấy quặng và đất làm thí dụ. Ví như thấy vàng quặng đất có ba pháp: 1. Địa giới (cõi). 2. Vàng. 3. Đất. Đất trong địa đất không phải có nhưng hiển hiện. Vàng thì thật có nhưng không hiển hiện. Đất này nếu lấy lửa thiêu đốt luyện thì đất không hiện, tướng vàng tự hiện. Đất của địa giới này khi hiển hiện là do tướng hư vọng hiển hiện. Khi vàng hiển hiện là do chân thật tướng hiển hiện. Do đó địa giới có hai phần.
Giải thích: Vì làm rõ nghĩa này, Như Lai nói thí dụ về vàng ẩn trong đất. Vàng là vật ẩn tàng. Địa giới là chủng tử của vàng, cho nên nói vàng ẩn trong đất. Lấy vật có xúc chạm cứng rắn là địa giới, lấy chỗ tạo sắc là đất, là các sắc trần. Ba thứ này có thể hiểu rõ. Địa giới này trước hết do tướng đất hiển hiện. Sau đó tướng vàng hiển hiện. Tại sao vậy? Vì địa giới này nếu do lửa thiêu luyện thì tướng vàng hiển hiện. Cho nên đối với địa giới thật có vàng. Nghĩa này đáng tin.
Luận nói: Như vậy bản thức khi chưa bị lửa của trí không phân biệt thiêu luyện, thì thức này do tánh phân biệt hư vọng hiển hiện, không do tánh chân thật hiển hiện. Nếu khi bị lửa của trí vô phân biệt thiêu luyện thì thức này do đó mà thành tựu, tánh chân thật hiển hiện, không do hư vọng tánh phân biệt hiển hiện. Cho nên thức tánh phân biệt hư vọng, tức là tánh y tha có hai phần. Ví như chỗ có địa giới mà vàng ẩn tàng trong đó. Lại nữa, có chỗ Thế Tôn nói: Tất cả pháp thường trụ”, hoặc có chỗ nói: Chẳng phải thường chẳng phải vô thường. Nương vào nghĩa gì mà nói là thường? Tánh y tha này do tánh chân thật mà được thường trụ. Do tánh phân biệt mà gọi là Vô thường. Do hai tánh này mà có chẳng phải thường chẳng phải vô thường. Như vậy nương vào nghĩa này mà nói thường, vô thường, chẳng phải thường chẳng phải vô thường. Như vậy mà nói khổ, lạc, phi khổ lạc. Thiện, ác và chẳng phải thiện ác, không, chẳng không, chẳng phải không, chẳng phải chẳng không. Ngã, vô ngã, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Tịnh, bất tịnh, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Có tánh, vô tánh, chẳng phải có tánh, chẳng phải vô tánh. Có sinh, vô sinh, chẳng phải có sinh, chẳng phải vô sinh. Có diệt, vô diệt, chẳng phải có diệt, chẳng phải vô diệt. Bản lai tịch tĩnh, không tịch tĩnh, chẳng phải bản lai tịch tĩnh, chẳng phải không tịch tĩnh, bản lai Niết-bàn, chẳng phải Niết-bàn, chẳng phải bản lai Niết-bàn, chẳng phải không Niết-bàn, sinh tử, Niết-bàn, chẳng phải sinh tử, chẳng phải Niếtbàn. Do những thứ sai biệt này, chư Phật Như Lai nương vào nghĩa này mà bí mật nói. Do ba tánh này tùy theo chánh thuyết quyết định rõ ràng là thường hay vô thường, như trước đã giải thích. Trong đây nói kệ:
Pháp thật ra không có, Tợ như nhiều loại hiện, Pháp này là phi pháp, Mà không có hai nghĩa.
Giải thích: Pháp, chẳng phải pháp và chẳng phải phi pháp, do pháp này thật ra là không có mà phi pháp giống như có hiển hiện. Chẳng phải phi pháp thì do phi pháp và chẳng phải phi pháp cho nên nói không có hai nghĩa.
Luận nói:
Nương một phần mà nói,
Hoặc có, hoặc chẳng có,
Nương hai phần mà nói,
Chẳng có, chẳng chẳng có.
Giải thích: Nếu nương vào mỗi mỗi phần thì không thể nói các pháp là có và không có, nếu như chỗ hiển hiện không giống như có cho nên không thể nói là có, tuy thật ra chẳng phải có giống như có hiển hiện nhưng không thể nói chẳng phải có. Nếu nắm lấy mỗi mỗi phần thì phải phán quyết như vậy. Nếu căn cứ theo tánh y tha có đủ hai phần thì nói các pháp là chẳng phải có và chẳng phải không có.
Luận nói:
Nếu hiển hiện không có,
Cho nên nói là không,
Nếu hiển hiện thật có,
Cho nên nói chẳng không.
Giải thích: Nếu sự hiển hiện không phải có như vậy, thì nương vào nghĩa không có mà nói vĩnh viễn không có. Tuy không có không phải không hiển hiện, thì nương vào nghĩa chỉ có có hiển hiện mà nói chẳng phải không.
Luận nói:
Do tự thể chẳng có,
Vì tự thể không trụ,
Nếu như chấp không có,
Ba tánh thành vô tánh.
Do vô tánh mà thành,
Trước y chỉ cho sau,
Tịnh vốn không sinh diệt,
Và tự tánh Niết-bàn.
Luận nói: Do Tự thể chẳng có.
Giải thích: Nay sẽ làm rõ điều Như Lai nói về ý nghĩa tánh không. Câu thứ nhất một phần thuyết minh tánh không chung cả đại thừa và tiểu thừa. Đây chính là hiển thị ý riêng của tánh không. Chẳng phải có là hiển thị chung tánh không. Do các pháp lìa nhân duyên hoà hợp, không quan hệ với ngoại duyên tự nhiên mà thành, vì không có nghĩa này. Tất cả pháp vô không có tự tánh. Thể chẳng phải có, cũng là không có tự tánh. Điều này có ý riêng, là căn cứ theo quá khứ và vị lai thì thể này đã diệt, do thể này lập thêm pháp làm có thì không có nghĩa như vậy, vì thể này chưa có. Thể này lập pháp sẵn có làm có, cũng không có nghĩa này, cho nên hai đời quá khứ và vị lai đều không có tự tánh.
Luận nói: Vì tự thể không trụ.
Giải thích: Nếu các pháp đã sinh, thì chỉ có thời sinh mà không có nghĩa năng trụ. Đã không có năng trụ cho nên hiện tại cũng không có thể, thì ba đời này không có tự tánh, cũng chung với đại thừa và tiểu thừa.
Luận nói: Nếu như cho là không có thì ba tánh thành không có tự tánh.
Giải thích: Do của tánh phân biệt làm rõ, nên thật ra là không có, không có tướng tánh, vì tánh phân biệt không có thể tướng. Y tha không có chỗ y chỉ, cho nên thành tánh vô sinh. Hai tánh “không” này không có vô tự tánh cho nên là tánh chân thật không có tự tánh. Ba tánh không này chỉ có đại thừa mới có, các thừa khác không có.
Luận nói: Do không có tự tánh mà trở thành cái trước làm nơi tựa cho cái sau, không có sinh diệt vốn thanh tịnh và tự tánh Niết-bàn.
Giải thích: Do các pháp vĩnh viễn thật không có tự tánh, thì bốn nghĩa của tất cả vô sinh được thành. Tại sao vậy? Do các pháp vốn không có tự tánh cho nên vô sinh. Nếu vô sinh thì không có diệt. Do vô sinh và vô diệt cho nên xưa nay tịch tĩnh. Do xưa nay tịch tĩnh cho nên tự tánh Niết-bàn được thành. Cái trước thành lập nơi tựa cho cái sau, là vô tánh thành lập vô sinh cho nên làm nơi tựa cho vô sinh. Ba pháp sau cũng như thế.
----------------------------------
Luận nói: Lại nữa, có bốn ý và bốn sự nương tựa. Tất cả giáo pháp của chư Phật Thế Tôn phải nên tùy tùy sự hiểu biết quyết định.
Giải thích: Chánh pháp mà Như Lai nói, không ngoài bốn ý và bốn sự y chỉ này và nương tựa ba tánh, cho nên có thể hiểu biết quyết định. Nếu lìa ba tánh thì không có đạo Lý nào khác có thể hiểu biết quyết định pháp này.
Luận nói: Một là ý bình đẳng.
Giải thích: Ví như có người chấp pháp vốn bình đẳng như vậy, nói đó là ngã, Thế Tôn cũng vậy, pháp thân bình đẳng thì đặt để trong tâm… nói những lời như thế.
Luận nói: Ví như có thuyết, ta trong khi xưa gọi là Tỳ-bà-thi, thành Phật đã lâu.
Giải thích: Không phải Tỳ-bà-thi khi xưa là Thíchca Mâu-ni ngày nay. Sự nói đó lấy bình đẳng làm ý, gọi đó là thông suốt bình đẳng. Nếu nói sự bình đẳng riêng là nhân, quả, ân đức đều đồng, thì gọi đó là ý bình đẳng. Luận nói: Hai là ý của thời khác biệt.
Giải thích: Nếu có chúng sinh do lười biếng không siêng ưa tu hành, thì Như Lai dùng phương tiện mà nói. Do đạo lý này mà trong chánh pháp của Như Lai có thể siêng năng tu hành theo phương tiện mà nói.
Luận nói: Ví như có lời nói: Nếu người tụng trì tên Phật Đa Bảo, thì quyết định người đó đối với Vô thượng Bồ-đề không thoái chuyển.
Giải thích: Là người lười biếng mà có thiện căn, tụng trì tên Phật Đa Bảo để tiến lên công đức thượng phẩm. Ý của Phật vì hiển thị công đức của Thượng phẩm, trong Hành yếu kém vì muốn khiến cho xả bỏ lười biếng mà siêng năng tu hành, không phải chỉ do trì tụng danh hiệu Phật, tức là không thoái đọa quyết định đắc Vô thượng Bồ-đề. Ví như do một đồng tiền vàng kinh doanh kiếm được một ngàn tiền vàng, không phải một ngày mà được ngàn, do thời gian khác mà được có một ngàn. Ý của Như Lai cũng vậy, một tiền vàng này là nhân của một ngàn tiền vàng. Tụng trì danh hiệu Phật cũng như thế, là nhân không thoái chuyển Bồ-đề.
Luận nói: Lại có nói rằng: Chỉ do phát nguyện, được thọ sanh vào cõi Phật an lạc.
Giải thích: Cũng như trước, phải biết đó gọi là ý thuộc thời khác biệt.
Luận nói: Ba là ý thuộc nghĩa riêng.
Giải thích: Câu này là chỉ rõ sự tự giác hiểu nghĩa thật tướng. Do nghĩa đạo lý của ba tánh, nếu cho rằng do nghe mà được hiểu rõ nghĩa là ý của Như Lai, thì trẻ con và phàm phu cũng có thể hiểu rõ. Cho nên ý của Như Lai không phải như vậy. Ý của Như Lai là thế nào?
Luận nói: Ví như có nói các sự như vậy, nhiều như số cát sông Hằng, Chư Phật cũng chỉ đối với nghĩa của pháp đại thừa mà được sinh hiểu rõ.
Giải thích: Hiểu rõ không phải do nghe được thành, hoặc người đã phụng sự hằng hà sa số Phật mới được thành tựu, thì đó gọi là ý thuộc nghĩa riêng biệt.
Luận nói: Bốn là ý ham muốn an vui của chúng sinh. Ví như Như Lai trước làm một người khen ngợi bố thí, sau lại chê bai.
Giải thích: Có những chúng sinh mà Như Lai trước hết tán thán công đức của bố thí; sau này, hoặc vì người này mà huỷ báng bố thí. Như vậy là tùy người mà được thành. Tại sao vậy? Nếu người có tâm keo kiệt tiền của, thì vì trừ tâm này mà trước tán thán bố thí. Nếu người đã ưa thích hạnh bố thí, vì thí là thiện căn của hạ phẩm, Như Lai sau đó lại chê bai hạnh bố thí, đó chê bai khiến cho người này khát ngưỡng các hạnh thù thắng khác. Nếu không do ý này thì khen ngợi và chê bai trở thành trái nhau. Do Như Lai có ý riêng, cho nên khen ngợi và chê bai trong một hạnh bố thí mà không trái nhau.
Luận nói: Như thí, giới và các hạnh tu khác cũng vậy, gọi đó là bốn loại ý.
Giải thích: Giới… cũng như vậy. Có người thì Như Lai vì tán thán và huỷ báng đối với việc tu, đây là thế gian tu cho nên có thể huỷ báng, nếu tu pháp xuất thế thì không thể huỷ báng. Nghĩa ý và sự nương tựa tướng khác tại sao tâm Như Lai trước hết duyên sự này, sau vì người khác mà nói cho nên gọi là ý, do nhân duyên này sinh quyết định, nhập chánh định mà gọi nhân này là nương tựa.
Luận nói: Bốn sự nương tựa: Một là nương tựa khiến nhập vào. Ví như trong đại thừa và tiểu thừa, Phật Thế Tôn nói nhân, pháp hai thứ chung riêng là hai tướng thuộc Tục đế.
Giải thích: Trong chánh thuyết căn cứ theo lý của thế đế mà nói có nhân (người), pháp và hai tướng chung riêng. Vì khiến cho chúng sinh nhập chánh nghĩa, nên gọi là sự nương tựa khiến nhập vào.
Luận nói: Hai là tướng nương tựa. Ví như tùy trong chỗ thuyết pháp tướng chắc chắn có ba tánh.
Giải thích: Trong chánh thuyết nếu phải thuyết pháp tướng thì nói ba tánh. Ba tánh này là tổng tướng của tất cả pháp. Nếu muốn hiểu rõ tất cả pháp thì cần phải y theo ba tướng này, cho nên gọi là nương tựa tướng.
Luận nói: Ba là nương tựa đối trị, là hiển hiện đối trị đây tám vạn bốn ngàn hạnh phiền não của chúng sinh.
Giải thích: Trong chánh thuyết, nếu nói hạnh đối trị chúng sinh thì không ngoài tám vạn bốn ngàn môn, là nói bốn đế. Đây là nói có thể trừ thân kiến, giới thủ, nghi… trong nhân quả của chúng sinh, vì có thể thành lập đối trị phiền não của chúng sinh, gọi là nương tựa đối trị.
Luận nói: Bốn là nương theo ngôn từ. Trong đây do nói biệt nghĩa ngôn từ để hiển thị nghĩa riêng biệt, ví như kệ nói.
Giải thích: Trong chánh thuyết, do hiển thị nói về nghĩa riêng biệt, văn tự chỉ nói nghĩa riêng biệt, cho nên gọi là nương tựa ngôn từ, như kệ nói.
Luận nói: A-sa-ly, Sa-la-ma-đa-da, Tỳ-bạt-da-tưgiả, Tu-hi-đa, Ly-thi-na-giả, Tăng-kha-lý-đa, La-bànđể-bồ-đề-vật-đa-ma.
Luận nói: A-sa-ly.
Giải thích: Gọi là định. Tại sao vậy? Vì Sa-ly có hai nghĩa: 1. Thật. 2. Động. A-sa-ly là không thật và bất động. Không thật là văn cú thuyết minh rõ nghĩa; bất động là nghĩa bí mật. Vì bất động cho nên gọi là định.
Luận nói: Sa-la-ma-đa-da.
Giải thích: Gọi là tâm khởi sự thật, là đối với định khởi tâm tôn trọng.
Luận nói: Tỳ-bạt-da-tư-giả.
Giải thích: Là trí tuệ của bốn niệm xứ. Tại sao vậy? Vì Tỳ-bạt-da-tư-giả cũng có hai nghĩa: 1. Đảo, là đối với vô thường mà khởi đảo lại là thường. 2. Phiên đảo, là đối với thường mà khởi hiểu vô thường. Đảo là văn cú thuyết minh rõ nghĩa, sự đảo ngược văn cú là nghĩa bí mật.
Luận nói: Tu-hi-đa.
Giải thích: Là thiện trụ, tức là khéo trụ vào bốn niệm xứ.
Luận nói: Ly-thi-na-giả.
Giải thích: Là chánh cần. Tại sao vậy? Vì Ly-thi-nagiả cũng có hai nghĩa: 1. Phiền não. 2. Khổ nạn. Phiền não là văn cú thuyết minh rõ nghĩa, khổ nạn là nghĩa bí mật của chánh cần.
Luận nói: Tăng-kha-lý-đa.
Giải thích: Cũng có hai nghĩa: 1. Nhiễm ô. 2. Bì quyện. Nhiễm ô là văn cú thuyết minh rõ nghĩa, bì quyện là nghĩa bí mật. Bồ-tát vì chúng sinh đối với sinh tử, lâu dài hằng hành khổ hạnh. Do đó sanh mệt mỏi như pháp sư của La-hầu-la nói: Bạch Thế Tôn! Thời gian lâu dài đối với sinh tử mệt nhọc, chỉ do đại bi, không do các sự khác.
Luận nói: La-bàn-để-bồ-đề-vật-đa-ma.
Giải thích: La-bàn-để là đắc, Bồ-đề là giác, Vật-đama là thắng. Nếu lấy kệ này để thuyết minh rõ nghĩa của văn phán quyết thì trở thành trái nhau. Nếu lấy nghĩa bí mật để làm văn phán quyết, thì đó là chánh thuyết. Muốn khiến cho chúng sinh nương vào lý mà phán quyết văn, lấy lý là chỗ nương tựa, không nên y theo văn, cho nên nói kệ này. Hoặc có người kiêu mạn khinh miệt người nói, thì tự họ không thể như lý mà phán quyết nghĩa. Vì muốn phá tâm kiêu mạn kia cho nên nói kệ này. Đó gọi là nương tựa vào văn tự.
Luận nói: Nếu người muốn giải thích rộng pháp đại thừa, thì lược nói do ba pháp tương ưng, nên giải thích như vậy. Một là rộng giải thích thể tướng của duyên sinh. Hai là rộng giải thích sự nương tựa của nhân duyên đã sinh thật tướng các pháp. Ba là rộng giải thích thành lập các nghĩa đã nói. Rộng giải thích thể tướng duyên sinh, là như kệ nói, huân tập các pháp sở sinh, đây do kia, quả báo thức như vậy và sinh khởi thức lẫn nhau làm nhân sinh.
Giải thích: Ngoại trần do tánh phân biệt sinh, vì chủng tử huân tập trong bản thức. Nên tương xứng nói là huân tập của ngôn thuyết, tất cả các pháp khác lấy đây làm nhân mà được sinh, là sinh khởi thức làm tánh, vì sự huân tập của ngôn thuyết lấy các pháp làm nhân. Nói rằng pháp này từ pháp kia mà sinh. Do ngôn thuyết này nên đã làm rõ bản thức cùng với thức sinh khởi thức làm nhân lẫn nhau.
Luận nói: Rộng giải thích nương nhân duyên đã sinh tánh tướng của các pháp. Các pháp là thức sinh khởi làm tướng, có tướng kiến thức làm tự tánh.
Giải thích: Là các pháp đó có kiến, có tướng, làm tự tánh, thức sanh khởi làm tướng. Phải biết như vậy, các pháp có hai thể. Nếu trần thức lấy tướng làm thể, thì từ nhân duyên sinh ra quả pháp. Tánh tướng có ba thứ.
Luận nói: Lại nữa, các pháp nương tựa làm tướng.
Giải thích: Là tánh y tha.
Luận nói: Phân biệt làm tướng.
Giải thích: Là tánh phân biệt.
Luận nói: Pháp nhĩ làm tướng. Giải thích: Là tánh chân thật.
Luận nói: Do ngôn thuyết này, thể tướng của các pháp trong ba tánh được hiện rõ ra.
Giải thích: Do ngôn thuyết này mà tất cả pháp từ nhân duyên sinh. Do có pháp cho nên hư vọng, do hư vọng cho nên trở thành điên đảo, do điên đảo cho nên đắc quả hư vọng do có quả cho nên có phân biệt. Do phân biệt cho nên có pháp. Do đó hoặc thuận tướng làm thành, hoặc nghịch tướng làm thành, ba thứ tánh tướng này gồm thâu khắp tất cả quả.
Luận nói: Như kệ nói.
Giải thích: Nhằm làm sáng nghĩa này cho nên nói kệ trùng tuyên.
Luận nói:
Từ có tướng, có kiến, Phải biết ba tướng pháp.
Giải thích: Các pháp không ngoài hai thứ: 1. Tướng. 2. Kiến. Trong tướng và kiến, phải hiểu rõ ba tánh làm tướng. Ba tướng này phương tiện như vậy phải giải thích. Bây giờ sẽ nói rõ.
Luận nói: Làm sao giải thích được tánh phân biệt của pháp tướng này? Đối với tánh y tha thật ra là không có, tánh chân thật trong đó thì thật có. Do hai tánh này nên không có và có chẳng phải đắc và chưa đắc, chưa thấy và đã thấy. Chân như đồng thời tự nhiên thành, tánh phân biệt trong tánh y tha thì không có, vì tánh chân thật thì có. Nếu thấy kia thì không thấy đây, hoặc không thấy kia tức là thấy đây.
Giải thích: Hai tánh là tánh phân biệt và tánh chân thật. Hai tánh này, tánh thứ nhất không có, tánh thứ hai thì có. Nói hai tánh này không có và có, là do thấy phân biệt và không thấy chân thật. Người không thấy chân thật, là phàm phu khi chưa thấy, Thánh nhân thì không thấy phân biệt, tức là thấy chân thật.
Luận nói: Như kệ nói.
Giải thích: Nhằm làm sáng nghĩa này cho nên trùng tuyên nói kệ.
Luận nói:
Phân biệt trong y tha,
Không, chỉ có chân thật,
Nên không đắc và đắc,
Trong đó hai bình đẳng.
Giải thích: Kệ nói trong đó tức là trong tánh y tha, hai tánh này bình đẳng. Trong tánh y tha, không có tánh phân biệt, chỉ có tánh chân thật, cho nên người phàm phu điên đảo chấp, như vậy họ được hoặc không được cái chánh kiến của Thánh nhân. Trong tánh y tha cũng có nghĩa không được và được.
Luận nói: Rộng giải thích thành lập các nghĩa đã nói là, ví như đều nói trong văn cú thứ nhất do các văn cú khác hiển thị phân biệt, hoặc do công đức y chỉ, hoặc do căn cứ vào nghĩa và sự. Căn cứ vào công đức, là rộng nói về công đức tối thanh tịnh trí tuệ của Phật Thế Tôn.
Giải thích: nhân theo hai nghĩa trước, tất cả đều nói, phải giải thích như vậy. Bây giờ sẽ nói phương tiện này. Đều nói trong đây, hoặc nương vào nghĩa công đức, hoặc nương vào nghĩa của sự. Nương vào trí tuệ tối thanh tịnh trong nghĩa công đức là câu thứ nhất, các văn cú chỗ khác, mỗi mỗi đều hiển thị nghĩa này.
Luận nói: Không có hai hạnh là đối với những gì đã biết, tất cả đều không có hành chướng ngại việc khởi công đức.
Giải thích: Không giống như trí tuệ có chướng ngại của Thanh-văn, Độc giác. Không chướng do có chướng cho nên không thanh tịnh, do không có chướng ngại cho nên thanh tịnh. Trí tuệ của Như Lai đối với tất cả xứ đều không chướng ngại, do đó không có phân biệt tịnh hay bất tịnh. Do nghĩa này cho nên không có hai.
Luận nói: Pháp vô tướng làm hành ý nương tựa thù thắng, là đối với có và không, không có hai tướng. Chân như tối thanh tịnh khiến cho nhập công đức.
Giải thích: Tức là chân như thanh tịnh không nhơ gọi là pháp vô tướng. Do tất cả pháp “không có gì” là thể nên Pháp này lìa tướng, có do tự thể là thật có nên pháp này lìa tướng không. Đối với pháp vô tướng do tối thanh tịnh cho nên tự nó có thể thông đạt, cũng có thể khiến cho tha thông đạt, cho nên nói pháp vô tướng làm hành ý nương tựa thù thắng.
Luận nói: Trụ nơi Phật trụ nghĩa, là không do công dụng, không xả Như Lai sự và công đức của Phật trụ.
Giải thích: Đây là hiển thị vô trụ xứ Niết-bàn. Không trụ sinh tử cho nên không có công dụng của tâm. Vì không ở tại Niết-bàn cho nên không xả các sự lợi ích chúng sinh của Như Lai. Như vậy hai nghĩa do vô trụ xứ Niết-bàn mà được thành lập. Nói Niết-bàn này gọi là nơi ở của Phật.
Luận nói: Đến đắc bình đẳng của Chư Phật, là đối với sự nương tựa của pháp thân và ý sự, không có công đức sai biệt.
Giải thích: Y chỉ tức pháp thân, ý là Ứng thân, sự là Hóa thân. Ba thân như vậy, tất cả mười phương ba đời chư Phật bình đẳng không khác. Bình đẳng như vậy, tất cả Như Lai đều đã đạt được.
Luận nói: Hành hạnh vô ngại, là công đức tu tập đối trị tất cả chướng.
Giải thích: Vì đối trị tất cả ba chướng, nên Như Lai hằng tu trí tuệ để đối trị, cho nên trí Như Lai đối với pháp thể và pháp tướng đều không có chướng ngại.
Luận nói: Không thể phá pháp không đối chuyển, là công đức hàng phục tất cả ngoại đạo.
Giải thích: Trong thế gian không có thuyết nào của thiên ma và ngoại đạo, có thể phá như lý của Phật. Chánh pháp Như Lai nói là an lập tự pháp, cũng không ai có thể lấy pháp của mình đã lập đối nghịch lại chánh pháp của Như Lai. Tại sao vậy? Vì điều Như Lai nói không có lỗi bản tánh.
Luận nói: Cảnh không thể làm đổi khác, là công đức sinh nơi thế gian, không bị nhiễm nhơ bởi pháp thế gian.
Giải thích: Thế gian là xứ của Như Lai xuất sinh, Như Lai tuy sinh nơi thế gian, nhưng tám pháp tham ái… và bốn điên đảo không thể nhiễm ô. Cảnh tức là niệm xứ, là chân như không.
Luận nói: Pháp được thành lập không thể tư duy, nghĩa là công đức an lập chánh pháp.
Giải thích: Mười hai bộ kinh, không thể suy lường, không thể nghĩ, không phải điều mà phàm phu biết. Như Lai an lập pháp này xong, cho đến trẻ con cũng có thể thông đạt, như Cưu-ma-la-ca-diếp là câu thanh tịnh Tuệ trước, đối với câu khác mỗi mỗi đều phải biết là tương ưng.
Luận nói: Đến ba đời bình đẳng, là bốn loại thiện xảo. Là công đức giải đáp vấn nạn của mọi người.
Giải thích: Như Lai nơi hiện tại, chứng tất cả pháp, đối với quá khứ và vị lai cũng chứng chứ không so sánh biết. Do chứng trí bình đẳng này, ai căn cứ theo ba đời vấn nạn thì Ngài đều nương vào chứng trí, mà đáp lại bốn câu, cho nên trí đáp đều bằng Như Lai, đến hai thứ bình đẳng này.
Luận nói: Đối với tất cả thế giới hiện thân, là trong tất cả thế giới hiển hiện công đức của ứng Hóa thân.
Giải thích: Vì Hóa độ Bồ-tát và nhị thừa, tùy căn tánh của chúng sinh mà hiển hiện hai thân, là thuyết và là hành.
Luận nói: Đối với tất cả pháp trí tuệ vô ngại, là công đức có thể quyết định nghi ngờ của người khác.
Giải thích: Do đắc bốn pháp vô uý do đó tự quyết không có nghi. Do đắc bốn vô ngại biện cho nên có thể quyết nghi cho người khác. Do đó có thể đáp câu vấn nạn quyết nghi.
Luận nói: Tất cả hạnh tương ưng với trí tuệ, là công đức do các thứ hạnh có thể khiến cho người khác nhập.
Giải thích: Như Lai muốn làm sự lợi ích cho người khác, sự này trước hết là do sở duyên của trí. Do sự này người khác được hội nhập chân vị, tức cùng với trí tuệ của người khác tương ưng. Sự này lấy trí tuệ của mình làm nhân, lấy trí tuệ của người khác làm quả. Sở hành phương tiện của tất cả Như Lai là thần thông luận, ký tâm luận và thuyết pháp luân, cho đến hơi thở ra vào, không có gì mà không tự cùng với trí tuệ tương ưng, đều khiến cho người khác đắc trí tuệ. Không hề uổng qua.
Luận nói: Đối với pháp trí vô ngại, là đối với pháp của đời vị lai sinh công đức trí.
Giải thích: Pháp này đối với vị lai phải sinh trí như vậy, cho nên đối với pháp của đời vị lai vô ngại. Vì khiến cho người khác đắc pháp này, mà tùy căn tánh chúng sinh có thể lập giáo.
Luận nói: Không thể phân biệt thân, là công đức tùy chúng sinh vui mà hiển hiện.
Giải thích: Chúng sinh giới quá số lượng, nên ý dục và nhập đạo phương tiện cũng quá số lượng, xứ sở cũng quá số lượng. Như Lai có thể tùy sự sai biệt này mà thị hiện số lượng, tướng mạo, thời tiết và xứ sở Hóa thân, đều không thể phân biệt.
Luận nói: Trí tuệ mà tất cả Bồ-tát nhận cảnh là có thể hành vô lượng y chỉ công đức sự nghiệp chính giáo hóa chúng sanh.
Giải thích: Do vô lượng Bồ-tát y chỉ là sự giáo Hóa chúng sinh, phải có khả năng làm sự này. Do đắc vô ngã của Phật là chân ngã, vì trí này chỉ là sự thọ của Bồ-tát, chỉ có Phật có thể Hóa độ Bồ-tát, chỉ có Bồ-tát có thể thọ sự Hóa độ của Phật. Vô lượng Bồ-tát y chỉ, vô lượng này có hai nghĩa, hoặc thuộc bồ-tát, hoặc thuộc y chỉ. Nếu thuộc Bồ-tát, thì tất cả Bồ-tát đồng một y chỉ, là lấy vô ngã làm thắng ngã. Nếu thuộc y chỉ thì hiển hiện pháp thân biến khắp, chung làm y chỉ cho tất cả Bồ-tát.
Luận nói: Đến chỗ của Phật trụ Ba-la-mật không hai, là công đức của pháp Thân bình đẳng Ba-la-mật thành tựu.
Giải thích: Pháp thân Như Lai gọi là Phật trụ. Trụ này của ba đời Như Lai không khác, cho nên nói là không hai. Vì không hai cho nên bình đẳng. Bốn đức rốt ráo cho nên gọi là Ba-la-mật. Thành tựu có hai nghĩa: 1. Pháp thân Phật thanh tịnh, đã lìa tất cả chướng, cứu cánh thanh tịnh cho nên gọi là Thành tựu. 2. Bốn đức là sự thành tựu của pháp thân.
Luận nói: Đến trí tuệ cứu cánh giải thoát không sai biệt Như Lai, là tùy ý chúng sinh, hiển hiện công đức thuần tịnh của cõi Phật.
Giải thích: Trong trí tuệ không hổn tạp của Như Lai trí, đến giải thoát cứu cánh, thì trí tuệ Như Lai cùng với chân như không sai biệt. Tùy chỗ nguyện vui của chúng sinh mà có thể hiển hiện cõi Phật thanh tịnh, vì sinh khởi tâm thiện và thành thục giải thoát.
Luận nói: Đã chứng đắc cõi Phật bình đẳng vô biên, là công đức ba thân Phật không lìa, không có chỗ sai biệt.
Giải thích: Trong ba thứ thân của Như Lai, thì pháp thân căn cứ theo nơi chốn của nó là không thể độ lượng, Ứng thân và Hóa thân cũng như thế, không thể nói, chỉ ở thế giới này có. Thế giới kia không có, không có một pháp nào ra ngoài thân này. Không có chúng sinh nào ra khỏi Ứng thân và Hóa thân.
Luận nói: Pháp giới làm thù thắng, là tận cùng mé sinh tử, có thể sinh công đức an lạc lợi ích của tất cả chúng sinh.
Giải thích: Như Lai lấy pháp giới làm thù thắng. Pháp giới có hai thứ: 1. Hữu nhiễm. 2. Vô nhiễm. Pháp giới thanh tịnh không nhiễm làm tối thắng sau. Tại sao vậy? Vì Như Lai tận cùng mé sinh tử, lợi ích an lạc chúng sinh, công năng vô tận. Nguyên nhân vô tận là do thể, do Năng thể tức là pháp giới. Năng tức là hai thân Ứng và Hóa. Do Hóa thân mà đắc Ứng thân của Như Lai, do Ứng thân sau chuyển được thành Pháp thân của Như Lai. Nếu thành pháp thân thì vô cùng tận.
Luận nói: Hư không giới làm bờ mé sau cùng, là do vô tận công đức.
Giải thích: trí tuệ của Như Lai vô tận, ví như hư không. Hư không đầy khắp tất cả cõi Sắc tế (mé Sắc), không có sinh, trụ, diệt và biến đổi. Trí Như Lai cũng như thế, bao trùm hết mọi sự biết không điên đảo và không biến đối cho nên nói là như hư không.
Luận nói: Trí tuệ tối thắng thanh tịnh, như vậy câu thứ nhất do các câu còn lại, thứ tự phải biết phân biệt giải thích, nếu như vậy thì nghĩa thuyết chánh pháp này được thành.
Giải thích: Do hai mươi đạo lý, thành tựu trí tuệ tối thắng thanh tịnh của Như Lai, tự lợi của Như Lai được mãn túc. Do trí tuệ thanh tịnh pháp mà Như Lai nói là giáo lý đúng đắn và viên mãn, lợi tha được thành. Câu thứ nhất làm gốc, hai mươi câu còn lại làm năng thành tựu.
Luận nói: Nương nghĩa sự y chỉ, như kinh nói: Nếu Bồ-tát tương ưng với ba mươi hai pháp thì gọi là Bồ-tát. Giải thích: Nương sự có hai nghĩa: 1. Lấy Ý làm nhân, lấy mười sáu nghiệp làm sự. 2. Lấy cú làm nhân, chỗ thành nghiệp làm sự. Bồ-tát có hai thứ: 1. Tại chánh định vị. 2. Tại bất định vị. Nếu người nhập chánh định vị cùng với ba mươi hai pháp tương ưng, thì được tên Bồ-tát. Nếu tại địa vị bất định, là ngọn cùng với ba mươi hai pháp tương ưng thì không được gọi là Bồ-tát.
Luận nói: Đối với tất cả chúng sinh, cùng với ý lợi ích an lạc tương ưng.
Giải thích: Đối với tất cả chúng sinh cầu mong khởi đạo chân thật, có phương tiện cho nên gọi là ý lợi ích. Đối với tất cả chúng sinh, cầu mong khởi phương tiện nhổ gốc khổ ban vui hai đời hiện tại vị lai, gọi là ý an lạc. Bồ-tát cùng với ý này hằng không lìa nhau gọi là tương ưng. Câu thứ nhất này thuyết minh lợi ích và ý an lạc, sau đó có mười sáu nghiệp và mười sáu câu, hợp chung thành ba mươi hai pháp cùng làm rõ nghĩa của câu thứ nhất.
Luận nói: Khiến cho nhập tất cả trí và ý, là truyền mãi hành nghiệp.
Giải thích: Nếu Bồ-tát có ý muốn khiến cho chúng sinh nhập vào Nhất Thiết trí, do ý này truyền mãi Hóa độ chúng sinh, khiến họ đắc Nhất thiết trí trí. Ví như một ngọn đèn thắp truyền hàng ngàn ngọn đèn. Do câu này và nghiệp, ý lợi ích và an lạc của Bồ-tát được sáng tỏ. Như vậy đối với tất cả cú và nghiệp, mỗi mỗi hiển thị cú thứ nhất đều phải biết.
Luận nói: Ta nay trong xứ nào, nên tương ưng với trí như vậy! Là Vô Đảo nghiệp.
Giải thích: Nếu có ý lợi ích an lạc, nhưng Bồ-tát không như thật nhận biết tự thân, thì không thể đúng đạo lý an lập chúng sinh. Ví như có người có ý lợi ích an lạc an lập chúng sinh đối với việc uống rượu. Nghiệp điên đảo, nếu thật nhận biết tự thân thì có thể đúng đạo lý, vì chúng sinh thuyết pháp không tăng thượng mạn, an lập chúng sinh khiến cho nhập vào cõi thiện. Sự lợi ích an lạc này gọi là không có nghiệp điên đảo.
Luận nói: Xả bỏ tâm cao mạn, là không mà do người khác hành nghiệp của mình.
Giải thích: Do người này từ bỏ tâm cao mạn, không chờ người khác thỉnh. Nếu chúng sinh là pháp khí, thì tự đến đó nói thuyết chánh pháp cho họ.
Luận nói: Ý thiện kiên cố, là nghiệp không thể hoại. Giải thích: Do Tâm Bồ-tát kiến cố, nếu chúng sinh có tội lỗi, cũng không thể phá hoại tâm lợi ích an vui của Bồ-tát.
Luận nói: Không phải giả bộ xót thương, là không cầu dục nghiệp. Phải biết có ba câu giải thích.
Giải thích: Trước có ba câu, sau lại lấy ba câu sau để giải thích ba câu trước.
Luận nói: Không tham cầu báo ân.
Giải thích: Đây là giải thích câu thứ nhất không phải vì tự cầu lợi dưỡng, cho nên xót thương người khác.
Luận nói: Ý về bình đẳng đối với người thân kẻ sơ, là chúng sinh có ân hoặc vô ân, không sinh tâm yêu hay ghét.
Giải thích: Người thân, gọi là có ân. Người oán và người trung gian là chẳng phải thân thiết, gọi là vô ân. Nếu khiến cho người không thân chịu thọ sự lợi ích an lạc, là Bồ-tát xả tâm không bình đẳng, khởi tâm bình đẳng để làm việc lợi ích.
Luận nói: Mãi mãi tạo ý là bạn tốt, cho đến Vô Dư Niết-bàn, là tùy thuận hành cho đến đời khác.
Giải thích: Tùy thuận làm việc lợi ích an vui, từ đời này cho đến đời tận cùng vị lai vĩnh viễn không lìa bỏ, cho nên gọi là không cầu dục nghiệp. Không có ý ham muốn này làm sao biết được? Do tùy xứ tương ưng hai nghiệp thân Khẩu cho nên biết được.
Luận nói: Nói năng vừa phải, vui cười trước, nói sau là tùy xứ tương ưng nghiệp nói năng. Có hai câu giải thích, phải biết.
Giải thích: Hai câu này căn cứ theo pháp và an uỷ để làm sáng khẩu nghiệp. Tương ứng với lượng mà đàm luận và thuyết giáo là ước pháp. Hoan hỉ vui cười trước khi nói là căn cứ theo sự ủy thác an vui. Xứng lượng có hai thứ: 1. Xứng pháp không lìa các lời nói khác. 2. Xứng với điều hiểu, ta liền hiểu sai nghi. Như vậy theo lượng mà đàm thuyết, vui cười (hoan tiếu) khiến cho người khác không có tâm nghi sợ, nói trước là chỉ dẫn người phương tiện để làm. Hai thứ nghiệp khẩu này đối với ba người oán, thân và trung gian không có riêng khác, tức là thành tựu nghiệp không cầu dục.
Luận nói: Đối với chúng sinh đều từ bi không khác, là có khổ có vui không hai, chúng sinh bình đẳng nghiệp. Giải thích: Đối với chúng sinh có khổ, do bao khổ của họ mà khởi từ bi. Đối với chúng sinh có vui, do hoại khổ mà khởi từ bi. Đối với chúng sinh không hai thì, do hành khổ mà khởi từ bi. Không hai là không khổ không vui, tức là xả thọ. Từ bi bình đẳng là nghiệp thân và khẩu. Tại sao vậy? Bồ-tát đối với chúng sinh trước hết khởi ý từ bi, sau đó là tùy thời tùy xứ mà hành nhổ gốc khổ và lạc hành, là nghiệp thân và nghiệp khẩu. Thân nghiệp khẩu này đối với ba hạng người oán thân và trung gian không có riêng khác, cũng thành tựu nghiệp không ham muốn dục lạc.
Luận nói: Đối với việc tạo tác không có tâm thoái lui và yếu hèn, nghiệp không hạ liệt...
Giải thích: Nếu Bồ-tát khinh tiện tự thân nói rằng: Ta nay đối với Vô thượng Bồ-đề không có công năng, mọi việc làm đều không thành tựu”, đó gọi là tâm thoái lui và yếu hèn. Bồ-tát không sinh tâm này cho nên mọi việc đã làm đều được thành tựu, gọi là không có tâm thoái lui hèn nhác.
Luận nói: Không có tâm xa lánh mệt mỏi, là không thể khiến cho nghiệp thoái chuyển.
Giải thích: Bồ-tát đối với Vô thượng Bồ-đề, khởi chánh cần không chán mệt tâm không chán mệt hai thứ: 1/ Kiến nhân định. 2/ Tri quả hy hữu. Trong việc khó làm tâm không chán mệt.
Luận nói: Nghĩa nghe không thiếu, là nghiệp thu gom phương tiện.
Giải thích: Nếu người đa văn có thể hiểu rõ phương tiện giáo Hóa người khác. Do văn mà hiểu nghĩa, thì đối với chánh hạnh không có tâm nghi ngờ, tự có thể tu hành, cũng dạy người khác tu hành.
Luận nói: Đối với tự làm tội, có khả năng làm nó sáng ra đối với người khác làm tội thì không quở trách, là nghiệp đối trị chỗ chán ghét. Nên biết có hai câu giải thích.
Giải thích: Do trí và đại bi cho nên có khả năng này. Vì do trí có thể hiểu rõ nhân quả, không che giấu việc làm ác của mình. Do đại bi không đành nhìn thấy người khác tạo nhân khổ, tuy hằng quở rầy nhưng không giận trách.
Luận nói: Trong tất cả oai nghi hằng trị Bồ-đề tâm, là nghiệp tư lương vô gián.
Giải thích: Đây là làm sáng tỏ tu không gián đoạn. Tu không gián đoạn là ngăn trách tất cả hành động phóng dật, ví như minh trong phẩm oai nghi thanh tịnh đã nói rõ, mọi việc mà Bồ-tát làm đều khiến cho chúng sinh đắc Vô thượng Bồ-đề.
Luận nói: Không cầu quả báo mà hành bố thí, không dính mắc tất cả sợ hãi và cõi chúng sinh, thọ trì giới cấm, đối với tất cả chúng sinh nhẫn nhục vô ngại, vì dẫn nhiếp tất cả thiện pháp, hành tinh tấn, tu Tam-ma-đề, diệt ly Vô sắc định cùng với trí hiểu biết phương tiện tương ưng. Bốn pháp thu nhiếp phương tiện tương ưng, là hành nghiệp tinh tấn thù thắng. Nên biết có bảy câu giải thích. chánh tu gia hạnh sáu Ba-la-mật, cung kính hành bốn nhiếp pháp.
Giải thích: Trước có bảy câu, sau tổng nêu ra sáu độ, bốn nhiếp pháp để kết bảy câu trước. Nghiệp này có thể tăng trưởng ý lợi ích an lạc. Nếu chưa sinh thì do nghiệp này mà được sinh. Nếu đã sinh thì do nghiệp này mà được thêm rộng, tức là nhân của sự sinh trưởng.
Luận nói: Bạn tốt không hai trong trì giới và phá giới, là thành tựu nghiệp phương tiện. Nên biết có sáu câu giải thích.
Giải thích: Trước có sáu câu, sau lại lấy sáu câu để giải thích sáu câu trước.
Luận nói: Phụng sự thiện tri thức.
Giải thích: Đây là giải thích câu thứ nhất. Nếu người trì giới phá giới thì không quán xét lỗi của họ, mà chỉ lấy đức của họ. Nếu chưa được đức của bạn bè tốt kia thì nương vào bạn bè tốt mà tu học, nếu đã được đức thì cùng với bạn bè tốt kia luôn luôn tu tập khiến cho được kiên cố. Nếu tự có đức thì khiến cho bạn tốt kia đồng sở đắc với ta. Mình và người phụng sự lẫn nhau, cho nên nói là thiện hữu không hai.
Luận nói: Tâm cung kính chánh pháp, là nghe chánh pháp.
Giải thích: Vì đắc chỗ chưa đắc, vì tu trị chỗ đã đắc, cho nên nương vào bạn tốt mà nghe chánh pháp.
Luận nói: Tâm cung kính trụ nơi thanh tịnh an lạc, là trụ chỗ A-lan-nhã.
Giải thích: Muốn tu hành như những điều mình nghe pháp cho nên cung kính trụ A-lan-nhã. Nếu trụ trong đây thì tất cả giác quán tà không được khởi.
Luận nói: Đối với thế gian hy hữu, không sinh tâm an lạc, là xa lìa giác quán tà.
Giải thích: Ví như các thứ kỹ nhạc, là cái mà thế gian ưa thích, nhưng ta không sinh tâm hỷ lạc, gọi là xa lìa giác quán tà.
Luận nói: Đối với thừa của phẩm dưới không sinh tâm hỷ lạc, đối với Đại thừa quán công đức chơn thật, là công đức chánh tư duy. Có hai câu.
Giải thích: Lìa tiểu thừa tu đại thừa, hai câu này gọi là chánh Tư Duy.
Luận nói: Xa lánh bạn ác, kính phụng bạn tốt, là làm rõ công đức phụng sự bạn tốt. Có hai câu.
Giải thích: Xa lìa ác, thân cận thiện, hai câu này gọi là công đức gần gũi bạn tốt. Do đối trị sáu pháp này cho nên sự lợi ích an lạc được thành tựu. Cho nên gọi là thành tựu nghiệp phương tiện. Thành tựu thể tướng ra sao?
Luận nói: Hằng đối trị bốn loại Phạm trụ, nghĩa là làm sáng tỏ thành tựu nghiệp. Có ba câu giải thích nên biết.
Giải thích: Trước có ba câu, sau lại lấy ba câu để giải thích ba câu trước.
Luận nói: Trị tâm thanh tịnh vô lượng.
Giải thích: Đây là giải thích câu thứ nhất.
Luận nói: Hằng du hí với năm thứ thông tuệ, là đắc oai đức. Hằng nương hạnh trí tuệ, là chứng đắc công đức. Giải thích: Trước hết đối với chúng sinh khởi tâm vô lượng. Do tâm vô lượng muốn dẫn chúng sinh khiến cho nhập vào chánh vị. Do đó mà hiện năm thứ thông tuệ. Nếu chúng sinh đã nhập chánh vị, vì muốn khiến cho tu chánh hạnh, nương vào trí tuệ mà khiến cho tu hành, không phải nương vào thức. Do chứng đắc trí tuệ nên có thể hiểu rõ hai pháp thiện, ác.
Luận nói: Đối với chúng sinh trụ chánh hạnh và không trụ chánh hạnh, không có tâm lìa bỏ, an lập nghiệp cho họ. Nên biết có bốn câu giải thích.
Giải thích: Trước có bốn câu, sau lại lấy bốn câu để giải thích bốn câu trước. Vì muốn khiến cho chúng sinh lìa pháp ác, trụ pháp thiện pháp, vì an lập hai sự này, cho nên tạo lập nghiệp khác.
Luận nói: Dẫn dắt đại chúng.
Giải thích: Đây là giải thích câu thứ nhất. Đối với người phá giới không bỏ rơi họ, cũng không đuổi vĩnh viễn, từ cõi ác cứu vớt họ đặt để vào cõi thiện. Đối với người trì giới, tùy căn tánh người đó khiến họ tấn tu các hạnh định tuệ.
Luận nói: Nói năng hoàn toàn quyết định, là không có tâm nghi ngờ, lập chánh giáo học xứ.
Giải thích: Do trí tuệ quyết liễu không nghi ngờ. Lập giáo và học xứ hoàn toàn có thể tin thọ, nếu trước thuyết giáo như vậy, học xứ như vậy, sau cho rằng chỗ thuyết trước là sai, do sự này mà ngôn thuyết bất định thì không đáng tin thọ. Do không có bất định nên có thể tin thọ.
Luận nói: Cung kính sự thật, là thâu nhiếp cả pháp, tài.
Giải thích: Do người này dùng lời thật, nương vào đạo lý chân thật mà thuyết pháp, đó gọi là nhiếp pháp. Chỗ được y phục tài vật như pháp rồi, dùng vật này thu nhiếp chúng sinh, đó gọi là nhiếp thu tài vật chân thật.
Luận nói: Trước cung kính hành Tâm Bồ-tát, là tâm không ô nhiễm.
Giải thích: Do người này nhiếp trì tâm Bồ-tát, có thể làm việc lợi ích vì tất cả chúng sinh, mà không vì chúng sinh kính thờ đối với ta. Tại sao chúng sinh đó do lợi ích của ta, tin thọ chánh giáo, tương lai đắc Vô thượng Bồđề? Vì thiện ý này cho nên hành hai nhiếp pháp và tài. Đó gọi là tâm không nhiễm ô.
Luận nói: Cùng với các pháp tương ưng như vậy gọi là Bồ-tát. Do như vậy văn cú, trước nói câu ấy nên biết là thứ nhất. Giải thích câu thứ nhất, là đối với tất cả chúng sinh có ý làm lợi ích an vui, văn cú của ý lợi ích an vui này riêng có mười sáu câu, chỗ hiển thị giải thích nghiệp nên biết có mười sáu nghiệp. Như vậy đẳng nên biết là để giải thích câu thứ nhất.
Giải thích: Câu thứ nhất thuyết minh sự lợi ích an vui, chỗ còn lại mười sáu nghiệp và mười sáu câu, đều là nghĩa riêng của sự lợi ích an vui. Lấy riêng để giải thích chung.
Luận nói: Trong đây nói kệ.
Giải thích: Lại lấy một bài kệ, để làm rõ các nghĩa đức, nhân, chung và riêng đã nói ở trước.
Luận nói:
Giữ như câu nói trước,
Tùy đức, câu khác nhau
Giữ như câu nói trước
Do nghĩa riêng, câu riêng.
Luận: Như vậy, đã nói tướng hiểu biết thù thắng. Tại sao phải biết cách nhập vào tướng thù thắng đó?
Giải thích: Phẩm này có mười chương:
- Chương I. Chánh nhập tướng.
- Chương II. Năng nhập nhân.
- Chương III. Nhập cảnh giới.
- Chương IV. Nhập vị.
- Chương V. Nhập phương tiện đạo.
- Chương VI. Nhập tư lương.
- Chương VII. Nhập tư lương quả.
- Chương VIII. Nhị trí dụng.
- Chương IX. Nhị trí y chỉ.
- Chương X. Trí sai biệt.
Tất cả pháp gọi là nên biết, ba tánh gọi là tướng thù thắng của các pháp. Lại nữa, ba tánh gọi là nên biết, đồng nhất với “Vô tánh” gọi là tướng thù thắng. Lại nữa, nên biết có hai thứ. 1. Tịnh phẩm. 2. Bất tịnh phẩm. Tịnh Phẩm là tánh y tha không phân biệt, bất tịnh phẩm là tánh y tha có phân biệt. Trong y tha có ba thứ tánh nên biết: 1. Tánh y tha.
2. Phân biệt trong tánh y tha. 3. Vô phân biệt chân như trong tánh y tha. Các nghĩa khác như trong chương phân biệt nói. Trước đã hiển nghĩa này, nếu người có hạnh như vậy, thì được nhập tướng nên biết. Bây giờ sẽ nói nghĩa này, câu hỏi này chỉ hỏi nhập thể tướng, không hỏi nên biết và tướng thù thắng. Lại nữa, câu hỏi này hỏi, trong quán duy thức, duyên pháp gì để làm cảnh? Cho nên đáp câu hỏi này.
Luận nói: Chỗ huân tập y chỉ của đa văn.
Giải thích: Chỗ huân tập của đa văn trong pháp Đại thừa, đây là huân tập ngôn thuyết, tức là y chỉ. Lại nữa, nói riêng về y chỉ là thân thể tương tục.
Luận nói: Không phải chỗ nhiếp của A-lê-da thức.
Giải thích: Chỉ rõ sự huân tập đa văn này là đối trị của A-lê-da thức, không phải chỗ nhiếp của A-lê-da thức.
Luận nói: Như A-lê-da thức thành chủng-tử.
Giải thích: Như A-lê-da thức, làm Nhân của tất cả phẩm bất tịnh cho nên thành chủng tử. Sự huân tập đa văn cũng vậy, làm nhân của tất cả pháp thuộc phẩm tịnh sinh khởi. Như A-lê-da thức thành chủng tử thì pháp gì lấy sự huân tập đa văn làm chủng tử? Là đáp câu hỏi này. Luận nói: Chỗ nhiếp của chánh tư duy.
Giải thích: Bốn pháp dưới đây đều lấy sự huân tập đa văn làm chủng tử,. Nếu giác quán tư duy, nương vào sự huân tập đa văn của đại thừa mà sinh khởi giác quán này, lìa tà tư duy và tư duy thiên lệch, lấy chánh tư duy làm loại tánh, là nói điều mà chánh tư duy gồm thâu.
Luận nói: Tương tự pháp và nghĩa làm rõ sinh tướng đã sinh.
Giải Thích: Tương tự pháp là mười hai bộ giáo nghĩa Phương Đẳng. Tợ nghĩa là lý được nói của giáo nghĩa Phương Đẳng, tâm tương tự giáo lý này, hiển hiện giáo lý này làm duyên, là duyên sinh giác quán phân biệt.
Luận nói: Tương tự chủng loại của sở chấp.
Giải thích: Giác quán này nếu khởi, thì tương tự cái đã chấp giữ này lấy làm thể tướng. Hai câu này đồng hiển thị tướng phần của thức.
Luận nói: Hữu kiến.
Giải thích: giác quán này có thể liễu biệt, tức là kiến phần của thức. Nghĩa này thành lập hai pháp của thức, là tướng thức và kiến thức.
Luận nói: Ý ngôn phân biệt.
Giải thích: Ý thức giác quán tư duy, chỉ duyên lời nói mà phân biệt, không riêng có nghĩa có thể duyên. Lại nữa, phải nương vào danh mà phân biệt các pháp. Nói ý ngôn phân biệt, là nương tựa vào sự huân tập đa văn làm nhân của pháp này.
--------------------------------------
Luận nói: Người nào có thể nhập vào tướng nên biết (ứng tri).
Giải thích: Đây là hỏi người tu Quán hành gì? Người có khả năng nhập duy thức quán, là Quán hành của Bồtát có bốn thứ lực. Bồ-tát có tướng gì? Khéo đắc hai thứ tư lương phước đức và trí Tuệ. Tư lương này lấy thứ tự gì để tu khiến cho được viên mãn? Có bốn thứ Lực:
1. Nhân lực. 2. Thiện tri thức lực. 3. Chánh tư duy lực. 4. Y chỉ lực.
Luận nói: Sự huân tập đa văn của đại thừa thì tương tục.
Giải thích: Vì lìa đa văn của tiểu thừa cho nên nói đại thừa, chỉ rõ không phải một đời, mà là nhiều đời, luôn luôn tập luyện tâm huân tập đa văn tương tục, đó gọi là nhân lực.
Luận nói: Đã được thừa sự vô lượng chư Phật hiện ra đời.
Giải thích: Quá số lượng các Như Lai xuất hiện ở đời, là người nương Phật nghe thọ chánh giáo rồi y theo chánh giáo tu hành cho nên gọi là thừa sự. Trước đã được thừa sự như vậy, gọi là thiện tri thức lực.
Luận nói: Đã bước vào lòng tin ưa chánh vị quyết định.
Giải thích: Nếu người trong Đại thừa sinh tin ưa, thì ác tri thức không thể phá hoại. Cho nên gọi là quyết định. Tín “có”, có ba thứ:
1. Tin có. 2. Tin có thể chứng đắc. 3. Tin có công đức vô cùng tận.
Nếu đã có lòng tin, thì cầu tu hành được cái nhân cho nên gọi là ưa. Từ thập tín đến thập hồi hướng, là chánh vị của tin ưa. Hiện tại chỗ thuyết minh về vị, chỉ lấy thập hồi hướng quyết định tin ưa, gọi là lực tư duy. Sự huân tập đa văn của đại thừa là của nhân của lực này.
Luận nói: Do khéo thành thục tu tập tăng trưởng thiện căn, cho nên khéo đắc hai thứ tư lương phước đức và trí Tuệ.
Giải thích: Nếu người đã hoàn toàn quyết định tin ưa, vì được niềm pháp lạc nên ân cần cung kính, tu pháp Quán hành, hoặc tu pháp Quán hành tăng trưởng công đức thiện căn. Do lực tư duy như vậy, nên khéo thành thục hai thứ tư lương phước đức trí Tuệ, thứ tự thành thục. Dùng phước đức và trí Tuệ làm y chỉ, được nhập Sơ địa cho nên gọi là lực y chỉ. Bốn lực này hiển hiện nhân năng nhập.
-------------------------------------
Luận nói: Chư Bồ-tát tại nơi đâu nhập duy thức quán?
Giải thích: Câu hỏi này có hai ý, một là hỏi nơi đâu là cảnh giới của duy thức, hai là hỏi xứ nào là lãnh vị của duy thức.
Luận nói: Hữu kiến tương tự pháp nghĩa là biển thị tướng. Ý ngôn phân biệt được sinh bởi pháp tướng đại thừa.
Giải thích: Pháp này gọi là quán trì duy thức, cũng gọi là cảnh giới. Ý ngôn phân biệt, là tâm giác quán tư duy. Tư duy này có hai tướng: 1. Thức hữu kiến làm tướng cho nên nói là hữu kiến. 2. Thức hữu tướng làm tướng, là hiển hiện tương tự mười hai bộ giáo nghĩa đại thừa, và lý tương tự Đại thừa giáo đã được nói, gọi là có tướng. Pháp tướng Đại thừa đã sinh, là pháp tướng Đại thừa làm nhân cho nên được sinh. Trong đây hiển thị thể của cảnh giới là ý ngôn phân biệt, hiển thị tướng của cảnh giới là hữu kiến, hữu tướng, hiển thị nhân của cảnh giới là pháp tướng của Đại thừa.
--------------------------------
Ý này nói phân biệt có bốn vị, là để hiển thị bốn vị này.
Luận nói: Ở địa nguyện, ưa hành mà hỏi nhập, là tùy nghe tin tưởng yêu thích.
Giải thích: Có ý ngôn phân biệt, trong địa nguyện ưa hành. Tại sao vậy? Có chư Bồ-tát chỉ nghe tất cả pháp duy có thức. Nương vào giáo này, tùy theo nghe mà khởi tâm tin tưởng yêu thích. Ý ngôn phân biệt sinh khởi trong đạo lý tức tất cả pháp đều do thức biến hiện. Do nguyện ưa ý nguyên phân biệt này mà nói Bồ-tát đã nhập duy thức quán. Khởi biết như vậy gọi là hội nhập pháp địa vị Nguyện, ưa của duy thức.
Luận nói: Thấy đạo là như lý thông đạt.
Giải thích: Như phương tiện này Bồ-tát nhập vào kiến vị của duy thức. Nay sẽ nói phương tiện này tức là như lý thông đạt. Ý ngôn phân biệt này nếu như hiển thị tướng thì thông đạt thật ra không có như vậy, chỉ có duy thức. Thức này phi pháp, phi nghĩa, phi năng thủ, phi sở chấp, thông đạt như vậy gọi là nhập kiến vị duy thức.
Luận nói: Tu đạo là năng đối trị tất cả chướng.
Giải thích: Ý ngôn phân biệt làm sáng tỏ bước vào tu đạo. Hiện tại nói phương tiện này, thì ý ngôn phân biệt này là phi pháp, phi nghĩa, phi năng thủ, phi sở chấp. Quán sát như vậy, có thể đối trị tất cả ba chướng, gọi đó là nhập tu vị duy thức. Tu đạo này cùng với kiến đạo không khác nhau, vì do trí do cảnh. Nếu như thế thì kiến đạo và tu đạo sai biệt thế nào? Trước kia chưa thấy chân như, nay mới được thấy gọi là kiến đạo. Trước đã thấy chân như sau lại niệm quán gọi là tu đạo. Lại nữa, có thể trừ bỏ chướng chung của ba thừa gọi là kiến đạo, chỉ trừ Bồ-tát chướng thì gọi là tu đạo. Lại nữa, khi quán chưa viên mãn, không có nghĩa thoái lui thì gọi là kiến đạo. Quán chưa viên mãn nhưng có nghĩa thoái lui thì gọi là tu đạo. Lại nữa, chỉ quán cảnh chung thì gọi là kiến đạo, quán đầy đủ cảnh chung và cảnh riêng thì gọi là tu đạo. Lại nữa, sự không thành thì gọi là kiến đạo, sự thành thì gọi là tu đạo.
Luận nói: Trong đạo cứu cánh, là lìa khỏi chướng cấu uế nên rất thanh tịnh.
Giải thích: Cứu cánh đạo có hai thứ: 1. Cứu cánh của hàng hữu học. 2. Cứu cánh của bậc vô học. Vị này là nơi sinh trí tuệ thanh tịnh tối thắng, các chướng rất vi tế diệt tận không sót, cho nên gọi là địa vị cứu cánh. Từ các địa cho đến địa của Như Lai, đều có nghĩa cứu cánh này.
Nếu người nhập bốn vị này thì duyên cảnh giới nào?
Luận nói: Tất cả pháp thật chỉ có thức, như nói tùy nghe (văn) mà tin ưa (tín nhạo), như lý thông đạt, có thể đối trị tất cả chướng, ra khỏi chướng cấu và trở nên tối thanh tịnh.
Giải thích: Câu nói này làm rõ nhập cảnh giới của bốn vị. Tại sao được làm cảnh giới của bốn vị? Tất cả pháp là hữu vi và vô vi, hữu lưu và vô lưu, và đạo quả của ba thừa của bốn giới, các pháp như vậy thật chỉ có thức. Tại sao vậy? Tất cả pháp lấy thức làm tướng, chân như làm thể, hoặc đạo phương tiện lấy thức làm tướng, hoặc nhập kiến đạo lấy Chân như làm thể. Nương cảnh giới này mà tùy nghe rồi khởi tin tưởng yêu thích nên nhập vào địa tin ưa. Như lý thông đạt được nhập kiến vị, có thể đối trị tất cả chướng mà được nhập tu vị, lìa chướng cấu uế được nhập lãnh vị cứu cánh.
-------------------------------------
Do phương tiện này Bồ-tát được nhập bốn vị. Nay sẽ nói rõ nghĩa này.
Luận nói: Tại sao được nhập?
Giải thích: Câu hỏi này muốn làm rõ tám xứ trì giữ lực của thiện căn để nhập phương tiện. Thế nào là lực của thiện căn? Thế nào là tám xứ? lực của thiện căn có bốn thứ. 1. Nhân lực. 2. Thiện tri thức lực. 3. Chánh tư duy lực. 4. Y chỉ lực. Như đã nói rõ ở trước.
Luận nói: Do lực của thiện căn được duy trì.
Giải thích: Chưa có thì khiến cho sinh, đã có thì khiến cho tăng trưởng, cho nên gọi là trì giữ thiện căn của Bồ-tát, hoặc nói là sáu pháp Ba-la-mật, hoặc nói là hai hạnh phước và tuệ, có khả năng ngăn cản phá đối trị và phi đối trị, gọi là lực trì giữ thiện căn, phải biết có tám xứ. Thế nào là tám xứ?
Luận nói: Do có ba tướng mài giũa tâm, do diệt trừ bốn xứ chướng, duyên nghĩa của pháp làm cảnh, vô gián tu cung kính, tu Xa-ma-tha Tỳ-bát-xá-na, không có phóng dật.
Giải thích: Đây tức là ba tâm, ba tướng mài giũa này có thể đối trị ba thứ tâm thoái khuất. Những gì là ba tâm?
1. Tâm thoái khuất khinh thường tự thân. Để trừ mặc cảm đó cho nên làm rõ sự mài giũa tâm thứ nhất. Tại sao vậy? Vì có các Bồ-tát nghe Vô thượng Bồ-đề quảng đại thậm thâm khó tu khó đắc bèn nói.
Ta nay làm sao có thể đắc Vô thượng Bồ-đề khó đắc như vậy được? Do kẹt vào ý tưởng đó nên thân tâm thoái lui suy sụp. Để trừ tâm này thì cần phải tu mài giũa tâm thứ nhất.
Luận nói: Vì mười phương thế giới không thể tính lường.
Giải thích: Đây là làm rõ tu đắc Vô thượng Bồ-đề không phải cố định một lĩnh vực mà tùy lĩnh vực tu học, đều có thể đắc.
Luận nói: Không thể tính lường chúng sinh trong cõi người.
Giải thích: Đây là làm rõ các loại Vô thượng Bồ-đề đều được, cho nên thân này không thể cho mình là hèn mọn.
Luận nói: Từng Sát-na sát-na.
Giải thích: Đây là làm rõ đắc Vô thượng Bồ-đề không có định thời gian, không chờ thời mà tu đắc.
Luận nói: Chứng đắc Vô thượng Bồ-đề, gọi đó là Đệ nhất Luyện-ma tâm.
Giải thích: Đây là làm rõ Bồ-đề không thể cho đều ai nấy mà chắc chắn phải nhờ siêng năng tu hành mới có thể chứng đắc, do Luyện-ma tâm này, thì tâm thoái khuất thứ nhất trong phương tiện diệt mất không sinh.
2. Tâm thoái khuất khinh tiện có thể đắc phương tiện. Để trừ tâm này cho nên làm rõ tâm Luyện-ma thứ hai. Tại sao vậy? Vì có Bồ-tát khởi tâm rằng: Bố thí này là tư lương của Bồ-đề. Nếu Bồ-tát từ bỏ ý muốn thì không thể được. Ý muốn này làm sao ta có được! Thế nên pháp bố thí không phải điều ta có khả năng làm được. Do có chấp này, đối với năng đắc tâm phương tiện thì bị thoái chuyển, để trừ bỏ tâm này, cần phải tu tâm Luyện-ma thứ hai.
Luận nói: Do chánh ý này.
Giải thích: Đây là làm rõ phương tiện ví dụ thể tướng. Ba đời các Bồ-tát đắc chánh ý như vậy là thể của phương tiện chân thật.
Luận nói: Các pháp bố thí… Ba-la-mật chắc chắn được sinh trưởng, là tin ưa của Ta.
Giải thích: Đây là làm rõ phương tiện ví dụ công năng, công năng có ba thứ: 1. Bình đẳng công năng. 2. Sinh công năng. 3. Trưởng công năng. Do chánh ý này, hoặc là sinh trưởng các Ba-la-mật, không có Ba-la-mật nào mà không đầy đủ cho nên gọi là bình đẳng công năng, chưa có thì khiến cho có gọi là sinh công năng, đã có thì khiến cho viên mãn gọi là trưởng công năng, như thể phương tiện và công năng của các Bồ-tát ba đời quyết định không hai. Ta cũng phải làm giống như vậy. Tại sao vậy? Vì tin ưa của ta tức là chánh ý đó, làm chỗ thí dụ cho thể của phương tiện, vì thể này đã định. Tại sao vậy? Vì không có tán động.
Luận nói: Đã được kiên trụ.
Giải thích: Đây là giải thích nghĩa của không tán động, không bị tham keo kiệt phá hỏng… không thể hoại cho nên gọi là kiên. Tà hóa của ác tri thức tiểu thừa, không thể làm thoái lui cho nên gọi là trụ.
Luận nói: Do chánh ý này, ta tu tập thí… Ba-la-mật, tiến tới được viên mãn thì không khó, đó gọi là tâm Luyện ma thứ hai.
Giải thích: Đây là làm rõ ví dụ ba thứ công năng, do chánh ý này mà ta tu tập Thí Ba-la-mật, biểu thị rõ công năng bình đẳng, để chứng được công năng sinh trưởng, viên mãn công năng sinh trưởng. Ba công năng này quyết định có thể đắc, cho nên nói là không khó. Lại nữa, nói “do chánh ý này”, câu này có nghĩa gì? Là tin và ưa. Tin có ba xứ: 1. Tin thật có. 2. Tin có thể được. 3. Tin có công đức vô cùng tận.
Tin thật có, là tin có thật tự tánh trụ phật tánh. Tin có thể được, là tin dẫn xuất Phật tánh. Đã phát khởi ba đức tin rồi, trong năng đắc phương tiện thí… Ba-la-mật khởi cầu muốn tu hành cho nên gọi là nhạo. Tin và ưa này làm thể của chánh ý. Do đắc tin ưa này, tu hạnh thí… Ba-la-mật thì không khó, có thể khiến cho cứu cánh viên mãn. Lại nữa Bồ-tát có chánh ý, thì ta có thể sinh tâm lục độ, ra khỏi các chướng của tham lận, có thể ngăn chận các chướng của Ba-la-mật, diệt tận không sót. Do đó không do đại công dụng mà lục độ dễ viên mãn, do lục độ viên mãn thì Vô thượng Bồ-đề tự nhiên thành tựu. Ta đã đắc kiên trụ chánh ý này, do đó tu hành lục độ không lấy làm khó. Do tâm Luyện ma thứ hai trong phương tiện thì đệ nhị thoái khuất tâm không sinh.
3. Nghi nên bị thoái khuất tâm. Để trừ tâm này cho nên làm rõ đệ tam Luyện-ma tâm. Tại sao vậy? Vì có các Bồ-tát tư duy công đức thậm thâm quảng đại của chư Phật, Bồ-tát nghĩ rằng Vô thượng Bồ-đề khó đắc. Tâm kim cương, không có tâm sinh tử, bị một sát-na tâm làm chướng. Trừ tâm này cũng có thể được, nghĩa này khó tư duy, do có chấp này mà tâm đắc Vô thượng Bồ-đề bị thoái khuất, để trừ tâm thoái khuất này, cần phải tu tâm Luyện-ma thứ ba.
Luận nói: Nếu người tương ưng với nhiều thiện pháp.
Giải thích: Người tức là phàm phu và nhị thừa. Phàm phu có ba thứ thiện pháp thí, giới, tu, thiện pháp này hoặc là hằng tu riêng, hoặc là viên mãn tu. Nếu tu riêng và tu viên mãn mãi mãi, thì thí, giới và tu trở nên nhiều thiện, vì phẩm loại được nhiều. Nhị thừa có ba mươi bảy phẩm thiện pháp, do tu không gián đoạn và cung kính thì thành nhiều thiện, cũng vì nhiều phẩm loại.
Luận nói: Sau khi xả mạng, trong mọi nơi thọ sinh, giàu có vui thích tự nhiên được thành.
Giải thích: Nếu phàm phu trước hết tu thí đầy đủ, thì sau khi xả mạng thì liền sinh trong loài người, thọ quả có thể giàu sang an vui, sự này không sai! Nếu trước hết trì giới đầy đủ, thì sau khi xả mạng liền sinh cõi trời thọ nhận sự yêu thích, giàu sang an vui. Sự này không sai! Nếu tu định này đủ thì sau khi chết liền sanh cõi Sắc, vô sắc nhận được quả yêu thích, giàu sang, sự này không sai. Đây là thuyết minh sự đắc quả sau khi chết bị đọa. Nếu Nhị Thừa tu ba mươi phẩm đầy đủ, thì sau khi xả thọ mạng phàm phu liền đắc thọ mạng bậc Thánh nhân, thọ quả lục thông và khả ái giàu vui. Sự này không sai! Đó là thuyết minh sự đắc quả dời vị trí.
Luận nói: Người đó được có ngại thiện, nghĩa này cũng phải thành. Làm sao ta đắc viên mãn thiện và vô ngại thiện, tất cả sự yêu thích, giàu sang an vui như ý rồi sẽ không thành? Đó gọi là tâm Luyện-ma thứ ba.
Giải thích: Trong thập địa, sinh trưởng tốt đẹp phước đức và trí Tuệ hai phẩm thiện pháp, cho nên gọi là viên mãn tâm. Chướng thô nặng khó phá, do định Kim cương phá nó. Sau Kim cương định thì có thể lìa tất cả chướng, khi chuyển y thành thì gọi là vô ngại thiện. Phật quả gọi là giàu vui tự tại, cho nên gọi là vui, có đủ đức cho nên gọi là giàu. Phú lạc này tất cả pháp khả ái như ý. Nếu căn cứ theo tiểu thừa, lấy trí đoạn làm như ý, thì ân đức làm khả ái, nếu căn cứ theo Đại thừa thì pháp thân làm phú lạc, Ứng thân làm như ý, Hóa thân làm khả ái. Ba thứ này nhiếp hết Vô thượng bồ-đề cho nên nói là tất cả. Trước có nói “xả mạng”, là ví dụ lìa trí chướng. Trí chướng đã diệt, tại sao khả ái phú lạc như ý của ta rồi sẽ không thành? Do tâm luyện-ma thứ ba trong phương tiện thì tâm thoái khuất thứ ba diệt mất không sinh.
Luận nói: Trong đây nói kệ.
Giải thích: Trong kệ lại làm rõ thêm ba nghĩa.
Luận nói:
Chúng sinh trong cõi người,
Niệm niệm chứng Bồ-đề,
Xứ sở quá vô lượng,
Do không tâm hạ liệt.
Người thiện tâm tin ưa,
Hay sinh thí các độ,
Thắng nhân được ý này,
Nên giỏi tu bố thí.
Người thiện nếu khi chết,
Liền được giàu vui sướng,
Vị diệt viên tịnh thiện,
Nghĩa này làm sao không?
Luận nói: Chúng sinh trong cõi người.
Giải thích: Đây là làm rõ đồng loại có thể đắc quả Vô đẳng, không nên khinh tiện tự thân.
Luận nói: Niệm niệm chứng Bồ-đề.
Giải thích: Đây là làm rõ thời vô định, tu nhân và đắc quả đều không có quyết định thời gian, do đó hằng phải cần siêng tu tập, không lúc nào mà không thể tu. Tu nhân đã như thế, tu quả cũng vậy, do đó không nên cho rằng thời có chướng mà khinh tiện tự thân.
Luận nói: Xứ sở quá số lượng.
Giải thích: Đây là làm rõ xứ sở vô định, tùy xứ mà lập nhân đều có thể được thành. Đắc quả cũng vậy.
Luận nói: Cho nên không có tâm hèn mọn.
Giải thích: Đây là làm rõ ba nghĩa trước, cho nên tâm thoái khuất không sinh, cho rằng Ta không có công năng mà phải đắc Vô thượng Bồ-đề, cho nên tâm không hạ liệt.
Luận nói: Người Thiện tâm tin ưa, có thể sinh thí… các độ.
Giải thích: Không phải ác tâm và vô ký tâm có thể tin ưa. Tại sao vậy? Có những người lấy tâm tán mạn vô ký để mà hành các hạnh thí… Lại có các ngoại đạo lấy ác tâm hành các hạnh thí… để lìa ác vô ký này cho nên nói là thiện tâm, người cầu đắc Vô thượng Bồ-đề gọi là nhân ở thiện tâm. Lại nữa, thí… là thiện. Nếu không có thiện tâm làm nhân thì không thành hạnh thí… cho nên cần phải có Thắng nhân để sinh thắng quả. Thắng nhân tức là tin ưa, do tin ưa mà sinh thí… các độ. Hai câu này chỉ rõ ba nghĩa: 1. Tăng thượng duyên. 2. Đồng loại nhân. 3. Đẳng lưu quả.
Luận nói: Người tối thắng được ý này, thì có thể tu thí…
Giải thích: Các Bồ-tát gọi là người tối thắng, ý này tức là chánh ý của Bồ-tát, là tin và ưa. Do có ý này thì đối với tu thí có khả năng, cho nên ta tu thí… không lấy làm khó.
Luận nói: Hoặc khi người thiện chết.
Giải thích: Thiện nhân có hai thứ, tức là phàm phu và nhị thừa. Phàm phu tu thí và tu giới. Nhị thừa thì tu đạo phẩm. Chết cũng có hai nghĩa, tức là chết bị đọa và chuyển vị.
Luận nói: Liền đắc được vui tràn đầy.
Giải thích: Cũng có hai thứ, là phàm phu niềm vui tràn đầy của nhân thiên và cõi phạn thiên, và nhị thừa thì đắc niềm vui tràn đầy của sáu thần thông. Nếu lập được nhân này thì nhất định sẽ đắc quả.
Luận nói: Diệt vị viên tịnh thiện. Sao không có nghĩa này?
Giải thích: Ta nay tu phước Tuệ và vô lưu đạo phẩm của mười địa. Viên là căn cứ theo các địa. Tịnh là căn cứ theo đạo phẩm. Sau khi kim cương tâm diệt thì gọi là diệt vị. Đây tức là quả Vô thượng Bồ-đề, gọi là sự an vui thù thắng tràn đầy, Ta quyết định phải đắc quả này, sao nói là không được?
Luận nói: Do diệt trừ bốn xứ Chướng.
Giải thích: Đây là bốn xứ trong tám xứ. Bốn thứ chướng này, Bồ-tát Đạo đều phải diệt trừ. Nay sẽ nói nghĩa này.
Luận nói: Do xa lìa tư duy của Thanh-văn và Độc giác, nên tà tư duy diệt.
Giải thích: Tư duy của nhị thừa, là thường quán tội lỗi của sinh tử khổ, vô thường… và luôn quán công đức tịch tĩnh của Niết-bàn, quán này chỉ có yêu tự thân, bỏ sự lợi ích của chúng sinh. Nếu lìa quán này thì gọi là diệt tà tư duy.
Luận nói: Trong Đại thừa sinh tín tâm và quyết liễu tâm thì diệt tất cả tà ý và nghi.
Giải thích: Trong pháp thậm Đại thừa thâm quảng đại, thì đối với chân đế sinh tín tâm, đối với tục đế thì sinh quyết liễu tâm, đối với chân như thì xả ý bài bác, đối với mười hai bộ kinh Đại thừa mà Như Lai thuyết thì xả bỏ ý như văn tự mà phán nghĩa, do đó diệt tất cả tà ý và nghi. Lại nữa, trong Đại thừa, nương vào pháp tướng đã an lập mà Như Lai nói ba tánh, là tất cả pháp vô tánh, tất cả pháp bất sinh bất diệt, xưa nay tịch tĩnh, tự tánh Niết-bàn. Những pháp như vậy không có phẩm loại, đó là nương vào tánh phân biệt mà nói. Hoặc nói huyễn sự, nai khát nước, mộng tướng, ảnh, hình gương, tiếng vang, nước trăng, biến hóa… là nương vào tánh y tha mà nói. Nếu nói chân như thật tế vô tướng, chân thật pháp giới không, là nương vào tánh chân thật mà nói. Trong thuyết của ba tánh này, bất tín và nghi không được sinh. Đây là nói diệt tà ý và nghi.
Luận nói: Trong các pháp đã được nghe và tư duy, thì xa lìa tà chấp của ngã và ngã sở. Do đó diệt trừ ngã chấp.
Giải thích: Cảnh giới nghe, tư duy được gọi là nghe, tư duy các pháp. Nghĩa mà Văn tư làm sáng tỏ là cảnh giới của Văn tuệ. Nương vào nghĩa này, như lý như lượng mà suy tầm đạo lý, thì đạo lý này là cảnh giới của Tư tuệ. Trong đó nếu chấp thể của pháp là có thì gọi là pháp chấp và ngã chấp. Ví như chấp có Niết-bàn thì tập đế không sinh, tịch tĩnh làm thể. Nếu chấp thể của pháp có dụng thì gọi là pháp sở chấp và ngã sở chấp. Ví như chấp dụng của Niết-bàn thì lìa ba khổ. Các thứ chấp như vậy gọi là tà chấp. Nếu chưa diệt tà chấp này, thì không thể được nhập bốn vị của duy thức. Do diệt trừ pháp chấp mà có thể được nhập bốn vị của duy thức. Lại nữa, xa lìa pháp đã nghe, pháp đã tư duy, ngã và pháp đã chấp thì trong đây chỉ chấp thể và dụng của pháp là có, gọi là ngã và ngã sở mà không chấp nhân ngã, ngã sở. Tại sao vậy? Vì nhân ngã chấp này trong mười giải ở trước đã diệt trừ, chỉ có pháp ngã chấp chưa trừ. Đây là chỉ rõ nhập phương tiện của duy thức.
Luận nói: An lập hiện tiền trụ, tất cả tướng tư duy đều không phân biệt, cho nên có thể diệt trừ phân biệt.
Giải thích: Trong vị tán loạn, sáu trần như sắc v.v… tự minh chứng biết là hiện tiền trụ. Trong vị tịch tĩnh, thì cốt toả tụ từ định tâm mà khởi làm an lập. Tất cả tướng như vậy là cảnh giới của hai tâm tán loạn và tịch tĩnh. Tư duy là giác quán tư duy, quán khổ, vô thường, vô ngã… tâm này duyên nội cảnh. Do thấy cảnh không có tướng, thấy thức không sinh, nên có thể diệt phân biệt. Do Vô phân biệt làm phương tiện mà được nhập bốn vị. Nếu khởi phân biệt thì không được nhập. Lại nữa, hiện tiền trụ, tất cả tướng và tư duy được lập, đều không phân biệt là người đang phân biệt, vì quán phương tiện đạo, khởi ý vô phân biệt, nếu phương tiện đã thuần thục thì không cần công dụng, mà tự nhiên có thể không có phân biệt.
Luận nói: Trong đây nói kệ.
Giải thích: Kệ này chỉ rõ chỗ diệt tối hậu.
Luận nói:
Hiện trụ và an lập,
Tất cả tướng tư duy,
Người trí không phân biệt,
Nên đắc Vô thượng giác.
Luận nói: Hiện trụ và an lập, tất cả tướng tư duy.
Giải thích: Tất cả tướng có hai thứ, là hiện trụ và an lập. Sáu trần sở duyên của tán tâm gọi là hiện trụ, sở duyên cốt (xương) của định tâm là an lập. Lại nữa, tất cả tướng có hai thứ, một là như ngoại hiển hiện, hai là như nội hiển hiện. Như ngoại là tướng, như nội là tư duy.
Luận nói: Người trí không phân biệt.
Giải thích: Bồ-tát gọi là người trí, đã nghe và tư duy đạo lý của duy thức, do nghe và tư duy này cho nên gọi là người trí, khởi ý cho đến vô công dụng không phân biệt.
Luận nói: Cho nên đắc Vô thượng giác.
Giải thích: Do không phân biệt mà thành tựu vô phân biệt trí, được nhập sơ địa, tức là từ sơ địa trở lên là Vô thượng giác.
Luận nói: Duyên pháp và nghĩa làm cảnh.
Giải thích: Đây tức là nhân của xứ thứ năm trong tám xứ, và phương tiện có thể khiến cho nhập duy thức quán. Nay sẽ nói nghĩa này.
Luận nói: Nhân gì và phương tiện gì mà được nhập”?
Giải thích: Câu hỏi này có hai ý, trước hỏi nhân, sau hỏi phương tiện.
Luận nói: Do chủng loại huân tập từ nghe, thuộc về chánh tư duy, hiển hiện pháp nghĩa tương tự ý ngôn phân biệt có kiến.
Giải thích: Đây là đáp câu hỏi thứ nhất. Văn tuệ huân tập được sinh do nghe mười hai bộ loại kinh của Đại thừa. Huân tập này có chủng loại, chủng loại tức là Văn tuệ, lấy đây làm nhân, sinh khởi nương vào Văn tuệ này luôn phát khởi chánh tư duy, tăng trưởng khiến cho kiên trụ cho nên gọi là nhiếp, trì giữ khiến cho kiên trụ chánh tư duy là nhân tăng trưởng, có ức niệm nhiếp trì hoặc tương tợ chánh giáo hiển hiện, hoặc sở thuyên nghĩa của tợ chánh giáo hiển hiện. Ý thức giác quán tư duy gọi là ý ngôn phân biệt. Ý ngôn phân biệt này có hai thứ là tướng và kiến, hiện tại chỉ lấy kiến mà không lấy tướng. Tại sao vậy? Vì quán duyên thức này xua đuổi trần.
Luận nói: Do bốn thứ tầm tư là danh, nghĩa, tự tánh và sai biệt giả lập tầm, tư.
Giải thích: Đây tức là xứ thứ sáu trong tám xứ. Nếu Bồ-tát đối với danh chỉ thấy danh, đối với nghĩa chỉ thấy nghĩa, đối với danh, nghĩa tự tánh, ngôn thuyết, thì chỉ thấy danh, nghĩa, tự tánh, ngôn thuyết, đối với danh, nghĩa, sai biệt ngôn thuyết thì chỉ thấy danh, nghĩa sai biệt, ngôn thuyết, đối với bốn xứ này kiến, độ, nghi và quyết liễu gọi là tầm tư. Bồ-tát thấy danh, nghĩa tướng mỗi mỗi đều khác nhau, thấy tướng phải nương vào nghĩa tương ưng, Bồ-tát thấy tự tánh, ngôn thuyết và sai biệt. Ngôn thuyết đều thuộc nghĩa cho nên danh cùng với nghĩa tương ưng. Làm sao biết được danh và nghĩa làm khách lẫn nhau? Trước hết đối với danh, trí không sinh. Nếu danh đồng thể với nghĩa, thì khi chưa nghe danh trí danh trong nghĩa phải thành. Lại vì danh nhiều, nếu danh đồng thể với nghĩa thì danh nhiều nghĩa cũng nhiều. Lại vì danh bất định, nếu danh đồng thể với nghĩa thì danh đã bất định, nghĩa cũng phải như thế. Nếu không thành một vật thì pháp trái nhau lẽ ra đồng thể. Lại là danh này tương đương trong có nghĩa mà khởi hay trong vô nghĩa mà khởi. Nếu đã có và chưa có danh khởi trong nghĩa thì nghĩa một thể không thành. Lại nữa, nếu ông nói trước đã có nghĩa, sau đó lấy danh để làm rõ nghĩa, ví như đèn chiếu các sắc. Nếu như thế thì người này trước đã chấp nghĩa rồi sau đó mới lập danh, chứ không phải chưa chấp nghĩa mà lập danh. Chấp này tức là phải có thể liễu nghĩa. Tại sao phải lập danh rồi mới làm rõ nghĩa? Chấp này nếu không thể liễu nghĩa thì danh lẽ nào liễu nghĩa được! Lại nữa, danh này do có người khác không đạt nghĩa này, vì chưa hiểu rõ danh này. Nếu danh quyết định là năng liễu nghĩa thì không đúng như vậy. Vì nếu danh quyết định là năng liễu nghĩa, thì do danh này mà không nên có người, có nhận biết vật, có chẳng biết vật. Lại nữa, nếu có chấp nghĩa khác và danh khác, do danh này đối với nghĩa không có tà chấp, ví như người phàm phu biết năm ấm chỉ là hành tụ, do tập quen, đối với tự tha tương tục khởi ngã chấp, trong nghĩa không phải không có tà chấp. Nếu nghĩa và danh là một thì hai sự này không nên thành. Do những nghĩa như vậy cho nên biết danh đối với nghĩa làm khách, nghĩa đối với danh làm khách cũng như vậy.-------------------------------
Luận nói: Do bốn thứ như thật trí, là danh, nghĩa, tự tánh và sai biệt, vì bốn thứ như thật trí bất khả đắc.
Giải thích: Đây tức là xứ thứ bảy trong tám xứ. Thế nào là chỗ dẫn như thật trí của danh tầm tư? Nếu Bồ-tát đối với danh đã tầm tư chỉ có danh, sau đó biết như thật chỉ có danh. Thế gian vì làm rõ nghĩa này nên trong nghĩa này mà lập danh này, làm tưởng kiến ngôn thuyết. Nếu thế gian không an lập danh của sắc, thì trong sắc loại không có một người nào có thể tưởng loại này. Sắc đó nếu không thể tưởng được thì không tăng ích. Nếu không có tăng ích thì không khởi chấp trước. Nếu không có chấp trước thì không thể dạy bảo lẫn nhau. Nếu Bồtát biết danh như vậy thì danh đó gọi là chỗ dẫn đệ nhất như thật trí của tầm tư. Thế nào là chỗ dẫn như thật trí của nghĩa tầm tư? Nếu Bồ-tát đối với nghĩa đã tầm tư mà chỉ có nghĩa, thì biết như thật nghĩa lìa tất cả ngôn thuyết và bất khả ngôn thuyết, là loại của sắc thọ… sắc phi sắc bất khả thuyết, pháp phi pháp bất khả thuyết, đó gọi là chỗ dẫn đệ nhị như thật trí của danh nghĩa tầm tư. Thế nào là chỗ dẫn như thật trí của tự tánh tầm tư? Nếu Bồtát trong loại tự tánh ngôn thuyết của sắc danh, đã tầm tư mà chỉ có ngôn thuyết, do tự tánh ngôn thuyết mà loại này không phải là tánh của nó, như tự tánh nó hiển hiện thì Bồ-tát như thật thông đạt loại này, ví như biến hóa, gương và hình, tiếng vang, ánh sáng và bóng, mộng tưởng, huyễn sự… phi loại mà tợ loại hiển hiện, gọi đó là chỗ dẫn đệ tam như thật trí của tự tánh tầm tư, lấy nghĩa thậm thâm làm cảnh giới. Thế nào là chỗ dẫn như thật trí của sai biệt tầm tư? Nếu Bồ-tát trong ngôn thuyết sai biệt đã tầm tư mà chỉ có tầm tư, thì trong loại của sắc Bồ-tát thấy sai biệt ngôn thuyết, không có hai nghĩa. Loại này là không có phi không có, do thể khả ngôn không thành tựu, không có phi không có thì do thể bất khả ngôn thành tựu. Như vậy phi sắc do chân đế cho nên là phi phi sắc. Do tục đế cho nên trong đó là hữu sắc ngôn thuyết. Như hữu không có và sắc phi sắc, sai biệt ngôn thuyết của hữu kiến và phi kiến như vậy biệt và loại. Do đạo lý này phải biết đều là như vậy. Nếu Bồ-tát như thật biết sai biệt ngôn thuyết không có hai nghĩa, thì gọi đó là chỗ dẫn đệ tứ như thật trí của sai biệt tầm tư. Trước đã nói danh và nghĩa, sau nói tự tánh sai biệt. Trong bốn thứ này đều giả lập ngôn thuyết là muốn làm rõ cái gì? Để làm rõ nghĩa bất khả đắc. Do nghĩa bất khả đắc nên danh cũng không có tự tánh và sai biệt, cho nên Bồ-tát tầm tư danh này, chỉ có giả lập tự tánh sai biệt. Như vậy vượt qua, nghi và quyết liễu gọi là tầm tư, nhân theo tầm tư này, Bồ-tát quán danh nghĩa cả hai không có gì, gọi đó là như thật trí.
Luận nói: Hoặc Bồ-tát đã nhập đã hiểu các nghĩa như vậy.
Giải thích: Đã nhập là đã đắc bốn thứ tầm tư, đã hiểu là đã đắc bốn thứ như thật trí.
Luận nói: Thì tu gia hạnh để nhập duy thức quán.
Giải thích: Địa tiền lục độ và bốn thứ thông đạt phần thiện căn gọi là gia hạnh, từ vị nguyện ưa cho đến vị cứu cánh, gọi chung là duy thức quán. Nếu muốn nhập duy thức quán thì tu gia hạnh duyên cảnh giới nào?
Luận nói: Ý ngôn phân biệt trong quán này là tợ tự ngôn và nghĩa hiển hiện.
Giải thích: Từ vị nguyện ưa cho đến vị cứu cánh gọi là đang trong quán, duyên ý ngôn phân biệt làm cảnh thì lìa vô biệt ngoại cảnh này. Tại sao vậy? Vì ý ngôn phân biệt này là tợ văn tự ngôn thuyết và nghĩa hiển hiện.
Luận nói: Trong đây là tự ngôn tướng, chỉ có ý ngôn phân biệt mới đắc thông đạt như vậy.
Giải thích: Chỉ có ý ngôn phân biệt không có riêng có danh, Bồ-tát có thể thông đạt danh không có gì thì lìa tà chấp của ngoại trần.
Luận nói: Nghĩa này nương vào danh ngôn, nhưng ý ngôn phân biệt cũng thông đạt như vậy.
Giải thích: Trước đã xua danh, sau đây nương vào danh để xua nghĩa. Nghĩa tức là cảnh đối tượng của lục thức. Lìa danh thì không có riêng cảnh này, cho nên nương vào danh để xua nghĩa. Danh ngôn đã chỉ có ý phân biệt, nghĩa cũng không khác thể, Bồ-tát có thể thông đạt nghĩa không có gì thì cũng lìa tà chấp ngoại trần này.
Luận nói: Danh nghĩa tự tánh sai biệt này, chỉ giả thuyết làm lượng cũng thông đạt như vậy.
Giải thích: Trước đã xua danh nghĩa, danh nghĩa đã không có danh nghĩa tự tánh và danh sai biệt, thì làm sao có thể lập? Nếu lìa giả thuyết không có riêng danh nghĩa tự tánh và danh nghĩa sai biệt. Do chứng kiến hai pháp bất khả đắc này, gọi là thông đạt.
Luận nói: Kế tiếp trong vị này, chứng đắc chỉ có ý ngôn phân biệt.
Giải thích: Là người Quán hành đã xua đuổi ngoại trần, trong quán này lại duyên cảnh nào? quán tất cả cảnh chỉ là ý ngôn phân biệt. Người Quán hành này duyên ý ngôn phân biệt làm cảnh, chưa có khả năng xua cảnh này. Nếu chưa có thể xua duy thức cảnh, thì trong vị này xua cảnh nào? cho nó hết sạch không còn sót? Ngôi vị này chỉ không thấy bốn cảnh. Thế nào là bốn cảnh?
Luận nói: Là người Quán hành không thấy danh và nghĩa, không thấy tự tánh sai biệt giả thuyết, do thật tướng bất đắc đã có tự tánh sai biệt nghĩa.
Giải thích: Danh nghĩa là gốc, danh và nghĩa mỗi thức đều có giả thuyết tự tánh và sai biệt, tức là danh không thấy tự tánh sai biệt giả thuyết, tức là không thấy tự tánh sai biệt danh. Xua tan bốn pháp này vĩnh viễn hết không sót. Do tâm duyên ý ngôn phân biệt làm cảnh, quyết định kiên trụ, cho nên không còn phân biệt các cảnh khác. Do bốn thứ tầm tư và bốn thứ như thật trí, đã liễu biệt bốn pháp này thì quyết định không có gì, tâm không duyên tướng này. Không duyên tướng này cho nên không đắc bốn thứ phân biệt này. Nếu do hai thứ phương tiện xua đuổi ngoại trần phân biệt thì lại có phương tiện và cảnh giới gì riêng để được nhập chân quán?
Luận nói: Do bốn thứ tầm tư và bốn thứ như thật trí. Giải thích: Trước là đáp câu hỏi trước là không có riêng phương tiện, do bốn thứ tầm tư và bốn thứ như thật trí. Chỗ nhiếp của bốn pháp Tam-ma-đề là nhập phương tiện.
Luận nói: Đối với ý ngôn phân biệt hiển hiện tựa danh và nghĩa. Giải thích: Tiếp theo đáp câu hỏi sau là không có cảnh giới riêng. Phàm phu từ xưa nay, ý ngôn phân biệt có hai thứ, một là tợ danh, hai là tợ nghĩa. Danh và nghĩa đều nhiếp hết tất cả pháp. Danh nghĩa này chỉ là chỗ tạo tác của ý ngôn phân biệt. Lìa ý ngôn phân biệt này thì không có pháp nào khác.
Luận nói: Được nhập duy thức quán.
Giải thích: Nương vào phương tiện này mà duyên cảnh giới này thì được nhập duy thức chân quán.
Luận nói: Trong duy thức quán nhập pháp gì? Pháp nào được nhập?
Giải thích: Sau đây thuyết minh Đệ Bát xứ trong tám xứ. Trong đây có hai câu hỏi, một là hỏi chỗ nhập pháp, hai là hỏi chỗ nhập thí dụ.
Luận nói: Chỉ nhập Duy lượng.
Giải thích: Dưới đây trước đáp câu hỏi thứ nhất là chỉ nhập Duy lượng. Duy thức lượng này nhiếp mấy thứ pháp?
Luận nói: Hai pháp tướng và kiến.
Giải thích: Duy thức này không ngoài hai pháp: 1. Tướng thức. 2. Kiến thức. Lại nữa, tợ trần hiển hiện gọi là tướng, là đối tượng cảnh; tợ thức hiển hiện gọi là kiến, là năng duyên thức. Hai pháp này, một là nhân và một là quả. Lại nữa, một là sở y, một là năng y.
Luận nói: Chủng chủng tướng mạo.
Giải thích: Hai pháp này từ vô thủy sinh tử đến nay đã tập quen cho nên nhanh chóng, do đó trong trong cùng một lúc có chủng chủng tướng mạo khởi. Như vậy ba pháp này người Quán hành quán duy thức được nhập.
Luận nói: Danh nghĩa tự tánh sai biệt, giả thuyết tự tánh sai biệt nghĩa, sáu thứ tướng Vô nghĩa.
Giải thích: Danh và nghĩa mỗi thứ đều có ba thứ thì thành sáu. Danh có ba là: 1. Danh. 2. Tự tánh. 3. Sai biệt. Nghĩa có ba, cũng như thế. Sáu thứ tướng này đều vô nghĩa. Tại sao vậy? Danh vốn là tự nghĩa, nghĩa không có gì cho nên danh không có nghĩa. Danh này là tự có nghĩa, là tương đương vô nghĩa. Nếu có nghĩa, thì nghĩa không có gì cho nên danh không có nghĩa. Nếu danh không có thì nghĩa cũng không có, vì không có gì. Danh không có nghĩa thì nghĩa cũng không có nghĩa. Rời ngoài duy thức lượng thì không có riêng nghĩa nào khác, cho nên nghĩa cũng không có nghĩa. Danh đã không có nghĩa thì danh tự tánh và danh sai biệt cũng không có nghĩa. Nghĩa đã không có nghĩa thì nghĩa tự tánh và nghĩa sai biệt cũng không có nghĩa. Đây nói rõ sáu tướng này không có nghĩa để làm rõ nhập Duy lượng quán. Đã rõ nhập Duy lượng quán rồi, vì sao nhập tướng kiến quán?
Luận nói: Do năng thủ và sở thủ này, không phải hữu vi là nghĩa.
Giải thích: Đây tức là đối với tướng mà kiến tướng, không phải năng thủ và sở thủ. Tại sao vậy? Vì tợ trần hiển hiện cho nên không phải năng thủ. Lìa thức thì không có riêng trần cho nên không phải sở thủ, kiến cũng không phải năng thủ và sở thủ. Hiển hiện tựa thức cho nên không phải sở thủ, sở thủ trần đã không có thì thức cũng không có, cho nên không phải năng thủ. Đã không có năng thủ và sở thủ cho nên chẳng có nghĩa. Do không thấy có thể của năng thủ và sở thủ nên gọi là nhập tướng kiến quán. Đã nói rõ nhập tướng kiến quán, vì sao nhập chủng chủng tướng mạo quán?
Luận nói: Đồng thời hiển hiện, vì tương tự chủng chủng tướng mạo và sinh.
Giải thích: Nếu Bồ-tát thấy tánh y tha hiển hiện, thì tợ chủng chủng tướng mạo nhưng thật ra không có tướng. Thấy tánh y tha hiển hiện tựa sinh, thật ra không có sinh, trong nhất thời có thể quán chủng chủng tướng mạo không có tướng và không có sinh, gọi là chủng chủng tướng mạo quán. Để làm rõ nhập ba pháp quán tánh cho nên nói thí dụ dây leo.
Luận nói: Ví như trong tối, dây leo hiển hiện giống con rắn.
Giải thích: Người thấy tướng dây, chấp cho là rắn. Dưới đây là đáp câu hỏi thứ hai. Chúng sinh từ xưa đến nay, không nghe nói nghĩa tam vô tánh của Đại thừa thập nhị bộ kinh, chưa đắc Văn tuệ, bị ba thứ phiền não che chướng. Dụ như trong tối, thì có người cho đó là nhị thừa và phàm phu. Tướng dây là dụ cho tánh y tha; rắn là dụ cho phân biệt tánh. Nhị thừa và phàm phu không hiểu rõ tánh y tha, nên chấp phân biệt tánh có người có pháp.
Luận nói: Cũng như trong sợi dây, thì rắn tức là hư vọng, thật ra không có.
Giải thích: Trong tánh y tha, thì phân biệt tánh là hư vọng, thật ra không có nhân và pháp.
Luận nói: Hoặc người đã hiểu rõ nghĩa sợi dây này.
Giải thích: Ví như Bồ-tát đã được Văn tuệ và Tư tuệ, nhập duy thức phương tiện quán.
Luận nói: Lúc trước, loạn trí cho rắn không duyên cảnh mà khởi thì liền diệt mất, chỉ có trí biết sự dây tồn tại.
Giải thích: Khi chưa đắc Văn tuệ và Tư tuệ thì trong phàm phu vị chấp có nhân pháp. Chấp này vốn không có cảnh, sau khi đắc Văn tuệ và Tư tuệ, liễu biệt tánh y tha, chấp này liền diệt, chỉ có tánh y tha trí tồn tại.
Luận nói: Trí biết rõ sợi dây này do phân tích vi tế, trống trơn không có thật cảnh.
Giải thích: Nếu người duyên tướng bốn trần để phân tích sợi dây này, thì chỉ thấy bốn tướng mà không thấy riêng sợi dây, cho nên trí biết rõ sợi dây là hư vọng. Vì hư vọng cho nên là rối loạn không có thật cảnh. Vọng khởi chấp cảnh.
Luận nói: Tại sao vậy? Vì chỉ là tướng của sắc hương vị xúc.
Giải thích: Tại sao vậy? Sợi dây không phải thật có, lìa ngoài bốn trần này thì không riêng có sợi dây.
Luận nói: Nếu tâm duyên cảnh này, thì trí biết sợi dây cũng phải diệt.
Giải thích: Đây là thuyết minh trí biết sợi dây, tuy có thể xua đi thô loạn chấp, nhưng tự nó là tế loạn chấp, nên có thể trừ được. Trong phương tiện tuy lấy tánh y tha để xua đi phân biệt tánh thô loạn chấp, nhưng thấy có tánh y tha thì tự nó không tránh khỏi là tế loạn chấp. Sau đó nhập chân quán thì liền xua đi chấp này, cho nên phải có thể trừ.
Luận nói: Nếu đã thấy như vậy rồi, diệt mất sáu tướng hiển hiện ý ngôn phân biệt của tợ danh và tợ nghĩa. Giải thích: Tất cả pháp chỉ có sáu tướng, sáu tướng này chỉ là ý ngôn phân biệt. Lìa ý ngôn phân biệt thì sáu tướng đó thật không có gì. Do trí như vậy, người Quán hành được nhập phân biệt tánh.
Luận nói: Trần trí không sinh là thí dụ cho xà trí (trí hiểu con rắn).
Giải thích: Khi nhập phân biệt tánh thì trần trí không được sinh.
Nếu khi hiểu rõ là sợi dây thì xà trí không sinh. Câu nói này và thí dụ chỉ rõ nhập phân biệt tánh.
Luận nói: Trong diệt nghĩa của sáu tướng, thì duy thức trí cũng phải có thể diệt, ví như đằng trí (trí hiểu sợi dây).
Giải thích: Trong nhập phân biệt tánh vị, thì Bồ-tát đã chứng vô tướng tánh, vô tướng tánh này có thể dẫn vô sinh tánh trí, duy thức trí phải có thể phục diệt. Nếu như khi biết rõ bốn thứ vi tế thì đằng trí không sinh.
Luận nói: Do nương vào chân như trí.
Giải thích: Nương vào vô tướng tánh trí được nhập vô sinh tánh.
Câu nói này và thí dụ để làm rõ nhập tánh y tha và chân thật tánh.
Luận nói: Bồ-tát như vậy, do nhập tợ nghĩa mà hiển hiện ý ngôn phân biệt tướng, được nhập phân biệt tánh. Do nhập duy thức nghĩa cho nên được nhập tánh y tha. Làm sao được nhập chân thật tánh?
Giải thích: Nếu Bồ-tát đã biết rõ tất cả pháp chỉ là ý ngôn phân biệt, thì lìa ngoài phân biệt này thật ra là không có gì cả. Do nương vào ý ngôn phân biệt mà biết rõ phân biệt vô tướng tánh. Nếu Bồ-tát không thấy ngoại trần mà chỉ thấy ý ngôn phân biệt tức là biết rõ tánh y tha. Làm thế nào để biết rõ pháp này? Nếu lìa nhân duyên thì tự nó không sinh căn trần, vì nhân duyên căn trần đã không thành. Pháp này không có nhân duyên thì làm sao được sinh? Cho nên Bồ-tát có thể biết rõ tánh y tha và vô sinh tánh, tức là biết rõ chân như thật tánh.
Luận nói: Hoặc đã xả duy thức tưởng rồi.
Giải thích: Nếu Bồ-tát nương vào chân quán thứ nhất nhập tánh y tha, do chân quán thứ hai trừ tánh y tha, thì xả duy thức tưởng.
Luận nói: Lúc đó ý ngôn phân biệt, trước hết Sở văn pháp huân tập chủng loại.
Giải thích: Là khi nhập chân quán, cho nên nói là lúc đó. Từ khi bắt đầu tu học cho đến khi nhập chân quán, thì ý thức giác quán tư duy ức trì nhớ giữ. Trước kia được nghe chánh giáo và những gì chánh giáo làm sáng tỏ, gọi là ý ngôn phân biệt. Trước kia nhờ nghe chánh giáo, sinh thói quen, cho nên nói là huân tập, sau đó cảnh giới được nhớ chắc cũng giống như sở lưu của cảnh giới lúc trước, cho nên gọi là chủng loại.
Luận nói: Bồ-tát đã biết rõ thì phục diệt trần tưởng.
Giải thích: Bồ-tát nương vào tứ tầm tư đã biết rõ lục trần, nương vào tứ như thật trí mà đã phục diệt trần tưởng.
Luận nói: Tợ nhất thiết nghĩa hiển hiện, không sinh duyên lại nữa, do đó không được sinh.
Giải thích: Trước kia ý ngôn phân biệt hiển hiện, tương tự tất cả nghĩa của sở văn và sở tư, cho đến tương tự duy thức tưởng đều không được sinh. Tại sao vậy? Vì không được sinh duyên. Sinh duyên có hai thứ là phân biệt tánh và tánh y tha. Phân biệt tánh đã diệt thì tánh y tha cũng không được sinh, vì đã không có hai cảnh, tất cả nghĩa cho đến tợ duy thức tưởng đều không được sinh. Lại nữa, lúc đó không có một phẩm loại nào của trần mà không phải là điều Bồ-tát biết rõ, cũng được tương tự trần này mà khởi ý ngôn phân biệt, sinh duyên của ý ngôn phân biệt đều dứt hết. Đã không có sinh duyên, lúc này tất cả ý ngôn phân biệt đều không được sinh.
Luận nói: Do đó tợ ý ngôn phân biệt của duy thức cũng không được sinh.
Giải thích: Câu nói này là muốn làm rõ nghĩa gì? Duy thức tưởng này nếu làm tâm phân biệt thì tưởng này trở thành cảnh giới, cảnh giới chấp này do hoàn toàn phục diệt cho đến duy thức tưởng cũng không được khởi, huống gì ý ngôn phân biệt mà sẽ được sinh?
Luận nói: Do nghĩa này.
Giải thích: Do Bồ-tát nương vào tánh y tha mà trừ tánh phân biệt, nương vào tánh chân thật mà trừ tánh y tha. Nếu tất cả đều bị trừ bỏ thì Bồ-tát trụ xứ nào? tâm Bồ-tát duyên cảnh giới nào?
Luận nói: Bồ-tát chỉ trụ trong tất cả nghĩa danh của vô phân biệt.
Giải thích: Vô phân biệt trí là danh. Tướng của danh này là gì? Là tất cả nghĩa của không phân biệt. Nghĩa tức là cảnh. Trí này đối với tất cả cảnh không có lại hai thứ phân biệt năng thủ sở thủ, tức là lập trí này làm Bồ-tát. Lại nữa, danh là đến cứu cánh danh chung với tất cả pháp.
Đối với tất cả pháp không có sai biệt, danh này tức là pháp giới, pháp giới này chung với tất cả pháp. Tất cả nghĩa của không phân biệt làm tướng, hoặc gọi là vô phân biệt cảnh. Bồ-tát chỉ ở trong pháp này. Lại nữa, đã đáp câu hỏi thứ nhất.
Luận nói: Do Vô phân biệt trí đắc chứng đắc trụ chân như pháp giới.
Giải thích: Không phân biệt, năng thủ, sở thủ, nhân và pháp cho đến tướng, sinh tánh sai biệt, đắc vô phân biệt trí như vậy, được chứng trụ chân như pháp giới. Các địa đều có ba phần, là nhập, trụ và xuất. Đắc chứng đắc trụ tức là hai phần trước. Chưa đắc khiến cho đắc là chứng, đã đắc khiến cho không mất gọi là trụ. Lại nữa, Đắc thứ nhất gọi là nhập, đã đắc tương tục gọi là trụ. Đây là đáp câu hỏi thứ hai.
Luận nói: Lúc đó Bồ-tát bình đẳng với bình đẳng.
Giải thích: Là khi nhập chân như quán thì trí của Bồtát nương vào mười thứ bình đẳng, như trong Kinh Thập Địa nói. Lại cũng nương vào hai thứ bình đẳng là năng duyên và sở duyên. Năng duyên tức là vô phân biệt trí, vì vô phân biệt trí cho nên gọi là bình đẳng. Sở duyên tức là chân như cảnh, cảnh cũng vô phân biệt cho nên gọi là bình đẳng. Lại nữa, cảnh và trí này không trụ trong nghĩa năng thủ và sở thủ, ví như hư không cho nên nói bình đẳng với bình đẳng. Vì tối thượng vô đẳng trong bình đẳng cho nên nói hai lần bình đẳng.
Luận nói: Năng duyên và sở duyên do vô phân biệt trí sinh.
Giải thích: Vô phân biệt trí sinh có tướng mạo gì? Nương vào mười thứ bình đẳng thì năng duyên và sở duyên đều bình đẳng, vì vô phân biệt trí sinh. Lại nữa, vô phân biệt trí nương vào hai thứ bình đẳng là trí và cảnh, Năng duyên và sở duyên đều bình đẳng, vì vô phân biệt trí sinh. Lại nữa, vô phân biệt trí nương vào tối cực bình đẳng vì không trụ năng duyên và sở duyên, vì vô phân biệt trí sinh.
Luận nói: Do nghĩa này mà Bồ-tát được nhập chân thật tánh.
Giải thích: Như từ trước đến đây đã giải thích thứ tự các nghĩa phương tiện và nghĩa phải nói ở sau. Nói do nghĩa này, người hướng đến Sơ địa gọi là Bồ-tát. Do các nghĩa này được chứng thấy chân thật tánh, tánh này là ngôi vị bất khả ngôn thuyết. Tại sao vậy? Vì từ những gì mà mình chứng. Khi chứng thì lìa giác quán tư duy phân biệt, trước đã nói Bồ-tát chỉ trụ trong danh nghĩa của tất cả vô phân biệt. Danh này bao nhiêu thứ? Lại lấy pháp gì để làm danh?
Luận nói: Trong đây nói kệ.
Giải thích: Vì đáp các câu này cho nên nói kệ này.
Luận nói:
Pháp nhân và pháp nghĩa
Tánh thì gom, danh rộng,
Bất tịnh, tịnh cứu cánh,
Mười danh sai biệt cảnh.
Giải thích: Danh có mười thứ là cảnh giới của Bồtát. Những gì là mười? 1. Pháp danh, là nhãn nhĩ… của sắc thọ… 2. Nhân danh, là tín hành, pháp hành… 3. Pháp danh, là Tu-đa-la, Kỳ-dạ… 4. Nghĩa danh, là chỗ đã làm sáng các nghĩa danh của mười hai Bộ Kinh đã hiển bày. 5. Tánh danh, là không có nghĩa văn tự. 6. Lược danh, là tên chung của chúng sinh. 7. Quảng danh, là chúng sinh mỗi mỗi đều có tiếng riêng. 8. Bất tịnh danh, là phàm phu. 9. Tịnh danh, là thánh nhân. 10. Cứu cánh danh, là chung với tất cả pháp Thật tế Chân như.
Luận nói: Cảnh sai biệt của mười danh.
Giải thích: Mười thứ danh sai biệt này đều là cảnh giới của Bồ-tát. Chỗ trụ của Bồ-tát chỉ tại danh thứ mười là chung tất cả pháp. Lại nữa, lược nói danh có mười thứ là cảnh giới của Bồ-tát: 1. Pháp danh là nhãn… 2. Nhân danh là ngã và chúng sinh. 3. Pháp danh là mười hai bộ kinh giáo. 4. Nghĩa danh là nghĩa của mười hai bộ kinh giáo. 5. Tánh danh là A-A làm âm ban đầu. Ha là âm tối hậu và ba mươi bảy chữ hợp ghép nhau. 6. Lược danh là hữu vi và vô vi. 7. Quảng danh là sắc thọ… và không… 8. Bất tịnh danh là phàm phu. 9. Tịnh danh là Tu-đàhoàn.
10. Cứu cánh danh là duyên thông suốt cảnh, là cảnh
Chân như của tất cả pháp, làm sở duyên của trí xuất thế và trí sau khi xuất thế đạt được...
Luận nói: Bồ-tát do nhập duy thức quán như vậy, được nhập tướng hiểu biết thù thắng.
Giải thích: Như vậy là phương tiện, thứ đệ, thời tiết, xả, đắc… Bồ-tát do nghĩa như vậy mà được nhập duy thức quán, hoặc nhập quán phương tiện Duy thức, hoặc nhập quán chân thật về duy thức. Do quán duy thức mà có thể thông đạt ba vô tánh, được thể nhập tướng nhận biết thù thắng.
Giải thích: Do nhập tướng hiểu biết thù thắng, Bồtát đắc quả gì?
Bồ-tát đắc quả tư lương, có tám thứ.
Luận nói: Do nhập tướng này mà đắc Sơ địa hoan hỷ.
Giải thích: Văn này chỉ rõ ba quả: 1. Đắc thời thù thắng. 2. Đắc phương tiện thù thắng. 3. Đắc quả thù thắng.
Sơ (ban đầu) tức là thứ nhất nói về quả đắc thời thù thắng. Từ ban đầu phát tâm tu hành cầu đến thời này, bây giờ mới được cho nên gọi là sơ. Thời điểm cầu là thời nhập quán chân thật, đây là nói rõ được trụ quả Chân như. Lại nữa, xả phàm phu và nhị thừa vị mới đắc địa vị Chân như của Bồ-tát cho nên gọi là thời thù thắng. Vì thời này là thời chuyển y, nên gọi thời điểm ban đầu (sơ) này là thời điểm thù thắng, tức là thuyết minh quả chuyển y.
Hoan hỷ tức là thuyết minh thứ hai đắc quả phương tiện thù thắng. Xả tự ái gọi là hoan, sinh tha ái gọi là hỷ. Hoặc không tiếc tự thân, không chán ghét người khác, trong các hạnh không có hành khó làm. Tâm này trong phương tiện là tối thắng, lấy làm căn bản của các hạnh, cho nên sơ địa từ quả này mà lập tên.
Lại nữa, chưa từng được công dụng lớn và tâm xuất thế, khi đắc thì có vui mừng lớn cho nên gọi là địa hoan hỷ, tức là thuyết minh thứ ba đắc quả thù thắng. Trụ nhiếp là nghĩa của địa. Xuất ly chân như là thể của địa. Do trụ vào thể này cho nên gọi là quả thù thắng, nhân của địa gọi là nhiếp, là hai thứ tư lương phước đức và trí tuệ. Lại nữa, sở nhiếp gọi là nhiếp, là những chúng sinh được lợi ích. Lại nữa, quả gọi là nhiếp, là Vô thượng Bồđề. Lại nữa, chướng gọi là nhiếp, là ba thứ phiền não. Những nghĩa như vậy gọi là địa vì là chỗ gồm thâu của địa.
Luận nói: Khéo thông đạt pháp giới.
Giải thích: Tức là thuyết minh việc chứng được quả thông đạt thù thắng thứ tư. Quả thông đạt thù thắng có ba nghĩa: 1. Do đắc bốn y chỉ, nghĩa là Bồ-tát y pháp bất y nhân. Do thông đạt này mà tất cả tam thừa tam tạng của Như Lai nói Bồ-tát đều giải thích văn như lý. Cho nên do văn có thể khiến cho mình và người hiểu được pháp giới Chân như. 2. Như Lai an lập mười địa. Căn cứ theo pháp giới có mười lớp, từ thông đạt thứ nhất cho đến địa trên đều khéo thông đạt. 3. Căn cứ theo bốn loại phương tiện, khéo thông đạt pháp giới là có khả năng thông đạt khổ của sinh tử, mà có thể hằng nhập hai phương tiện đó, có thể thông đạt Niết-bàn mà không mau chóng cầu hai phương tiện đó, có khả năng thông đạt khổ khác với phàm phu, nhập khổ mà không chán sợ, khác với nhị thừa; có khả năng thông đạt Niết-bàn mà không mau chóng cầu Niết-bàn, khác với Nhị thừa.
Luận nói: Được sinh vào nhà của mười phương chư Phật.
Giải thích: Tức là thuyết minh việc chứng đắc quả vị quyết định thù thắng thứ năm. Do nhập tướng thù thắng này, người đó quyết định phải phá vỡ cái võ vô minh, không ở trong trứng mà thối rửa bỏ mạng. Lại nữa, tiếp theo là người do nhập tướng thù thắng này quyết định, phải nối tiếp chủng tánh của chư Phật khiến cho không đoạn tuyệt, vì tự mình phải thành Phật, cũng khiến cho người khác thành Phật. Lại nữa, phật tử có năm nghĩa: 1, Nguyện ưa thích Vô thượng thừa làm chủng tử. 2, Lấy Bát-nhã làm mẹ. 3, Lấy Định làm thai. 4, Lấy đại bi làm mẹ nuôi. 5, Lấy chư Phật làm cha. Do những nghĩa này cho nên nói được sinh vào nhà của chư Phật.
Luận nói: Chứng được tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sanh.
Giải thích: Tức là thuyết minh việc chướng được quả ân dưỡng thù thắng quả thứ sáu. Ân dưỡng có bốn thứ: 1, Quảng đại. 2, Tối cực. 3, Vô biên. 4. Vô đảo. Do bốn nghĩa này mà đối với chúng sinh đắc tâm ân dưỡng bình đẳng. Lại nữa, như Bồ-tát đối với tự thân khởi tâm Bát Niết-bàn. Lại nữa, do Bồ-tát đã đắc tâm bình đẳng đối với mình và người khác, cầu diệt khổ cho người khác cũng như cầu diệt khổ cho mình.
Luận nói: Đắc tâm bình đẳng của tất cả Bồ-tát.
Giải thích: Tức là thuyết minh việc chứng đắc quả ý dụng thù thắng thứ bảy. Bồ-tát nếu muốn có chỗ thực hành, thì trước hết phải suy lường, cho nên gọi là ý. Sau đó thì như những gì đã suy lường mà làm cho nên gọi là dụng. Lại nữa, cầu đắc ba sự là ý, là chưa gieo giống thì khiến cho gieo giống, chưa thành thục khiến cho thành thục, chưa giải thoát khiến cho giải thoát, thực hành bốn nhiếp pháp làm dụng. Do hai nhiếp đầu khiến cho phát tâm. Do lợi hành nhiếp khiến cho thành thục.
Do đồng lợi nhiếp khiến cho giải thoát.
Luận nói: Được tâm bình đẳng của tất cả các Đức Phật.
Giải thích: Tức là thuyết minh việc chứng đắc quả chí đắc thù thắng thứ tám. Trong kiến vị Bồ-tát đã đắc pháp thân của Như Lai. Do đắc pháp thân này, cho nên cùng với tâm của chư Phật được bình đẳng. Lại nữa, đối với tự thân, thấy pháp giới không có sai biệt, không thấy pháp giới của ba đời chư Phật khác với pháp giới của tự mình, là đắc tâm bình đẳng của chư Phật
Luận nói: Quán này gọi là Bồ-tát kiến đạo.
Giải thích: Bồ-tát kiến có ba thứ: 1. Trừ phương tiện kiến. 2. Ưng trừ kiến. 3. Trừ diệt kiến. Trừ phương tiện kiến là bốn thứ biết như thật. Ưng trừ kiến là tánh phân biệt và tánh y tha. Trừ diệt kiến là ba vô tánh. Ba thứ kiến này đều nương theo quán duy thức mà được thành. Cho nên quán này thuyết minh thứ tự tướng, tánh của kiến đạo.
---------------------------------
Luận nói: Lại nữa, tại sao Bồ-tát nhập quán duy thức?
Giải thích: Câu hỏi này để làm rõ hai nghĩa: 1. Làm rõ quán duy thức khó nhập. 2. Làm rõ nếu được nhập thì có công dụng lợi ích vô cùng.
Luận nói: Do duyên pháp thông suốt làm cảnh.
Giải thích: Trước hết là thuyết minh nhập hai quán phương tiện trước và sau. Đáp câu hỏi thứ nhất nhập quán duy thức đạo, Trí này có bốn đức: 1. Vô đảo. 2. Thanh tịnh. 3. Tịch tĩnh. 4. Vi tế. Đây tức là thuyết minh thứ nhất không điên đảo. Thông pháp có bốn phẩm, là hạ, trung, thượng và thượng thượng. Hạ phẩm là tất cả pháp hữu lưu đều khổ. Trung phẩm là tất cả hữu vi đều vô thường. Thượng phẩm là tất cả pháp đều vô ngã. Thượng thượng phẩm là ba vô tánh. Duyên ba vô tánh làm cảnh cho nên gọi là không điên đảo.
Luận nói: Xuất thế.
Giải thích: Tức là thứ hai thanh tịnh. Do trí xuất thế vô lưu đó cho nên được thanh tịnh.
Luận nói: Xa-ma-tha (chỉ).
Giải thích: Tức là thứ ba tịch tĩnh. Do trí này nương vào Xa-ma-tha mà khởi, lìa địa tán động là trí Xa-matha cho nên gọi là tịch tĩnh.
Luận nói: Trí Tỳ-bát-xá-na (quán).
Giải thích: Tức là thứ tư vi tế. Làm rõ Tu Tuệ của Bồ-tát, không phải Văn, Tư, Tu, Tuệ của Nhị thừa, Đây tức là mới nhập phương tiện quán duy thức.
Luận nói: Do Vô phân biệt trí sau đó đạt được.
Giải thích: Muốn chỉ rõ trí này từ trí không điên đảo sinh cho nên được không điên đảo, vì không điên đảo cho nên là biết như lý.
Luận nói: Nhiều loại tướng thức làm trí tướng.
Giải thích: Đây là làm rõ cái biết như lượng khởi tương tự tất cả cảnh. Lấy tất cả cảnh thức làm tướng, đối với tất cả chỗ biết đều vô ngại. Do trí mà này được nhập pháp quán sau cùng của duy thức. Đây tức là nhập pháp quán phương tiện sau. Do trước và sau khó nhập, quán duy thức khó đắc.
Luận nói: Nhằm trừ diệt trong cùng bản A-lê-da thức, tất cả nhân là chủng tử của các pháp.
Giải thích: Dưới đây là chánh thuyết minh hai trí dụng. Hai trí dụng có ba thứ: 1. Diệt chướng dụng. 2. Lập nhân dụng. 3. Đắc Phật pháp dụng. Đoạn văn này tức là thuyết minh thứ nhất tức công dụng diệt trừ chướng. “Hoặc” của hiện tại chưa diệt khiến cho diệt. Nói trừ Hoặc vị lại, chưa sinh thì khiến cho nó không sinh, cho nên gọi là diệt, duy thức đạo thông với pháp diệt bất tịnh của chủng tử nhân quả. Nhân có ba thứ: 1. Nhân duyên. 2. Tăng Thượng duyên. 3. Duyên duyên. Quả tức là chủng tử thuộc phẩm bất tịnh. Đã thông với nhân quả diệt chủng tử cho nên gọi là cộng. A-đà-na thức và sáu thức làm nhân duyên của phẩm bất tịnh, gọi là bản thức A-lê-da, là duyên tăng thượng của phẩm bất tịnh. Duyên duyên tức là sáu Trần, vì sáu Trần làm duyên duyên của chủng tử. chủng tử của tất ca pháp tức là chủng tử của tất cả pháp thuộc phẩm bất tịnh, chủng tử tức là quả. Quả này có ba nhân của duyên duyên. Alê-da thức đã là chủng tử tăng thượng duyên, tức là chủng tử trong A-lê-da thức.
Luận nói: Là chủng tử các pháp sinh trưởng có thể tiếp cận Pháp thân.
Giải thích: Tức là thuyết minh việc thiết lập cộng dụng của nhân thứ hai. Các pháp tức là lục độ, chỗ hành lục độ Ba-la-mật của Bồ-tát huân tập, có thể làm nhân của Vô thượng Bồ-đề, cho nên gọi là chủng tử. Chủng tử này hoặc sinh hoặc trưởng, có thể chứng đắc Như Lai pháp thân, cho nên gọi là Xúc, làm sinh trưởng hai nhân phước và tuệ. Vì nhập duy thức quán và duy thức có thể lập nhân, khiến cho đắc Vô thượng Bồ-đề.
Luận nói: Là chuyển y.
Giải thích: Dưới đây là thuyết minh việc chứng đắc cộng dụng của Phật pháp thứ ba. Vì được pháp thân thanh tịnh không cấu nhiễm của Như Lai, tức là lậu tận không sợ.
Luận nói: Đắc chánh pháp của tất cả Như Lai.
Giải thích: Tức là hai pháp không sợ, có thể thuyết đạo không chướng và có thể thuyết pháp để diệt tận khổ đau. Điều này là vì lợi ích người khác và vì an lập chánh pháp.
Luận nói: Chứng đắc trí của Nhất thiết trí.
Giải thích: Tức là tất cả trí không sợ. Ba câu này làm rõ ba đức. Thứ nhất thuyết minh Đoạn đức. Thứ hai thuyết minh Ân đức. Thứ ba thuyết minh trí Đức.
Luận nói: Cho nên nhập quán duy thức.
Giải thích: Vì thành tựu ba dụng trước cho nên nhập quán duy thức. Hoặc do vô phân biệt trí diệt chướng lập nhân đắc quả, cho nên nhập quán duy thức. Sau khi nhập quán thì dụng của vô phân biệt hậu trí như thế nào? Nếu nương vào vô phân biệt Trí, thì chính là nói nhân quả của các pháp không có công năng, vì trí này không có phân biệt. Do vô phân biệt hậu trí mà Bồ-tát trong các pháp tướng tự không có điên đảo, như chỗ chứng của mình, cũng có thể vì người khác mà thuyết nhân quả của các pháp. Để đắc hai công dụng này, Bồ-tát phải tu vô phân biệt hậu Trí.
Luận nói: Vô phân biệt trí, hậu sở đắc là ở trong tướng của bản thức, và tất cả thức được sinh và tướng thức.
Giải thích: Đoạn văn này chỉ rõ Bồ-tát do trí này mà bản thức không điên đảo trong nhân quả là tánh y tha, tức là chánh nhân đã sinh tất cả thức, tức là chỗ sinh quả của bản thức. Nói rằng bảy thức tức là tánh phân biệt tướng thức, tức là khí thế giới và sáu trần, cũng là quả của bản thức, cũng là tánh phân biệt. Đoạn văn này thuyết minh đầy đủ ba tướng. Đó là nội tướng, ngoại tướng và nội ngoại tướng. Cho nên nói “trong tướng của… Bồ-tát trong nhân quả này không bị điên đảo trở lại”.
Luận nói: Do quán các thí dụ tợ huyễn Hóa, mà tự tánh không có điên đảo.
Giải thích: Bồ-tát lấy vô phân biệt hậu trí quán tướng nhân quả này, tự nhiên không có điên đảo, không chấp có ngoại trần, nội căn, chỉ có thức là pháp thật có. Tại sao vậy? Bồ-tát đã phân biệt rõ những pháp này tợ các thí dụ huyễn hóa… không thể nương vào tướng của thấy nghe hiểu biết mà phán đoán các pháp này là thật có. Tại sao vậy? Vì tâm này được phát ra từ gốc của thanh tịnh.
Luận nói: Do nghĩa này, Bồ-tát như nhà ảo thuật, đối với tất cả việc huyễn hóa tự hiểu rõ không điên đảo.
Giải thích: Như nhà ảo thuật đối với việc huyễn hóa sinh bốn thức thấy nghe hiểu biết, không nương vào thức này để hiểu rõ việc huyễn hóa, mà như căn bản chỗ hiểu phân biệt rõ sự huyễn, trong việc huyễn hóa không có đảo, Bồ-tát cũng vậy, do nương vào bản trí mà phân biệt rõ trong tất cả tướng và nhân quả, không bị điên đảo trở lại. Đó là Bồ-tát tự lợi.
Luận nói: Trong tất cả tướng nhân duyên và quả, hoặc khi chánh thuyết thì thường không có điên đảo thiên lệch.
Giải thích: Nếu Bồ-tát nương vào bản trí làm lợi ích cho người khác, là chánh thuyết nghĩa ba tạng của ba thừa và năm minh, thường không có thiên lệch điên đảo chống trái nhau. Không thật không định gọi là thiên, phù hợp với lý chân thật không thể động là vô thiên. Xứ và thời lạm tràn gọi là đảo. Tùy xứ tùy thời tùy tướng là không điên đảo. Đó là Bồ-tát làm lợi ích cho người khác.
-------------------------------------
Luận nói: Lúc đó chánh nhập quán duy thức vị, có bốn thứ Tam-ma-đề, là bốn thứ thông đạt sự y chỉ của thiện căn. Tại sao Bồ-tát nên thấy”?
Giải thích: Câu hỏi này muốn làm rõ nhập quán có ba nghĩa:
1. Chân cảnh. 2. Xa-ma-tha. 3. Tỳ-bát-xá-na. Để thuyết minh xứ phải nhập cho nên nói “chánh nhập”. Trong quán duy thức Vị, thì duy thức xứ tức là chân như của tam vô tánh, chân như này không phải là trí cảnh tán động. Nói bốn thứ Tam-ma-đề làm y chỉ là cảnh cùng với trí không thể phân riêng. Nói bốn thứ thông đạt phần thiện căn là năng chứng. Tại sao phải thấy các pháp này? Luận nói: Do bốn thứ tầm tư, pháp quán nhẫn không có pháp trần của phẩm hạ.
Giải thích: Nghĩa vui quán không có pháp trần cho nên gọi là nhẫn. Nhẫn này chưa lìa ba tướng, là quán khéo thành tựu nhân duyên mê hoặc, nhiễm ô và thanh tịnh, chưa được tùy ý tu tập cho nên là thuộc phẩm hạ.
Luận nói: Quang đắc Tam-ma-đề.
Giải thích: Vô trần trí gọi là quang. định này lấy vô trần trí làm sở đắc, định này làm y chỉ của vô trần trí, cho nên gọi là quang đắc. Định tức là Xa-ma-tha, trí tức là Tỳ-bát-xá-na, nếu đủ năm phần năm trí thì định này gọi là Tam-ma-đề.
Luận nói: Là hạnh Noãn, thông đạt phần, y chỉ thiện căn.
Giải thích: Hai hạnh Phước Đức và trí tuệ làm thể của Noãn hạnh. Tức là ba mươi bảy phẩm. Hạnh này là tướng đạo lửa trước có khả năng đốt rụi củi mê hoặc, cho nên gọi là Noãn. Noãn hạnh này đã vượt qua bốn vị của địa trước. Quyết định phân biệt rõ chân như trí gọi là thông đạt. Đạo phương tiện này có thể trợ thành thông đạt trí cho nên gọi là phần. Có khả năng giúp trợ sinh cứu cánh vị cho nên gọi là thiện căn. Định này có thể làm thông đạt phần tăng thượng duyên cho nên gọi là y chỉ. Lại nữa, lập định trong ba mươi bảy phẩm làm sở y chỉ, còn lại ba mươi sáu phẩm làm năng y chỉ. Chính Bát-nhã trong ba mươi sáu phẩm là thông đạt, còn lại ba mươi lăm phẩm làm phần, ba mươi sáu phẩm gọi chung là thiện căn. Lại nữa, bốn thiện căn tức là bốn phần.
Luận nói: Đối với phẩm tối thượng, quán không pháp trần với nhẫn quang tăng Tam-ma-đề là đảnh hạnh thông đạt phần thiện căn y chỉ
Giải thích: Đã lìa ba tướng, là tối thượng phẩm. Vô trần quán nhẫn, giải thích như trước. Vô trần trí gọi là quang, trí này thắng tiến trong phương tiện cho nên gọi là tăng. Định này làm y chỉ của vô trần thắng tiến trí cho nên gọi là quang tăng, cũng lấy hai hạnh phước đức và trí Tuệ làm thể của đảnh hạnh. Đảnh có ba nghĩa: 1. Như đỉnh đầu của con người có khả năng trì giữ thân mạng, người tu đạo cũng như thế. Nếu đến vị này thì thiện căn không thể đoạn. 2. Như đảnh núi là giới hạn thoái lui, có người đến đỉnh núi rồi lui trở lại, người tu đạo cũng như thế. Hoặc có người đến vị này, trụ trong phương tiện không tiến tới nữa cho nên gọi là Thoái. 3/ Như đảnh núi là giới hạn tiến tới, hoặc có người đến đỉnh núi rồi lại thăng tiến thêm nữa, người tu đạo cũng như thế. Hoặc có người đến vị này rồi tiến vào thắng vị, cho nên đặt tên là Đảnh. Đã nói Bồ-tát đối với bốn thứ tầm tư mà tu hai loại phương tiện đạo noãn đảnh. Tu đạo trong bốn thứ như thật trí là thế nào.
Luận nói: Đối với bốn thứ trí hiểu biết như thật, Bồtát đã nhập quán duy thức hiểu rõ không có trần.
Giải thích: Nếu Bồ-tát vượt qua bốn thứ tầm tư vượt qua hai vị noãn đảnh, thì trong bốn thứ trí hiểu biết như thật, Bồ-tát duyên cảnh nào? Bồ-tát chỉ duyên duy thức làm cảnh. Duyên duy thức cảnh thì chỗ nào liễu biệt nghĩa vô trần? Trừ vô minh và nghi hoặc gọi là liễu biệt.
Ba câu này làm rõ vị và cảnh trí.
Luận nói: Chánh nhập một phần chân nghĩa.
Giải thích: Do trí này, Bồ-tát nhập một phần chân nghĩa, là vô tướng tánh, chưa nhập vô sinh tánh và tánh của vô tánh.
Luận nói: Thông hành Tam-ma-đề, là tùy y chỉ nhẫn chẳng phải an lập đế.
Giải thích: Thể vô trần trí gọi là thông. Định này lấy vô trần trí làm hạnh, tức là làm y chỉ của vô trần trí hạnh cho nên gọi là thông hạnh, là chỗ hiển thị của ba vô tánh, nhân pháp hai không gọi là chẳng phải an lập đế. Tại sao vậy? Vì Đế này chung với tất cả pháp, không có sai biệt cho nên gọi là chẳng phải an lập. Vô đảo vô biến dị cho nên gọi là đế nhẫn, có thể phù hợp từ nghĩa này cho nên gọi là tùy, cũng lấy hai hạnh phước đức trí Tuệ làm thể của nhẫn. Bồ-tát đã quyết liễu rõ ràng không có nghĩa ngoại trần. Trong nghĩa không có năng thủ và sở thủ, tâm sinh tin ưa cho nên gọi là nhẫn. Lại nữa, có thể an thọ nghĩa thượng phẩm đế cho nên gọi là nhẫn, trong thượng phẩm đế, tâm không thoái lui cho nên gọi là nhẫn.
Luận nói: Tam-ma-đề này, sát-na sau cùng, rõ phục diệc duy thức tưởng.
Giải thích: Tam-ma-đề này tức là thông hạnh Tamma-đề. Lấy thông hạnh thượng thượng phẩm một sát-na định tối hậu, do trước kia liễu biệt vô tướng tánh, sau này lại tư lương sở duyên, đã không có gì thì năng duyên chắc chắn không sinh được, do biết rõ này, cho nên có thể phục diệt duy thức tưởng, duy thức tưởng đã diệt, thì từ sát-na sau cùng lại tiến thêm sát-na thứ hai, thì liền nhập sơ địa.
Luận nói: Chuyển gọi là vô gián Tam-ma-đề.
Giải thích: Định này cùng với sơ địa bên nhau, không làm chỗ ngăn cách của các tâm khác cho nên gọi là vô gián. Lại nữa, hoặc của các địa dưới không thể chướng ngại nhập sơ địa, không giống như đạo của địa dưới, ngăn cách phương tiện thù thắng, không được nhập ngay sơ địa, cho nên gọi là vô gián.
Luận nói: Phải biết là y chỉ của pháp thế đệ nhất.
Giải thích: Bồ-tát lấy địa trước làm thế pháp, lấy đăng địa làm pháp xuất thế, định vô gián này cũng là thế pháp. Trong thế pháp không có pháp nào bằng nó nên gọi là đệ nhất. Tại sao vậy? Tại vì thế gian chúng sinh không có ai có thể tu hành bằng pháp này. Lại nữa, định này tuy là thế pháp nhưng có thể làm xuất thế đạo tăng thượng duyên của bồ-tát, các thế pháp thì không có nghĩa này cho nên gọi là Thế đệ nhất. Lại cũng chỉ có một sátna cho nên gọi là đệ nhất.
Luận nói: Bốn thứ Tam-ma-đề này là Bồ-tát nhập quán phương tiện trước phi an lập đế.
Giải thích: Hai định trước là tu vô gián, hai định sau là tu cung kính, muốn làm rõ bốn định này không phải chân đạo, cho nên nói là phương tiện trước.
----------------------------------
Luận nói: Nếu Bồ-tát nhập sơ địa như vậy là đã đắc kiến đạo, đắc thông đạt nhập duy thức.
Giải thích: Dưới đây làm rõ kiến đạo làm y chỉ của tu đạo. Do trước thành lập kiến đạo mà tu đạo được thành. Nếu Bồ-tát trong Nguyện Lạc địa, tu hành đủ các phương tiện thì được nhập sơ địa. Nguyên nhân được nhập sơ địa là do đắc kiến đạo, kiến đạo tức là vô phân biệt trí. Nguyên nhân đắc vô phân biệt trí là do thông đạt chân như và tục đế, cho nên biết không có pháp trần là thông đạt chân như, chỉ có thức là thông đạt tục đế. Lại biết thức này không có sinh tánh là thông đạt chân như, thức này là giả có làm thông đạt Tục. Nếu không thông đạt tục đế thì không có gì để có thể được thấy Chân, vì lìa tục thì không có chân. Nếu không thông đạt Chân thì không có gì để điều xua đuổi tục, vì tục không có thể riêng. Nguyên nhân có thể thông đạt chân tục, là do có khả năng hiểu duy thức lý. Văn này làm rõ bốn nghĩa: 1. Xuất thế quả. 2. Xuất thế hạnh. 3. Xuất thế cảnh. 4. Xuất thế phương tiện. Sơ địa là quả. Tổng hợp pháp hữu vi vô vi là thể. Phước đức và trí tuệ là hữu vi, chân như và phiền não bất sinh là vô vi. Sơ địa là giả danh, do là tổng cho nên kiến đạo là hạnh, chỗ thông đạt chân tục là cảnh, nhập duy thức là phương tiện. Do nhập duy thức làm phương tiện, có thể thông đạt cảnh chân tục. Do thông đạt cảnh chân tục cho nên đắc vô phân biệt trí hạnh. Do đắc thắng hạnh cho nên đắc quả sơ địa.
Luận nói: Tại sao Bồ-tát tu tập Quán hành để nhập tu đạo”?
Giải thích: Câu hỏi tại sao trên đây là hỏi về mười nghĩa: 1. tướng. 2. Thứ đệ. 3. Tu. 4. Sai biệt. 5. Nhiếp Tương trợ. 6. Nhiếp tương nghi. 7. Công đức. 8. Quán sát lẫn nhau. 9. Danh. 10. Tịnh và bất tịnh. Luôn luôn tu sở đắc làm sự tu tập, phước đức trí Tuệ làm hạnh, Bát-nhã làm quán, cho nên gọi là Quán hành. Lại nữa, kiến đạo gọi là quán, các sở đắc sau kiến đạo đều gọi là hạnh. Bồ-tát y chỉ kiến đạo, lấy những tướng gì để nhập sơ địa?
Luận nói: Như Phật rộng nói đã an lập pháp tướng đối với Bồ-tát mười địa.
Giải thích: Trong đây, trước thuyết minh ba tuệ, sau thuyết minh công năng của ba tuệ. Đoạn văn này là thuyết minh cảnh của ba tuệ Phật nói rộng là cảnh của Văn tuệ. Chỗ an lập pháp tướng, tức là tương đương với mười thứ pháp tướng, là cảnh của Tư tuệ. Đối với mười địa Bồ-tát thì tức là cảnh của tu tuệ. Tiểu thừa cũng có mười địa, lấy Bồ-tát làm tiêu chuẩn, mười địa đều có mười tướng cho nên nói là mười địa.
Luận nói: Do gồm thâu tất cả mười hai bộ kinh thuộc đại thừa mà Như Lai nói, cho nên được hiện tiền.
Giải thích: Dưới đây thuyết minh công năng của ba tuệ. Đây là thuyết minh công năng của Văn tuệ, Văn tuệ có thể thông đạt mười hai bộ kinh cho nên nói là nhiếp.
Luận nói: Do Trị hai cảnh thông và biệt đã nói.
Giải thích: Đây là thuyết minh công năng của Tư tuệ, hai cảnh thông biệt thì tương đương với mười pháp, Tư tuệ có thể nghiên cứu tu tập mười pháp này cho nên nói là trị.
Luận nói: Do sinh khởi duyên cảnh thông suốt.
Giải thích: Dưới đây thuyết minh công năng của tu tuệ. Phương tiện làm sinh, chánh quán làm khởi, vô gián đạo làm sinh, giải thoát đạo làm khởi. Nhập phần làm sinh, xuất phần làm khởi, kiến đạo làm sinh, tu đạo làm khởi, xuất thế đạo làm sinh, thế gian đạo làm khởi, chỗ duyên của như lý như lượng trí làm cảnh thông suốt.
Luận nói: Xuất thế vô phân biệt trí và vô phân biệt trí Hậu sở đắc.
Giải thích: Đây là chánh thuyết minh thể của tu tuệ.
Luận nói: Xa-ma-tha và Tỳ-bát-xá-na Trí.
Giải thích: Làm rõ sự tịch tĩnh vô đảo của hai trí này. Do Xa-ma-tha cho nên tịch tĩnh, do Tỳ-bát-xá-na cho nên không điên đảo.
Luận nói: Do trong vô lượng vô số trăm ngàn câuchi đại kiếp, nương vào niệm niệm tu tập.
Giải thích: Văn này làm rõ ba tuệ có đủ bốn thứ tu, không thể lấy loại thí dụ để biết là vô lượng, không thể đếm để biết là vô số. Trăm ức làm một Câu-chi, không phải một Câu-chi cho nên nói một ngàn, cũng không phải một ngàn cho nên nói trăm, không phải tiểu kiếp cho nên nói là đại, đây là thuyết minh trường thời tu, niệm niệm tu tập tức là làm rõ vô gián cung kính vô dư tu.
Luận nói: Do chỗ đắc chuyển y xưa và nay.
Giải thích: Trước kia, chỗ đắc chuyển y khi nhập kiến vị, thì pháp này là tu đạo nhiếp trì, tất cả chỗ tu đạo đều thành Thánh đạo, đã vượt qua Nguyện Lạc địa.
Luận nói: Vì đắc ba thứ Phật thân, lại tu thêm gia hạnh.
Giải thích: Là tu đạo nhiếp trì cứu cánh dụng, do đạo lý như vậy mà Bồ-tát tu thêm gia hạnh. Trước hết tu đạo để thấy chân như, hiện tại lập lại tu đạo để đắc ba thân cho nên nói “tu thêm. Lại nữa… Luận nói: Thế nào”?
Giải thích: Thế nào” là câu hỏi, căn cứ theo sáu nghĩa để hỏi:
1. Căn cứ theo cảnh giới của tu vị để hỏi, cảnh giới của tu đạo tự có ba thứ: a. gia hạnh y chỉ là văn giáo (văn tự). b. tu hạnh tư lương là Y lý phán nghĩa. c. tu hạnh sở thông đạt xứ là cảnh giới của tu tuệ, ba câu sau là thuyết minh cảnh giới của ba tuệ, dùng để đáp câu hỏi này.
2. Căn cứ theo công năng của ba tuệ để hỏi. Ba câu sau thuyết minh công năng của ba tuệ, dùng để đáp câu hỏi này. Thứ nhất thuyết minh Văn tuệ là phương tiện của tu tuệ, thứ hai thuyết minh Tư tuệ là tư lương của tu tuệ, thứ ba thuyết minh vô phân biệt trí là thể của tu tuệ. 3. Căn cứ theo nhân quả của tu vị tu tuệ để hỏi, sau đó thuyết minh vô phân biệt trí hậu sở đắc, dùng để đáp câu hỏi này. Do tu tuệ mà trí này được sinh, là quả của tu tuệ. Nếu không có trí này thì không được tiến đến Đạo sau, là nhân của tu tuệ.
4. Căn cứ theo bốn pháp tu của tu vị để hỏi, sau đó thuyết minh tu trường kì cho đến tu không gián đoạn, dùng để đáp câu hỏi này.
5. Căn cứ theo y chỉ của tu tuệ để hỏi, sau đó thuyết minh chuyển y dùng để đáp câu hỏi này. Nếu không có chuyển y này làm y chỉ, thì tu vị không thành Thánh đạo. Tại sao vậy? Vì phàm phu chưa chuyển.
6. Căn cứ theo thắng dụng của tu vị để hỏi, sau đó thuyết minh ba thân để đáp câu hỏi này. Vì viên mãn hai dụng tự lợi và lợi tha cho nên tu gia hạnh. Lại nữa… Luận nói: Thế nào?
Giải thích: Hỏi chung về thứ tự của tu vị, sau đó thuyết minh đầy đủ thứ tự, từ phần thứ nhất Khởi tu tâm cho đến tu vị cứu cánh dùng để đáp câu hỏi này. Trước hết lấy ba câu để thuyết minh văn tư tu vị tức là cảnh của ba tuệ, ba câu kế đó chỉ rõ công năng có thể nhập ba cảnh, tức là ba tuệ, kế đó chỉ rõ công năng lợi tha tức là hậu đắc trí, như những gì chính mình chứng đắc mà nói cho kẻ khác hiểu. Kế đó thuyết minh bốn pháp tu để chỉ rõ tu vị do bốn pháp tu mà được thành viên mãn. Kế đó thuyết minh chuyển y để chỉ rõ tự lợi chuyển y, là đắc căn bản bốn đức của pháp thân, cho nên là tự lợi; kế đó thuyết minh ba thân, ba thân đối với cứu cánh tu vị được thành, có thể bình đẳng lợi ích cho mình và người. Pháp thân là tự lợi, Ứng thân và hóa thân là lợi tha. Lại nữa… Luận nói: Như Phật rộng nói đã an lập pháp tướng đối với thập địa Bồ-tát.
Giải thích: Thập địa tức là văn cú của phẩm thập địa trong Kinh Hoa Nghiêm đã làm rõ. Trong văn cú này, Như Lai rộng nói Tùy sở an lập đạo lý. Lại nữa…
Luận nói: Do nhiếp tất cả mười hai Bộ Kinh Đại thừa mà Như Lai nói, cho nên được hiện tiền.
Giải thích: Hợp tất cả pháp mà Như Lai nói làm chung một cảnh. Lại nữa…
Luận nói: Do trị thông và biệt hai cảnh đã nói.
Giải thích: Cảnh hợp lại là đơn giản hay là phức tạp? Muốn chỉ rõ song quán chân tục thông với một tướng không. Lại nữa…
Luận nói: Do sinh khởi duyên cực thông cảnh, xuất thế vô phân biệt trí và hậu đắc trí Xa-ma-tha Tỳ-bát-xána Trí.
Giải thích: Làm rõ hai thể của đạo nhiếp nhau. Do Xa-ma-tha cho nên trí không tán mất. Do Tỳ-bát-xá-na quyết định không có nhiễm ô tham ưa hương vị. Lại nữa…
Luận nói: Hậu đắc trí Xa-ma-tha Tỳ-bát-xá-na Trí, do trong vô lượng vô số trăm ngàn Câu-chi Đại Kiếp, nương vào Niệm Niệm tu tập. Do chỗ đắc chuyển y trước kia, vì muốn đắc ba thứ thân của Phật mà tu thêm gia hạnh.
Giải thích: Trí này là thế trí hay là Xuất thế trí? Không thể nói là thế trí, vì không phải là trí mà thế gian tu tập; không thể nói là xuất thế trí, vì nó khởi trong tâm thế gian, cho nên tâm này khác với vô phân biệt trí tâm. Tâm này cũng có thể nói là thế trí, xuất thế trí và phi thế trí, phi xuất thế trí. Hai trí này trong thời gian lâu dài niệm niệm tu tập cho nên được chuyển y. Do chuyển y cho nên Bồ-tát khởi tâm nói: Ta nay nhất định phải đắc ba thứ thân Phật. Vì nghĩa này cho nên phải tu thêm gia hạnh.
Luận nói: Là Thanh-văn kiến đạo, là Bồ-tát kiến đạo, hai kiến đạo này khác nhau ra sao?
Giải thích: Thanh-văn kiến đạo là tha đạo, Bồ-tát kiến đạo là tự đạo, hai kiến đạo này là đạo sai biệt và quả sai biệt. Tướng đó như thế nào?
Luận nói: Kiến đạo của Thanh-văn và Bồ-tát, phải biết có mười một thứ sai biệt.
Giải thích: Năm sai biệt trước thuyết minh đạo sai biệt, sáu sai biệt sau thuyết minh quả sai biệt. Năm thuyết minh đạo sai biệt như sau.
Luận nói: Những gì là mười một: 1. Do cảnh giới sai biệt, là duyên đại thừa pháp làm cảnh.
Giải thích: Như Lai đã nói Đại thừa mười hai bộ kinh, nói về tu hành pháp, duyên pháp này làm cảnh mà phát đạo tâm, tiểu thừa thì không có sự này.
Luận nói: 2. Do y chỉ sai biệt, là nương vào tư lương của đại phước đức và trí tuệ làm y chỉ.
Giải thích: Đạo này cùng với nhị thừa đạo và thế gian đạo có khác nhau, thế gian chỉ tu phước đức mà không có trí tuệ, nhị thừa chỉ tu trí tuệ mà không có phước đức, Bồ-tát thì tu đầy đủ phước đức và trí tuệ, do đó mà trợ đạo được thành. Trợ đạo tức là y chỉ, y chỉ này trong đạo phương tiện tức là hai thứ Tư tuệ và tu tuệ.
Luận nói: 3. Do thông đạt sai biệt, là thông đạt nhân vô ngã và pháp vô ngã.
Giải thích: Trước hết trong phương tiện đã đắc Tư tuệ và tu tuệ. Từ đây được nhập chân quán, có thể thông đạt lý của nhân vô ngã và pháp vô ngã. Đối với nhân và pháp không sinh ái nhiễm. Phàm phu thì nhiễm nhân, nhị thừa thì nhiễm pháp, Bồ-tát thì cả hai đều không nhiễm, cho nên nói rằng lìa nhân dục và pháp dục. Đây là thuyết minh chỗ đắc chân tu tuệ của Bồ-tát, là thể chánh đạo khác tiểu thừa.
Luận nói: 4. Do Niết-bàn sai biệt, là nhiếp vô trụ xứ Niết-bàn, lấy làm trụ xứ.
Giải thích: Niết-bàn này không phải là đạo quả, là đạo trụ xứ. Tại sao? Vì do Bồ-tát hành Bát-nhã, quán sát sai lầm của sinh tử, tu đạo không ở tại sinh tử; do Bồ-tát hành Đại Bi, quán chúng sinh Khổ khởi tâm cứu tế, tuy không ở tại sinh tử nhưng không xả sinh tử, không trụ Niết-bàn. Do đạo Trụ xứ này, hai tướng không chấp chân tục sinh, gọi là đạo vô tướng. Đạo tiểu thừa thì không có sự này.
Luận nói: 5. Do địa sai biệt, là nương vào thập địa để xuất ly.
Giải thích: Đạo có hạ, trung và thượng. Thượng tức là thập địa, thập địa ra khỏi bốn thứ sinh tử, làm công năng chung. Nương vào thập địa Bồ-tát này có thể ra khỏi, khác với tiểu thừa. Sau đây là sáu thứ thuyết minh về quả sai biệt.
Luận nói: 6. 7. Do thanh tịnh sai biệt, là diệt tập khí của phiền não, và trị tịnh độ thành thanh tịnh.
Giải thích: Trước có năm sự đã thuyết minh đạo sai biệt, sau đây là sáu sự. Kế tiếp thuyết minh sở đắc quả của tu đạo cùng với nhị thừa có khác nhau. Sai biệt thứ sáu thuyết minh nội thanh tịnh, sai biệt thứ bảy thuyết minh ngoại thanh tịnh. Nội là do tu đạo trong tự tương tục, diệt trừ tập khí của phiền não, gọi là nội thanh tịnh. Ngoại là do tu hạnh tịnh độ, độ (cõi) của chỗ ở không có ngũ trược, thế giới như cây pha-lê, gọi là thanh tịnh. Nội thì làm tự tánh tịnh, ngoại thì làm thanh tịnh tha. Tiểu thừa thì không có sự này.
Luận nói: 8. Do đối với tất cả chúng sinh đắc bình đẳng tâm sai biệt, là vì thành thục chúng sinh, không xả công đức thiện căn của gia hạnh.
Giải thích: Bồ-tát như tự thân phải Bát Niết-bàn, muốn Bát Niết-bàn tất cả chúng sinh, do bình đẳng tâm này mà không xả công đức thiện căn của gia hạnh. Lại nữa, độ khác là công đức Bát-nhã làm thiện căn ngũ độ làm công đức, tinh tấn làm thiện căn. Lại nữa, Bát-nhã và tinh tấn làm thiện căn, các độ còn lại làm công đức. Tiểu thừa thì không có sự này.
Luận nói: 9. Do thọ sinh sai biệt. Là sinh vào nhà Như Lai là sinh.
Giải thích: Thấy chân như lý, chứng Phật pháp thân, có thể khiến cho chủng tánh Như Lai không dứt, xứng đáng sinh vào nhà Như Lai, cho đến đời sau được thành Phật, nói đó là sinh. Tiểu thừa thì không có sự này.
Luận nói: 10. Do hiển hiện sai biệt. Là trong Đại tập luân của đệ tử của Phật, thường có thể hiển thị hiện để nhiếp thọ chánh pháp.
Giải thích: Các Bồ-tát, gọi chung là Phật tử, có nhiều Bồ-tát tụ hội cho nên gọi là đại tập. Pháp mà Như Lai nói có ba nghĩa cho nên gọi là Luân: 1. Có thể thượng hoặc hạ. 2. Chưa đắc thì có thể đắc, đã đắc thì có thể giữ chắc. 3. Có thể từ đây đến kia. Bồ-tát thường ở trong đại tập hiển hiện dạy không phá Tăng, thường ở trong pháp luân để hiển hiện dạy hộ trì chánh pháp, đã đắc thì khiến cho không mất, gọi là nhiếp; chưa đắc khiến cho đắc, gọi là Thọ. Tiểu thừa thì không có sự này.
Luận nói: 11. Do quả sai biệt, là thập lực, không sợ, bất cộng… pháp của Như Lai và vô lượng công đức sinh làm quả.
Giải thích: Bồ-tát tu đạo đều là vì đắc các quả như vậy của Như Lai. Tiểu thừa thì không có sự này.
Luận nói: Trong đây nói hai bài kệ.
Giải thích: Trong đây tức là trong kiến đạo nói hai bài kệ để chỉ rõ từ kiến đạo phương tiện nhập chân như quán.
Luận nói:
Danh nghĩa lẫn nhau khách, Bồ-tát nên tầm tư, Phải quán hai Duy lượng, Và hai giả thuyết kia.
Từ đây sinh thật trí, Lìa Trần, ba phân biệt, Nếu thấy đó không có, Được nhập ba vô tánh.
Luận nói: Danh nghĩa làm khách lẫn nhau, Bồ-tát nên tầm tư.
Giải thích: Danh trong nghĩa là khách, nghĩa trong danh cũng là khách, vì không phải loại bản tánh. Bồ-tát nhập tịch tĩnh phải quán sát đạo lý này. Đây là phương tiện tầm tư thứ nhất.
Luận nói: Phải quán hai Duy Lượng và hai giả thuyết kia.
Giải thích: Bồ-tát phải quán hai pháp danh và nghĩa, chỉ có vô sở hữu làm lượng. Tại sao vậy? Vì nghĩa có hai thứ: 1. Tự tánh. 2. Sai biệt. Đều là vô sở hữu, chỉ là giả thuyết. Giả thuyết này nếu cùng với nghĩa đồng nhau thì giả thuyết của nghĩa vô sở hữu cũng là vô sở hữu; nếu cùng với nghĩa không đồng nhau thì tự nhiên vô sở hữu, giả thuyết tức là giả danh, vì danh vô sở hữu cho nên đối với nghĩa là khách, nghĩa vô sở hữu cho nên đối với danh là khách, vì vô sở hữu là bản tánh của danh và nghĩa, nên lấy vô tướng làm duy lượng của danh và nghĩa. Đây tức là phương tiện như thật trí thứ hai.
Luận nói: Từ đây sinh thật trí, lìa trần, tam phân biệt. Giải thích: Từ bốn thứ tầm tư sinh bốn thứ như thật trí. Ai có khả năng đắc tứ trí này? Nếu ai có khả năng thấy ba thứ chỉ là phân biệt, thật không có ngoại trần, thì người ấy đắc một phần như thật trí. Những gì là Tam phân biệt: 1. Phân biệt danh. 2. Phân biệt tự tánh. 3. Phân biệt sai biệt.
Luận nói: Nếu thấy đó không có.
Giải thích: Hai câu trước thuyết minh liễu đạt ba phân biệt là được nhập vô trần quán, nương vào tánh y tha để xua đuổi tánh phân biệt. Câu này thì thuyết minh nương vào chân như mà xua đuổi tánh y tha. Tại sao có thể xua đuổi? Do danh và nghĩa không có gì, năng phân biệt cũng không được là có. Tại sao vậy? Nếu Danh và Nghĩa của sở phân biệt là có, thì năng phân biệt duyên danh và nghĩa này, thì có thể nói là có, nhưng do danh nghĩa là không có gì cho nên nhân duyên của sở phân biệt là không thể của năng phân biệt cũng là không có gì. Nếu bồ-tát thấy danh nghĩa là không có gì, thì năng phân biệt cũng là không có gì, thì Bồ-tát này được nhập vào quán gì?
Luận nói: Được nhập ba vô tánh.
Giải thích: Bồ-tát thấy danh nghĩa làm khách lẫn nhau, thì nhập vào tánh phân biệt của danh nghĩa khác. Nếu Bồ-tát thấy tự tánh giả thuyết của danh sai biệt, giả thuyết chỉ có phân biệt làm thể thì được nhập phân biệt vô tướng tánh. Nếu Bồ-tát chỉ thấy loạn thức không có sáu thứ tướng, thì thể của loạn thức này không thành, cho nên không thể nói. Nhân duyên không thành cho nên không thể chấp có sinh khởi. Trong đây phân biệt đã không có thì ngôn thuyết cũng bất khả đắc, là nhập y tha vô sinh tánh. Nếu Bồ-tát thấy hai nghĩa này có, không thì nhập ba vô tánh phi an lập đế.
Luận nói: Lại nữa, hai bài kệ của chánh giáo như luận quán phân biệt nói.
Giải thích: Hiện tại trong luận này chỉ rõ nhập cảnh trí của kiến đạo không viên mãn cho nên dẫn phân biệt quán. Luận hai bài kệ để chỉ rõ thành nghĩa này. Người nào và vị nào có thể thấy tâm này? Chỉ là ảnh bóng, không có nghĩa thật pháp.
Luận nói:
Bồ-tát tại tĩnh vị, Quán tâm chỉ là ảnh, Xả ly tướng ngoại trần,
Chỉ định quán tự tưởng. Bồ-tát trụ bên trong, Nhập sở thủ không có, Kế quán năng thủ không, Sau xúc hai vô đắc.
Luận nói: Bồ-tát tại tĩnh vị, quán tâm chỉ là ảnh.
Giải thích: Chỉ có người Bồ-tát tại tịch tĩnh vị mới có thể khởi quán pháp này, Nghĩa thật ra là không có gì, tâm tương tự pháp nghĩa hiển hiện, cho nên nói chỉ là ảnh.
Luận nói: Xả ly tướng ngoại trần, chỉ định quán tự tưởng.
Giải thích: Nếu người ở trong tịch tĩnh vị đã hiểu rõ tâm chỉ là bóng ảnh thì có thể trừ tướng ngoại trần, là tự tâm tương tự pháp và nghĩa tướng khởi. Phải khởi quán như vậy.
Luận nói: Bồ-tát trụ bên trong.
Giải thích: Nếu tâm Bồ-tát như vậy được trụ thì thật ra không có trần, tâm duyên nội tâm mà khởi, vì không duyên ngoại trần cho nên trụ bên trong. Nếu trụ bên trong thì tâm định này quán chỗ nào?
Luận nói: Nhập sở thủ chẳng phải có.
Giải thích: Sở thủ nghĩa đó thật ra không có gì, Bồtát có thể thấy sở Thủ cảnh là không.
Luận nói: Kế quán năng thủ không.
Giải thích: Do sở thủ nghĩa thật là chẳng có. Điều mà thế gian nói tâm là năng thủ, đạo lý như vậy cũng không được thành, cho nên người Quán hành cũng không thấy có tâm năng thủ. Trước đã không thấy sở thủ, sau cũng không thấy năng thủ, lúc đó người Quán hành có sở đắc gì?
Luận nói: Sau xúc hai vô đắc.
Giải thích: Chân như không phải sở thủ, không phải năng thủ, lấy vô sở đắc làm thể. Nói chân như là hai thứ vô đắc, là người trước hết đã nhập vô tướng tánh, kế đó nhập vô sinh tánh, sau cùng là nhập chân như vô tánh tánh. xúc là lấy nhập đắc làm nghĩa, do nhập đắc chân như cho nên gọi là xúc. Hai bài kệ trước khác với hai bài kệ sau như thế nào? Hai kệ trước căn cứ theo danh nghĩa và giả thuyết để làm rõ bốn tầm tư như thật trí làm phương tiện để nhập chân quán. Hai kệ sau thuyết minh thể của ba tánh và ba vô tánh.
Luận nói: Lại có chỗ nói năm bài kệ trong kinh luận Đại Thừa Trang Nghiêm đã nói để làm rõ đạo này.
Giải thích: Nghĩa Kinh sâu kín khó hiểu, làm rõ như thật chánh Nghĩa trong Kinh cho nên gọi là Trang Nghiêm Kinh Luận. Bài Luận giải thích Kinh này do đó được tên Trang Nghiêm. Trong Trang Nghiêm Kinh
Luận có rất nhiều nghĩa, hiện tại chỉ lược lấy năm bài kệ. Kệ này muốn làm rõ chỗ nào? Kệ này làm rõ nghĩa khó giác hiểu trong tu đạo.
Luận nói:
Bồ-tát sinh trưởng phước và tuệ,
Hai thứ tư lương vô lượng tế,
Với pháp tư duy, tâm quyết định,
Năng Liễu Nghĩa Loại phân biệt nhân.
Luận nói: Bồ-tát sinh trưởng phước và tuệ.
Giải thích: Bồ-tát như trước đã giải thích, sinh ở kiến vị, trưởng thành ở tu vị. Lại sát-na đầu gọi là sinh, sátna sau gọi là trưởng. Lại nữa, đơn giản gọi là sinh, phức tạp gọi là trưởng. Điều Bồ-tát tu chỉ có phức không có đơn, sinh trưởng một thời gian mới thành. Chỗ sinh trưởng là pháp gì? Là phước và tuệ. Tam độ của thí gọi là phước, Bát-nhã gọi là tuệ. Tinh Tấn và định nếu là sinh phước thì thuộc phước, nếu là sinh tuệ thì thuộc tuệ. Nguyên nhân như vậy. Là tinh tấn nếu sinh bố thí, trì giới, nhẫn nhục thì thuộc phước, nếu sinh văn tư tu tuệ thì thuộc tuệ. Định nếu nương vào tứ vô lượng mà khởi, duyên chúng sinh làm cảnh thì thuộc phước. Nếu sinh tận trí, vô sinh trí và vô phân biệt trí thì thuộc tuệ. Người nào có thể sinh trưởng? Là người Bồ-tát.
Luận nói: Hai thứ tư lương vô lượng tế.
Giải thích: phước và tuệ này có hai thứ công dụng: 1. Năng trợ đạo. 2. Năng thành đạo thể. Do hai công dụng này cho nên đạo được thành tựu. Do đó nói hai thứ này là tư lương của đạo. Hai thứ này dùng mấy công lực? Phàm trải qua bao nhiêu thời gian để thành tựu đạo, công lực vô lượng thì thời tiết cũng không có biên tế, không có ngôn ngữ để chỉ rõ thời gian lâu xa, ví như nói đại hải vô lượng. Đại kiếp vô biên tế, vì lâu xa cho nên tư lương cũng vậy. Tu mỗi mỗi độ đều khắp tất cả chúng sinh, cho nên công lực vô lượng. Tu mỗi mỗi độ trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp, cho nên thời gian trải qua không có bờ mé, giới hạn.
Luận nói: Với pháp tư duy, tâm quyết định.
Giải thích: Do định, sau đó tâm quán sát các pháp, cho nên đối với pháp tâm được quyết định. Lại nữa, Bồtát có tu đầy đủ ngũ minh, đối với phương tiện độ lượng thì có đầy đủ tự khả năng, đối với tư duy thì tâm được quyết định.
Luận nói: Năng liễu nghĩa loại phân biệt nhân.
Giải thích: Bồ-tát có khả năng so sánh, có khả năng chứng cho nên gọi là năng liễu, chân đế và tục đế gọi là nghĩa loại, biết nghĩa loại này thì chỉ lấy phân biệt làm nhân, đó là năng liễu.
Luận nói:
Đã biết nghĩa loại chỉ phân biệt,
Được trụ tợ nghĩa trong duy thức,
Nên người Quán hành chứng pháp giới,
Giỏi lìa hai tướng và không hai.
Luận nói: Đã biết nghĩa loại chỉ phân biệt.
Giải thích: Do Bồ-tát đối với nghĩa loại và phân biệt, tâm đã quyết định.
Luận nói: Được trụ tợ nghĩa trong duy thức.
Giải thích: Do Bồ-tát tư duy như thế đó, là chỉ có thức tợ trần hiển hiện, Tâm Bồ-tát trụ trong duy thức, không duyên bên ngoài mà khởi.
Luận nói: Nên người Quán hành chứng pháp giới.
Giải thích: Do người Quán hành lìa ngoại trần, chỉ duyên thức trụ mà biết trần vô tướng, gọi là chứng pháp giới.
Luận nói: Giỏi lìa hai tướng và không hai.
Giải thích: Pháp giới mà mình chứng có tướng gì? Là lìa hai tướng năng thủ và sở thủ và hai phân biệt không có nhân và vô pháp. Bồ-tát đã chứng pháp giới như vậy.
Luận nói:
Nếu lìa nơi tâm biết vô dư,
Do đây liền thấy tâm chẳng có,
Người trí thấy hai không có này,
Được trụ chân pháp giới không hai.
Luận nói: Nếu lìa nơi tâm biết vô dư.
Giải thích: Do phương tiện này mà khiến cho pháp giới có thể chứng, bây giờ làm rõ phương tiện này, biết lìa duy thức thì bên ngoài không riêng có các pháp khác. Luận nói: Do đây liền thấy tâm chẳng có.
Giải thích: Do thấy sở duyên nghĩa chẳng có, cho nên biết năng duyên tâm cũng chẳng có.
Luận nói: Người trí thấy hai thứ không có này.
Giải thích: Người trí, là các Bồ-tát, thấy cảnh và tâm, cả hai đều chẳng có.
Luận nói: Được trụ pháp giới chân như không hai.
Giải thích: Bồ-tát nếu thấy cả hai đều chẳng có thì được trụ chân pháp giới. Chân pháp giới là vô trần và vô thức, cho nên nói là không hai. Lìa hai thứ hư vọng điên đảo và biến dị cho nên gọi là chân, là tánh đệ nhất của các pháp cho nên gọi là pháp giới.
Luận nói:
Do tuệ nhân vô phân biệt trí, Hằng hành bình đẳng khắp tất cả, Nhiễm nương trù mật quá tụ tánh, Khiến diệt như thuốc giỏi trừ độc.
Luận nói: Do nhân tuệ ở vô phân biệt trí, thường hành hạnh bình đẳng khắp tất cả.
Giải thích: Đây là Bồ-tát đã thấy chân như, gọi là người có trí tuệ, đã ở trong kiến đạo đắc vô phân biệt trí. Trí này là tướng gì? Một là lấy không thoái lui làm tướng. Vì không thoái lui cho nên gọi là hằng. Hai là lấy hành bình đẳng làm tướng, trí này thấy lý bình đẳng của tất cả pháp, cũng như hư không, đối với các pháp ba thừa của Như Lai đã nói mười hai bộ Tu-đa-la đồng thấy một vị không có sai biệt. Nội pháp và ngoại pháp gọi là “tất cả. Các pháp nội ngoại đồng một tánh cho nên gọi là “khắp. Hạnh bình đẳng chỉ rõ thể của trí tuệ, “khắp tất cả” chỉ rõ cảnh giới của trí tuệ. Do Bồ-tát có trí không phân biệt trí như vậy, là muốn làm gì?
Luận nói: Nhiễm nương trù mật quá Tụ tánh.
Giải thích: Ba thứ phẩm bất tịnh gọi là nhiễm. Nhiễm này lấy quá tụ tánh làm y chỉ vì từ quá tụ tánh mà sinh. Quá tụ tánh này gọi là trù mật, vì khó hiểu khó phá. Lìa chánh giáo của Như Lai ra, các giáo khác không thể giúp cho hiểu, cho nên nói là khó hiểu. Lìa trí vô phân biệt ra, các trí khác không thể phá cho nên nói khó phá. Chủng tử huân tập của tất cả pháp nhiễm ô, là thể của quá tụ tánh.
Luận nói: Khiến diệt như thuốc giỏi trừ độc.
Giải thích: tánh này là nhân của ba phẩm bất tịnh pháp, các Hoặc khó hiểu khó phá huân tập chủng tử làm tánh. Do trí vô phân biệt của người thông tuệ, có thể xua đuổi có thể trừ quá tụ tánh này, như thuốc A-dà-đà có thể trừ các độc. Xua đi căn cứ hiện tại, diệt là căn cứ theo vị lai, tức là tận vô sinh trí của Bồ-tát.
Luận nói:
Phật thuyết chánh pháp khéo thành lập, An tâm có căn trong pháp giới,
Đã biết ức niệm chỉ phân biệt, Bờ biển công đức người trí đến.
Luận nói: Phật thuyết chánh pháp khéo thành lập.
Giải thích: Tất cả ba đời chư Phật đều cùng thuyết pháp này, lý mà các ngài nói đều giống nhau, không trái nhau, cho nên gọi là chánh pháp. Lại nữa, muốn chỉ rõ người thuyết thù thắng cho nên nói Phật Thuyết. Do sự thuyết đạo lý thù thắng và sự đắc quả thù thắng cho nên gọi là chánh pháp. Như Lai thành lập chánh pháp có ba thứ: 1. Lập tiểu thừa. 2. Lập đại thừa. 3. Lập nhất thừa. Trong ba loại này, loại thứ ba là tối thắng, cho nên nói là khéo thành lập.
Luận nói: An tâm hữu căn trong pháp giới.
Giải thích: Bồ-tát trước đã đắc Văn tuệ và Tư tuệ, an tâm trong chánh pháp của Như Lai, sau đó hợp chung lại quán tất cả chánh thuyết của Như Lai làm cảnh giới, tức là trí vô phân biệt. Trí này gọi là hữu căn. Đắc trí này rồi thì các trí khác đều diệt mất. Chỉ có trí này là không thể bị động hoại, cho nên gọi là hữu căn. Lại nữa, trong ba căn vô lưu thì trí này là căn thứ nhất, là “vị tri dục tri căn”, cho nên gọi là hữu căn. Lại nữa, giải thoát có ba sự: 1. Năng sinh giải thoát. 2. Năng trì giải thoát, khiến cho trụ không mất. 3. Năng dụng giải thoát, là lợi mình lợi người. Ba sự giải thoát này phối hợp với ba căn vô lưu. Trí vô phân biệt này thông với ba xứ mà được tên. Tự thể là căn. Lại nữa, có thể vì người khác mà làm căn cho nên gọi là hữu căn. Hữu căn này, tâm an trụ trong pháp giới.
Luận nói: Đã biết ức niệm chỉ phân biệt.
Giải thích: Bồ-tát đã trụ trong tâm hữu căn, sau khi xuất quán, trong trí vô phân biệt sau, các sự nhập quán như trước đều có thể ức niệm, biết ức niệm này không phải thật có, chỉ là phân biệt. Do trí vô phân biệt và vô phân biệt hậu, Bồ-tát được tiến đến vị nào?
Luận nói: Bờ biển công đức người trí đến.
Giải thích: Trong nhân công đức của Như Lai, có mười địa, mười Ba-la-mật… trong quả có trí đức, đoạn đức, ân đức. Các đức như vậy chỉ duy nhất Phật mới đắc, người khác thì không thể đắc, cho nên gọi là biển, Nhân quả rốt ráo gọi là “bờ”. Người trí tức là Bồ-tát, Bồ-tát nương vào hai trí trước, có thể đạt đến công đức bờ biển chưa từng đến.
Năm bài kệ trong đây tổng thuyết minh nhiều nghĩa. Kệ thứ nhất chỉ rõ đạo “tư lương”, kệ thứ hai chỉ rõ đạo
“gia hạnh”. Kệ thứ ba chỉ rõ “kiến đạo”. Kệ thứ tư chỉ rõ “tu đạo”. Kệ thứ năm chỉ rõ đạo “cứu cánh.”
Giải thích: Nghĩa này có mười một chương: 1. Nhân quả vị. 2. Thành lập lục số. 3. Tướng. 4. Thứ đệ. 5. Lập danh. 6. Tu tập. 7. Sai biệt. 8. Nhiếp. 9. Đối trị. 10. Công đức. 11. Hỗ hiển.
Luận nói: Như vậy đã nói phải nên nhập tướng thù thắng. Tại sao nên nhập tướng thù thắng nhân quả?
Giải thích: Tổng nêu bốn vị nhập Duy thức quán đã nói rõ ở trước, cho nên nói “như vậy. Trước đã nói trong bốn vị của đạo phương tiện, kiến đạo, tu đạo và cứu cánh đạo, nhập tướng thù thắng. Tại sao nói rộng nhân của nhập tướng thù thắng nầy và hội nhập, đắc quả về sau có được? Khiến cho mở rõ dễ thấy.
Luận nói: Do sáu pháp Ba-la-mật, là Đà-na, Thi-la, Sằn-đề, Tỳ-lê-da, Trì-ha-na và Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Giải thích: Đây là đáp câu vừa hỏi, thuyết minh tướng thù thắng của nhân quả, dễ dàng có thể được thấy lục độ làm thể của nhân quả. Trước lấy lục độ làm nhân, sau đó lấy lục độ làm quả.
Luận nói: Tại sao do lục độ Ba-la-mật mà được nhập Duy thức?
Và tại sao sáu pháp Ba-la-mật trở thành nhập quả Duy thức?
Giải thích: Trước tuy nói lục độ làm thể của nhân quả, nhưng chưa giải thích ý nghĩa, nên lại hỏi vì nghĩa gì mà nói lục độ làm nhân? Và vì nghĩa gì mà nói lục độ làm quả? Lục độ nầy có thể trừ sáu loại chướng việc nhập Duy thức. Lục độ làm nhân của nhập duy thức.
Chướng thứ nhất là vui đắm dục trần. Trong sự giàu có tài vật tự thân hưởng vui, không thấy công đức thù thắng. Do chướng nầy cho nên không được nhập duy thức. Bố thí có thể trừ chướng nầy. Bố thí là nhân nhập duy thức.
Chướng thứ hai là tâm phóng túng khởi lên nghiệp thân, khẩu và ý. Do chướng nầy cho nên không được nhập duy thức. Giới có khả năng trừ chướng nầy. Trì giới là nhân của việc nhập duy thức.
Chướng thứ ba là không thể kiêu ngạo yên lòng nhận các khổ khinh mạn, huỷ nhục, nóng lạnh. Do chướng nầy cho nên không được nhập duy thức. Nhẫn có thể trừ chướng nầy. Nhẫn nhục là nhân của việc nhập duy thức. Chướng thứ tư là chấp không tu hành là vui, chưa đắc cho là đắc, đối với đắc không thấy công đức. Do chướng nầy cho nên không được nhập duy thức. Tinh tấn có thể trừ chướng nầy. Tinh tấn là nhân của việc nhập duy thức.
Chướng thứ năm là tướng an vui trụ xen tạp, đối với các sự hy hữu của thế gian và nhân duyên tán loạn, thấy có công đức. Do chướng nầy cho nên không được nhập duy thức. Định có thể trừ chướng nầy. Thiền định là nhân để nhập duy thức.
Chướng thứ sáu là đối với thấy, nghe, hiểu, biết cho là như thật. Đối với việc hý luận của thế gian thì lại siêng tâm học theo. Đối với kinh bất liễu nghĩa thì như văn mà phán nghĩa. Do chướng nầy cho nên không được nhập duy thức. Trí tuệ có thể trừ chướng nầy. Trí tuệ là nhân để nhập duy thức.
Luận nói: Trong chánh pháp nầy có các Bồ-tát.
Giải thích: Chỉ nương vào trong chánh pháp để tu hành thì có thể thành lập nhập nhân duy thức. Nếu nương theo giáo nghĩa Nhị thừa và giáo lí ngoại đạo thuộc thế gian ngoài chánh pháp thì không có nghĩa được lập nhân nầy. Cho nên trước hết thuyết minh trong chánh pháp là chỗ để lập nhân. Người hay lập nhân không phải hàng nhị thừa có thể làm được, cho nên nói Bồ-tát. Bồ-tát hành pháp gì có thể nhập duy thức?
Luận nói: Không nhiễm tâm giàu vui, cho đến nói rằng như lý chọn lựa các pháp thì được nhập Duy thức quán.
Giải thích: Đây là thuyết minh lìa chướng bố thí, cho đến lìa chướng ngại trí tuệ. Đều giải thích như trước, cho nên lấy lục độ làm nhân để nhập.
Luận nói: Do y chỉ sáu pháp Ba-la-mật, Bồ-tát đã nhập địa Duy thức, kế đó được ý thanh tịnh tin tưởng và vui thích tức chỗ nhiếp sáu pháp Ba-la-mật.
Giải thích: Nếu Bồ-tát do nương vào lục độ nầy trừ sáu chướng, thì đã nhập duy thức. Lúc đó Bồ-tát đắc thêm ý thanh tịnh tin tưởng và vui thích tức chỗ nhiếp sáu Ba-la-mật. Trong chánh giáo sáu pháp lục độ, tâm quyết định không nghi, cho nên gọi là tín. Như chỗ tin pháp cầu muốn tu hành, cho nên gọi là ưa thích. Ý tin tưởng và vui thích nầy có năm nhân duyên, do đó gọi là thanh tịnh: 1. Vô Trước thanh tịnh, là pháp khởi không cùng với Ba-la-mật trái nhau. 2. Bất quán thanh tịnh, là trong quả báo và báo ân của tự thân và Ba-la-mật, tâm thường không quán. 3. Vô thất thanh tịnh, là pháp lìa tướng tạp nhiễm ô và lìa hạnh chẳng phải phương tiện với Ba-la-mật. 4. Vô phân biệt thanh tịnh, là lìa chấp tướng Ba-la-mật như ngôn thuyết. 5. Hồi hướng thanh tịnh, là sinh trưởng và chưa sinh trưởng trong lục độ, thường cầu đắc đại Bồ-đề. Mỗi mỗi Ba-la-mật đều có đủ năm thứ thu nhiếp thanh tịnh tin tưởng và yêu thích, là đã vượt qua địa nguyện lạc, nhập kiến địa, đắc tin ưa của thánh nhân, khác với tin ưa của địa trước cho nên gọi là thanh tịnh. Lại có ý thanh tịnh tin tưởng và yêu thích là do Xa-ma-tha và Tỳ-bát-xá-na nhập quán chân như, đắc chỗ nhiếp của ý thanh tịnh tin tưởng và yêu thích của trí vô phân biệt và vô phân biệt hậu trí cho nên gọi là thanh tịnh.
Luận nói: Bên trong chánh pháp nầy có các Bồ-tát không dính mắc tâm giàu vui. Tâm đối với giới không phạm lỗi, tâm đối với khổ không sờn, tâm đối với thiện tu không lười biếng. Trong nhân tán loạn nầy không nhiễm trụ, thường hành nhất tâm, như lý chọn lựa các pháp nên được nhập quán Duy thức. Do y chỉ sáu Ba-lamật, Bồ-tát đã nhập địa duy thức. Kế đó đắc chỗ thu nhiếp sáu Ba-la-mật của ý thanh tịnh tin tưởng và yêu thích, do đó khoảng giữa nầy giả thiết lìa công dụng gia hạnh của sáu Ba-la-mật.
Giải thích: Đã nhập quán Duy thức cho nên nói do đó từ kiến vị cho đến cứu cánh vị làm trung gian giả thiết. Người nầy trong trung gian đó không khởi công dụng tu hành lục độ, mà lục độ tự nhiên đầy đủ. Tại sao vậy?
Luận nói: Do tin tưởng và yêu thích chánh giáo, ái trọng, tùy hỷ, nguyện đắc, tư duy.
Giải thích: Chánh giáo của Như Lai tương ưng với lục độ. Tuy rất sâu khó hiểu, nhưng người nầy cũng tin ưa không nghi. Do tin yêu thích nầy mà không có nghĩa không thực hành. Trong việc thực hành lục độ thấy công đức vô cùng, tâm sinh yêu thích và kính trọng. Do yêu thích và kính trọng nầy mà không có nghĩa không thực hành. Như vậy ai có thể đắc được ý tin yêu? Chỉ có các Đức Phật đã đạt đến cứu cánh Ba-la-mật vị mới có thể đắc ý nầy, biết là chỗ đắc thành của bậc Thánh, chỗ vui mừng tán thán trong thâm tâm của bậc Thánh, cho nên gọi là tùy hỷ.
Do tùy hỷ nầy mà không có nghĩa không thực hành, nguyện chúng sinh cùng với Ta bình đẳng, đắc được ý tin ưa thanh tịnh nầy, cho nên gọi là đắc nguyện. Do đắc nguyện nầy mà không có nghĩa không thực hành. Như Phật đã lập pháp môn đại thừa, nương vào thí… lục độ và mười hai bộ A-hàm, do văn tư tu tuệ niệm niệm tư duy. Do Văn tuệ tư duy mà quả được viên mãn. Do Tư tuệ tư duy đối với pháp được nghe mà tâm được nhập lý.
Do tư duy Tư tuệ mà tự sự được thành, vì có thể nhập địa và trị địa. Do bốn thứ tư duy nầy mà không có nghĩa không hành.
Luận nói: Hằng không dừng nghỉ việc thực hành tu tập sáu Ba-la-mật cứu cánh viên mãn.
Giải thích: Do bốn thứ tư duy nầy mà Bồ-tát hằng không phóng dật. Vì không phóng dật cho nên tu tập lục độ, từ nhân cứu cánh đến quả viên mãn. Vị nầy có thể nhiếp lục độ, khiến cho đều đầy đủ năm thứ thanh tịnh, cho nên gọi là vị ý thanh tịnh. Tướng nó như thế nào? Để làm rõ tướng nầy cho nên tiếp theo văn trường hàng nói thêm ba bài kệ.
Luận nói: Trong đây nói Kệ:
Tu tập mãn pháp trắng,
Giỏi được lợi tật nhẫn,
Bồ-tát nơi tự thừa,
Nói rộng lớn sâu xa.
Luận nói: Tu tập mãn pháp trắng.
Giải thích: Trước hết trong vị nguyện hạnh, khéo sinh trưởng đạo tư lương, vì làm rõ nghĩa nầy cho nên nói câu thứ nhất. Hạnh mà mình tu đã vượt qua bốn mươi tâm vị cho nên gọi là viên. Thí và giới tu tam phẩm thanh tịnh pháp gọi là Bạch, lại có pháp thiện là tín căn, trí căn, tinh tấn căn và định căn. Bốn căn nầy tức là bốn vị. Niệm căn chung với bốn vị, có thể trừ bốn thứ chướng ác của ngoại đạo Nhất-xiển-đề, Thanh-văn và Độc giác, có thể đắc bốn đức: Tịnh, Ngã, Lạc, Thường cho nên gọi là pháp trắng. Nếu tư lương viên mãn thì còn đắc thêm được gì?
Luận nói: Giỏi được đắc lợi tật nhẫn.
Giải thích: Năng hành lạc thọ là nghĩa của nhẫn. Đối với pháp thậm thâm quảng đại thì khó thọ khó hành mà có thể thọ hành cho nên gọi là lợi. Niệm khởi không ngừng cho nên gọi là tật, câu nầy làm rõ nhẫn là phẩm thượng thượng. Nếu Bồ-tát tại nhẫn vị nầy, do cảnh giới nầy ắt thì được thanh tịnh để làm rõ cảnh giới nầy.
Luận nói: Bồ-tát nơi tự thừa, nói rộng lớn sâu xa.
Giải thích: Đại thừa chỉ là cảnh giới của Bồ-tát, cho nên gọi là tự. Nương Đại thừa có thể khiến cho Bồ-tát thanh tịnh. Trong thừa nầy có cảnh giới riêng. Một pháp vô ngã gọi là thậm thậm. Các định hư không gọi là rộng lớn. Trước là trí cảnh, sau là định cảnh. Hai cảnh nầy có thể khiến cho Bồ-tát thanh tịnh. Do tư duy nầy mà Bồtát đắc thanh tịnh. Để làm rõ nghĩa nầy cho nên nói bài kệ thứ hai.
Luận nói:
Giác chỉ có phân biệt,
Là đắc Vô trước trí,
Là tin ưa thanh tịnh,
Gọi ý địa thanh tịnh.
Luận nói: Giác chỉ có phân biệt.
Giải thích: Bồ-tát hiểu rõ tất cả pháp của Đại thừa, cho đến rộng lớn sâu xa đều là chỗ khởi của phân biệt. Hiểu rõ như vậy gọi là tư duy. Tư duy nầy có thể khiến cho Bồ-tát thanh tịnh. Bồ-tát thanh tịnh là đắc những điều gì?
Luận nói: Là đắc vô trước trí.
Giải thích: Bồ-tát thấy tất cả pháp chỉ là phân biệt, không có ngoại cảnh. Ngoại cảnh không thành cho nên phân biệt cũng không thành. Nếu Bồ-tát thấy nội ngoại đều không có thì không chấp trước, tức là Vô phân biệt trí, trí nầy tức là thanh tịnh. Thể Tánh thanh tịnh nầy thế nào? Để làm rõ nghĩa nầy cho nên nói câu kệ thứ ba.
Luận nói: Là tin ưa thanh tịnh.
Giải thích: Tin ưa tức là thể của Vô phân biệt trí, không ưa bảy cõi cho nên gọi là tin ưa. Đối với ba thứ Phật tánh, tâm quyết định không nghi cho nên gọi là tin tưởng. Lìa bảy ái cho nên gọi là tin ưa thanh tịnh. Lìa hư vọng cho nên gọi là tin tưởng thanh tịnh.
Luận nói: Gọi ý địa thanh tịnh.
Giải thích: Do ưa tin thanh tịnh mà vị nầy được tên thanh tịnh. Lại nữa, vị nầy là kiến vị của Bồ-tát, là cảnh thanh tịnh của Vô phân biệt trí, trí nầy lấy sự ưa tin làm Thể, nói vị nầy tên là ý địa thanh tịnh. Tướng của sự ưa tin thanh tịnh như thế nào?
Luận nói:
Bồ-tát tại pháp lưu,
Trước sau thấy chư Phật,
Đã biết cận Bồ-đề,
Không khó mà dễ đắc.
Luận nói: Bồ-tát tại pháp lưu, trước sau thấy chư Phật.
Giải thích: Sự ưa tin thanh tịnh có hai thứ tướng: 1. Hằng tại tịch tĩnh làm tướng. 2. Hằng thấy hiểu rõ chư Phật làm tướng. Do ưa xả bảy ái, hằng nhập quán tu đạo, cho nên nói hằng tại pháp lưu. Nếu Bồ-tát tại pháp lưu là để thấy gì? Do tin ba thứ Phật tánh, trước tư duy pháp thân, sau đó chứng pháp thân, trước dùng trí so sánh thấy pháp thân, sau đó chứng thấy biết pháp thân. Sự tin ưa nầy có công đức gì?
Luận nói: Đã biết cận Bồ-đề, không khó mà dễ đắc.
Giải thích: Nếu người trong vị tín thanh tịnh, thấy rõ ràng Vô thượng Bồ-đề đã gần, chính thân mình đã vượt qua bốn mươi tâm, cho nên không khó nhập chánh phương tiện, mà còn dễ đắc. Do ba bài kệ nầy thành tựu tư lương cảnh giới nhẫn, tư duy thể tánh tướng mạo đều được hiển hiện.
------------------------------------
Luận nói: Vì sao Ba-la-mật chỉ có sáu số?
Giải thích: Đây là hỏi Ba-la-mật tại sao quyết định lập chỉ có sáu pháp không tăng không giảm.
Luận nói: “Vì an lập năng đối trị sáu thứ hoặc chướng, vì nương chỗ sinh khởi của tất phật pháp, vì y chỉ của tất chúng sinh tùy thuận thành thục”
Giải thích: Lập số của Ba-la-mật có sáu số, đều là có ba nghĩa này: 1. Vì trừ hoặc. 2. Vì sinh khởi Phật pháp. 3. Vì thành thục chúng sinh. Trừ hoặc, là hiện tại tự được lợi ích. Sinh khởi phật pháp và thành tựu chúng sinh là vị lai mình và người được lợi ích. Nếu hoặc đã được diệt trừ vĩnh viễn thì hiện tại được trú an lạc, tại sao vậy?
Không cần khởi thêm công dụng để diệt hoặc nầy và ngăn cản hoặc nầy khiến cho không sinh trở lại, trong hiện tại được tự lợi ích. Hoặc chướng đã diệt mất thì trong đời vị lai chắc chắn được đầy đủ Phật pháp, cũng có thể thành thục chúng sinh được tự lợi và lợi tha.
Luận nói: Làm nhân đối trị tâm không phát khởi thực hành, lập hai Ba-la-mật thí và giới. Không phát khởi nhân thực hành, là tham nhiễm tài vật và vì nhà cửa.
Giải thích: Tham nhiễm tài vật chướng bố thí, tham nhiễm nhà cửa thì chướng giới, nương theo các tham nhiễm nầy mà không thể phát tâm tu hành.
Luận nói: Nếu đã phát tâm tu hành, thì làm nhân đối trị tâm thoái chuyển, mà lập hai Ba-la-mật nhẫn và tinh tấn.
Giải thích: Tuy đã giỏi làm bố thí và trì giới, nhưng nếu không nhẫn chịu các sự khổ thì tâm bố thí và trì giới bị thoái chuyển. Tuy có thể nhẫn khổ, nếu không siêng tu các Thiện dứt tất cả ác thì tâm bố thí, trì giới và nhẫn nhục đều thoái chuyển, cho nên để đối trị thoái chuyển, cần phải lập hai độ nầy.
Luận nói: Nhân của tâm thoái chuyển, là chúng sinh sinh tử, trái, nghịch, các khổ sự.
Giải thích: Người không đắc lý là chúng sinh sinh tử. Đi ngược đạo Bồ-tát là trái. Xâm phạm huỷ hoại thân Bồ-tát là nghịch. Những thứ nầy đều là sự khổ. Nếu không thể nhẫn chịu các sự khổ nầy thì sinh tâm sân, sân tức là nhân của tâm thoái chuyển.
Luận nói: Trợ thiện pháp lâu dài gia hạnh lười mỏi.
Giải thích: Hành tinh tấn trong thời gian lâu xa, tu tất cả thiện. Nếu đối với chúng sinh không có tâm từ bi, thương tiếc tự thân, thì không thấy có công đức thù thắng trong việc tu của mình. Trong việc tu của mình sinh tâm mỏi mệt lười biếng. Do có tâm nầy mà không thể tinh tấn, tức là lười biếng. Lười biếng tức là nhân của tâm thoái chuyển.
Luận nói: Nếu đã phát khởi tâm tu hành và tâm không thoái chuyển, để đối trị tâm hoại mất mà lập hai thứ Ba-la-mật định và Tuệ. Nhân của tâm hoại mất là trí tán loạn.
Giải thích: Do tán loạn cho nên hư tĩnh tâm, do tà trí cho nên mất chánh giải.
Luận nói: Cho nên để đối trị sáu thứ hoặc Chướng, mà lập Ba-la-mật có sáu pháp, làm nơi nương tựa sinh khởi của tất cả Phật pháp.
Giải thích: Lục độ là nhân sinh trưởng Phật pháp.
Luận nói: Bốn Ba-la-mật trước là nhân của tâm không tán loạn.
Giải thích: Có bốn chướng làm nhân của tán loạn: 1. Khí xả chướng. 2. Viễn ly chướng. 3. An thọ chướng. 4. Số trị chướng. Do tham trước cho nên không thể vứt bỏ. Do tham sân si sinh khởi mười ác cho nên không thể xa lìa. Do giận dữ cho nên không thể an nhàn hưởng thọ. Do các phiền não của tham sân si cho nên không thể đối trị niệm. Do bốn chướng nầy cho nên tâm tán loạn. Bốn độ trước có thể đối trị bốn chướng nầy, vì bốn độ là nhân của tâm không tán loạn. Lại nữa, lấy năm cái làm định chướng. Bốn cái nhân chướng ngại của định. Một cái chướng ngại chánh định và chỗ phát tuệ của định. Bốn cái là tham trạo, hối, sân, thuỳ miên, là nhân của tán loạn, vì chướng bốn độ trước. Bốn độ đối trị bốn cái nầy, vì bốn độ là nhân của sự không tán loạn. Nghi duyên cảnh thì không quyết định cho nên tâm tán loạn. Định tâm là quyết giữ một cảnh vì nghi chướng chánh định, do nghi mà không thấy lý là chướng chỗ phát tuệ của định, vì định tuệ là đối trị nghi.
Luận nói: Một Ba-la-mật kế đó là thể của tâm không tán loạn. Do y chỉ tâm không tán loạn nầy, mà có thể như thật hiểu rõ chân lý của các pháp. Tất cả chánh pháp của Như Lai đều được sinh khởi, cho nên làm nơi nương tựa sinh khởi của tất cả Phật pháp. Lập Ba-la-mật có sáu độ là tùy thuận thành thục y chỉ cho tất cả chúng sinh; do Thí Ba-la-mật lợi ích chúng sinh, do giới Ba-la-mật không tổn não chúng sinh, do nhẫn Ba-la-mật có thể nhẫn nại thọ lãnh sự huỷ nhục kia mà không khởi tâm báo oán, do tinh tấn Ba-la-mật mà sinh khởi thiện căn kia, diệt ác căn kia, do nhân của lợi ích mà tất cả chúng sinh đều được điều phục, kế đó tâm kia chưa được tịch tĩnh thì khiến cho tịch tĩnh, đã được tịch tĩnh thì khiến cho giải thoát, cho nên lập hai Ba-la-mật định và tuệ. Do lục độ nầy mà Bồ-tát giáo Hóa chúng sinh.
Giải thích: Thiện giáo có hai nghĩa: 1. Như lý mà lập ra thuyết cho nên gọi là giáo. 2. Hằng vì Thuyết cho nên nói là thiện giáo.
Luận nói: Cho nên được thành thục, do đó làm y chỉ cho tất chúng sinh tùy thuận thành thục. Lập Ba-la-mật có sáu pháp là do nghĩa như vậy, cho nên phải biết thành lập Ba-la-mật có sáu.
--------------------------------
Luận nói: Tướng của Ba-la-mật nầy, làm sao có thể thấy?
Giải thích: Tại sao hỏi như vậy? Vì Nhị thừa và Bồtát trong thế gian đều có thí… sáu hạnh, nếu không hiểu rõ chỗ hành sáu tướng Ba-la-mật của Bồ-tát thì làm sao biết đây là Ba-la-mật hay đây là chẳng phải Ba-la-mật? Cho nên phải hỏi về tướng của Ba-la-mật.
Luận nói: Do sáu thứ tối thắng, chung tướng của sáu Ba-la-mật có sáu: 1. Do y chỉ vô đẳng, là y chỉ tâm Vô thượng Bồ-đề mà khởi.
Giải thích: Đây là thuyết minh sở y chỉ có khác nhau. Thế gian và Nhị thừa hành bố thí, không y chỉ Vô thượng Bồ-đề tâm mà khởi, chỉ có Bồ-tát hành bố thí thì y chỉ Vô thượng Bồ-đề tâm mà khởi. Lấy y chỉ vô đẳng làm tướng thực hiện lục độ của Bồ-tát.
Luận nói: 2. Do phẩm loại vô đẳng, là từng loại Ba-la-mật lược nói đều có ba phẩm, Bồ-tát đều có tu hành đủ.
Giải thích: Đây là thuyết minh chỗ duyên sự việc có khác nhau, không đồng với thế gian và Nhị thừa, không có đầy đủ phẩm loại của giỏi hành bố thí, là ngoại nội và nội ngoại. Nếu Bồ-tát hành bố thí thì đều có đủ phẩm loại, lấy ba phẩm loại vô đẳng làm tướng thực hành lục độ của Bồ-tát.
Luận nói: 3. Do hành sự vô đẳng, là an lạc lợi ích tất cả sự của chúng sinh, các độ mà Bồ-tát làm đều thành hai sự này.
Giải thích: Đây là thuyết minh sự thực hành có khác nhau. Bồ-tát hành lục độ có khả năng gì? Trước là sinh khởi an lạc cho chúng sinh thế gian hiện tại và vị lai, sau đó tùy theo căn tánh mà sinh khởi Đạo quả ba thừa của chúng sinh. Thế gian và Nhị thừa hành bố thí thì chỉ làm vì an lạc lợi ích cho tự thân mình còn chưa thành tựu, huống gì có thể an lạc lợi ích cho chúng sinh, cho nên lấy thực hành bố thí làm tướng thực hành lục độ của Bồtát.
Luận nói: 4. Do phương tiện vô đẳng, là vô phân biệt trí, thực hành các độ của Bồ-tát đều là chỗ nhiếp của vô phân biệt trí.
Đây là thuyết minh phương tiện có khác nhau. Đối với tam luân thanh tịnh mà gọi là phương tiện của Bồtát. Đối với tam luân thanh tịnh tức là Vô phân biệt trí. Do trí nầy mà Bồ-tát không phân biệt ở thí chủ và người thọ nhận tài vật thí. Thế gian và Nhị thừa không thể xả tam luân phân biệt, cho nên khởi Ngã ái và nhiễm ô tài vật, vì đối với người khác không thể bình đẳng, lấy phương tiện làm tướng thực hành lục độ của Bồ-tát. Tam luân của giới, là lìa phân biệt sự và thời của chúng sinh. Tam luân của nhẫn, là lìa phân biệt tội lỗi của mình và người. Tam luân của tinh tấn, là lìa phân biệt sự dụng cao thấp của chúng sinh. Tam luân của định, là lìa phân biệt hoặc cảnh chúng sinh. Tam luân của Bát-nhã, là lìa phân biệt cảnh trí chúng sinh.
Luận nói: 5. Do hồi hướng vô đẳng, là hồi hướng Vô thượng Bồ-đề, các độ mà Bồ-tát làm quyết định chuyển đến tất cả các trí quả.
Giải thích: Bồ-tát nếu hành bố thí thì trước hết phải khởi tâm đó, Ta đem vật nầy thí cho tất cả chúng sinh trong lục đạo, đây là tài vật của chúng sinh, Ta vì chúng sinh kia mà hành bố thí, nguyện chúng sinh kia đều đắc Vô thượng Bồ-đề. Thí nầy do hồi hướng mà khiến cho đắc Vô thượng Bồ-đề, Thí nầy hành vĩnh viễn không tận, nếu hành các độ khác cũng đều hồi hướng. Thế gian và Nhị thừa không có hồi hướng, vì hồi hướng là tướng thực hành lục độ của Bồ-tát.
Luận nói: 6. Do thanh tịnh vô đẳng, là hoặc chướng và trí chướng vĩnh viễn diệt mất không còn. thực hành các độ của Bồ-tát từng phần trừ hai chướng, cho đến đều diệt tận.
Giải thích: Trong đây là chỉ rõ hai thứ thanh tịnh: 1. Thanh tịnh nhân. 2. Thanh tịnh vị. Thanh tịnh nhân, là nhân theo diệt hai chướng hoặc và trí mà các sự bố thí… Thanh tịnh. Thanh tịnh vị, trước hết đối với địa trước tạm trừ hoặc chướng, sau đó đăng Sơ địa thì tạm thời diệt trí chướng, hai lĩnh vực nầy gọi là từng phần thanh tịnh, tức là nhân vị. Nếu đến Phật quả, lục độ viên mãn thì gọi là tất cả đều thanh tịnh, tức là quả vị.
Luận nói: “Thí tức là Ba-la-mật, như vậy Ba-la-mật tức là thí hay sao”?
Giải thích: Câu hỏi nầy muốn làm rõ điều gì? Muốn lựa riêng tướng Ba-la-mật và Phi Ba-la-mật.
Luận nói: Có việc thí nhưng chẳng phải Ba-la-mật.
Giải thích: Là lìa sáu tướng y chỉ vô Đẳng đẳng mà hành thí, thì thí nầy không thuộc vào lục độ, chỉ là thí mà là Phi Ba-la-mật.
Luận nói: Có cái là Ba-la-mật nhưng chẳng phải bố thí.
Giải thích: Là đầy đủ sáu tướng y chỉ vô đẳng Đẳng mà hành giới… Các độ khác.
Luận nói: Có cái là thí mà cũng là Ba-la-mật.
Giải thích: Là đầy đủ sáu tướng y chỉ vô đẳng đẳng mà hành bố thí…
Luận nói: Có cái chẳng phải bố thí cũng chẳng phải Ba-la-mật.
Giải thích: Là lìa ba câu trước riêng hành vô ký và bất thiện, là câu thứ tư nhiếp.
Luận nói: Như bốn câu trong thí, phải biết các độ khác cũng có bốn câu.
Giải thích: Như thí lựa riêng thị Phi, các độ khác cũng phải lựa riêng như vậy.
---------------------------------
Luận nói: “Tại sao nói sáu Ba-la-mật thứ tự như vậy”?
Giải thích: Đây là do nghi mà hỏi, hoặc do không nghi mà hỏi. Nghi mà hỏi, là tất cả thực hành chắc chắn trước hết do trí biết nhân quả rồi mới khởi chánh cần. Do hai nhân nầy, tùy chỗ muốn của nó mà đều được hành, cho nên phải đảo ngược thứ tự và không có thứ tự. Do có nghi mà hỏi cho nên cần phải hỏi, vì do không hiểu cho nên hỏi. Nếu người muốn tu nhiều hạnh, chưa biết cạn hay sâu, dễ hành hay khó hành, cạn thì dễ hành, sâu thì khó hành, dễ thì phải học trước, khó thì phải học sau, vì muốn biết những nghĩa nầy cho nên cần phải hỏi.
Luận nói: Ba-la-mật trước, tùy thuận sinh Ba-la-mật kế sau.
Giải thích: Bồ-tát không đành nhìn thấy chúng sinh bần cùng khốn khổ, nên luôn tu tập xả tài để có thể quen xả bỏ. Không muốn làm các sự tổn não chúng sinh, tức là xả gia trì giới. Nhân thí sinh giới. Bồ-tát vì ái hộ chỗ thọ giới, không muốn làm các sự phẫn hận chúng sinh mà huỷ phá tịnh giới, tức là tu tập hạnh nhẫn, nhân giới sinh nhẫn. Do phiền não chưa tận, hoặc đã thành hoặc chưa thành, Bồ-tát vì ái hộ nhẫn nầy, tức là hành tinh tấn. Nếu người hằng hành tinh tấn thì có thể trị tâm. Do tinh tấn nầy, nếu tâm hôn trầm thì có thể kéo dắt khiến cho nổi lên. Nếu tâm trạo động thì có thể ức chế khiến cho không khởi. Nếu tâm bình đẳng thì trì giữ khiến cho tương tục, do tâm điều hoà cho nên được định. Do đó, nhân tinh tấn mà sinh định. Nếu tâm đắc định thì có thể thông đạt chân Như, do đó nhân định sinh tuệ. Đây là Ba-la-mật trước có thể sinh Ba-la-mật sau.
Luận nói: Lại nữa, Ba-la-mật trước được thanh tịnh là do việc làm của Ba-la-mật sau.
Giải thích: thí do giới mà thanh tịnh, nếu người không trì giới thì nghiệp thân, khẩu và ý không thanh tịnh, hành bố thí cũng không thanh tịnh, vì y chỉ không thanh tịnh. Do có thể trì giới y chỉ thanh tịnh thì thí được thanh tịnh. Giới do nhẫn mà thanh tịnh, nếu người có thể nhẫn thì nghiệp thân, khẩu và ý đều được thanh tịnh, nhẫn do tinh tấn mà thanh tịnh, vì tinh tấn có thể sinh thiện diệt ác. Tinh tấn do định mà thanh tịnh, nếu tinh tấn không đang tại tu vị thì không thể trừ hoặc. Định do trí tuệ mà thanh tịnh, nếu không hiểu rõ chân như, thì tuy đắc định, nhưng cũng là thuộc hữu lưu, tức là pháp sinh tử. Nếu chỗ đắc định mà thấy chân như thì trở thành vô lưu, tức là Niết-bàn đạo. Đây là Ba-la-mật sau có thể làm thanh tịnh Ba-la-mật trước. Do hai nghĩa nầy cho nên có thứ tự.
Luận nói: Nương vào nghĩa gì mà lập tên của lục độ? Nghĩa nầy làm sao thấy được”?
Giải thích: Thế gian lập danh tự có nhiều nguyên nhân. Có khi do sinh loại lập danh, có khi do tướng lập danh, có khi do giả lập danh, có khi do khinh rẻ lập danh, có khi do kính trọng lập danh. Trong đây có năm nguyên nhân. Lục độ từ nghĩa gì mà lập danh? Từ hai nhân lập danh, vì chủng tánh khác nhau; từ sinh loại lập danh, vì công đức nhiều từ kính trọng lập danh. Danh được lập tự có chung danh và riêng, sáu thứ đều xứng với Ba-lamật là thông danh, thí, giới… có khác nhau là biệt danh.
Thế nào là danh chung Ba-la-mật?
Luận nói: Tối thắng vô đẳng trong tất cả thiện căn thí… của thế gian, Thanh-văn và Độc Giác.
Giải thích: Có sáu thứ và ba thứ tối thắng vô đẳng, sáu thứ như giải thích trước trong sáu tướng. Còn ba thứ: 1. Thời vô đẳng. 2. Gia hạnh vô đẳng. 3. Quả vô đẳng. Mỗi mỗi độ đều tu hành ba A-tăng-kỳ kiếp là thời vô đẳng. Gia hạnh vô đẳng, có bốn loại và năm loại, cũng có năm loại khác, cũng có sáu loại. Bốn loại tức là chỗ thuyết minh trước bốn tu, năm loại tức là chỗ thuyết minh trước năm thứ thanh tịnh, năm loại khác tức là năm pháp tu, cũng có sáu loại tức là sáu ý và năm pháp tu. Văn sau sẽ tự nói quả của sáu ý. Vô đẳng, Tam thân đã làm sáng Vô thượng Bồ-đề.
Luận nói: Vì có khả năng đến bờ bên kia, cho nên gọi chung là Ba-la-mật.
Giải thích: Đến bờ bên kia tự có ba thứ: 1. Tùy chỗ tu hành rốt ráo không sót là đến bờ bên kia. Thế gian và Nhị thừa cũng có xứng với chỗ tu hành, nhưng tu không tận cho nên không phải đến bờ bên kia. 2. Như nhiều sông đều chảy về biển là cùng cực, thì thí… cũng vậy, lấy nhập chân như làm cứu cánh, tức là lấy nhập chân như làm đến bờ bên kia. Thế gian và Nhị thừa tuy tu thí… Nhưng không thể nhập chân như cho nên không phải đến bờ bên kia. 3. Bởi đắc vô đẳng quả là đến bên kia không còn có quả nào thù thắng hơn quả nầy. Vì trong các quả nó cao hơn cho nên gọi là bờ bên kia. Thế gian và Nhị thừa tuy tu thí… Nhưng không cầu quả nầy cho nên không phải đến bờ bên kia. Bờ bên kia mà Bồtát tu đều đầy đủ ba nghĩa nầy, cho nên gọi chung là Ba-la-mật. Tại sao gọi riêng là Đà-Na?
Luận nói: Có khả năng diệt tham tiếc, tật đố và khổ bần cùng hạ tiện, cho nên gọi là Đà.
Giải thích: Tham tiếc là nhiều chướng ngại tài vật. Tật đố là chướng ngại tôn quý chướng. Khi nhân có thể diệt trừ chướng tham tiếc, là khi quả đắc nhiều tài vật cho nên lìa khổ bần cùng. Khi nhân có thể diệt trừ chướng tật đố là khi quả được tôn quý, cho nên lìa khổ hạ tiện. Tại sao vậy? Nếu người chưa phá tâm tham tiếc và tật đố thì không thể hành bố thí, cho nên nói có khả năng phá chướng nầy. Nếu người hành bố thí có khả năng phá chướng nầy, thì người nầy sau đó bị khổ bần cùng hạ tiện là không có lý như vậy.
Luận nói: Lại được làm vị thí chủ rất giàu sang và có thể dẫn tư lương của phước đức cho nên gọi là na.
Giải thích: Giỏi thí giỏi dùng gọi là vị thí chủ rất giàu sang, do là chủ cho nên có thể dẫn tư lương của phước đức. Do đủ nghĩa nầy cho nên gọi là Đà-na.
Luận nói: Có thể tịch tĩnh tà giới và ác đạo, cho nên gọi là thi.
Giải thích: Khi nhân có thể phá tà giới, là khi quả có thể lìa ác đạo. Nếu người không xả ác Nghiệp mà có thể trì giới là không có việc đó, cho nên trước phá tà giới. Nếu người phá tà giới trì chánh giới mà đọa vào bốn cõi ác là không có việc đó, cho nên là khi đạt quả có khả năng lìa ác đạo.
Luận nói: Lại có khả năng đắc thiện đạo và Tam-mađề, cho nên gọi là La.
Giải thích: Do trước trì giới, sau đó thọ thiện quả của trời người, trong nhân, hoặc trong quả. Do trì giới cho nên thân khẩu thanh tịnh. Do thanh tịnh cho nên không có hối, do không có hối hận cho nên tâm an. Do tâm an cho nên được vui vẻ. Do vui vẻ cho nên được tốt thêm. Do tốt cho nên được an lạc. Do an lạc cho nên được định. Do định cho nên thấy chân như, do thấy chân như cho nên được chán lìa. Do chán lìa cho nên được giải thoát. Cho nên do nhân trì giới mà đắc Tam-ma-đề, do đủ nghĩa nầy cho nên gọi là Thi La.
Luận nói: Có khả năng diệt trừ tâm giận dữ và phẫn hận tâm, cho nên gọi là Sằn.
Giải thích: Khi nhân do quán năm nghĩa cho nên diệt trừ giận dữ và phẫn hận. Năm nghĩa đã sinh tâm phẫn hận là: 1. Quán tất cả chúng sinh vô thủy đến nay đối với ta có ân. 2. Quán tất cả chúng sinh hằng niệm niệm diệt, người nào hay tổn, người nào bị tổn! 3. Quán chỉ có pháp, không có chúng sinh, có pháp nào hay tổn và pháp nào bị tổn! 4. Quán tất cả chúng sinh đều tự thọ khổ, tại sao lại muốn lấy khổ thêm!
5. Quán tất cả chúng sinh đều là con ta, tại sao trong đó lại muốn sinh tổn hại! Do năm pháp quán nầy cho nên có thể diệt trừ giận dữ, giận dữ đã diệt cho nên trừ phân hận.
Luận nói: Lại có khả năng sinh sự bình hoà của tự tha, cho nên gọi là đề.
Giải thích: Sự nầy thông đạt nhân quả. Nhân nầy có thể bị tội lỗi của giận dữ nhiễm ô, tức là đối với tự bình hoà, đã không phẩn hận, không sinh khổ cho tha, tức là đối với tha bình hoà. Như Kinh nói: Nếu người hành nhẫn, thì có ngũ đức: 1. Vô hận. 2. Vô há. 3. Nhiều người kính mến. 4. Có tiếng tăm tốt. 5. Sinh thiện đạo. Năm đức nầy gọi là bình hoa. Do đủ nghĩa nầy cho nên gọi là Sằn-đề.
Luận nói: Diệt trừ lười nhác (lại đọa) và các ác pháp, cho nên gọi là Tỳ.
Giải thích: Chìm đắm trong ác xứ cho nên gọi là lười nhác. Lại nữa, không chán ghét ác hạnh cho nên gọi là lười nhác. Do lười nhác cho nên lìa các thiện hạnh, sinh các ác pháp. Ba nghiệp hằng khởi tội lỗi cho nên gọi là ác pháp. Do diệt lười nhác cho nên có thể trừ chỗ sinh các ác của lười nhác. Đây gọi là tinh tấn diệt pháp ác.
Luận nói: Hành bất phóng dật, sinh trưởng vô lượng thiện pháp, cho nên gọi là Lê-da.
Giải thích: Đây là căn cứ theo nhân quả của tin ưa để thuyết minh tinh tấn. Nhân của tín có thể hành, thì quả của lạc có thể đắc, cho nên hằng hành cung kính hạnh gọi là bất phóng dật. Do hành cung kính, thì thiện chưa sinh có thể khiến cho sinh, thiện đã sinh thì có thể khiến cho tăng trưởng. Đây là sinh khởi được pháp tinh tấn. Do đủ nghĩa nầy cho nên gọi là Tỳ-lê-da.
Luận nói: Có thể diệt trừ tán loạn, cho nên gọi là Trìha.
Giải thích: Tán loạn có năm thứ:
1. Tự tánh tán loạn, là năm thức.
2. Ngoại tán loạn, là ý thức động theo ngoại trần.
3. Nội tán loạn, là tâm cao thấp và ham ưa mùi vị.
4. Thô Trọng tán loạn, là kế chấp ngã và ngã sở. tư duy tán loạn, là tâm hèn mọn, Bồ-tát bỏ Đại thừa tư duy Tiểu thừa.
Luận nói: Lại có thể dẫn tâm khiến cho trụ Nội cảnh, cho nên gọi là Na.
Giải thích: Dẫn tâm khiến cho trụ năm thứ tịch tĩnh gọi là nội cảnh. Do đủ nghĩa nầy cho nên gọi là Trì-hana.
Luận nói: Lại có thể diệt tất cả kiến hạnh, có thể trừ tà trí, cho nên gọi là Bát-la.
Giải thích: Kiến hạnh là sáu mươi hai kiến. Tà trí là hiểu biết theo thế gian hư vọng, tà trí tức là trí chướng.
Luận nói: Có thể duyên chân tướng.
Giải thích: Là duyên chân như, tức là biết như lý trí. Luận nói: Tùy theo phẩm loại.
Giải thích: Phẩm loại có hai thứ là hữu vi và vô vi, là năm nhiếp của danh. Nếu biết pháp như vậy tức là biết như lượng trí.
Luận nói: Biết nhất thiết pháp cho nên gọi là Nhã.
Giải thích: Chân như tướng và phẩm loại gọi là nhất thiết pháp. Như lý trí gọi là Bát-nhã. Như lượng trí gọi là quả Bát-nhã cũng gọi là Bát-nhã. Hai trí nầy đã làm rõ ba nghĩa: 1. Đối trị, tức là nhị chướng. 2. cảnh giới, tức là chân tướng. 3. Quả, tức là như lượng trí. Do ba nghĩa nầy cho nên gọi là Bát-la-nhã.
-----------------------------------
Luận nói: Tại sao phải biết tu tập của các Ba-la-mật? Giải thích: Thế gian và Nhị thừa đều có tu tập thí, tu tập thí của Bồ-tát khác với thế gian và Nhị thừa, là sao biết được?
Luận nói: Nếu lược nói, phải biết tu tập có năm thứ.
Giải thích: Nếu rộng nói thì tu tập có mười thứ: 1. Hiển thị tu. 2. Tổn giảm tu. 3. Trị thành tu. 4. Hậu hành tu. 5. Tương ưng tu. 6. Thắng tu. 7. Thượng thượng tu. 8. Sơ tế tu. 9. Trung tế tu. 10. Hậu tế tu. 11. Hữu thượng tu. 12. Vô thượng tu.
1. Hiển thị tu, là tu bốn niệm xứ, vì có thể làm rõ nghĩa bốn đế.
2. Tổn giảm tu, là bốn chánh cần, vì có thể diệt dần các ác pháp.
3. Trí thành tu, là tứ như ý túc, vì có thể trị thành định, có thể trừ năm lỗi và trì giữ tám diệt tư lương.
4. Hậu hành tu, là tu ngũ căn, vì có đủ giải thoát phần.
5. Tương ưng tu, là tu ngũ lực, vì phải tương tục kiến đạo.
6. Thắng tu, là tu thất giác phần, vì nhập Tứ đế quán.
7. Thượng thượng tu, là tu bát thánh đạo phần, vì thắng kiến đạo.
8. Sơ tế tu, là phàm phu vị, tu giới cho đến đắc bất tịnh quán và sổ tức quán, vì tùy thuận điên đảo.
9. Trung tế tu, là hữu học vị, trong đây không có đảo và chỗ tùy thuận của đảo.
10. Hậu tế tu, là vô học vị, trong đây không có chỗ đảo của đảo và phi đảo.
11. Hữu thượng tu, là Thanh-văn Độc-giác tu, và bằng với các vị kia.
12. Vô thượng tu, là Bồ-tát mười địa, vì tối thắng. Luận nói: 1. Gia hạnh phương pháp tu.
Giải thích: Là thân khẩu ý nghiệp có thể trở thành quảng đại thanh tịnh tối thắng.
Luận nói: 2. Tín nhạo tu.
Giải thích: Căn cứ theo giáo như chương thứ nhất giải thích.
Luận nói: 3. Tư duy tu.
Giải thích: Trong tư duy tu tự có ba thứ là ái trọng, tùy hỷ và nguyện đắc, hợp chung lại gọi là tư duy tu, cũng như chương thứ nhất giải thích.
Luận nói: 4. Phương tiện thắng trí tu.
Giải thích: Tức là vô phân biệt trí có ba nghĩa: 1. Quảng đại. 2. Thanh tịnh. 3. Tốc thành. Vì đủ ba nghĩa nầy mới lập tên phương tiện thắng trí.
Luận nói: 5. Tu lợi ích tha sự. Trong đây, bốn thứ tu đầu phải biết như trước. Lợi ích tha sự tu là vô công dụng tâm của phật, không xả Như Lai sự.
Giải thích: Làm sáng tỏ lời dạy trong giáo pháp Đại thừa, là dù đã Bát Niết-bàn nhưng Phật còn khởi tâm nữa một lần nữa. Bát Niết-bàn tức là pháp thân, khởi tâm nữa một lần nữa tức là Ứng thân và Hóa thân. Chư Phật đã trụ pháp thân, do bản nguyện lực lìa tam nghiệp, tùy sự lợi ích chúng sinh, tự nhiên hiển hiện hai thân Ứng và Hóa, hằng không bỏ chánh sự của Như Lai và hành các Ba-la-mật, cho nên chư Phật có tu tập các Ba-la-mật.
Luận nói: Trong tu tập các Ba-la-mật đến viên mãn, càng tu thêm các Ba-la-mật.
Giải thích: Phật và Bồ-tát tùy phần viên mãn, hoặc đủ phần viên mãn. Trong viên mãn vị nầy, nếu tu các Ba-la-mật, tự sự đã thành cho nên không tự làm, thấy chúng sinh do hạnh nầy được lìa bốn cõi nhập đạo quả của ba thừa, lại tu thêm các Ba-la-mật, tức là lợi ích tha sự.
Luận nói: Lại nữa, tư duy tu tập, là ái trọng, tùy hỷ, nguyện đắc và tư duy, thuộc sáu ý nhiếp chỗ tu.
Giải thích: Chương nầy thuyết minh chung nghĩa tu tập, trước thuyết minh ngũ tu. Chưa phân biệt tu vị có khác nhau, làm sao biết được tu của nguyện hạnh vị, khác với tu của thanh tịnh vị? Nếu lục ý nhiếp tam tư duy thì tu các Ba-la-mật phải biết tại thanh tịnh vị. Trong nguyện hạnh vị thì không có nghĩa nầy. Tam tư duy là gốc tu hành, lấy lục ý trang nghiêm để nhiếp trì tam tư duy nầy.
Luận nói: Lục ý: 1. Quảng đại ý. 2. Trường thời ý.
3. Hoan hỷ ý.
4. Hữu ân đức ý. 5. Đại chí ý. 6. Thiện hảo ý. Quảng đại ý, là Bồ-tát tu bao nhiêu A-tăng-kỳ kiếp có thể đắc Bồ-đề!
Giải thích: Tổng nêu kiếp số giới hạn là nhiều hay ít còn nói “bao nhiêu”, vì Kinh của Đại thừa và tiểu thừa nói kiếp số không đồng, cho nên không nói quyết định kiếp số là bao nhiêu. Tiểu thừa thuyết minh ba A-tăngkỳ kiếp thì được thành Phật, Đại thừa thuyết minh hoặc ba, hoặc bảy, hoặc ba mươi ba A-tăng-kỳ kiếp được thành Phật.
Luận nói: Lấy như Thời nầy làm một sát-na, sát-na.
Giải thích: Hoặc hợp chung ba A-tăng-kỳ kiếp làm một sát-na, hoặc hợp chung ba mươi ba A-tăng-kỳ kiếp làm một sát-na, cho nên nói thêm một “sát-na” nữa, là một ngày, một tháng cho đến một A-tăng-kỳ kiếp, từ một A-tăng-kỳ đến ba mươi ba A-tăng-kỳ mới được thành Phật, đây là muốn làm rõ ý Bồ-tát không có chán đủ cho nên nói thời gian dài nầy.
Luận nói: Bồ-tát trong thời nầy, sát-na sát-na thường xả thân mạng.
Giải thích: Thời nầy, tức là tổng nêu thời gian dài nầy. Sát-na là thuyết minh cái sát-na mà thế gian nói, thì vừa rồi đã nói thời gian dài ấy. Như như cái sát-na mà thế gian nói, là trong mỗi mỗi sát-na, thường xả thân mạng và ngoại tài cho đến khi thành Phật không có tâm chán đủ.
Luận nói: Và bằng Hằng hà sa số thế giới, trong đó chứa đầy thất bảo phụng thí cúng dường Như Lai, từ sơ phát tâm cho đến nhập trụ cứu cánh thanh lương Bồ-đề.
Giải thích: Hữu Dư Niết-bàn gọi là thanh, vì lìa phiền não trược. Vô dư Niết-bàn gọi là lương, vì lìa nhiều khổ nóng bức. Lại nữa, Bồ-tát lấy tịnh lạc làm thể, vì muốn làm rõ tịnh đức cho nên nói thanh, muốn làm rõ nghĩa lạc cho nên nói lương.
Luận nói: Là ý thí của Bồ-tát cũng chưa đầy đủ, như vậy nhiều thời sát-na sát-na, đầy lửa trong ba ngàn đại thiên thế giới, Bồ-tát trong đó đi đứng nằm ngồi làm tứ oai nghi, lìa tất cả dụng cụ nuôi sống.
Giải thích: Dưới đây là muốn thuyết minh Bồ-tát tu ngũ độ khác, trong mỗi mỗi sát-na trường thời nầy, thường tại xứ cực kỳ khổ nạn, dụng cụ giúp thân hằng không cung cấp đủ, Bồ-tát tuy thọ khổ nầy, nhưng trong thời nầy tu các Ba-la-mật cũng chưa từng chán đủ.
Luận nói: Tâm giới, nhẫn, tinh tấn. Tam-ma-đề và Bát-nhã, Bồ-tát hằng tu hiện tiền, cho đến nhập trụ cứu cánh thanh lương Bồ-đề, là ý giới, ý nhẫn… của Bồ-tát cũng chưa đầy đủ, là tâm vô yểm túc (không chán đủ), gọi đó là Bồ-tát quảng đại ý. Nếu Bồ-tát từ sơ phát tâm cho đến thành Phật, không xả tâm vô yểm túc, gọi đó là Bồ-tát trường thời ý. Nếu Bồ-tát làm lợi ích cho tha sự từ sáu Ba-la-mật, thường sinh vô đẳng hoan hỷ, chúng sinh được lợi ích, tâm hoan hỷ không có ai bằng được, thì gọi đó là Bồ-tát hoan hỷ ý. Nếu Bồ-tát hành sáu Ba-la-mật lợi ích chúng sinh rồi, thấy chúng sinh đối với mình có đại ân đức mà không thấy mình có ân đối với chúng sinh kia, gọi đó là Bồ-tát hữu ân đức ý. Nếu công đức thiện căn của Bồ-tát được sinh lên từ sáu Ba-la-mật, bố thí cho tất cả chúng sinh, đem tâm vô trước hồi hướng để khiến cho chúng sinh kia đắc quả báo khả ái trọng, thì gọi đó là Bồ-tát đại chí ý. Nếu chỗ hành sáu Ba-la-mật công đức thiện căn của Bồ-tát, khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc bình đẳng bình đẳng, để chúng sinh kia hồi hướng Vô thượng Bồ-đề, gọi đó là Bồ-tát thiện hảo ý.
Do chỗ nhiếp ái trọng tư duy của lục ý mà Bồ-tát tu tập. Giải thích: Để chỉ rõ tâm cầu đắc thấy có đại công đức mà cầu mong cho được.
Luận nói: Nếu Bồ-tát tùy hỷ vô lượng, công đức thiện căn của Bồ-tát được sinh lên từ tu gia hạnh lục ý, thì gọi đó là chỗ nhiếp tùy hỷ tư duy của Bồ-tát lục ý.
Giải thích: Để chỉ rõ vô nghi tâm đã tùy hỷ thực hành của Bồ-tát thắng nhân, quyết định không có nghi.
Luận nói: Nếu Bồ-tát nguyện tất cả chúng sinh, tu hành chỗ nhiếp sáu Ba-la-mật của lục ý, và nguyện tự thân tu hành chỗ nhiếp sáu Ba-la-mật của lục ý, tu tập gia hạnh cho đến thành Phật, thì gọi đó là chỗ nhiếp nguyện đắc tư duy của Bồ-tát lục ý.
Giải thích: Nhằm làm rõ đại bi không có tâm riêng cầu, tam tư duy nầy tức là trừ bỏ ba tâm: 1. Trừ tâm không thực hành. 2. Trừ tâm lưỡng lự. 3. Trừ tâm làm siêng lệch lạc.
Luận nói: Nếu người được nghe chỗ nhiếp Bồ-tát tư duy tu tập của lục ý, sinh một niệm tín tâm, thì người đó được vô lượng vô biên khối phước đức, các ác nghiệp chướng hoại diệt không sót.
Giải thích: Diệt nghiệp chướng có hai nghĩa: 1. Có khả năng hoại nghiệp khiến cho hết. 2. Nghiệp tuy còn vì thiện lực lớn, có thể ngăn trừ quả báo ác đạo, khiến cho vĩnh viễn không thọ nghiệp, cũng có nghĩa hoại diệt. Như người chỉ nghe mà còn được vô lượng vô biên phước đức, huống chi Bồ-tát đem hết khả năng tu hành.--------------------------------------------
Luận nói: Tại sao phải biết sai biệt của các Ba-lamật”?
Giải thích: Câu hỏi nầy muốn làm rõ cái gì? Phẩm loại của các Ba-la-mật không thể tính lường, vì muốn làm rõ chân thể cho nên đặt ra câu hỏi nầy, do hiểu rõ sự sai biệt của các Ba-la-mật thì chân thể hiển hiện.
Luận nói: Do mỗi thứ có ba phẩm, nên biết sai biệt của nó.
Giải thích: Đây là tổng nêu số để đáp câu hỏi.
Luận nói: Ba phẩm của thí: 1. Pháp thí. 2. Tài thí. 3. Vô Uý thí.
Giải thích: pháp thí lợi ích cho tâm kẻ khác. Do pháp thí cho nên thiện căn của kẻ khác Văn tuệ được sinh. Tài thí lợi ích cho thân kẻ khác. Lại nữa, do tài thí, kẻ đó hướng ác, dẫn khiến họ quy về thiện. Do vô uý thí dắt dẫn những kẻ kia thành quyến thuộc. Do pháp thí, sinh thiện căn của kẻ kia và thành thục giải thoát. Do có đủ nghĩa nầy cho nên nói thí có tam phẩm.
Luận nói: Giới có ba phẩm: 1. Thủ hộ giới. 2. Nhiếp thiện pháp giới. 3. Nhiếp lợi chúng sinh giới.
Giải thích: Thủ hộ giới là y chỉ của hai giới còn lại. Nếu người không lìa ác mà nhiếp thọ lợi tha thì không đắc giới. Nếu người trụ thủ hộ giới thì có thể dẫn dắt thiện pháp giới, vì Phật pháp và Bồ-đề mà sinh khởi y chỉ. Nếu trụ hai giới trước, thì có thể dẫn dắt lợi chúng sinh giới, là thành thục y chỉ của chúng sinh. Lại nữa, thủ hộ giới do lìa ác, không có tâm hối não, có thể được trụ an lạc trong hiện đời. Do an lạc trụ nầy có thể tu nhiếp thiện pháp giới làm thành thục Phật pháp. Nếu người trụ hai giới trước, có thể tu nhiếp lợi chúng sinh giới làm thành thục tha. Tam phẩm giới nầy tức là nhân của bốn vô uý. Tại sao vậy? Vì giới thứ nhất là đoạn đức, giới thứ hai là trí đức, giới thứ ba là ân đức. Bốn vô uý không ra ngoài ba đức nầy, cho nên nói là nhân của bốn vô uý. Do đủ nghĩa nầy cho nên nói giới có ba phẩm.
Luận nói: Nhẫn có ba phẩm: 1. Tha huỷ nhục. 2. An thọ khổ nhẫn. 3. Quán sát pháp nhẫn.
Giải thích: Do huỷ nhục nhẫn có khả năng nhịn chịu lỗi lầm do kẻ khác gây ra. Tại sao vậy? Vì Bồ-tát tạo tác sự lợi ích cho người khác phát tâm tu hành, dù bị kẻ khác huỷ nhục, vẫn không vì chấp lỗi nầy mà làm thoái lui tâm bổn hạnh. Do an thọ khổ nhẫn, dù đọa trong các khổ nạn của sinh tử, nhưng không do các khổ nầy làm thoái lui tâm bổn hạnh. Do quán sát pháp nhẫn, Bồ-tát có thể nhập chân lý của chư pháp, nhẫn nầy tức là chỗ nương của hai nhẫn trước, vì có thể trừ hai chấp nhân và pháp. Do đủ nghĩa nầy cho nên nói nhẫn có ba phẩm.
Luận nói: Tinh tấn có ba phẩm: 1. Cần dũng tinh tấn. 2. Gia hạnh tinh tấn. 3. Bất hạ nan hoại vô túc tinh tấn.
Giải thích: Làm sao biết được tinh tấn có ba thể này? Do Phật Thế Tôn trong Kinh thuyết rằng: Người nầy có trinh thật, có thắng năng, có dũng mãnh, có cưỡng chế lực, bất xả thiện ách. Nhằm làm rõ ba thể mà nói năm câu nầy, để hiển cần dũng tinh tấn mà nói có trinh thật. Để rõ hiển gia hạnh tinh tấn mà nói có thắng năng. Tại sao vậy? Vì người nầy trong khi gia hạnh có thắng năng, như những gì mong muốn trước đây đều có thể làm. Để rõ hiển bất hạ nan hoại vô túc tinh tấn mà thứ tự nói ba câu có dũng mãnh, có cưỡng chế lực và bất xả thiện ách. Tại sao vậy? Có người lúc ban đầu vì đắc Vô thượng Bồđề, trước có trinh thật gia hạnh, lúc có năng thắng, vì thời gian lâu xa, quả tướng chỗ cầu chưa hiện, trong khoảng đó sinh tâm hạ liệt. Để đối trị tâm nầy mà chỉ rõ bất hạ tinh tấn cho nên nói dũng mãnh. Nếu người tuy tâm dũng mãnh trở lại, không thoái chuyển nữa, nhưng nếu gặp khổ nạn sinh tử cản trở tâm đó thì thoái chuyển Bồ-đề nguyện. Để đối trị tâm nầy mà chỉ rõ nan hoại tinh tấn, cho nên nói có cưỡng chế lực, do có cưỡng chế lực thì sinh tử khổ nạn không thể khiến cho thoái chuyển. Nếu người tuy gặp khổ mà không thoái chuyển, chỗ đắc nhỏ nhen liền sinh tưởng đủ, do tri túc nầy không thể đắc tối thượng Bồ-đề. Để đối trị tâm nầy mà chỉ rõ vô túc tinh tấn, cho nên nói bất xả thiện ách. Do đủ nghĩa nầy cho nên nói tinh tấn có ba phẩm.
Luận nói: Định có ba phẩm: 1. An lạc trụ định. 2. Dẫn thần thông định. 3. Tùy lợi tha định.
Giải thích: Có định khiến cho hiện đời được an lạc trụ. Tại sao vậy? Vì có thể lìa tất cả pháp nhiễm ô, nương vào định nầy để sinh tự lợi, là tam minh có thể dẫn thành thần thông. Do dẫn thành thông và định mà sinh tùy lợi tha định. Lợi tha tức là tam luân: 1. Thần thông luân, là thân thông, thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, các luân nầy chỉ hướng cho những kẻ tà, khiến cho họ quy về chánh. 2. Ký tâm luân, là tha tâm thông, thiên nhãn thông và thiên nhĩ thông, luân nầy dẫn người đã quy chánh, nếu chưa tín thọ thì khiến cho tín thọ. 3. Chánh giáo luân, là túc trụ thông và lậu tận thông, do túc trụ thông mà biết căn tánh, do lậu tận thông, như những gì mà mình đạt được, chánh giáo cho kẻ khác, khiến họ đắc gieo giống thành thục giải thoát. Do đủ nghĩa nầy cho nên nói định có ba phẩm.
Luận nói: Bát-nhã có ba phẩm: 1. Vô phân biệt gia hạnh Bát-nhã.
1. Vô phân biệt Bát-nhã. 3. Vô phân biệt hậu đắc Bát-nhã.
Giải thích: Từ khi nghe vô tướng Đại thừa giáo, được văn tư tu tuệ, nhập phân biệt tưởng không, gọi chung là vô phân biệt gia hạnh Bát-nhã. Đã nhập tam vô tánh tức là vô phân biệt trí, gọi là vô phân biệt bát-nhã. Đắc vô phân biệt trí sau khi xuất quán, chỗ chứng như trước, hoặc tự tư duy, hoặc nói cho kẻ khác, gọi là vô phân biệt hậu đắc Bát-nhã. Bát-nhã lại có ba phẩm, là Vị tri dục tri căn, tri căn và tri dĩ căn. Để sinh các sự trụ dụng xuất thế gian, do đủ nghĩa nầy cho nên nói Bát-nhã có ba phẩm.
---------------------------------
Luận nói: Tại sao phải biết nghĩa nhiếp của các Ba-la-mật?
Giải thích: Tất cả thiện pháp khác cùng với các Ba-la-mật có nghĩa gồm thâu lẫn nhau. Tại sao phải biết?
Luận nói: Tất cả thiện pháp đều gồm thâu vào sáu Ba-la-mật.
Giải thích: Tất cả thiện pháp là nguyện… cho đến bốn vô ngại, lục thông, bí mật pháp tạng cả thảy của Như Lai đều là chỗ gồm thâu của sáu Ba-la-mật.
Luận nói: Lấy làm tánh của thiện pháp kia.
Giải thích: Do Ba-la-mật là pháp tánh của nguyện, những nguyện nầy cũng gồm thâu các Ba-la-mật. Do các nguyện là tánh của Ba-la-mật, các Ba-la-mật đồng lấy vô phân biệt trí làm tánh, cho nên được nhiếp lẫn nhau.
Luận nói: Kia là sở lưu quả của sáu Ba-la-mật (quả mà Ba-la-mật lưu xuất ra).
Giải thích: Kia tức là lục thông, mười lực, bốn vô sở uý, cho đến chư Phật pháp bất cộng pháp, đều là quả sở lưu của sáu Ba-la-mật, vì cùng với Ba-la-mật đồng tánh. Luận nói: Chỗ tùy thành tựu của tất cả thiện pháp.
Giải thích: Tín, khinh an… các thiện pháp là chỗ nhiếp của Bồ-tát đạo, tùy chỗ muốn hành Ba-la-mật của Bồ-tát đều có thể thành tựu. Ba-la-mật tức là sở lưu quả của các pháp kia, cho nên được nhiếp lẫn nhau.
--------------------------------
Luận nói: Tại sao phải biết đều mà các Ba-la-mật đối trị? Vì nhiếp tất cả hoặc.
Giải thích: Như Ba-la-mật có thể nhiếp hết tất cả thanh tịnh phẩm, sở đối trị của Ba-la-mật cũng phải có thể nhiếp hết tất cả bất tịnh phẩm. Tại sao phải biết?
Luận nói: Lấy làm tánh của nhiễm kia.
Giải thích: Như Ba-la-mật lấy vô nhiễm làm tánh, nhiếp hết tất cả thiện pháp. Chỗ đối trị của Ba-la-mật lấy nhiễm làm tánh, cho nên nhiếp hết tất cả bất tịnh phẩm.
Luận nói: Làm sinh nhân của kia.
Giải thích: Không tin các pháp tà kiến, thân kiến… có thể sinh các quả tham tiếc, tật đố, tà hạnh, giận dữ… vì đồng tánh cho nên được làm nhân của kia.
Luận nói: Làm sở lưu quả của kia.
Giải thích: Tham tiếc, tật đố, tà hạnh, giận dữ… nầy, do nhiễm tự tha cho nên sinh các ác hạnh, là mười ác… cũng vì đồng tánh mà được làm quả của kia. Do các nghĩa nầy cho nên được nhiếp lẫn nhau.
-----------------------------
Luận nói: Vì sao phải biết công đức của các Ba-lamật.
Giải thích: Hành các hạnh thí… của thế gian cũng có công đức, công đức Ba-la-mật của Bồ-tát tại sao phải biết? Công đức Ba-la-mật của Bồ-tát cùng với thế gian có khác hay giống nhau. Đồng thì có sáu thứ, khác thì có bốn thứ. Đồng có sáu thứ nói như sau.
Luận nói: Hoặc Bồ-tát luân chuyển sinh tử đại phú vị là sự gồm thâu của tự tại.
Giải thích: Chuyển luân vương, Thiên đế, Phạm vương là đại phú vị, làm chủ trong đó cho nên gọi là Tự Tại. Bồ-tát và phàm phu hành bố thí cũng đồng đắc quả báo nầy.
Luận nói: Chỗ nhiếp của đại sinh.
Giải thích: Đại sinh có ba thứ: 1. Đạo thắng. 2. Tánh thắng. 3. Oai đức thắng. Bồ-tát và phàm phu trì giới cũng đồng đắc quả báo nầy.
Luận nói: Chỗ nhiếp của đại quyến thuộc và đồ chúng.
Giải thích: Thân thích gọi là quyến thuộc, chỗ nhiếp lãnh gọi là đồ chúng. Quyến thuộc và đồ chúng cũng có ba thứ thù thắng. Như chỗ nói trước cho nên gọi là đại, đều thân ái lẫn nhau, không sinh ganh ghét, hằng cùng vui vẻ đoàn tụ, chưa từng trái nghịch lìa bỏ. Bồ-tát và phàm phu hành nhẫn cũng đồng đắc quả báo nầy.
Luận nói: Chỗ nhiếp của đại tư sinh nghiệp sự thành tựu.
Giải thích: Tư sinh nghiệp có bốn thứ: 1. Chủng thực. 2. Dưỡng thú. 3. Thương cổ. 4. Sự vương. Hoà đồng và nghịch cãi gọi là sự. Những gì mình muốn làm đều thỏa lòng cho nên gọi là thành tựu. Bồ-tát và phàm phu hành tinh tấn cũng đồng đắc quả báo nầy.
Luận nói: Chỗ nhiếp của vô tật não thiểu dục…”
Giải thích: Chỗ nhiếp định của bốn vô lượng, định nầy đắc quả thì thân không có bệnh, tâm lìa nhiều phiền não cho nên hằng vui mừng. Chỗ đắc quả của các định khác, tuy tại gia cùng với tiên nhân lìa dục cũng không khác nhau, vì ít phiền não. Chữ “đẳng (vân vân…)” Là có nghĩa được hình tướng tốt đẹp và trường thọ. Bồ-tát và phàm phu tu định cũng đồng đắc quả báo nầy.
Luận nói: Chỗ nhiếp thông tuệ của tất cả công xảo minh.
Giải thích: Vì lập sự sinh sống thì cần phải có công xảo minh xứ, tức là mười tám minh xứ, có thể lập hiện tại, vị lai và pháp giải thoát. Trong đây có hai lý lập và phá. Nếu có thông tuệ thì có thể thành sự nầy. Bồ-tát và phàm phu nếu tu Bát-nhã thì đồng đắc quả báo nầy.
Khác là có bốn thứ như sau.
Luận nói: Như Ý.
Giải thích: Bồ-tát hành bố thí… đắc quả báo an vui giàu có, trong đó thường lìa tội lỗi, là không có nhiễm ô lợi ích tự thân và người. Thế gian hành bố thí, tuy có công đức nhưng không có các sự nầy. Đó là tướng khác thứ nhất.
Luận nói: Không mất an vui.
Giải thích: Bồ-tát hành bố thí… được quả báo an vui giàu có, trong đó như ý là tự dụng và vị tha dụng, thường sinh ba thứ hoan hỷ. Thế gian hành bố thí… tuy có công đức nhưng không có các sự như vậy. Đó là tướng khác thứ hai.
Luận nói: Lợi ích chúng sinh làm chánh sự.
Giải thích: Bồ-tát hành bố thí… chỗ sinh công đức thường vì chúng sinh, làm sự lợi ích của thế gian và xuất thế gian, không vì tự thân. Thế gian hành bố thí, tuy có công đức nhưng không được như vậy. Đó là tướng khác thứ ba.
Luận nói: Bồ-tát tu hành công đức của lục độ cho đến nhập trụ cứu cánh thanh lương Bồ-đề, hằng ở trong pháp không khác.
Giải thích: Chỗ sinh công đức của Bồ-tát hành bố thí, từ sơ phát tâm cho đến cực quả, như gốc hằng tại lợi tha không khác, đây tức là thường trụ công đức. Thế gian hành bố thí, tuy có công đức nhưng không được như vậy. Đó là tướng khác thứ tư.
------------------------------------
Luận nói: Tại sao phải biết các Ba-la-mật tương hiển lẫn nhau (làm làm sáng tỏ cho nhau).
Giải thích: Như trong Kinh Bát-Nhã Ba-La-Mật nói ba mươi sáu câu, chỉ rõ nói mỗi mỗi Ba-la-mật tức là nói năm Ba-la-mật khác. Tại sao phải biết.
Luận nói: Thế Tôn lấy tên Thí mà nói các Ba-la-mật, hoặc lấy tên giới, hoặc lấy tên nhẫn, hoặc lấy tên tinh tấn, hoặc lấy tên định, hoặc lấy tên Bát-nhã mà nói Ba-la-mật.
Giải thích: Năm Ba-la-mật nhiếp trong một Ba-la-mật, trong một Ba-la-mật thì có đủ sáu Ba-la-mật, chỉ lấy một tên bố thí để nói mà thôi.
Luận nói: Như Lai vì ý gì mà nói như vậy? Trong phương tiện tu hành của các Ba-la-mật, tất cả Ba-la-mật khác đều tụ tập trợ thành. Đây là ý của Như Lai nói.
Giải thích: Hoặc Bồ-tát đối với mỗi mỗi Ba-la-mật đều tu gia hạnh, thì các Ba-la-mật khác đều trợ thành một Ba-la-mật nầy. Như khi Bồ-tát đang hành bố thí, thủ hộ thân khẩu lìa tám chi tội, tức là trì giới chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, do giới nầy mà thí được thành tựu, cho nên giới có thể thành thí. Hoặc Bồ-tát đang hành bố thí, có thể an thọ thọ lãnh người bố thí ngôn ngữ trái nhau và oai nghi trái nhau, cho đến an thọ thực hành các sự thí khổ. Do nhẫn nầy mà thí được thành tựu, cho nên nhẫn có thể thành thí. Hoặc Bồ-tát khi đang hành bố thí, do muốn hành tâm bố thí có thể trừ tham ái. Do có đại bi có thể trừ giận dữ, do hạ thân tâm có thể trừ kiêu mạn, muốn khiến cho người thọ thí an lạc có thể trừ xan tham tật đố, biết thí có nhân quả trừ vô minh và tà kiến. Tinh tấn có thể sinh các thiện như vậy, đối trị các ác như vậy, do tinh tấn mà thí được thành tựu, cho nên tinh tấn có thể thành thí. Hoặc Bồ-tát khi đang hành bố thí, nhất tâm tương tục duyên lợi lạc chúng sinh rồi, do định nầy mà thí được thành tựu, cho nên định có thể thành thí. Hoặc Bồ-tát khi đang hành bố thí, do hiểu rõ nhân quả không nhiễm tam luân, cho nên Bát-nhã có thể thành thí. Đó là các Ba-la-mật khác trợ thành một Ba-lamật, cho nên hợp chung lại nói là sáu Ba-la-mật, tổng gọi là thí. Như thí, giới… cũng vậy, một độ có đủ sáu độ, cho nên thành ba mươi sáu câu.
Luận nói: Trong đây nói Kệ Uất-đà-na:
Vị Số thứ tự nhau, Là tu sai biệt nhiếp, Đối trị và công đức,
Tương hiển nghĩa các độ.
Giải thích: Nghĩa nầy có năm chương:
- Chương I. Đối trị.
- Chương II. Lập danh.
- Chương III. Đắc tướng.
- Chương IV. Tu tướng.
- Chương V. Tu thời.
Luận nói: Như vậy đã nói nhập vào tướng thù thắng của nhân quả. Vậy tại sao phải biết nhập vào việc tu sai biệt về nhân quả?
Giải thích: Trước đã nói tổng sự sai biệt của nhân quả của lục độ, tại địa vị hạnh nguyện làm nhân, lấy vị thanh tịnh làm quả, chưa căn cứ theo địa để luận biện về tu sai biệt. Trước mắt nói tổng là như vậy. Duy thức trí gọi là nhập, ba vô tánh làm tướng thù thắng. Lục độ tức là Duy thức trí, nhập nhân quả của ba vô tánh là muốn hiển sự tu tập sai biệt của các Ba-la-mật. Cho nên hỏi rằng tại sao phải biết?
Luận nói: Do mười địa Bồ-tát. Những gì là mười? 1. Hoan hỷ địa.
2. Vô cấu địa. 3. Minh diệm địa. 4. Thiêu nhiên địa. 5. Nan thắng địa. 6. Hiện tiền địa. 7. Viễn hành địa. 8. Bất động địa. 9. Thiện Tuệ địa. 10. Pháp vân địa.
Giải thích: Nếu muốn biết tu sai biệt, thì quán mười địa sai biệt nầy, liền biết việc tu sai biệt của nhân quả.
Luận nói: Tại sao phải biết lấy nghĩa nầy thành lập các địa là mười?
Giải thích: Câu hỏi nầy muốn làm rõ nghĩa gì? Nếu Bồ-tát nhập Sơ địa, thấy chân như thì liền dứt tận. Tại sao vậy? Vì chân như không có phần số. Nếu thấy chân như bất tận thì chân như có phần số. Nếu có phần số thì đồng với pháp hữu vi. Nếu thấy đã tận thì tại sao nói có mười địa?
Luận nói: Để đối trị mười thứ vô minh chướng ngại địa.
Giải thích: Chân như thật ra không có số một phần hoặc hai phần. Nếu căn cứ theo thể của chân như thì không thể lập có mười thứ sai biệt. Chân như có mười thứ công đức, có thể sinh mười thứ chánh hạnh. Do vô minh che lấp cho nên không thấy công đức nầy. Do không thấy công đức nầy cho nên chánh hạnh không thành, vì có mười thứ làm chướng công đức và chánh hạnh. Phân biệt chướng vô minh cũng có mười thứ.
Luận nói: Đối với mười tướng nó đã làm rõ pháp giới.
Giải thích: Mười tướng là mười công đức và mười chánh hạnh.
Tướng nầy đều có thể làm rõ pháp giới.
Luận nói: Có mười thứ vô minh còn tồn tại làm chướng.
Giải thích: Mười tướng nầy tuy thật có, nhưng vì bị vô minh che lấp mà không được hiển hiện. Cho nên biết Bồ-tát mới nhập chân như quán thì chướng kiến đạo vô minh liền diệt. Các vô minh khác còn sót chưa diệt. Mười thứ vô minh che lấp mười công đức, chướng ngại mười chánh hạnh. Những gì là mười thứ vô minh? 1. Vô minh phàm phu tánh. 2. Vô minh nương vào thân nghiệp… Đối với các chúng sinh khởi tà hạnh. 3. Vô minh tâm trì trệ khổ, vô minh quên mất văn tư tu. 4. Vô minh vi tế phiền não hành cộng sinh thân kiến, vì phiền não nầy là tối hạ phẩm, tùy theo tư duy mà khởi, đã xa lìa tùy thuận chỗ hành sự căn bản, cho nên gọi là vi tế phiền não. 5. Vô minh đối với các thừa dưới mà nhập bát Niết-Bàn. 6. Vô minh thô tướng hạnh. 7. Vô minh vi tế tướng hạnh. 8. Vô minh đối với vô tướng khởi tâm công dụng. 9. Vô minh đối với sự lợi ích của chúng sinh không do công dụng. 10. Vô minh trong các pháp không được tự tại.
Vô minh phàm phu tánh là chướng của Sơ địa, vô minh nầy tức là thân kiến. Thân kiến có hai thứ. 1. Nhân. 2. Quả. Pháp chấp và ngã chấp là nhân, nhân (người) chấp và ngã chấp là quả. Nhân tức là tánh phàm phu si mê về pháp vô ngã cho nên gọi là vô minh. Nhị thừa chỉ có thể trừ quả, không có thể đoạn nhân. Nếu không đoạn vô minh nầy thì không được nhập Sơ địa, cho nên vô minh nầy làm chướng Sơ địa.
Vô minh nương vào thân nghiệp, đối với các chúng sinh khởi tà hạnh, là chướng của địa thứ hai, Bồ-tát chưa nhập địa thứ hai nảy sinh ý nghĩ như vậy: Là người ở ba thừa thì có ba hạnh sai biệt. Lý Nhất thừa cho nên gọi là vô minh. Lại nữa, giải thích chỗ hành thiện của tất cả chúng sinh, thì không có pháp nào mà không phải là phương tiện thanh tịnh tối thắng của Bồ-tát. Tại sao vậy? Thanh tịnh đã là một. Chưa đến địa thanh tịnh tối thắng thì không có nghĩa là trụ. Nếu đều phải đồng quy về đại đạo của Bồ-tát, thì tại sao tu phương tiện mà không tu chánh đạo? Khi chưa nhập địa thứ hai thì không có trí nầy. Do mê nghĩa nầy cho nên gọi là vô minh. Nếu không đoạn vô minh nầy, thì không được nhập địa thứ hai, cho nên vô minh nầy làm chướng địa thứ hai.
Vô minh tâm trì trệ khổ, vô minh quên mất văn tư tu, là chướng ngại của địa thứ ba. Chưa đến trí căn vị làm trì trệ, chưa đắc định vi diệu thù thắng của Bồ-tát làm khổ. Vì chướng căn và tu cho nên gọi là vô minh chướng. Văn trì (nghe và tu trì) Đà-la-ni không được thành tựu, khiến cho chỗ văn, tư, tu bị quên mất cho nên gọi là vô minh. Nếu không đoạn vô minh nầy thì không được nhập địa thứ ba, cho nên vô minh nầy làm chướng địa thứ ba.
Vô minh vi tế phiền não hành cộng sinh thân kiến, là chướng của địa thứ tư. “Phiền não hành”, lấy chủng tử của pháp chấp phân biệt làm thể. Sinh, trụ và, diệt không ngừng cho nên gọi là hành. Chủng tử nầy làm nhân của thân kiến. Thể của chủng tử nầy cũng là thân kiến. Vì là chủng loại của pháp phân biệt. Vì Phiền não nầy là phẩm hạ liệt, đây là giải thích nghĩa vi tế nầy. Do phẩm cuối cùng đó không thể nhiễm ô tâm Bồ-tát, cho nên gọi là vi tế. Tùy theo tư duy mà khởi, đây là giải thích nghĩa cộng sinh. Tuy không thể nhiễm ô tâm Bồtát, nhưng tùy theo chánh tư duy mà khởi, tương ưng với tư duy cho nên không có thể nói không có, vì có thể chướng nhất thiết trí của Bồ-tát. “Đã xa lìa tùy thuận chỗ hành sự căn Bản”, đây là giải thích nghĩa ly bạn. Khi xưa còn trong cộng vị phàm phu và địa trước, tùy thuận chỗ hành tất cả căn bản phiền não, hiện tại tu địa thứ tư thì lìa nó đã xa, do không hiểu rõ ngã không và pháp không cho nên gọi là vô minh. Nếu không đoạn vô minh nầy thì không được nhập địa thứ tư, cho nên vô minh nầy làm chướng địa thứ tư.
Vô minh đối với các thừa dưới mà Bát Niết-bàn, là chướng của địa thứ năm. Nếu người nương vào quán bốn đế tu hành địa thứ năm, thì thấy sinh tử là lửa mà vô lượng tội lỗi thiêu đốt, thấy Niết-bàn rất thanh lương tịch tĩnh công đức viên mãn, không muốn xả sinh tử, hạnh nầy khó hành; không muốn xả Niết-bàn, hạnh nầy cũng khó hành; không muốn giữ Niết-bàn. Hạnh nầy cũng khó hành. Hoặc người tu hành địa thứ năm, tâm phần nhiều là cầu Bát Niết-bàn, cho nên gọi là vô minh. Nếu không đoạn vô minh nầy thì không được nhập địa thứ năm, cho nên vô minh làm chướng ngại địa thứ năm.
Vô minh thô tướng hạnh, là chướng của địa thứ sáu. Nếu người tu hành địa thứ sáu thì tất cả các hạnh tương tục sinh. Như lượng như lý chứng rồi, trụ nhiều trong các hạnh tâm chán ghét, chưa trụ nhiều trong tâm vô tướng, cho nên gọi là vô minh. Nếu không đoạn vô minh nầy thì không được nhập địa thứ sáu, cho nên vô minh nầy làm chướng ngại địa thứ sáu.
Vô minh vi tế tướng hạnh là chướng của địa thứ bảy. Nếu người tu hành địa thứ bảy, do tâm trong trăm vạn đại kiếp, chưa có thể lìa các hành, thì tướng tương tục là sinh và diệt, không thể thông đạt pháp giới không có nhiễm tịnh tướng. Như Kinh nói: Mười hai duyên sinh của Long vương, hoặc sinh hoặc bất sinh. Thế nào là sinh? Do tục đế. Thế nào là bất sinh? Do chân đế. Trong Mười hai duyên sinh, chưa có thể lìa tướng sinh để trụ tướng vô sinh. Chưa nhập địa thứ bảy cho nên gọi là vô minh. Nếu không đoạn vô minh nầy thì không nhập địa thứ bảy, cho nên vô minh nầy làm chướng ngại địa thứ bảy.
Vô minh đối với vô tướng khởi tâm công dụng, là chướng của địa thứ tám. Nếu người tu hành địa thứ tám do khởi tâm công dụng để trừ vô minh vi tế tướng hạnh và vì trụ trong tâm vô tướng, chưa có thể tự nhiên hằng trụ tâm vô tướng không có gián đoạn thiếu khuyết cho nên gọi là vô minh. Nếu không đoạn vô minh nầy thì không nhập địa thứ tám, do đó vô minh nầy làm chướng ngại địa thứ tám.
Vô minh đối với sự lợi ích của chúng sinh không do công dụng, là chướng của địa thứ chín. Nếu người tu hành địa thứ chín, tâm tự nhiên hằng trụ vô tướng, chỉ có trong làm việc lợi ích cho chúng sinh với bốn thứ tự tại, chưa có thể tự nhiên hằng khởi lợi ích cho chúng sinh, cho nên gọi là vô minh. Nếu không đoạn vô minh nầy thì không được nhập địa thứ chín, cho nên vô minh nầy làm chướng ngại địa thứ chín.
Vô minh trong nhiều pháp không được tự tại, là chướng của địa thứ mười. Nếu người tu hành địa thứ mười, đối với sư thành tựu nghiệp ba thân và pháp bí mật vi tế Đà-ra-ni Tam-ma-đề thì vì chưa đắc tự tại cho nên gọi là vô minh. Nếu không đoạn vô minh nầy thì không được nhập vào địa thứ mười, cho nên vô minh nầy làm chướng ngại địa thứ mười.
Luận nói: Vì sao có thể làm rõ mười tướng của pháp giới.
Giải thích: Câu hỏi nầy muốn làm rõ chân như có mười tướng công đức. Mười công đức nầy có thể sinh mười chánh hạnh và mười thứ quả bất cộng. Để hiển hiện thể của pháp giới, thì mười công đức nầy là làm rõ căn bản của pháp giới, cho nên trước hết hỏi về mười tướng công đức.
Luận nói: Đối với Sơ địa do tất cả nghĩa biến mãn, ưng tri pháp giới.
Giải thích: Chân như pháp giới trùm khắp không sót một pháp nào. Tại sao vậy? Trong các pháp không có một pháp nào không phải vô ngã. Chỗ sinh khởi phân biệt nhân chấp và pháp chấp che lấp tất cả nghĩa biến mãn của pháp giới, do chướng nầy mà người vị nguyện hạnh không được nhập Sơ địa. Nếu trừ bỏ chướng nầy, thì thấy nghĩa biến mãn của Chân như. Nhân chấp và pháp chấp vĩnh viễn được thanh tịnh. Do quán nghĩa nầy được nhập Sơ địa.
Luận nói: Đối với địa thứ hai do nghĩa tối thắng.
Giải thích: Nhân không và pháp không nhiếp tất cả pháp. Tất cả là nghĩa biến mãn. Nghĩa nầy trong tất cả pháp là tối thắng thanh tịnh. Do quán nghĩa nầy được nhập địa thứ hai.
Luận nói: Đối với địa thứ ba do nghĩa thắng lưu.
Giải thích: Chân như là tối thắng trong tất cả các pháp, do duyên chân như mà khởi Vô phân biệt trí. Vô phân biệt trí là sở lưu của Chân như. Trí nầy là tối thắng trong các trí. Nhân theo trí nầy lưu xuất đại bi đã sinh của Vô phân biệt hậu trí. Đại bi nầy là tối thắng trong tất cả định. Nhân theo đại bi nầy, Như Lai muốn an lập chánh pháp cứu tế chúng sinh mà thuyết mười hai bộ kinh Đại thừa. Pháp nầy là sở lưu của đại bi, pháp nầy là tối thắng trong tất cả thuyết. Vì đắc pháp nầy mà Bồ-tát có khả năng làm được tất cả việc khó làm, khó nhẫn có thể nhẫn. Do quán pháp nầy được nhập địa thứ ba.
Luận nói: Đối với địa thứ tư do nghĩa vô nhiếp.
Giải thích: Đối với chân như tối thắng và pháp sở lưu của chân như, Bồ-tát trong đó thấy nghĩa vô nhiếp, là pháp nầy không phải chỗ nhiếp của phi ngã, không phải chỗ nhiếp của tha tánh. Tại sao vậy? Vì ba nghĩa tự tha và pháp bất khả đắc, ví như người bắc Cưu-lâu-việt. Đối với ngoại trần không sinh tưởng của tự nhiếp tha nhiếp. Bồ-tát đối với pháp giới cũng vậy, cho nên pháp ái không được sinh. Do quán nghĩa nầy mà được nhập địa thứ tư.
Luận nói: Đối với địa thứ năm do nghĩa tương tục không khác.
Giải thích: Pháp nầy tuy là vô nhiếp, nhưng ba đời chư Phật trong đó tương tục không khác nhau, không giống như các căn của nhãn, các trần của sắc và sáu đường chúng sinh tương tục có khác nhau. Tại sao vậy? Vì chỗ tạo tác của các pháp phân biệt như vậy tương tục có khác nhau, là chỗ làm rõ chân như của ba đời chư Phật tương tục không khác nhau. Nếu quán nghĩa nầy thì được nhập địa thứ năm.
Luận nói: Đối với địa thứ sáu do nghĩa vô nhiễm tịnh.
Giải thích: Ba đời chư Phật trong pháp nầy, tuy tương tục không khác nhau, nhưng pháp nầy đối với Phật vị lai không có nhiễm, vì bản tánh tịnh. Đối với Phật quá khứ và hiện tại thì không có tịnh, vì bản tánh vô nhiễm. Do quán nghĩa nầy mà được nhập địa thứ sáu.
Luận nói: Đối với địa thứ bảy do nghĩa tất cả các pháp không phân biệt.
Giải thích: Chỗ hiển thị pháp môn của mười hai bộ kinh, do các thứ nghĩa thành lập có khác nhau, từ nhất vị tu hành, nhất vị thông đạt và nhất vị chí đắc không thấy có khác nhau. Do quán nghĩa nầy mà được nhập địa thứ bảy.
Luận nói: Đối với địa thứ tám do nghĩa không tăng không giảm.
Giải thích: Bồ-tát thấy tất cả pháp, khi đạo thành thì không tăng, hoặc khi diệt thì không giảm. Trí như vậy là y chỉ của tướng tự tại và cõi tự tại. Tướng tự tại, là như chỗ muốn cầu lấy tướng tự tại, thì liền được hiện tiền.
Cõi tự tại, là nếu Bồ-tát khởi nguyện phân biệt, nguyện cõi nầy đều thành Phả-lê-kha (pha-lê). Vì tự tại cho nên như chỗ nguyện đó liền được thành. Tự tại thứ nhất làm thành thục Phật pháp, tự tại thứ hai làm thành thục chúng sinh. Hai tự tại nầy do trí không tăng không giảm mà được thành, tức là lấy trí không tăng không giảm làm y chỉ. Do quán nghĩa nầy mà được nhập địa thứ tám.
Luận nói: Đối với địa thứ chín do nghĩa định tự tại y chỉ, do nghĩa y chỉ cõi tự tại, do nghĩa y chỉ trí tự tại.
Giải thích: Nghĩa y chỉ thứ nhất và thứ hai giải thích như trước. Trí tự tại, là chỗ làm rõ của bốn Vô ngại giải gọi là trí, trí nầy lấy vô phân biệt hậu trí làm thể. Tại sao vậy? Vì khắp tất cả pháp môn đều không điên đảo. Do đắc trí nầy mà thành đại pháp sư, có thể khiến cho chúng sinh đại thiên thế giới vô cùng nhập nghĩa sâu màu, có thể thành như ý cho nên gọi là tự tại. Tự tại nầy lấy vô phân biệt trí làm y chỉ. Do đắc tự tại nầy cho nên nhập địa thứ chín. Lại nữa, giải thích thông đạt pháp giới làm y chỉ của trí tự tại, cho nên đắc bốn vô ngại giải. Do quán nghĩa nầy mà được nhập địa thứ chín.
Luận nói: Đối với địa thứ mười do nghĩa của y chỉ vào nghiệp tự tại, do nghĩa của y chỉ vào Đà-la-ni và Tam-ma-đề tự tại nên biết rõ pháp giới.
Giải thích: Thông đạt pháp giới là làm sự lợi ích của chúng sinh, Nếu đắc ba nghiệp của chư Phật và đắc Đàla-ni và Tam-ma-đề, thì có thể thông đạt tất cả pháp tạng bí mật của Như Lai, được nhập địa thứ mười. Lại nữa, giải thích thông đạt pháp giới làm y chỉ của nghiệp tự tại, Thông Đạt pháp giới làm y chỉ của Đà-la-ni và Tamma-đề tự tại, do thông đạt nầy mà làm hóa độ mười phương chúng sinh, đắc ba thân và ba nghiệp, cho nên gọi là nghiệp tự tại. Do đắc Đà-la-ni Tam-ma-đề và tất cả pháp tạng bí mật của Như Lai thông đạt như ý, cho nên gọi là tự tại. Ba thứ tự tại nầy đều lấy chân như làm y chỉ. Do quán nghĩa nầy mà được nhập địa thứ mười. Nếu thông đạt pháp giới thì mười thứ công đức của chân như đắc quả gì?
1. Nếu thông đạt công đức pháp giới biến khắp thì đắc nghĩa thông đạt tất cả không chướng ngại, đắc tất cả quả diệt trừ chướng ngại.
2. Nếu thông đạt công đức pháp giới tối thắng thì đắc quả Bồ-đề tối thắng vô đẳng đối với tất cả chúng sinh.
3. Nếu thông đạt công đức văn cú thù thắng của pháp giới thì đắc được pháp âm vô biên và có thể viên mãn quả ý dục của tất cả chúng sinh. Tại sao vậy? Vì pháp âm nầy vô biên không điên đảo.
4. Nếu thông đạt công đức vô nhiếp pháp giới thì đắc như chỗ thích đáng về quả lợi ích của tất cả chúng sinh.
5. Nếu thông đạt công đức pháp giới tương tục không khác thì đắc cùng với quả pháp thân không sai biệt của ba đời chư Phật.
6. Nếu thông đạt công đức mười hai duyên sinh và chân như không nhiễm tịnh thì chứng được sự tương tục thanh tịnh và có thể làm thanh tịnh quả nhiễm trược của tất cả chúng sinh.
Nếu thông đạt công đức không sai biệt của pháp thì đắc tất cả tướng diệt hằng trụ quả vô tướng.
7. Nếu thông đạt công đức không tăng không giảm thì đắc cùng chung nghiệp quả oai đức và trí tuệ bình đẳng của chư Phật.
8. Nếu thông đạt công đức về bốn loại y chỉ tự tại thì đắc quả ba thân.
9. Nếu thông đạt y chỉ của vô phân biệt thì đắc quả Pháp thân.
10. Nếu thông đạt y chỉ của độ và trí tự tại thì đắc quả Ứng thân.
Do Ứng thân nầy trong đại tập được cùng chung với chúng sinh thọ quả pháp lạc.
11. Nếu thông đạt y chỉ của nghiệp thì đắc quả Hóa thân. Nhân theo quả nầy có thể khởi quả lợi ích vô biên của vô lượng chúng sinh.
Luận nói: Trong đây nói Kệ:
Biến mãn, nghĩa tối thắng,
Thắng lưu và vô nhiếp,
Không khác, không nhiễm tịnh.
Tất cả pháp không riêng.
Bốn thứ không tăng giảm,
Y chỉ nghĩa tự tại,
Y chỉ nghiệp tự tại,
Tổng trì Tam-ma-đề.
Như vậy hai bài Kệ y theo Trung Biên Luận, phải nên biết rõ.
Lại nữa, vô minh nầy phải biết đối với Nhị thừa không phải nhiễm ô, đối với Bồ-tát là nhiễm ô.
Giải thích: Nhị thừa tu hành không vì nhập mười địa, thì vô minh nầy không chướng Nhị thừa, không phải chỗ phá của đạo Nhị thừa, vì không nhiễm ô Nhị thừa. Bồtát tu hành là để nhập mười địa, thì vô minh nầy chướng mười địa của Bồ-tát, bị Bồ-tát đạo phá, vì nhiễm ô Bồtát. Nếu Bồ-tát từ Sơ địa, có thể thông đạt tất cả địa, tại sao thứ tự chế lập các địa sai biệt? Do trụ nầy, Bồ-tát tu hành mười độ, hai hạnh thông và biệt, nhân theo trụ nầy mà tu hạnh riêng, thứ tự chế lập sự sai biệt của mười địa.
----------------------------------------
Luận nói: Tại sao Sơ địa gọi là hoan hỷ? Vì mới đắc công năng lợi ích của tự tha.
Giải thích: Bồ-tát khi mới đăng địa, thì liền được đầy đủ công năng tự lợi lợi tha, là chỗ chưa đắc trước kia, bây giờ mới đắc, cho nên hoan hỷ (vui mừng). Thanhvăn khi mới chứng chân như thì chỉ đắc công năng tự lợi, không có công năng lợi tha. Thanh-văn cũng có nghĩa hoan hỷ, nhưng không bằng Bồ-tát, chỉ Sơ địa Bồtát mới được lập tên hoan hỷ, Sơ quả của Thanh-văn không lập tên nầy. Lại nữa, pháp xuất thế mà trước kia, bây giờ mới được chứng, thì vô lượng nhân duyên vui mừng rất to lớn, hằng tương tục sinh cho nên gọi là hoan hỷ.
Luận nói: Tại sao địa thứ hai gọi là vô cấu? Vì địa nầy xa lìa sự phạm giới nhỏ Bồ-tát.
Giải thích: Bồ-tát trong địa nầy có tự tánh thanh tịnh giới, không phải như Sơ địa do chỗ đắc của chánh tư lương, cho nên gọi là vô cấu. Lại nữa, trong địa nầy, đã lìa xa tất cả tội cấu phạm giới vi tế, tự tánh thanh tịnh giới hằng tương tục lưu chuyển cho nên gọi là vô cấu.
Luận nói: Tại sao địa thứ ba gọi là minh diệm? Vì không thoái chuyển y chỉ của Tam-ma-đề và Tam-mabạt-đề, y chỉ của đại pháp quang minh.
Giải thích: Bồ-tát trong địa nầy, chưa từng lìa Tamma-đề và Tam-ma-bạt-đề, vì không thoái chuyển định nầy, giáo pháp mà Đại thừa nói thì y chỉ vào định nầy. Đại pháp là Đại thừa pháp, Vô phân biệt trí và Vô phân biệt hậu trí gọi là quang minh. Bồ-tát cũng hằng không lìa trí nầy. Văn trì (nghe và tu trì) Đà-la-ni làm y chỉ của trí nầy, lấy định làm minh, lấy trí làm diệm (lửa sáng rực), cho nên gọi là minh diệm. Lại nữa, giải thích định làm trí căn cho nên gọi là y chỉ, trí làm định căn cho nên cũng gọi là y chỉ. Lại nữa, địa nầy là trí tuệ chiếu sáng vô lượng, là y chỉ của vô lượng Tam-ma-đề văn trì (nghe và tu trì) Đà-la-ni, cho nên gọi là minh diệm.
Luận nói: Tại sao địa thứ tư gọi là thiêu nhiên? Vì pháp trợ Bồ-đề có thể tiêu diệt tất cả chướng.
Giải thích: Bồ-tát trong địa nầy, hằng trụ pháp trợ đạo cho nên gọi là nhiên, do trụ pháp nầy mà đốt cháy hết mê hoặc lớn, nhỏ, nên gọi là thiêu, cho nên gọi là thiêu nhiên. Lại nữa, lửa đạo rất mạnh mẽ, có thể thiêu cháy củi mê hoặc, cho nên gọi là thiêu nhiên.
Luận nói: Tại sao địa thứ năm gọi là nan thắng? Vì chân trí và tục trí trái nghịch lẫn nhau, có thể tập hợp các pháp khó hợp khiến cho tương ưng.
Giải thích: Chân trí thì vô phân biệt, tục trí thì như nêu rõ công xảo… Là có phân biệt. Phân biệt và vô phân biệt, hai thứ nầy trái nghịch lẫn nhau, hợp lại khiến cho tương ưng thì sự nầy là khó. Bồ-tát trong địa nầy có thể khiến cho tương ưng, cho nên gọi là Nan thắng.
Luận nói: Tại sao địa thứ sáu gọi là Hiện tiền? Vì biết rõ y chỉ của mười hai duyên sinh, nên có thể khiến cho Bát-nhã Ba-la-mật trụ Hiện tiền.
Giải thích: Bồ-tát trong địa nầy trụ vào pháp quán mười hai duyên sinh. Do lực của mười hai duyên sinh mà đắc vô phân biệt trụ. Vô phân biệt trụ tức là Bát-nhã Ba-la-mật. Bát-nhã Ba-la-mật nầy hằng trụ rõ ràng, cho nên gọi là hiện tiền.
Luận nói: Tại sao địa thứ bảy gọi là viễn hành? Vì đến mé cuối cùng của hạnh công dụng.
Giải thích: Bồ-tát trong địa nầy, khởi công dụng tâm tu hành đã xong, tư lương rốt ráo tất cả tướng đều quyết định rõ ràng. Tư lương nầy do công dụng mà được thành, trụ tại mé cuối cùng trong gia hạnh công dụng tâm, cho nên gọi là viễn hành. Lại nữa, không có gián đoạn thiếu khuyết tư duy các pháp tướng, lâu dài nhập tâm tu hành, cùng với địa thanh tịnh lân cận tiếp nhau cho nên gọi là Viễn hành.
Luận nói: Tại sao địa thứ tám gọi là Bất động? Vì tất cả tướng và công dụng của tác ý không thể dao động.
Giải thích: Đối với vô tướng và tất cả tướng khởi công dụng tâm và hoặc không có thể dao động. Bồ-tát đối với địa nầy có hai cảnh: 1. Chân cảnh. 2. Tục cảnh.
Chân cảnh gọi là vô tướng. Bồ-tát trụ cảnh nầy, thì tất cả tướng và công dụng không thể chuyển động. Tục cảnh gọi là tất cả tướng, tức là sự lợi ích chúng sinh. Bồ-tát trụ cảnh nầy thì tất cả hoặc không thể nhiễm ô. Tâm Bồtát do hai nghĩa nầy cho nên gọi là bất động. Lại nữa, tất cả tướng, tất cả các pháp và tất cả công dụng, không thể chuyển động tâm vô phân biệt của Bồ-tát. Tại sao vậy? Vì tâm vô phân biệt nầy tự nhiên tương tục hằng lưu chuyển cho nên gọi là bất động.
Luận nói: Tại sao địa thứ chín gọi là Thiện Tuệ? Vì biết y chỉ pháp thù thắng vô ngại.
Giải thích: Bồ-tát trong địa nầy, chỗ đắc tứ biện là tuệ, tuệ nầy viên mãn không thoái chuyển, không cấu nhiễm gọi là thiện, do đó gọi là Thiện Tuệ. Lại nữa, Bồtát trong địa nầy có thể nói đầy đủ tất cả các pháp. Do đắc vô thất quảng đại trí tuệ, vì có công năng nầy cho nên gọi là Thiện Tuệ.
Luận nói: Tại sao địa thứ mười gọi là Pháp vân? Vì duyên chung cảnh mà biết tất cả pháp. Nhất thiết Đà-lani môn và Tam-ma-đề môn làm tạng cho nên thí dụ như mây, có thể che khuất thô chướng như hư không, có thể làm viên mãn pháp thân.
Giải thích: Bồ-tát trong địa nầy đắc trí như vậy, có thể duyên tất cả các pháp chung làm một cảnh, trí nầy có công năng thù thắng. Thí dụ như mây có ba nghĩa: 1. Năng tạng. 2. Năng phú. 3. Năng ích. Như tịnh thủy trong mây làm chỗ hàm chứa trong mây, tức là nghĩa năng tạng. Trí nầy cũng như thế, Đà-la-ni môn và Tamma-đề môn như tịnh thủy trong trí nầy, làm chỗ hàm chứa trong trí nầy, cho nên có nghĩa năng tạng. Mây có thể che một phần hư không, trí nầy cũng vậy, có thể che khuất tất cả hoặc chướng thô to, làm năng đối trị, làm diệt đạo của tự địa, làm bất sinh đạo của các địa khác. Lại nữa, như mây có thể đầy khắp hư không, trí nầy cũng vậy, có thể làm viên mãn chuyển y pháp thân của Bồ-tát. Do hai ý nầy cho nên có nghĩa là năng phú. Bồ-tát do có trí nầy, như vầng mây lớn đối với tất cả chúng sinh, tùy căn tùy tánh thường mưa pháp vũ, có thể trừ khử phiền não nóng bức của chúng sinh, có thể thoát khỏi tam chướng trần cấu, có thể sinh trưởng thiện chủng ba thừa của chúng sinh, cho nên có nghĩa năng ích. Pháp làm đề mục cho trí nầy, là lấy mây thí dụ cho trí, cho nên gọi là pháp vân. Gọi chung địa có bốn nghĩa: 1. Trụ nghĩa. 2. Xứ nghĩa. 3. Nhiếp nghĩa. 4. Trị nghĩa. Là mười một trụ vị của vô lưu thắng trí, lấy trụ làm nghĩa, là thọ dụng an lạc trụ trong hiện đời, vì thành tựu Phật pháp, vì thành thục chúng sinh xứ, cho nên lấy xứ làm nghĩa. Vì tổng nhiếp tất cả phước đức trí tuệ, cho nên lấy nhiếp làm nghĩa, có thể đối trị hoặc và lưu chuyển, cho nên lấy trị làm nghĩa.
-----------------------------------
Luận nói: Tại sao phải biết tướng đắc các địa?
Giải thích: Nếu Bồ-tát đắc thật tướng do đã đắc của hoan hỷ địa, thì tướng nầy có thể phát khởi tự tinh tấn tâm của Bồ-tát, có thể sinh tâm tin ưa của chúng sinh, có thể khiến cho Bồ-tát lìa tâm tăng thượng mạn. Cần phải nói chỗ đắc tướng của địa, cho nên hỏi làm sao phải biết! Luận nói: Do bốn thứ tướng.
Giải thích: Trong bốn thứ tướng, tùy một tướng hiển hiện, thì nghiệm biết người nầy đã nhập Bồ-tát địa. Tại sao vậy? Vì bốn tướng nầy là người lìa đăng địa, đối với các vị khác thì không có.
Luận nói: 1. Do đã đắc tướng tín ưa, đối với mỗi mỗi địa quyết định sinh tin ưa.
Giải thích: Có năm thứ tin ưa, như luận Địa Trì nói: 1. Không phóng dật. 2. Chúng sinh gặp khổ nạn không chỗ cứu không chỗ nương, vì cứu tế mà làm chỗ y chỉ cho họ. 3. Đối với Tam bảo khởi tâm tuyệt đối tôn trọng, cùng tận các thứ cúng dường. 4. Biết mọi sai lầm, không một niệm che giấu, liền đều phát lồ. 5. Trong tất cả sự và tư, tu, trước hết phát Bồ-đề tâm. Trong năm tướng nầy, tùy một tướng hiển hiện thì liền nghiệm biết đã nhập Bồ-tát địa, ví như người Tu-đà-hoàn đắc bốn pháp tín bất hoại. Tại sao vậy? Vì năm tướng nầy là pháp hành mà Bồ-tát thường hành, cho nên có khả năng làm rõ Bồtát đã nhập tướng của địa.
Luận nói: 2. Do đã đắc hành tướng, đắc cùng với địa tương ưng mười pháp chánh hạnh.
Giải thích: Nếu Bồ-tát tu hành mười địa, thì không ra ngoài mười chánh hạnh nầy. Mười chánh hạnh nầy là y chỉ của mười địa. Mười pháp chánh hạnh như Luận Thập Thất Địa nói: Chư Bồ-tát trong Đại thừa, vì thành thục chúng sinh mà có mười thứ thiện pháp chánh hạnh, cùng với Đại thừa tương ưng. Là chỗ nhiếp của Bồ-tát tạng trong mười hai bộ Kinh Phương đẳng. Những gì là mười? 1. Thư trì. 2. Cúng dường. 3. Thí tha. 4. Nếu người khác có chánh thuyết thì cung kính nghe nhận. 5. Tự độc. 6. Dạy người khác khiến họ chứng đắc. 7. Nhất tâm tập tụng như những điều nói. 8. Vị tha mà rộng giải thích như lý. 9. Một mình ở nơi yên tĩnh chánh tư duy chọn lựa xứng với lượng. 10. Do tu tướng nhập ý. Mười thứ chánh hạnh như vậy, có bao nhiêu là đạo đại phước đức, bao nhiêu là đạo gia hạnh, bao nhiêu là đạo tịnh chướng? Tất cả là đạo đại phước đức. Chánh hạnh thứ chín là đạo gia hạnh. Chánh hạnh thứ mười là đạo tịnh chướng.
Luận nói: 3. Do đã đắc thông đạt tướng, trước hết đối với Sơ địa khi thông đạt chân như pháp giới, thì đều có thể thông đạt tất cả địa.
Giải thích: Do tứ, tầm, tư và tứ như thật trí, mà chỗ đắc các địa của chân như không khác nhau.
Luận nói: 4. Do đã đắc thành tựu tướng, thì mười địa nầy đều đã đến rốt ráo tu hành.
Giải thích: Thành tựu tâm có bốn thứ, sở duyên cảnh cũng có bốn thứ, Bồ-tát trong nguyện lạc địa khéo tăng trưởng thiện căn, đã nương vào Bồ-đề đạo xa lìa nhị chấp, là tâm của Bồ-tát duyên bốn thứ cảnh mà khởi. Những gì là bốn? 1. Duyên Bồ-đề tư lương của đời vị lai, nhanh chóng viên mãn. 2. Duyên khởi sự lợi ích chúng sinh viên mãn. 3. Duyên quả Vô thượng Bồ-đề. 4. Duyên cụ tướng và phật sự viên mãn chư Như Lai.
Duyên bốn cảnh nầy thì liền có bốn tâm: 1. Tinh tấn tâm. 2. Đại bi tâm. 3. Thiện nguyện tâm. 4. Thiện hạnh tâm.
-------------------------------
Luận nói: Tại sao phải biết tu tướng của các địa?
Giải thích: Đã nói tướng đắc các địa, lại lấy phương tiện tu nào có khả năng đắc các địa, cho nên hỏi tại sao phải biết.
Luận nói: Chư Bồ-tát trước hết trong các địa, tu tập Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na, mỗi địa đều có năm tướng tu tập được thành.
Giải thích: Các Bồ-tát ba đời tu hành đều đồng nhau, vì đắc những pháp chưa từng đắc làm đầu, đây là làm rõ tu thời đang tại thanh tịnh ý vị, cho nên nói chỗ tu mười Ba-la-mật trong các địa. Chung có hai thể.
1. Bất tán loạn làm thể. 2. Bất điên đảo làm thể. Bất tán loạn thuộc Xa-ma-tha, bất điên đảo thuộc Tỳ-bátxá-na. Các địa mỗi mỗi đều có đủ năm tướng tu tập được thành Bồ-tát địa. Nếu không có năm thứ tu nầy thì không được nhập Bồ-tát địa.
Luận nói: Những gì là năm? 1. Tập tổng tu.
Giải thích: Nương vào những gì Phật nói là Chánh giáo Đại thừa, các thứ nghĩa lý, các thứ văn cú, các thứ nghĩa lý, các thứ pháp môn đều do tứ, tầm, tư và tứ như thật trí. Quán sát tự tánh và sai biệt của danh nghĩa và pháp môn đều bất khả đắc. Bất khả đắc nầy không thể nói là hữu, vì lìa tam tánh, không thể nói vô, vì là quả thanh tịnh phạm hạnh. Những gì mà Như Lai nói là một vị, cho nên gọi là tổng tu. Tu nầy nương vào hạnh trí tuệ. Luận nói: 2. Vô tướng, tu.
Giải thích: Như điều đã nói ở trước về vô trước… năm thứ thanh tịnh, cho nên gọi là vô tướng. Lại nữa, đối với tự thân báo và ân quả báo không nhiễm trước, cho nên gọi là vô tướng. Tu nầy là nương vào hạnh đại Tuệ.
Luận nói: 3. Vô công dụng tu.
Giải thích: Bồ-tát không do khởi công dụng tâm, mà tự nhiên tại Bồ-đề hạnh. Nếu đối với các sự khác thì cần phải khởi công dụng tâm. Tu nầy là nương vào tự tại và chánh kiến hạnh.
Luận nói: 4. Xí thịnh tu.
Giải thích: Bồ-tát không đem tâm xa xôi mà tu đạo, xả tâm hạ phẩm và trung phẩm, y chỉ tâm thượng phẩm. Khi tu hành, đối với thân mạng, tài vật không tham lam bỏn xẻn, cho nên gọi là xí thịnh. Tu nầy là nương vào tin tấn hạnh.
Luận nói: 5. Bất tri túc tu.
Giải thích: Như điều đã nói ở trước, trong thời gian lâu dài tu thí… Các hạnh, không sinh mệt chán cho nên gọi là bất tri túc. Tu nầy là nương vào tín hạnh. Như trong Kinh nói: Nếu người có tín thì đối với thiện không chán.
Luận nói: Phải biết đối với các địa đều có năm thứ tu này.
Giải thích: Các địa đều có năm thứ tu, năm thứ tu có hai nghĩa:
1. Chưa đắc khiến cho đắc. 2. Đã đắc khiến cho không mất.
Luận nói: Năm thứ tu nầy sinh năm pháp làm quả.
Giải thích: Năm thứ tu là nhân, năm pháp là quả. Quả có hai thứ:
1. Chân thật quả. 2. Giả danh quả. Năm pháp là chân thật quả, địa là giả danh quả. Vì năm pháp làm thành quả cho nên địa là giả danh quả.
Luận nói: Những gì là năm? 1. Từng Sát-na có thể hoại tất cả y pháp thô trọng.
Giải thích: Hoặc chướng là thô, trí chướng là trọng. Trong bản thức tất cả bất tịnh phẩm huân tập chủng tử, làm y pháp của hai chướng nầy. Sát-na thứ nhất làm thứ đệ đạo. Sát-na thứ hai làm giải thoát đạo. Sát-na thứ nhất làm hư hoại mê hoặc hiện tại, khiến nó diệt mất.
Sát-na thứ hai ngăn che mê hoặc vị lai khiến nó không sinh. Lại nữa, do Xa-ma-tha Tỳ-bát-xá-na trí duyên tổng pháp làm cảnh. Từng Sát-na có thể phá hoại các khối mê hoặc. Những gì cần đối trị thì khiến cho nó diệt mất, cái không phải đối trị thì khiến nó yếu đi. Hoặc nầy diệt không sinh quả, là tổng tu sở đắc.
Luận nói: 2. Có thể được lìa khỏi các thứ pháp lạc loạn tưởng.
Giải thích: Có thể được lìa khỏi các thứ tướng tưởng hiện thọ pháp lạc. Tại sao vậy? Như Lai tùy theo căn tánh và phiền não hạnh của chúng sinh, mà lập các thứ pháp tướng. Nếu ai y theo văn phán đoán nghĩa thì các pháp nầy trước sau trái nhau. Nếu chấp tướng nầy thì không lìa nghi hoặc. Trong chánh pháp thì hiện đời không có nghĩa đắc an lạc trụ. Nếu nương vào vô tướng tu, thì trong chánh pháp lìa khỏi các thứ lập tướng tưởng, quán chánh thuyết nầy đồng nhất chân như vị, tâm không nghi ngờ chán ghét. Trong chánh pháp, tùy ý tự tại cho nên hiện đời đắc an lạc trụ. Đây là pháp thành thục quả của Phật pháp, là sở đắc của vô tướng tu.
Luận nói: 3. Có thể thấy tất cả xứ, vô lượng, vô phân biệt tướng, thiện pháp quang minh.
Giải thích: Căn cứ theo Nhị thừa pháp nói tất cả xứ, lại cũng căn cứ theo nội pháp và ngoại pháp mà nói tất cả xứ, lại cũng căn cứ theo chân, tục mà nói tất cả xứ. Tất cả xứ như vậy Bồ-tát có thể thấy vô lượng tướng, như pháp tướng mà Phật nói và pháp tướng mà thế gian lập, Bồ-tát đều có thể liễu đạt, tức là như lượng trí, như chính số lượng đó, Bồ-tát lấy như lý trí để thông đạt vô phân biệt tướng. Hai trí nầy có thể soi rõ cảnh của chân, tục, cho nên gọi là thiện pháp quang minh. Hai trí quả nầy là sở đắc của vô công dụng tu.
Luận nói: 4. Như sở phân biệt pháp tướng, chuyển đắc thanh tịnh phần hằng tương tục sinh, vì viên mãn thành tựu pháp thân.
Giải thích: Như những gì được nghe xưa kia, Xa-matha Tỳ-bát-xá-na trong tư lương giác quán chưa viên mãn chưa tròn đủ, chưa tùy theo duyên hạnh, vì chưa có tu nhiệt tâm, đã đắc tu nhiệt tâm nầy là do lìa chướng mà chuyển đắc thanh tịnh phần. Do tương tục sinh cho nên được viên mãn, do viên mãn cho nên đắc xúc pháp thân, đến cứu cánh vị cho nên được thành tựu, là khởi thời, viên mãn thời và cứu cánh thời. Lại nữa, Như Lai có hai thứ thân: 1. Giải thoát thân. 2. Pháp thân. Do diệt hoặc cho nên giải thoát thân viên mãn, do giải thoát thân viên mãn cho nên pháp thân thành tựu. Quả xuất ly nầy là sở đắc của tu nhiệt tâm.
Luận nói: 5. Trong thượng phẩm chuyển tăng làm tối thượng thượng phẩm nhân duyên tụ tập.
Giải thích: Bồ-tát đăng địa đã đắc thượng phẩm, do bất tri túc đối với thiện pháp, càng tinh tấn tu tập thêm nữa. Từ Sơ địa chuyển xúc địa thứ hai, cho đến từ địa thứ mười chuyển xúc Phật quả, thành tối thượng phẩm. Trước hết chỗ tu tư lương phước đức trí tuệ, vô phân biệt trí làm nhân, các trợ đạo pháp làm duyên, đồng thời đầy đủ cho nên nói nhân duyên tụ tập. Viên mãn quả nầy là sở đắc của bất tri túc tu. Nghĩa của các địa khác, thì phải biết Luận Thập Thất Địa nói như vậy. Là hữu năng hay vô năng, trong mười địa có bao nhiêu loại pháp, chưa diệt làm cho diệt, chưa đắc làm cho đắc? Bồ-tát tu hành mười địa, trước hết Bồ-tát trong nguyện hạnh địa, đối với mười thứ pháp hạnh tu nguyện nhẫn được thành, do nguyện nhẫn được thành vượt qua nguyện hạnh địa nhập chánh định vị của Bồ-tát. Nguyện có mười đại nguyện:
1. Cúng dường nguyện, là nguyện cúng dường sư pháp chủ của thắng duyên phước điền.
2. Thọ trì nguyện, là nguyện thọ trì chánh pháp thắng diệu.
3. Chuyển pháp luân nguyện, là nguyện trong đại tập chuyển pháp luân chưa từng có.
4. Tu hạnh nguyện, là nguyện như thuyết tu hành tất cả chánh hạnh của Bồ-tát.
5. Thành thục nguyện, là nguyện thành thục thiện căn của khí thế giới và chúng sinh ba thừa nầy.
6. Thừa sự nguyện, là nguyện vãng sinh chư Phật quốc độ thường thấy chư Phật, hằng được kính thờ nghe thọ chánh pháp.
7. Tịnh độ nguyện, là nguyện thanh tịnh tự độ an lập chánh pháp và chúng sinh có thể tu hành.
8. Bất Ly nguyện, là nguyện đối với tất cả sinh xứ hằng không lìa chư Phật Bồ-tát đắc đồng ý hạnh.
9. Lợi ích nguyện, là nguyện đối với tất cả thời hằng làm sự lợi ích chúng sinh không bỏ luống.
10. Chánh giác nguyện, là nguyện cùng với tất cả chúng sinh đồng được Vô thượng Bồ-đề hằng làm Phật sự. Mười nguyện nầy đến khi đăng Sơ địa thì mới được thành lập. Tại sao vậy? Vì nguyện nầy lấy chân như làm thể. Sơ địa có thể thấy chân như. Nhẫn, tức là vô phân biệt trí, do nguyện mà nhẫn được thành cho nên có hai thứ thắng năng:
1. Năng diệt.
2. Năng đắc.
Tại sao như vậy? Vì có hai mươi hai vô minh, là mười một thô trọng báo chướng và mười một địa. Các địa mỗi mỗi đều có thể diệt trừ tam chướng, mỗi mỗi đều đắc công đức thù thắng. Sơ địa có thể diệt trừ ba chướng.
1. Pháp ngã phân biệt vô minh.
2. Ác đạo nghiệp vô minh.
Hai thứ vô minh nầy chiêu cảm phương tiện sinh tử gọi là thô trọng báo, vì diệt trừ ba chướng cho nên tu chánh cần. Nhân theo tu chánh cần mà diệt ba chướng, đã được nhập sơ địa và đắc mười phần viên mãn:
1. Nhập chánh định vị của Bồ-tát, vì nhập sơ vô lưu địa của Bồ-tát.
2. Sinh vào nhà Phật, như các Bồ-tát sinh vào nhà của pháp vương, đầy đủ tôn thắng.
3. Chủng tánh không thể chê ghét, vì vượt qua chủng tánh của Nhị thừa và thế gian.
4. Đã chuyển tất cả thế gian hạnh, vì quyết định không làm sát sinh… Các tà hạnh
5. Đã đến xuất thế hạnh, chỗ đắc các địa chắc chắn không lưu chuyển.
6. Đã đắc pháp như của Bồ-tát, vì đắc tự tha bình đẳng.
7. Đã khéo lập xứ của Bồ-tát, vì chứng chân thật pháp của Bồ-tát.
8. Đã đến ba đời bình đẳng, vì giác ngộ rõ ràng chân như của tất cả pháp vô ngã.
9. Đã quyết định trong Như Lai tánh, tương lai chắc chắn thành Phật.
10. Đã lìa sự như quả trứng hư, vì Phật đạo phá vở vô minh. Đối với ngoại đạo nhập Niết-bàn, Bồ-tát đối với sơ địa. Do thấy nghĩa biến mãn của pháp giới. Đắc mười phần nầy, như Thanh-văn tại sơ quả có mười phần công đức, do phần nầy mà sơ địa viên mãn. Bồ-tát đối với sơ địa chưa thắng năng, chưa có thể liễu đạt việc làm lỗi phạm giới vi tế trong Bồ-tát giới, cho nên người chưa có khả năng là do ba chướng.
1. Vi tế phạm lỗi vô minh.
2. Chủng chủng tướng nghiệp hành vô minh.
Hai vô minh nầy đã chiêu cảm phương tiện sinh tử cho nên gọi là quả báo thô và trọng. Vì diệt ba chướng cho nên tu chánh cần. Nhân theo tu chánh cần diệt trừ ba chướng, đã nhập địa thứ hai, đắc tám thứ công đức thanh tịnh:
1. Tin ưa thanh tịnh.
2. Tâm thanh tịnh.
3. Từ bi thanh tịnh.
4. Ba-la-mật thanh tịnh.
5. Thấy Phật thờ Phật thanh tịnh.
6. Thành thục chúng sinh thanh tịnh.
7. Sinh thanh tịnh.
8. Oai đức thanh tịnh.
Đối với các địa thượng thượng lìa địa Như Lai, tám thứ công đức nầy chuyển thượng, chuyển thắng. Do phần nầy cho nên địa thứ hai viên mãn. Bồ-tát đối với địa thứ hai chưa có thắng năng, chưa đắc tứ định, tứ không Tam-ma-bạt-đề của thế gian, và văn trì Đà-la-ni đầy đủ niệm lực. Nguyên nhân chưa đắc là do ba chướng.
1. Dục ái vô minh.
2. Văn trì đầy đủ Đà-la-ni vô minh.
Hai vô minh nầy đã chiêu cảm phương tiện sinh tử gọi là thô trọng báo, vì diệt trừ ba chướng nầy cho nên tu nhân của chánh cần. Do tu chánh cần diệt ba chướng, đã nhập địa thứ ba, đắc tám thứ chuyển thắng thanh tịnh và tứ định, cho đến thông đạt nghĩa của pháp giới thắng lưu. Do phần nầy cho nên địa thứ ba viên mãn, Bồ-tát đối với địa thứ ba chưa có thắng năng, chưa có thể tùy tự sở đắc trong pháp trợ đạo phẩm trụ lâu như ý, chưa có thể xả lìa Tam-ma-bạt-đề pháp ái tâm thanh tịnh trụ. Nguyên nhân chưa lìa là do ba chướng.
1. Tam-ma-bạt-đề ái vô minh.
2. Hành pháp ái vô minh.
Hai vô minh nầy đã chiêu cảm phương tiện sinh tử làm thô trọng báo, vì diệt ba chướng nầy cho nên tu chánh cần. Do tu chánh cần diệt trừ ba chướng, đã nhập địa thứ tư đắc tám thứ chuyển thắng thanh tịnh, và trong trợ đạo phẩm pháp trụ lâu như ý, cho đến thông đạt nghĩa pháp giới vô nhiếp. Do phần nầy cho nên địa thứ tư viên mãn. Bồ-tát đối với địa thứ tư chưa có thắng năng, Bồtát ngay lúc đang tu Tứ đế quán, đối với sinh tử và Niếtbàn, chưa có thể xả ly hoàn toàn quay lưng với tâm, chưa có thể đắc tu tứ phương tiện chỗ nhiếp đạo phẩm của Bồtát. Nguyên nhân chưa đắc là do tam chướng.
1. Sinh tử và Niết-bàn hoàn toàn trái với thủ tư duy vô minh.
2. Chỗ nhiếp phương tiện tu tập đạo phẩm vô minh. Hai vô minh nầy đã chiêu cảm nhân duyên sinh tử gọi là thô trọng báo, vì diệt trừ ba chướng nầy cho nên tu chánh cần. Do tu chánh cần diệt ba chướng, đã nhập địa thứ năm, đắc tám thứ chuyển thắng thanh tịnh, và được xả ly bội thủ tâm, cho đến thông đạt nghĩa pháp giới tương tục không khác. Do phần nầy cho nên địa thứ năm viên mãn, Bồ-tát đối với địa thứ năm chưa có thắng năng. Những hành pháp sinh khởi tương tục như lý mà chứng. Do phần nhiều tu hành chán ghét hữu vi pháp tướng, chưa có thể trụ vô tướng tư duy thời gian dài như ý. Nguyên nhân chưa có thể được là do ba chướng.
1. Chứng chư hành pháp sinh khởi tương tục vô minh.
2. Tướng tưởng sổ khởi vô minh.
Hai vô minh nầy đã chiêu cảm nhân duyên sinh tử gọi là thô trọng báo, vì diệt ba chướng nầy cho nên tu chánh cần. Do tu chánh cần diệt trừ ba chướng, đã nhập địa thứ sáu, đắc tám thứ chuyển thắng thanh tịnh, và không chứng chư hành sinh khởi tương tục, cho đến thông đạt nghĩa pháp giới vô nhiễm tịnh. Do phần nầy cho nên địa thứ sáu viên mãn, Bồ-tát đối với địa thứ sáu chưa có thắng năng, chưa có thể lìa các hữu vi pháp, các tướng hạnh vi tế sinh khởi, chưa có thể trụ lâu trong vô gián, vô lưu, vô tướng tư duy thời gian dài như ý. Nguyên nhân chưa có thể được là do ba chướng.
1. Vi tế tướng hạnh khởi vô minh.
2. Hoàn toàn vô tướng tư duy phương tiện vô minh. Hai vô minh nầy đã chiêu cảm nhân duyên sinh tử gọi là thô trọng báo. Vì diệt ba chướng nầy cho nên tu chánh cần. Do tu chánh cần diệt ba chướng, đã nhập địa thứ bảy, đắc tám thứ chuyển thắng thanh tịnh và lìa hữu vi pháp, hạnh vi tế khởi các tướng, cho đến thông đạt nghĩa pháp giới chủng chủng pháp vô sai biệt. Do phần nầy cho nên địa thứ bảy viên mãn. Bồ-tát đối với địa thứ bảy chưa có thắng năng, chưa có thể lìa công dụng tâm mà được trụ trong vô tướng tu, chưa có thể ở trong tướng tự lợi, lợi tha mà được tự tại. Nguyên nhân chưa có thể được là do ba chướng.
1. Đối với vô tướng quán khởi công dụng vô minh.
2. Đối với tướng hạnh tự tại vô minh.
Hai vô minh nầy đã chiêu cảm Hữu hữu sinh tử gọi là thô trọng báo, vì diệt ba chướng nầy cho nên tu chánh cần. Do tu chánh cần diệt trừ ba chướng, đã nhập địa thứ tám, đắc tám thứ chuyển thắng thanh tịnh và lìa công dụng tâm, được trụ trong vô tướng tu, cho đến thông đạt nghĩa pháp giới vô tăng giảm. Do phần nầy cho nên địa thứ tám viên mãn, Bồ-tát đối với địa thứ tám chưa có thắng năng, chưa đắc tự tại cụ túc tướng biệt dị danh ngôn phẩm loại trong chánh thuyết, chưa đắc thiện xảo thuyết Đà-la-ni. Nguyên nhân chưa có thể đắc là do ba chướng.
1. Vô lượng chánh thuyết pháp, vô lượng danh, cú, vị khó đáp xảo ngôn tự tại Đà-la-ni vô minh.
2. Y bốn vô ngại giải quyết nghi sinh giải vô minh.
Hai vô minh nầy đã chiêu cảm Hữu hữu sinh tử gọi là thô trọng báo. Vì diệt ba chướng nầy cho nên tu chánh cần. Do tu chánh cần diệt trừ ba chướng, đã nhập địa thứ chín, đắc tám thứ chuyển thắng thanh tịnh và được trụ cụ túc tướng tự tại trong chánh thuyết, cho đến thông đạt nghĩa pháp giới trí tự tại y chỉ. Do phần nầy cho nên địa thứ chín viên mãn, Bồ-tát đối với địa thứ chín chưa có thắng năng, chưa đắc chánh thuyết viên mãn pháp thân, chưa đắc vô trước, vô ngại, viên mãn lục thông Tuệ. Nguyên nhân chưa có thể đắc là do ba chướng.
1. Lục thần thông Tuệ vô minh.
2. Nhập vi tế bí mật phật pháp vô minh.
Hai vô minh nầy đã chiêu cảm Hữu hữu sinh tử gọi là thô trọng báo, vì diệt ba chướng nầy cho nên tu chánh cần. Do tu chánh cần diệt trừ ba chướng, đã nhập địa thứ mười, đắc tám thứ chuyển thắng thanh tịnh và có thể chánh thuyết viên mãn pháp thân, cho đến thông đạt nghĩa pháp giới nghiệp tự tại y chỉ. Do phần nầy cho nên địa thứ mười viên mãn, Bồ-tát đối với địa thứ mười chưa có thắng năng, chưa đắc thanh tịnh viên mãn pháp thân, chưa có thể đối với tất cả biết hợp cảnh mà đắc vô trước, vô ngại kiến và trí. Nguyên nhân chưa đắc là do ba chướng.
1. Đối với tất cả ưng tri cảnh vi tế trước vô minh.
2. Đối với tất cả ưng tri cảnh vi tế ngại vô minh.
Hai vô minh nầy đã chiêu cảm Hữu hữu sinh tử gọi là thô trọng báo, vì diệt ba chướng nầy cho nên tu chánh cần. Do tu chánh cần diệt trừ ba chướng, đã nhập địa Như Lai, đắc bảy thứ tối thắng thanh tịnh, ly sinh thanh tịnh và đắc thanh tịnh viên mãn pháp thân vô trước, vô ngại kiến trí. Do phần nầy cho nên Như Lai địa viên mãn, công đức mười địa đều là hữu thượng, công đức của Như Lai địa đều là vô thượng, các Ba-la-mật đều học xứ của Bồ-tát. Tại sao hoặc nói là có sáu Ba-la-mật, hoặc nói là có mười Ba-la-mật? Nói Ba-la-mật có sáu là gồm có hai ý:
1. Ba thứ Ba-la-mật trước là thành lợi ích tha thế gian.
2. Ba thứ Ba-la-mật sau là thành đối trị tha phiền não.
Do Bồ-tát hành thí, lập công cụ nuôi sống chúng sinh, khiến họ lìa khổ bần cùng. Do Bồ-tát hành giới, lìa bức hại tổn não chúng sinh, khiến họ không có kinh sợ. Do Bồ-tát hành nhẫn, không trả báo cho chúng sinh các ác sự bức hại tổn não, khiến họ an tâm không nghi ngờ. Ba thứ Ba-la-mật nầy là thành tựu lợi ích của thế gian kẻ khác.
Bồ-tát hành tinh tấn, nếu người chưa chế phục hoặc và chưa đoạn hoặc thì có thể an lập người đó vào thiện xứ và trợ thiện xứ. Do tinh tấn nầy, các hoặc không thể khiến cho người kia thoái chuyển thiện xứ và trợ thiện xứ. Bồ-tát hành định, có thể chế phục phiền não của người kia. Bồ-tát hành Bát-nhã, có thể đoạn trừ phiền não của người kia, cho nên ba thứ Ba-la-mật sau làm thành đối trị phiền não kẻ khác.
Hoặc nói Ba-la-mật có mười thứ, là lập thêm bốn số Ba-la-mật. Để trợ thành sáu Ba-la-mật trước cho nên lập sau bốn thứ và trước ba thứ chỗ lợi ích của Ba-la-mật. Do chỗ làm rõ của tứ nhiếp, thì phương tiện Ba-la-mật có thể an lập người kia vào thiện xứ, vì phương tiện Ba-la-mật là ba thứ Ba-la-mật trợ Bạn ở trước. Nếu Bồ-tát đối với hiện đời, hoặc bị phiền não nhiều, hoặc do nguyện sinh xuống hạ giới, hoặc do tâm nhu nhược, đối với hằng tu tập và tâm trụ bên trong không có công năng, định duyên Bồ-tát tạng mà văn cú sinh, không có công năng dẫn ra xuất thế Bát-nhã, Bồ-tát hành công đức thiện căn mỏng ít, nguyện đối với đời vị lai phiền não mỏng ít và vô lực. Đó là lực của Bồ-tát nguyện Ba-la-mật, khiến cho phiền não mỏng ít, có thể phát khởi tinh tấn Ba-lamật của Bồ-tát. Tự làm đã như thế, khiến cho tha cũng như thế, cho nên nguyện Ba-la-mật là trợ bạn của tinh tấn Ba-la-mật, đây là Bồ-tát đã đắc tinh tấn. Do phụng sự thiện tri thức mà được nghe chánh pháp, như nghe rồi khởi chánh tư duy có thể trừ bỏ tâm địa nhu nhược, đối với cảnh vi diệu thì được tâm địa mạnh dạn thù thắng. Đó là lực Ba-la-mật của Bồ-tát. Do tu lực nầy mà Bồtát có thể dẫn tâm khiến cho trụ nội cảnh, cho nên lực Ba-la-mật là trợ bạn của định Ba-la-mật, đây là Bồ-tát đã đắc lực. Duyên văn cú của Bồ-tát tạng chỗ sinh Văn tuệ, Tư tuệ, tu tuệ, và duyên ngũ minh trí. Trí nầy có khả năng như lý mà chọn lựa các cảnh chân và tục. Trí nầy ở trước vô phân biệt trí, hoặc ở sau vô phân biệt trí, đó là trí Ba-la-mật của Bồ-tát. Do trí nầy có khả năng sinh địa và dẫn xuất Bát-nhã. Trí Ba-la-mật là trợ bạn của Bát-nhã Ba-la-mật.
Lại nữa, mười thứ học xứ của Bồ-tát thứ đệ như thế nào? Những Ba-la-mật trước có thể nhiếp thành những Ba-la-mật sau, vì những Ba-la-mật đó làm y chỉ. Nếu Bồ-tát không tham tiếc lục trần và tự thân lạc, được thọ trì cấm giới thì Bồ-tát làm hộ trợ giới. Nhẫn chịu sự huỷ nhục của người khác, do có thể nhẫn chịu cho nên tinh tấn không giải đãi, do tinh tấn dứt ác sinh thiện, xúc chạm với Tam-ma-đề. Nếu định thành tựu thì có thể dẫn xuất thế Bát-nhã. Do Bát-nhã mà hồi hướng sáu độ trước, vì đắc đại Bồ-đề cho nên thí… vô tận. Bát-nhã có thể dẫn phương tiện nhân. Phương tiện nầy phát khởi các thiện nguyện, có khả năng nhiếp tùy thuận sinh xứ. Tất cả sinh xứ hằng gặp Như Lai ra đời, cho nên thường hành thí… Phương tiện có thể dẫn nguyện. Do nguyện nầy mà đắc hai thứ lực: 1. Tư trạch lực. 2. Tu tập lực. Hai thứ lực nầy phá các đối trị của thí… quyết định thường có thể tu hạnh thí… Cho nên nguyện có thể dẫn lực. Do lực nầy mà như ngôn chấp nghĩa (chấp nghĩa theo lời nói), vô minh bị diệt, được thọ tăng thượng duyên chánh thuyết pháp lạc của thí… Do đây, pháp lạc có thể thành thục thiện căn của chúng sinh, vì lực có thể dẫn trí.
Sơ địa do thông đạt nghĩa biến khắp, là đắc xuất thế trí. Bồ-tát thấy chỗ nhiếp pháp giới của kiến đạo, chỗ gọi là nhị không cho nên có thể hiểu rõ tự, tha bình đẳng. Do bình đẳng mà không tự thương mình ghét người, đối với lợi ích tự lợi và lợi tha có thể bình đẳng thực hành, do đó sơ địa hành thí viên mãn.
Địa thứ hai do thông đạt nghĩa tối thắng, là tự tánh thanh tịnh. Bồ-tát khởi ý như vậy: Như Kinh nói: Chúng ta đồng đắc thanh tịnh nầy mà được giải thoát, cho nên chỉ phải tu chân đạo. Kinh nầy làm rõ hai nghĩa:
1. Hiển tự tánh thanh tịnh tối thắng vô biệt của pháp giới.
2. Hiển chân đạo quy thú pháp giới. Đã không thấy pháp giới có hạ phẩm, trung phẩm, thượng phẩm, cho nên không cầu quả Nhị thừa, chỉ cầu Vô thượng Bồ-đề. Thanh tịnh đạo nầy tức là Bồ-tát giới, cho nên địa thứ hai tu hành giới viên mãn.
Địa thứ ba do thông đạt nghĩa thắng lưu cho nên hành nhẫn nhục. Mười hai bộ Kinh mà Như Lai nói là pháp giới thắng lưu. Vì từ thông đạt pháp giới mà sinh. Nếu người như lý y theo văn tự tu hành thì được chứng hy hữu pháp nầy. Bồ-tát khởi tư duy như vậy: Như Kinh nói: Vì đắc văn tự nầy thì không có khó nhẫn mà không thể nhẫn được. Giả sử có lửa chạy dữ dội trong ba ngàn đại thiên thế giới, Bồ-tát vì cầu pháp nầy mà có thể quăng thân vào lửa. Cho nên địa thứ ba hành nhẫn viên mãn.
Địa thứ tư do thông đạt nghĩa vô nhiếp, là quán pháp giới không có chỗ bị hệ thuộc, vì là vô phân biệt trí cảnh. Như Kinh nói: Do thông đạt nầy mà A-ha-na, Tam-mađề, Tam-ma-bạt-đề và thiện pháp ái diệt không sinh lại nữa. Tất cả định và ba mươi bảy pháp trợ đạo trong địa nầy rất thành tựu. Trong đó yêu thích không thể xả ly. Tại sao vậy? Vì lỗi lầm khó thấy, nếu không có tối thắng chánh cần thì ái nầy không thể diệt. Nếu ái nầy diệt thì biết chánh cần đã thành tựu. Cho nên địa thứ tư hành tinh tấn viên mãn.
Địa thứ năm do thông đạt nghĩa tương tục không khác, là tự tánh pháp thân của tất cả chư Phật không có riêng khác. Bồ-tát đắc mười thứ ý thanh tịnh bình đẳng, ý bình đẳng nầy tức là định của Bồ-tát. Tại sao vậy? Vì định của Bồ-tát là cảnh giới bình đẳng vì duyên chân như và chúng sinh. Do hạnh bình đẳng mà nhiếp chung lục độ. Do phương tiện bình đẳng thì lìa tâm trên dưới. Do đạo bình đẳng mà lìa hai thứ cõi không. Mười thứ ý bình đẳng như vậy là thể của định. Cho nên địa thứ năm hành định viên mãn.
Địa thứ sáu do thông đạt nghĩa vô nhiễm tịnh, là Bồtát đang tại địa thứ sáu quán mười hai duyên sinh. Trong quán nầy, không thấy một pháp nào có tịnh có nhiễm. Tại sao vậy? Vì tự tánh của pháp giới vốn thanh tịnh. Mười hai phần của vô minh chỉ có phân biệt làm tánh. Phân biệt đã là vô tướng làm tánh cho nên không thấy pháp có nhiễm. Pháp đã không thành cho nên không thấy pháp có tịnh. Như Kinh nói: mười hai duyên sinh của long vương, hoặc là sinh hoặc là phi sinh. Căn cứ theo tục đế thì nói là sinh, căn cứ theo chân đế thì nói là bất sinh. Lại nữa, đối với mười hai duyên sinh, không có pháp nào gọi là nhiễm, không có pháp nào gọi là tịnh. Vì pháp tánh không có riêng khác, cho nên địa thứ sáu hành Bát-nhã viên mãn.
Địa thứ bảy do thông đạt nghĩa các pháp không sai khác, là Như Lai thuyết ba thừa vô lượng pháp môn, đồng nhất một vị chân như mọi tướng tưởng mà mười hai bộ Kinh nói, vĩnh viễn không sinh lại nữa là do biết nghĩa của các pháp không có khác biệt. Hết thảy các hạnh chân, tục hoàn toàn hồi hướng Vô thượng Bồ-đề, tức là biết trí thù thắng thuộc phương tiện hồi hướng là thể của phương tiện, khiến cho người khác được lợi ích là dụng của phương tiện. Thiện căn của thí… bất giảm bất tận là sự của phương tiện. Phương tiện nầy chỉ vì lợi tha, không vì tự lợi, vì bất tận mà lợi tha vô cùng, cho nên địa thứ bảy hành phương tiện viên mãn.
Địa thứ tám do thông đạt nghĩa không tăng không giảm, là Bồ-tát quán khi phiền não diệt thì không có giảm, khi đạo sinh thì không có tăng. Pháp giới có hai vị: 1. Hữu cấu vị. 2. Vô cấu vị. Bồ-tát không thấy pháp giới cấu vị có tăng, không thấy pháp giới vô cấu vị có giảm, cũng không thấy vô cấu do đạo sinh là tăng, cấu vị do đạo sinh là giảm. Vì không thấy một pháp nào có tăng hay giảm, nên nương vào đây mà pháp giới thắng nguyện được thành. Bồ-tát đối với địa thứ tám duyên cảnh chân, tục thì hai trí trái nhau, nếu lìa nguyện lực thì không có nghĩa cùng chung thành tựu. Tại sao vậy? Vì duyên chân cảnh là sự tự tại của vô phân biệt trí. Vì tâm vô công dụng. Duyên tục cảnh là cõi tịnh tự tại, vì có tâm thanh tịnh công dụng. Hai thứ tự tại nầy chắc chắn nương vào nguyện lực mà được thành, nguyện nầy thì lấy pháp gì làm thể? Chưa đắc thì cầu đắc, là thể của nguyện. Như chỗ cầu trước kia tự nhiên mà được thành là dụng của nguyện. Tất cả nơi sinh hằng gặp Phật, thường hành thiện căn của thí… thành lập không dứt đoạn là sự của nguyện. Nguyện nầy chỉ vì lợi tha, không vì tự lợi, vì không dứt đoạn. Tất cả nơi sinh lợi tha vô cùng cho nên địa thứ tám hành nguyện viên mãn.
Địa thứ chín do thông đạt nghĩa y chỉ trí tự tại, là trong địa thứ chín đắc hai thứ lực: 1. Tư trạch lực. 2. Tu tập lực. Do hai lực nầy mà có thể chế phục tất cả sự đối trị của chánh hạnh, có thể khiến cho thiện hạnh được quyết định. Lực nầy lấy gì làm thể? Trí năng vô biên là thể mạnh của nó. Có thể chế phục đối trị khiến cho không khởi, là dụng của lực. Khiến cho việc hành thiện được quyết định thanh tịnh vô tạp vô ngại là sự của lực.
Lực nầy chỉ vì lợi tha, không vì tự lợi. Vì quyết định cho nên lợi tha vô cùng. Do vậy, địa thứ chín hành lực viên mãn.
Địa thứ mười do thông đạt nghĩa của nghiệp y chỉ tự tại, là Bồ-tát quán biến mãn của chân như, vì là y chỉ của Ứng thân và Hóa thân, được tùy thuận chân như. Đối với mười phương thế giới hiển hiện hai thân, làm các sự lợi ích cho tự thân và người khác. Nghiệp nầy là chỗ làm rõ Ứng thân và Hóa thân. Trí nầy lấy gì làm thể? Bátnhã và định là thể của trí. Không trụ sinh tử và Niết-bàn là dụng của trí. Lợi ích phàm phu và Thánh nhân là sự của trí. Trí nầy chỉ vì lợi tha không vì tự lợi, hai thân đã làm sáng mà lợi tha vô cùng, cho nên địa thứ mười hành trí viên mãn.
Luận nói: Trong mười địa tu mười Ba-la-mật, tùy theo thứ tự mà thành sáu địa ở trước có sáu Ba-la-mật như thứ tự mà nói.
Giải thích: Sáu địa trước thông đạt sáu thứ công đức của pháp giới cho nên mỗi địa hành một Ba-la-mật. Nghĩa nầy đã nói như trước.
Luận nói: Đối với bốn địa sau có bốn Ba-la-mật.
Giải thích: Nếu nói sáu Ba-la-mật thì phải biết phương tiện Ba-la-mật, thắng trí Ba-la-mật… Bốn Ba-la-mật nhiếp trong sáu Ba-la-mật. Nghĩa chữ nhiếp như trước đã nói. Nếu nói mười Ba-la-mật thì sáu Ba-la-mật trước là thuộc sự thu nhiếp của vô phân biệt trí. Bốn Ba-la-mật sau thì thuộc sự thu nhiếp vô phân biệt hậu trí. Bốn địa sau nương vào vô phân biệt hậu trí mà tu hành bốn Ba-la-mật. Làm sao biết phương tiện thắng trí là chỗ thu nhiếp vô phân biệt hậu trí? Ba-la-mật nầy lại lấy pháp nào làm thể? Để đáp hai câu hỏi nầy cho nên nói như sau.
Luận nói: 1. Âu-hoà-câu-xá-la Ba-la-mật, là chỗ sinh trưởng công đức thiện căn của sáu Ba-la-mật, thí cho tất cả chúng sinh đều khiến cho bình đẳng, vì tất cả chúng sinh hồi hướng Vô thượng Bồ-đề.
Giải thích: Nếu người cầu đắc Vô thượng Bồ-đề, trước hết tự tư duy: Hễ là sự lợi ích cho tất cả chúng sinh thì ta đều phải làm, cho nên cầu Vô thượng Bồ-đề. Tất cả người hành Bồ-tát đạo, tâm của họ đều như thế. Do vì muốn lợi ích chúng sinh, cho nên công đức thiện đã làm căn đều hồi hướng Vô thượng Bồ-đề. Nhân quả đều đồng là bình đẳng. Bình đẳng nầy là dụng của trí phương tiện thù thắng. Bát-nhã đại bi lấy sao làm thể. Tại sao vậy? Là sáu Ba-la-mật nương vào Bát-nhã mà sinh trưởng, nương vào đại bi mà vì chúng sinh hồi hướng Vô thượng Bồ-đề khiến cho đều đắc bình đẳng. Do Bát-nhã mà không hồi hướng các quả giàu vui của Phạm thiên Đế thích. Do đại bi cho nên không hồi hướng quả Nhị thừa. Do đó không xả sinh tử. Trong sinh tử đó không bị nhiễm ô, gọi đó là phương tiện thù thắng của trí Ba-lamật. Nếu lìa phân biệt thì sự nầy không thành. Cho nên thuộc sự thu nhiếp của vô phân biệt hậu trí. Làm sao biết nguyện Ba-la-mật là thuộc sự thu nhiếp của vô phân biệt hậu trí? Lại lấy pháp gì làm thể của Ba-la-mật này? Để đáp hai câu hỏi nầy cho nên nói như sau.
Luận nói: 2. Ba-ni-tha-na Ba-la-mật, là độ nầy có thể dẫn nhiếp các thứ thiện nguyện, vì đối với hoặc trong đời vị lai thì lục độ sinh duyên.
Giải thích: Nguyện nầy ở đời hiện tại nương vào các thiện hạnh, có thể dẫn nhiếp các thứ thiện nguyện. Nguyện nầy trong đời vị lai có thể chiêu cảm tùy theo lục độ mà sinh duyên, là sự chứa tốt của đạo và tư lương bên ngoài chánh văn của Thiện tri thức, gọi đó là việc nhân quả của thiện nguyện. Ý muốn thanh tịnh lấy nó làm thể. Vì nương vào Bát-nhã cho nên được thanh tịnh, nương vào đại bi cho nên có ý muốn. Nếu lìa phân biệt thì sự nầy không thành, vì là sự thu nhiếp của vô phân biệt hậu trí. Làm sao biết lực Ba-la-mật là sự thu nhiếp của vô phân biệt hậu trí? Ba-la-mật nầy lấy gì làm thể? Để đáp hai câu hỏi nầy cho nên nói như sau.
Luận nói: 3. Bà-la Ba-la-mật, là do lực của tư duy chọn lựa và tu tập mà chế phục các đối trị của Ba-la-mật nên có thể dẫn lục Ba-la-mật tương tục sinh, không có gián đoạn thiếu khuyết.
Giải thích: Trong các Kinh khác nói lực có hai thứ: 1. Tư trạch lực.
2. Tu tập lực. Tư trạch lực, chính là suy nghĩ các lỗi lầm và công đức của các pháp. Tư trạch nầy nếu tăng thêm thù thắng thì không bị lắc động bởi hoặc tự địa. Vì kiên cường cho nên gọi là lực. Tu tập lực là tâm duyên pháp mà khởi Quán hành, khiến tâm và pháp hoà hợp thành một, cũng như nước và sữa, cũng như xông ướp áo, gọi đó là tu. Tu nầy nếu tăng thêm thành Phẩm thượng thượng thì nó có khả năng trừ hoặc của các địa dưới. Cũng vì kiên cường cho nên gọi là lực. Trong đây chỉ lấy tư trạch lực để chế phục diệt trừ các đối trị hoặc của Ba-la-mật. Hành sáu Ba-la-mật khiến cho tương tục không gián đoạn thiếu khuyết, đây tức là sự của lực Ba-la-mật. Vì đã lấy tư trạch lực, cho nên lấy Tư tuệ làm thể của nó. Vì lợi tha mà diệt ác hành thiện, là gồm thuộc đại bi, nếu lìa phân biệt nầy thì sự không thành, cho nên thuộc sự thu nhiếp của vô phân biệt hậu trí. Làm sao biết trí Ba-la-mật là sự thu nhiếp vô phân biệt hậu trí? Lấy pháp gì làm thể của Ba-la-mật này? Để đáp hai câu hỏi nầy cho nên nói như sau.
Luận nói: 4. Nhã-na Ba-la-mật, là độ nầy có thể thành lập trước trí của lục độ, vì có thể khiến cho Bồ-tát trong đại tập thọ pháp lạc và thành thục chúng sinh.
Giải thích: Độ nầy là trí Ba-la-mật. Trí có hai thứ: 1. Hữu phân biệt. 2. Vô phân biệt. Hiện tại là thuyết minh hữu phân biệt trí. Tại sao vậy? Vì năng thành lập sáu Ba-la-mật trước. Năng thành lập là hết thảy chánh pháp mà Như Lai nói là dựa vào sáu Ba-la-mật, Bồ-tát có thể tư duy giản trạch mà tự đắc thông đạt và khiến cho người khác thông đạt. Vì có thể thành lập lục độ, Bồ-tát trong đại tập được thọ pháp lạc, khiến cho mình và người thông đạt, vì muốn thành thục chúng sinh. Đây tức là sự của trí Ba-la-mật, cũng lấy Tư tuệ làm thể. Trí nầy đã là lợi vật, gồm thuộc đại bi. Nếu lìa phân biệt thì sự không thành, cho nên thuộc sự thu nhiếp của vô phân biệt hậu trí.
Luận nói: Bốn thứ Ba-la-mật sau phải biết là sự thu nhiếp của vô phân biệt hậu trí. Tất cả Ba-la-mật, trong tất cả địa không đồng thời tu tập.
Giải thích: Tùy theo biệt nghĩa mà các địa mỗi mỗi đều tu một độ, cho nên không đồng thời.
Luận nói: Từ Kinh tạng của Ba-la-mật tạng, phải biết pháp môn nầy làm rõ rộng các nghĩa.
Giải thích: Tất cả pháp Đại thừa gọi là Ba-la-mật tạng. Vì lợi tha cho nên Phật nói Đại thừa, nhiếp chứa các Ba-la-mật. Không phải Thanh-văn thừa được tên tạng nầy, vì Thanh-văn thừa không vì lợi tha mà nói. Nếu tất cả Đại thừa đều gọi là Ba-la-mật tạng thì pháp môn nầy từ đâu lưu xuất? Pháp môn nầy là chỗ nhiếp của thập địa Ba-la-mật tạng. Do lấy văn để nhiếp nghĩa cho nên gọi là tạng. Đồng bộ loại nhiếp nhau cũng gọi là tạng, cho nên có trùng tên tạng. Lại nữa, Phật vì Nhị thừa mà thuyết, cho nên đối với Nhị thừa có nghĩa bí ẩn. Do đó cũng gọi là tạng. Trong Kinh nầy nói các địa của tất cả Ba-la-mật mỗi mỗi đều tu tập mà được thành địa nầy. Chư Phật đối với tất cả cõi xứ hằng vì nhân hạnh thù thắng mà nói, đây chính là nói nghĩa của địa. Như Lai trong pháp vì vô đẳng mà nói, lấy vô nghĩa, vô hành mà được thù thắng của địa nầy. Địa nầy có khả năng làm y chỉ cho tất cả nghĩa. Tại sao vậy? Vì Như Lai giản trạch đối với xứ thù thắng mà nói. Nguyên nhân thù thắng, là vì ngoại trần, chúng sanh năng trụ và chỗ trụ xứ đều thù thắng.