TẠNG LUẬN
SỐ 1597 - NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN THÍCH
Tác giả: Bồ-tát Thế Thân. Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
PHẦN THỨ 1: NÊU TỔNG QUÁT VỀ CƯƠNG YẾU
PHẦN THỨ 2 (Đoạn 1) A. SỞ TRI Y (CHỖ DỰA CỦA ĐỐI TƯỢNG NHẬN THỨC)
PHẦN THỨ 2, (Đoạn 2): CHỖ DỰA CỦA ĐỐI TƯỢNG NHẬN THỨC (SỞ TRI Y)
PHẦN THỨ 2 (Đoạn 3): CHỖ DỰA CỦA ĐỐI TƯỢNG NHẬN THỨC (SỞ TRI Y)
PHẦN THỨ 3, (Đoạn 1): TƯỚNG CỦA ĐỐI TƯỢNG NHẬN THỨC (SỞ TRI CHƯỚNG)
PHẦN THỨ 3, (Đoạn 2): TƯỚNG CỦA ĐỐI TƯỢNG NHẬN THỨC (SỞ TRI CHƯỚNG)
PHẦN THỨ 4: NHẬP TƯỚNG CỦA ĐỐI TƯỢNG NHẬN THỨC
PHẦN THỨ 7: GIỚI HỌC TĂNG THƯỢNG
PHẦN THỨ 8: TÂM HỌC TĂNG THƯỢNG
PHẦN THỨ 9: (Đoạn 1): TUỆ HỌC TĂNG THƯỢNG
PHẦN THỨ 9, (Đoạn 2): HUỆ HỌC TĂNG THƯỢNG
PHẦN 11, (Đoạn 1): QUẢ TRÍ KIA
PHẦN THỨ 10, (Đoạn 2): QUẢ TRÍ KIA
Phá trừ sở tri chướng tối tăm,
Tận cùng sở hữu, như sở hữu,
Các pháp, chân tục lý trong ảnh.
Vọng chấp hưng tranh nơi dị kiến.
Đây do lìa hẳn các phân biệt,
Trí quang minh thanh tịnh, vô cấu
Đạt được tam Bồ-đề tối thắng,
Hoặc chướng và tập đoạn thường trụ.
Đạt không công dụng khắp mười phương,
Tùy ý ưa thích của hữu tình,
Mở bày thù thắng rất rộng lớn,
Phương tiện của ba thứ giải thoát.
Do có đại bi không phân biệt,
Sinh tử, Niết-bàn đều không trụ,
Do thâu huệ diệu phương tiện khéo
Rốt ráo đến cùng lợi tự tha.
Như vậy nẻo giác của Thế Tôn,
Đồng chỗ khai thị pháp vi diệu,
Nếu nơi pháp nầy khéo tu hành,
Thì được dấu cam lồ tịch tĩnh.
Phỉ báng bị đọa chìm không đáy,
Chìm nổi triền miên biển khổ lớn,
Tăng học, vô học trong đạo quả,
Hay hơn tất cả các tăng khác.
Sông công đức Thiện thệ vô cấu,
Trong đó mà tắm gội, chân thật
Vì đời làm phước điền Vô thượng,
Tuy chỉ gieo vào ít thiện thôi!
Nhưng liền rộng lơn như địa không,
Trí huệ do đây được giải thoát,
Nên ta thân ngữ tư chí thành,
Gồm tu thuận hợp, quy mạng lễ!
Các sư quỹ phạm nay giảm ít,
Chân pháp, chánh lý, nhiều ô trược,
Đều do người tà mạng thông tuệ,
Nương tự tầm tư mất giáo chứng.
Sư ta pháp nầy không trước sau,
Phụng sự bậc Thánh đại từ tôn,
Nương dựa xuất thế gian vô động,
Phóng đại pháp quang Tam-ma-địa.
Xiển dương pháp diệu truyền tiếng tốt,
Như ánh mặt trời chiếu mười phương,
Văn quang vô cấu rất thậm thâm,
Các kinh liễu nghĩa chỗ tùy thuận.
Câu nghĩa lớn rộng đều vi diệu,
Đều lấy hay đẹp tự trang nghiêm,
Khiến người thông đạt tâm dung thông,
Không dua nịnh, kiêu sinh kính ái.
Pháp huệ khó thông đều không vướng,
Không trụ trong lợi dưỡng ngợi khen,
Thường không có tâm nhiễm nơi lạc,
Cho nên quyết định xứng đức mình.
Được chư Hiền Thánh thường thân cận,
Tất cả thế gian đều biết đến,
Danh xưng vô trước khắp đều nghe,
Công đức hiển rõ chỗ khen ngợi.
Cơn mưa của bậc biện vô tận,
Văn nghĩa cam lộ pháp vi diệu,
Nhiều từ kia nghe, tự lực mỏng,
Thọ ít cũng như chim xin mưa.
Từ rộng chọn lựa gom ít phần,
Sơ lược giải thích nhiếp đại thừa,
Nguyện giải thích nầy lợi ích khắp,
Sợ nơi biển văn quá rộng lớn!
Luận nói: "Trong kinh Đại thừa A-tỳ-đạt-ma, trước đức Bạc-già-phạm khéo nhập Đại thừa Bồ-tát để hiển thể lớn lao của Đại thừa, nên nói, căn cứ vào Đại thừa. Chư Phật Thế Tôn có mười tướng thù thắng, thù thắng ngữ".
Giải thích: Nương vào nghĩa gì, theo chỗ nhân là gì mà nói như vậy? Đối tượng nhận thức rất rộng, pháp tánh rất lớn. Nếu lìa uy lực của chư Phật Bồ-tát, thì ai trong đây có thể tạo thích luận giải? Lại do nghĩa gì mà đối với luận nầy ban đầu nói nguyên nhân của các sự như vậy? Nếu lìa lời nói nêu trong kinh Đại thừa A-tỳ-đạt-ma, thì không hiểu rõ luận là nghĩa ấy của Thánh giáo. Lại nữa, để hiển tên kinh, như nói kinh Thập địa, nên nói "kinh Đại thừa A-tỳ-đạt-ma nói". Lại có nghĩa khác để hiển kinh đó là Thánh giáo, cho nên ban đầu nói "kinh Đại thừa A-tỳ-đạt-ma nói" như vậy. Hiện tại tạo luận nầy có chỗ ứng dụng, là muốn mở bày cho những người không biết, vì để hiển biệt danh của pháp môn nên nêu "A-tỳđạt-ma", để hiển tên chung cho nên nêu "kinh nói", để lựa riêng A-tỳ-đạt-ma của Thanh-văn nên nêu "Đại thừa". Do hiện tại cũng có A-tỳ-đạt-ma không phải bậc Thánh nói, như hiện có người tự có huệ tầm tư, cho là Phật thuyết A-tỳ-đạt-ma, hoặc Thanh-văn thuyết, hoặc thế trí tạo. Lại nữa, nói Tô-đát-lãm Đại thừa, vì muốn hiển thị khác Thanh-văn… hay là muốn hiển thị thuộc về tạng Bồ-tát? Lại nêu A-tỳ-đạt-ma đó, cũng là tạng gồm thâu, là nhập tự tông tạng Tô-đát-lãm hiện diệt tự hoặc, tạng Tỳ-nại-da tức là phiền não của Bồ-tát trong Đại thừa, vì chủng chủng phân biệt của chư Bồ-tát làm phiền não, không trái với A-tỳ-đạt-ma tối thắng, rộng lớn sâu xa là tướng của nó.
Ba tạng trong đây: 1. Tạng Tô-đát-lãm. 2. Tạng Tỳnại-da. 3. Tạng A-tỳ-đạt-ma. Như vậy tam tạng của hạ thừa và thượng thừa có sai biệt cho nên trở thành nhị tạng: 1. Tạng Thanh-văn. 2. Tạng Bồ-tát. Ba tạng và nhị tạng nầy do duyên gì gọi là tạng? Do là tất cả nghĩa phải biết.
Lại do duyên gì kiến lập ba tạng? Do chín thứ duyên: 1. Để đối trị nghi hoặc mà lập tạng Tô-đát-lãm, nếu trong những nghĩa đó có nghi hoặc, thì vì quyết định nói những nghĩa đó. 2. Để đối trị thọ dụng nhị biên mà lập tạng Tỳnại-da, là để ngăn cản sự thọ dụng bên phía nhiễm chấp, dục lạc có tội, và khai mở sự thọ dụng bên phía không có tội không có tự khổ. 3. Để đối trị kiến thủ chấp của tự mình mà lập tạng A-tỳ-đạt-ma, để chiếu hiển tướng vô đảo của các pháp. 4. Lại nữa, có thể nói ba học để lập tạng Tô-đát-lãm. 5. Có thể làm thành giới học tăng thượng, tâm học tăng thượng mà lập tạng Tỳ-nại-da, là đủ thi-la tức là không có hối… vì dần dần đắc Tam-mađịa. 6. Có thể làm thành huệ học tăng thượng cho nên lập tạng A-tỳ-đạt-ma, là có thể chọn lựa nghĩa vô đảo. 7. Lại nữa, có thể nói nghĩa pháp nên lập tạng Tô-đát-lãm. 8. Có thể làm thành đầy đủ nghĩa pháp nên lập tạng Tỳnại-da, là để điều phục phiền não và siêng tu hành, thì đối với hai tạng nầy có thể thông đạt. 9. Có thể đối với nghĩa pháp chọn lựa thiện xảo nên lập tạng A-tỳ-đạtma. Do chín duyên nầy mà thừa nhận lập ba tạng. Lại nữa, tam tạng nầy đều vì giải thoát sinh tử, làm sao có thể giải thoát được? Vì huân tập giác ngộ tịch tĩnh thông đạt nên được giải thoát, là do văn huân tập tâm, do tư giác ngộ, do tu Xa-ma-tha tịch tĩnh, do chứng Tỳ-bát-xána thông đạt mà có thể đắc giải thoát. Lại nữa, nếu lược nói Tô-đát-lãm, Tỳ-nại-da, A-tỳ-đạt-ma, thì mỗi mỗi đều có bốn nghĩa. Bồ-tát đối với bốn nghĩa nầy nếu biết rõ đầy đủ thì có thể chứng đắc tánh nhất thiết trí. Thanhvăn đối với bốn nghĩa nầy tuy chỉ hiểu rõ một nghĩa kệ tụng thì cũng được lậu tận. Thế nào ba tạng nầy mỗi mỗi đều có bốn nghĩa? Là có thể xuyên suốt chỗ dựa, tướng, pháp, nghĩa nên gọi là Tô-đát-lãm.
Chỗ dựa trong đây, là đối với xứ kia thì do đấy và vì đây mà có sở thuyết giảng.
Tướng, là tướng thế tục đế, tướng thắng nghĩa đế.
Pháp, là uẩn, giới, xứ, duyên khởi đế, thực (ăn), tĩnh lự, vô lượng, vô sắc, giải thoát, thắng xứ, biến xứ, Bồ-đề phần, vô ngại giải, không tránh.
Nghĩa, là tùy mật ý, đối, số, phục, thông, phải biết gọi là A-tỳ-đạt-ma.
A-tỳ-đạt-ma cũng gọi là đối pháp, vì pháp nầy đối hướng niết bàn vô trụ có thể nói đế, Bồ-đề phần, môn giải thoát…
A-tỳ-đạt-ma cũng gọi là số pháp, là đối với từng pháp mà nói từng số huấn thích, ngôn từ, tự tướng, cộng tướng với vô lượng sai biệt.
A-tỳ-đạt-ma cũng gọi là phục pháp, vì do đấy mà đầy đủ xứ sở… của luận, có thể chế ngự thắng luận của kẻ khác.
A-tỳ-đạt-ma cũng gọi là thông pháp, vì do đấy có thể giải thích thông nghĩa của Tô-đát-lãm.
Phạm tội, đẳng khởi, hoàn tịnh, xuất ly, phải biết gọi là Tỳ-nại-da. Phạm tội trong đây là năm chúng tội, đẳng khởi, là do vô tri, phóng dật, phiền não thịnh, bất tôn kính mà phạm các tội. Hoàn tịnh, là do ý lạc, không do trị phạt như thọ luật nghi. Xuất ly, có bảy thứ: 1. Mỗi mỗi tương đối nói chỗ phạm của hối. 2. Thệ thọ trị phạt, là thọ học… 3. Đồng có phương hại, trước hết chế học xứ, sau đó do môn khác mở thừa nhận lại. 4. biệt cánh chỉ tức (riêng thay đổi cấm chế), là tăng hoà hợp trở lại xả chỗ cấm chế. 5. Chuyển y, là Bí-sô, Bí-sô ni chuyển hình nam nữ, nên xả tội bất cộng. 6. Do quán chân thật, khởi các hành tướng quán của pháp ốt-đà-nam thù thắng. 7. Do đắc pháp nhĩ, là do kiến đế pháp nhĩ đắc không có tiểu tùy và tiểu tội. Phải biết Tỳ-nại-da cũng có bốn nghĩa: 1. Vì Bổ-đặc-già-la, hữu tình đức Thế Tôn nương vào nghĩa nầy mà chế học xứ. 2. Chế lập, là bố cáo cho biết chỗ phạm tội lỗi của Bổ-đặc-già-la kia đại sư tập hợp tăng, chế học xứ. 3. Phân biệt, là chế học xứ xong rồi, giải thích rộng, trước hết là lược nói. 4. Phán quyết, là trong đó mà phán quyết chỗ phạm lỗi. Thế nào là có tội, thế nào là vô tội?
Bây giờ, sẽ giải thích bản văn. Trước "Đức Bạc-giàphạm", là hiển có chỗ tôn kính nên không có lời nói nào khác. "Đã khéo nhập Đại thừa", là do đã đắc nghĩa công đức thù thắng của các đà-ra-ni, hiển thị đã đắc các công đức này. Đối với nghĩa, đối với văn có thể chánh nhận giữ, có thể chánh khai thị, như vậy gọi là "Bồ-tát". Vì nghĩa gì mà nói? "Để hiển thể lớn lao của Đại thừa" cho nên nói. Chỗ nói "hiển", là khai phát Đại thừa thật có đại thể. Nương vào Đại thừa, là y chỉ Đại thừa mà khởi nói. "Có mười tướng thù thắng ngôn ngữ thù thắng", tức là do chỗ ngữ thù thắng của mười thứ thù thắng kia, gọi là mười tướng ngữ thù thắng thù thắng. Thù thắng ngôn nầy là nghĩa sai biệt, cả hai đối đãi lẫn nhau, ví như nghĩa nầy thù thắng hơn nghĩa kia. Lại nữa, nghĩa tối thượng là nghĩa thù thắng, hoặc là khác loại, thì nghĩa nhân thù thắng nên ngữ là quả thù thắng. Bây giờ sẽ nói mười thứ biệt tướng này.
Luận nói: "1. Chỗ dựa của đối tượng nhận thức thù thắng, thù thắng ngữ. 2. Tướng của đối tượng nhận thức thù thắng, thù thắng ngữ. 3. Nhập tướng của đối tượng nhận thức thù thắng, thù thắng ngữ. 4. Bỉ nhập nhân quả thù thắng, thù thắng ngữ. 5. Bỉ nhân quả tu sai biệt thù thắng, thù thắng ngữ. 6. Giới tăng thượng thù thắng, thù thắng ngữ trong tu sai biệt. 7. Tâm tăng thượng thù thắng, thù thắng ngữ trong tu sai biệt. 8. Huệ tăng thượng thù thắng, thù thắng ngữ trong tu sai biệt. 9. Bỉ quả đoạn thù thắng, thù thắng ngữ. 10. Bỉ quả trí thù thắng, thù thắng ngữ. Do điều nói nầy mà từng câu khế kinh của chư Phật Thế Tôn, hiển thị Đại thừa đúng là Phật ngữ".
Giải thích: Trong đây chỗ dựa của đối tượng nhận thức thù thắng, thù thắng ngữ, là chỗ phải biết được, cho nên gọi là đối tượng nhận thức, chỗ gọi là các pháp tạp nhiễm và thanh tịnh tức là ba tự tánh. Ý nghĩa là nhân, chỗ dựa của đối tượng nhận thức nầy tức là thù thắng nên gọi là chỗ dựa của đối tượng nhận thức thù thắng, do thù thắng nầy nên ngữ thù thắng. Chỗ dựa nầy tức là thức A-lại-da, như vậy trì nghiệp thích cho đến quả trí kia thù thắng cũng vậy. Nói quả trí kia tức là thù thắng nên gọi là bỉ quả trí thù thắng.
Tướng của đối tượng nhận thức, là nghĩa tự tánh của đối tượng nhận thức. Đối tượng nhận thức tức là tướng, nên gọi là tướng của đối tượng nhận thức.
Nói ba tự tánh nhập là đối với hoặc chủ thể nhập hoặc chánh nhập tức là duy thức tánh.
Bỉ nhập nhân quả, là chủ thể nhập bỉ, nên gọi là bỉ nhập, tức là ngộ nhập tánh lý của duy thức. Nhân là thời gia hạnh, là thí thế gian… nơi các Ba-la-mật-đa, quả là thời thông đạt, là thí xuất thế gian nơi các Ba-la-mật-đa. Bỉ nhân quả tu sai biệt, tức là nhân quả kia nên gọi là bỉ nhân quả, tức là sai biệt của tu trong đây. Tu là luyện tập, tức là luyện tập lần lượt thù thắng trong các địa, nên gọi là sai biệt, tức là mười địa, tức tu như vậy trong sai biệt.
Giới tăng thượng, là trong mười địa nương vào giới mà học nên gọi là giới tăng thượng, tức là chỗ có luật nghi của chư Bồ-tát đối với các bất thiện không khởi tâm lại nữa.
Tâm tăng thượng, là trong nội tâm hoặc nương ngay nơi tâm mà học, nên gọi là tâm tăng thượng, tức các Tam-ma-địa. Huệ tăng thượng, là tiến đến chứng huệ nên gọi là huệ tăng thượng, hoặc nương huệ mà học nên gọi là huệ tăng thượng, tức là trí Vô phân biệt.
Đoạn thù thắng, là phẩm phân biệt tối thắng bên trong khi xả phiền não và đối tượng nhận thức chướng, tức là Niết-bàn vô trụ.
Trí thù thắng, thù thắng ngữ, là vô trí chướng gọi là trí thù thắng, là trí Vô phân biệt kia có chỗ đối trị, hiện tại Phật trí nầy đã lìa tất cả chướng và tùy miên, gọi đó là ở nơi trí Vô phân biệt là Phật trí thù thắng.
Luận nói: "Lại nữa, thế nào là có thể hiển bày chỗ nói về mười xứ này? Đối với Thanh-văn thừa thì chưa từng thấy nói, chỉ có trong Đại thừa các kinh luận đều thấy nói, là thức A-lại-da gọi là chỗ dựa của thể nơi đối tượng nhận thức, ba thứ tự tánh là tự tánh y tha khởi, tự tánh biến kế sở chấp và tự tánh viên thành thật gọi là thể nơi tướng của đối tượng nhận thức, duy thức tánh gọi là nhập vào thể nơi tướng của đối tượng nhận thức, sáu Ba-la-mật-đa gọi là thể nơi bỉ nhập nhân quả; mười địa của Bồ-tát gọi là thể nơi bỉ nhân quả tu sai biệt, luật nghi của Bồ-tát gọi là thể nơi giới học tăng thượng trong đây, các Tam-ma-địa của thủ-lăng-già-ma, hư không tạng gọi là thể nơi tâm tăng thượng trong đây, trí Vô phân biệt gọi là thể nơi huệ tăng thượng trong đây, Niết-bàn vô trụ gọi là thể nơi bỉ quả đoạn, ba thân Phật là thân tự tánh, thân thọ dụng và thân biến hóa gọi là thể nơi quả báo. Do chỗ nói nầy mà mười xứ hiển bày ra Đại thừa khác Thanhvăn thừa. Lại nữa, hiển tối thắng thì Thế Tôn chỉ vì Bồtát mà nói, nên phải biết chỉ có nương Đại thừa mà chư Phật Thế Tôn có mười hành tướng ngữ thù thắng thù thắng".
Giải thích: Thế nào là có thể hiển? Đây là hỏi duyên nghĩa gì mà sáu Ba-la-mật-đa gọi là thể nơi bỉ nhập nhân quả, là do tánh duy thức nhập khi nhập ba tự tánh, thí… nơi các Ba-la-mật-đa của thế gian gọi là nhân thanh tịnh, vì nó có thể dẫn phát xuất thế gian, từ nhập địa trở đi thì thí… Ba-la-mật-đa kia thành xuất thế gian gọi là quả thanh tịnh, mười địa của Bồ-tát gọi là thể nơi bỉ nhân quả tu sai biệt, là mười Bồ-tát địa, trước đã nói Ba-la-mật-đa về hai vị nhân quả tánh tu sai biệt ở trước. Trí Vô phân biệt gọi là thể nơi huệ tăng thượng trong đây, hoặc là các Thanh-văn lìa bốn điên đảo phân biệt gọi là vô phân biệt, hoặc chư Bồ-tát lìa phân biệt tất cả pháp gọi là vô phân biệt. Sai biệt của hai thứ vô phân biệt như vậy. Niết-bàn vô trụ gọi là thể nơi bỉ quả đoạn, là quả của ba học nên gọi là bỉ quả, bỉ quả tức là đoạn nên gọi là bỉ quả đoạn, tánh của quả nầy gọi là thể nơi bỉ quả đoạn, tức là nghĩa phiền não, đối tượng nhận thức của hai chướng đã đoạn. Ba thân Phật gọi là thể nơi bỉ quả trí, là quả của ba học kia nên gọi là bỉ quả, bỉ quả tức là trí nên gọi là bỉ quả trí, tánh của trí nầy gọi là thể nơi bỉ quả trí. Trong đây nếu không có thân tự tánh thì phải không có pháp thân, ví như nhãn căn, nếu không có pháp thân thì không có thân thọ dụng. Ví như nhãn thứ, phải biết chủ thể dựa, đối tượng dựa trong đây làm pháp đồng dụ. Nếu không có thân thọ dụng thì đã nhập đại địa, thì các chúng Bồtát chúng đáng lẽ không có thọ dụng pháp lạc. Nếu không có thọ dụng pháp lạc thì tư lương của Bồ-tát đáng lẽ không viên mãn, ví như thấy sắc. Nếu không có các chúng Bồ-tát Hóa thân hành địa thắng giải, các Thanhvăn, độc-giác, thân thắng giải kém, thì phát khởi ban đầu đều không nên có, nên quyết định phải có ba thân. Hiển ra Đại thừa khác với Thanh-văn thừa, là vì trong Thanh-văn thừa không có nói mười xứ này. Lại nữa, hiển tối thắng, là hiển trong Đại thừa, mười xứ nầy cũng tối thắng.
Luận nói: "Lại nữa, thế nào là do mười tướng ngữ thù thắng thù thắng của Như Lai này, hiển thị Đại thừa đúng là Phật ngữ? Để ngăn cản Thanh-văn thừa là tánh Đại thừa, do mười xứ nầy đối với Thanh-văn thừa chưa từng thấy nói, chỉ có trong Đại thừa các kinh luận đều thấy nói, nói mười xứ nầy là tối có thể dẫn đến tánh đại bồ-đề, là khéo thành lập tùy thuận không trái nghịch, vì có thể chứng đắc trí của nhất thiết trí. Trong đây có hai bài tụng:
Sở tri y và sở tri tướng,
Bỉ nhập nhân quả, bỉ tu dị,
Ba học, bỉ quả đoạn và trí,
Thừa tối thượng thâu tóm thù thắng.
Thuyết này, và kiến, bất kiến khác,
Do nhân Bồ-đề tối thắng này,
Nên nhận Đại thừa là Phật ngữ,
Do giảng mười xứ thù thắng.
Giải thích: Tại sao lại hiển chỗ thuyết mười xứ? Là hoàn toàn có thể dẫn đến tánh đại Bồ-đề, là khéo thành lập tùy thuận không trái nghịch. "Là hoàn toàn có thể dẫn đến tánh đại Bồ-đề", là nghĩa đại Bồ-đề có thể dẫn nhân. "Là khéo thành lập", là do tư lương lựa chọn của chánh lý, như chỗ thuyết đạo tướng của đạo sư. "Tùy thuận", là vì khi chứng đắc thì siêng tu hành tùy thuận trụ, như tùy chỗ nói chánh đạo của đạo sư tùy thuận mà trụ. "Không trái nghịch", là trong các địa không có nhân chướng ngại, như tùy theo trong chỗ thuyết đạo của đạo sư không có các chướng nạn giặc cướp…, hoặc hai thứ sinh tử và Niết-bàn không trái lẫn nhau. "Lại có môn khác, là hoàn toàn có thể dẫn đến tánh đại Bồ-đề", là có thể dẫn tánh không hý luận phân biệt. "Là khéo thành lập", là cùng với bốn lý không trái nhau. "Tùy thuận", là cùng với tam lượng không trái nhau. "Không trái nhau", là không phải trước tùy thuận rồi sau trái nhau. Như có tụng nói:
Trước nhận giữ ái, bi,
Sau tùy thuận bất thiện,
Phi ngã kiến hắc bạch,
Có ích cũng có tổn.
"Vì có thể chứng đắc trí của nhất thiết trí", là trong tất cả pháp, phát sinh trí Vô thượng vô gián nhất thiết hành tướng. "Khéo thành lập…" Lại có nghĩa khác, là khéo thành lập tùy thuận không trái nghịch nêu ra giải thích. Thế nào là khéo thành lập? Là giỏi tùy thuận. Thế nào là giỏi tùy thuận? Là chuyển biến không trái nghịch. Luận nói: "Lại nữa, thế nào là thứ lớp nói mười xứ này? Là chư Bồ-tát đối với các nhân của pháp, trước hết đã thiện rồi, đối với duyên khởi phải đắc thiện xảo, kế đó đối với duyên đã sinh các pháp phải làm thiện tướng của nó, khéo có khả năng xa lìa lỗi nhị biên tăng ích và tổn giảm. Sau đó như vậy Bồ-tát khéo tu, chánh thông đạt chỗ giữ lấy tướng của thiện, khiến cho từ các chướng mà tâm được giải thoát. Tiếp theo thông đạt tướng của đối tượng nhận thức rồi, trước hết là gia hạnh vị sáu Ba-la-mật-đa, do chứng đắc nên phải càng thành mãn ý lạc tăng thượng đắc thanh tịnh. Sau nữa chỗ gồm thâu sáu Ba-la-mật-đa của ý lạc thanh tịnh, từng phần sai biệt trong mười địa, phải siêng năng tu tập, là phải trải qua ba vô số đại kiếp. Sau hết, đối với ba học của Bồ-tát phải khiến cho viên mãn. Đã viên mãn rồi thì bỉ quả Niết-bàn cùng với chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng phải hiện chứng, nên nói mười xứ thứ đệ như vậy.
Giải thích: Vì nói thứ lớp như vậy? Đó là hỏi "chư Bồ-tát đối với các nhân của pháp phải trước hết đã thiện rồi… Rộng nói cho đến bỉ quả Niết-bàn và chánh đẳng
Bồ-đề Vô thượng phải hiện chứng". Đáp lại là trước hết phải biết rõ nhân của các pháp, sau đó đối với duyên khởi mới đắc thiện xảo, ắt có nhân nên quả được sinh khởi, không phải tự tại. Do đây, có thể đắc hai trí nhân quả. Kế đó đối với nhân đã sinh các pháp phải biết rõ tướng của nó. Cái gì làm tướng? Là thật không có biến kế sở chấp, quyết định chấp có gọi là tăng ích, tăng ích không có nên tổn giảm thật có tánh viên thành thật. Xa lìa lỗi nhị biên như vậy nên gọi là thiện xảo. Kế đó đối với chỗ giữ lấy tướng như vậy, do tánh duy thức phải chánh thông đạt đắc vô chướng ngại. Tiếp theo đối với sự tùy thuận nhập tánh duy thức, chỗ chứng đắc của thế tục là sáu Ba-la-mật-đa thế gian, do thắng nghĩa nên càng chứng đắc thêm nữa, là phải tu nhiếp nghĩa thanh tịnh tăng thượng thuộc ý lạc. Tiếp sau đối với mười địa từng phần sai biệt phải siêng tu tập, là phải trải qua ba vô số đại kiếp, không giống như Thanh-văn nhanh chóng ba đời, siêng tu đối trị thì chứng giải thoát. Sau đó tức là giới tăng thượng… trong tu như vậy, ba học của Bồ-tát phải khiến viên mãn. Sau cùng đối với học quả Niết-bàn kia, phiền não hoàn toàn đoạn cùng với chánh đẳng Bồđề Vô thượng, ba thân Phật phải hiện các chứng, nên nói mười xứ thứ lớp như vậy.
Luận nói: "Lại nữa, trong nói này, tất cả Đại thừa đều đắc cứu cánh".
Giải thích: Tất cả Đại thừa đều đồng cứu cánh này, tại sao vậy? Hoặc muốn nói duyên khởi tức là nhập vào thức A-lại-da gồm thâu, hoặc muốn nói các tướng tức là nhập vào ba tự tánh gồm thâu, hoặc muốn nói chứng đắc tức là nhập vào tánh duy thức gồm thâu, hoặc muốn nói Ba-la-mật-đa tức là nhập vào Ba-la-mật-đa gồm thâu, hoặc muốn nói các địa tức là nhập vào các địa gồm thâu, hoặc muốn nói các học tức là nhập vào các học gồm thâu, hoặc muốn nói đoạn và trí tức là nhập vào Niết-bàn vô trụ và ba thân Phật gồm thâu, đồng gọi đó là tất cả Phật ngữ, nên nói thứ đệ như vậy.
---------------------------------
Luận nói: "Trong đây đầu tiên lại nói chỗ dựa của đối tượng nhận thức tức là thức A-lại-da. Thế Tôn trong kinh luận nào nói thức A-lại-da gọi là thức A-lại-da? Là đức Bạc-già-phạm trong kệ của kinh Đại thừa A-tỳ-đạtma nói:
Cõi vô thỉ đến nay,
Tất cả pháp đồng nương,
Do đây có các cõi,
Và chứng đắc Niết-bàn.
Giải thích: Trong đây có thể chứng thức A-lại-da, thể của nó quyết định là thức A-lại-da. "A-cấp-ma" nói: Bạc-già-phạm từ ban đầu trong chỗ nói kinh Đại thừa Atỳ-đạt-ma nói tụng như vậy. "Giới" là nhân, là chỗ dựa của tất cả pháp, vì hiện thấy thế gian đối với mỏ vàng mà nói tên giới, do giới nầy làm nhân nên nó là nhân nương dựa của tất cả pháp, thể tức là nghĩa của chỗ nương dựa. "Do hữu này", hữu là chỗ dựa của tất cả pháp. "Chư thú", là hết thảy các cõi trong sinh tử. "Thú" là dị thục quả. Do quả nầy nên hoặc là chủng loại ngoan ngu, ấm á, hoặc có năng lực có thể hiểu rõ nghĩa của nói thiện, nói ác, hoặc có thể chứng đắc thượng thắng. Lại nữa, làm tánh chỗ dựa của phiền não, do tánh nầy nên có mãnh lợi phiền não và trường thời phiền não. Như vậy bốn thứ dị thục sai biệt chỗ dựa, không có khả năng đảm đương, phải biết ngược lại đây thì có khả năng đảm đương, không phải chỉ có các cõi do đây mà có, cũng do đây mà chứng đắc Niết-bàn, phải do có tạp nhiễm mới chứng đắc Niết-bàn.
Luận nói: Ngay trong đây lại nói tụng:
Do thâu chứa chư pháp,
Hết thảy chủng tử thức,
Mà gọi A-lại-da,
Ta khai thị thắng giả.
Giải thích: Đã dẫn A-cấp-ma chứng thức A-lại-da, là thể nơi chỗ dựa của đối tượng nhận thức, lại dẫn Acấp-ma chứng thức A-lại-da gọi là thức A-lại-da. Trong tụng nầy câu thứ hai giải thích câu thứ nhất. "Thắng giả" tức là các chúng Bồ-tát.
Luận nói: "Như vậy lại dẫn A-cấp-ma để làm chứng, còn lý do gì mà thức nầy gọi là thức A-lại-da? Hết thảy hữu sinh phẩm pháp tạp nhiễm, đối với pháp nầy thâu chứa làm quả tánh, cũng ngay thức nầy đối với pháp kia thâu chứa làm nhân tánh, tên đó gọi là thức Alại-da, hoặc các hữu tình thâu chứa thức nầy làm tự ngã, nên gọi là thức A-lại-da".
Giải thích: Bây giờ thuận theo thức tên A-lại-da này. "Tất cả hữu sinh", là các loài có sự sống đều gọi là hữu sinh. "Phẩm pháp tạp nhiễm" là nghĩa ngăn che thanh tịnh, trong đó chuyển khởi nên gọi là "thâu chứa". "Hoặc chư hữu tình thâu chứa thức nầy làm tự ngã", nghĩa là chấp giữ.
Luận nói: "Lại nữa, thức nầy cũng gọi là A-đà-na thức, trong đây A-cấp-ma như kinh giải thâm mật nói:
Thức A-đà-na thậm thâm tế,
Tất cả chủng tử như dòng thác,
Ta không khai nói cho phàm ngu,
Sợ họ phân biệt chấp làm ngã.
Giải thích: Lại dẫn kinh giải thâm mật, tức là trong A-cấp-ma này, Phật bảo Bồ-tát ma-ha-tát quảng huệ rằng: "Này Quảng Huệ! Phải biết các hữu tình kia đọa trong sáu nẻo sinh tử. Trong các chúng hữu tình kia, hoặc tại noãn sinh, hoặc tại thai sinh, hoặc tại thấp sinh, hoặc tại hoá sinh, thân phần sinh khởi, trong đó tối sơ hết thảy chủng tử nơi tâm thức thành thục, hoà hợp tăng trưởng rộng lớn, nương vào hai chấp thọ: 1. Chấp thọ nơi chư căn hữu sắc và chỗ dựa chấp thọ. 2. Chấp thọ nơi tướng danh phân biệt ngôn thuyết hý luận tập khí. Trong cõi sắc có đủ hai thứ chấp thọ, trong cõi vô sắc thì không đủ hai thứ. Này Quảng Huệ! Thức nầy cũng gọi là thức Ađà-na, tại sao? Vì thức nầy đuổi theo giữ thân. Cũng gọi là thức A-lại-da, tại sao? Vì do thức nầy đối với thân thâu nhận nghĩa tàng ẩn đồng an nguy. Cũng gọi là tâm, tại sao? Vì sắc thanh hương vị xúc của thức nầy tích tập tăng trưởng. Này Quảng Huệ! Thức A-đà-na làm y chỉ làm kiến lập, thân của lục thức chuyển là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức, trong đây có nhãn và sắc của thức làm duyên sinh nhãn thức, cùng với nhãn thức đồng tùy hiện hành, đồng thời đồng cảnh, có ý thức phân biệt chuyển, có nhĩ tỷ thiệt thân và thanh hương vị xúc của thức làm duyên sinh. Nhĩ tỷ thiệt thân thức cùng với nhĩ tỷ thiệt thân thức đồng tùy hiện hành đồng thời đồng cảnh, có ý thức phân biệt chuyển. Này Quảng Huệ! Nếu trong lúc đó một nhãn thức chuyển thì lúc đó chỉ có một ý thức phân biệt cùng với nhãn thức đồng chỗ hành chuyển. Nếu lúc đó có hai, ba, bốn, năm thức thân chuyển, thì lúc đó chỉ có một ý thức phân biệt cùng với thân nơi năm thức đồng chỗ hành chuyển. Này Quảng Huệ! Ví như dòng thác lớn đổ, nếu có lượn sóng sinh duyên hiện tiền thì chỉ có một lượn sóng chuyển. Nếu hai hoặc nhiều lượn sóng sinh duyên hiện tiền thì có nhiều lượn sóng chuyển, nhưng tự loại của thác nước nầy hằng chảy không đoạn không tận, cũng như mặt gương trong sạch, nếu có một ảnh sinh duyên hiện tiền thì chỉ có một ảnh khởi, nếu hai hoặc nhiều ảnh sinh duyên hiện tiền thì có nhiều ảnh khởi; không phải mặt gương nầy chuyển biến thành ảnh, cũng không có sự thọ dụng giảm hết được. Như vậy, Quảng huệ! Do thức Ađà-na tợ dòng thác làm chỗ dựa làm kiến lập. Nếu lúc đó có một nhãn thức sinh duyên hiện tiền thì ngay lúc đó một nhãn thức chuyển, nếu lúc đó cho đến có thân năm thức sinh duyên hiện tiền thì lúc đó có thân năm thức chuyển. Này Quảng Huệ! Như vậy Bồ-tát tuy do trí pháp trụ làm chỗ dựa làm kiến lập đối với tâm-ý-thức bí mật thiện xảo, nhưng tâm-ý-thức đó, các Như Lai không đồng xét đặt cho nó là tâm ý thức hết thảy bí mật thiện xảo Bồ-tát. Này Quảng Huệ! Nếu các Bồ-tát bên trong, ai nấy như thật không thấy riêng A-đà-na không thấy thức A-đà-na, không thấy A-lại-da, không thấy thức Alại-da, không thấy tích tập, không thấy tâm, không thấy nhãn sắc và nhãn thức, không thấy nhĩ thanh và nhĩ thức, không thấy tỷ hương và tỷ thức, không thấy thiệt vị và thiệt thức, không thấy thân xúc và thân thức, không thấy ý pháp và ý thức, đó gọi là Bồ-tát thắng nghĩa thiện xảo. Như Lai đặt cho thức kia là Bồ-tát thắng nghĩa thiện xảo. Này Quảng Huệ! Đồng với tên này, gọi là tại tâm ý thức hết thảy Bồ-tát bí mật thiện xảo. Như Lai coi thức nầy ngang bằng với tâm ý thức hết thảy bí mật thiện xảo Bồtát, trong Dà-tha nầy hiển lại nghĩa đó. "Thức A-đà-na", là chỗ giải thích tên khác. "Thâm diệu vi tế", là chỗ khó hiểu biết. "Hết thảy chủng tử như dòng thác đổ", là thứ lớp chuyển nên tất cả chủng tử từng sát-na như dòng thác chảy nối tiếp đổ. "Sợ họ phân biệt chấp làm ngã", là một hành tướng chuyển nên phân biệt chấp có thể có được.
Luận nói: "Lý do gì mà thức nầy cũng còn gọi là thức A-đà-na? Vì chấp thọ hết thảy hữu sắc căn, tất cả tự thể nắm lấy chỗ dựa, tại sao vậy? Vì hữu sắc các căn, do thức nầy chấp thọ không bị hoại mất, khi thọ mạng hết thì nó chuyển theo. Lại nữa, khi tương tục đang kết sinh, thì nó nắm lấy sự sinh đó (bỉ sinh) mà chấp thọ tự thể, nên thức nầy cũng còn gọi là thức A-đà-na".
Giải thích: Vì chấp thọ hết thảy căn hữu sắc, tại sao vậy? Vì căn hữu sắc do thức nầy chấp thọ, thọ mạng hết, nó tùy chuyển thì dùng thức nầy để giải thích, là do nhãn… căn hữu sắc chỗ của thức A-lại-da, không giống như các vị xanh sình rữa của thân chết. Nếu đến khi chết thì thức nầy xả lìa, thân kia liền có các vị xanh sình rữa, nên quyết định biết thức nầy chấp thọ cho đến thời hạn thọ mạng thân kia bất hoại. Tất cả tự thể nắm lấy chỗ dựa, cũng là khi sự tương tục đang kết sinh nắm lấy thức kia mà sinh, chấp thọ tự thể cũng lấy thức để giải thích, vì do thức nầy là thức tương tục, khi tương tục đang kết sinh thì có khả năng nắm giữ tự thể một thời kì sống, đó là cái mà thức nầy nắm giữ. Vì trong thức A-lại-da một thời kỳ tự thể huân tập an trụ, thể đó khởi nên gọi là bỉ sinh, thọ bỉ sinh nên gọi là thủ bỉ sinh, do chủ thể nhận lấy nên chấp thọ tự thể. Do nghĩa đó nên thức A-lại-da cũng gọi là thức A-đà-na.
Luận nói: "Thức nầy cũng gọi là tâm, như Thế Tôn nói ba thứ tâm ý thức, trong đây ý có hai thứ, đệ nhất ý cùng làm tánh nơi chỗ dựa của duyên đẳng vô gián. Vô gián diệt thức có thể cùng với ý thức khởi sinh chỗ dựa. Ý đệ nhị nhiễm ô thì cùng với bốn phiền não hằng tương ưng chung: 1. Tát-ca-da kiến. 2. Ngã mạn. 3. Ngã ái. 4. Vô minh. Bốn phiền não nầy là chỗ dựa của thức tạp nhiễm, thức lại do chỗ dựa thứ nhất (Tát-ca-da kiến) kia sinh, vì nghĩa liễu biệt cảnh, nghĩa đẳng vô gián, nghĩa tư lương của tạp nhiễm thứ hai mà ý thành hai thứ.
Giải thích: Thức nầy cũng gọi là tâm, là thức A-lạida tức là thể của tâm. Ý thức có thể được hai nghĩa sai biệt, phải biết nghĩa tâm cũng có sai biệt, để hiển thị nghĩa nầy nên trong đây cùng làm tánh nhân của duyên đẳng vô gián, là thức vô gián diệt cùng với ý thức làm nhân là ý thứ nhất, do bốn phiền não thường làm nó nhiễm ô.
Ý đệ nhị, Tát-ca-da kiến trong đây, là tánh chấp ngã, do thế lực nầy liền khởi ngã mạn, ỷ vào ngã và ngã sở mà tự cao. Đối với thật vô ngã mà khởi có ngã tham gọi là ngã ái, ba thứ như vậy do vô minh làm nhân. Vô minh, tức là thức vô trí, lại do chỗ dựa thứ nhất kia sinh. Tạp nhiễm thứ hai, là thức vô gián diệt gọi là ý, cùng với thức sắp sinh dung thọ xứ sở nên làm chỗ dựa của sinh, ý đệ nhị nhiễm ô làm chỗ dựa của tạp nhiễm, vì trong tâm thiện cũng chấp có ngã. Do nghĩa liễu biệt cảnh, nghĩa đẳng vô gián, nghĩa tư lương mà ý thành hai thứ, là trong đây do nghĩa giữ lấy cảnh gọi là thức, do cùng với nghĩa của xứ gọi là ý thứ nhất, do chấp ngã thành nghĩa tạp nhiễm gọi là ý thứ hai.
Luận nói: "Lại nữa, làm sao biết được có ý nhiễm ô? Ý nầy nếu không có vô minh bất cộng thì không nên có thành lỗi, lại nữa năm đồng pháp cũng không nên có thành lỗi, tại sao vậy? Vì năm thức thân chắc chắn có chỗ dựa cùng hiện hữu của nhãn… Lại nữa, huấn thích từ cũng không nên có thành lỗi, lại cũng định vô tưởng và định diệt tận sai biệt không có thành lỗi. Nói chỗ hiển nhiễm ý của định vô tưởng không phải là định diệt tận. Nếu không như thế thì hai thứ định nầy phải không có sai biệt. Lại cũng vô tưởng thiên trong một thời kỳ sinh đáng lẽ không có nhiễm ô thành lỗi, trong đó nếu không có ngã chấp và ngã mạn, lại cũng tất cả thời ngã chấp hiện hành có thể được. Nói tâm thiện, bất thiện và vô ký, nếu bất thiện thì chỉ có tâm bất thiện, vì tương ưng với ý nhiễm ô kia, có phiền não của ngã, ngã sở hiện hành không phải thiện và vô ký, nên nếu lập cùng có hiện hành, không phải tương ưng hiện hành thì không có lỗi này. Trong đây tụng nói:
Nếu vô minh bất cộng,
Cùng với năm pháp đồng,
Huấn từ hai định khác,
Không có đều thành lỗi.
Vô tưởng sinh nên không,
Ngã chấp chuyển thành lỗi,
Ngã chấp hằng đuổi theo,
Hết thảy chủng không có.
Ý tạp nhiễm không có,
Hai ba thành tương ưng,
Không tất cả xứ này,
Ngã chấp không nên có.
Chân nghĩa tâm đang sinh,
Thường hay làm chướng ngại,
Cùng hành tất cả phần,
Là vô minh bất cộng.
Vì ý nhiễm ô nầy nên tánh hữu phú vô ký cùng với bốn phiền não thường cùng tương ưng, như hai triền phiền não của cõi Sắc và cõi Vô sắc, là tánh hữu phú vô ký của nó gồm thâu. Triền của cõi Sắc và cõi Vô sắc làm chỗ thâu chứa của Tam-ma-địa, ý nầy vi tế theo đuổi mọi lúc.
Giải thích: Văn nầy lại lấy đạo lý khác để thành lập ý nhiễm ô. Cái gì gọi là thành lập đạo lý? Là đạo lý nầy nếu không có vô minh bất cộng thì không được có. Vô minh bất cộng, tướng nó như thế nào? Là khi chưa sinh đối trị thì nó có thể chướng chân trí ngu. Tướng nầy đối với năm thức lý không tương ưng, vì xứ đó không có dung chứa có thể làm chướng ngại. Nếu xứ có chủ thể trị thì xứ nầy có đối tượng được đối trị, tại nơi ý thức nhiễm ô, cũng không được nói thức nầy không có. Vì các hoặc khác hiện hành gọi là không thành. Nếu lập phiền não nầy tại ý thức nhiễm ô, thì nó hoàn toàn thành tánh nhiễm ô. Vì sao các tâm thí… được thành thiện? Vì cùng với phiền não nầy hằng tương ưng. Nếu nói có ý thức cùng với pháp thiện đồng thời chuyển, thì ý thức nầy liền cùng với phiền não kia tương ưng, là ý thức nhiễm ô dẫn sinh chủ thể đối trị, là không đúng đạo lý. Nếu nói ý nhiễm ô đồng thời chuyển có tâm thiện, thì tâm thiện nầy dẫn sinh năng trị, đây sinh kia diệt thì không sai. Lại cũng có năm pháp đồng, tại sao vậy? Ví như năm thức nhãn… thì ắt có năm căn như nhãn… Làm chỗ dựa cùng hiện hữu. Như vậy ý thức cũng phải quyết định có chỗ dựa cùng hiện hữu. Lại nữa, vì từ huấn thích, tại sao vậy? Vì có thể tư lương nên gọi là ý. Từ ngữ huấn thích nầy y chỉ chỗ nào? Không phải sáu thức kia cùng với vô gián thức làm chỗ dựa, phải đúng đạo lý, vì đã diệt mất. Lại nữa, vì hai thứ định sai biệt, tại sao vậy? Nếu quyết định nói có ý nhiễm ô thì trong định vô tưởng liền có ý này, trong định khác thì không có, nên hai định có sai biệt. Nếu trái với điều này, thì ý thức thứ sáu trong hai định đều không hiện hành, phải không sai biệt. Lại nữa, sinh trong vô tưởng phải không có ngã chấp, tại sao vậy? Nếu trong vị kia không có ý nhiễm ô, thì một thời kỳ kia sinh là phải không có ngã chấp. Nếu như thế thì không bị bậc Thánh quở rầy. Đã bị quở trách nên quyết định biết trong vô tưởng kia có ngã chấp. Lại nữa, ngã chấp đi theo, tại sao vậy? Trong các vị của thí… quyết định có ngã chấp đi theo, ngã chấp đi theo này, nếu lìa vô minh là không đúng đạo lý. Không phải vô minh nầy lìa chỗ dựa, vì chỗ dựa nầy lìa ý nhiễm ô thì không có riêng thể, nên phải quyết định thừa nhận có ý nhiễm ô. Nếu không thừa nhận thì có lỗi trên. Hiển lại các nghĩa kia nên có bốn kệ. "Nếu vô minh bất cộng… cho đến rộng nói", vô minh bất cộng trong đây là đối với phiền não của tất cả thiện bất thiện và vô ký. Trong vị trí phiền não thì ý nhiễm ô tương ưng với câu sinh vô minh. Nếu câu sinh vô minh kia không có thì mắc sai lớn. Thường đối với chướng ngại khổ nơi trí sinh, là nghiệp dụng của nó. Đây tức là hiển lỗi không có nghiệp dụng. Năm pháp đồng, là ý thức thứ sáu cùng với năm thức thân có tương tợ pháp. Tương tợ pháp kia có năm căn, thức A-lại-da làm chỗ dựa cùng hiện hữu, năm pháp đồng nầy cũng vậy vì có ý nhiễm ô, thức A-lại-da làm chỗ dựa cùng hiện hữu. Năm pháp đồng nầy lìa ý nhiễm ô thì quyết định không có nó. Đây là hiển lỗi không có tự tánh. Huấn từ nếu không mắc lỗi, thì nắm lấy tướng nơi đối tượng duyên mà tư lương, khi vô gián diệt có thể nắm lấy cảnh thì gọi là ý. Quá khứ đã diệt không có đối tượng làm tư lương, làm thế nào để có tánh của chủ thể làm tư lương? Huấn từ không có nên thành lỗi lớn. Hai định riêng khác, là trong định diệt tận không có ý nhiễm ô, trong định vô tưởng thì có ý nhiễm ô. Nếu định nầy không có thì sai biệt của hai định đáng lẽ không có, mắc lỗi lớn. Lại nữa, nếu ý nhiễm ô không có, thì trong vô tưởng thân đáng lẽ không có ngã chấp. Không khác với sinh, trong tương tục tạm lìa ngã chấp là đúng đạo lý. Các lỗi như vậy lìa ý nhiễm ô đều quyết định phải được, nên phải quyết định thừa nhận có ý nhiễm ô. Để hiển nghĩa nầy nên nói không có hai (vô hữu nhị). Nhị tức là vô minh bất cộng và năm tương tợ pháp. Ba thứ trái nhau là từ huấn thích hai định sai biệt, ngã chấp hằng tùy trong sinh vô tưởng và lìa ý nhiễm ô, ba sự như vậy đều thành trái nhau. Không có xứ nầy thì ngã chấp không nên có, là lìa ý nhiễm ô trong các vị của loại thiện, thì ngã chấp luôn tùy theo đáng lẽ không được có, nên phải quyết định thừa nhận có ý nhiễm ô. Các văn khác dễ hiểu, không cần giải thích.
Luận nói: "Tâm thể đệ tam nếu lìa thức A-lại-da thì tâm thể riêng không thể được, nên thành tựu thức A-lạida lấy làm tâm thể, do thức làm chủng tử thì ý và thức chuyển".
Giải thích: Tâm thể thứ ba nếu lìa thức A-lại-da thì không có tánh riêng, do thức nầy làm nhân nên ý và chuyển thức đều được sinh khởi, kiến thủ chuyển thức phải biết cũng là giữ lấy ý thứ hai, tại sao vậy? Vì khi sắp diệt thì được tên là ý.
Luận nói: "Nhân duyên gì mà cũng gọi là tâm? Vì do chỗ tích tập vô số pháp huân tập chủng tử".
Giải thích: Lại muốn giải thích tên, nên đặt câu hỏi này. Do vô số pháp, là do pháp mỗi mỗi riêng khác phẩm loại. Huân tập chủng tử, là nhân của công năng sai biệt. Chỗ tích tập, là nghĩa tích tụ tướng nhất hợp.
Luận nói: "Lại nữa, tại sao trong Thanh-văn thừa không nói tâm này? Gọi là thức A-lại-da, gọi là thức Ađà-na, vì do chỗ gồm thâu của cảnh sâu xa vi tế này. Tại sao vậy? Do các Thanh-văn không đối với hết thảy cảnh trí xứ chuyển, nên đối với họ tuy nói tâm này, nhưng trí mới đắc thành giải thoát thành tựu, nên không nói cho họ. Nếu các Bồ-tát quyết định đối với hết thảy cảnh trí xứ chuyển, thì nói cho Bồ-tát. Nếu lìa trí nầy thì không dễ chứng đắc trí của nhất thiết trí.
Giải thích: Do chỗ gồm thâu của cảnh sâu xa vi tế ấy, là cảnh giới nầy thâm diệu vi tế nên gọi là cảnh thâm diệu vi tế. Ngay trong cảnh ấy thâu tóm các pháp khó hiểu. Không phải các Thanh-văn vì cầu hết thảy cảnh giới trí, nên siêng năng tu hành chỉ có chánh mong cầu tự nghĩa lợi, Thanh-văn kia do chánh trí về khổ thô thiển liền có thể vĩnh viễn đoạn phiền não chướng. Nếu các Bồ-tát vì lợi mình, lợi người cầu đoạn phiền não và đối tượng nhận thức chướng mà siêng năng tu hành, nên giảng cho Bồ-tát.
Luận nói: "Lại nữa, trong thừa Thanh-văn cũng lấy mật ý nơi dị môn đã nói về thức A-lại-da, như tăng nhất A-cấp-ma đã nói: "Chúng sinh thế gian ái A-lại-da, lạc A-lại-da, hâm mộ A-lại-da, hỷ A-lại-da". Vì đoạn A-lạida như vậy, nên khi nói chánh pháp thì cung kính thâu nhận, trụ cầu giải tâm pháp, tùy pháp hành. Như Lai xuất thế hy hữu như vậy mà có chánh pháp xuất hiện thế gian. Đối với thừa Thanh-văn Như Lai xuất hiện. Trong kinh bốn đức do mật ý dị môn này, đã hiển thức A-lại-da trong A-cấp-ma của đại chúng bộ cũng lấy mật ý dị môn nói thức nầy gọi là thức căn bản, như cây nương trên gốc. Trong Hóa địa bộ cũng lấy mật ý dị môn nói thức nầy gọi là cùng uẩn sinh tử, có xứ có thời thấy sắc và tâm đoạn, không phải các chủng đó trong thức A-lại-da có đoạn diệt".
Giải thích: "Thế gian chúng sinh ái A-lại-da", đây là câu nêu chung. Như thứ lớp của nó thì lại lấy câu còn lại căn cứ theo ba thời hiện tại, quá khứ và vị lai để giải thích riêng. Lại có nghĩa khác, là đối với hiện tại thì ái A-lại-da, đối với quá khứ thì lạc A-lại-da, do lạc A-lạida đời trước nên đối với đời nầy hân A-lại-da, do lạc do hân (thơ thới vui mừng) A-lại-da nên đối với đời vị lai thì hỷ A-lại-da. "Pháp tùy pháp hành", là như lời dạy mà hành. Từ "trong Đại chúng bộ gọi là thức căn bản, như cây nương gốc", là thức căn bản làm nhân căn bản cho tất cả thức, ví như gốc cây là nhân chung của cành nhánh. Nếu lìa gốc thì cành nhánh không có. Thức Alại-da gọi là thức căn bản, phải biết cũng vậy. Dị môn trong hoá địa bộ nói là cùng uẩn sinh tử, để giải thích nhân nầy mà nói có xứ. "Có xứ", là cõi Vô sắc không có các sắc. "Có thời", là trong các định vị của vô tưởng không có các tâm. "Không phải các chủng đó trong thức A-lại-da có đoạn diệt", là sắc tâm huân tập trong thức Alại-da, do thức nầy làm nhân mà sắc tâm có lại.
Luận nói: "Như vậy chỗ dựa của đối tượng nhận thức nói là thức A-lại-da làm tánh, hay thức A-đà-na làm tánh, hay tâm làm tánh, hay thức A-lại-da làm tánh, hay thức căn bản làm tánh, hay là cùng uẩn sinh tử làm tánh? Do dị môn nầy mà thức A-lại-da trở thành đường đi của đại vương".
Giải thích: "Do dị môn nầy mà thức A-lại-da trở thành đường đi của đại vương", nghĩa nầy rất rộng.
Luận nói: "Lại có một loại, là nghĩa tâm ý thức một đoạn văn khác nhau, nghĩa nầy không thành, ý thức có hai nghĩa sai biệt thì có thể được, phải biết nghĩa của tâm cũng phải có khác nhau. Lại có một loại, là đức Bạc-giàphạm đã nói chúng sinh ái A-lại-da… cho đến nói rộng, trong năm thủ uẩn gọi là A-lại-da. Có người lại nói tham cùng với lạc thọ gọi là A-lại-da. Có người lại nói là Tátca-da kiến gọi là A-lại-da. Những thứ nầy các sư do giáo và chứng thiếu hiểu biết về A-lại-da nên đã chấp như vậy. Thế thì an lập tên A-lại-da, là tùy theo thừa Thanh-văn mà an lập thì đạo lý cũng không tương ưng. Nếu người không ngu lấy thức A-lại-da an lập trong thuyết kia, thì tên A-lại-da an lập như vậy là tối thắng. Thế nào là tối thắng? Nếu năm thủ uẩn gọi là A-lại-da, thì sinh trong cõi ác hoàn toàn xứ khổ rất đáng chán nghịch, chúng sinh hoàn toàn không khởi yêu thích. Trong đó, chấp tàng là không đúng đạo lý, vì chúng sinh kia thường cầu lìa bỏ nhanh. Nếu cho rằng tham đồng thời với lạc thọ gọi là A-lại-da, thì tĩnh lự thứ tư trở lên không có, có đủ hữu tình kia thường có chán nghịch, trong đó chấp giữ cũng không đúng lý. Nếu Tát-ca-da kiến gọi là Alại-da, thì trong chánh pháp tin hiểu vô ngã nầy hằng có chán nghịch, trong đó chấp giữ cũng không đúng lý. Nội ngã tánh của thức A-lại-da gồm thâu, tuy sinh cõi ác hoàn toàn là xứ khổ, cầu lìa khổ uẩn, nhưng chúng sinh kia hằng đối với thức A-lại-da thường khởi ngã ái trói buộc theo chưa từng cầu lìa. Dù sinh tĩnh lự thứ tư trở lên, đối với tham đồng thời với lạc luôn có chán nghịch, những chúng sinh kia hằng đối với thức A-lại-da khởi ngã ái trói buộc theo. Tuy đối với chánh pháp tín hiểu vô ngã nầy có chán nghịch ngã kiến, nhưng đối với tạng thức kia ngã ái trói buộc theo, nên an lập thức A-lại-da gọi là A-lại-da thành tựu tối thắng".
Giải thích: "Người không ngu", là các Bồ-tát. Họ đã được nói lý thành lập thức A-lại-da là. "Trong cõi ác", là trong các cõi ác ngạ quỉ, bàng sinh và Na-lạc-ca. "Hoàn toàn xứ khổ", là hoàn toàn thọ nghiệp quả xứ phi ái. Đối với xứ đó có lúc sinh cảm giác vui thì đó là quả đẳng lưu; sinh vào đó, quả dị thục mà mình thọ, chỉ là khổ quả. "Tĩnh lự thứ tư trở lên không có", là tĩnh lự đệ tứ và các địa trên. "Có đủ hữu tình kia", cái có được khi sinh ra. "Nội ngã tánh của thức A-lại-da gồm thâu", là các chúng sinh thâu lấy thức nầy làm tánh của nội ngã. "Cầu lìa khổ uẩn", là cầu lìa khổ thọ. "Nhưng đối với tạng thức kia ngã ái trói buộc theo", là thức A-lại-da chấp ngã khởi ái trói buộc theo không lìa.
Luận nói: "Như vậy đã nói thức A-lại-da an lập, dị môn an lập. Tướng đó an lập, làm sao thấy? Tướng nầy lược có ba thứ: 1. An lập tự tướng. 2. An lập nhân tướng. 3. An lập quả tướng. Trong đây, an lập tự tướng của thức A-lại-da là nương vào hết thảy huân tập của hết thảy pháp tạp nhiễm làm nhân sinh thức đó. Do có thể gồm thâu trì chủng tử tương ưng. Trong đây an lập tướng nhân của thức A-lại-da, là hết thảy chủng tử thức A-lạida như vậy, đối với tất cả thời cùng với các pháp của phẩm loại tạp nhiễm kia hiện tiền làm nhân. Trong đây an lập quả tướng của thức A-lại-da, là nương vào pháp của phẩm tạp nhiễm kia, hết thảy huân tập từ vô thỉ đến nay, thức A-lại-da tương tục mà sinh".
Giải thích: Như vậy đã nói thức A-lại-da an lập dị môn, không phải nói dị môn là hiển rõ tướng của nó, nên tiếp theo nói tự tánh nhân tánh và quả tánh của thức này. "Trong đây an lập tự tướng" là duyên cả thảy huân tập của hết thảy phẩm Pháp Tạp Nhiễm, có thể sinh ra công năng sai biệt kia làm tự tánh của thức. Vì muốn hiển thị công năng như vậy, nên nói "thâu giữ trì chủng tử tương ưng", là nương vào hết thảy huân tập của hết thảy phẩm Pháp Tạp Nhiễm, tức là cùng với pháp kia làm nhân năng sinh. "Thâu giữ chủng tử", là công năng sai biệt. "Tương ưng", là nghĩa tu, gọi đó là an lập tự tướng của thức này. "Trong đây, an lập tướng nhân ", là kế trước đã nói phẩm loại hết thảy chủng tử. Thức A-lại-da do các pháp huân tập của phẩm loại tạp nhiễm kia, tạo thành công năng sai biệt, làm nhân sinh nó, gọi đó là an lập tướng nhân của thức này. "Trong an lập quả tướng", là nương vào vô thỉ huân tập của phẩm Pháp Tạp Nhiễm kia, thức nầy tương tục sinh và có khả năng giữ chắc sự huân tập vô thỉ, gọi đó là an lập tướng quả của thức này. Trong đây, tự tướng là nương hết thảy phẩm Pháp Tạp Nhiễm, huân tập vô thỉ làm nhân sinh ra nó, giữ chắc chủng tử thức làm tự tánh, mà quả tánh nhân, tánh được kiến lập. Trong đây, tướng nhân được thành bởi sự huân tập phẩm loại tạp nhiễm của các pháp, công năng sai biệt làm nhân sinh ra nó, chỉ là tánh nhân đã được kiến lập. Trong đây, tướng quả là nương vào sự huân tập vô thỉ phẩm loại của các pháp tạp nhiễm. Thức A-lại-da tương tục mà sinh, chỉ là tánh quả đã được kiến lập. Đó là ba thứ sai biệt.
Luận nói: "Lại nữa, cái gì gọi là huân tập? Huân tập là chủ thể giảng giải. Cái gì làm đối tượng được giảng giải? Là nương vào pháp kia đồng sinh đồng diệt, trong đó có thể sinh tánh nhân kia, đó là đối tượng được nêu bày. Như trong chỗ hoa cự thắng có hoa huân tập, cự thắng cùng với hoa đồng sinh đồng diệt, là các cự hoa thắng mang chủ thể sinh hương kia mà sinh, lại như chỗ lập các hành của tham thì sự huân tập của tham nương vào tham kia mà đồng sinh đồng diệt, tâm nầy mang nhân sinh kia mà sinh, hoặc đa văn, là đa văn huân tập nương vào tác ý của văn đồng sinh đồng diệt, tâm nầy mang ký nhân kia mà sinh, do huân tập nầy có khả năng nên gọi là kẻ trì pháp. Đạo lý huân tập của thức A-lạida, phải biết là như vậy".
Giải thích: Nói nương vào pháp kia cùng sinh cùng diệt, trong đây có thể sinh tánh nhân kia. "Đó là đối tượng được nêu bày", tức là nương vào các pháp tạp nhiễm mà đồng sinh đồng diệt, thức A-lại-da có thể sinh đối tượng được nêu bày kia. Tánh nhân của các pháp gọi là huân tập.
Luận nói: "Lại nữa, trong thức A-lại-da, các chủng tử của phẩm Pháp Tạp Nhiễm là khác nhau hay là không khác nhau? Không phải chủng tử kia có riêng vật thể, trụ trong đây cũng không phải không khác. Nhưng thức Alại-da như vậy mà sinh, có thể sinh công năng sai biệt kia, gọi là hết thảy chủng tử thức".
Giải thích: Chủng tử tạp nhiễm pháp trong thức Alại-da, là khác hay là không khác? Nếu như thế thì có lỗi gì? Nếu dị thì các chủng tử đó đáng lẽ từng phần riêng khác, thức A-lại-da, sát-na diệt thức cũng không được thành. Vì có khác riêng nên do lực huân tập của thiện và bất thiện thì chủng tử đáng lẽ thành tánh thiện và tánh bất thiện, nhưng thừa nhận vô ký. Nếu không khác, thì tại sao có nhiều? Điều nầy không đúng đạo lý, nên cả hai thuyết đều sai lầm. "Không phải chủng tử kia có riêng vật thể, trụ trong đây cũng không phải không khác… cho đến gọi là hết thảy chủng tử thức", là tránh lỗi đã nói trước, nên không quyết định lấy khác và không khác. "Như vậy mà sinh", là do phẩm loại như vậy mà sinh. "Có thể sinh công năng sai biệt kia", là có thể sinh phẩm Pháp Tạp Nhiễm, thì công năng sai biệt tương ưng với đạo lý, do cùng sinh với công năng tương ưng kia nên gọi là hết thảy chủng tử thức. Trong nghĩa nầy có hiện tại thí dụ, như hạt lúa đại mạch đối với tự sinh mầm có công năng nên có tánh chủng tử, nếu nó bị cũ đã lâu, hoặc bị sém lửa, thì công năng của hạt lúa nầy bị tổn hoại, lúc đó tướng của lúa dù còn y như xưa, nhưng thế lực bị hoại, nên không có tánh chủng tử. Thức A-lại-da cũng lại như vậy, có công năng sinh pháp tạp nhiễm, do công năng nầy tương ưng, nên gọi là hết thảy chủng tử thức.
Luận nói: "Lại nữa, thức A-lại-da cùng với các pháp tạp nhiễm kia đồng thời làm nhân lẫn nhau. Làm sao thấy được? Ví như ngọn đèn và tim đèn đồng thời lẫn nhau sinh cháy. Lại nữa, như bó lau nương giữ cho nhau đồng thời không đổ, phải quan sát trong đây đạo lý làm nhân lẫn nhau cũng như thế. Thức A-lại-da làm nhân cho pháp tạp nhiễm, pháp tạp nhiễm cũng làm nhân của thức Alại-da, chỉ có nhân duyên an lập như vậy, những nhân duyên khác thì không được như vậy".
Giải thích: Lại nữa, thức A-lại-da cùng với pháp tạp nhiễm kia đồng thời lẫn nhau làm nhân làm sao có thể thấy được? Đây là muốn dùng thí dụ để hiển thị nên đặt câu hỏi này. "Ví như ngọn đèn và tim đèn cùng lúc cháy sáng lẫn nhau", là một sát-na tim đèn làm chỗ nương tựa phát sinh ánh sáng đèn, đó là tim đèn làm nhân cho ánh sáng phát sinh, trong sát-na này, ánh sáng cứ đốt cháy chỗ dựa là tim đèn, sự cháy của tim đèn làm nhân cho ánh sáng, các thí dụ khác cũng vậy. Như vậy hiển thị có câu hữu nhân. Do nhân hiện tại trụ thì liền thấy quả sinh. Từ "thức A-lại-da làm nhân của pháp tạp nhiễm… cho đến chỗ nhân duyên khác không được như vậy", câu nói nầy hiển thị thức A-lại-da cùng với pháp tạp nhiễm làm nhân lẫn nhau, tức là nhân duyên.
Luận nói: "Thế nào là huân tập không khác, không tạp, mà có thể cùng với các pháp có khác, có tạp kia làm nhân? Như có nhiều dụng cụ dệt, chỗ dệt và áo dệt, đang khi dệt thì dù chưa có màu sắc xen tạp, không phải một phẩm loại có thể được đưa vào nhuộm, nhưng sau lúc đó trên áo liền có màu sắc xen tạp, không phải một phẩm loại màu nhuộm, nét vân, văn tượng hiển hiện. Thức Alại-da cũng lại như vậy, khác tạp là chỗ huân tập của chủ thể huân tập. Khi huân tập, tuy chưa có khác tạp khả đắc, nhưng quả sinh vật nhuộm hiện tiền sau đó, lại có khác tạp và vô lượng phẩm loại các pháp hiển hiện".
Giải thích: Thế nào là huân tập không khác, không tạp mà có thể cùng với kia các pháp có khác, có tạp kia làm nhân? Là muốn lấy thí dụ để hiển đạo lý đó, nên đặt câu hỏi này. Như có nhiều dụng cụ dệt, chỗ dệt và áo dệt, đang khi dệt tuy không có các dị tạp nét vân hình tượng có thể thấy được, nhưng sau khi nhuộm thì liền có các dị tạp vân tượng có thể thấy được. Thức A-lại-da như việc nhuộm áo, quả sinh tức là vật nhuộm, nên gọi là quả sinh vật nhuộm. "Đưa vào", nghĩa là chỗ thâu giữ của duyên. Khi huân tập tuy không có dị tạp, đến cương vị quả chín thì liền có các pháp của tánh nhân không phải một phẩm loại hiển hiện, như đã nhuộm áo xong.
Luận nói: "Như vậy duyên khởi trong Đại thừa rất vi tế sâu xa. Lại nữa, nếu lược nói thì có hai duyên khởi: 1. Phân biệt tự tánh duyên khởi. 2. Duyên khởi phân biệt ái phi ái. Trong đây dựa vào thức A-lại-da mà các pháp sinh khởi gọi là phân biệt tự tánh duyên khởi, vì có thể phân biệt đủ loại tự tánh làm duyên tánh. Lại có mười hai chi duyên khởi, đó gọi là duyên khởi phân biệt ái phi ái, vì có thể đối với cõi thiện và cõi ác phân biệt vô số tự thể của ái và phi ái làm duyên tánh".
Giải thích: "Như vậy duyên khởi trong Đại thừa rất vi tế sâu xa" hết sức vi tế là vì giác huệ của dị sinh khó hiểu nổi. A-la-hán khó đến tận đáy nên nói là thậm thâm. Lại nữa, nếu lược nói thì có hai thứ duyên khởi: 1. Duyên khởi phân biệt tự tánh. 2. Duyên khởi phân biệt ái, phi ái. Đây là nêu bày tên. "Trong đây dựa nơi thức A-lạida", là thức A-lại-da làm nhân cho các pháp sinh khởi, gọi đó là duyên khởi phân biệt tự tánh, vì có thể phân biệt tự tánh dị loại làm tánh của nhân. Hoặc là vô minh, gọi đó là duyên khởi phân biệt ái phi ái, vì có thể phân biệt vô số tự thể của ái phi ái làm tánh nhân.
Luận nói: "Trong thức A-lại-da, nếu ngu đệ nhất duyên khởi, có kẻ phân biệt tự tánh làm nhân, hoặc có phân biệt tạo tác từ trước làm nhân, có kẻ phân biệt tự tại biến hóa làm nhân, có kẻ phân biệt thật ngã làm nhân, có kẻ phân biệt vô nhân vô duyên. Nếu ngu đệ nhị duyên khởi, lại có kẻ phân biệt ngã là tác giả, ngã là thọ giả, ví như có nhiều sĩ phu mù bẩm sinh chưa từng thấy voi, có người đem voi đến dạy cho họ. Những người mù bẩm sinh kia, có người sờ vòi voi, có người sờ ngà, có người sờ tai, có người sờ chân, có người sờ lưng. Mỗi người đều được hỏi: Voi là tướng gì, thì có người nói voi như cái cán cày, có người nói như cái chày, có người nói như cái ky xúc đất, có người nói như cái cối, hoặc nói như cái chổi, có người nói voi như hòn đá núi. Nếu không hiểu rõ hai duyên khởi nầy thì vô minh sinh mù cũng lại như vậy. Hoặc có người chấp tự tánh làm nhân, hoặc có người chấp về đời trước làm nhân, hoặc có người chấp tự tại làm nhân, hoặc có người chấp thật ngã làm nhân, hoặc có người chấp vô nhân, vô duyên, hoặc có người chấp ngã làm tác giả, ngã làm thọ giả. Tánh nhân và tánh quả trong tự tánh của thức A-lại-da, cũng như sự không hiểu rõ tự tánh của voi".
Giải thích: "Hoặc có người phân biệt việc làm đời trước làm nhân", là họ không thừa nhận nhân sĩ dụng nên trở thành tà chấp. Vì hiển tà chấp nầy mà nói thí dụ mù bẩm sinh. "Vô minh sinh mù", là do vô minh nên trở thành mù bẩm sinh. "Tánh nhân và tánh quả trong tự tánh của thức A-lại-da, cũng như sự không hiểu rõ tự tánh của voi", là đã lập ở trước, thức tự tướng nầy gọi là tự tánh, tướng nhân được lập gọi là tánh nhân. Tướng quả được lập gọi là tánh quả. Do lực vô minh nên không hiểu rõ các tánh tướng này. Đối với thức A-lại-da, vì không hiểu rõ duyên khởi phân biệt tự tánh không hiểu rõ nên chấp tự tánh làm nhân của các pháp. Đối với duyên khởi thứ hai phân biệt ái phi ái, nên chấp có ngã làm tác giả, thọ giả. Nhân trong đây là thức A-lại-da, các pháp huân tập nắm giữ trong đó. Quả tức là thức A-lạida, tức là chỗ huân tập của các pháp kia.
Luận nói: "Lại nữa, nếu lược nói thì thức A-lại-da dùng hết thảy chủng tử của dị thục thức làm tự tánh của nó, có khả năng thâu giữ tất cả tự thể, tất cả cõi của tam giới".
Giải thích: Thức A-lại-da dùng hết thảy chủng tử của dị thục thức làm tự tánh, là đắc tự thể dị loại thục, chủng tử của các pháp huân tập trong đó. "Tất cả cõi", là năm cõi. "Tất cả tự thể", là chủng chủng sai biệt đồng phận và dị phận trong cõi ác.
Luận nói: "Trong đây có năm bài tụng:
Ngoại, nội, không biết rõ,
Tại hai chỉ thế tục,
Các chủng tử thắng nghĩa,
Phải biết có sáu thứ.
Sát-na diệt cùng có,
Luôn tùy chuyển phải biết,
Quyết định chờ nhiều duyên,
Chỉ giỏi dẫn tự quả.
Kiên, vô ký, khả huân,
Cùng năng huân tương ưng,
Sở huân không khác đây,
Đó là tướng huân tập.
Sáu thức không tương ưng,
Ba sai biệt trái nhau,
Hai niệm không cùng có,
Loại đối chiếu thành lỗi.
Chủng tử ngoại, nội này,
Phải biết năng sinh dẫn,
Khô chết do năng dẫn,
Mặc tình hậu biên diệt.
Để hiển nội chủng không giống ngoại chủng, nói thêm hai bài tụng:
Ngoại hoặc không huân tập
Phải biết phi nội chủng,
Văn huân tập không có,
Quả sinh, phi đạo lý.
Làm, không làm, được, mất,
Lỗi nên thành trái nhau,
Ngoại chủng, làm duyên nội,
Do nương kia huân tập.
Giải thích: Như vậy đã nói thức A-lại-da làm chủng tử chân thật của tất cả pháp, lại muốn hiển thị thể của chủng tử đó mà nói năm bài tụng này. Trong đó "ngoại", là hạt giống lúa thóc. "Nội", là thức A-lại-da. "Không hiểu rõ", là ngoại chủng tử có nghĩa là vô ký. "Tại hai" là thức A-lại-da tại hai tánh thiện và bất thiện là hiểu rõ thông suốt và hữu ký. Lại có nghĩa khác, là hiểu rõ tạp nhiễm và thanh tịnh. "Chỉ thế tục", là ngoại chủng tử chỉ tại thế tục nói làm chủng tử, tại sao vậy? Vì ngoại chủng tử kia cũng đều là chỗ biến hiện của thức A-lại-da. "Thắng nghĩa", tức là thức A-lại-da, tại sao vậy? Vì là chủng tử chân thật của tất cả pháp, phải biết tất cả chủng tử như vậy lại có sáu nghĩa: Sát-na diệt, là hai chủng tử đều sinh định vô gián diệt hoại, tại sao vậy? Vì không phải pháp thường làm thể của chủng tử, vì tất cả thời tánh của nó như xưa không có sai biệt. "Cùng hiện hữu", là không phải quá khứ cũng không phải vị lai, cũng không phải lìa nhau mà được làm chủng tử, tại sao vậy? Nếu lúc có chủng tử thì lúc đó quả sinh. "Hằng tùy chuyển phải biết", là thức A-lại-da cho đến đối trị sinh, ngoại pháp chủng tử cho đến căn trụ, hoặc cho đến thành thục. "Quyết định", là chủng tử nầy mỗi mỗi đều quyết định riêng, không từ tất cả tất cả mà được sinh, từ vật chủng nầy sinh lại vật chủng này. "Chờ nhiều duyên", là chủng tử nầy chờ tự chúng duyên mới có thể sinh quả, không phải tất cả thời có thể sinh tất cả. Nếu xứ đó thời đó gặp tự chúng duyên thì xứ nầy thời nầy tự quả được sinh. "Chỉ hay dẫn tự quả", là tự chủng tử chỉ dẫn tự quả, như chủng tử của thức A-lại-da chỉ có thể dẫn sinh thức A-lại-da, như lúa thóc chỉ có thể dẫn sinh các quả của lúa thóc. Như vậy lại hiển nghĩa loại quả sinh, bây giờ hiển thị thêm tướng khác của huân tập. "Kiên", là kiên trụ mới có thể thọ huân tập, không giống như gió động, tại sao vậy? Vì tánh của gió dao động không thể giữ, chắc hết thảy huân tập hơi gió rộng một du-thiện-na, các sự huân tập hơi gió kia không tùy chuyển, chiếm rộng nơi chốn có thể giữ lấy hương khí một trăm Du-thiệnna, hương khí kia cũng có thể tùy chuyển. "Vô ký", là nghĩa không thể ghi nhớ cực thơm cực hôi, do đạo lý nầy các loài rau thơm không thọ huân tập, vì cực hôi, như vậy vật thơm cũng không thọ huân tập, vì cực thơm. Nếu vật không phải cực thơm cực hôi thì chỗ ghi nhớ có thể thọ huân tập. "Có thể huân", là đáng thọ huân mới có thể huân tập. Không phải không thọ huân vàng đá, không đáng thọ huân gọi là không thể huân. Nếu lúc nầy có thể thọ huân tập thì lúc đó gọi là có thể huân, như vật khả huân. "Cùng chủ thể huân tương ưng", là chủ thể huân tương ưng mới gọi là có thể huân, không phải không tương ưng, phải biết tức là nghĩa sinh vô gián. "Chỗ huân ", là thức A-lại-da có đủ bốn đức trên, phải thọ huân tập nên gọi là chỗ huân tập, không phải chuyển thức. "Không khác đây", là nếu lìa thức A-lại-da nầy thì các thức khác không phải chỗ huân, nên chỗ huân tức là thức A-lại-da nầy không phải thức khác. "Đó là tướng huân tập", là thức A-lại-da có sát-na diệt, tướng huân tập sátna diệt đó cùng với các thức chuyển đồng thời có cho đến đối trị luôn tùy chuyển, hoặc cùng sinh tử luôn tùy chuyển. Định cùng với thiện làm tánh nhân, chờ duyên của phước, phi phước và hành bất động, đối với cõi thiện cõi ác và dị loại thục, các nghĩa như vậy trong thức chuyển, tất cả dị pháp đều phải thành lập. Do đó chỉ có thức A-lại-da nầy cùng với các thắng đức tương ưng như vậy mới có thể thọ huân tập. "Sáu thức không tương ưng", là các thức kia có động chuyển, "ba sai biệt trái nhau", là các thức kia chỗ dựa riêng khác, đối tượng duyên riêng khác và tác ý riêng khác. Lại có nghĩa khác, là hành tướng riêng khác chuyển từng cái một, thí dụ luận sư muốn khiến cho niệm trước huân vào niệm sau, để ngăn cản các niệm kia, nói rằng hai niệm không được cùng hiện hữu, không phải có hai sát-na cùng có trong một lúc, vì cùng sinh cùng diệt huân tập trụ. Nếu nói chủng loại của thức nầy như vậy, tuy không tương ưng, nhưng đồng loại thức thì cũng được huân tập lẫn nhau, thí dụ như vậy thì các thí dụ khác phải thành lỗi, là các chủng loại khác làm lệ cũng như vậy, vì các căn của nhãn… đồng loại với sắc tịnh thì cũng phải lần lượt huân tập lẫn nhau, ý nầy nói hai căn nhãn và nhĩ đồng có pháp tịnh, hai pháp tịnh lần lượt huân tập lẫn nhau, thì các pháp tịnh cũng vậy, nhưng ông không thừa nhận, tuy đồng pháp tịnh nhưng khác tương tục nên không được cùng huân tập, thức cũng phải như vậy, tuy đồng pháp thức nhưng pháp thức nào được cùng huân? Như vậy, đã nói hai thứ chủng tử là ngoại và nội, phải biết đều có khả năng sinh và có khả năng dẫn. Khởi ngoại chủng trong đây cho đến quả chín, làm nhân năng sinh, nội chủng cho đến biên vực của thọ lượng làm nhân năng sinh. Ngoại chủng có thể dẫn tương tục sau khi khô, nội chủng có thể dẫn thi hài sau khi chết. Do dẫn dắt nhân nên nhiều thời gian liên tục trụ. Nếu hai chủng tử chỉ có nhân sinh, thì nhân nầy đã hoại thì quả liền diệt mất. Phải nên không có nghĩa ít thời gian tương tục trụ. Nếu nói sát-na lần lượt tương tục, thì tiền niệm làm nhân cho hậu niệm tùy chuyển, thì hậu biên không nên đều diệt hết. Do đây quyết định phải có dẫn nhân, hai chủng tử ấy ví như dây cung và thân cung làm nhân, mũi tên không rơi xuống đất mà đi đến chỗ xa hơn.
Luận nói: "Lại nữa, các thức chuyển khác, phổ biến đối với tất cả tự thể của các cõi ác, phải biết gọi năng thọ dụng, như trong luận trung biên phân biệt nói kệ:
Một là tên duyên thức,
Hai là tên thọ giả,
Trong đây năng thọ dụng
Suy phân biệt tâm pháp.
Giải thích: Thọ dụng trong đây nghĩa là sinh khởi, trong thọ dụng có tên người thọ dụng, để hiển bày nghĩa này, dẫn bài tụng trong luận trung biên phân biệt làm Acấp-ma.
Luận nói: "Như vậy hai thức làm duyên lẫn nhau, như trong kinh Đại thừa A-tỳ-đạt-ma nói kệ:
Chư pháp nơi thức chứa,
Thức nơi pháp cũng vậy,
Lẫn nhau làm tánh quả,
Cũng thường làm tánh nhân.
Giải thích: Thức A-lại-da cùng với tất cả pháp, trong tất cả thời lẫn nhau làm nhân quả, lần lượt cùng sinh. Nếu lúc nầy thức A-lại-da làm nhân của các pháp, thì ngay lúc đó các pháp làm quả. Nếu trong lúc nầy thức A-lại-da làm quả của các pháp, thì ngay lúc đó các pháp làm nhân.
Luận nói: "Nếu trong duyên khởi thứ nhất, hai thức như vậy làm duyên lẫn nhau, trong duyên khởi thứ hai thì lại là duyên gì? Là duyên tăng thượng. Như vậy chỗ sinh của sáu thức có mấy duyên? Duyên tăng thượng, duyên sở duyên và duyên vô gián. Như vậy ba thứ duyên khởi, cùng cõi sinh tử ái phi ái và chủ thể thọ dụng có đủ bốn duyên".
Giải thích: Trong đây, duyên khởi thứ nhất, là hết thảy huân tập trong thức A-lại-da cùng với các pháp kia làm nhân duyên lẫn nhau.
Duyên khởi thứ hai, là vô minh làm duyên tăng thượng, do thế lực tăng thượng hiện hành của vô minh sinh khởi. Lại nữa, sáu chuyển thức gọi là duyên khởi thọ dụng. Chỗ sinh của ba duyên, là nhãn thức lấy nhãn làm duyên tăng thượng, lấy sắc làm duyên sở duyên. Duyên đẳng vô gián, là vô gián kia do thức nầy sinh khởi, tại sao vậy? Nếu thức không của dung chứa xứ thọ thì duyên nầy không sinh. Các thức khác cũng vậy.
Luận nói: "Như vậy đã an lập dị môn và tướng của thức A-lại-da. Lại làm sao biết dị môn như vậy và tướng như vậy? Quyết định chỉ tại thức A-lại-da, không phải tại thức chuyển, vì nếu xa lìa an lập thức A-lại-da như vậy, thì tạp nhiễm và thanh tịnh đều không được thành, là phiền não tạp nhiễm, hoặc nghiệp tạp nhiễm, hoặc sinh tạp nhiễm đều không thành, thế gian tịnh và xuất thế gian thanh tịnh cũng không thành".
Giải thích: Như vậy đã nói an lập dị môn và an lập tướng của thức A-lại-da, bây giờ sẽ hiển thị, hai pháp nầy dựa nơi thức A-lại-da mới đúng đạo lý, không phải tại các thức khác, lấy lý để quyết đoán.
Luận nói: "Thế nào là phiền não tạp nhiễm không thành? Vì các phiền não và tùy phiền não huân tập đối tượng tạo tác, thể chủng tử kia đối với thân sáu thức không đúng lý, tại sao vậy? Nếu lập nhãn thức, thì phiền não tham… và tùy phiền não đồng sinh đồng diệt, đây do kia huân thành chủng không phải thức khác. Nhãn thức nầy nếu đã lui mất thì chỗ nghe biết của thức khác huân tập như vậy, huân tập chỗ dựa đều không thể được. Chỗ dựa nầy diệt trước, thì nghe biết của thức khác hiển hiện không có thể. Nhãn thức cùng với tham… kia cùng sinh khởi là không đúng đạo lý, vì quá khứ kia hiển hiện là không thể. Như quá khứ kia hiện nghiệp không thể, là quả dị thục sinh là không đúng đạo lý. Lại nữa, nhãn thức nầy tham… cùng sinh, thì chỗ có huân tập cũng không thành tựu, nhưng huân tập nầy không trụ trong tham, vì do tham dục kia là chủ thể dựa, không kiên trụ, nên cũng không được trụ trong các thức khác, chỗ dựa của các thức kia riêng khác. Lại nữa, không có quyết định cùng sinh diệt, lại cũng không được trụ trong tự thể, vì tự thể kia quyết định không có đồng sinh diệt, nên nhãn thức là chỗ huân tập của phiền não và tùy phiền não tham… là không đúng đạo lý. Lại nữa, thức nầy không phải đối tượng huân tập của thức, như nói nhãn thức, các thức chuyển khác cũng lại như vậy, phải biết như vậy".
Giải thích: Chữ "thử" trong đây tức là "nhãn thức này". "Do kia huân", là do tham… huân tập. "Thành chủng", là thành tánh nhân.
"Không phải thức khác", là không phải nhĩ thức… "chỗ thấy nghe của thức khác", là chỗ nghe của nhĩ… "huân tập như vậy", là tham… huân tập. "Huân tập chỗ dựa", tức là nhãn thức. "Nhãn thức cùng với tham… kia cùng sinh", là từ quá khứ hiển hiện nhân không thể, nhãn thức cùng với tham… kia câu sinh là không đúng đạo lý. "Như từ quá khứ kia hiện nghiệp không thể mà quả dị thục sinh là không đúng đạo lý", là như quả kia sinh không đúng đạo lý thì quả nầy cũng không đúng đạo lý như vậy. Lại có các sư khác chấp hữu thể kia, là các dị luận sư muốn khiến cho quá khứ là thật có tánh, nhưng chủ thể nêu giảng và đối tượng được nêu giảng của quá khứ là không thể nắm bắt được, tại sao vậy? Nếu quá khứ là thật có, thì làm sao gọi là quá khứ? Nên "từ quả dị thục kia mà sinh" là không đúng đạo lý, vì sự huân tập không có. "Lại nữa, nhãn thức này", là nhãn thức cùng với tham… câu sinh. "Thì cả thảy huân tập cũng không được thành tựu", là sự huân tập kia còn chưa thành tựu, huống chi sau huân tập kia mà nhãn thức với tham cùng sinh mà sẽ được thành ư? "Nhưng huân tập nầy không trụ trong tham", là nhãn thức huân tập trong tham dục là không đúng đạo lý, tại sao vậy? Vì do tham dục kia nương vào nhã thức. "Vì không kiên trụ nên cũng không được trụ trong chỗ của các thức khác", là sự huân tập nầy không được trụ trong các thức như nhãn thức, nhĩ thức… tại sao vậy? Vì chỗ dựa của các thức đó riêng khác. Do chỗ dựa riêng khác nên không có quyết định. Nghĩa "câu sinh diệt", là nhãn thức nương nhãn, nhĩ thức nương nhĩ, như vậy cho đến ý thức nương mạt-na, vì chỗ dựa cách xa, chỗ huân tập khác đặt tại chỗ khác là không đúng đạo lý. "Lại cũng không được trụ trong tự thể", là nhãn thức nầy lại cũng không được huân tập nhãn thức, vì không có hai nhãn thức đồng thời khởi, vì không hai nên quyết định không có nghĩa cùng sinh diệt. Do đạo lý nầy nên nhãn thức quyết định không bị huân tập bởi phiền não tham và tùy phiền não…, cũng không phải nhãn thức làm đối tượng huân tập của nhãn thức.
Luận nói: "Lại nữa, từ vô tưởng… của các địa trên không có sinh lại khoảng thời gian này, lúc đó chỗ nhiễm thức ban đầu của phiền não và tùy phiền não, thì thức nầy khi sinh đáng lẽ không có chủng tử, vì chỗ nương dựa và huân tập kia đều đã thành quá khứ vô thể".
Giải thích: "Chỗ nhiễm thức ban đầu", là trở lại khoảng thời gian đầu tiên sơ sinh thức. "Thì thức nầy khi sinh đáng lẽ không có chủng tử", là ban đầu sinh thức đáng lẽ không có nhân để sinh. "Chỗ nương dựa", là phiền não huân tập.
Luận nói: "Lại nữa, đối trị phiền não, thức nếu đã sinh, thì tất cả các thức khác của thế gian đã diệt. Lúc đó, nếu lìa thức A-lại-da, thì chủng tử của các phiền não và tùy phiền não khác đang ở trong đối trị thức nầy là không đúng đạo lý, vì tự tánh của đối trị thức nầy là giải thoát, cùng với phiền não và tùy phiền não khác không cùng sinh diệt, sau đó thì thức thế gian sinh, lúc đó nếu lìa thức A-lại-da thì các huân tập kia và chỗ nương dựa trở thành quá khứ đã lâu, vì hiển hiện vô thể, nên không có chủng tử mà lại được sinh! Nên nếu lìa thức A-lại-da thì phiền não tạp nhiễm đều không được thành".
Giải thích: "Đối trị phiền não thức nếu đã sinh, thì tất cả các thức khác của thế gian đã diệt", là sáu thức đã diệt. "Chủng tử của chỗ các phiền não và tùy phiền não khác ở trong đối trị thức nầy là không đúng đạo lý", là đối trị thức không phải là nhân sinh khởi sau thức thế gian. "Sau đó", là từ tâm xuất thế nầy trở về sau. "Các huân tập kia", là hết thảy huân tập của phiền não và tùy phiền não khác. "Và chỗ nương dựa", là chỗ thức dựa. "Đáng lẽ không có chủng tử mà lại được sinh", là nếu không có thức A-lại-da thì các thức kia không nhân mà lại được sinh. Trong đây phiền não tức là tạp nhiễm, nên gọi là phiền não tạp nhiễm. Do đạo lý trên nên phiền não tạp nhiễm đều không được thành.
Luận nói: "Thế nào là nghiệp tạp nhiễm không thành? Vì hành làm duyên thức không tương ưng, điều nầy nếu không có, thì thủ làm duyên hữu cũng không tương ưng".
Giải thích: Để biện luận nghiệp tạp nhiễm không thành nhân duyên, nên kế đó hỏi thế nào nghiệp tạp nhiễm không thành? "Vì nghiệp làm duyên thức không tương ưng", là nghiệp phước, nghiệp phi phước, và nghiệp bất động đã sinh rồi liền diệt mất, nếu không tin có thức A-lại-da thì phải ở chỗ nào để an lập huân tập, như thân của sáu thức thì không thể nhận giữ hết thảy huân tập, trong các sự của phiền não tạp nhiễm đã có hiển thị đầy đủ. "Điều nầy nếu không có", là nếu không có hành làm duyên thức. "Thì thủ làm duyên hữu cũng không tương ưng", là cũng không có thủ làm duyên hữu. Thủ nầy lại duyên pháp gì? Là đối tượng huân tập thức của các hành trước do lực của thủ. Trong đây, ngay nơi nghiệp là tánh tạp nhiễm, gọi là nghiệp tạp nhiễm, hoặc nương vào nghiệp mà có tạp nhiễm nên gọi là nghiệp tạp nhiễm, nếu không tin có thức A-lại-da, thì nghiệp tạp nhiễm nầy cũng không được thành.
Luận nói: "Thế nào là tạp nhiễm sinh không thành? Vì khi kết tương tục nó không tương ưng.
Giải thích: Nếu không tin có thức A-lại-da, thì như sinh tạp nhiễm cũng không được thành. Bây giờ hiển thị, "vì khi kết tương tục nó không tương ưng", là vì đắc tự thể không tương ưng.
Luận nói: "Nếu hữu đối với địa phi đẳng dẫn này, khi đã chết rồi sinh, thì nương vào ý của trung hữu vị mà khởi. Ý thức nhiễm ô kết sinh tương tục, ý thức nhiễm ô nầy diệt trong trung hữu, trong thai mẹ, thức yết-la-lam lại càng hoà hợp nhau. Nếu ý thức cùng với kia hoà hợp, đã hoà hợp rồi dựa nơi thức nầy thì trong thai mẹ có ý thức chuyển. Nếu như thế thì phải có hai ý thức trong thai mẹ đồng thời chuyển, cũng tức là cùng với thức của hoà hợp kia, thì tánh ý thức đó không đúng đạo lý, vì nương nhiễm ô, vì thời gian không đoạn, vì đối tượng duyên của ý thức không thể thủ đắc. Nếu thức hoà hợp là ý thức, thì ý thức hoà hợp nầy tức là hết thảy chủng tử thức, làm chỗ nương sinh ý thức khác của thức nầy là hết thảy chủng tử thức. Nếu thức hoà hợp nầy là hết thảy chủng tử thức, thì đó là thức A-lại-da. Ông lấy tên khác lập làm ý thức. Nếu chủ thể nương dựa thức là hết thảy chủng tử thức, thì thức của chỗ dựa nhân không phải là hết thảy chủng tử thức. Thức có thể dựa quả là hết thảy chủng tử thức, như vậy không đúng đạo lý. Nên thành tựu thức hoà hợp nầy không phải là ý thức, chỉ có thức dị thục là hết thảy chủng tử thức".
Giải thích: "Địa phi đẳng dẫn", tức là cõi dục. "Ý thức nhiễm ô", tức là phiền não cùng hiện hành với ý thức. "Kết sinh tương tục", là thâu nhận tự thể. Ý thức nhiễm ô này, duyên sinh hữu làm cảnh, trong thân trung hữu diệt mất. "Hoà hợp", là thức cùng với đỏ trắng đồng một an nguy. Nếu thức hoà hợp là ý thức, thì chỗ dựa lại là chỗ sinh ý thức khác, đó là một thời mà hòa ý thức chuyển. Nói chỗ nương dựa hoà hợp ý thức và có thể nương dựa chỗ ý thức khác, lại cũng thức hoà hợp là tánh ý thức, là không đúng đạo lý, tại sao vậy? Vì nương nhiễm ô, vì thời gian không đoạn. Nói rằng ý thức nầy là chỗ phiền não nhiễm ô của tham, ý làm chỗ nương dựa, vì cảnh của duyên sinh hữu, nhiễm ô đó tức là ý thức nầy làm chỗ dựa, gọi là chỗ dựa nhiễm ô. Chỗ dựa trong vị này, dị thục không dung chứa nhiễm ô, vì là vô ký. Thức hoà hợp nầy thường không gián đoạn, mặc tình nghiệp chuyển. "Vì đối tượng duyên của ý thức không thể nắm bắt được", là đối tượng duyên biết rõ của ý thức có thể đắc. Điều gọi là các pháp, thức hoà hợp nầy không có đối tượng duyên biết rõ như vậy. Cho nên thức nầy là ý thức tánh, không đúng đạo lý.
Luận nói: "Lại nữa, đã kết sinh tương tục rồi, nếu lìa thức dị thục, thì chấp thọ sắc căn cũng không nắm bắt được, các thức khác mỗi mỗi đều nương riêng biệt, vì không kiên trụ, các sắc căn đó không nên lìa thức".
Giải thích: "Đã kết sinh tương tục rồi", là đã đắc tự thể. "Nếu lìa thức dị thục", là lìa thức A-lại-da. "Các thức khác mỗi mỗi đều nương riêng biệt, vì không kiên trụ", là sáu thức còn lại gọi là các chỗ riêng khác, vì dễ động chuyển, lại như nhãn thức thì nhãn làm chỗ dựa riêng, như vậy các thức của nhĩ… sắc căn của nhĩ… làm mỗi mỗi chỗ dựa riêng. Do đạo lý này, các thức như vậy chỉ nơi phải chấp thọ tự chỗ dựa căn. Cũng vì các thức nầy dễ động, hoặc có khi không có, nếu lìa thức A-lại-da, thì lúc đó các căn của nhãn… không thể chấp thọ, liền bị tan rã.
Luận nói: "Nếu lìa thức dị thục, thì thức cùng với danh sắc nương lẫn nhau, ví như bó lau cùng dựa mà chuyển, thức nầy cũng không thành",
Giải thích: "Nếu lìa thức dị thục", là lìa thức A-lạida, như vậy không được thành, bây giờ hiển thị. Như Thế Tôn nói thức duyên danh sắc, danh sắc duyên thức. Trong đây "thức duyên danh", là không phải sắc… bốn uẩn trong sáu thức. Thức duyên sắc, là Yết-la-lam. Nếu không nói có thức A-lại-da, thì những gì gọi là danh sắc duyên thức? Vì do nương danh sắc từng sát-na lần lượt, tương tợ tương tục lưu chuyển không dứt.
Luận nói: "Nếu đã lìa thức dị thục rồi thì sinh thức thực của hữu tình không thành. Tại sao vậy? Vì trong sáu thức tùy lấy một thức, trong tam giới đã sinh hữu tình có thể là tạo việc ăn là không thể được".
Giải thích: Câu nói nầy hiển việc ăn của thức không thành. Như Thế Tôn nói: "Ăn có bốn thứ: 1. Đoạn thực. 2. xúc thực. 3. Ý tư thực. 4. Thức thực". Đoạn thực trong đây là năng chuyển biến, do chuyển biến nên tạo lợi ích cho chỗ dựa. Xúc thực là chủ thể giữ lấy cảnh, do tạm có thể thấy cảnh giới của sắc, liền khiến cho chỗ dựa nhiêu ích mà sinh. Ý tư thực là chủ thể hy vọng, do hy vọng nên tạo lợi ích cho chỗ dựa, như xa thấy nước, tuy khát nhưng không chết. Thức thực là chủ thể chấp nhận, nên chỗ dựa trụ lâu, nếu không như thế thì phải đồng tử thi, không lâu thì hoại rã, do đó phải thừa nhận thức cũng là thực, vì có thể làm lợi ích sự việc của chỗ dựa. Trong đây xúc thực thuộc thân sáu thức, ý tư thực thuộc ý hy vọng. Có thức riêng nào có thể nói là thực? Lại nữa, nếu vô tâm, thuỳ miên, ngất xỉu và nhập định… thân sáu thức diệt, thì cái gì lại có của chủ thể chấp thọ thân khác khiến không rã hoại? Nếu bỏ thức A-lại-da thì thân chắc chắn rã hoại.
Luận nói: "Nếu từ đây mà chết, thì đối với địa đẳng dẫn khi thọ sinh, vì không phải đẳng dẫn ý thức nhiễm ô kết sinh tương tục, đây không phải là tâm đẳng dẫn nhiễm ô, chỗ gồm thâu của địa kia, lìa thức dị thục thì các thể định của chủng tử khác không thể nắm bắt được". Giải thích: Như vậy đã nói không phải địa đẳng dẫn kết sinh tương tục, lìa thức dị thục không thể được thành, như địa đẳng dẫn cũng không được thành, bây giờ sẽ hiển thị. Là nơi xứ nầy do nhiễm ô thức kết sinh tương tục, nơi địa đẳng dẫn thì do phi đẳng dẫn ý thức nhiễm ô kết sinh tương tục. Nhiễm ô, là bị địa phiền não làm nhiễm ô. Địa phiền não kia, là xan định vị. Tâm nhiễm ô nầy ở tại địa bất định, địa bất định mất thì từ tâm nhiễm ô nầy đã mất, tức là tâm kia và địa kia làm sao hiện tiền được? Đã không hiện tiền thì làm sao kết sinh tương tục được? Do đạo lý này, quyết định thừa nhận có thức Alại-da. Vô thỉ đến nay, hằng có địa ấy và tâm nầy huân tập, do huân tập nầy mà tâm nầy hiện hành, do tâm nầy mà kết sinh tương tục.
Luận nói: "Lại nữa, sinh cõi Vô sắc, nếu lìa hết thảy chủng tử thức dị thục, thì nhiễm ô tâm thiện đáng lẽ không có chủng tử, nhiễm ô tâm thiện đáng lẽ không có y trì".
Giải thích: Sinh cõi Vô sắc, là đã giải thoát. Sắc tâm nhiễm ô thiện, là chủ thể tạo vị ái và Tam-ma-địa. Đáng lẽ không có chủng tử, là đáng lẽ không có nhân. Đáng lẽ không có nương giữ, là đáng lẽ không nơi tựa. Lại có nghĩa khác, là hai tâm này, nếu không có chủng tử thì từ đâu mà sinh? Nếu không có nương giữ thì từ đâu mà chuyển? Vì chỗ thâu nhận của thức A-lại-da, mà từ tự chủng sinh làm chỗ dựa, khiến cho chủ thể dựa tương tục mà chuyển.
Luận nói: "Lại nữa, ngay nơi cõi kia, nếu tâm xuất thế đang hiện tiền, thì xuất thế tâm khác đều diệt tận".
Giải thích: Ngay nơi cõi kia nếu khi tâm xuất thế đang hiện tiền, thì trừ tâm nầy ra, các tâm khác là tâm thế gian, tâm thế gian kia lúc đó đều diệt hết. Như vậy thì cõi ác kia đáng lẽ vĩnh viễn đoạn, không do công dụng mà tự nhiên chứng đắc vô dư Niết-bàn. Đã không có lý này, tức không nên bác không có thức A-lại-da.
Luận nói: "Nếu sinh phi tưởng phi phi tưởng xứ, vô sở hữu xứ, khi tâm xuất thế hiện tiền thì đáng lẽ hai cõi đều diệt lìa, xuất thế thức nầy không lấy phi tưởng phi phi tưởng xứ làm chỗ dựa để đi về, cũng không nên lấy vô sở hữu xứ làm chỗ dựa để đi về, cũng không phải Niết-bàn làm cõi của chỗ dựa".
Giải thích: Nếu sinh Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hoặc lúc đó khởi tâm xuất thế gian của Vô sở hữu xứ kia khiến cho hiện tiền, do tâm của xứ kia cực sáng tỏ, lại do tâm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ ám độn trụ tại tâm cực sáng tỏ của xứ kia khiến cho hiện tiền, tâm xuất thế nầy không nên lấy thứ nhất đệ nhị làm cõi của chỗ dựa, vì hai địa kia đều là tâm thế gian. Lại nữa, sinh nơi địa khác, khởi các địa khác và tâm khác hiện tiền thì cả hai cõi của chỗ dựa đều không đúng lý. Lại nữa, ngay nơi tâm này, không nên lấy Niết-bàn làm cõi của chỗ dựa, vì hữu dư y. Như vậy ba thứ làm cõi của chỗ dựa đã không được thành, nếu không tin có thức A-lại-da, thì tâm xuất thế nầy cõi của chỗ dựa chỗ nào!
Luận nói: "Lại nữa, tạo thiện tạo ác, khi sắp chết, hoặc trên hoặc dưới, chỗ dựa dần dần lạnh, nếu không tin có thức A-lại-da là hoàn toàn không được thành. Nên nếu lìa hết thảy chủng tử thức dị thục, thì tạp nhiễm sinh nầy cũng không được thành".
Giải thích: Khi sắp xả bỏ mạng mà tạo thiện tạo ác, hoặc thân phần trên hoặc thân phần dưới dần dần lạnh, vì tạo thiện thì nhất định thăng thượng, nếu tạo ác thì nhất định đọa xuống. Nếu không thừa nhận có thức Alại-da làm chủ thủ chấp thọ, thì làm sao có được chỗ dựa dần dần lạnh, vì thức A-lại-da có thể chấp thọ, hoặc phần thân trên hoặc phần thân dưới, như thứ tự của nó, tùy theo chỗ xả thân liền có lạnh dần.
Luận nói: "Thế nào là thế gian thanh tịnh không thành? Là chưa lìa dục triền tham. Chưa đắc tâm sắc triền, tức là lấy dục triền tâm thiện làm lìa dục triền tham nên dốc tu gia hạnh. Dục triền nơi tâm gia hạnh nầy cùng với tâm sắc triền không đồng thời sinh diệt. Không phải sở huân của tâm gia hạnh kia, làm chủng tử của tâm gia hạnh kia, là không đúng đạo lý. Lại nữa, sắc triền tâm quá khứ phần nhiều là sinh các tâm gián cách khác, không nên làm chủng tử định tâm hiện tại, vì không có. Nên thành tựu tâm sắc triền định thì hết thảy chủng tử quả thức dị thục lần lượt truyền lại làm nhân duyên hiện tại, gia hạnh tâm thiện làm duyên tăng thượng, trong tất cả địa ly dục phải biết cũng như vậy. Thế gian thanh tịnh như vậy, nếu lìa hết thảy chủng tử thì lý của thức dị thục không được thành".
Giải thích: Như lý thế gian thanh tịnh không thành, bây giờ hiển thị, là xa lìa dục triền tham, vì dục triền tâm thiện khi tu gia hạnh, tức là dục triền nơi tâm thiện gia hạnh nầy chưa từng bị sắc triền tâm thiện huân tập, vì không đồng sinh diệt. Hiện tại tâm sắc triền đáng lẽ không có chủng tử tự nhiên mà sinh. Lại nữa, đời quá khứ sắc triền tâm thiện bị các thức khác ngăn cách nhiều đời, chỉ vì không có. Vì đã trở thành quá khứ, không được làm tâm định chủng tử hiện tại. Lần lượt truyền lại làm nhân duyên hiện tại, là vì thức A-lại-da trì chủng tử kia, tâm sắc triền hiện tại từ tự chủng tử sinh. Gia hạnh tâm thiện không phải không có công lực. Công lực, là chỉ có duyên tăng thượng không phải là nhân duyên, do lực tăng thượng kia sinh tâm sắc triền này. Phải biết xa lìa sắc triền tham như vậy.
Luận nói: "Thế nào là thanh tịnh xuất thế không thành? Là Thế Tôn nói: "Nương vào tiếng nói của người khác, và bên trong tác ý như lý riêng biệt, do đây làm nhân mà chánh kiến được sinh". Tiếng kẻ khác và tác ý như lý này, là huân tập nhĩ thức hay là huân tập ý thức, hay là cả hai đều huân tập? Nếu đối với pháp kia tư duy như lý, lúc đó nhĩ thức lại không được khởi, ý thức cũng làm mọi thứ tán động bị ngăn cách bởi các thức khác. Nếu cùng với tác ý như lý tương ưng khi sinh, thì chỗ huân tập điều nghe biết nơi ý thức nầy cùng với huân tập kia diệt thành quá khứ đã lâu, quyết định không có thể. Thế nào lại làm chủng tử có thể sinh sau khi tâm của tác ý như lý tương ưng? Tác ý như lý tương ưng nầy là tâm thế gian, chánh kiến tương ưng là tâm xuất thế, chưa từng có khi cùng sinh cùng diệt, nên tâm nầy không phải do nó huân tập, đã không bị huân làm chủng tử của nó thì không đúng đạo lý. Nên xuất thế tịnh tâm nếu lìa hết thảy chủng tử thì thức dị thục cũng không thành. Trong đây điều nghe biết được huân tập thâu nhận chủng tử kia không tương ưng".
Giải thích: Như tịnh tâm xuất thế không thành, bây giờ sẽ hiển thị. "Tiếng nói kẻ khác và tác ý như lý này", là cùng với tiếng nói tương ưng với tác ý. "Ý thức cũng làm mọi thứ tán động chỗ ngăn cách các thức khác", là cùng với chánh kiến tương ưng, nghĩa tâm xuất thế gian gián cách. "Nếu cùng với tác ý như lý tương ưng khi sinh", là sau đó, chỗ huân tập điều nghe biết nơi ý thức nầy cùng với huân tập kia diệt mất trở thành quá khứ đã lâu. "Quyết định không có thể", là trải qua thời gian lâu dài đã lui mất, nên quyết định không có thể. "Thế nào lại làm chủng tử có thể sinh sau khi tâm của tác ý như lý tương ưng"? Là chủng tử kia diệt đã lâu, hiện không có thể, nên không thể làm nhân. "Trong đây điều nghe biết huân tập thâu nhận chủng tử kia không tương ưng", là vì ý thức trong thế gian. Huân tập điều nghe biết trong đây, là nương vào tiếng nói kẻ khác mà chánh huân tập điều nghe biết. Thâu nhận chủng tử kia, là trong ý thức thâu nhận thanh tịnh xuất thế. Chủng tử không tương ưng, là chỗ kế chấp kia không đúng đạo lý. Thế nào có thể nói đây từ kia sinh?
Luận nói: "Lại nữa, thế nào là hết thảy chủng tử? Là quả thức dị thục làm nhân tạp nhiễm, lại làm có thể đối trị tâm tịnh xuất thế nơi chủng tử kia. Lại nữa, tâm xuất thế trước kia chưa từng luyện tập thì sự huân tập kia quyết định phải không có. Đã không có huân tập thì chủng tử từ đâu mà sinh? Cho nên phải đáp từ chỗ sinh của pháp giới tối thanh tịnh đẳng lưu chánh thức huân tập điều nghe biết nơi chủng tử".
Giải thích: Thế nào là đẳng? Là thức dị thục làm nhân của đối tượng được đối trị, làm nhân của chủ thể đối trị nhân thì không đúng đạo lý. Lại nữa, tâm xuất thế trước kia chưa từng luyện tập, là vì trước kia chưa sinh. Sự huân tập kia quyết định phải không có, là do nhân nầy mà tâm xuất thế kia không có huân tập, quyết định không nghi ngờ. "Từ chỗ sinh của tối thanh tịnh pháp giới đẳng lưu chánh thức huân tập điều nghe biết nơi chủng tử", vì để hiển pháp giới khác với Thanh-văn, Phật Bích-chi, nên nói tối thanh tịnh, vì chỗ chứng pháp giới của Phật Thế Tôn là vĩnh viễn đoạn phiền não chướng và đối tượng nhận thức chướng; từ chỗ lưu xuất các kinh luận giáo pháp của tối thanh tịnh pháp giới, gọi là tối thanh tịnh pháp giới đẳng lưu, không có nghe điên đảo các kinh luận như vậy nên gọi là thức nghe biết, do chỗ khởi huân tập của chánh thức nghe biết này, gọi là huân tập, hoặc thức nghe biết tức là huân tập, nên nói chánh huân tập điều nghe biết nơi, tức là huân tập nầy tương tục trụ tại thức A-lại-da, làm nhân có thể khởi tâm xuất thế gian, nên nói nó, được phát ra từ tối thanh tịnh pháp giới được sinh bởi chủng tử nghe đúng huân tập.
Luận nói: "Huân tập điều nghe biết nầy làm tự tánh của thức A-lại-da, hay là làm tự tánh của phi thức A-lạida? Nếu là tự tánh của thức A-lại-da thì tại sao nó đối trị chủng tử kia? Nếu tự tánh của phi thức A-lại-da thì chỗ dựa của huân tập điều nghe biết nơi chủng tử nầy làm sao thấy được? Đến khi chứng đắc Bồ-đề của chư Phật, huân tập điều nghe biết nơi nầy tùy tại chỗ dựa nơi chuyển xứ của một chủng tử, gởi trong thức dị thục cùng với hoà hợp kia đồng thời chuyển cũng như nước và sữa, nhưng không phải thức A-lại-da, mà là tánh đối trị chủng tử kia".
Giải thích: huân tập điều nghe biết nầy làm tự tánh thức A-lại-da hay làm tự tánh phi thức A-lại-da? Nếu như thế thì có lỗi gì? Nếu là tự tánh thức A-lại-da, thì thế nào tức là đối trị chủng tử của thức A-lại-da? Nếu là tự tánh phi thức A-lại-da, thì huân tập điều nghe biết nơi chủng tử nầy phải riêng có chỗ dựa. Cho đến chứng đắc Bồ-đề của chư Phật, là đến chỗ chứng đắc Bồ-đề Vô thượng của chư Phật. Huân tập điều nghe biết này, tức là tối thanh tịnh pháp giới đẳng lưu chánh huân tập điều nghe biết. Tùy tại chỗ dựa chuyển xứ của một chủng tử, là tùy tại chuyển xứ của một tương tục. Gởi trong thức dị thục cùng với hoà hợp kia đồng thời chuyển cũng như nước và sữa, là huân tập điều nghe biết nầy cùng với thức dị thục tuy không đồng tánh nhưng mà ký gởi trong thức dị thục đó, cũng như nước và sữa hoà hợp đồng thời chuyển. Nhưng không phải thức A-lại-da, là tuy hoà hợp tương tợ một tánh chuyển, nhưng không phải là thức Alại-da, mà là chủ thể tánh đối trị chủng tử thức A-lại-da. Luận nói: "Trong đây nương vào hạ phẩm huân tập mà thành trung phẩm huân tập, nương vào trung phẩm huân tập mà thành thượng phẩm huân tập, nương vào đa phần tu tác của văn tương ưng tu mà đắc tương ưng".
Giải thích: Phẩm hạ trung thượng trong đây, phải biết là nương vào tuệ được tạo bởi thành văn, tư, tu mà nói. Do mỗi mỗi phẩm kia có ba thứ, lại có nghĩa khác, là huệ do văn tạo thành là phẩm hạ, tuệ do tư tạo thành là phẩm trung, tuệ do tu tạo thành là phẩm thượng. Nương vào phần nhiều tu tập của Văn, Tư, Tu mà đắc tương ưng, là nương vào Văn, Tư, Tu niệm niệm mãnh lợi mà tu hành tạo tác. Lại nữa, trong đây phẩm hạ làm nhân đắc thành phẩm trung, phẩm trung làm nhân đắc thành phẩm thượng.
Luận nói: "Lại nữa, chánh thức huân tập điều nghe biết nơi chủng tử này, phải biết phẩm hạ trung thượng cũng là pháp thân chủng tử cùng với thức A-lại-da trái nhau, không phải chỗ gồm thâu của thức A-lại-da, là pháp giới xuất thế gian tối thanh tịnh nơi tánh đẳng lưu. Tuy là thế gian nhưng là tâm xuất thế nơi tánh chủng tử. Lại nữa, tâm xuất thế tuy khi chưa sinh, nhưng đã có thể đối trị các phiền não triền, đối trị các cõi ác, đã khởi đối trị hủ hoại hết thảy nghiệp ác. Lại nữa, có thể phụng sự tất cả chư Phật Bồ-tát. Tuy là thế gian, nhưng phải biết từ đầu đã tu nghiệp sở đắc của Bồ-tát, cũng là Pháp thân thâu tóm, chỗ đắc của Thanh-văn độc-giác chỉ thuộc giải thoát thân. Lại nữa, huân tập nầy không phải thức A-lạida mà là Pháp thân và giải thoát thân thâu tóm, như như huân tập, phẩm hạ trung thượng thứ tự tăng dần, như vậy như vậy, quả thức dị thục thứ tự giảm dần, tức là chuyển chỗ dựa, chỗ dựa của hết thảy chủng đã chuyển rồi, tức là quả thức dị thục và hết thảy chủng tử, không có chủng tử mà chuyển là hết thảy chủng vĩnh viễn đoạn.
Giải thích: Đã có thể đối trị các phiền não triền, là có thể đoạn nhân của hiện khởi chuyển tham tăng thượng. Đã có khả năng đối trị các cõi ác, là hoặc có thể đoạn các phiền não triền, tức là có thể đối trị các cõi ác. Đã khởi đối trị hủ hoại hết thảy nghiệp ác, là nếu tuy có thuận nghiệp hậu thọ phải đọa nơi cõi ác, nhưng có thể làm cho nghiệp ác kia trở thành nhân hủ hoại. Tóm lại, huân tập điều nghe biết nầy có thể trị tất cả nghiệp ác quá khứ vị lai hiện tại. Lại nữa, có thể tùy thuận phụng sự tất cả chư Phật Bồ-tát, là tương lai phụng sự thiện hữu, tự thân được nhân. "Tuy là thế gian, phải biết từ đầu đã tu nghiệp sở đắc của Bồ-tát cũng là Pháp thân nhiếp", là của dị sinh Bồ-tát gọi là nghiệp tu đầu tiên của Bồ-tát, cũng là chủng tử của Pháp thân nên nói cũng là Pháp thân nhiếp. "Chỗ đắc của Thanh-văn độc-giác chỉ thuộc thân giải thoát nhiếp", là chánh thức huân tập điều nghe biết của Thanh-văn độc-giác, chỉ là giải thoát nhân, chỉ đắc thân giải thoát mà không đắc Pháp thân.
Luận nói: "Lại nữa, thế nào là cũng như nước và sữa? Phi thức A-lại-da và thức A-lại-da đồng xứ cùng chuyển, nhưng hết thảy chủng của thức A-lại-da thì dứt hết, hết thảy chủng của phi thức A-lại-da thì tăng, ví như ngỗng uống sữa trong nước. Lại nữa, như thế gian khi được lìa dục, không phải đẳng dẫn địa huân tập giảm dần, chính địa đẳng dẫn đó huân tập tăng dần mà được chuyển".
Giải thích: Phi thức A-lại-da cùng với thức A-lạida, tuy đồng xứ cùng chuyển, nhưng thức A-lại-da thì hết, phi thức A-lại-da thì còn, trở lại ví dụ trước như nước và sữa hoà hợp, khi ngỗng uống thì sữa hết nước còn, ví dụ hiển thị. Lại nữa, như khi thế gian được lìa dục, trong một thức A-lại-da, không phải địa đẳng dẫn phiền não huân tập giảm dần, chính đẳng dãn địa pháp thiện tăng dần mà đắc chuyển y. Chuyển y trong đây phải biết cũng vậy.
Luận nói: "Lại nữa, nhập định diệt, thức không lìa thân, vì Thánh đã nói. Trong đây thức dị thục đáng lẽ trở thành không lìa thân, không phải vì trị định diệt nầy mà sinh".
Giải thích: Dẫn nhập định diệt, thức không lìa ngôn, làm thành định thì có thức A-lại-da. Thế Tôn nói thức không lìa thân, là trừ thức dị thục thì không được thành, vì định diệt sinh đối trị thức chuyển, nên quán định nầy mà làm tịch tĩnh tột bực.
Luận nói: "Lại nữa, không phải xuất định thì thức nầy sinh lại, do thức dị thục đã gián cách đoạn rồi, lìa kết tương tục không sinh lại".
Giải thích: Nếu chấp xuất định thì thức nầy sinh lại, do ý nầy nên thức không lìa thân, điều nầy không đúng lý, khi xuất định thì không sinh lại quả thức dị thục vì đã cách đoạn, lìa kết tương tục thì gởi vào sự sinh khác, không sinh lại nữa.
Luận nói: "Lại nữa, hoặc có chấp, vì có ý thức nên định có tâm. Tâm nầy không thành, thì định không nên thành, vì hành tướng và đối tượng duyên không thể đắc, vì phải có lỗi căn thiện tương ưng, vì bất thiện và vô ký không xứng lý, vì đáng lẽ lỗi tưởng thọ hiện hành, vì xúc có thể đắc, vì đối với tam-ma-đề có công năng, vì phải có lỗi chỉ có diệt tưởng, vì phải có lỗi thiện căn của tư và tín hiện hành, vì dứt trừ chủ thể dựa kia khiến cho lìa chỗ dựa là không đúng lý, vì có thí dụ, vì như không phải biến hành, nên tâm nầy không có".
Giải thích: Lại nữa, hoặc có chấp lấy ý thức nên định diệt có tâm. Tâm nầy không thành, là nếu có dục lìa tự tướng thức A-lại-da nói trước, các thức chuyển khác thì định diệt có tâm, điều nầy không đúng lý, tại sao vậy? Định không nên thành vì chưa từng thấy tâm lìa tâm pháp. Như tưởng thọ của các tâm pháp khác cũng vậy, đều nên không diệt, nhưng định diệt nầy đều diệt chỗ hiển, do đó phải đến định mà không nên thành. Nếu lập chỉ có thức A-lại-da thì không có lỗi này. Người cầu tĩnh trụ để đối trị oan kia, thì các tâm và tâm pháp khác do đó mà sinh, định nầy không làm đối trị chỗ không biết rõ tánh thức A-lại-da. Lại nữa, định nầy bên trong không có các tâm khác, tại sao vậy? Vì hành tướng và đối tượng duyên không thể đắc, các tâm và tâm sở pháp tương tục không đoạn, thì chắc chắn không lìa hành tướng và đối tượng duyên. Trong định diệt nầy nếu có tâm, thì cũng phải không lìa hành tướng và đối tượng duyên, nhưng hai thứ nầy đều không thể đắc, nên định nầy không có các tâm khác. Nếu chỉ lập có thức A-lại-da thì không có nạn hại này, vì chỗ hiển của chấp thọ chỗ dựa. Lại nữa, trong định nầy nếu có thức chuyển, thì thức nầy ắt có sai biệt của thiện, hoặc là thiện, hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký, nhưng trong đây thức lại không phải là thiện, vì phải có lỗi thiện căn tương ưng, lỗi trái nhau nầy cũng không phải thức nầy là tự tánh thiện, do đây không lìa thiện căn tương ưng mà thành thiện tánh. Vì lập tâm định là tánh thiện, đến chỗ không muốn cùng với thiện căn tương ưng của vô tham, điều nầy không nên thừa nhận cùng với tâm thiện không có sai biệt, khắp tất cả xứ đáng lẽ thành lỗi này. Lại nữa, trong đây cũng không nên có bất thiện và vô ký, vì bất thiện vô ký không đúng lý. Khi lìa dục thì các căn bất thiện đều vĩnh viễn đoạn, không thành bất thiện cũng không phải vô ký, vì định nầy thiện. Lại nữa, không thể lập tâm nầy là thiện, vì phải có lỗi tưởng thọ hiện hành. Nếu lìa thiện căn thì tâm thiện không có, cho nên phải đến thiện căn hiện hành. Trong đây như nếu có thiện căn hiện hành, thì tưởng thọ cũng vậy, vì phải đến hiện hành không có nhân riêng khác, nhưng không đúng lý, vì sở trị hiện hành thì chủ thể đối trị không có. Ví như tham… đang hiện hành, thì quán bất tịnh… quyết định không có. Lại nữa, trong định này, lìa thức A-lại-da thì các tâm khác không được có, vì phải có xúc thì có thể bị lỗi, như trụ các định khác thì quyết định không có nghi, thiện căn tương ưng trong các định khác, khi các thức khác chuyển thì quyết định có xúc, vì chỗ sinh của định lấy khinh an làm tướng, hoặc thuận lạc thọ, hoặc có tùy thuận không phải khổ thọ, lạc thọ, xúc nầy làm duyên hoặc sinh lạc thọ, hoặc lại sinh khổ thọ, lạc thọ. Tại sao vậy? Vì đối với Tam-ma-địa khác thì có công năng này, trong các định khác thấy hai xúc ấy khi sinh hai thọ thì có công năng, hai xúc ấy cũng như thế, vì không có nhân chướng. Xúc làm duyên thọ thì trong đây đáng lẽ không đúng lý. Tại sao vậy? Vì phải chỉ có lỗi nơi tưởng diệt. Nếu thừa nhận xúc nầy làm duyên sinh thọ, thì trong định nầy chỉ nhận tưởng diệt, nhưng không nên thừa nhận tưởng và thọ cùng diệt, vì Thánh đã nói. Lại nữa, trong định nầy nếu có các thức khác, thì chắc chắn cùng với xúc của nó đồng thời có tương ưng, điều nầy không đúng lý. Tại sao vậy? Nếu có xúc thì phải có lỗi các thiện căn nơi tư tín… của nó hiện hành. Nếu có thức đó xúc tương ưng chuyển, thì có cùng với câu sinh tư… này, vì Thánh đã nói. Trong đây phải đến có tư hiện hành, nếu trong định nầy có tư hiện hành tạo tác tâm thiện, thì chắc chắn có tâm thiện của tín… hiện hành, nhưng không nên thừa nhận. Nếu có dục ẩn tránh như trước đã nói các thứ lỗi, và lỗi trái nhau của A-cấp-ma, vì chỉ chán lìa các tâm pháp, chỉ dứt hẳn tâm pháp, thì trong định nầy chỉ nơi lập có tâm mà không có tâm pháp, điều nầy không đúng, tại sao vậy? Vì trừ chủ thể dựa kia khiến cho lìa chỗ dựa là không xứng lý. Chỗ dựa là tâm, chủ thể dựa nương là tâm pháp, tâm của chỗ dựa và chủ thể dựa cùng với tâm pháp từ vô thỉ sinh tử đến nay không lìa nhau, do sự tương dẫn này, nên định phải cùng với các thiện căn vô tham… tương ưng. Nếu nói định cùng với phương tiện định và thiện căn vô tham… trái nhau, thì thiện căn trong định không chuyển, chỉ có tâm thiện chuyển, điều nầy đối với các kinh luận khác là chưa từng thấy. Nếu đối với nhân và thời, pháp kia tương ưng với quả đẳng lưu, thì thời cũng có tương ưng nên không xứng lý. Lại nữa, không xứng lý, có thí dụ, là Thế Tôn nói: "Các thân hành diệt, các ngữ hành diệt, các ý hành diệt". Thân hành trong đây, là hơi thở ra vào, ngữ hành là tầm và từ, ý hành là tư tưởng… nếu như tầm từ diệt thì ngữ chắc chắn không khởi. Ý cũng vậy, nếu ý hành diệt thì ngữ cũng đáng lẽ không khởi. Nếu ý ông cho như thân hành diệt an trụ trong định thì thân tồn tại không diệt mất. Ý cũng vậy, tuy ý hành diệt nhưng đáng lẽ tồn tại không mất, ý nầy cũng như thế. Tại sao vậy? Nếu như không phải biến hành thì ý nầy không có, như Thế Tôn nói: "Lìa ngoài thân hành thì có thân trụ nhân". Gọi là ẩm thực mạng căn thức, thân hành nầy tuy không có hơi thở ra vào, nhưng thân an trụ, ý thì không như vậy. Lìa ngoài ý hành thì càng không có nhân riêng khác để trì chống đỡ cho trụ. Do đây phải đến không ý thức nên gọi là không tâm định, vì quả dị thục nơi thức có trong đây. Thế Tôn nói thức không lìa thân, tức là từ chủng tử của thức nầy sau khi xuất định thì thức chuyển sinh trở lại, nên biết chắc là có thức A-lại-da.
Luận nói: "Lại nữa, trong định này, do ý thức mà chấp có tâm. Tâm nầy là thiện, bất thiện hay là vô ký đều không được thành, vì không xứng lý".
Giải thích: Đã rộng phế và lập diệt định có tâm, bây giờ hiển thị sơ lược nghĩa bài tụng thứ hai. Nếu có muốn trừ thức A-lại-da, nhưng vì có ý thức nên định diệt có tâm. Tâm nầy là thiện, bất thiện hay vô ký, đều không được thành vì không xứng lý. Tại sao vậy? Vì định diệt nầy là tánh thiện, không phải bất thiện và vô ký. Cũng như thế, oai nghi công xảo biến hóa vô ký, quyết định không được có. Nếu nói đây là dị thục vô ký, thì lý phải đến thức A-lại-da, trừ bỏ thức A-lại-da nầy thì lại không có vô ký thứ năm. Lại nữa, trong định nầy nếu tâm là thiện, thì phải không có thiện căn vô tham tương ưng, vì ý nhiễm ô diệt chỉ còn tâm thiện, chỗ dựa và đối tượng duyên của tâm thiện lúc đó đều có ba sự hoà hợp. Tại sao trong đây không sinh xúc của nó? Đã có xúc của nó rồi, thì tâm pháp của thọ… làm sao được bất sinh? Như vậy định diệt đáng lẽ không được thành, vì các tâm và tâm pháp đều không diệt. Lại nữa, nếu ai chấp định nầy là thiện, thì do phương tiện trước chỗ dẫn định của tâm, có thể dẫn chỗ dẫn của lực nơi tâm thiện, nên tâm thiện trong định không phải các thiện căn như vô tham… tương ưng. Lại nữa, ba hoà hợp nếu có thể gắng nhận thì cũng có thể sinh thọ. Nếu ba hoà hợp không có thể gắng nhận thì chỉ sinh xúc của nó. Do đó, trong định tuy có tâm thiện, nhưng không phải không có thiện căn vô tham… tương ưng, và cũng không có các thọ, thì nghĩa nầy không đúng. Phương tiện tâm thiện đã là thiện căn vô tham… tương ưng, từ chỗ dẫn quả đẳng lưu nơi tâm nầy tại sao không như vậy? Lại nữa, từ chỗ dựa bạt trừ chủ thể dựa là không đúng lý, vì tâm cùng với tâm pháp vô thỉ đến nay, trong tất cả thời không lìa nhau. Hiện tại bạt trừ chủ thể dựa khiến cho lìa chỗ dựa thì không thể được. Tại sao vậy? Có thí dụ, nói trong thế gian từ khi sinh đến hoại, trong tất cả thời không lìa nhau, không có đạo lý bạt trừ chủ thể dựa khiến cho lìa chỗ dựa. Ví như đại chủng cùng với chỗ tạo sắc, không có đạo lý khiến cho chỗ tạo lìa chủ thể tạo. Tâm pháp cũng như thế, không thể khiến cho tâm pháp lìa tâm nơi chỗ dựa. Nên trong không tâm định nầy không có tâm pháp, chỉ có tâm thiện là không đúng đạo lý. Hoặc có người cho rằng, bạt trừ chủ thể dựa khiến lìa chỗ dựa, tuy không đúng đạo lý, nhưng tưởng và thọ có thể chướng định này, vì chán lo chướng định kia trong phương tiện thì chỉ có hai pháp tưởng thọ không hiện hành, các pháp khác thì không như thế, nếu cũng được hiện hành là không đúng đạo lý. Tại sao vậy? Vì không phải biến hành thì định nầy không có. Không phải biến hành, là trong đó có thể diệt mất, hai tưởng, thọ là biến hành nên không thể diệt. Biến hành nếu diệt thì tâm cũng diệt theo, vì không có nhân riêng, do đó trong đây nói có tâm, là thức dị thục, quyết định không phải ý thức.
Luận nói: "Hoặc có người chấp sắc tâm sinh vô gián là chủng tử của các pháp. Chấp nầy không thành, như trước đã nói. Lại nữa, từ vô sắc, vô tưởng thiên chết, định diệt… xuất, là không đúng đạo lý. Lại nữa, tâm sau cùng của A-la-hán không thành, chỉ có thể có duyên đẳng vô gián".
Giải thích: "Hoặc có người chấp sắc tâm sinh vô gián là chủng tử của các pháp", là nếu có chấp sắc của tiền sát-na làm chủng tử, thì sắc của hậu sát-na nhân đó mà sinh, thức trước diệt, thức sau mong nhau cũng như thế. Sự chấp này, đã phá xong ở trước. Lại nữa, cõi Vô sắc không có sắc, khi sinh lại, sắc đoạn diệt đã lâu làm sao có chủng tử?
Vô tưởng thiên không có, hoặc từ định diệt… xuất, khi tâm sinh lại, tâm đoạn diệt đã lâu thì làm sao có nhân của tâm? Nếu như vậy thì các A-la-hán rốt cuộc không đắc Niết-bàn vô dư, vì hai nhân của sắc và tâm vĩnh viễn không hết. Sắc tiền sát-na mong sắc hậu sát-na, thức tiền sát-na mong thức hậu sát-na, phải biết có duyên đẳng vô gián, không có nhân duyên.
Luận nói: "Như vậy nếu lìa hết thảy chủng tử quả dị thục nơi thức, thì tạp nhiễm và thanh tịnh đều không được thành, nên thành tựu như vậy tướng đã nói ở trước, thức A-lại-da quyết định là có".
Giải thích: Do trước đã nói vô lượng đạo lý, nên thành tựu thức A-lại-da quyết định là có.
Luận nói: "Trong đây có tụng:
Bồ-tát nơi tâm tịnh,
Xa lìa nơi năm thức,
Tâm chuyển y trọn vẹn,
Làm sao ông sẽ khởi?
Nếu đối trị chuyển y,
Phi đoạn nên không thành,
Quả nhân không sai biệt,
Nơi đoạn hẳn thành lỗi.
Vô chủng hoặc vô thể,
Nếu nhận làm chuyển y,
Không có hai vô kia,
Chuyển y không đúng lý.
Giải thích: Nếu như trụ thức chuyển thì chuyển y không thành, ba bài tụng hiển thị. "Bồ-tát nơi tâm tịnh", là đối với nghĩa xuất thế đối trị tương ưng ý thức thiện. "Xa lìa nơi năm thức", là xa lìa nhãn… năm thức này. Vô dư, là không có ý thức thiện hữu lậu tạp nhiễm. Đã đưa ra tâm tịnh, lại nêu ra vô dư, là vì muốn ngăn cản thức thiện hữu lậu. "Tâm chuyển y làm sao khởi", là nếu ông tin có thức A-lại-da, thì có thể khởi tất cả chủng tử tạp nhiễm, không có nghĩa chủng tử gọi là tâm chuyển y. Nếu không như thế thì làm sao sẽ khởi, hoặc đối trị sinh thì gọi là chuyển y, điều nầy không đúng lý. Tại sao vậy? Nếu đối trị chuyển y không phải đoạn thì không thành tạp nhiễm. Vì vĩnh viễn đoạn nên gọi là chuyển y, không phải chủ thể đối trị gọi là vĩnh đoạn, mà chủ thể đối trị nầy là vĩnh đoạn nhân, nếu như thế thì đến lỗi quả nhân không sai biệt. Quả là vĩnh đoạn gọi là Niết-bàn, nhân là đối trị gọi là Thánh đạo. Nếu chủ thể đối trị tức là vĩnh đoạn thì phải đến lỗi quả nhân nhất thể mới sinh đối trị tức là Niết-bàn. "Không chủng hoặc không thể, nếu nhận làm chuyển y", là nếu đối với thức chuyển làm không chủng tử, hoặc ngay không thể mà thừa nhận làm chuyển y, thì không có nhị không (không chủng, không thể) kia nên chuyển y không đúng lý. Tạp nhiễm thức chuyển, trong định vị không nên có, cũng không có chủng tử có thể khiến cho khởi không. Không có nhị vô mà gọi là chuyển y thì không đúng đạo lý. Nếu quyết định có thức A-lại-da, thì tạp nhiễm thức chuyển trong định nầy tuy không được có, nhưng chủng tử kia tất cả đều trụ tại thức A-lại-da, có thể làm không chủng và không thể của nó. Do chuyển y của ông không đúng đạo lý, nên phải tin có thức A-lại-da.
Luận nói: "Lại nữa, thế nào là sai biệt của thức Alại-da? Lược nói phải biết hoặc ba thứ hoặc bốn thứ. Trong đây ba thứ là huân tập sai biệt: 1. Danh ngôn huân tập sai biệt. 2. Ngã kiến huân tập sai biệt. 3. Hữu chi huân tập sai biệt. Bốn thứ sai biệt là: 1. Dẫn phát sai biệt. 2. Dị thục sai biệt. 3. Tướng duyên sai biệt. 4. Tướng mạo sai biệt".
Giải thích: Như vậy đã thành lập thức A-lại-da, bây giờ sẽ hiển thị phẩm loại sai biệt này. Trong ba thứ huân tập sai biệt, "danh ngôn huân tập sai biệt", là nhãn ngôn huân tập, trong thức dị thục làm nhân sinh của nhãn, dị thục sinh nhãn từ danh ngôn kia, khi sinh thì dùng danh ngôn kia làm nhân, trở lại gọi là nhãn. Như vậy tất cả danh ngôn sai biệt của nhĩ… cũng như thế.
"Ngã kiến huân tập sai biệt", là do lực của Tát-ca-da kiến nơi ý nhiễm ô mà ngã chấp huân tập sinh trong thức A-lại-da, do thức nầy làm nhân, là tự thì làm ngã, và khác ngã thì làm tha, mỗi mỗi đều có sai biệt. "Hữu chi huân tập sai biệt", là do lực của hành thiện, bất thiện và bất động mà lưu chuyển sai biệt trong cõi. Ba thứ nầy như tướng của đối tượng nhận thức ở sau mới phân biệt rộng. Luận nói: "Trong đây dẫn phát sai biệt, là mới khởi huân tập. Nếu không có dẫn phát nầy thì hành làm duyên thức và thủ làm duyên hữu đáng lẽ không được thành".
Giải thích: Dẫn phát sai biệt, là có thể dẫn phát phẩm loại sai biệt. Mới khởi huân tập, là nương vào chỗ khởi huân tập lần đầu tiên. Nếu chủ thể dẫn là thức Alại-da sai biệt nầy không có, thì các hành sinh diệt huân tập trở thành thức, do thủ thâu nhận sinh hữu hiện tiền, chỗ tạo tác hữu nầy đáng lẽ không thành, vì chủ thể tạo tác hữu sinh sau đó nên gọi là hữu, chỗ nói nầy thì thủ hoặc là thiện, hoặc bất thiện, là quả quán tập.
Luận nói: "Trong đây dị thục sai biệt, là hành và hữu làm duyên, dị thục sai biệt trong các cõi. Dị thục sai biệt nầy nếu không có thì không có chủng tử, sau đó có các pháp sinh thì đáng lẽ không thành".
Giải thích: Dị thục sai biệt, là hành và hữu làm duyên, chỗ dẫn dị thục trong các cõi, nếu chỗ dẫn thức A-lại-da sai biệt nầy không có, thì không có nhân, sau đó có các pháp và sắc căn của nhãn… những pháp nầy dị thục sinh đáng lẽ không thành. Phải biết đây là quả dị thục.
Luận nói: "Trong đây duyên tướng sai biệt, là ngã chấp duyên tướng trong ý. Duyên tướng nầy nếu không có, thì trong ý nhiễm ô ngã chấp đối tượng duyên đáng lẽ không thành".
Giải thích: Tướng duyên sai biệt, là thức A-lại-da này, tức chủ thể dựa là ngã kiến ngã chấp tướng duyên trong ý nhiễm ô. Nếu tướng duyên nầy thức A-lại-da sai biệt không có, thì Tát-ca-da kiến trong ý nhiễm ô làm nhân ngã chấp, đối tượng duyên cảnh nầy đáng lẽ không thành. Phải biết đây là quả đẳng lưu.
Luận nói: "Trong đây tướng mạo sai biệt, là thức nầy có cộng tướng, có tướng bất cộng, tướng chủng tử không thọ sinh, tướng chủng tử có thọ sinh …"
Giải thích: Tướng mạo sai biệt có nhiều phẩm loại, là trong đây có cộng tướng, có tướng bất cộng, tướng chủng tử không thọ sinh, tướng chủng tử có thọ sinh, là lược nêu ra, sau đây sẽ giải thích rộng.
Luận nói: "Cộng tướng, là chủng tử của khí thế gian. Tướng bất cộng, là nội xứ chủng tử mỗi mỗi riêng khác. Cộng tướng tức là chủng tử không thọ sinh, tướng bất cộng tức là chủng tử có thọ sinh. Khi đối trị sinh, thì chỉ có chỗ đối trị diệt của tướng bất cộng, tướng cộng thì làm chỗ giữ lấy của tha phân biệt, chỉ thấy thanh tịnh, như sư Du-già, trong tại một vật, các thứ thắng giải, chỗ thấy thật chủng, đều được thành lập, trong đây có hai bài tụng:
Khó đoạn, khó biết khắp,
Phải biết danh cộng kết,
Du-già là tâm khác,
Do ngoại tướng các đại.
Thanh tịnh tuy không diệt,
Nhưng trong đó thấy tịnh,
Cũng Phật độ thanh tịnh,
Do Phật thấy thanh tịnh.
Lại có bài tụng khác đối với đã dẫn của bài trước, các thứ thắng giải, các thứ kiến giải đều được thành lập:
Các sư Du-già nơi một vật,
Các thứ thắng giải đều không đồng,
Các thứ kiến giải đều được thành,
Nên biết sở thủ chỉ có thức.
Thức nầy nếu không có, thì khí thế gian, thế gian hữu tình, sự sinh sai biệt phải không được thành.
Giải thích: Trong đây nếu thức A-lại-da làm nhân thể của tất cả hữu tình cộng khí thế gian, tức là chủng tử không thọ sinh. Nếu thức A-lại-da làm nhân thể các xứ của bất cộng nơi các biệt sắc, tức là chủng tử có thọ sinh. Nếu lìa phẩm loại cộng tướng thức A-lại-da như vậy, thì tất cả hữu tình cộng thọ dụng nhân và các khí thế gian đáng lẽ không được thành. Như vậy nếu lìa bất cộng thứ hai nơi thức A-lại-da, thì thế gian hữu tình cũng phải không thành. Do nghĩa nầy các pháp sinh giống như gỗ đá.
Luận nói: "Lại có tướng thô trọng và tướng khinh an. Tướng thô trọng, là chủng tử của phiền não và tùy phiền não. Tướng khinh an, là chủng tử của pháp thiện hữu lậu. Nếu không có các tướng nầy thì các hoặc dị thục không có chỗ gắng nhận, có chỗ gắng nhận thì chỗ sai biệt không được thành. Lại có tận tướng có thọ và tận tướng không thọ. Tận tướng có thọ, là đã thành thục chủng tử của quả dị thục thiện và bất thiện. Tận tướng không thọ, là chủng tử của danh ngôn huân tập, vô thỉ đến nay, chủng tử của các thứ hý luận lưu chuyển. Nếu không có thức A-lại-da nầy thì hai nghiệp thiện ác đã tạo tác cùng với quả thọ tận phải không được thành, danh ngôn mới huân tập sinh khởi cũng đáng lẽ không được thành. Lại có tướng thí dụ, là thức A-lại-da này, huyễn, diệm, mộng, mờ, làm thí dụ. Nếu không có thức A-lạida này, thì do chủng tử của biến kế không thật và duyên điên đảo tương ưng không được thành. Lại có tướng cụ túc, là đủ các trói buộc, gọi là tướng cụ túc. Thế gian lìa dục gọi là tướng tổn giảm. Thanh-văn hữu học và các Bồ-tát gọi là tướng nhổ đứt một phần. A-la-hán, độcgiác và chư Như Lai gọi là tướng phiền não chướng nhổ đứt trọn vẹn và tướng phiền não, sở tri chướng hoàn toàn nhổ đứt trọn. Như chỗ thích ứng của nó, nếu không có các tướng nầy thì tạp nhiễm thứ lớp như vậy hoàn diệt đáng lẽ không thành".
Giải thích: Tướng thô trọng, là không có tánh gắng nhận trong chỗ dựa. Tướng khinh an, là có tánh gắng nhận trong chỗ dựa. Nếu không có tướng thọ tận, thì thức A-lại-da niệm niệm đã làm hai nghiệp thiện ác cùng với quả thọ tận đáng lẽ không thành. "Tướng vô thọ tận là chủng tử của danh ngôn huân tập", là như trong danh ngôn huân tập sai biệt đã nói. "Vô thỉ đến nay, chủng tử của các thứ hý luận lưu chuyển", là từ vô thỉ đến nay có chung nhân của ngôn thuyết. Nếu không có thức A-lạida như vậy, thì danh ngôn mới khởi huân tập sinh khởi phải không được thành. Tại sao vậy? Vì nếu không có huân tập cũ thì danh ngôn hiện tại cũng không có. Hoặc đối với thế gian hoàn toàn không có, thì xưa không nay có là không đúng đạo lý. Tướng thí dụ, là như do các nhân làm huyễn sự, các tướng duyên điên đảo có hình tượng được… thức A-lại-da cũng lại như vậy, do chỗ nói tướng thí dụ, là chủng tử biến kế không thật, có tướng duyên điên đảo, nếu không có thức A-lại-da này, thì pháp nơi tướng duyên điên đảo không được thành.
Luận nói: "Vì nhân duyên gì mà pháp thiện và pháp bất thiện chiêu cảm dị thục? Chính quả dị thục là vô phú vô ký, do quả dị thục vô phú vô ký cùng với thiện bất thiện không trái nhau. Nếu quả dị thục là tánh thiện và tánh bất thiện thì hoàn diệt của tạp nhiễm đáng lẽ không được thành, nên thức dị thục chỉ có vô phú vô ký".
Giải thích: Vô phú vô ký, là vô nhiễm trong đây gọi là vô phú, tức là vô nhiễm vô ký gọi là vô phú vô ký, không giống như cõi Sắc sinh phiền não bất thiện gọi là vô ký. "Nếu quả dị thục là tánh thiện và tánh bất thiện thì hoàn diệt của tạp nhiễm đáng lẽ không được thành", là vì từ thiện lại sinh thiện, thì sinh tử lưu chuyển không có biên vực, vì lưu chuyển tạp nhiễm thông với thiện hữu lậu.
Luận nói: "Đã nói chỗ dựa của đối tượng nhận thức, còn tướng của đối tượng nhận thức làm sao thấy được? Tướng nầy sơ lược có ba thứ: 1. Tướng y tha khởi. 2. Tướng biến kế sở chấp. 3. Tướng viên thành thật".
Giải thích: Nương vào đối tượng nhận thức tướng mà nói những câu đó. "Sơ lược", là tóm lược lại.
Luận nói: "Trong đây cái gì là tướng y tha khởi? Là thức A-lại-da làm chủng tử, phân biệt hư vọng là chỗ gồm thâu các thức. Thức nầy là thế nào? Là thức thân, thức thân giả, thức thọ giả, thức bỉ sở thọ, thức bỉ năng thọ, thức thế, thức số, thức xứ, thức ngôn thuyết, thức tự tha sai biệt, cõi thiện cõi ác tử sinh thức. Trong đây thức thân, thân giả, thọ giả, thức bỉ sở thọ, thức bỉ năng tho thức, thức thế, thức số, thức xứ, thức ngôn thuyết là do chủng tử của danh ngôn huân tập, hoặc thức tự tha sai biệt, đây là do chủng tử của ngã kiến huân tập, hoặc cõi thiện các ác tử sinh thức, đây là do chủng tử của hữu chi huân tập. Do các thức nầy là chỗ gồm thâu của tất cả giới cõi và tạp nhiễm. Tướng y tha khởi và phân biệt hư vọng đều được hiển hiện, như các thức nầy đều là chỗ gồm thâu của phân biệt hư vọng, duy thức làm tánh, là nghĩa phi chân thật của vô sở hữu hiển hiện chỗ dựa, như vậy gọi là tướng y tha khởi".
Giải thích: "Hư vọng phân biệt là chỗ gồm thâu các thức", là các thức nầy lấy phân biệt hư vọng làm tự tánh. "Là thức thân, thân giả, thọ giả", thân là nhãn… năm giới, thân giả là ý nhiễm ô, năng thọ là ý giới, thức bỉ sở thọ, là sắc… Sáu ngoại giới, thức bỉ năng thọ, là sáu thức giới, thức thế, là tánh sinh tử tương tục bất đoạn, thức số, là tánh tính toán; thức xứ, là khi thế gian, thức ngôn thuyết, là bốn thứ ngôn thuyết kiến, văn, giác, tri. Các thức như vậy đều dùng chỗ thuyết trong chỗ dựa của đối tượng nhận thức, danh ngôn huân tập sai biệt làm nhân. Tự tha sai biệt thức, là chỗ dựa sai biệt, đây là do chỗ nói trước chủng tử của hữu chi huân tập sai biệt. "Do các thức này", tức là do chỗ nói các thức kế trước. "Chỗ gồm thâu của tất cả giới cõi và tạp nhiễm", là đọa nơi tam giới tạp nhiễm, là tự tánh của nó nên gọi là chỗ gồm thâu. "Tướng y tha khởi", là Y tha khởi làm thể thì phân biệt hư vọng đều được hiển hiện. "Như các thức nầy đều là chỗ gồm thâu của phân biệt hư vọng, duy thức làm tánh", là các thức nầy đều là tự tánh phân biệt hư vọng nên gọi là đối tượng thâu tóm. "Là nghĩa phi chân thật của vô sở hữu hiển hiện nơi chỗ dựa", là phi chân thật nghĩa của vô sở hữu hiển hiện chỗ nhân, vì phi chân thật nên gọi là vô sở hữu. Như chỗ chấp ngã là vô sở hữu nên phi chân thật nghĩa là chỗ giữ lấy, tức là ngã kia thật là vô sở hữu, là tợ ngã hiển hiện. Chỗ dựa, hiển hiện chỗ dựa là chỗ nhân. Đây gọi là tướng Y tha khởi.
Luận nói: "Trong đây cái nào là tướng biến kế sở chấp? Là trong vô nghĩa chỉ có thức, tợ nghĩa hiển hiện". Giải thích: "Vô nghĩa", là không có chỗ giữ lấy, như thật vô ngã. "Chỉ có thức", là không có thật nghĩa, chỉ có tợ nghĩa trong thức, cũng như chỉ có tợ ngã hiển hiện trong thức. "Tợ nghĩa hiển hiện", là tướng mạo của tợ nghĩa nơi chỗ giữ lấy hiển hiện, như thật vô ngã mà tợ ngã hiển hiện.
Luận nói: "Trong đây cái nào là tướng Viên thành thật? Tức là đối với tướng Y tha khởi kia, do tướng tợ nghĩa vĩnh viễn không có tự tánh".
Giải thích: Đối với vô sở hữu là phi nghĩa chân thật hiển hiện trong nhân, do thật không có tướng tợ nghĩa hiện, vĩnh viễn không có tánh, cũng như tướng tợ ngã vĩnh viễn là không có, nhưng có vô ngã.
Luận nói: "Trong đây thức thân, thân giả, thọ giả, phải biết tức là sáu nội giới của nhãn… thức bỉ sở thọ, phải biết là sáu ngoại giới của sắc, thức bỉ năng thọ, phải biết là sáu thức giới của nhãn… các thức còn lại phải biết là sự sai biệt của các thức này. Lại nữa, các thức đều chỉ có thức, đều là không nghĩa nên trong đây lấy cái gì làm ví dụ để hiển thị? Phải biết mộng… làm ví dụ để hiển thị, là như trong mộng đều không có nghĩa đó, chỉ riêng có thức, tuy nghĩa các thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc, nhà, rừng, đất, núi tương tợ hiển hiện nhưng trong đó đều không có nghĩa. Do thí dụ nầy hiển bày nên phải tùy theo mà hiểu biết, tất cả thời và xứ, do những lời này, phải biết lại có các thí dụ huyễn, dối, ái thô, mắt mờ… nếu khi giác thì tất cả thời xứ đều như mộng. Chỉ có thức, là như từ mộng mà tỉnh giác, thì biết trong mộng đều là chỉ có thức. Khi tỉnh giác tại sao không chuyển như vậy? Chân trí khi giác cũng chuyển như vậy. Nếu như trong mộng thì giác nầy không chuyển, khi từ mộng mà tỉnh giác thì giác nầy mới chuyển, như vậy khi chưa đắc chân trí giác thì giác nầy không chuyển, đắc chân trí giác thì giác nầy mới chuyển. Chính vì có người chưa đắc chân trí, trong duy thức làm sao so sánh mà biết? Do giáo và lý nên có thể so sánh mà biết. Giáo trong đây, như kinh mười địa đức Bạc-già-phạm nói: "Tam giới như vậy đều là chỉ có tâm". Lại nữa, kinh giải thâm mật đức Bạc-giàphạm cũng nói như vậy, là trong kinh đó, Bồ-tát từ thị hỏi Thế Tôn: "Chỗ hiện hành ảnh tượng của chư Tamma-địa, thì tâm kia cùng với tâm nầy nên nói có khác hay nên nói không khác? Phật bảo Bồ-tát từ thị: Nên nói không khác! Tại sao vậy? Vì do ảnh tượng kia chỉ là thức, nên ta nói là chỗ duyên của thức và chỗ hiện của duy thức. Bạch Thế Tôn! Nếu chỗ hành ảnh tượng của Tam-ma-địa cùng với tâm nầy không khác, thì tại sao tâm nầy trở lại chấp giữ tâm này? Này Từ Thị! Không có ít pháp có thể nắm lấy ít pháp, nhưng ngay tâm nầy khi sinh như vậy thì liền có ảnh tượng như vậy hiển hiện, như vật làm duyên trở lại thấy bản chất mà cho ta hiện thấy ảnh tượng, và cho lìa vật riêng có chỗ thấy ảnh tượng hiển hiện. Tâm nầy cũng vậy, khi sinh như vậy giống như có khác với chỗ thấy ảnh tượng, tức là do giáo lý nầy cũng hiển hiện. Tại sao? Vì trong tâm định tùy theo chỗ quán tử thi thấy các ảnh tượng nơi đối tượng nhận biết xanh bầm, tất cả không khác các sự xanh bầm mà chỉ thấy tự tâm. Do đạo lý này, Bồ-tát trong tất cả thức của Bồ-tát, đáng lẽ có thể so sánh biết đều là chỉ có thức, không có cảnh giới. Lại nữa, trong các ảnh tượng xanh bầm như vậy, không phải ức trì thức thấy đối tượng duyên cảnh hiện tiền trụ. Chỗ thành hai ức trì thức của văn và tư, cũng lấy quá khứ làm đối tượng duyên, nên chỗ hiện ảnh tượng được thành duy thức. Do tỷ lượng này, tuy Bồ-tát chưa đắc chân trí giác, nhưng trong duy thức cũng có thể so sánh mà biết".
Giải thích: Duy hữu thức nầy do giáo hiển thị, như kinh mười địa nói: "Tam giới như vậy đều là chỉ có tâm". Trong kinh giải thâm mật, "ta nói là chỗ duyên của thức và chỗ hiện của duy thức", là nghĩa đối tượng duyên của thức và chỗ hiện của duy thức không có riêng cảnh. Lại nêu thức ra, để hiển bày chỗ thuyết giảng của ngã quyết định là nẻo hành của thức, chỗ hiện của duy thức không có riêng thể. "Nhưng ngay tâm nầy khi sinh như vậy", tức là do khi phẩm loại nầy sinh. "Chỗ thấy ảnh tượng hiển hiện tương tợ có khác nhau", là nẻo hành của định tương tợ lìa thức, riêng có cho giữ lấy hiển hiện phân minh. Lại nữa, "trong các ảnh tượng xanh sình như vậy, không phải nhớ nghĩ thức thấy đối tượng duyên nơi cảnh hiện tiền trụ", là tướng xanh sình đó là ảnh tượng mà Tam-ma-địa hiển hiện, không phải thức nhớ nghĩ, vì thức nầy không ở tại phương xứ kia, như những gì cảm thọ trước kia bây giờ nhớ lại như vậy, hiện tiền trụ nầy thì phân minh thấy rõ, chỗ thấy của ức trì thức kia thì ám muội, chỗ thấy của hiện tiền trụ thì phân minh. Hoặc có cảnh như của văn huệ, tư huệ, do tập quen nên cảnh tuy lui mất, nhưng khi vừa mới khởi ý thì cảnh như trước kia sinh. Cảnh nầy cũng vậy, cảnh của văn huệ và tư huệ đã lui mất, hiện tại không có thể, trong không có thể nếu khi sinh trở lại thì chỉ có ảnh hiện của thức tương tợ cảnh đó mà sinh. Văn tuệ, tư tuệ không duyên nơi cảnh của chỗ thọ nhận đã từng lui mất, nên duy thức do đây mà sáng tỏ trọn vẹn, nghĩa vô lý của chỗ giữ lấy cũng thành tựu.
Luận nói: "Như vậy đã nói chủng chủng các thức, thí dụ như mộng… tức là thức của nhãn thức... trong đây có thể thành duy thức. Các thức của nhãn… đã là hữu sắc cũng chỉ có thức làm sao thấy được? Nghĩa nầy cũng như trước, do giáo và lý".
Giải thích: Các thức như nhãn thức, đều không phải hữu sắc, có thể thành duy thức. Các thức như nhãn… đã là hữu sắc, tại sao chỉ có thức? Điều nầy cũng như trước, do giáo và lý, thức của nhãn… nầy như chỗ dẫn ở trước, lý giáo hiển thị cũng thành duy thức.
Luận nói: "Nếu các thức nầy thể cũng là thức, tại sao vẫn tánh tợ sắc hiển hiện? Một loại kiên trụ tương tục chuyển, cùng với các pháp tạp nhiễm của điên đảo làm nơi dựa. Nếu không như thế, thì trong phi nghĩa khởi lên, nghĩa điên đảo đáng lẽ không được có. Nếu thức nầy không có, thì tạp nhiễm của phiền não chướng và đối tượng nhận thức chướng phải không được có. Nếu thức nầy không có, thì các pháp thanh tịnh cũng phải không được có, nên các thức phải như vậy mà chuyển. Trong đây có tụng:
"Tướng loạn và thể loạn,
Phải nhận làm thức sắc,
Và cùng thức phi sắc,
Hoặc vô dư cũng không".
Giải thích: "Một loại kiên trụ tương tục chuyển", là do tương tợ nên gọi là một loại; trụ lâu nên gọi là kiên trụ, các thức hữu sắc tương tợ nhiều thời gian trụ tương tục chuyển. "Điên đảo", tức là đồng lấy các pháp tạp nhiễm cùng với phiền não chướng và sở tri chướng làm tánh nhân. "Làm chốn dựa", là làm tánh nhân kia. Nếu các thức lìa chuyển như vậy, thì trong phi nghĩa khởi lên nghĩa tâm điên đảo phải không được có. Nếu thức nầy không có, thì hoặc là phiền não chướng các pháp tạp nhiễm, hoặc là sở tri chướng nơi các pháp tạp nhiễm phải không được có. Trong tụng nầy hiển các nghĩa như vậy. Tướng loạn và thể loạn, như thứ tự của nó mà thừa nhận làm thức sắc. Trong tướng loạn tức là nhẫn loạn, thức sắc làm thể, thể loạn tức là các thức vô sắc. Nếu không có nhân loạn của thức sắc, thì thức phi sắc quả cũng phải không có.
Luận nói: "Tại sao thức thân, thân giả, thọ giả, thức sở thọ, thức năng thọ, trong tất cả thân đều đồng thời có hoà hợp chuyển? Vì có thể sinh viên mãn chỗ hiển của thọ dụng. Tại sao như nói các thức của thức thế… sai biệt mà chuyển? Vì vô thỉ đến nay sinh tử lưu chuyển không đoạn dứt, vì các giới hữu tình vô số lượng, vì các khí thế giới vô số lượng, vì các chỗ tạo tác sự lần lượt ngôn thuyết vô số lượng, vì các thâu nhận riêng nơi thọ dụng sai biệt vô số lượng, vì các nghiệp ái phi ái quả dị thục thọ dụng sai biệt vô số lượng, vì chỗ thọ tử sinh đủ loại sai biệt vô số lượng".
Giải thích: Vì khiến cho tự thân thọ dụng viên mãn, ba thức thân, thức thân giả, và thức thọ giả, trong tất cả thân thừa nhận tất cả thời đều có hoà hợp, vì đồng thời chuyển nên gọi là cùng hiện hữu, vì chỗ hiển bày là tánh nhân của nó.
Luận nói: "Lại nữa, làm sao an lập các thức như vậy thành tánh duy thức? Lược do ba tướng: 1. Do duy thức không có nghĩa. 2. Do hai tánh hữu tướng, hữu kiến nơi hai thức riêng. 3. Do đủ loại hành tướng mà sinh khởi. Tại sao vậy? Vì tất cả thức nầy không có nghĩa nên được thành duy thức, vì hữu tướng, hữu kiến nên được thành nhị chủng. Nếu thức của nhãn… lấy thức của sắc… làm tướng, lấy thức của nhãn thức làm kiến, cho đến thức của thân thức làm kiến, hoặc ý thức lấy tất cả nhãn làm đầu tiên, pháp làm sau cùng, các thức làm tướng, lấy thức của ý thức làm kiến, vì ý thức nầy có phân biệt, tương tợ tất cả thức mà sinh khởi. Trong đây có tụng:
Duy thức hai chủng chủng,
Ý người quán nhập được,
Do ngộ nhập duy tâm,
Nghĩa kia cũng được lìa.
Giải thích: Trong đây văn văn xuôi và tụng hiển thị do ba thứ tướng thành lập duy thức. Trong văn xuôi, "do duy thức", là chỉ có thức, nên tất cả các thức đều chỉ có thức, vì nghĩa của đối tượng thức là không có gì. "Do hai tánh", là do nơi một thức mà an lập tướng và kiến, tức là một phần của một thức nầy làm thành tướng, phần thứ hai làm thành kiến, là các thức của nhãn… tức là đối với hai tánh an lập chủng chủng, là trên một thức như chỗ thích ứng của nó, một phần biến tợ đủ loại tướng sinh. Biến thứ hai tợ vô số chủ thể giữ lấy. Nếu tại ý thức thì lấy tất cả nhãn làm đầu tiên, pháp làm sau cùng, các thức làm tướng, thức của ý thức làm kiến, do ý thức nầy phân biệt khắp nên tợ tất cả thức sinh khởi. Lại nữa, trong ba tướng, chỉ ngay ý thức lấy làm vô số, vi cảnh giới nơi chỗ giữ lấy không quyết định, ngoài ra cảnh giới của các thức thì quyết định, cũng không có sai biệt. Ý thức thì phân biệt nên chỉ đối với ý thức nầy an lập vô số tướng kiến thứ ba, do đó đối với ý thức nầy đầy đủ an lập duy thức, trong kệ người có thể nhập duy thức là ngộ nhập nghĩa của chỗ giữ lấy vĩnh viễn không có. "Có thể nhập hai", là ngộ nhập thức nầy vì có tướng và kiến, có thể nhập vô số, là ngộ nhập thức nầy tợ tướng vô số mà sinh khởi. Quán và ý là chỗ có ý nghĩa của các sư du-già.
Hỏi: Ngộ nhập nơi đâu?
Đáp: "Do ngộ nhập duy tâm, nghĩa kia cũng được lìa". Nếu có thể ngộ nhập chỉ có cái tâm đó thì đều vô nghĩa, đó là đối với nghĩa của chỗ giữ lấy kia cũng có thể được lìa. Đã không có nghĩa của chỗ giữ lấy thì thế nào là tâm của chủ thể giữ lấy? Nói nhập hai tánh và nhập vô số, đều là thành lập nhân nhập duy thức. Các nghĩa còn lại cũng tương tợ.
Luận nói: "Lại nữa, trong đây có một loại sư, nói một ý thức, các thức khác nương chuyển mà được các tên, như nghiệp ý tư gọi là nghiệp thân ngữ".
Giải thích: Một loại Bồ-tát muốn khiến cho chỉ có một thể ý thức, lại thứ tự an lập hiển thị, "như nghiệp ý tư gọi là nghiệp thân ngữ", là như một ý thức đối với môn thân chuyển thì được tên thân nghiệp, đối với môn ngữ chuyển thì được tên ngữ nghiệp, nhưng là ý nghiệp thì ý thức cũng như thế. Tuy lại là một, nhưng khi nương vào nhãn chuyển thì được tên nhãn thức, như vậy cho đến khi nương vào thân chuyển thì được tên thân thức, không phải lìa ý thức mà riêng có các thức khác, chỉ trừ riêng có thức A-lại-da.
Luận nói: "Lại nữa, đối với tất cả chỗ dựa khi chuyển, thì hai thứ ảnh tượng của tợ vô số tướng chuyển, là chỉ tợ nghĩa ảnh tượng và phân biệt ảnh tượng. Lại nữa, tất cả xứ cũng tợ chỗ xúc ảnh tượng mà chuyển, trong hữu cõi Sắc thì ý thức nầy nương vào thân, cũng như các sắc căn khác nương vào thân".
Giải thích: Hoặc có vấn nạn: Các căn của nhãn… không có phân biệt, nên ý thức khi nương vào các căn kia chuyển thì phải không có phân biệt, như ý nhiễm ô làm chỗ dựa tạp nhiễm khiến cho tạp nhiễm chuyển? Ý thức nầy cũng như thế, nên giải thích: Lại nữa, khi tất cả chỗ dựa chuyển thì hai thứ ảnh tượng của tợ vô số tướng chuyển, là chỉ nghĩa ảnh tượng và phân biệt ảnh tượng. Tất cả chỗ dựa trong đây là nhãn… chỗ dựa, hai ảnh tượng của tợ vô số tướng chuyển, là hai câu giải thích chỉ tợ nghĩa ảnh tượng và phân biệt ảnh tượng. Do hai câu nầy nói chỉ có một thức một phần chỉ nghĩa ảnh tượng hiển hiện, phân biệt thứ hai là nghĩa nầy tương sinh, nên chỗ nói trước không có lỗi. Lại nữa, tất cả xứ cũng tương tợ ảnh tượng của chỗ tiếp xúc mà sinh, là xứ hữu sắc trong định vị khi không có năm thức, tức trong sắc thân lãnh thọ bên trong khởi. "Cũng như các sắc căn khác nương vào thân", vì do các căn nầy nương vào thân, đối với nơi mình có thể khởi tổn giảm tăng ích. Ý thức cũng vậy, vì nương vào thân nên phải biết đối với thân có thể làm biến dị. Lại có nghĩa khác, là như thân căn nương vào thân, nếu có chỗ tiếp xúc của ngoại duyên hiện tiền, thì thân căn liền tương tợ tướng chỗ tiếp xúc mà khởi, tức là khi xúc nầy khởi thì tự nương vào thân có thể làm tổn ích. Ý thức cũng vậy, vì nương vào thân nên khi tương tợ ảnh tượng chỗ tiếp xúc mà sinh thì đối với thân chỗ dựa có thể làm tổn giảm và tăng ích.
Luận nói: Trong đây có tụng:
Hoặc viễn hành, độc hành,
Không thân, ngủ trong hang,
Điều phục, khó điều tâm,
Ta nói chân phạm chí.
Giải thích: Các Bồ-tát kia vì thành tựu nghĩa nầy mà dẫn kệ của A-cấp-ma làm chứng. "Hoặc viễn hành", là vì có thể duyên tất cả đối tượng duyên cảnh; "độc hành", là không có cái thứ hai; "không thân", là xa lìa thân; "ngủ trong hang", là ví dụ thân như cái hang. "Điều phục", là tự tại điều phục những thứ này; "tâm khó điều", là vì tâm tánh bạo ác khó điều phục.
Luận nói: "Lại nữa, như kinh nói: Như vậy chỗ hành của năm căn, các cảnh giới nơi ý đều là chủ thể thọ nhận, vì ý làm chỗ nương của các căn kia".
Giải thích: Lại dẫn các giáo khác làm chứng để thành tựu nghĩa này, "như vậy chỗ hành của năm căn, các cảnh giới ý đều là chủ thể thọ", là chỗ hành của các căn gọi là cảnh giới, cảnh giới ý như vậy đều là chủ thể thọ, vì đều có thể phân biệt tất cả pháp, mỗi mỗi đều có thể lãnh thọ nên mỗi mỗi đều là chủ thể thọ. "Vì ý làm chỗ nương của các căn kia", là các căn kia có thể sinh nhân, vì ý tán loạn nên các căn kia không sinh.
Luận nói: "Lại nữa, như điều nói trong mười xứ, nói sáu thức thân đều gọi là ý xứ".
Giải thích: Lại có Thánh giáo có thể làm chứng cho nghĩa này, là sáu thức thân đều gọi là ý, không có tên thức nào khác, do sáu thức thân đều là ý xứ, đó là Thánh đã nói nên được biết chỉ có ý thức.
Luận nói: "Nếu xứ an lập thức A-lại-da làm nghĩa thức, phải biết trong đây tất cả thức còn lại là tướng thức của nó, hoặc thức ý biết hết và chỗ nương dựa là kiến thức của nó. Do tướng của thức kia là kiến thức nầy sinh tướng duyên, khi tợ nghĩa hiện thì có thể làm kiến thức sinh chỗ dựa sự, như vậy gọi là an lập các thức thành tánh duy thức".
Giải thích: Đối với thức A-lại-da cũng lập tướng kiến hai thức, là thức A-lại-da lấy ý thức kia và chỗ nương dựa làm kiến thức, các thức của nhãn… làm tướng thức của nó, vì tất cả pháp đều là thức. "Do tướng thức kia", là các thức của nhãn… "là kiến thức nầy sinh tướng duyên", là kiến nhân sinh, do tánh của đối tượng duyên gọi là kiến nhân sinh. "Khi tợ nghĩa hiện thì có thể làm kiến thức sinh sự việc chỗ dựa", là có thể đối với kiến kia nên gọi là kiến thức, tức là khi tợ nghĩa của thức nầy hiển hiện thì các tướng thức kia cùng với ý kiến thức có thể làm nhân trụ tương tục bất đoạn, nên gọi là sinh sự việc nơi chỗ nương tựa.
Luận nói: "Các nghĩa hiện tiền, hiển hiện phân minh nhưng không phải là có". Làm sao biết được? Như đức Thế Tôn nói: "Hoặc các Bồ-tát thành tựu bốn pháp, có thể tùy theo đó mà ngộ nhập tất cả duy thức đều không nghĩa: 1. Thành tựu trái nhau thức tướng trí, như ngạ quỉ, bàng sinh và chư nhân thiên, đồng thấy một sự, nhưng cái biết của các loài kia đều có khác nhau. 2. Thành tựu thức không đối tượng duyên hiện trí khả đắc, như trong mộng ảnh duyên của quá khứ và vị lai có chỗ đạt được. 3. Thành tựu nên lìa công dụng trí vô điên đảo, như nghĩa của chủ thể duyên nơi thức, trong có nghĩa, xứng với không điên đảo không do công dụng, vì trí chân thật. 4. Thành tựu ba thứ thắng trí tùy trí chuyển diệu. Những gì là ba thứ: 1. Đắc tâm tự tại tất cả Bồ-tát đắc tĩnh lự, là tùy theo lực thắng giải mà các nghĩa hiển hiện. 2. Đắc Xa-ma-tha tu pháp quán, là khi mới vừa khởi ý thì các nghĩa hiển hiện. 3. Đã đắc trí Vô phân biệt, là khi trí Vô phân biệt hiện tiền thì tất cả các nghĩa đều không hiển hiện. Do đã nói ba thứ thắng trí tùy chuyển trí diệu nầy và ba thứ nhân duyên trước đã nói nên đạo lý của các nghĩa không có nghĩa thành tựu".
Giải thích: "Trái nhau thức nơi tướng trí", là có thể biết rõ các đối tượng duyên nghĩa tướng của trái nhau giả thức. "Thức không đối tượng duyên hiện trí khả đắc", là hiện thấy có tuy không có đối tượng duyên mà thức được sinh. Như quá khứ… phải lìa công dụng trí không điên đảo, là có thể biết rõ các nghĩa như vậy, nếu như chỗ hiển hiện là thật có, thì lìa khởi đối trị, trí không điên đảo mặc tình được thành. "Ba thứ thắng trí tùy chuyển trí diệu", là có khả năng biết rõ ba thứ thắng trí, nghĩa của cảnh tùy theo đó mà chuyển. "Đắc tâm tự tại", là đắc tâm tùy thuận có chỗ gắng nhận. "Đắc thanh tịnh", là các Thanh-văn và độc-giác đã đắc tĩnh lự. "Tùy lực thắng giải mà các nghĩa hiển hiện", là nếu nguyện lạc đất thành nước, thì thành như ý, hoả cũng vậy. "Đắc Xa-ma-tha", là đắc Tam-ma-địa. "Tu pháp quán", là đối với khế kinh siêng năng thúc đẩy quán sát. "Khi mới vừa khởi ý thì các nghĩa hiển hiện", là tùy một nghĩa mà khởi ý như vậy, thì các nghĩa như vậy như vậy không phải là cảnh tướng của một phẩm loại hiển hiện. "Khi trí Vô phân biệt hiện tiền thì tất cả các nghĩa đều không hiển hiện", nếu như hiển hiện nghĩa, tức là như vậy thật có, thì đáng lẽ không nên có trí Vô phân biệt. Trí Vô phân biệt nếu là thật có, thì quyết định phải thừa nhận các nghĩa đều không có.
Luận nói: "Nếu tự tánh Y tha khởi thật chỉ có thức là chỗ nương dựa của tợ nghĩa hiển hiện, thì làm thế nào để thành Y tha khởi? Nhân duyên gì mà gọi là Y tha khởi? Từ chỗ sinh y tha duyên khởi của chủng tử tự huân tập nên gọi là Y tha khởi, sinh sát-na sau không có công năng, chỉ tự nhiên trụ nên gọi là Y tha khởi".
Giải thích: "Thật chỉ có thức là chỗ nương dựa của tợ nghĩa hiển hiện", là thật không nghĩa, chỉ có thức của nó cùng với tợ nghĩa kia hiển hiện làm nhân, tức là duy thức nầy gọi là Y tha khởi. Làm thế nào để thành Y tha khởi? Đây là hỏi để tự thâu nhận. Nhân duyên gì mà gọi là Y tha khởi? Đây là hỏi để vì tha mà thuyết. Từ tự nhân mà sinh, thì sinh đã không thể tạm thời an trụ, gọi là Y tha khởi phải tự thâu nhận cũng vì tha mà thuyết.
Luận nói: "Nếu tự tánh của biến kế sở chấp nương vào Y tha khởi, thật ra là không có gì, tợ nghĩa hiển hiện. Thế nào là thành biến kế sở chấp? Nhân duyên gì gọi là biến kế sở chấp? Vô lượng hành tướng, ý thức biến kế điên đảo sinh tướng gọi là biến kế sở chấp, tự tướng thật ra là không có, chỉ có biến kế sở chấp là được, nên gọi là biến kế sở chấp".
Giải thích: "Nương vào Y tha khởi", là nương vào duy thức. "Thật ra là không có gì", là thật không có tự thể. "Tợ nghĩa hiển hiện", là chỉ có thể được tợ nghĩa hiển hiện. Hai câu hỏi "thế nào và nhân duyên gì"? Đã đáp như trên. "Vô lượng hành tướng", chỗ gọi là tất cả cảnh giới hành tướng. "Ý thức biến kế", tức ý thức gọi là biến kế. "Sinh tướng điên đảo", là có thể sinh tướng cảnh đối tượng duyên của hư vọng điên đảo. "Tự tướng thật ra là không có", là thật không có thể của nó. "Chỉ có biến kế sở chấp là được", là chỉ có thức loạn mới có thể được. Luận nói: "Nếu tự tánh của Viên thành thật là biến kế sở chấp, vĩnh viễn không có tướng, thì thế nào thành Viên thành thật? Nhân duyên gì mà gọi là Viên thành thật? Vì không có tánh biến dị nên gọi là Viên thành thật. Lại nữa, vì tánh của đối tượng duyên thanh tịnh, tánh tối thắng của tất cả pháp thiện, do nghĩa tối thắng nên gọi là Viên thành thật".
Giải thích: "Là biến kế sở chấp vĩnh viễn không có tướng", là tự tánh của Biến kế sở chấp, vô tánh làm tánh. Hai câu hỏi thế nào và nhân duyên gì, như chỗ nói trong Y tha khởi. "Vì không có tánh biến dị", là không có tánh hư dối, như tánh hư dối. "Lại nữa, vì đối tượng duyên tánh thanh tịnh, tánh tối thắng của tất cả pháp thiện, do nghĩa tối thắng nên gọi là Viên thành thật", là do đối tượng duyên tánh thanh tịnh và tánh tối thắng nên gọi là Viên thành thật.
Luận nói: "Lại nữa, có chủ thể biến kế, có đối tượng biến kế thì tự tánh Biến kế sở chấp mới thành. Trong đây cái gì là chủ thể biến kế? Cái gì là tự tánh Biến kế sở chấp? Phải biết ý thức là chủ thể biến kế, vì hữu phân biệt. Tại sao vậy? Vì do ý thức nầy dùng tự danh ngôn huân tập làm chủng tử, và dùng tất cả thức danh ngôn huân tập làm chủng tử, nên ý thức có vô biên hành tướng phân biệt mà chuyển, trùm khắp tất cả phân biệt suy tính so đo nên gọi là biến kế. Lại nữa, tự tánh Y tha khởi gọi là đối tượng biến kế, nếu do tướng nầy khiến cho tự tánh Y tha khởi thành đối tượng biến kế thì trong đó gọi là Biến kế sở chấp tự tánh. Do tướng này, là như nghĩa này. Lại nữa, thế nào là biến kế có thể biến kế độ? Duyên cảnh giới nào? Chấp giữ tướng mạo gì? Do đâu mà chấp trước? Do đâu mà khởi ngữ? Do ngôn thuyết gì và tại đâu mà tăng ích? Là duyên gọi là cảnh. Trong tự tánh Y tha khởi mà chấp giữ tướng mạo kia. Do kiến mà chấp trước. Do tầm mà khởi ngữ. Do bốn thứ ngôn thuyết kiến, văn, giác, tri khởi ngôn thuyết. Trong không nghĩa tăng ích làm hữu. Do biến kế nầy có thể biến kế độ (so đo suy tính)".
Giải thích: Lại nữa, thế nào là biến kế có khả năng biến kế độ, là ý thức gọi là chủ thể biến kế, Y tha khởi tánh gọi là đối tượng biến kế. Vì muốn hiển thị chủ thể biến kế độ của các phẩm loại nầy nên nói duyên gọi là cảnh. "Trong tự tánh Y tha khởi chấp giữ tướng mạo kia", tức là trong Y tha khởi này, do nhãn gọi là chấp giữ tướng mạo kia, do chấp giữ tướng mạo chủ thể biến kế độ kia. "Do kiến mà chấp trước", là như chỗ giữ lấy tướng, như vậy mà chấp trước. "Do tầm mà khởi ngữ", như chỗ chấp trước do ngữ nương nơi tầm mà phát khởi ngôn ngữ. "Do bốn thứ ngôn thuyết kiến văn giác tri mà khởi ngôn thuyết", là do chỗ thuyết giảng của ngữ mà bốn thứ ngôn thuyết kiến, văn, giác tri cùng với ngôn thuyết khác. "Trong không nghĩa tăng ích làm hữu", là như chỗ ngôn thuyết, trong không nghĩa chấp có nghĩa.
Luận nói: "Lại nữa, ba tự tánh nầy là dị hay không khác? Phải nói là không khác, không phải không khác, là tự tánh Y tha khởi do dị môn nên thành Y tha khởi, tức là tự tánh nầy do dị môn mà thành Biến kế sở chấp, tức là tự tánh nầy do dị môn mà thành Viên thành thật. Do dị môn nào mà Y tha khởi nầy thành Y tha khởi? Là do chủng tử của y tha huân tập khởi. Do dị môn nào mà tự tánh nầy thành Biến kế sở chấp? Do biến kế tướng đối tượng duyên, cũng là Biến kế sở chấp. Do dị môn nào mà tự tánh nầy thành Viên thành thật? Như đối tượng biến kế, vì rốt ráo không có như vậy".
Giải thích: "Do Biến kế sở chấp tướng duyên", ý thức gọi là biến kế, biến kế nầy làm của cảnh tánh đối tượng duyên của nơi chỗ giữ lấy, có thể sinh biến kế nên cũng gọi là biến kế nơi đối tượng chấp, cũng là biến kế nơi đối tượng biến kế, tức là ý thức kia gọi là biến kế, duyên tướng mạo kia, làm cảnh của chỗ giữ lấy hay là làm đối tượng biến kế đều do nghĩa này. Y tha khởi tánh cũng gọi là Biến kế sở chấp tự tánh. "Như đối tượng biến kế", là như ý thức biến kế đối tượng chấp kia. "Vì rốt ráo không có như vậy", là biến kế đối tượng chấp rốt ráo không có trên đối tượng biến kế. Do nghĩa nầy nên ngay trên tự tánh nầy mà thành Viên thành thật.
Luận nói: "Ba tự tánh nầy mỗi loại có mấy thứ"? Y tha khởi lược có hai thứ: 1. Y tha huân tập chủng tử. 2. Y tha tánh tạp nhiễm thanh tịnh không thành. Do hai thứ y tha nầy riêng khác nên gọi là Y tha khởi Biến kế sở chấp, cũng có hai thứ: 1. Tự tánh biến kế chấp. 2. Biến kế chấp sai biệt. Do hai thứ nầy nên gọi là Biến kế sở chấp. Viên thành thật cũng có hai thứ: 1. Viên thành thật tự tánh. 2. Thanh tịnh Viên thành thật. Do hai thứ nầy nên thành tánh Viên thành thật.
Giải thích: "Tánh tạp nhiễm thanh tịnh không thành", là do tánh Y tha khởi như vậy, nếu khi biến kế thì liền thành tạp nhiễm, khi không phân biệt thì liền thành thanh tịnh, do hai phần nên một tánh không thành, nên gọi là tánh Y tha khởi. "Tự tánh biến kế chấp", là như đối với biến kế chấp của nhãn… làm tự tánh của nhãn… "biến kế chấp sai biệt ", là ngay tự tánh biến kế chấp của nhãn… kia làm thường, vô thường, vô lượng sai biệt. "Viên thành thật tự tánh ", là chân như hữu cấu. "Viên thành thật thanh tịnh ", là chân như vô cấu.
Luận nói: "Lại nữa, biến kế có bốn thứ: 1. Biến kế tự tánh. 2. Biến kế sai biệt. 3. Biến kế hữu giác. 4. Biến kế vô giác. Hữu giác là danh ngôn thiện, vô giác là danh ngôn bất thiện, biến kế như vậy lại có năm thứ: 1. Y danh biến kế nghĩa tự tánh, là có danh như vậy mà có nghĩa như vậy. 2. Y nghĩa biến kế danh tự tánh, là có nghĩa như vậy mà có danh như vậy. 3. Y danh biến kế danh tự tánh, là biến kế độ chưa hiểu rõ nghĩa danh. 4. Y nghĩa biến kế nghĩa tự tánh, là biến kế độ chưa hiểu rõ danh nghĩa. 5. Y nhị biến kế nhị tự tánh, là biến kế độ danh nầy nghĩa nầy thể tánh như vậy.
Giải thích: Thiện danh ngôn, là hiểu rõ danh ngôn. Bất thiện danh ngôn là loài trâu dê… tuy có phân biệt nhưng đối với văn tự không thể hiểu rõ.
Luận nói: "Lại nữa, gồm thâu chung cho tất cả phân biệt lược có mười thứ: 1. Căn bản phân biệt, là thức Alại-da. 2. Tướng duyên phân biệt, là thức của sắc. 3. Hiển tướng phân biệt, là nhãn thức… Gồm chỗ dựa thức. 4. Tướng duyên biến dị phân biệt, là lão… biến dị, lạc thọ… Biến dị; tham… biến dị; thời tiết thay đổi… bức hại; Nại-lạc-ca… các cõi biến dị; dục giới… các cõi biến dị. 5. Hiển tướng biến dị phân biệt, tức là như chỗ nói biến dị, chỗ có biến dị như trên. 6. Tha dẫn phân biệt, là nghe phân biệt loại phi chánh pháp và nghe phân biệt loại chánh pháp.
7. Bất như lý phân biệt, là các ngoại đạo nghe phân biệt loại phi chánh pháp. 8. Như lý phân biệt, là trong chánh pháp nghe phân biệt loại chánh pháp. 9. Chấp trước phân biệt, là loại tác ý bất như lý, Tát-ca-da kiến làm gốc, sáu mươi hai kiến thú tương ưng phân biệt. 10.
Tán động phân biệt, là mười thứ phân biệt của Bồ-tát.
Giải thích: "Thâu tóm chung tất cả phân biệt lược có mười thứ", đây là nêu tổng quát, sau đó sẽ giải thích riêng. Căn bản phân biệt, là thức A-lại-da là các căn bản phân biệt, tự thể cũng là phân biệt. Tướng duyên phân biệt, là thức của sắc làm chỗ khởi phân biệt của tướng đối tượng duyên. Hiển tướng phân biệt, là nhãn thức… gồm chỗ dựa thức, hiển hiện tương tợ chỗ duyên tướng cảnh chỗ khởi phân biệt có đối tượng được phân biệt hoặc chủ thể phân biệt, gọi là phân biệt. Tướng duyên biến dị phân biệt, tức là chỗ có biến dị của tướng duyên, là duyên theo tướng duyên nầy mà biến dị phân biệt nên gọi là tướng duyên biến dị phân biệt; "lão… biến dị" là đại chủng trong thân suy hao biến đổi, gọi là lão biến dị phân biệt, những thứ nầy do đó gọi là tướng duyên biến dị phân biệt, đẳng (vân vân…) Là gồm lấy bệnh chết biến dị, "lạc thọ… Biến dị" cũng như thế, do lạc thọ mà thân thể biến đổi, đẳng (vân vân…) Là gồm lấy khổ, bất khổ, bất lạc, "tham… Biến dị" cũng như thế, đẳng (vân vân…) Là gồm lấy sân si, "thời tiết thay đổi… Bức hại" cũng vậy, là thân biến dị làm cảnh đối tượng duyên, chỗ khởi phân biệt, bức hại là trói giết, thời tiết thay đổi là khi lạnh khi nóng… "Nại-lạc-ca… các cõi biến dị", đẳng (vân vân…) Là gồm lấy bàng sinh, ngạ quỉ thú, "cõi dục… các giới biến dị" cũng như thế, đẳng (vân vân…) Là gồm lấy cõi Sắc và cõi Vô sắc. Hiển tướng biến dị phân biệt, là nhãn thức… hiển hiện tợ chỗ có biến dị cảnh tướng của đối tượng duyên kia, duyên hiển tướng biến dị phân biệt này, các biến dị ấy cũng như chỗ nói lão… các thứ biến dị trên, do biến dị nầy cũng biến dị trong cương vị lão… Mà khởi; tha dẫn phân biệt, là do chỗ khởi phân biệt của tha giáo, phân biệt nầy có hai thứ: 1. Loại nghe phi chánh pháp, cũng giải thích như vậy. 2. Loại nghe chánh pháp, loại nầy lại có hai thứ đối với pháp phân biệt, loại nghe là chánh pháp hoặc thiện hoặc bất thiện, loại nghe phi chánh pháp cũng giải thích như vậy. Phân biệt bất như lý, là ngoại đạo và các đệ tử của loại nghe phi chánh pháp làm nhân phân biệt. Như lý phân biệt, là trong chánh pháp các đệ tử của Phật loại nghe chánh pháp làm nhân phân biệt. Chấp trước phân biệt, là tác ý bất như lý làm nhân nương vào ngã kiến mà khởi sáu mươi hai ác kiến thú tương ưng phân biệt, như trong kinh có nói rộng. Tán động phân biệt, là như chỗ nói sau mười thứ phân biệt tán động của các Bồ-tát.
Luận nói: "1. Vô tướng tán động. 2. Hữu tướng tán động. 3. Tăng ích tán động. 4. Tổn giảm tán động. 5. Nhất tánh tán động. 6. Dị tánh tán động. 7. Tự tánh tán động. 8. sai biệt tán động. 9. Như danh lấy nghĩa tán động. 10. Như nghĩa lấy danh tán động. Để đối trị mười thứ tán động này, trong tất cả Ba-la-mật-đa nói trí Vô phân biệt. Đối tượng đối trị và chủ thể đối trị như vậy phải biết thâu gồm đủ nghĩa của bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Giải thích: Trong đây vô tướng tán động, khi phân biệt nầy tán động thì liền lấy nơi tướng đối tượng duyên vô vi, để đối trị tán động này, kinh bát-nhã Ba-la-mật-đa nói thật có Bồ-tát. Nói thật có, là hiển thị Bồ-tát thật có không thể, không tức là thể nên gọi là không thể. Hữu tướng tán động, khi phân biệt nầy tán động thì liền lấy nơi tướng đối tượng duyên hữu vi, để đối trị tán động này, trong kinh bát-nhã kia nói: "Không thấy có Bồ-tát". Kinh nầy ý nói không thấy Bồ-tát, vì biến kế chấp và Y tha khởi làm tánh. Tăng ích tán động, để đối trị tán động này, kinh Bát-nhã kia nói: "Tự tánh sắc không", là do Biến kế sở chấp nơi sắc mà tự tánh không. Tổn giảm tán động, để đối trị tán động này, kinh bát-nhã kia nói: "Chẳng phải do không nên nói tánh pháp tánh sắc tánh chẳng không". Nhất tánh tán động, để đối trị tán động này, kinh Bát-nhã kia nói: "sắc không phi sắc. Tại sao vậy? Nếu Y tha khởi cùng với Viên thành thật là một tánh thì Y tha khởi nầy đáng lẽ giống như Viên thành thật là cảnh thanh tịnh". Dị tánh tán động, để đối trị tán động này, kinh Bát-nhã kia nói: "Sắc chẳng lìa không. Tại sao vậy? Nếu sắc và không nầy khác nhau thì pháp cùng với tánh pháp cũng phải khác nhau. Nếu có dị tánh thì không đúng đạo lý, như pháp vô thường cùng với tánh vô thường, hoặc lấy tự tánh Biến kế sở chấp là sắc tức thị không, không tức thị sắc. Tại sao vậy? Vì Biến kế sở chấp sắc là không có, tức là không tánh. Không tánh nầy tức là không có, không phải như Y tha khởi cùng với Viên thành thật không thể nói là một". Tự tánh tán động, để đối trị tán động này, kinh Bát-nhã kia nói: "Này xá-lợi tử! Tán động nầy chỉ nơi có danh, gọi đó là sắc. Tại sao vậy? Vì tự tánh của sắc là không có". Sai biệt tán động, để đối trị tán động này, kinh Bát-nhã kia nói: "Tự tánh không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Sinh tức là nhiễm, diệt tức là tịnh, không sinh diệt tức là không nhiễm tịnh", các câu như vậy có những nghĩa như vậy. Như danh lấy nghĩa, là như danh đó đối với nghĩa mà tán động, để đối trị tán động này, kinh Bát-nhã kia nói: "giả lập khách danh riêng biệt đối với pháp mà khởi phân biệt". Nói riêng biệt, là riêng biệt từng danh. Như nghĩa lấy danh, là như nghĩa đối với danh mà khởi tán động, để đối trị tán động này, kinh Bátnhã kia nói: "Giả lập khách danh rồi tùy theo đó mà khởi ngôn thuyết, không phải nghĩa tự tánh có danh như vậy. Để đối trị mười tán động nầy mà nói Bát-nhã Ba-la-mậtđa, do nói nầy làm nhân nên trí Vô phân biệt sinh".
Luận nói: "Hoặc do dị môn mà tự tánh Y tha khởi có ba tự tánh. Thế nào là ba tự tánh không thành không sai biệt"? Nếu do dị môn mà thành Y tha khởi, thì không phải do Y tha khởi nầy mà Biến kế sở chấp và Viên thành thật. Nếu do dị môn mà thành Biến kế sở chấp, thì không phải do Biến kế sở chấp nầy mà thành Y tha khởi và Viên thành thật. Nếu do dị môn mà thành Viên thành thật thì không phải do Viên thành thật nầy mà thành Y tha khởi và Biến kế sở chấp.
Giải thích: Nghĩa nầy giải thích như đạo lý trước.
Luận nói: "Lại nữa, làm thế nào biết được, như tự tánh Y tha khởi, tự tánh Biến kế sở chấp hiển hiện mà không xứng thể? Vì do danh nhận biết trước trái nhau không xứng thể, vì do danh có rất nhiều thể trái nhau, vì do danh không quyết định nơi tạp thể trái nhau. Trong đây có hai bài tụng:
Không có danh giác trước,
Nhiều danh không quyết định,
Thành xứng thể nhiều thể,
Vì tạp thể trái nhau.
Pháp vô nhưng khả đắc,
Không nhiễm nhưng có tịnh,
Phải biết đều như huyễn,
Cũng lại tợ hư không.
Giải thích: Như tự tánh Y tha khởi, phần Biến kế sở chấp, tuy hiển hiện có thể đắc nhưng không xứng với thể kia. Để hiển nghĩa này, nói do danh nhận biết trước trái nhau không xứng với thể, nếu Y tha khởi và Biến kế sở chấp đồng một tướng, thì đáng lẽ không chờ danh đối với nghĩa mà hiểu biết chuyển, như chấp có cái bình. Nếu lìa tên cái bình, thì trong nghĩa của tên bình không có sự hiểu biết về cái bình, nếu tên của cái bình nầy cùng với nghĩa của cái bình kia đồng một tướng, thì sự hiểu biết về cái bình phải chuyển, vì không phải một tướng nên không chuyển, do danh nghĩa này, nếu thể tương xứng thì thành trái nhau. Trong đây, an lập danh làm Y tha khởi, nghĩa làm Biến kế sở chấp, vì Y tha khởi do thế lực của danh thành sở biến kế. Lại nữa, đối với một nghĩa có nhiều danh, nếu danh cùng với nghĩa đồng một tướng, thì nghĩa phải giống như danh cũng có nhiều thứ. Nếu như vậy thì nghĩa phải thành nhiều thể, một nghĩa nhiều thể thì trở thành trái nhau, nên hai tánh nếu đồng một tướng thì trở thành lỗi trái nhau thứ hai. Lại nữa, danh không quyết định, lấy một cù thanh, đối với chín nghĩa chuyển, nếu chấp danh nghĩa đồng một tướng thì nhiều nghĩa trái nhau đáng lẽ cũng đồng một thể, thì trở thành lỗi trái nhau thứ ba. Do chấp trâu dê… không phải một tướng, nghĩa đồng một tánh, bài kệ thứ nhất hiển lại nghĩa này. Trong đó nói "thành" là hiển Y tha khởi và Biến kế sở chấp không phải một nghĩa mà thành, pháp không mà có thể đắc, một kệ nầy lấy các thí dụ huyễn… để khai ngộ đệ tử. Các đệ tử có hai nghi vấn trái nhau. Vì sao pháp không mà hiện có thể đắc? Thế nào là không thì nhiễm mà có thì thanh tịnh? Trong đây có hai ví dụ để giải thích hai nghi vấn này, như "huyễn…" là thí dụ hình tượng huyễn, thật ra là không có mà hiện có thể đắc, phải biết nghĩa trong đây cũng vậy, tuy hiện khả đắc nhưng không phải thật có. Tợ hư vọng, ví như hư không tuy không phải mây làm nhiễm ô của… vì tánh là thanh tịnh, nhưng mà khi lìa mây thì gọi là thanh tịnh. Phải biết các pháp cũng lại như vậy, tuy thật không có nhiễm vì tánh thanh tịnh, nhưng khi chướng, cấu nơi khách được lìa thì gọi là thanh tịnh.
Luận nói: "Lại nữa, tại sao như những gì đã làm sáng tỏ thật ra là không có mà là tự tánh Y tha khởi? Không phải tất cả tất cả đều là không có, nếu tự tánh Y tha khởi nầy không có, thì tự tánh Viên thành thật cũng là không có, nếu Viên thành thật nầy không có thì tất cả đều không có. Nếu tự tánh Y tha khởi và tự tánh Viên thành thật không có, thì đáng lẽ trở thành lỗi không có nhiễm tịnh. Đã hiện có thể đắc tạp nhiễm và thanh tịnh, do đó tất cả không phải đều là không có. Trong đây có tụng:
Nếu không Y tha khởi,
Viên thành thật cũng không,
Hết thảy chủng nếu không,
Thì mãi không nhiễm tịnh".
Giải thích: Nếu Y tha khởi như điều có thể nắm bắt không có như vậy. Đã như thế thì tại sao không phải tất cả và đều là không có? Nếu Y tha khởi nầy không có thì Viên thành thật tánh cũng phải không có. Tại sao vậy? Do có tạp nhiễm thì có thanh tịnh, nếu cả hai đều không có thì tất cả chủng đều là không có. Bây giờ sẽ hiển thị hai tánh nầy không phải hoàn toàn không có, vì có chê trách lỗi tạp nhiễm và thanh tịnh. Tạp nhiễm thanh tịnh đã hiện có thể nắm bắt được, nên hai tánh nầy đều không phải không có. Nếu chấp là không có thì bác bỏ hiện hữu, tạp nhiễm và thanh tịnh nói là không có.
Luận nói: "Chư Phật Thế Tôn nơi Đại thừa nói giáo phương quảng, trong giáo đó nói: Thế nào phải biết tự tánh Biến kế sở chấp"? Phải biết dị môn nói là không có. Thế nào phải biết tự tánh Y tha khởi? Phải biết ví như huyễn, mộng, hình tượng, ánh sáng và bóng, tiếng vang trong hang, trăng trong nước, biến hóa. Thế nào phải biết tự tánh Viên thành thật? Phải biết nói bốn pháp thanh tịnh. Những gì gọi là bốn pháp thanh tịnh? 1. Tự tánh thanh tịnh, là chân như, không, thật tế, vô tướng, pháp giới, thắng nghĩa. 2. Lìa cấu thanh tịnh, tức là lìa hết thảy chướng, cấu này. 3. Đắc thử đạo thanh tịnh, là tất cả Bồđề phần pháp, Ba-la-mật-đa… 4. Sinh thử cảnh thanh tịnh, là Đại thừa chánh pháp giáo diệu, do duyên pháp giáo thanh tịnh này, không phải Biến kế sở chấp tự tánh, vì pháp giới tối thanh tịnh là tánh đẳng lưu, không phải tự tánh Y tha khởi, bốn pháp như vậy gồm thâu chung hết tất cả pháp thanh tịnh. Trong đây có hai bài tụng:
Nói huyễn… đối với sinh,
Nói vô kế sở chấp,
Nếu nói bốn thanh tịnh,
Là nói Viên thành thật.
Tự tánh và lìa cấu,
Đạo thanh tịnh sở duyên,
Tất cả pháp thanh tịnh,
Là thuộc về bốn tướng".
Giải thích: Tự tánh thanh tịnh, là tự tánh hoàn toàn thanh tịnh, tức là tự tánh chân như thật có cộng tướng bình đẳng của tất cả hữu tình. Do có cộng tướng nầy nên nói tất cả pháp có Như Lai tạng. Lìa cấu thanh tịnh, là chân như xa lìa phiền não đối tượng nhận thức chướng cấu, tức là do chân như thanh tịnh như vậy hiển thành chư Phật. Đắc đạo thanh tịnh này, là có thể đắc chân như nơi Thánh đạo nầy thì liền thanh tịnh, là niệm trụ Bồ-đề phần pháp và tất cả Ba-la-mật-đa. Sinh cảnh thanh tịnh này, là sinh cảnh giới đối tượng duyên của năng chứng Bồ-đề phần pháp này, sinh cảnh giới nầy thì liền thanh tịnh nên gọi là sinh đây cảnh thanh tịnh, tức là mười hai phần giáo của khế kinh. Tại sao vậy? Nếu Thánh giáo ấy là Biến kế sở chấp thì phải thành nhân tạp nhiễm. Nếu là Y tha khởi thì phải thành hư vọng. Vì pháp giới tối thanh tịnh là tánh đẳng lưu nên không phải là hư vọng, đã lìa hai tánh nên thành Viên thành thật. Lại nữa, bốn thứ pháp thanh tịnh này, trong Đại thừa tùy nói một thứ, phải biết đó là nói Viên thành thật tánh. Trong đó, pháp thứ nhất và pháp thứ hai thì không có đổi khác mà là Viên thành thật nên gọi là Viên thành thật, hai pháp sau không có điên đảo, vì Viên thành thật nên gọi là Viên thành thật. Trong bài kệ sau có nói đủ nghĩa này, "nói huyễn… đối với sinh", là Y tha khởi trong đây gọi là sinh, hoặc tại lĩnh vực đó nói tất cả pháp, ví như huyễn sự cho đến biến hóa, phải biết đây là nói tánh Y tha khởi. "Nói vô kế sở chấp", là nếu tại lĩnh vực đó nói không có sắc, cho đến nói không có tất cả các pháp, phải biết đây là nói tánh Biến kế sở chấp.
Luận nói: "Lại nữa, duyên gì như đã nói trong kinh, đối với tự tánh Y tha khởi mà nói các thí dụ huyễn…"? Đối với tự tánh Y tha khởi vì trừ nghi hư vọng của người kia, vì ông ta hỏi tại sao lại đối với tự tánh Y tha khởi mà có nghi hư vọng? Do người kia đối với Y tha khởi nầy có nghi như vậy. Vì sao thật không có nghĩa mà thành cảnh giới của chốn hành? Để trừ nghi này, nên nói thí dụ huyễn sự. Tại sao không nghĩa mà tâm và ba pháp chuyển? Để trừ nghi nầy nên nói thí dụ về dương diệm (sóng nắng). Tại sao không nghĩa mà có thọ dụng ái phi ái sai biệt? Để trừ nghi nầy nên nói thí dụ mộng. Tại sao không nghĩa mà nghiệp tịnh, bất tịnh nghiệp và quả phi ái sai biệt sinh? Để trừ nghi nầy nên nói thí dụ ảnh tượng. Tại sao không nghĩa mà vô số thức chuyển? Để trừ nghi nầy nên nói thí dụ ánh sáng và bóng. Tại sao không nghĩa mà chủng chủng hý luận ngôn thuyết chuyển? Để trừ nghi nầy nên nói thí dụ tiếng vang trong hang. Tại sao không nghĩa mà có thật lấy cảnh giới của chốn hành nơi Tam-ma-địa chuyển? Để trừ nghi nầy nên nói thí dụ trăng trong nước. Tại sao không nghĩa mà có tâm không điên đảo của các Bồ-tát vì làm các sự lợi lạc cho hữu tình nên tư và thọ sinh? Để trừ nghi nầy nên nói thí dụ biến hóa.
Giải thích: Vì nghĩa nầy nên đối với Y tha khởi nói các thí dụ huyễn… bây giờ sẽ hiển thị. Trong đây nghi hư vọng, là đối với hết thảy nghi của hư vọng tánh Y tha khởi, vì trừ nghi nầy nên nói các thí dụ huyễn… để hiển Y tha khởi. Nếu thật không có nghĩa, thì làm thế nào để thành cảnh? Nhằm đối trị nghi, nầy nên nói thí dụ huyễn sự, để hiển Y tha khởi. Ví như huyễn tượng...tuy không có thật nghĩa nhưng thành cảnh giới, nghĩa cũng như vậy. Người kia lại sinh nghi: "Nếu không có nghĩa tức là không có đối tượng duyên, thì các tâm và tâm pháp làm sao mà chuyển"? Vì trừ nghi nầy nên nói thí dụ nắng chói lóa để hiển Y tha khởi. Trong đây nắng chói lóa thí dụ cho tâm và tâm pháp, thuỷ (nước) thí dụ cho nghĩa, ví dụ như nắng chói lóa là có dao động, tuy không nghĩa mà sinh sự biết về nước. Các tâm và tâm pháp cũng lại như vậy, do động dao, tuy không nghĩa mà sinh các biết về nghĩa. Các ngu phu kia đối với nghĩa nầy lại nghi: "Nếu không có nghĩa mà các thọ dụng ái phi ái sai biệt thì làm thế nào có thể đắc"? Vì trừ nghi nầy nên nói thí dụ mộng để hiển Y tha khởi. Ví như trong mộng, tuy không có thật nghĩa nhưng thấy mọi thứ thọ dụng ái cùng với phi ái sai biệt hiện tiền có thể đắc, nghĩa nầy cũng như vậy. Đối với nghĩa nầy lại nghi: "Nghĩa của tịnh và bất tịnh đã thật không có, thì nghĩa của ái và phi ái quả làm sao mà khởi"? Vì trừ nghi nầy nên nói thí dụ ảnh tượng để hiển Y tha khởi, ví như ảnh tượng thật không có nghĩa, tức là đối với bản chất khởi nhận biết về ảnh tượng, nhưng nghĩa của ảnh tượng không thể đắc riêng. Nghĩa nầy cũng vậy, phải biết tuy không có nghĩa chân thật quả của ái và phi ái nhưng mà hiện có thể đắc. Đối với nghĩa nầy lại nghi: "Nếu không có nghĩa thì tại sao được có chủng chủng thức chuyển"! Vì trừ nghi nầy nên nói thí dụ ánh sáng và bóng để hiển Y tha khởi. Ví như người đùa với bóng, có các thứ bóng ảnh khả đắc, tuy có nhiều bóng ảnh khả đắc nhưng nghĩa của bóng ảnh thật ra không có. Thức cũng lại như vậy, không có các thứ nghĩa nhưng mà có các thứ nghĩa hiện có thể đắc. Đối với nghĩa nầy lại nghi: "Nếu không có nghĩa thì vô lượng phẩm loại hý luận ngôn thuyết làm sao mà chuyển"? Vì trừ nghi nầy nên nói thí dụ tiếng vang trong hang để hiển Y tha khởi, ví như tiếng vang trong hang tuy không có nghĩa nhưng mà hiện có thể đắc. Hý luận ngôn thuyết cũng lại như vậy, tuy không có thật nghĩa nhưng hiện có thể đắc. Đối với nghĩa nầy lại nghi: "Nếu không có nghĩa thì tại sao tâm định và tâm pháp của thế gian có nghĩa khả đắc! Vì nói tâm định có thể như thật biết như thật thấy"! Vì trừ nghi nầy nên nói thí dụ trăng trong nước để hiển Y tha khởi. Ví như trăng trong nước, nghĩa đó không thật có, do tánh nước phẳng láng trong lặng mà hiện có thể đắc. Tâm định cũng như thế, nghĩa của cảnh đối tượng duyên tuy thật không có nhưng mà hiện có thể đắc. Nước là dụ cho định, vì nước tánh là phẳng láng trong lặng. Đối với nghĩa nầy lại nghĩ: "Nếu nghĩa hữu tình thật ra không có, thì làm sao các Bồ-tát chứng chân làm hữu tình đạt kia lợi lạc huệ giác làm đầu, trong các cõi kia thâu nhận tự thể"! Vì trừ nghi nầy nên nói thí dụ biến hóa để hiển Y tha khởi. Ví như biến hóa, thật ra không có nghĩa, do lực của người biến hóa mà tất cả sự được thành, không phải nghĩa biến hóa mà không thể đắc, phải biết trong nghĩa này, cũng lại như vậy, tuy nghĩa của chỗ thọ tự thể đó không có, nhưng có thể làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình, nghĩa chỗ thọ tự thể đó hiện có thể đắc.
Lại có nghĩa khác, ý của Thế Tôn nói tám thí dụ huyễn… bây giờ hiển thị. Trong đây thí dụ huyễn là để trừ sáu thứ nội xứ của nhãn… Phải biết hiển thị sáu xứ của nhãn… ví như huyễn, tượng... tuy thật ra là không có nhưng hiện có thể đắc. Nói thí dụ nắng chói lóa là để trừ khí thế gian, do các đại đó trong nắng chói lóa thật ra không có nước, vì do lực động dao nên nước tương tợ có thể đắc. Nói thí dụ trong mộng là để trừ các cảnh nơi chỗ thọ dụng của sắc, hiển như trong mộng, sắc… thật ra không có nhưng có thể làm nhân khởi thọ dụng ái và phi ái sai biệt. Nói thí dụ ảnh tượng là để trừ nghiệp quả của thân, hiển thân nghiệp thiện và bất thiện làm duyên mà có ảnh tượng của sắc khác sinh khởi. Nói tiếng vang trong hang là để trừ quả ngữ nghiệp, hiển nhân ngữ nghiệp cảm chiêu quả ngữ nghiệp cũng như tiếng vang trong hang. Ý nghiệp có ba thứ: 1. Địa phi đẳng dẫn. 2. Địa đẳng dẫn. 3. Chủng loại văn. Nói thí dụ ánh sáng và bóng để trừ các quả ý nghiệp của địa phi đẳng dẫn, hiển chỗ đắc các quả của ý nghiệp nầy cũng như ánh sáng và bóng. Nói thí dụ trăng trong nước để trừ các quả ý nghiệp địa đẳng dẫn, hiển các quả ý nghiệp của địa đẳng dẫn cũng như trăng trong nước. Nói thí dụ biến hóa để trừ các ý nghiệp của chủng loại nghe. Chủng loại nghe là chỗ huân tập của văn và tư, thí dụ nầy hiển thị ý của chủng loại nghe sai biệt mà chuyển cũng như biến hóa.
Luận nói: "Đức Thế Tôn nương vào mật ý nào, trong kinh phạm thiên vấn nói: "Như Lai không đắc sinh tử, không đắc Niết-bàn? Trong tự tánh Y tha khởi, nương vào tự tánh Biến kế sở chấp và tự tánh Viên thành thật mà mật ý không sai biệt. Tại sao vậy? Tức tự tánh Y tha khởi nầy mà Biến kế sở chấp phân thành sinh tử, do Viên thành thật phân thành Niết-bàn".
Giải thích: Như vậy ba thứ tướng pháp tự tánh, chỗ thuyết nơi khế kinh đều là tùy thuận, bây giờ sẽ hiển thị. "Thế Tôn nương vào mật ý nào, trong kinh phạm thiên vấn nói Như Lai không đắc sinh tử, không đắc Niếtbàn"? Là hỏi: Trong tự tánh Y tha khởi nương vào tự tánh Biến kế sở chấp và tự tánh Viên thành thật mà sinh tử và Niết-bàn không có sai biệt? Đáp: Kế đó sẽ giải thích rộng, tự tánh Y tha khởi không phải quyết định là sinh tử, vì do Viên thành thật phân thành Niết-bàn, cũng không phải Niết-bàn, vì do Biến kế sở chấp phân thành sinh tử, nên không thể quyết định nói là một tánh, vì do tự tánh nầy nếu đắc một phần thì phần còn lại không khác. Nương vào ý nghĩa nầy mà trong kinh kia nói Như Lai không đắc sinh tử, không đắc Niết-bàn.
Luận nói: "Trong kinh Đại thừa A-tỳ-đạt-ma, đức Bạc-già-phạm nói pháp có ba thứ: 1. Phần tạp nhiễm. 2. Phần thanh tịnh. 3. Cùng có hai. Nương vào mật ý nào mà nói như vậy? Trong tự tánh Y tha khởi thì tự tánh Biến kế sở chấp là tạp nhiễm phần, tự tánh Viên thành thật là thanh tịnh phần, Y tha khởi là hai phần kia, nương vào mật ý nầy mà nói như vậy. Trong nghĩa nầy lấy thí dụ nào hiển thị? Lấy vàng chôn dưới đất làm thí dụ để chỉ rõ. Ví như vàng giấu trong đất trong ba pháp thế gian có thể đắc: 1. Địa giới. 2. Đất. 3. Vàng. Đất trong địa giới không phải thật có, nhưng hiện có thể được; vàng là vật báu nhưng không thể được, khi lửa thiêu luyện thì tướng vàng hiển hiện. Lại nữa, khi thổ của địa giới nầy hiển hiện là hư vọng hiển hiện, khi vàng hiển hiện là chân thật hiển hiện, nên địa giới là hai phần kia. Thức cũng như vậy, khi lửa trí Vô phân biệt chưa đốt luyện, thì trong thức nầy cả thảy tự tánh Biến kế sở chấp hư vọng hiển hiện, hết thảy chân thật tự tánh Viên thành thật không hiển hiện. Thức nầy nếu bị lửa trí Vô phân biệt đốt luyện thì trong thức nầy cả thảy tự tánh Viên thành thật chân thật hiển hiện, hết thảy tự tánh Biến kế sở chấp hư vọng không hiển hiện. Nên thức phân biệt hư vọng nơi tự tánh Y tha khởi nầy có hai phần kia, như vàng chôn dưới đất trong hết thảy địa giới".
Giải thích: Trong kinh Đại thừa A-tỳ-đạt-ma, do mật ý nầy mà nói có ba pháp: 1. Phần tạp nhiễm, nói Biến kế sở chấp là tạp nhiễm. 2. Phần thanh tịnh, nói tự tánh Viên thành thật là thanh tịnh. 3. Hai phần kia, là nói tự tánh Y tha khởi chung với cả hai phần kia. Để hiển thị nghĩa này, lấy vàng chôn dưới đất làm thí dụ, trong đây chôn là chủng tử, nói địa giới là tánh cứng chắc, đất và vàng là sắc được tạo, ba pháp có thể đắc trong thí dụ này, nói trong sự chôn giấu trước kia có tướng mạo của thổ hiển hiện, sau đó tướng vàng mới có thể được, để hiển tướng vàng tiếp sau mới có thể đắc, nói lửa đốt luyện tiếp sau mới có thể đắc, do đó vàng chân thật mới có.
Luận nói: "Đức Thế Tôn có nơi nói tất cả pháp là thường, có nơi nói tất cả pháp là vô thường, có nơi nói tất cả pháp là phi thường phi vô thường. Nương vào mật ý nào mà nói như vậy"? Là tự tánh Y tha khởi, do tánh Viên thành thật phân là thường, do tánh Biến kế sở chấp phân là vô thường, do hai phần nầy mà phân là phi thường phi vô thường. Nương vào mật ý đó mà nói như vậy, như thường và vô thường không hai, như vậy khổ, lạc không hai, tịnh, bất tịnh không hai, không, bất không không hai, ngã, vô ngã không hai, tịch tĩnh, bất tịch tĩnh không hai, hữu tự tánh, vô tự tánh không hai, sinh, bất sinh không hai, diệt, bất diệt không hai, bản lai tịch tĩnh, phi bản lai tịch tĩnh không hai, tự tánh Niết-bàn, phi tự tánh Niết-bàn không hai, sinh tử, Niết-bàn không hai cũng như thế. Những pháp sai biệt như vậy, tất cả chư Phật đều mật ý nói, do ba tự tánh, phải tùy theo đó mà quyết định rõ ràng như các môn thường, vô thường… nói trên. Trong đây có năm bài tụng:
Như pháp thật không có,
Hiện không phải một thứ,
Phi pháp, phi phi pháp,
Nên nói nghĩa không hai.
Nương một phần để hiển,
Hoặc hữu, hoặc phi hữu,
Nương hai phần để nói,
Phi hữu, phi phi hữu.
Như hiển hiện phi hữu,
Cho nên nói là không,
Do như vậy hiển hiện,
Cho nên nói là có.
Tự nhiên, tự thể không, Tự tánh không kiên trụ, Như chấp thủ không có, Thừa nhận không tự tánh. Do vô tánh mà thành, Chỗ nương dựa sau đó, Bản tịch không sinh diệt, Tự tánh bát Niết-bàn.
Giải thích: "Như pháp không thật có, hiện không phải một thứ", trong nghĩa của kệ, kế đó giải thích là nhân duyên của "phi pháp, phi phi pháp". Do "không thật có" nên là phi pháp, do "hiện không phải một thứ" nên là phi phi pháp. Vì "phi pháp, phi phi pháp" nên nói "nghĩa không phải". "Nương một phần", là nương một bên, "để hiển" là để nói dạy, "hoặc hữu, hoặc phi hữu", là hữu tánh hoặc là vô tánh, "nương hai phần nói, phi hữu, phi phi hữu", là lấy hai phần tánh của Y tha khởi mà nói phi hữu và phi phi hữu; "như hiển hiện phi hữu", là hiển hiện chỗ đắc không giống như hữu, "nên nói là vô", là do nghĩa không giống như hữu nên nói là không có; "do như vậy hiển hiện", là chỉ do tương tợ có tướng mạo hiển hiện, "nên nói là hữu", tức là do nghĩa trên mà nói đó là hữu. Nói tất cả pháp là ý vô tự tánh, bây giờ hiển thị, "tự nhiên không", là nói tất cả pháp không lìa nhiều duyên, không phải tự nhiên mà có tánh. Đó gọi là một loại ý vô tự tánh, "tự thể không", là do pháp đã diệt, thì không sinh lại nữa, nên vô tự tánh. Đây lại là một thứ ý vô tự tánh, "tự tánh không kiên trụ", là do pháp vừa sinh sau một sát-na thì không có lực để trụ nên không có tự tánh. Như vậy các pháp vô tự tánh cùng với Thanhvăn là cộng, "như chấp thủ không có", do đó "thừa nhận vô tự tánh", vô tự tánh nầy cùng với Thanh-văn là bất cộng, vì như chỗ thủ của ngu phu thì tự tánh Biến kế sở chấp không giống như là hữu, do ý nầy nên nương vào lý của Đại thừa. Nói tất cả pháp đều không có tự tánh, "do vô tánh mà thành", là do tất cả pháp không có tự tánh, không sinh diệt đều được thành tựu. Tại sao vậy? Vì không có tự tánh nên không có sinh, vì không có sinh nên không có diệt, vì không sinh không diệt nên bản lai tịch tĩnh, vì hoàn toàn tịch tĩnh nên tự tánh Niết-bàn. "Chỗ nương dựa sau đó", là các nhân tiếp sau do vô tánh nầy mà được có nghĩa.
Luận nói: "Lại có bốn thứ ý thú và bốn thứ bí mật, tất cả lời Phật đều phải tùy theo đây mà quyết đoán. Bốn ý thú: 1. Ý thú bình đẳng, như nói: Ta xưa kia đã từng tại thời kia, tại phần kia gọi là bậc thắng quán chánh đẳng giác. 2. Ý thú biệt thời, như nói: Người tụng danh hiệu của Như Lai đa bảo thì đối với chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng đã được quyết định. Lại nữa, như nói: Chỉ do phát nguyện liền được vãng sinh thế giới cực lạc. 3. Ý thú biệt nghĩa, như nói: Nếu đã phụng sự như vậy chư Phật nhiều như số cát Căng-già-hà, thì đối với pháp Đại thừa mới có thể hiểu nghĩa. 4. Ý thú Bổ-đặc-già-la ý lạc, là nếu làm một Bổ-đặc-già-la thì trước hết khen ngợi bố thí, sau đó thì chỉ trích chê bai. Như đối với bố thí, Thila và một phần tu phải biết cũng thế. Đó gọi là bốn thứ ý thú. Bốn bí mật: 1. Khiến cho nhập bí mật, là trong thừa Thanh-văn hoặc trong Đại thừa, nương vào lý thế tục đế nói có Bổ-đặc-già-la và có tự tánh sai biệt của các pháp. 2. Tướng bí mật, là đối với xứ kia nói tướng của các pháp để hiển hiện ba tự tánh. 3. Bí mật đối trị, là đối với xứ kia nói hạnh đối trị có tám vạn bốn ngàn. 4. Chuyển biến bí mật, là đối với xứ kia, lấy nghĩa riêng của nó, các câu các chữ liền hiển biệt nghĩa. Như có tụng nói:
Giác không bền, làm chắc,
Khéo trụ nơi điên đảo,
Chỗ phiền não, não hại
Đắc Bồ-đề tối thượng.
Giải thích: Ý thú và bí mật có sai biệt, là Phật Thế Tôn trước hết duyên các sự này, sau đó vì người khác mà nói, gọi đó là ý thú, do ý thú nầy khiến nhập Thánh giáo, gọi đó là bí mật.
- Ý thú bình đẳng: Ví như có người lấy pháp tương tợ nói như vầy: "Pháp kia tức là ta". Thế Tôn cũng vậy, Pháp thân bình đẳng đặt tại tâm, nói: "Ta ngày xưa đã từng đối với Phật kia bình đẳng". Không phải Phật kia khi xưa là Tỳ-bát-thi, mà tức là Thích-ca-mâu-ni ngày nay, nương vào chỗ khởi ý thú của nghĩa bình đẳng mà nói như vậy.
- Ý thú biệt thời, đây là ý thú khiến cho lười biếng. Do các thứ nhân đối với các thứ pháp kia tinh cần tu tập, mà các thiện căn đều được tăng trưởng. Ý thú trong đây hiển thị do tụng Như Lai đa bảo gọi là nhân, là nhân thăng tiến, không phải chỉ tụng danh hiệu mà liền đối với chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng đã được quyết định, như có kinh nói: "Do một đồng tiền vàng mà được một ngàn đồng tiền vàng", có lẽ một ngày nào đó ý tại thời gian khác, do một tiền vàng là nhân để được một ngàn tiền vàng khác, nên nói như vậy. Tụng danh hiệu ở đây cũng vậy, chỉ do phát nguyện liền được vãng sinh thế giới cực lạc, phải biết cũng như thế.
Trong ý thú biệt nghĩa, đối với pháp Đại thừa mới có thể hiểu nghĩa, là đối với nghĩa lý của ba thứ tự tánh tự chứng tướng của nó. Nếu chỉ hiểu rõ tùy danh nói nghĩa là ý của Phật, thì hàng ngu phu đối với nghĩa Đại thừa cũng hiểu rõ được, nên biết trong đây nói hiểu nghĩa, là có ý nói chứng giải, phải do thời quá khứ đã phụng sự nhiều chư Phật.
- Ý thú Bổ-đặc-già-la, là như vì lần đầu tiên thì khen ngợi bố thí, sau đó lại chê bai chỉ trích bố thí. Điều nầy có ý là trước vì nhiều xan lận keo kiệt mà khen ngợi bố thí, sau đó thì ưa thích bố thí, nên chê bai chỉ trích bố thí để khiến cho tu thắng hạnh. Nếu không có ý nầy thì trong một lần bố thí trước khen sau chê trở thành trái nhau. Do có ý nầy nên khen và chê đều đúng lý, đối với các thi-la phải biết cũng vậy. Một phần tu, là thế gian tu.
Khiến cho nhập bí mật, là như xứ kia nương vào lý thế tục đế, nói có Bổ-đặc-già-la và tự tánh tất cả pháp sai biệt, vì khiến cho hữu tình nhập Thánh giáo của Phật nên nói là "khiến cho nhập bí mật".
Tướng bí mật, là nói các pháp tướng, nói ba tự tánh. Đối trị bí mật, là đối với xứ kia nói các hạnh đối trị của hữu tình, vì muốn an lập hạnh đối trị phiền não của hữu tình.
Chuyển biến bí mật, là đối với xứ kia vì nói các nghĩa khác, thì các câu các chữ liền chuyển hiển nghĩa khác.
Trong kệ, "giác bất kiên, làm kiên", bất kiên vì định không cương cường, dong đuổi tán loạn khó điều phục nên gọi là bất kiên. Trong bất kiên nầy mà khởi tôn trọng giác, gọi là giác làm kiên. "Khéo trụ nơi điên đảo", nghĩa là đối với điên đảo có thể trong điên đảo mà khéo an trụ. Đối với vô thường cho là thường, gọi là điên đảo; đối với vô thường cho là vô thường, là chủ thể điên đảo, đó là nghĩa "khéo an trụ" trong đây. "Chỗ não hại cực phiền não", tinh tấn, cần cù gọi là phiền não, vì chúng sinh nơi chỗ não hại cần cù tinh tấn mãi mãi, như có tụng nói: "Khổ não lâu nơi sinh tử, chỉ do tâm đại bi…" cũng như vậy. "Đắc Bồ-đề tối thượng", nghĩa câu nầy dễ hiểu.
Luận nói: "Nếu muốn tạo giải thích pháp Đại thừa, lược có ba tướng phải tạo giải thích đó: 1. Do thuyết duyên khởi. 2. Do thuyết tướng từ pháp do duyên sinh. 3. Do thuyết ngữ nghĩa".
Giải thích: Do ba tướng nầy tùy theo chỗ thích ứng của nó phải tạo giải thích tất cả pháp Đại thừa.
Luận nói: "Thuyết duyên khởi trong đây, như nói:
Nói huân tập được sinh Các pháp, đây từ kia, Dị thục và thức chuyển,
Làm duyên sinh lẫn nhau.
Giải thích: "Nói huân tập được sinh các pháp", là do phân biệt bên ngoài huân tập vào trong thức A-lại-da, lấy huân tập nầy làm nhân mà tất cả pháp sinh khởi, tức là thức chuyển làm tánh. "Đây từ kia", đây là phân biệt huân tập này, kia là các pháp kia, tức phân biệt huân tập nầy sử dụng các pháp kia làm nhân, hoặc đây tức là hiển thị thức A-lại-da cùng với kia tức là thức chuyển kia làm nhân lẫn nhau.
Luận nói: "Lại nữa, chuyển thức nơi tướng pháp kia, thức làm tự tánh của hữu tướng và hữu kiến. Lại nữa, thức chuyển kia lấy nơi dựa làm tướng, Biến kế sở chấp làm tướng, pháp tánh làm tướng, do đấy mà hiển thị tướng của ba tự tánh". Như nói:
Từ có tướng, có kiến, Phải biết ba tướng kia.
Lại nữa, làm sao để giải thích tướng kia là tướng Biến kế sở chấp? Trong tướng Y tha khởi thật ra là không có, trong tướng Viên thành thật thì thật ra là có, do hai thứ này, phi hữu và hữu, phi đắc và đắc, người chưa thấy và đã thấy, người thấy thật thì đồng thời, là trong tự tánh Y tha khởi không có Biến kế sở chấp, chỉ có Viên thành thật. Khi thử (Biến kế sở chấp) chuyển thì đắc bỉ (Viên thành thật) tức là không đắc thử, nếu đắc thử thì không đắc bỉ. Như nói:
Y tha chỗ chấp, không,
Trong thành thật thì có,
Nên đắc và chẳng đắc,
Trong đó, hai bình đẳng.
Giải thích: "Chuyển thức nơi tướng pháp kia, thức làm tự tánh của hữu tướng và hữu kiến", là hữu tướng và hữu kiến lấy thức làm thể của nó. Lại nữa, ngay nơi tướng kia có ba thứ chốn nương làm tướng, là tướng Y tha khởi, do tướng nầy mà nói ba thứ tự tánh để hiển thị tướng kia. Trong kệ thì hiển nghĩa này, "từ hữu tướng, hữu kiến, phải biết ba tướng kia", là như giải thích hiển thị, "do hai thứ này, phi hữu và hữu, phi đắc và đắc, chưa thấy và đã thấy, đều đồng thời chân thật", là Biến kế sở chấp và Viên thành thật gọi là hai thứ. Hai thứ như vậy, thứ nhất là phi hữu, thứ hai là hữu. "Người chưa thấy thật", thì đắc Biến kế sở chấp, không đắc Viên thành thật. "Người đã thấy thật", thì ngay sát-na nầy đắc Viên thành thật, không đắc Biến kế sở chấp. Trong kệ hiển nghĩa này, là y tha và sở chấp không bình đẳng. "Bình đẳng", là chỉ trong một sát-na. "Trong đó", là trong Y tha khởi. "Hai", là người chưa thấy thật và người đã thấy thật. "Cho nên", là chỉ cho nhân theo nghĩa này, là trong Y tha khởi thì Biến kế sở chấp không có, và do Viên thành thật thì có. Lại nữa, do kiến chấp của hàng ngu phu điên đảo nên họ có thấy chuyển như vậy, hoặc bậc Thánh do chánh kiến nên thấy chuyển như vậy.
Luận nói: "Nói ngữ nghĩa, là trước hết nói câu thứ nhất, sau đó lấy các câu còn lại để phân biệt hiển thị, hoặc do đức xứ, hoặc do nghĩa xứ".
Giải thích: Do nói ngữ nghĩa như chỗ tạo tác giải thích, bây giờ hiển thị, hoặc là gồm thâu đức của nó, hoặc là gồm thâu nghĩa của nó. Luận nói: "Do đức xứ, là nói công đức giác tối thanh tịnh của
Phật hiện hành bất nhị tiến đến giác vô tướng, trụ nơi Phật trụ, đắc tất cả tánh bình đẳng của Phật, đến xứ vô chướng, pháp không thể chuyển, nẻo hành vô ngại, chỗ an lập đó là bất khả tư nghì, kết hợp trong pháp tánh bình đẳng ba đời, thân đó lưu xuất tất cả thế giới, trí đối với tất cả pháp không có nghi, vướng, đối với tất cả hành thành tựu đại giác, trí đối với các pháp không có nghi hoặc, có chỗ hiện thân thì không thể phân biệt, là chỗ cầu trí của tất cả Bồ-tát, đắc trụ thắng vô nhị nơi bờ giác của Phật, đắc diệu trí giải thoát cứu cánh không xen tạp của Như Lai, chứng Phật địa bình đẳng không có chính giữa, không có biên giới, tột nơi pháp giới, tận tánh hư không, cùng đời vị lai. Giác tối thanh tịnh, phải biết câu nầy do các câu còn lại phân biệt hiển thị, như vậy cho đến thành khéo nói.
Pháp tánh giác tối thanh tịnh, là giác tối thanh tịnh của Phật Thế Tôn, phải biết đó là chỗ thâu tóm hai mươi mốt thứ công đức của Phật, là công đức đối với đối tượng nhận thức hoàn toàn không có chướng ngại chuyển, đối với hữu, vô không có hai tướng, công đức chân như tối thắng thanh tịnh có thể nhập, công đức không công dụng, Phật sự trụ không dừng nghỉ, công đức nơi chỗ dựa, ý lạc tác nghiệp không sai biệt trong Pháp thân, công đức tu tất cả đối trị chướng, công đức hàng phục hết thảy ngoại đạo, công đức sinh tại thế gian không bị thế pháp làm chướng ngại, công đức an lập chánh pháp, công đức thọ ký, công đức đối với tất cả thế giới thị hiện thân thọ dụng biến hóa, công đức đoạn trừ nghi, công đức khiến nhập nơi vô số hạnh, công đức nơi pháp vị lai sinh trí diệu, công đức thị hiện như chính thắng giải đó, công đức vô lượng chỗ dựa điều phục hữu tình gia hạnh, công đức Pháp thân bình đẳng Ba-la-mật-đa thành tựu viên mãn, công đức tùy thắng giải đó mà thị hiện cõi Phật sai biệt, công đức nơi ba loại thân Phật, phương xứ vô phần hạn, công đức cùng tận cõi sinh tử thường hiện lợi ích an lạc cho hết thảy hữu tình, công đức vô tận…"
Giải thích: Trong đây hiện hành bất nhị: Là hiện hành nhị tức vô và hữu, nên gọi là hiện hành bất nhị, tức là công đức đối với đối tượng nhận thức hoàn toàn không chướng chuyển, không giống như trí của Thanh-văn, Độc-giác, cũng có chướng cũng không chướng. "Tiến đến pháp vô tướng", là chân như thanh tịnh gọi là pháp vô tướng, "tiến đến" là "tiến vào", tức là công đức đối với hữu, vô tướng chân không hai như thanh tịnh tối thắng có thể nhập, là chân như nầy không phải hữu tướng, vì lấy các pháp vô tánh làm tướng, cũng không phải vô tướng vì tự tướng là hữu, đối với chân như vô tướng thanh tịnh tối thắng có thể nhập này, vì tối thắng có thể nhập nên thanh tịnh có thể nhập. "Trụ nơi Phật trụ", là trụ nơi xứ vô sở trụ của Phật trụ, tức là công đức không công dụng, Phật sự trụ không dừng nghỉ, là trong đó thường làm Phật sự không hề ngơi nghỉ. "Đắc tánh bình đẳng của tất cả Phật, tức là công đức nơi ý lạc tạo nghiệp không sai biệt trong Pháp thân". "Đến xứ vô chướng ", tức là công đức tu tất cả đối trị chướng, vì tất cả thời thường tu huệ giác đối trị tất cả chướng. "Pháp không thể chuyển", tức là công đức hàng phục tất cả ngoại đạo. "Nẻo hành vô ngại", là công đức sinh tại thế gian không bị thế pháp làm chướng ngại, tức là tuy sinh tại thế gian hành các nẻo hành của thế gian mà không bị tám pháp như lợi… của thế gian làm nhiễm ô. "Chỗ an lập đó là bất khả tư nghì", tức công đức an lập chánh pháp, do chánh pháp vô lượng bất khả tư nghì của khế kinh. Không phải là chỗ hiểu được của hàng ngu phu, do đây nên gọi là giác tối thanh tịnh. Câu giác tối thanh tịnh này, đối với từng câu đều tương ưng khắp. "Kết hợp trong pháp tánh bình đẳng nơi ba đời", tức là công đức thọ ký. "Thân đó lưu xuất tất cả thế giới", tức là công đức đối với tất cả thế giới thị hiện thân thọ dụng biến hóa. "Trí đối với tất cả pháp không có nghi vướng", tức là công đức đoạn nghi. "Đối với tất cả hạnh thành tựu đại giác", tức là công đức khiến nhập vô số hạnh. "Trí đối với các pháp không có nghi hoặc", tức là công đức pháp vị lai sinh trí diệu, là biết tương lai các pháp như vậy mà sinh diệu trí Như Lai. "Có chỗ hiện thân thì không thể phân biệt", tức là công đức như thắng giải đó mà thị hiện. "Là chỗ cầu trí của tất cả Bồ-tát", tức là công đức vô lượng nơi chỗ dựa điều phục hữu tình gia hạnh, là chỗ dựa của vô lượng Bồ-tát, có thể điều phục các sự của hữu tình. Đây không phải chư Phật đã đắc tự, tha bình đẳng mà cầu trí này, chỉ có chư Phật đã làm các sự điều phục thù thắng như vậy. "Đắc trụ vô nhị bờ giác thù thắng của Phật", tức là công đức Pháp thân bình đẳng Ba-la-mật-đa thành tựu viên mãn, Pháp thân vô nhị gọi là Pháp thân bình đẳng, tức là Pháp thân vô nhị như vậy đắc thiện thanh tịnh Ba-la-mật-đa. "Diệu trí giải thoát cứu cánh không xen tạp của Như Lai", là thắng giải cứu cánh trong trí của Như Lai không xen tạp, thắng giải ở trong đây gọi là giải thoát, tức là công đức tùy theo thắng giải đó hiển thị sai biệt. "Chứng Phật địa bình đẳng không có chính giữa không có biên giới", tức là cho đến ba loại thân Phật, phương xứ vô hạn, là Pháp thân Phật không thể phân giới hạn, phương xứ thọ dụng biến hóa như thế, cũng không thể nói chỗ thế giới như thế." Tột nơi pháp giới", là pháp giới cực thanh tịnh, tức là công đức cùng tận cõi sinh tử thường hiện lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình. "Tận tánh hư không", tức là công đức vô tận, là Phật trí vô tận như hư không. "Cùng vị lai tế", là công đức cứu cánh… (đẳng), chữ đẳng là nói Phật trí nầy rốt ráo cùng tận đời vị lai không gián đoạn, nên gọi là giác tối thanh tịnh.
Luận nói: Lại nữa, do nghĩa xứ, như nói nếu các Bồtát thành tựu ba mươi hai pháp mới gọi là Bồ-tát, là vì đối với tất cả hữu tình khởi lợi ích an lạc tăng thượng ý lạc, vì khiến nhập trí của nhất thiết trí, vì tự biết ta hiện tại đang mượn trí nào, vì trừ diệt kiêu ngạo, vì ý lạc thù thắng, bền chắc vì không phải giả thương xót, vì tâm bình đẳng đối với người thân và không thân, vì vĩnh viễn làm thiện hữu cho đến Niết-bàn làm hậu biên, vì xứng với lượng mà nói, vì mỉm cười trước khi nói, vì vô hạn đại bi vô hạn, vì đối với sự chỗ thọ nhận không yếu hèn thối lui, vì không có ý mệt chán, vì nghe nghĩa không chán, vì đối với tự mình làm tội thì thấy lỗi sâu xa, vì đối với người khác làm tội thì không sân giận mà dạy bảo, vì trong tất cả oai nghi hằng tu trị Bồ-đề, vì không mong cầu dị thục mà hành thí, vì không nương vào tất cả cõi hữu lậu mà thọ trì giới, vì đối với các hữu tình không có sân hận làm chướng ngại mà hành nhẫn, vì muốn thâu nhận tất cả pháp thiện mà siêng năng, tinh tấn, vì xả cõi Vô sắc mà tu tĩnh lự, vì phương tiện tương ưng mà tu Bát-nhã, vì do bốn nhiếp sự mà thâu tóm phương tiện, vì đối với thiện hữu trì giới hay phá giới đều không hai, vì lấy tâm ân cần tôn trọng mà nghe chánh pháp, vì lấy tâm ân cần tôn trọng mà trụ nơi A-luyện-nhã, vì đối với các tạp sự của thế gian không ưa thích, vì đối với các thừa thấp kém đã từng không ưa thích, vì thấy công đức sâu xa trong Đại thừa, vì xa lìa bạn ác, vì thân cận bạn thiện, vì hằng tu trị bốn phạm trụ, vì thường hiện bày diệu dụng nơi năm thần thông, vì nương vào cõi trí, vì đối với các loại hữu tình trụ chánh hạnh hay không trụ chánh hạnh đều không xả bỏ, vì nói quyết định, vì tôn trọng đế thật, vì tâm đại Bồ-đề luôn làm đầu. Những câu như vậy, phải biết đều là sự sai biệt của câu thứ nhất: "Đối với tất cả hữu tình khởi lợi ích an lạc, ý lạc tăng thượng.
Câu "lợi ích an lạc ý lạc tăng thượng" này, phải biết có mười sáu nghiệp sai biệt, trong đây mười sáu nghiệp sai biệt là: 1. Nghiệp lần lượt gia hạnh. 2. Nghiệp không điên đảo. 3. Nghiệp tự nhiên gia hạnh không chờ người khác thỉnh. 4. Nghiệp bất động hoại. 5. Nghiệp không cấu nhiễm. Nghiệp nầy phải biết có ba câu sai biệt là: a. Không nhiễm buộc. b. Đối với người ân hay phi ân không có thương ghét. c. Trong đời đời hằng tùy chuyển. 6. Nghiệp tương xứng ngữ thân. Nghiệp nầy phải biết có hai câu sai biệt. 7. Nghiệp trong vui khổ bình đẳng không hai.
8. Nghiệp không thấp kém. 9. Nghiệp không thối chuyển. 10. Nghiệp gồm thâu phương tiện. 11. Nghiệp yếm ác sở trị. Nghiệp nầy phải biết có hai câu sai biệt. 12. Nghiệp vô gián tác ý. 13. Nghiệp thắng tấn hạnh. Nghiệp nầy phải biết có bảy câu sai biệt là chánh gia hạnh của sáu Ba-la-mật, và chánh gia hạnh của bốn nhiếp sự. 14. Nghiệp thành mãn gia hạnh. Nghiệp nầy phải biết có sáu câu sai biệt là: a. Thân cận thiện sĩ. b. Nghe chánh pháp. c. Trụ nơi chốn A-luyện-nhã. d. Lìa tầm tư ác. e. Công đức tác ý. Câu nầy phải biết lại có hai câu sai biệt. f. Công đức trợ bạn. Câu nầy phải biết lại có hai câu sai biệt. 15. Nghiệp thành mãn. Nghiệp nầy phải biết có ba câu sai biệt: a. Vô lượng thanh tịnh. b. Đắc đại oai lực. c. Chứng đắc công đức. 16. Nghiệp an lập bỉ. Nghiệp nầy phải biết có bốn câu sai biệt: a. Ngự chúng công đức. b. Quyết định không nghi nơi giáo thọ dạy bảo. c. Tài pháp gồm thâu. d. Tâm không tạp nhiễm. Những câu như vậy, phải biết đều là sai biệt của câu thứ nhất".
Giải thích: "Vì do trong nghĩa xứ, vì đối với tất cả hữu tình khởi lợi ích an lạc ý lạc tăng thượng", là nghĩa câu nầy do mười sáu nghiệp của các câu còn lại hiển thị. Do những nghiệp nào hiển thị lợi ích an lạc ý lạc tăng thượng? Là do nghiệp lần lượt gia hạnh, tức vì khiến cho trí nhập nhất thiết trí, lần lượt hoá độ chỉ dẫn, ví như một ngọn đèn truyền cho hàng ngàn ngọn đèn, tức là nghiệp nầy hiển thị lợi ích an lạc ý lạc tăng thượng. Như vậy trong tất cả câu còn lại, đều phải phối hợp thuộc về câu lợi ích an lạc ý lạc tăng thượng.
Nghiệp không điên đảo, tức vì tự biết ta hiện tại đang mượn trí nào, hoặc là tuy có lợi ích an lạc ý lạc tăng thượng, nhưng vẫn là điên đảo, như có phát khởi lợi ích an lạc ý lạc tăng thượng khuyến khích uống rượu, hoặc có chánh trí tự biết như thật, mới có thể xứng với lượng mà truyền dạy cho hữu tình, không phải tăng thượng mạn không biết như thật khởi tâm tạo lợi ích, khuyến khích người khác làm các sự không lợi ích.
Nghiệp tự nhiên gia hạnh không chờ người khác thỉnh, tức là vì điều phục kiêu mạng, là do diệt trừ tâm kiêu mạn, không chờ khuyến thỉnh, tự vì mình thuyết pháp.
Nghiệp bất động hoại, là vì ý lạc thù thắng bền chắc, vì không bị hữu tình hành tà hạnh động hoại tâm kiên cố lợi ích an lạc, ý lạc tăng thượng của Bồ-tát.
Nghiệp không cầu nhiễm, tức là không phải giả bộ thương xót, vì tâm bình đẳng đối với người thân hoặc không thân, vì vĩnh viễn làm thiện hữu cho đến Niết-bàn làm hậu biên, ba câu sau sẽ giải thích ba câu này. Không phải làm các nhân lợi dưỡng cung kính, mà tạo lợi ích an lạc của các hữu tình, nên gọi là nghiệp không cầu nhiễm.
Lợi ích an lạc ý lạc tăng thượng làm sao biết được? Là do tương xứng với nghiệp ngữ thân, tức là vì xứng với lượng mà nói, vì mỉm cười trước khi nói. Trong hai câu này, xứng lượng mà nói và trước khi nói là ngữ nghiệp, mỉm cười là thân nghiệp. Xứng lượng ngữ, là chỉ thuyết pháp, mỉm cười, là dung mạo thư thả qua lại làm sự lợi ích.
Nghiệp trong vui khổ bình đẳng không hai, tức là vì đại bi vô hạn. Bi vô hạn là thương xót ba khổ, đối với hữu tình có khổ thì thương xót khổ khổ của hữu tình, đối với hữu tình có vui thì thương xót hoại khổ của hữu tình, đối với hữu tình không khổ không vui thì thương xót hành khổ của hữu tình. Vì bất khổ bất vui nên gọi là không hai.
Nghiệp không thấp kém, tức là vì đối với việc mà mình nhận làm không yếu hèn thối lui, tức là các loại như không tự khinh mình mà nói: "Ta không thể đảm đương được quả phật".
Nghiệp không thối chuyển, tức không có ý mệt chán, là siêng năng tinh tấn tu thành nhân của quả Phật, trong tâm không mệt chán.
Nghiệp thâu gồm phương tiện, tức vì nghe nghĩa không chán, là do đa văn thành trí thiện xảo tạo lợi ích cho hữu tình.
Nghiệp yếm ác đối trị, tức là đối với tự mình làm tội thì thấy lỗi sâu xa, đối với người khác làm tội thì không sân hận mà dạy bảo, do phương tiện ấy mới có thể điều phục hữu tình.
Nghiệp vô gián tác ý, tức là trong tất cả oai nghi hằng tu trị tâm Bồ-đề. Các câu như vậy, nghĩa như chỗ hành thanh tịnh có nói rộng trong khế kinh.
Nghiệp thắng tấn hạnh, là không mong cầu dị thục mà hành thí, cho đến bốn nhiếp sự mà gồm thâu phương tiện, tức nương lợi ích an lạc ý lạc tăng thượng ở trước tu gia hạnh này, khiến cho tăng trưởng tiến đến quả và nhân.
Nghiệp thành mãn gia hạnh, vì đối với bạn thiện trì giới hay phá giới đều không hai, cho đến thân cận bạn thiện. Tám câu sau kế đó giải thích câu này. Nếu có thân cận luyện tập gia hạnh như vậy, thì mau chóng thành tựu viên mãn, vì lấy tâm ân cần tôn trọng mà nghe chánh pháp. Trụ nơi chốn A-luyện-nhã, do trụ vào xứ này, lìa tầm tư ác, tạp sự của thế gian, là ca múa…
Nghiệp thành mãn, là hằng tu trị bốn phạm trụ, vì thường hiện bày diệu dụng năm thần thông, vì nương vào trí thú. Ba câu sau đó giải thích ba câu này, là chỗ có tướng trạng của nghiệp thành mãn ấy. Đại oai lực, là sáu thần thông. Vì nương trí cõi là nương vào trí cõi không nương thức thú do nội trí sinh. Do nội trí hiển hiện tương ưng an trụ nơi pháp.
Nghiệp an lập bỉ, là đối với loại trụ chánh hạnh, bốn câu kế đó giải thích bốn câu này. Do lợi ích an lạc ý lạc tăng thượng mà an lập hữu tình nơi lợi ích an lạc. Ngự chúng công đức, là do đối với những chúng sinh phá giới đều không xả bỏ mà an lập, không xua đuổi, giúp họ thoát khỏi bất thiện. Quyết định không nghi nơi dạy bảo của thầy, là do có thể hoàn toàn cùng với dạy răn kia đã không phải tự thuyết, trở lại nói: "Ta nói bất thiện", do nhân duyên đó mà lời nói nghiêm túc. Tài pháp thâu tóm, là do lời nói chân thật, dùng pháp thâu lấy. Y phục… là tài, lại như vậy mà bố thí. Tâm không tạp nhiễm, là do khéo thâu nhận tâm đại Bồ-đề để tạo lợi ích cho hữu tình, không phải muốn tự cầu để cung cấp cho sự sai khiến. Chính là hữu tình do thiện nầy mà mau chóng chứng chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng, như vậy mà thâu nhận tất cả hữu tình?
Luận nói: "Như nói:
Vì do câu thứ nhất,
Từng câu chủng loại đức,
Vì do câu thứ nhất,
Từng câu nghĩa sai biệt".
Giải thích: Trong kệ này, hiển thị nghĩa đã nói trước, nên nói những lời như vậy.
Luận nói: "Như vậy đã nói tướng đối tượng nhận thức, nhập tướng đối tượng nhận thức tại sao phải thấy? Là chỗ dựa của huân tập đa văn, không phải chỗ tóm thâu của thức A-lại-da. Như thức A-lại-da thành chủng tử thì chỗ thâu tóm của tác ý như lý tợ pháp và tợ nghĩa sinh khởi, tợ chỗ giữ lấy sự, ý ngôn hữu kiến".
Giải thích: Như có thể ngộ nhập chủng loại điều nên nhận biết tướng như vậy, bây giờ sẽ hiển thị. Nhập tướng của đối tượng nhận thức, là nghĩa có thể nhập cảnh đối tượng nhận thức. Chỗ dựa của đa văn huân tập, là chỗ huân tập tự thể của pháp Đại thừa. Không phải chỗ gồm thâu của thức A-lại-da, vì có thể đối trị thức A-lại-da. Như thức A-lại-da thành chủng tử, là như thức A-lại-da làm nhân của tất cả pháp tạp nhiễm, thức nầy làm nhân của tất cả pháp thanh tịnh cũng như thế. Chỗ gồm thâu của tác ý như lý, là tác ý như lý làm tự tánh. Tợ pháp tợ nghĩa mà sinh, là khi khởi thì tướng tương tợ của pháp và nghĩa sinh. Tợ chỗ giữ lấy sự, là nghĩa tương tợ của các sắc. Hữu kiến, là tương tợ đối với kiến, đây là thành lập thức hữu tướng kiến.
Luận nói: "Trong đây ai có thể ngộ nhập điều nên nhận biết tướng? Đại thừa đa văn huân tập tương tục, đã được phụng sự vô lượng chư Phật xuất hiện nơi đời, hoàn toàn đã đắc thắng giải quyết định, đã khéo tích tập các thiện căn, khéo đầy đủ phước trí là tư lương của Bồ-tát".
Giải thích: Như vậy phẩm loại, như vậy phương tiện có thể ngộ nhập, bây giờ sẽ hiển thị. Đại thừa đa văn huân tập tương tục, là lựa riêng chỗ có đa văn huân tập tương tục của Thanh-văn, Độc-giác. Đã được phụng sự vô lượng chư Phật xuất hiện nơi đời, là đã được phụng sự hiện tiền siêu vượt số lượng chư Phật xuất hiện nơi thế gian. Hoàn toàn đã đắc thắng giải quyết định, là đối với Đại thừa mà mình đã hiểu thấu không phải là cái mà các bạn ác có thể lắc động làm hư hỏng được, là do chỗ thuyết ba nhân vô gián, đã khéo tích tập các thiện căn, mới được gọi là Bồ-tát khéo đầy đủ phước trí làm tư lương. Cũng là phước trí như vậy làm tư lương, tại sao dần dần mới được viên mãn? Là do lực nhân, do lực thiện hữu, do lực tác ý, do lực nương giữ. Trong đây hai câu phải biết là hai lực như số. Lực tác ý tức là thắng giải quyết định hoàn toàn, đây là dùng Đại thừa huân tập làm nhân, phụng sự Phật làm duyên để có thắng giải quyết định hoàn toàn. Có thể tu chánh hạnh, vì tu chánh hạnh nên tích tập thiện căn, như vậy gọi là do lực tác ý. Khéo tu hai thứ tư lương phước và trí, do dần dần khéo tu hai thứ tư lương phước trí nên có thể nhập đại địa, như vậy gọi là lực nương giữ.
Luận nói: "Xứ nào có thể nhập? Là ngay nơi ý ngôn của hữu kiến tợ pháp, tợ nghĩa kia, chỗ sinh khởi địa thắng giải hạnh của các pháp tướng Đại thừa. Trong Kiến đạo, Tu đạo và đạo cứu cánh, đối với tất cả pháp chỉ có tánh thức, vì tùy văn mà thắng giải, vì như lý mà thông đạt, vì đối trị tất cả chướng, vì lìa tất cả chướng".
Giải thích: Như vậy mà nhập loại và nhập hành tướng, bây giờ sẽ hiển thị: ý địa tầm tư gọi là ý ngôn, như vậy ý ngôn lấy pháp Đại thừa làm nhân mà sinh, trong đây là hiển thị ý ngôn sai biệt. Được sinh bởi pháp tướng Đại thừa, là nghĩa giáo pháp nầy làm duyên sinh, hoặc hữu tức là đối với địa thắng giải hạnh gọi là chủ thể ngộ nhập.
Như vậy ngộ nhập trong Kiến đạo, bây giờ hiển thị: Vì như lý mà thông đạt, là đối với ý ngôn mà thông đạt đúng như lý. Tại sao đối với ý ngôn nầy như lý thông đạt? Là vì ý ngôn nầy không phải pháp, không phải nghĩa, không phải đối tượng giữ lấy, không phải chủ thể giữ lấy, như vậy mà thông đạt.
Như vậy mà ngộ nhập trong tu đạo, bây giờ hiển thị: Vì đối trị tất cả chướng, là khi quán ý ngôn nầy phi pháp là phi nghĩa, phi đối tượng giữ lấy, phi chủ thể giữ lấy, thì có thể đối trị tất cả chướng.
Như vậy mà ngộ nhập trong đạo cứu cánh, bây giờ hiển thị: Vì lìa tất cả chướng, là khéo trụ trong địa vị của diệu trí thanh tịnh, thì chướng cực vi tế cũng không có.
Luận nói: "Do đâu có thể nhập? Do chỗ nhận giữ của lực thiện căn, là ba thứ tướng luyện tâm đoạn bốn xứ nên duyên cảnh của nghĩa pháp, chỉ quán hằng thường ân cần tôn trọng, gia hạnh, không có phóng dật".
Giải thích: Do đấy có thể nhập, bây giờ hiển thị: "Do đâu có thể nhập? Do chỗ nhận giữ của lực thiện căn là ba thứ tướng luyện tâm, cho đến hằng thường ân cần tôn trọng gia hạnh không phóng dật", là đối với điều nói tám câu như vậy khéo tùy thuận tương ưng, gọi là chỗ nhận giữ của lực thiện căn. Hằng thường, là tu hành không gián đoạn. Ân cần tôn trọng, là tu hành cung kính. Nếu đối với các phẩm loại như vậy mà tu tạo, tức là đối với như vậy có thể không phóng dật.
Luận nói: "Vô lượng thế giới vô lượng người, hữu tình từng sát-na chứng giác chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng, đó là luyện tâm thứ nhất. Do ý lạc nầy có thể hành thí… Ba-la-mật-đa "ta đã đạt được ý lạc như vậy, ta do đây mà ít dùng công lực, tu thí… Ba-la-mật-đa sẽ được viên mãn", đó là luyện tâm thú hai. Nếu có thành tựu các thiện có chướng khi mạng chung thì tất cả tự thể viên mãn khả ái mà sinh, "ta có diệu thiện, thiện không chướng ngại, tại sao lúc đó không đạt được hết thảy viên mãn"! Đó gọi là luyện tâm thứ ba".
Giải thích: Trong đây vì đối trị ba thứ thối khuất tâm nên chỉ tu luyện tâm thứ ba. Tại sao vậy? Vì các nghe chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng tối thắng quảng đại sâu xa khó có thể chứng đắc, thì tâm Bồ-tát liền thối lui. Để đối trị tâm nầy nên tu luyện tâm đệ nhất. Lại nữa, các Bồ-tát nghe chỗ tu hành Ba-la-mật-đa tối thắng thâm diệu quảng đại khó có thể chứng đắc, thì tâm liền thối lui. Để đối trị tâm nầy nên tu luyện tâm đệ nhị. Do ý lạc ấy có thể hành thí… Ba-la-mật-đa, ý lạc trong đây là tín và dục, Bồ-tát đối với các Ba-la-mật-đa, chân thật có tánh, đủ tánh công đức, có tánh gắng nhận sinh tín giải sâu xa, gọi đó là tín. Tín giải đã sâu, ưa thích tu hành, đó là dục. Bồ-tát đã đắc tín dục như vậy, thì tự tánh ý lạc ít dụng công, tu sáu Ba-la-mật-đa sẽ được viên mãn. Lại nữa, Bồ-tát đối với ngôn giáo thâm diệu quảng đại của Phật, khi xét bàn quyết đoán thiện xảo chuyển khởi, tư lương như vậy, chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng khó có thể chứng đắc, còn cách một niệm tâm mới có thể chứng đắc, tâm liền thối lui. Để đối trị tâm nầy nên tu luyện tâm đệ tam. "Ta có diệu thiện", là "ta có tất cả diệu thiện trong mười địa tích tập phước trí làm tư lương". "Thiện không chướng ngại thiện", là định kim cương dụ, có thể phá trừ chướng rất khó phá trừ mọi vi tế thô trọng tại trong xương. Định nầy liên tục đắc chuyển y, lìa trói buộc của hết thảy chướng. "Tại sao lúc đó không đạt được hết thảy viên mãn", trong đây có ý nói lìa mọi trói buộc chướng, tương tợ mạng kia khi hết thì tất cả chủng trí giống như thể kia viên mãn. Lại nữa, trong đây ba thứ luyện tâm, là thiện căn của các Bồ-tát không thiếu lực thiện căn nắm giữ. Do lực nầy có thể có ba thứ rèn luyện tâm, khiến tâm không thối lui.
Thứ nhất sẽ hiển thị luyện tâm đệ nhất là vô lượng thế giới vô lượng hữu tình trong cõi người, từng sát-na có thể chứng chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng, "tại sao là hiện tại một mình không thể chứng"?
Thứ hai sẽ hiển thị luyện tâm đệ nhị là các Bồ-tát khởi tư duy như vầy: "Ý lạc nầy của ta đã lìa các chướng ngại, Ba-la-mật-đa do xan… chướng ngại đều không có, không do công dụng Ba-la-mật-đa sẽ được viên mãn, do viên mãn nầy nên chứng Bồ-đề của Phật".
Thứ ba sẽ hiển thị luyện tâm đệ tam. Thiện có chướng, là do thiện thế gian mà thành thiện có chướng đó. "Thiện có chướng này, khi mạng chung thì tất cả tự thể viên mãn khả ái sinh, huống chi ta nay do thiện không chướng mà thành cái thiện này, không đáng thành Bồ-đề Vô thượng của Phật là không có chuyện đó".
Luận nói: Trong đây có tụng:
Cõi người các hữu tình,
Xứ số đều vô lượng,
Niệm niệm chứng đẳng giác,
Nên không thối khuất.
Các tâm tịnh ý lạc,
Có thể tu hạnh thí…
Thắng giả nầy đã đắc,
Cho nên giỏi tu thí…
Thiện giả vào lúc chết,
Đắc tùy lạc tự mãn,
Thắng thiện do vĩnh đoạn,
Làm sao không viên mãn?
Giải thích: Lại lấy kệ để hiển bày các nghĩa như vậy. Không thối khuất, là do nhân duyên trên thúc đẩy tâm nương giữ đó khiến không khiếp nhược. Với tâm khiếp nhược: "Ta không thể chứng Bồ-đề Vô thượng". Các tâm tịnh, nghĩa là không phải các tâm bất thiện và vô ký. Hoặc có người đem tâm tán loạn và vô ký của họ để hành bố thí…, như vậy ngoại đạo đem tâm bất thiện mà hành thí… Nếu cầu chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng, thì đó là tối thắng thiện nên gọi là tâm tịnh. "Thắng giả nầy đã đắc, nên giỏi tu thí…", Bồ-đề tối thắng gọi là thắng giả, đây là ý lạc mà Bồ-tát đã đắc nên có thể tu thí… các Ba-lamật, tức là nghĩa đã đắc chỗ đối trị tâm có thể đoạn trừ xan… chữ đẳng (vân vân…) Lấy bắt đầu từ giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa. "Thiện giả vào lúc chết, đắc tùy lạc tự mãn", là cho đến đắc nghĩa của Phi tưởng phi phi tưởng xứ. "Thắng thiện do vĩnh đoạn, làm sao không viên mãn"? Là do vĩnh đoạn chướng mà thành quả Phật viên mãn thắng thiện, làm sao không có nghĩa cho được? Luận nói: "Do lìa tác ý của Thanh-văn Độc-giác, vì đoạn tác ý, do lìa nghi đối với các nghi của Đại thừa, vì có thể vĩnh viễn đoạn dị huệ nghi, do lìa ngã ngã sở chấp trong pháp nơi chỗ tư văn, vì đoạn pháp chấp, do không chỗ tác ý không chỗ phân biệt trong hiện tiền hiện trụ an lập hết thảy tướng, vì đoạn phân biệt. Trong đây có tụng:
Hiện tiền tự nhiên trụ,
An lập hết thảy tướng,
Trí giả không phân biệt,
Đắc Bồ-đề tối thượng".
Giải thích: Bây giờ hiển thị đoạn trừ bốn xứ. "Vì đoạn tác ý", là đoạn tác ý của Thanh-văn Độc-giác. "Vì có thể vĩnh viễn đoạn nghi dị huệ", là đối với chỗ thậm thâm quảng đại của Đại thừa có thể vĩnh viễn đoạn trừ dị huệ và nghi. Dị huệ trong đây, là huệ ác lậu đối với lý bị dao động, nghi là còn do dự. "Do lìa nghi đối với các nghi của Đại thừa", là đối với Đại thừa an lập ba tự tánh nơi giáo của pháp tướng, là nếu nói các pháp đều không có tự tánh, không có sinh, không có diệt, bản lai tịch tĩnh tự tánh Niết-bàn, các pháp như vậy vĩnh viễn không có dị môn. Nương vào tự tánh Biến kế sở chấp mà nói, nếu cho các pháp như huyễn, như sóng nắng, tướng mộng, quang ảnh, ảnh tượng, tiếng vang nơi hang sâu, trăng dưới nước biến hóa, các pháp như vậy là dị môn hư vọng. Nương vào tự tánh Y tha khởi mà nói, nếu cho rằng các pháp chân như thật tế pháp giới vô tướng thắng nghĩa không tánh, các pháp như vậy là chân thật dị môn. Nương vào tự tánh Viên thành thật mà nói, đối với tất cả dị huệ và nghi nầy vĩnh viễn không chuyển trở lại. "Do lìa ngã, ngã sở chấp trong pháp nơi chỗ tư, văn", trong đây có ý nói đoạn trừ pháp chấp. "Vì đoạn pháp chấp", cho đến ngã, ngã sở chấp trong pháp nơi chỗ tư, văn, rốt cùng không đối với các pháp đó ngộ nhập như thật. "Do không chỗ tác ý không chỗ phân biệt trong hiện tiền hiện trụ an lập hết thảy tướng", là khi trí gia hạnh vô phân biệt chuyển thì tác ý như lý trụ tất cả tâm định, các tướng tác ý phân biệt đều đoạn. "Vì đoạn phân biệt", là hiện trụ các sắc hiện tiền và chỗ an lập định của cốt toả, tất cả đối tượng duyên các tướng của cảnh giới đều là không chỗ phân biệt của không tác ý, do phương tiện không phân biệt mới có thể nhập, nếu phân biệt khác thì cuối cùng không thể nhập. Bài tụng "hiện tiền tự nhiên trụ, an lập hết thảy tướng…", chỉ hiển nghĩa chỗ trừ đoạn sau đó.
Luận nói: "Do đâu và làm thế nào được ngộ nhập"? Giải thích: Để hiển do bốn thứ nầy mà ngộ nhập như vậy, nên đặt câu hỏi ấy.
Luận nói: "Do huân tập điều nghe biết nơi chủng loại, thuộc về tác ý như lý, tợ pháp tợ nghĩa, ý ngôn hữu kiến".
Giải thích: Do bốn thứ nầy ngộ nhập, bây giờ hiển thị. Trong đây do huân tập văn theo chủng loại, là do huân tập văn làm nhân, tức là điều nói ở trước ngộ nhập nhận giữ chỗ sinh huân tập Đại thừa, phải biết là chỗ gồm thâu của tự tánh Viên thành thật.
Luận nói: "Do bốn tầm tư, là do danh, nghĩa, tự tánh và sai biệt. Giả lập tầm tư và do bốn thứ trí như thật biến, là do danh, sự, tự tánh và sai biệt. Giả lập trí như thật biến, như vậy đều đồng với không thể thủ đắc, lấy như thật như vậy của các Bồ-tát để nhập duy thức, siêng tu gia hạnh, tức là đối với tợ văn tợ nghĩa nơi ý ngôn, tìm cầu văn và danh chỉ là ý ngôn, tìm cầu y theo nghĩa của văn, danh nầy cũng chỉ có ý ngôn, tìm cầu danh, nghĩa, tự tánh và sai biệt chỉ là giả lập, hoặc khi chứng đắc thì chỉ có ý ngôn, lúc đó chứng biết hoặc danh hoặc nghĩa với tự tánh sai biệt đều là giả lập, tự tánh sai biệt nơi nghĩa tướng không có nên đồng với không thể nắm bắt được. Do bốn tầm tư và bốn thứ biến trí như thật, đối với ý ngôn tợ văn, tợ nghĩa này, có khả năng ngộ nhập tánh duy hữu thức".
Giải thích: Như vậy ngộ nhập, bây giờ hiển thị. "Do bốn tầm tư", là do văn hiển nói của các danh, nghĩa, tự tánh… "và do bốn thứ biến trí như thật", là do văn hiển nói của các danh, sự, tự tánh và sai biệt giả lập. Biết khắp như thật hoặc danh hoặc sự, tự tánh sai biệt đều là giả lập, trong đó nghĩa thật đều là không thể nắm bắt được, nên nói như vậy đều đồng với không thể thủ đắc.
Lại nữa, trước hết tìm cầu hoặc danh hoặc nghĩa tự tánh sai biệt chỉ là giả lập, sau đó như thật biết chân thật như vậy đều không thể nắm bắt được. Trong khi tìm cầu thì gọi là tầm tư, hoặc khi như thật biết không thể nắm bắt được thì gọi là bốn thứ biến trí như thật.
Luận nói: "Trong đây, ngộ nhập tánh duy thức, ngộ nhập cái gì và ngộ nhập như thế nào? Nhập tánh duy thức, là tướng và kiến hai tánh và các thứ tánh, hoặc danh hoặc nghĩa tự tánh sai biệt, giả tự tánh sai biệt nghĩa, như vậy sáu thứ nghĩa đều không có, vì tánh của đối tượng giữ lấy và chủ thể giữ lấy hiện tiền, đồng thời hiện tợ vô số tướng nghĩa mà sinh khởi, như sợi dây trong tối hiện ra như con rắn, ví như trên sợi dây thì con rắn không phải chân thật, vì không có. Hoặc đã biết rõ nghĩa kia không có, thì cái biết về rắn diệt mất, cái biết về sợi dây thì còn. Hoặc lấy phẩm loại mà phân tích vi tế, thì con rắn nầy cũng là sắc hương vị xúc hư vọng làm tướng của nó, cái biết về rắn nầy làm chỗ nương cho cái biết về sợi dây phải diệt mất. Như vậy sáu tướng ý ngôn của tợ văn tợ nghĩa kia khi phục trừ sáu tướng nghĩa không phải thật thì tánh duy thức giác cũng như cái biết về rắn, cũng đang dứt trừ, vì do tánh giác Viên thành thật".
Giải thích: Hiện tại trong đây hỏi chỗ ngộ nhập và thí dụ ngộ nhập. "Tánh duy thức", là chỉ có tánh thức. "Hai tánh tướng và kiến", là hiển thị thức của hữu tướng và hữu kiến, hiển hiện tợ nhân và tợ chỗ kiến lập nên gọi là tướng. "Vô số tánh", chỉ là một thức hiển hiện, tương tợ có vô số tướng sinh, không phải nhanh chóng nên riêng từng loại mà hiện. Trong ngộ nhập tánh duy thức này, như vậy có ba thứ làm chỗ ngộ nhập. "Đồng thời hiện nghĩa tợ vô số tướng mà sinh khởi", là tợ vô số tướng của danh cú văn mà sinh khởi, và tợ vô số dựa nơi nghĩa nầy mà sinh khởi. Thí dụ sợi dây trong đây, là hiển thị ngộ nhập ba thứ tự tánh. "Khi dứt trừ sáu tướng nghĩa không phải thật", là khi xua tan đi sáu tướng nghĩa thì sự xua trừ trong đây gọi là dứt trừ.
Luận nói: "Như vậy Bồ-tát ngộ nhập tướng tợ nghĩa của ý ngôn nên ngộ nhập tánh Biến kế sở chấp, ngộ nhập duy thức nên ngộ nhập tánh Y tha khởi. Thế nào là ngộ nhập tánh Viên thành thật? Nếu đã trừ diệt ý ngôn huân tập văn pháp chủng loại tưởng của duy thức, thì lúc đó Bồ-tát đã xua trừ nghĩa tưởng, tất cả tợ nghĩa không dung chứa được sinh, nên tợ duy thức cũng không được sinh, do nhân duyên đó trụ nơi danh vô phân biệt của tất cả nghĩa, trong pháp giới liền được hiện kiến tương ưng mà trụ, lúc đó đối tượng duyên nơi chủ thể là trí Vô phân biệt bình đẳng, bình đẳng của Bồ-tát đã được sinh khởi, do đây Bồ-tát đã được ngộ nhập tánh Viên thành thật".
Giải thích: "Ngộ nhập tướng tợ nghĩa của ý ngôn nên ngộ nhập tánh Biến kế sở chấp", là biết các nghĩa chỉ là sự tạo tác của biến kế phân biệt. Do đó nên nói ngộ nhập tự tánh Biến kế sở chấp. "Ngộ nhập duy thức nên ngộ nhập tánh Y tha khởi", là nêu ra duy thức của nó tức là nắm lấy ý ngôn, biết rõ tất cả chỉ có tánh ý ngôn, do đấy ngộ nhập tánh Y tha khởi. "Tất cả tợ nghĩa không dung chứa được sinh", là không có nghĩa thật, phẩm loại như vậy tương tợ nghĩa đó mà sinh. "Nên tợ duy thức cũng không được sinh", là duy thức tướng cũng không được khởi. Tại sao vậy? Vì cho khi có thức tức là có nghĩa, từ đó về sau hiện chứng chân như, hiện chứng vị nầy không thể nói, vì tự chứng bên trong. "Lúc đó đối tượng duyên nơi chủ thể là trí Vô phân biệt bình đẳng bình đẳng của Bồ-tát đã được sinh khởi", đối tượng duyên là chân như, chủ thể duyên là chân trí, hai bình đẳng nầy là thí dụ như hư không, tức là bất trụ. Hai thứ tánh nghĩa của đối tượng giữ lấy chủ thể giữ lấy, do không phân biệt đối tượng giữ lấy chủ thể giữ lấy nên gọi là trí Vô phân biệt. Như vậy mà ngộ nhập trí Viên thành thật.
Luận nói: Trong đây có tụng:
Pháp Bổ-đặc-già-la,
Pháp nghĩa tánh lược rộng,
Bất tịnh, tịnh, cứu cánh,
Gọi sở hành sai biệt.
Giải thích: Như đã nói ở trước, trụ nơi danh vô phân biệt của tất cả nghĩa, những gì làm danh và có bao nhiêu phẩm loại nghĩa? Để đáp câu hỏi này, lấy tụng hiển thị danh loại sai biệt. Trong đây "pháp danh", là sắc, thọ, nhãn, nhĩ… "Bổ-đặc-già-la danh", là Phật và tùy tín hạnh. Lại nữa, "pháp danh", là khế kinh. "Nghĩa danh", là nương vào nghĩa của pháp này. "Lược danh", là hữu tình. "Quảng danh", mỗi mỗi đều riêng biệt chủ thể nêu giảng. "Tánh danh (họ tên)", là các tự mẫu căn bản. "Bất tịnh danh", là các dị sinh. "Tịnh danh", là hữu học. "Cứu cánh danh", là tổng tướng đối tượng duyên của tất cả pháp, là đối tượng duyên danh loại lược của các Bồ-tát có mười thứ: 1. Pháp danh, là nhãn… 2. Bổ-đặc-già-la danh, là ngã. 3. Pháp danh, là mười hai phần giáo. 4. Nghĩa danh, là đối tượng nêu giảng các nghĩa của mười hai phần giáo. 5. Lược danh, là tất cả pháp vi và vô vi. 6. Quảng danh, là sắc, thọ… và hư không. 7. Tánh danh, là chữ a làm đầu tiên, chữ ha làm sau. 8. Bất tịnh danh, là các dị sinh. 9. Tịnh danh, là các kiến đế. 10. Cứu cánh danh, là tổng tướng nơi đối tượng duyên của tất cả pháp, tức là đối tượng duyên nơi cảnh giới của hai trí, là trí xuất thế và trí hậu đắc, vì tất cả pháp chân như, thật tế làm đối tượng duyên, vì tất cả pháp vô số tướng sai biệt làm đối tượng duyên, như mười địa… trong đây ý nắm lấy đối với tổng tướng của tất cả nghĩa, cảnh giới nơi đối tượng duyên của duyên trí. Phẩm loại như vậy là tên chỗ hành hóa riêng khác của các Bồ-tát.
Luận nói: "Như vậy Bồ-tát ngộ nhập tánh duy thức do đó ngộ nhập tướng của đối tượng nhận thức. Ngộ nhập tánh duy thức nầy nên nhập địa cực hỷ, khéo thông đạt pháp giới, sinh vào nhà Như Lai, đắc tâm tánh bình đẳng của tất cả hữu tình, đắc tâm tánh bình đẳng của tất cả Bồ-tát, đắc tâm tánh bình đẳng của chư Phật. Đây gọi là Bồ-tát kiến đạo".
Giải thích: "Sinh vào nhà Như Lai", do đây có thể khiến cho chủng tánh của chư Phật không bị đoạn tuyệt. "Đắc tâm tánh bình đẳng của tất cả hữu tình", là do khởi nghĩ như vầy: "Như tự thân ta muốn bát Niết-bàn, tất cả hữu tình cũng như vậy". "Đắc tâm tánh bình đẳng của tất cả Bồ-tát", là đắc ý lạc của Bồ-tát. "Đắc tâm tánh bình đẳng của chư Phật", là do trong quả vị nầy mà đắc Pháp thân Phật. Vì chứng đắc Pháp thân nầy nên đắc tâm tánh bình đẳng của tất cả chư Phật. Lại nữa, đắc tâm tánh bình đẳng của tất cả hữu tình, là chứng tánh tự tha bình đẳng, như đối với tự thân muốn dứt hết các khổ, đối với tha thân cũng như thế. Đắc tâm tánh bình đẳng của tất cả Bồ-tát, là cùng với ý lạc gia hạnh của tất cả Bồ-tát đều bình đẳng. Đắc tâm tánh bình đẳng của tất cả chư Phật, là thấy pháp giới kia cùng với pháp giới của tự mình không có sai biệt.
Luận nói: "Lại nữa, vì nghĩa gì mà nhập tánh duy thức? Vì do duyên chung nơi pháp xuất thế trí chỉ quán, vì do trí hậu đắc vô số tướng thức này, vì đoạn tướng và các tướng nơi chủng tử của thức A-lại-da, vì nuôi lớn chủng tử của chủ Pháp thân thể xúc, vì chuyển chỗ dựa, vì muốn chứng đắc tất cả Phật pháp, vì muốn chứng đắc trí của nhất thiết trí, nên nhập tánh duy thức. Lại nữa, trí hậu đắc trong tất cả tướng phân biệt, trong tất cả chỗ sinh của thức A-lại-da, thấy như huyễn… không có chuyển đảo, nên Bồ-tát ví như huyễn sư trong huyễn sự đối với các tướng, và nói nhân quả thường không điên đảo".
Giải thích: "Vì do duyên chung nơi pháp xuất thế trí chỉ quán", là do chỗ hiển trí của chỉ quán. "Vì đoạn tướng và các tướng chủng tử của thức A-lại-da", cùng tướng trong đây có nghĩa là cùng nhân. Trong thức A-lại-da, chủng tử của các pháp tạp nhiễm gọi là nơi chư tướng chủng tử của thức A-lại-da. Lại nêu ra "tướng", là vì muốn hiển thị chủng tử kia là đối tượng duyên tướng. Như vậy đã nói hiển nhân quả cùng đoạn của chủng tử.
Nếu trí Vô phân biệt đoạn tất cả chướng, mà chứng đắc Phật pháp, thì trí hậu đắc nầy lại có chỗ dụng nào? Trí Vô phân biệt không thể nói các pháp nhân quả, vì không có phân biệt, do nhân duyên đó nên cần phải trí hậu đắc nói chỗ có các pháp nhân quả thường không điên đảo, ví như huyễn sư đối với huyễn sự. "Trong tất cả chỗ sinh của thức A-lại-da", là thức A-lại-da làm nhân. "Trong tất cả phân biệt tướng", là thức làm nhân trong kiến phần và tướng phần. Do trí hậu đắc thấy như huyễn, và khi nói thì không có điên đảo.
Luận nói: "Tại đây khi ngộ nhập tánh duy thức thì có bốn thứ Tam-ma-địa, là bốn thứ chỗ dựa của phần thuận quyết trạch. Tại sao phải biết? Phải biết do bốn tầm tư, trong hạ phẩm không có nghĩa nhẫn, có thuyết minh đắc Tam-ma-địa, là noãn chỗ dựa của phần thuận quyết trạch. Trong thượng phẩm không có nghĩa nhẫn, có thuyết minh tăng Tam-ma-địa, là y chỉ đảnh của phần thuận quyết trạch. Lại nữa, do bốn thứ biến trí như thật đã nhập duy thức, trong không nghĩa đã đắc quyết định, có nhập chân nghĩa một phần Tam-ma-địa, là chỗ dựa của đế thuận nhẫn. Từ vô gián nầy hàng phục tưởng duy thức, có Tam-ma-địa vô gián, là chỗ dựa của pháp thế đệ nhất. Phải biết như vậy, các Tam-ma-địa, là hiện quán biên".
Giải thích: Đối với tất cả xứ khi nhập chân quán, thì đều có bốn thứ phần thuận quyết trạch, nên trong đây cũng phải hiển thị. "Là chỗ dựa của phần thuận quyết trạch", là chỗ dựa nơi nghĩa của quyết trạch phần nhân. "Trong hạ phẩm không có nghĩa nhẫn, có thuyết minh đắc Tam-ma-địa", là trong không nghĩa khởi ái lạc hạ phẩm, có thuyết minh tên của nó, để hiển tên của hạ phẩm Tam-ma-địa, không có nghĩa trí là làm rõ cái nơi mà định không có nghĩa trí nầy nương tựa. "Trong thượng phẩm không có nghĩa nhẫn", là trong khởi không nghĩa ái lạc thượng phẩm. "Có thuyết minh tăng Tamma-địa", là thuyết minh tên, để hiển tên của thượng phẩm không có nghĩa trí Tam-ma-địa, là làm rõ cái nơi mà định không có nghĩa trí nầy nương tựa. "Chỗ dựa của đế thuận nhẫn", là lý của pháp vô ngã gọi là đế, nhẫn nầy thuận với đế kia gọi là đế thuận nhẫn. Nhân nầy thành như thế nào? Là thành ở bên ngoài. "Trong không nghĩa đã đắc quyết định", là đối với không chủ thể giữ lấy cũng ưa thích rất thâm sâu, phải biết là khi lợi thuận nhẫn chuyển. "Là hiện quán biên", là khi hiện đang quán nghĩa.
Luận nói: "Như vậy Bồ-tát đã nhập địa, đã đắc Kiến đạo, đã nhập duy thức, trong tu đạo tu hành như thế nào? Trong điều nói an lập mười địa, gồm thâu tất cả kinh đều hiện tiền, do duyên chung nơi pháp xuất thế, trí hậu đắc chỉ quán, trải qua vô lượng trăm ngàn Câu-chi Na-du-đa kiếp, vì luôn luôn tu tập mà đắc chuyển y, vì muốn chứng đắc ba loại thân Phật mà tinh tấn tu hành".
Giải thích: "Trong đã nói an lập mười địa", là tùy trong nói giảng an lập mười địa của Bồ-tát. "Do duyên nơi tổng pháp", là duyên nơi tổng tướng không phải duyên phân riêng. "Xuất thế", là trí Vô phân biệt. "Hậu đắc", tức là trí có thể thành lập, trí nầy không nên nói chỉ là thế gian, vì đối với thế gian chưa tích tập; cũng không nên nói chỉ có xuất thế gian, vì do tùy theo thế gian mà hiện tiền, do nhân duyên đó không thể nói quyết định. "mà đắc chuyển y", là do duyên nơi tổng trí nên đắc chuyển y. "Vì muốn chứng đắc ba loại thân Phật mà tinh tấn tu hành", là nói: "Ta sẽ chứng đắc ba loại thân Phật nên siêng năng tu hành".
Luận nói: Hiện quán của Thanh-văn và hiện quán của Bồ-tát có gì khác nhau? Hiện quán của Bồ-tát và Thanh-văn có khác nhau, phải biết do mười một thứ khác nhau: 1. Do đối tượng duyên sai biệt, vì lấy pháp Đại thừa làm duyên. 2. Do nuôi dưỡng sai biệt, lấy hai thứ tư lương đại phước trí làm sự nuôi dưỡng. 3. Do thông đạt sai biệt, lấy chủ thể thông đạt pháp Bổ-đặc-già-la vô ngã. 4. Do Niết-bàn sai biệt, vì thâu nhận đại Niết-bàn vô trụ. 5. Do địa sai biệt, vì nương vào mười địa mà xuất ly. 6. và 7. Do thanh tịnh sai biệt, vì đoạn phiền não tu tập làm tịnh cõi Phật. 8. Do đối với tự tha đắc tâm bình đẳng sai biệt, vì thành thục hữu tình, gia hạnh không ngơi nghỉ. 9. Do sinh sai biệt, vì sinh vào nhà Như Lai. 10. Do thọ sinh sai biệt, vì thường thâu nhận sinh trong hội đại tập của chư Phật. 11. Do quả sai biệt, vì mười lực, vô uý, Phật pháp bất cộng và vô lượng quả công đức thành mãn".
Giải thích: "Do Niết-bàn sai biệt", là vì hiện quán của Bồ-tát thâu nhận trụ nơi đại bát Niết-bàn, Thanh-văn thì không như thế. "Do thanh tịnh sai biệt", là vì hiện quán của Bồ-tát vĩnh viễn đoạn phiền não và các tập khí, có thể làm tịnh cõi Phật, Thanh-văn thì không như thế.
Luận nói: Trong đây có hai bài tụng:
Danh sự lẫn làm khách,
Tánh đó xứng tầm tư,
Với hai cũng nên xét,
Chỉ là lượng và giả.
Trí thật quán nghĩa không,
Chỉ có phân biệt ba,
Kia không nên đây không,
Tức là nhập ba tánh".
Giải thích: Sắp nhập quán chân như nên nói hai bài tụng. "Danh sự lẫn làm khách, tánh đó xứng tầm tư", là danh đối với sự làm khách, sự đối với danh làm khách, vì không phải xứng với thể kia. Do định mà quán nên gọi là tầm tư. "Với hai cũng nên suy, chỉ lượng và chỉ giả", là phải nên suy tầm tự tánh sai biệt của nghĩa đều không có, chỉ có thức lượng, chỉ có tự tánh sai biệt giả lập. "Thật trí", phải biết tức là trí như thật, là do bốn thứ tầm tư làm nhân phát sinh bốn thứ biến trí như thật. "Quán vô nghĩa, chỉ có phân biệt về ba", là quán nghĩa vốn vô sở hữu, chỉ có ba thứ phân biệt hư vọng: 1. Danh phân biệt. 2. Tự tánh phân biệt.
3. Sai biệt phân biệt. "Kia không nên đây không", là nghĩa không có nên phân biệt cũng không có. Tại sao vậy? Nếu có nghĩa về chỗ phân biệt, thì có thể có chủ thể duyên phân biệt. Do nghĩa không có, phải biết phân biệt cũng không có. "Tức là nhập ba tánh", là ngộ nhập ba tánh trong đây. Vì quán thấy danh sự làm khách lẫn nhau, tức là ngộ nhập tánh Biến kế sở chấp, vì quán thấy hai thứ danh sự vốn không có nghĩa, chỉ có phân biệt lượng, chỉ có danh tự tánh sai biệt giả lập, tức là ngộ nhập tánh Y tha khởi, vì cũng không quán thấy phân biệt này, tức là ngộ nhập tánh Viên thành thật. Như vậy gọi là ngộ nhập ba tánh.
Luận nói: "Trong đây có truyền dạy hai bài tụng, như luận du-già nói:
Bồ-tát trong vị định,
Quán ảnh chỉ là tâm,
Nghĩa tưởng đã diệt trừ,
Quán thấy duy tự tưởng.
Như vậy trụ nội tâm,
Biết sở thủ không có,
Kế năng thủ cũng không,
Sau xúc vô sở đắc.
Giải thích: Vì nhập chân quán lấy chánh giáo truyền dạy, trong nghĩa nầy nói hai bài tụng đó. "Bồ-tát trong vị định, quán ảnh chỉ là tâm", là quán ảnh tượng của tợ pháp, tợ nghĩa chỉ là tâm. Ai có thể quán? Là Bồ-tát. Tại vị nào trong vị định? Là "nghĩa tưởng đã diệt trừ, quán thấy chỉ nơi tự tưởng", là nghĩa tưởng trong vị nầy đã xua trừ, quán sát tưởng của tợ pháp, tợ nghĩa chỉ là tâm của tự mình. "Như vậy trụ nội tâm", là như thâu giữ tự tâm trụ tại nghĩa vô, tức là khiến cho tâm trụ tại nội tâm. "Biết sở thủ không có", là biết rõ nghĩa của chỗ giữ lấy là vô không có. "Kế năng thủ cũng không", là do nghĩa của chỗ giữ lấy đã là phi hữu, nên tánh chủ thể thủ của chủ thể giữ lấy nơi tâm cũng không được thành. "Sau xúc không chỗ đắc", là từ đây về sau xúc chứng chân như, do chân như nầy không chỗ đắc nên gọi là vô sở đắc.
Luận nói: "Lại có năm bài tụng hiện quán khác, như luận trang nghiêm của kinh Đại thừa nói:
Phước đức trí huệ hai tư lương,
Bồ-tát khéo đủ không biên vực,
Nơi pháp tư lương đã khéo quyết,
Nên rõ nghĩa lí chỉ ngôn loại.
Nếu biết các nghĩa chỉ là ngôn,
Là trụ tợ lý duy tâm kia,
Liền được hiện chứng chân pháp giới,
Nên hai tướng đều dứt trừ.
Thể biết lìa tâm không vật riêng,
Do đấy liền hiểu tâm phi hữu,
Trí giả thấu tỏ cả hai không,
Đồng trụ chân pháp giới không hai
Huệ là trí lực không phân biệt,
Biến khắp bình đẳng thường thuận hành,
Diệt dựa tụ tội lỗi vướng mắc
Như thuốc quý lớn tiêu các độc.
Phật thuyết pháp diệu khéo thành lập,
An lập huệ trong căn pháp giới,
Biết rõ niệm nghĩa chỉ phân biệt,
Dũng mãnh nhanh về bờ biển đức.
Giải thích: Lại có bài tụng hiện quán như kinh trang nghiêm Luận nói, trong đó khó hiểu hơn bài tụng nầy chỉ ra. "Phước đức trí huệ hai tư lương, Bồ-tát khéo đủ không biên vực", tư lương có hai thứ: 1. Tư lương phước đức. 2. Tư lương trí huệ. Là thí, giới, nhẫn Ba-la-mật-đa, ba thứ tư lương phước đức. Bát-nhã Ba-la-mật-đa thứ sáu là tư lương trí huệ. Tinh tấn Ba-la-mật-đa thì hai thứ tư lương ấy gồm thâu. Tại sao vậy? Nếu làm trí huệ mà hành tinh tấn là tư lương trí huệ, nếu làm phước đức mà hành tinh tấn là tư lương phước đức. Như vậy tĩnh lự Ba-la-mật-đa cũng chung với hai thứ. Nếu duyên nơi vô lượng mà tu tĩnh lự là tư lương phước đức, ngoài ra là tư lương trí huệ. Như vậy tư lương là sở hữu của ai? Là các Bồ-tát đã lâu xa khó lường biết, nên gọi là không biên vực, như vô biên ngữ không phải là không có biên, nhưng vì số nhiều nên xứng với vô biên. Vô biên nầy cũng vậy. "Nơi pháp tư lương đã khéo quyết", là phải do định, sau đó tư duy các pháp mới khéo quyết định, không phải chỗ nào khác có thể làm được. "Nên rõ nghĩa lí chỉ ngôn loại", là biết rõ các nghĩa chỉ có ý ngôn làm nhân. "Nếu biết các nghĩa chỉ là ngôn, là trụ lý tợ duy tâm kia", là nếu biết rõ tợ nghĩa hiển hiện chỉ là ý ngôn, thì liền trụ tợ nghĩa chánh lý duy tâm. "Liền được hiện chứng chân pháp giới, nên hai tướng đều dứt trừ", là từ đây về sau hiện chứng chân như, vĩnh viễn đoạn hai tướng đối tượng giữ lấy và chủ thể giữ lấy. Như nhập hiện chứng thì tiếp theo sẽ hiển thị. "Thể biết lìa tâm không riêng vật, do đây liền hiểu tâm phi hữu", là thể tri lìa tâm thì không có nghĩa đối tượng duyên, đối tượng duyên đó không có thì liền hiểu chủ thể duyên là tâm cũng không có. "Trí giả thấu đạt cả hai không", là các Bồ-tát hiểu rõ hai thứ chủ thể, đối tượng nầy đều là không. "Đồng trụ chân pháp giới hai không", là bình đẳng trụ pháp giới chân thật lìa nghĩa lìa tâm. "Huệ là trí lực vô phân biệt", là hết thảy thế lực của trí Vô phân biệt của các Bồ-tát. "Biến khắp bình đẳng thường thuận hành", là trong bình đẳng tùy thuận mà hành, quán tất cả các pháp của khế kinh cũng như tánh bình đẳng của hư không, các pháp nội ngoại đều quán như vậy nên gọi là biến khắp. "Thường" là hằng thời. "Diệt dựa tụ tội lỗi vướng mắc, như thuốc quý lớn tiêu các độc", diệt là trừ diệt, y là chỗ dựa, tức là tạp nhiễm trong chỗ dựa rất khó trừ hết, tụ tập vướng mắc: Là như rừng rậm hang sâu khó vào, tụ tội lỗi là pháp tạp nhiễm huân tập tự tánh. "Phật nói pháp diệu khéo thành lập, an lập huệ trong căn pháp giới", là do Phật dạy khéo an lập huệ đó trong chân như và chủ thể duyên trong tâm căn bản kia. Tâm căn bản, là duyên chỗ có chánh giáo của Như Lai chung làm một tướng, phải biết tức là tâm vô phân biệt. "Biết rõ niệm nghĩa sâu chỉ phân biệt", là biết rõ niệm nghĩa sâu kia đã an trụ tâm căn bản để nói chánh giáo, do trí hậu đắc niệm các nghĩa lý, biết niệm nghĩa sâu nầy chỉ là phân biệt. "Dũng mãnh nhanh về bờ biển đức", là các Bồ-tát do trí Vô phân biệt và trí hậu đắc với phương tiện xảo, nhanh chóng tiến đến bờ biển công đức của quả Phật. Tổng lược nghĩa của năm bài tụng như vậy, tụng thứ nhất hiển đạo tư lương, hai câu đầu của bài tụng thứ hai hiển đạo gia hạnh, hai câu sau của bài tụng thứ hai và bài tụng thứ ba hiển kiến đạo, bài tụng thứ tư hiển tu đạo, bài tụng thứ năm hiển đạo cứu cánh.
Luận nói: "Như vậy đã nói nhập tướng của đối tượng nhận thức, nhập nhân quả kia làm sao thấy được? Là do thí, giới, nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự và Bát-nhã, sáu Ba-la-mật-đa. Thế nào là do sáu Ba-la-mật-đa mà được nhập duy thức? Thế nào là Ba-la-mật-đa thành nhập quả kia? Là Bồ-tát nầy không nhiễm tài vị, không phạm thila, đối với khổ không bị động, đối với tu không biếng trễ, trong các nhân tán động như vậy khi không hiện hành thì tâm chuyên một cảnh, liền có thể như lý quyết đoán đúng các pháp, được nhập duy thức, Bồ-tát nương vào sáu Ba-la-mật-đa nhập duy thức rồi, chứng đắc chỗ thuộc về Ba-la-mật-đa của 6 thứ ý lạc thanh tịnh tăng thượng, nên đối với ý lạc này, nếu lìa sáu thứ Ba-la-mậtđa, hiện khởi gia hạnh, do nơi Thánh giáo mà đắc thắng giải, và do ái trọng tùy hỷ và tác ý vui thích, thường vô gián tương ưng với phương tiện, tu tập sáu Ba-la-mậtđa, mau chóng được viên mãn".
Giải thích: Nếu lúc đó được nhập duy thức, thì ngay lúc ấy được chứng Ba-la-mật-đa thanh tịnh ý lạc tăng thượng. "Hiện khởi gia hạnh", tức là Ba-la-mật-đa hiện hành gia hạnh. "Do Thánh giáo mà đắc thắng giải", tức là Ba-la-mật-đa nầy tương ưng với Thánh giáo, tuy cực thậm thâm nhưng có thể tin hiểu. "Ái trọng tùy hỷ", tức là đối với việc thấy rõ công đức kia sinh ưa thích sâu xa. "Tác ý vui thích", là giống như đã đến bờ giác tối thắng, là chỗ đắc ý lạc thanh tịnh của chư Phật: "Nguyện ta cùng tất cả hữu tình cũng sẽ chứng đắc".
Luận nói: "Trong đây có ba bài tụng:
Đã viên mãn pháp trắng,
Và đạt nhẫn lợi tật,
Bồ-tát nơi tự thừa,
Rộng lớn thậm thâm giáo.
Đẳng giác chỉ phân biệt
Đắc trí không phân biệt,
Mong cầu, thắng giải tịnh,
Nên ý lạc thanh tịnh.
Trước cùng pháp lưu nầy,
Đều được thấy chư Phật,
Biết rõ gần Bồ-đề,
Vì thấy không khó đắc".
Do ba bài tụng nầy hiển bày chung về ý lạc thanh tịnh tăng thượng có bảy thứ tướng: 1. Tư lương. 2. Gắng nhận. 3. Đối tượng duyên. 4. Tác ý. 5. Tự thể. 6. Tướng điềm lành. 7. Thắng lợi. Như thứ tự đó, phải biết là các câu kệ đã chỉ rõ".
Giải thích: Như vậy, ý lạc thanh tịnh tăng thượng có những tướng gì có thể thâu tóm Ba-la-mật-đa? Để đáp câu hỏi nầy, kế đến nói ba bài tụng chỉ rõ tướng đó. "Đã viên mãn pháp trắng", là trước hết đối với hạnh thắng giải nơi địa kia, khéo đầy đủ tư lương. Trong đây "pháp trắng viên mãn, và đắc nhẫn lợi tật", nhẫn có ba phẩm là hạ trung thượng. Nhẫn tối thượng trong đây là nhẫn lợi tật, do đối tượng duyên đó mà đắc thanh tịnh. Tiếp theo là hiển thị "Bồ-tát nơi tự thừa, giáo quảng đại thậm thâm", là đối với Đại thừa mà gọi là tự thừa, vì trong Đại thừa nầy nói Vô thượng sự việc thậm thâm quảng đại. Tánh pháp vô ngã gọi là sự thậm thâm, các Tam-ma-địa của hư không tạng gọi là sự quảng đại. Do đắc tác ý mà được thanh tịnh. Sau đó là hiển thị "đẳng giác chỉ phân biệt, đắc trí Vô phân biệt", là biết tất cả các pháp chỉ có phân biệt, tức có khả năng đạt được trí Vô phân biệt, tự thể của ý lạc. Sau nữa, hiển thị "mong cầu, thắng giải tịnh, nên ý lạc thanh tịnh", là dục và thắng giải đồng thời thanh tịnh nên ý lạc thanh tịnh. Phải biết trong đây, dục là mong cầu, tín gọi là thắng giải, là tướng lành của ý lạc. Kế đó hiển thị "trước cùng pháp lưu nầy, đều được thấy chư Phật", trước quả vị ý lạc thanh tịnh gọi là "trước", trong quả vị ý lạc thanh tịnh thì gọi là "pháp lưu này", "đều được thấy chư Phật" là tướng lành của các quả vị đó, "pháp lưu" là thắng lợi của ý lạc. Tiếp sau hiển thị "biết rõ gần Bồ-đề, vì thấy không khó đắc", là trong định vị thấy Bồ-đề đã gần đắc, vì có thể đắc phương tiện thù thắng không khó lắm! Trong ba bài tụng nầy hiển thị ý lạc thanh tịnh tăng thượng, có tư lương như vậy, gắng nhận như vậy, đối tượng duyên như vậy, tác ý như vậy, tướng lành như vậy, thắng lợi như vậy, do ba bài tụng nầy mà thành lập chỗ có thể tướng của ý lạc thanh tịnh tăng thượng.
Luận nói: "Nhân duyên gì mà Ba-la-mật-đa chỉ có sáu số? Vì thành lập đối trị chướng là chỗ được đối trị, vì chứng xứ, chỗ dựa của tất cả pháp Phật, vì tùy thuận thành thục các hữu tình, vì muốn đối trị nhân không phát khởi, nên lập thí và giới Ba-la-mật-đa, nhân bất phát khởi là nhiễm tiền tài, địa vị và nhiễm gia thất. Vì muốn đối trị nhân đã phát khởi nhưng lại thối chuyển, nên thành lập nhẫn và tấn Ba-la-mật-đa. Nhân thối chuyển, là ở trong sinh tử, hữu tình vi phạm chỗ sinh các khổ, và chỗ sinh mệt mỏi biếng trễ của thời gian dài nơi phẩm thiện gia hạnh. Vì muốn đối trị nhân đã phát khởi không thối chuyển nhưng hư hoại, nên thành lập định và huệ Ba-la-mật-đa. Nhân hư hoại là các huệ tán động và tà ác. Vì thành lập đối trị chỗ cần đối trị là chướng như vậy, nên chỉ lập sáu số. Lại nữa, bốn Ba-la-mật-đa trước là nhân bất tán động, một Ba-la-mật-đa kế là thành tựu bất tán động, vì bất tán động nầy làm chỗ dựa, đẳng giác như thật chân nghĩa của các pháp, thì có thể chứng đắc tất cả Phật pháp. Chứng xứ chỗ dựa của pháp Phật như vậy nên chỉ lập sáu số. Do thí Ba-la-mật-đa nên có khả năng dẫn dắt các hữu tình. Do giới Ba-la-mật-đa nên đối với hữu tình có thể không huỷ hại. Do nhẫn Ba-la-mật-đa nên dù bị huỷ hại vẫn có thể chịu đựng. Do tinh tấn Ba-la-mậtđa nên có thể trợ giúp sửa trị việc nên làm của chúng sinh kia, tức là do gồm thâu nhân duyên lợi ích như vậy, khiến cho họ đối với sự thành thục có chỗ có thể gắng gánh vác được. Từ đây về sau, tâm chưa đắc định thì giúp cho đắc định, tâm đã đắc định thì giúp được giải thoát. Khi khai ngộ thì chúng sinh kia được thành thục, tùy thuận thành thục các hữu tình, phải biết chỉ lập sáu số như vậy".
Giải thích: Trong thành lập đối trị chỗ cần đối trị là chướng, "nhân hư hoại là tuệ tà ác" là điên đảo chấp thủ gọi là huệ tà ác, như các ngoại đạo do huệ tà ác mà hư hoại, các nghĩa còn lại có thể hiểu được. "Chứng xứ sở y của pháp Phật", là chứng nhân của tất cả pháp Phật, do đấy mà thành lập nhân duyên thứ hai, số của Ba-la-mậtđa chỉ có sáu không tăng không giảm. "Vì bất tán động nầy làm chỗ dựa, đẳng giác đúng như thật về chân nghĩa của các pháp" là dựa nơi tĩnh lự Ba-la-mật-đa, có thể phát khởi đẳng giác đúng như thật về chân nghĩa các pháp của Bát-nhã Ba-la-mật-đa, các nghĩa còn lại có thể hiểu. Trong nhân duyên thứ ba thành lập số, là "tùy thuận thành thục các hữu tình", là vì tùy thuận thành thục tất cả loại hữu tình, nên chỉ lập sáu số không tăng không giảm. "Tâm chưa đắc định thì giúp đắc định", là đắc tâm tĩnh lự Ba-la-mật-đa. "Tâm đã đắc định thì giúp được giải thoát", là đắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa. "Khi khai ngộ thì chúng sinh kia được thành thục", là khi truyền dạy thì khiến cho họ thành thục.
Luận nói: "Tướng của sáu thứ nầy làm sao thấy được? Vì do sáu thứ tối thắng: 1. Do chỗ dựa tối thắng, là tâm Bồ-đề làm chỗ dựa. 2. Do sự tối thắng, là hiện hành đầy đủ. 3. Do xứ tối thắng, là sự lợi ích của tất cả hữu tình làm dựa nơi. 4. Do phương tiện thiện xảo tối thắng, là chỗ thâu nhận của trí Vô phân biệt. 5. Do hồi hướng tối thắng, là hồi hướng chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng. 6. Do thanh tịnh tối thắng, là hai chướng phiền não và đối tượng nhận thức không thể làm chướng ngại sự tập khởi. Thí là Ba-la-mật-đa hay Ba-la-mật-đa là thí? Có thí không phải Ba-la-mật-đa, có Ba-la-mật-đa không phải thí. Phải nêu bốn trường hợp như vậy đối với thí đó, phải biết đối với các Ba-la-mật-đa còn lại cũng áp dụng bốn trường hợp như vậy".
Giải thích: Lấy những tướng gì? Thí… được gọi là Ba-la-mật-đa, là do các thế gian và Thanh-văn, Độc-giác cũng có thí, nên quyết định phải nói tướng của nó, là sáu thứ tối thắng làm tướng của thí… "chỗ dựa tối thắng", là tâm Bồ-đề làm chỗ mà nó dựa. "Sự tối thắng", là không có một sự đối với nội sự và ngoại sự mà hiện hành đầy đủ., chỉ có Bồ-tát mới có thể hiện hành đầy đủ. "Xứ tối thắng", là lấy lợi ích an lạc của tất cả hữu tình làm xứ. "Phương tiện thiện xảo tối thắng", đó chính là ba luân thanh tịnh, trong đây chỗ giữ lấy phương tiện thiện xảo là do không có ba thứ phân riêng vật thí, người thí và người thọ. Như vậy chỗ thuộc về trí Vô phân biệt, thì thí… được gọi là Ba-la-mật-đa. "Hồi hướng tối thắng", là thí… Hồi hướng cầu chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng. "Thanh tịnh tối thắng", là đến Phật quả thì thí… Mới thanh tịnh, lúc đó giải thoát hai thứ chướng ngại chỗ tập khởi của phiền não chướng và đối tượng nhận thức chướng. "Thí là Ba-la-mật-đa hay Ba-la-mật-đa là thí", là câu hỏi trong câu đáp. "Có thí không phải Ba-la-mậtđa", là lìa sáu thứ tối thắng mà hành thí. "Có Ba-la-mậtđa không phải thí", là chỗ gồm thâu của sáu thứ tối thắng. Giới… có cũng thí cũng Ba-la-mật-đa, là chỗ thuộc về của sáu thứ tối thắng; bố thí có thí không phải phi Ba-lamật-đa vì lìa sáu thứ tối thắng mà hành giới. Phải biết đối với tất cả Ba-la-mật mà làm bốn trường hợp như vậy. Luận nói: "Nhân duyên gì mà sáu thứ Ba-la-mật-đa nói thứ tự như vậy? Là vì Ba-la-mật-đa trước tùy thuận sinh Ba-la-mật-đa sau".
Giải thích: Nương vào sự sinh khởi trước sau của sáu thứ Ba-la-mật-đa mà nói thứ lớp như vậy.
Luận nói: "Lại nữa, danh ngôn giảng nêu của các Ba-la-mật-đa nầy làm sao thấy được? Là đối với thiện căn thí… của thế gian và Thanh-văn, Độc-giác hết sức thù thắng, có khả năng đến bờ kia, nên gọi chung là Ba-la-mật-đa. Vì có thể phá vỡ bần cùng keo kiệt và có thể dẫn đắc tài vị, tư lương phước đức nên gọi là thí. Lại cũng có thể diệt mất giới ác (luật), cõi ác và có thể lấy được cõi thiện và đẳng trì, nên gọi là giới. Lại cũng có thể diệt tận phẫn nộ, oán thù và có thể khéo trụ an ổn tự tha, nên gọi là nhẫn. Lại có thể xa lìa chỗ có biếng trễ xấu, pháp bất thiện, có thể sinh ra vô lượng pháp thiện, khiến pháp thiện tăng trưởng, nên gọi là tinh tấn. Lại cũng có thể trừ diệt chỗ có tán động và có thể dẫn đắc nội tâm an trụ, nên gọi là tĩnh lự. Lại cũng có thể dứt trừ các huệ tà ác của tất cả kiến, thú và có thể nhận biết riêng pháp của phẩm chân thật, nên gọi là tuệ".
Giải thích: Bây giờ sẽ hiển thị giảng nêu danh ngôn, trước hết giải thích tổng danh: Do tất cả Ba-la-mật có thể đến bờ kia nên gọi tên là Ba-la-mật-đa, vượt hơn bờ kia thí… của thế gian và Thanh-văn, Độc-giác, nên gọi chung là Ba-la-mật-đa. Tiếp theo là giải thích biệt danh. Vì khi làm nhân thì diệt trừ huệ thí bỏn xẻn, khi làm quả thì phá vỡ tất cả bần cùng, và khi làm quả thì có thể dẫn tài vị lớn, tư lương phước đức rộng, nên gọi là thí. Lại nữa, khi làm nhân thì dứt trừ các giới ác, khi làm quả thì có thể diệt tất cả cõi ác đối với vị lai có thể nắm được cõi thiện, đối với đời hiện tại thì có thể đắc đẳng trì, nên gọi là giới. Như vậy ngôn từ giảng nêu của tất cả Ba-lamật-đa như đáng phải nói. "Và có thể khéo trụ an ổn tự tha", là đối với tự thân không bị sai lầm phẫn nộ gây rắc rối, không làm cho người khác đau khổ, nên được an ổn. Luận nói: "Tại sao phải biết tu tập Ba-la-mật-đa như vậy? Phải biết tu tập nầy lược có năm thứ: 1. Tu hiện khởi gia hạnh. 2. Tu thắng giải. 3. Tu tác ý. 4. Tu phương tiện thiện xảo. 5. Tu thành sở tác sự. Trong đây, có bốn thứ tu đã nói như trước. Thành sở tác sự tu, là chư Như Lai gánh vác Phật sự không có ngơi nghỉ, đối với Ba-lamật-đa viên mãn thì lại càng tu tập sáu đến bờ kia. Lại cũng tu tác ý, là tu tập chỗ gồm thâu ái trọng tùy hỷ và tác ý hân lạc của sáu thứ ý lạc: 1. Ý lạc quảng đại. 2. Ý lạc trường thời. 3. Ý lạc hoan hỷ. 4. Ý lạc đội ân. 5. Ý lạc đại chí. 6. Ý lạc thuần thiện. Hoặc các Bồ-tát vượt quả cho đến bao nhiêu vô số đại kiếp hiện chứng chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng, trải qua thời gian mỗi mỗi sátna như thế, giả sử nhanh chóng xả bỏ tất cả thân mạng, và lấy thế giới như số cát sông hằng chứa đầy bảy báu cúng dường Như Lai, cho đến an toạ toà diệu Bồ-đề, Bồtát bố thí ý lạc như vậy, cũng không chán đủ, trải qua thời gian mỗi mỗi sát-na như thế, giả sử lửa rực đầy trong tam thiên đại thiên thế giới, đối với bốn oai nghi thường thiếu hụt mọi vật dụng nuôi sống. Tâm giới, nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã thường hằng hiện hành cho đến an toạ toà diệu Bồ-đề. Như vậy cả thảy ý lạc trong giới, nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã của Bồ-tát cũng không chán đủ, gọi đó là ý lạc quảng đại của Bồ-tát.
Lại nữa, các Bồ-tát ngay trong ý lạc nầy mà không chán ý lạc, cho đến an toạ diệu Bồ-đề toà thường không ngơi nghỉ, gọi đó là ý lạc trường thời của Bồ-tát.
Lại nữa, các Bồ-tát dùng sáu thứ Ba-la-mật-đa tạo lợi ích cho hữu tình, do các việc mà mình làm nầy sinh sau hoan hỷ đem lợi ích. Hữu tình điều mà họ không có khả năng làm được, gọi đó là ý lạc hoan hỷ của Bồ-tát.
Lại nữa, các Bồ-tát dùng sáu thứ Ba-la-mật-đa tạo lợi ích cho hữu tình, thấy họ có ân đức lớn với mình, không thấy mình có ân đối với họ, gọi đó là ý lạc đội ân. Lại nữa, các Bồ-tát lấy chỗ tụ tập thiện căn của sáu pháp đến bờ kia như vậy, trong thâm tâm hồi hướng thí cho tất cả hữu tình, giúp họ đắc quả dị thục khả ái thù thắng, gọi đó là ý lạc đại chí của Bồ-tát.
Lại nữa, các Bồ-tát lại lấy như vậy chỗ tụ tập thiện căn của sáu pháp đến bờ kia, cùng chung các hữu tình hồi hướng Chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng, gọi đó là ý lạc thuần thiện của Bồ-tát. Như vậy là Bồ-tát tu chỗ gồm thâu tác ý ái trọng của sáu thứ ý lạc này.
Lại nữa, các Bồ-tát đối với sáu thứ ý lạc của các Bồtát khác, tu tập tương ưng vô lượng thiện căn, thâm tâm tùy hỷ. Như vậy, Bồ-tát tu tập chỗ thuộc về tùy hỷ ý lạc của sáu thứ ý lạc này. Lại nữa, thâm tâm của các Bồ-tát ưa thích chỗ thuộc về sáu thứ đến bờ kia tu trong sáu thứ ý lạc của tất cả hữu tình, cũng nguyện tự thân cùng với sáu thứ đến bờ kia, tu nầy hằng không lìa nhau, cho đến an toạ toà diệu Bồ-đề, như vậy Bồ-tát tu chỗ thuộc về tác ý hân lạc của sáu thứ ý lạc nầy, nếu có hữu tình nào nghe chỗ thuộc về tác ý tu sáu thứ ý lạc của Bồ-tát nầy rồi, chỉ có thể khởi một niệm tín tâm, còn phải nên phát sinh vô lượng phước tụ, các nghiệp chướng ác cũng phải tiêu diệt, huống chi là Bồ-tát"?
Giải thích: Trong năm thứ tu, "tu hiện khởi gia hạnh", là hiện khởi gia hạnh mà tu. "Tu thành sở tác sự", là chư Như Lai an trụ Pháp thân, Phật sự mà mình làm là không công dụng, thường không có nghỉ ngơi, đối với sáu thứ Ba-la-mật-đa tuy không có hiện hành, nhưng vì dẫn dắt lợi ích các hữu tình, mà hằng thường hiện hành thành việc mình phải làm. "Lúc đó thời gian mỗi mỗi sát-na", giả sử lấy ba vô số kiếp lượng làm một sát-na, như vậy sát-na tích tập thời lượng, cho đến Bồ-đề. "Trải qua thời gian mỗi mỗi sát-na như thế, giả sử nhanh chóng xả bỏ tất cả thân mạng", nghĩa nầy dễ hiểu, nhưng phải tùy theo bản văn. Như vậy tích tập thời lượng cho đến Bồ-đề. "Trải qua thời gian mỗi mỗi sát-na như thế, giả sử khiến cho một tâm của giới… ở trong lửa rực đầy tam thiên đại thiên thế giới, thường thiếu tất cả vật dùng nuôi sống", đây là hiển thị trụ xứ gian nan, nhân duyên sinh sống thiếu thốn, trong đây ý lạc không chán đủ, phải biết là ý lạc quảng đại. Thời gian dài nầy hằng không gián đoạn, phải biết là ý lạc trường thời. Trường thời là thời gian lâu dài, các nghĩa còn lại dễ hiểu. "Chư nghiệp chướng ác cũng phải tiêu diệt", là trong đây có ý nói diệt công năng của nghiệp chướng và công năng của dị thục, hoặc đối trị lực dẫn đến cõi ác của hữu tình kia.
Luận nói: "Sai biệt của các Ba-la-mật-đa nầy làm sao thấy được? Phải biết mỗi Ba-la-mật-đa đều có ba phẩm. Ba phẩm thí: 1. Pháp thí.
2. Tài thí. 3. Vô uý thí. Giới có ba phẩm: 1. Giới luật nghi. 2. Giới nhiếp pháp thiện. 3. Giới nhiêu ích hữu tình. Ba phẩm nhẫn: 1. Nhẫn nại oán hại. 2. Nhẫn an thọ khổ. 3. Nhẫn đế sát pháp. Tinh tấn có ba phẩm: 1. Tinh tấn bị giáp. 2. Tinh tấn gia hạnh. 3. Tinh tấn không khiếp nhược không thối chuyển không hỷ túc. Ba phẩm tĩnh lự: 1. Tĩnh lự an trụ. 2. Tĩnh lự dẫn phát. 3. Tĩnh lự thành sở tác sự. Tuệ có ba phẩm: 1. Tuệ gia hạnh vô phân biệt.
2. Tuệ vô phân biệt. 3. Tuệ hậu đắc vô phân biệt".
Giải thích: Trong khi nói về phẩm sai biệt của Ba-la-mật-đa nầy, là hiển thị thể tánh đều có ba sai biệt. Trong đây tại sao nói ba thứ sai biệt của pháp thí…? Là do pháp thí nuôi dưỡng thiện căn của người khác, do tài thí nuôi dưỡng làm lợi ích thân của người khác, do vô uý thí nuôi dưỡng làm lợi ích tâm của người khác, vì nhân duyên đó nên nói ba thí.
Trong ba thứ giới: Giới luật nghi là giới nương giữ, vì muốn kiến lập hai giới còn lại do đó mà an trụ. Tại sao vậy? Vì trụ luật nghi thì có thể kiến lập giới nhiếp pháp thiện, do đây tu tập tất cả pháp Phật, chứng đại Bồđề. Lại có thể kiến lập giới nhiêu ích hữu tình, do đây mà có thể thành thục hữu tình.
Trong ba thứ nhẫn: Nhẫn nại oán hại có khả năng chịu đựng oán hại mà kẻ khác gây ra, khi siêng tu các việc làm lợi ích hữu tình, do lực nhẫn nầy, gặp sinh tử khổ mà không thối chuyển. Nhẫn an thọ khổ có thể nhẫn chịu chỗ bị nhiều khổ, do nhẫn lực nầy, trong sinh tử tuy ở trong các khổ nhưng không thối chuyển. Nhẫn đế sát pháp có thể gánh vác, quán sát kỹ lưỡng các pháp, do nhẫn lực nầy mà kiến lập hai nhẫn trước.
Trong ba thứ tinh tấn: Thể sai biệt của nó tức như đức Bạc-già-phạm trong khế kinh nói: "Có uy lực, có siêng năng, có dũng mãnh và kiên cố, không xả ách thiện". Năm câu trong kinh đó tức đã giải thích thể của ba thứ tinh tấn trong đây. Do tinh tấn bị giáp nên đầu tiên là có uy lực. Do tinh tấn gia hạnh, nên khi gia hạnh thì có thể tinh cần. Do tinh tấn không khiếp nhược không thối chuyển không hỷ túc, nên như thứ lớp của nó đối với tinh tấn nầy, sau đó là dũng mãnh và kiên cố không xả ách thiện. Do ba tinh tấn nầy mà giải thích năm câu kia. Tại sao vậy? Hoặc có người trước hết là vì cầu chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng, tuy có uy lực nhưng khi gia hạnh thì không thể thúc đẩy, nên nói là "có siêng năng", tuy có siêng năng nhưng tâm thì khiếp nhược, để đối trị tâm đó nên nói "có dũng". Do có dũng mãnh nên tâm không thối khuất, phải biết khiếp nhược tức là thối khuất. Tâm tuy không khiếp nhược nhưng gặp sinh tử khổ thì tâm có thể thối chuyển. Do đây mà sự cầu quả Phật bị tiêu mất. Để đối trị tâm nầy mà lập không thối chuyển. Không thối chuyển tức là kiên cố, không thối chuyển hiển thị kiên cố. Do kiên cố nên gặp khổ không thối lui, tuy gặp khổ có thể không thối chuyển nhưng được ít thiện thì liền sinh hỷ túc, do đây mà không chứng Bồ-đề Vô thượng, nên kế đó phải nói không hỷ túc, tức là nghĩa không được cho là đủ chút nào cả, nghĩa nầy tức chỉ rõ không bỏ ách thiện, do nghĩa đó nên nói ba thứ tinh tấn.
Trong ba thứ tĩnh lự: Tĩnh lự an trụ, là do tĩnh lự nầy mà có thể an trụ nơi hiện pháp lạc. Tĩnh lự dẫn phát, là do đây dẫn phát sáu thứ thần thông. Tĩnh lự thành sở tác sự, là nương vào tĩnh lự nầy mà thành lập chỗ làm lợi ích hữu tình, do đó nói tên là sự việc tạo tác được thành tựu. Do nghĩa nầy nên tĩnh lự có ba thứ.
Trong an lập thể của huệ có ba thứ, nghĩa đó cũng dễ hiểu.
Luận nói: "Như vậy tướng thâu tóm, làm sao thấy được? Vì do đây có thể thâu tóm tất cả pháp thiện, vì đó là tướng của nó, đó là tùy thuận, là đẳng lưu".
Giải thích: "Như vậy tướng thâu tóm, làm sao thấy được"? Đây là hỏi như vậy Ba-la-mật-đa cùng với pháp thiện cùng thâu tóm làm sao thấy được. "Do đây có thể thâu tóm tất cả pháp thiện", phải biết là do Ba-la-mật-đa nầy có thể thâu tóm đầy đủ tất cả pháp thiện, pháp thiện kia cũng có thể thâu tóm Ba-la-mật-đa. Phải biết tất cả pháp thiện trong đây tức là tất cả phần pháp Bồ-đề. "Vì đó là tướng của nó", tức là tướng của Bát-nhã. "Đó là tùy thuận", phải biết tức là tín khinh an. "Đó là đẳng lưu", là sáu thần thông, mười lực và các pháp công đức khác.
Luận nói: "Như vậy, chỗ đối trị thâu tóm các tạp nhiễm làm sao thấy được? Vì đó là tướng nầy, đó là nhân nầy, đó là quả này".
Giải thích: Như đến bờ kia thâu tóm các pháp trắng, trước đã hiển thị chỗ đối trị nầy cũng thâu tóm tất cả pháp tạp nhiễm, bây giờ hiển thị. "Vì đó là tướng này", là tướng của tham… "đó là nhân này", là nhân của xan… bị gọi là bất tín và tà kiến. "Đó là quả này", là các quả xan tham, phạm giới, nhẫn…
Luận nói: "Như vậy sự thắng lợi mà sáu thứ Ba-lamật-đa có được, làm sao thấy? Là các Bồ-tát lưu chuyển sinh tử, vì phú quí thâu tóm, vì đại sinh thâu tóm, vì chỗ thuộc về của đại bằng hữu, đại quyến thuộc, vì chỗ thuộc về của sự nghiệp quảng đại gia hạnh thành tựu, vì chỗ thuộc về của tánh không có các não hại, trần cấu mỏng dần, vì chỗ thuộc về của khéo biết hết thảy công luận, minh xứ, thắng sinh vô tội cho đến an toạ toa diệu Bồđề, thường có thể hiện khởi tất cả nghĩa lợi của tất cả hữu tình, đó gọi là thắng lợi".
Giải thích: Bây giờ sẽ hiển thị chỗ đắc thắng lợi của Ba-la-mật-đa. "Thắng sinh vô tội", là không giống như ngoại đạo tuy được đời sống thù thắng nhưng có tội nhiễm ô xen tạp. Lại nữa, thắng sinh đó đều là vô thường, nhưng quả của Ba-la-mật-đa thì không phải vô thường, vì do nói "cho đến an toạ toa diệu Bồ-đề". Lại nữa, thắng sinh đó chỉ có tự lợi, không thể lợi tha, vì do không nói "thường có thể hiện khởi tất cả nghĩa lợi của hữu tình". Chỗ đắc thắng quả của Ba-la-mật-đa là "thường có thể hiện khởi tất cả nghĩa lợi của tất cả hữu tình", như vậy gọi là các pháp đến bờ kia đạt được nghĩa lợi của quả thù thắng của vô tội.
Luận nói: "Như vậy, sáu thứ Ba-la-mật-đa quyết đoán xét chọn lẫn nhau làm sao thấy được? Đức Thế Tôn đối với tất cả sáu thứ Ba-la-mật-đa nầy, có nơi nói tiếng thí, hoặc có nơi nói tiếng giới, hoặc có nơi nói tiếng nhẫn, hoặc có nơi nói tiếng cần, hoặc có nơi nói tiếng định, hoặc có nơi nói tiếng tuệ. Như vậy những điều nói đó có ý thú gì? Là trong tất cả Ba-la-mật-đa tu gia hạnh đều có tất cả Ba-la-mật-đa trợ hỗ thành tựu lẫn nhau, là ý nghĩa như vậy".
Giải thích: Trong các kinh ba trăm tụng Ba-la-mậtđa, vốn là nói một Ba-la-mật-đa mà là nói tất cả Ba-lamật-đa. Nói như vậy có ý nghĩa sâu xa gì? Là khi tu một Ba-la-mật-đa thì tất cả tương trợ. Phải biết trong đây có ý nghĩa sâu xa như vậy, là khi tu thí để phòng hộ thân ngữ, do đây có giới Ba-la-mật-đa mà tương trợ thành tựu, cho đến biết rõ nhân quả của thí, do đây có tuệ Ba-la-mật-đa tương trợ thành tựu, các tương trợ khác cũng nên biết như vậy.
Luận nói: "Trong đây có một bài tụng:
Số tướng và thứ lớp,
Huấn từ tu sai biệt,
Công đức gồm chỗ trị,
Phải biết cùng quyết trạch".
Giải thích: Bài tụng thứ đệ trước, văn đó dễ hiểu.
---------------------------
Luận nói: "Như vậy đã nói nhập nhân quả kia, tu sai biệt ấy làm sao thấy được? Do mười địa nơi Bồ-tát thấy được. Những gì là mười?
1. Địa cực hỷ. 2. Địa ly cấu. 3. Địa phát quang. 4. Địa diệm tuệ. 5. Địa cực nan thắng. 6. Địa hiện tiền. 7.
Địa viễn hành. 8. Địa bất động. 9. Địa thiện tuệ. 10. Địa pháp vân. Các địa như vậy an lập làm mười địa, làm sao thấy được? Vì muốn đối trị sở tri chướng của mười thứ vô minh. Tại sao vậy? Vì đối với mười tướng đối tượng nhận thức pháp giới có chỗ đối trị là chướng trụ của mười vô minh. Thế nào là mười tướng đối tượng nhận thức pháp giới? Là trong sơ địa do nghĩa biến hành, trong địa thứ hai do nghĩa tối thắng, trong địa thứ ba do nghĩa thắng lưu, trong địa thứ tư do nghĩa không thâu nhận, trong địa thứ năm do nghĩa thiện tục không sai biệt, trong địa thứ sáu do nghĩa không tạp nhiễm thanh tịnh, trong địa thứ bảy do nghĩa vô số pháp không sai biệt, trong đệ bát địa do nghĩa bất tăng bất giảm, nghĩa tướng chỗ dựa tự tại, độ (cõi) chỗ dựa tự tại, trong đệ cửu địa do nghĩa chỗ dựa trí tự tại, trong địa thứ mười do nghĩa nghiệp tự tại cùng chỗ dựa, nghĩa môn Đà-la-ni môn Tam-ma-địa chỗ dựa tự tại. Trong đây có ba bài tụng:
Nghĩa biến hành, tối thắng,
Cùng với nghĩa thắng lưu,
Như vậy nghĩa không gồm,
Nghĩa tương tục không khác.
Nghĩa tịnh không tạp nhiễm,
Nghĩa vô số không khác,
Nghĩa không tăng không giảm,
Nghĩa bốn nương tự tại.
Trong pháp giới có mười,
Không nhiễm ô vô minh,
Trị chỗ trị chướng nầy,
Nên an lập thập địa".
Lại nữa, như vậy phải biết vô minh đối với Thanhvăn, Độc-giác không phải nhiễm ô, đối với Bồ-tát là nhiễm ô".
Giải thích: Y theo vị tu sai biệt của nhân quả kia, do đó hỏi đáp thế nào là pháp giới đối tượng nhận thức, là trong sơ địa do nghĩa biến hành, cho đến trong địa thứ mười do nghĩa nghiệp chỗ dựa tự tại, nghĩa môn đà-rani môn Tam-ma-địa chỗ dựa tự tại. Do mười thứ tướng mà pháp giới có thể biết được, nên gọi là mười tướng đối tượng nhận thức pháp giới, là trong các địa mỗi mỗi đều có một tướng đối tượng nhận thức pháp giới. Nhưng do lực vô minh nên không thể biết rõ, vì muốn đối trị vô minh như vậy nên lập ra mười địa. Lại nữa, chỗ đối trị chướng có mười thứ của nó nên lập ra mười địa. Những gì gọi là mười chỗ đối trị chướng? 1. Tánh dị sanh. 2. Đối với các thân hữu tình làm tà hạnh. 3. Tánh trì độn có lảng quên văn tư tu. 4. Phiền não vi tế hiện hành cùng sinh khởi thuộc về thân kiến. Vì vô minh nầy là phẩm tối hạ, vì không tạo ý duyên, vì xa lìa tùy hiện hành, phải biết đó là vi tế. 5. Đối với hạ thừa mà bát Niết-bàn. 6. Thô tướng hiện hành. 7. Tướng tế hiện hành. 8. Đối với vô tướng tác hành. 9. Đối với sự tạo lợi ích hữu tình không dấy khởi tác hành. 10. Trong các pháp chưa đắc tự tại.
Nghĩa biến hành, là pháp giới nầy hiện hữu khắp tất cả hành, vì không có ít pháp nào không phải là vô ngã. Nếu biết như vậy thì được nhập địa thứ nhất.
Nghĩa tối thắng, là pháp giới nầy tối thù thắng trong tất cả pháp.
Nếu biết như vậy thì được nhập địa thứ hai.
Nghĩa thắng lưu, là Đại thừa giáo từ đó lưu xuất tối thù thắng. Nếu biết như vậy thì được nhập địa thứ ba.
Nghĩa không thâu nhận, là trong đây không có kế chấp ngã sở, không có thâu tóm ngã sở, như người bắc châu không có hệ thuộc. Đối với pháp giới nầy nếu khi chứng đắc trong đó đều không có ngã sở. Nếu biết như vậy thì được nhập địa thứ tư.
Nghĩa tương tục không sai biệt, là thể trong đây không có khác nhau, không giống như nhãn… tùy theo các hữu tình tương tục sai biệt mỗi mỗi đều có không khác nhau. Nếu biết như vậy thì được nhập địa thứ năm. Nghĩa không tạp nhiễm thanh tịnh, là trong đây vốn không có tạp nhiễm, vì tánh không có nhiễm, đã không có tạp nhiễm tức là không có thanh tịnh. Nếu biết như vậy thì được nhập địa thứ sáu.
Nghĩa vô số pháp không sai biệt, là pháp của khế kinh trong đây tuy có chủng chủng sai biệt an lập nhưng không có khác nhau. Nếu biết như vậy thì được nhập địa thứ bảy.
Nghĩa bất tăng bất giảm, là tạp nhiễm trong đây khi giảm mà không có giảm, khi thanh tịnh tăng mà không có tăng. Nghĩa tướng chỗ dựa tự tại, là pháp giới nầy là chỗ dựa nơi của tướng tự tại, trong các tướng nầy được tự tại, gọi là tướng tự tại, tùy theo chỗ muốn thì tướng liền hiện tiền. Nghĩa cõi chỗ dựa tự tại, là pháp giới nầy là chỗ dựa của cõi tự tại, vì đối với chỗ hiển hiện cõi mà được tự tại, gọi là cõi tự tại, như muốn khiến cho cõi thành các báu kim, ngân… thì liền thành tùy ý. Nếu biết như vậy thì được nhập địa thứ tám.
Nghĩa trí chỗ dựa tự tại, là pháp giới nầy làm chỗ dựa nơi của trí vô ngại biện tự tại. Nếu biết như vậy thì được nhập địa thứ chín.
Nghiệp tự tại cùng chỗ dựa, là pháp giới nầy làm chỗ dựa nơi tự tại của các thân nghiệp… và chỗ dựa nơi của các môn Đà-ra-ni Tam-ma-địa. Nếu biết như vậy thì được nhập địa thứ mười.
"Như vậy vô minh đối với Thanh-văn, Độc-giác không phải nhiễm ô", là do các Thanh-văn kia không muốn nhập các địa. Trong địa thứ nhất đã có thể thông đạt tất cả các địa, tại sao thứ lớp lại lập ra cho các địa? Tuy trong địa thứ nhất thông đạt tất cả địa, nhưng do trụ các địa nầy mà được an trụ, do lực trụ của các địa nầy mà kiến lập các địa.
Luận nói: "Lại nữa, tại sao địa thứ nhất gọi là cực hỷ? Do địa nầy đầu tiên đắc có thể thành tựu nghĩa lợi tự tha với công năng. Tại sao địa thứ hai gọi là ly cấu? Do lìa rất xa chỗ cấu uế của phạm giới. Tại sao địa thứ ba gọi là phát quang? Do không thối chuyển chỗ dựa nơi của đẳng trì và đẳng chí, là chỗ dựa nơi của đại pháp quang minh. Tại sao địa thứ tư gọi là diễm huệ? Do các pháp Bồ-đề phần tiêu diệt tất cả chướng. Tại sao địa thứ năm gọi là cực nan thắng? Do trí chân đế và trí thế gian trái nghịch nhau, vì hợp chung hai thứ khó hợp nầy khiến tương ưng. Tại sao địa thứ sáu gọi là hiện tiền? Do trí duyên khởi làm chỗ dựa, có thể khiến Bát-nhã Ba-lamật-đa hiện tiền. Tại sao địa thứ bảy gọi là viễn hành? Vì công dụng hạnh đi đến biến tế tối hậu. Tại sao địa thứ tám gọi là bất động? Do tất cả tướng hành có công dụng không thể lay động. Tại sao địa thứ chín gọi là thiện huệ? Do đắc trí vô ngại tối thắng. Tại sao địa thứ mười gọi là pháp vân? Do đắc trí tổng duyên hết thảy pháp, hàm chứa tất cả môn Đà-ra-ni, Tam-ma-địa, ví như đám mây lớn có thể che trùm, như sự che phủ rộng lớn của hư không. Lại nữa, vì đối với Pháp thân có thể viên mãn.
Giải thích: Tại sao địa thứ nhất gọi là cực hỷ? Vì do khi địa nầy mới đắc có công năng thù thắng có thể hành đủ tự tha cùng lợi. Các Thanh-văn khi khởi quán chân lý, chỉ đắc công năng hành đủ tự lợi, vì không đắc lợi tha nên Thanh-văn kia không sinh cực hỷ như vậy đồng với các Bồ-tát.
Tại sao địa thứ hai gọi là ly cấu? Vì tánh giới thành tựu trong địa nầy, không giống như địa thứ nhất tư duy chọn lựa hộ giới, vì tánh giới thành tựu nên các thứ cấu uế phạm giới đã lìa rất xa.
Tại sao địa thứ ba gọi là phát quang? Vì trong địa nầy cùng với Tam-ma-địa tam-ma-bát-để, thường không lìa nhau và không thối chuyển, đối với pháp Đại thừa có thể làm cho sáng tỏ.
Tại sao địa thứ tư gọi là diệm huệ? Vì trong địa nầy an trụ Bồ-đề phần pháp tối thắng, do trụ địa nầy nên có thể thiêu cháy tất cả phiền não căn bản và tùy phiền não, đều trở thành tro tàn.
Tại sao địa thứ năm gọi là cực nan thắng? Vì trong địa nầy biết trí chân đế là không phân biệt, biết các trí công luận của thế gian là có phân biệt, hai trí nầy trái nhau, phải tu sửa khiến cho hoà hợp, có thể hợp chung hai thứ khó nầy nên gọi là cực nan thắng.
Tại sao địa thứ sáu gọi là hiện tiền? Là trụ trí duyên khởi trong địa nầy, do trí lực không phân biệt nầy trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa tối thắng mà được hiện tiền, giác ngộ tất cả pháp không nhiễm không tịnh, trong địa thứ bảy trở thành hữu hạnh, trong địa thứ tám trở thành vô hành.
Tại sao địa thứ tám gọi là viễn hành? Vì trong địa nầy đối với hành công dụng đắc cứu cánh, tuy tất cả tướng không thể dao động, nhưng đối với vô tướng cũng gọi là hữu hành.
Tại sao địa thứ tám gọi là bất động? Vì trong địa nầy chỗ có các tướng và tất cả hành đều không thể lay động, trí Vô phân biệt tùy ý lưu hành.
Tại sao địa thứ chín gọi là thiện huệ? Vì trong địa nầy trí vô ngại giải gọi là huệ, vì huệ nầy diệu thiện nên gọi là thiện huệ.
Tại sao địa thứ mười gọi là pháp vân? Vì trong địa nầy chỗ có tổng duyên hết thảy pháp trí ví như đám mây lớn, môn Đà-la-ni môn Tam-ma-địa cũng như nước tịnh, chỗ hàm chứa của trí nầy cũng như mây chứa nước. Lại nữa, như đám mây lớn có thể che khắp hư không, như vậy tổng duyên hết thảy pháp trí, rộng khắp có thể che phủ các chướng rộng lớn. "Lại nữa, vì đối với Pháp thân có thể viên mãn", là như đám mây lớn có thể dấy khởi trùm khắp hư không, như vậy trí nầy đối với chỗ nương Pháp thân của các Bồ-tát đều có thể biến khắp. Viên mãn trong đây, có ý nói là hiện hữu khắp.
Luận nói: "Đắc các địa nầy làm sao thấy được? Do bốn thứ tướng:
1. Đắc thắng giải, là đắc tín giải sâu xa của các địa. 2. Đắc chánh hành, là đắc tương ưng mười thứ hành chánh pháp của các địa. 3. Đắc thông đạt, là khi địa thứ nhất thông với pháp giới thì có thể thông đạt khắp tất cả địa. 4. Đắc thành mãn, là tu đáo cứu cánh của các địa.
Giải thích: Đắc thành tựu viên mãn, phải biết là lúc đó tu tập các địa đã đến cứu cánh.
Luận nói: "Tu các địa nầy làm sao thấy được? Là các Bồ-tát trong từng địa tu Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na, là do năm thứ tướng tu. Những gì là năm? Là tu tập tổng, tu vô tướng, tu vô công dụng, tu xí thịnh, tu vô hỷ túc. Như vậy năm thứ tu khiến cho các Bồ-tát làm thành năm quả, là trong niệm niệm tiêu dung tất cả chỗ dựa thô trọng, lìa vô số tưởng đắc vườn pháp an lạc, có thể biết rõ chính xác vô lượng phần hạn tướng đại pháp quang minh hiện hành khắp, thuận phần thanh tịnh không chốn phân biệt, vô tướng hiện hành, vì khiến cho Pháp thân thành tựu viên mãn biện, có thể chính xác thâu nhận các thắng nhân sau".
Giải thích: Như mỗi mỗi địa có năm tướng tu, bây giờ sẽ hiển thị. Tu Xa-ma-tha (chỉ) Tỳ-bát-xá-na (quán) đều do năm tướng cùng đắc tu tập. "Trong niệm niệm tiêu dung tất cả chỗ dựa thô trọng", là phiền não chướng và đối tượng nhận thức chướng từ vô thỉ đến nay huân tập chủng tử, gọi là thô trọng. Hai tụ chướng nầy do duyên nơi tổng pháp mà lực trí của chỉ, quán niệm niệm tiêu dung. Trong ấy có ý là bám tụ chướng bị phá trừ gọi là tiêu dung, hoặc làm cho suy tổn gọi là tiêu dung. "Lìa vô số tưởng đắc vườn pháp an lạc", là pháp của khế kinh trụ nơi vô số tánh, xa lìa vô số tánh tưởng như vậy, liền chứng đắc niềm vui của vườn pháp. Trong đó có thể ở, nên gọi là vườn. Lại có nghĩa khác, là trong tùy chỗ thọ nhận pháp tầm tư, không khởi lãnh thọ quán sát thô hiển, chỉ do chỉ, quán ức niệm quang minh, khởi lãnh thọ quán sát vi tế. "Có thể biết rõ chính xác chu biến vô lượng phần hạn tướng đại pháp quang minh", là hiểu rõ chính xác tướng của mười phương vô biên vô phần hạn. Như khéo tập tụng văn tự quang minh gọi là pháp quang minh. "Thuận phần thanh tịnh không chỗ phân biệt, vô tướng hiện hành", là sự thành tựu các pháp tương ưng, gọi là thuận phần thanh tịnh không chỗ phân biệt, vô tướng hiện hành. Trong đây có ý lấy chỗ đắc quả Phật gọi là sự thành tựu đầy đủ. "Vì khiến cho Pháp thân thành tựu viên mãn, có thể chính xác thâu nhận các thắng nhân sau", là Pháp thân của địa thứ mười gọi là viên mãn, Pháp thân của Phật địa thứ mười một gọi là thành tựu trọn vẹn, là tối thù thắng trong tất cả nhân sinh Phật địa, nên nói "có thể chính xác thâu nhận các thắng nhân sau".
Luận nói: "Do tăng thắng cho nên nói trong mười địa riêng tu mười thứ Ba-la-mật-đa, đối với chỗ tu sáu Ba-la-mật-đa của sáu địa, như trước đã nói. Sự tu bốn Ba-la-mật-đa của bốn địa sau: 1. Ba-la-mật-đa phương tiện thiện xảo, là lấy chỗ tụ tập thiện căn của sáu Ba-lamật-đa trước cùng chung hữu tình hồi hướng cầu chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng. 2. Ba-la-mật-đa nguyện, là phát vô số đại nguyện vi diệu, dẫn thâu các duyên thù thắng Ba-la-mật-đa vị lai. 3. Ba-la-mật-đa lực, là do hai lực tư duy quyết chọn và tu tập, khiến cho sáu Ba-la-mật-đa trước hiện hành vô gián. 4. Ba-la-mật-đa trí, là do sáu Ba-la-mật-đa trước thành lập diệu trí thọ dụng pháp lạc, thành thục hữu tình. Lại nữa, bốn thứ Ba-la-mật-đa nầy, phải biết là chỗ thuộc về của Bát-nhã Ba-la-mật-đa trí Vô phân biệt, trí hậu đắc. Lại nữa, trong tất cả địa không phải không tu tập tất cả Ba-la-mật-đa, như vậy pháp môn là chỗ thuộc về của tạng Ba-la-mật-đa".
Giải thích: "Do tăng thắng nên nói trong mười địa riêng tu mười thứ Ba-la-mật-đa", là trong mười địa mà nói như vậy, địa thứ nhất thì bố thí Ba-la-mật-đa rất là tăng thắng, ngoài ra tất cả Ba-la-mật-đa không phải không tu tập, tùy lực tùy phần, cho đến địa thứ mười thì trí Ba-la-mật-đa rất là tăng thắng, ngoài ra tất cả Ba-lamật-đa không phải không tu tập, tùy lực, tùy phần, nên nói "do tăng thắng nên nói trong mười địa riêng tu mười thứ Ba-la-mật-đa". Nếu theo tổng tướng mà nói thì trong tất cả địa đều tu tất cả Ba-la-mật-đa. "Đối với sự tu sáu thứ Ba-la-mật-đa của sáu địa trước, như trước đã nói", là hiển thị thứ lớp tu riêng mười thứ Ba-la-mật-đa, như trước đã dẫn kinh, đầu tiên nói bố thí Ba-la-mật-đa, sau cùng nói trí Ba-la-mật-đa. Hiện tại trong luận nầy như đã nói trước có chút ít không đầy đủ. Là sự tu bốn pháp Ba-la-mật-đa của bốn địa sau, điều trước chưa nói hết, là nếu chỗ đó chỉ nói sáu thứ Ba-la-mật-đa, tức là tại chỗ nầy thì bốn pháp Ba-la-mật-đa của phương tiện thiện xảo gồm thâu trong đó. Nếu tại chỗ đó nói mười Ba-lamật-đa thì trong đó chỉ nói trí Vô phân biệt gọi là Bátnhã Ba-la-mật-đa. Ngoài ra bốn pháp Ba-la-mật-đa của phương tiện thiện xảo thì trí hậu đắc thâu tóm, nên trong bốn địa sau tu bốn pháp Ba-la-mật-đa còn lại. Phương tiện thiện xảo Ba-la-mật-đa, là trước hết nói pháp thứ nhất trong bốn pháp Ba-la-mật-đa sau. "Cùng chung hữu tình", là đem các thiện nầy chung với chư hữu tình, như chỗ có chung, bây giờ hiển thị, là đem thiện nầy nguyện cầu chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng, làm tất cả nghĩa lợi của tất cả hữu tình, phải chứng Bồ-đề thì ý nầy mới toại, nên nếu có tư duy như vậy thì hết thảy thiện căn đều hồi hướng nơi chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng, làm tất cả nghĩa lợi của các hữu tình, như vậy gọi là cùng chung các hữu tình. Phương tiện thiện xảo là hiển thị Bát-nhã và đại bi, là lấy chỗ tụ tập thiện căn của sáu Ba-la-mậtđa trước cùng chung với hữu tình, đây là do đại bi hồi hướng cầu chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng, không cầu các quả đế thích và giàu vui, do biết rõ nên không khởi phiền não, đây tức là Bát-nhã. Lại nữa, do đầy đủ phương tiện thiện xảo nên không bỏ sinh tử mà không có nhiễm ô, do đó gọi là phương tiện thiện xảo Ba-la-mật-đa. "Là phát vô số đại nguyện vi diệu, dẫn thâu các duyên thù thắng Ba-la-mật-đa vi lai", đây là hiển thị chỗ tạo tác sự nghiệp của nguyện Ba-la-mật-đa, nguyện nầy tức là Ba-la-mậtđa, nên gọi là nguyện Ba-la-mật-đa. "Vị lai", là vì vị lai, đây là hành vi, đệ thất chuyển thanh, vì vị lai mà phát các thứ nguyện. Các khế kinh khác nói có hai thứ lực, một là lực xét chọn, hai là lực tu tập. Hoặc tuy người chưa có lực tu tập, nhưng do lực xét chọn tinh tấn tu tập
Ba-la-mật-đa thì nói do Ba-la-mật-đa nầy hiện hành vô gián. Đây là hiển thị chỗ tạo sự nghiệp của lực Ba-lamật-đa. "Là do sáu thứ Ba-la-mật-đa trước thành lập diệu trí thọ dụng pháp lạc, thành thục hữu tình", là do Bát-nhã Ba-la-mật-đa với tự tánh trí Vô phân biệt, mà thành lập diệu trí hậu đắc, lại do trí nầy thành lập sáu Ba-la-mật-đa trước, do đây tự vì cùng với người đồng pháp thọ dụng pháp lạc, và vì thành thục tất cả hữu tình. "Như vậy pháp môn là chỗ thâu tóm của Ba-la-mật-đa tạng", trong đây tất cả giáo pháp Đại thừa đều gọi chung tên là tạng đến bờ kia, như vậy chỗ dẫn pháp môn mười địa là tạng nầy thâu tóm, không phải tạng Thanh-văn gồm thâu. Trong tất cả địa đều tu tất cả Ba-la-mật-đa, như vậy các địa khắp tất cả quốc độ của chư Phật, tất cả chư Phật đồng chỗ nói nên tối thắng, vì do pháp môn nầy là tối thắng nên khi tối sơ thì thuyết tại xứ tối thắng, xứ nầy cao rộng thù diệu bền chắc nên gọi là tối thắng.
Luận nói: "Lại nữa, gồm trải qua bao nhiêu thời gian, tu hành các địa có thể đắc viên mãn? Có năm Bổđặc-già-la (hữu tình) trải qua ba vô số đại kiếp. Là Bổđặc-già-la giải hành tối thắng, trải qua vô số đại kiếp thứ nhất tu hành viên mãn. Là Bổ-đặc-già-la thanh tịnh tăng thượng ý lạc hạnh và Bổ-đặc-già-la hành hữu tướng, hành vô tướng, đối với sáu địa trước và địa thứ bảy trải qua vô số đại kiếp thứ hai tu hành viên mãn. Tức là Bổđặc-già-la hành vô công dụng, từ đây trở lên đến địa thứ mười trải qua vô số đại kiếp thứ ba tu hành viên mãn.
Trong đây có tụng:
Lực tăng thượng thanh tịnh,
Tâm kiên cố thăng tiến,
Là Bồ-tát mới tu,
Vô số ba đại kiếp".
Giải thích: "Có năm Bổ-đặc-già-la trải qua ba vô số đại kiếp", là Bổ-đặc-già-la thắng giải hạnh, trong địa giải hạnh trải qua vô số đại kiếp thứ nhất tu hành viên mãn, đã viên mãn rồi thì thông đạt chân như. Thành Bổ-đặcgià-la ý lạc thanh tịnh tăng thượng, ý lạc thanh tịnh tăng thượng nầy khắp trong mười địa, Bổ-đặc-già-la nầy tại sáu địa gọi là Bổ-đặc-già-la hữu tướng hành, tại địa thứ bảy thì gọi là Bổ-đặc-già-la hành vô tướng hữu công dụng, hai Bổ-đặc-già-la nầy trải qua vô số đại kiếp thứ hai tu hành viên mãn. Nhập địa thứ tám thì gọi là Bổđặc-già-la hành vô công dụng, nhưng hành vô công dụng nầy cũng chưa được thành mãn, nếu đến địa thứ chín, địa thứ mười thì hành vô công dụng mới được thành mãn, Bổ-đặc-già-la nầy trải qua vô số đại kiếp thứ ba tu hành viên mãn. Như vậy chỉ nơi có một Bổ-đặcgià-la với quả vị sai biệt nên kiến lập năm thứ, ví như dự lưu, nhất lai và bất hoàn, như nói trải qua ba vô số đại kiếp thì đắc Bồ-đề của Phật, từ vô thỉ sinh tử luôn luôn tu thí… luôn luôn gặp chư Phật. Bằng với thời gian nào gọi là tối sơ tu ba vô số kiếp? Do đó đem kệ để hiển bày giải thích câu hỏi này. "Lực thanh tịnh tăng thượng", là lực thiện căn và lực đại nguyện. Do lực thiện căn nên biết cái bị đối trị không thể hàng phục. Do lực đại nguyện, nên biết thường gặp các thiện tri thức. "Tâm kiên cố thăng tiến", là phát tâm kiên cố, khởi hạnh tăng tiến. "Tâm kiên cố", phải biết là phát tâm đại Bồ-đề, lực của các bạn ác không thể làm cho buông bỏ. "Hành tăng tiến", phải biết là trong hiện tại và đời đời pháp thiện thường tăng, cuối cùng không giảm sút. Các nghĩa còn lại dễ hiểu, không phiền giải thích lại!
Luận nói: "Như vậy đã nói nhân quả tu sai biệt, trong đây giới tăng thượng thù thắng làm sao thấy được? Như địa Bồ-tát trong Bồ-tát chánh thọ luật nghi nói: "Lại nữa, phải biết sơ lược do bốn thứ thù thắng nên giới nầy là thù thắng: 1. Do sai biệt thù thắng. 2. Do học xứ cộng, bất cộng thù thắng. 3. Do quảng đại thù thắng. 4. Do thậm thâm thù thắng.
Giải thích: Trong đây hỏi đáp để biện luận chỗ học thi-la của các Bồ-tát, đối với Thanh-văn, Độc-giác có sai biệt lớn, nên gọi là thù thắng. Lại nữa, ba học của giới tăng thượng nầy, tức là đã nói trước về chỗ gồm thâu của tự tánh Ba-la-mật-đa. Tại sao lại lập riêng? Đối với việc nói Ba-la-mật-đa trước kia, là kiến lập nghĩa riêng, bây giờ hiển thị, để hiển bày về tướng lần lượt nơi tánh nhân nên lập riêng ba học, là nương vào thi-la mà phát sinh tĩnh lự, lại nương vào tĩnh lự để phát sinh Bát-nhã.
Luận nói: "Sai biệt thù thắng, là Bồ-tát giới có ba phẩm riêng: 1. Giới luật nghi. 2. Giới nhiếp thiện pháp. 3. Giới nhiêu ích hữu tình. Giới luật nghi trong ấy, phải biết có hai giới kiến lập nghĩa; giới nhiếp thiện pháp, phải biết tu tập tất cả pháp Phật nên kiến lập nghĩa; giới nhiêu ích hữu tình, phải biết thành thục tất cả hữu tình nên kiến lập nghĩa".
Giải thích: Sai biệt thù thắng, là Thanh-văn, Độcgiác chỉ có một thứ giới luật nghi, không có giới nhiếp thiện pháp và giới nhiêu ích hữu tình. Bồ-tát thì có đủ ba thứ, nên thù thắng.
Luận nói: "Học xứ cộng bất cộng thù thắng, là tất cả tánh tội của các Bồ-tát không hiện hành, cùng với Thanh-văn là cộng, tương tợ giá tội có hiện hành, thì cùng với Thanh-văn là bất cộng. Đối với học xứ nầy, có học xứ chỉ có Thanh-văn phạm, Bồ-tát thì không phạm; có học xứ chỉ có Bồ-tát phạm, Thanh-văn thì không phạm. Bồ-tát thì có đủ giới của thân ngữ và tâm, Thanhvăn thì chỉ có hai thứ giới của thân và ngữ, nên giới tâm, Bồ-tát cũng có phạm, không phải Thanh-văn. Tóm lại, tất cả tạo lợi ích cho hữu tình không có tội nghiệp thân ngữ ý thì Bồ-tát tất cả đều phải hiện hành, đều phải tu học. Như vậy nên biết gọi là cộng bất cộng thù thắng".
Giải thích: Tất cả tánh tội trong cộng bất cộng, là sát sinh… gọi là tánh tội, tương tợ giá tội, là đào đất, làm đứt cỏ… gọi là bất cộng. "Đối với học xứ này", là hậu học xứ. "Có học xứ chỉ có Thanh-văn phạm, Bồ-tát thì không phạm", như hai thứ an cư quán sát lợi ích hữu tình liền hành qua đêm. "Có học xứ chỉ có Bồ-tát phạm, Thanh-văn thì không phạm", là quán hữu ích mà không hành. "Cho nên giới, tâm Bồ-tát cũng có phạm, không phải Thanh-văn", là khi chỉ khởi tầm tư của dục bên trong, thì Bồ-tát thành phạm giới, không phải Thanhvăn. "Tất cả tạo lợi ích cho hữu tình không có tội nghiệp thân ngữ ý thì Bồ-tát tất cả đều phải hiện hành, đều phải tu học", là có thể tạo lợi ích mà không có tội, như vậy ba nghiệp, Bồ-tát phải tu, hoặc tuy tạo lợi ích mà không phải vô tội, như lấy vật phi pháp của người nữ trao cho người khác, vì ngăn che sự nầy nên nói vô tội.
Luận nói: "Quảng đại thù thắng, lại do bốn thứ quảng đại: 1. Do vô số vô lượng học xứ quảng đại. 2. Do thâu nhận vô lượng phước đức quảng đại. 3. Do thâu nhận cho lợi ích an lạc hết thảy hữu tình ý lạc quảng đại. 4. Do kiến lập chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng quảng đại". Giải thích: Vô số vô lượng học xứ quảng đại, là tu học xứ của các Bồ-tát cũng là chủng chủng cũng là vô lượng, do đấy đối với tất cả hữu tình kia làm sự thành thục và sự thâu nhận. Thâu nhận vô lượng phước đức quảng đại, là thâu nhận vô lượng tư lương phước đức của các Bồ-tát, không phải Thanh-văn. Thâu nhận lợi ích an lạc cho hết thảy hữu tình, ý lạc quảng đại, là đối với các hữu tình khuyến khích khiến cho tu thiện, gọi là ý lạc lợi ích; hoặc ngay nơi Bổ-đặc-già-la nầy, nguyện do thiện kia sẽ đắc thắng quả, gọi là ý lạc an lạc. Kiến lập chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng quảng đại, là các Bồtát do thi-la nầy mà kiến lập chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng, không phải Thanh-văn.
Luận nói: "Thậm thâm thù thắng, là các Bồ-tát do phẩm loại phương tiện thiện xảo đó, hành mười thứ tạo nghiệp như sát sanh… mà không có tội, sinh vô lượng phước, mau chứng chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng. Lại nữa, các Bồ-tát hiện hành biến hóa hai nghiệp thân ngữ, phải biết cũng là thậm thâm thi-la, do nhân duyên nầy hoặc làm quốc vương, thị hiện làm các thứ phiền não nơi hữu tình, để an lập họ vào Tỳ-nại-da. Lại nữa, hiện vô số sự bản sinh, thị hiện làm bức não các hữu tình khác, chân thật dẫn dắt họ, trước hết khiến cho tâm của người khác sinh tịnh tín sâu rộng, sau đó chuyển cho thành thục, gọi là học xứ Thi-la thậm thâm thù thắng của Bồtát".
Giải thích: Trong "thậm thâm thù thắng, là các Bồtát do phẩm loại phương tiện thiện xảo đó", trong đây hiển thị công năng của Bồ-tát như vậy, công năng phương tiện thiện xảo như vậy, các Bồ-tát nếu biết như vậy, phẩm loại Bổ-đặc-già-la như vậy, đối với các sự bất thiện vô gián nầy sắp khởi gia hạnh, dùng tha tâm trí biết rõ tâm chúng sinh, không có phương tiện nào khác có thể chuyển nghiệp của họ, biết rõ như thật họ do nghiệp nầy, quyết thối chuyển cõi thiện, định sinh vào cõi ác, đã biết sinh như vậy, tâm như vậy, Bồ-tát nghĩ "ta tạo tác nghiệp nầy sẽ bị đọa vào cõi ác, ta nên tự đến, cần phải giải thoát cho họ", đối với chúng sinh hiện tại tuy thêm ít khổ, nhưng vị lai khiến họ thọ nhiều an lạc, do đó Bồtát ví như lương y, vì tạo lợi ích tâm tuy sát hại chúng sinh nhưng không có chút tội nào, nhiều đời có phước, do phước đó mà mau chứng chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng, những giới như vậy rất là thậm thâm.
Lại nữa, các Bồ-tát hiện khởi biến hóa hai nghiệp thân ngữ, nên biết cũng là thậm thâm Thi-la. Do đạo lý nầy, hoặc làm quốc vương thị hiện tạo vô số sự não hại hữu tình, hoặc an lập hữu tình trong Tỳ-nại-da. Tự thể biến hóa gọi là biến hóa. Trong đây nên nói, như vua vô yểm túc biến hóa chỉ dẫn cho đồng tử thiện tài. "Lại nữa, hiện vô số sự bản sinh", như các sự bản sinh Tỳ-thấp-bà, An-dát-la… Trong đây Bồ-tát đem con trai, con gái của mình thí cho bà-la-môn, đều là biến hóa. "Thị hiện làm bức não các hữu tình khác, chân thật dẫn dắt họ", là các Bồ-tát cuối cùng không bức não thật hữu tình khác, vì dẫn dắt thật hữu tình khác, như vậy cũng gọi là thậm thâm thù thắng.
Luận nói: "Do lược nói bốn thứ thù thắng nầy, phải biết luật nghi Thi-la của Bồ-tát là rất thù thắng. Học xứ của Bồ-tát sai biệt như vậy, phải biết lại có vô lượng sai biệt, như trong Tỳ-nại-da cù-sa khế kinh nói phương quảng.
Giải thích: Như vậy là lược nói bốn thứ sai biệt, trong kinh Tỳ-nại-da cù-sa, nói rộng có trăm ngàn sai biệt.
-------------------------------------
Luận nói: "Như vậy đã nói giới Tăng thượng thù thắng, còn Tâm tăng thượng thù thắng làm sao thấy được? Phải biết sơ lược do sáu thứ sai biệt: 1. Do đối tượng duyên sai biệt. 2. Do các chủng loại sai biệt. 3. Do đối trị sai biệt. 4. Do gắng nhận sai biệt. 5. Do dẫn phát sai biệt. 6. Do tác nghiệp sai biệt".
Giải thích: Để hiển Tâm học tăng thượng thù thắng nên đặt ra vấn đáp này.
Luận nói: "Đối tượng duyên sai biệt, là pháp Đại thừa làm đối tượng duyên".
Giải thích: "Là pháp Đại thừa làm đối tượng duyên", là các Bồ-tát quyết định duyên đối với Đại thừa, không phải Thanh-văn quyết định.
Luận nói: "Các chủng loại sai biệt, là các Tam-mađịa Đại thừa quang minh, tập phước, định vương, hiền thủ, kiện hành… chủng loại vô lượng".
Giải thích: "Đại thừa quang minh, tập phước, định vương…", là để hiển các Tam-ma-địa với các chủng loại sai biệt như vậy, chỉ Đại thừa mới có, thừa Thanh-văn… một thứ cũng không có.
Luận nói: "Đối trị sai biệt, là trí duyên nơi tổng tướng của tất cả pháp, dùng cái nêm để lói cái nêm nơi đạo lý dứt trừ tất cả chướng thô trọng trong thức A-lạida".
Giải thích: Trí duyên tổng pháp đối trị tất cả chướng ngại mà trụ, như dùng cái nêm vi tế lói trừ cái nêm thô trụ trong bản thức. Các pháp tạp nhiễm huân tập chủng tử gọi là thô, các đối trị đạo có thể trừ tạp nhiễm kia nên có nghĩa là vi tế.
Luận nói: "Gắng nhân sai biệt, là trụ tĩnh lự lạc, tùy theo chỗ dục đó mà thọ sinh".
Giải thích: Do có gắng nhân trụ nơi tĩnh lự lạc, tùy chỗ có lợi ích các hữu tình, thì liền trụ tĩnh lự lạc kia sinh tĩnh lự bất thối. Hàng Thanh-văn, Độc-giác không có các sự như vậy.
Luận nói: "Dẫn phát sai biệt, là có thể dẫn phát tất cả thế giới thần thông vô ngại".
Giải thích: Do tĩnh lự nầy mà dẫn phát thần thông tất cả thế giới đều không có chướng ngại.
Luận nói: "Tác nghiệp sai biệt, là có thể làm chấn động, sáng tỏ đầy khắp chuyển biến hiển bày sự vãng lai, thâu mở, tất cả sắc tượng đều nhập vào trong thân, chỗ đi đến đồng loại, hoặc hiển hoặc ẩn, tạo tác tự tại, chế ngự thần thông của người khác, thí biện niệm lạc, phóng ánh sáng lớn, dẫn phát đại thần thông như vậy".
Giải thích: "Tác nghiệp sai biệt", là sự tạo sự nghiệp phát khởi thần thông, trong đó có thể làm động tất cả thế giới nên gọi là "chấn động". Ngay nơi thế giới đó có thể đốt cháy nên gọi là sáng tỏ. "Đầy khắp", phải biết tức là ánh sáng chiếu khắp. "Hiển bày", là do oai lực nầy khiến cho không có chủ thể và đối tượng, các loại hữu tình khác có thể thấy rõ vô lượng thế giới và thấy chư Phật Bồ-tát khác. "Chuyển biến", phải biết là chuyển biến tất cả đất khiến cho thành nước. "Vãng lai", là một sát-na có thể qua lại vô lượng thế giới. "Thâu mở", thâu lại có thể cuốn mười phương vô lượng thế giới vào trong một cực vi mà cực vi không tăng, mở ra là có thể mở một cực vi bao quát mười phương vô lượng thế giới, mà thế giới không giảm. "Tất cả sắc tượng đều nhập vào trong thân", là trong thân hiện vô lượng vô số tất cả sự nghiệp. "Chỗ đi đến đồng loại", là như đi đến cõi trời tam thập tam thiên, sắc tượng và tiếng nói cùng đồng loại, vì hoá độ chư thiên nên đi đến tất cả xứ cũng lại như vậy. Hiển là hiển hiện, ẩn là ẩn tàng. "Tạo tác tự tại", là như biến ma vương làm thân Phật… "Chế phục thần thông của người khác", là có thể chiếu soi, che khuất tất cả thần thông. Đối với người thỉnh hỏi thì thí cho biện tài nên gọi là "thí biện", đối với người nghe thì thí cho niệm thí cho lạc, vì khiến đắc định nên gọi là "thí niệm lạc". "Phóng ánh sáng lớn", là vì muốn triệu tập Bồ-tát trụ ở nơi thế giới phương khác. "Dẫn phát đại thần thông như vậy", là dẫn điều nói đại thần thông ở trước. Như vậy là cái mà tất cả Thanh-văn không có, nên là thù thắng.
Luận nói: "Lại nữa, có thể dẫn phát và thâu tóm các nan hành, là mười nan hành. Mười nan hành là:
1. Tự thệ nan hành, vì thệ nguyện thọ Bồ-đề Vô thượng.
2. Bất thối nan hành, vì sinh tử nhiều khổ không thể thối chuyển.
3. Bất bội nan hành, vì tất cả hữu tình tuy hành tà hạnh nhưng không buông bỏ họ.
4. Hiện tiền nan hành, vì hữu tình oán hận nên hiện làm tất cả sự lợi ích.
5. Bất nhiễm nan hành, vì sinh tại thế gian nhưng không bị thế gian làm nhiễm ô.
6. Thắng giải nan hành, vì trong Đại thừa tuy chưa hiểu rõ, nhưng đối với tất cả pháp quảng đại thậm thâm sinh tín giải.
7. Thông đạt nan hành, vì đủ có thể thông đạt Bổđặc-già-la vô ngã.
8. Tùy giác nan hành, vì đối với những lời bí mật mà chư Như Lai nói có khả năng tùy theo đó mà giác ngộ.
9. Không lìa không nhiễm nan hành, không xả bỏ sinh tử mà không nhiễm.
10. Gia hạnh nan hành, vì có thể tu tập pháp an trụ của chư Phật, giải thoát tất cả chướng ngại, tận cùng biên vực sinh tử, không khởi công dụng, thường khởi tất cả hành nghĩa lợi của tất cả hữu tình.
Giải thích: Như nói Bồ-tát tu các nan hành, trong đó những gì gọi là nan hành? Tất cả nan hành chỗ hiển có mười thứ, trong đó không lìa không nhiễm nan hành, là không buông xả nên gọi là không lìa, đối với sinh tử không hoàn toàn lìa bỏ, cũng không nhiễm ô, điều nầy rất là khó, chín nan hành còn lại nghĩa cũng dễ hiểu.
Luận nói: "Lại nữa, trong tùy giác nan hành, đối với Phật những gì là ngôn từ bí mật mà các Bồ-tát có thể theo đó biết rõ? Là như kinh nói.
Giải thích: Vì hiển ý nghĩa sâu xa của ngôn từ bí mật nên đặt câu hỏi này. "Như kinh nói", sau sẽ giải thích.
Luận nói: "Thế nào là Bồ-tát có thể hành tuệ thí? Sự thí của Bồ-tát không ít, mà với mười phương vô lượng thế giới rộng hành tuệ thí. Vì sao các Bồ-tát ưa hành tuệ thí, nếu họ không ưa thí? Thế nào là Bồ-tát trong ân tuệ thí sinh tín giải sâu xa, nếu các Bồ-tát không tin Như Lai mà hành bố thí? Các Bồ-tát sách tấn đối với thí, nếu các Bồ-tát trong huệ thí không tự sách tấn? Thế nào là Bồtát đối với thí hết mực ưa thích, nếu các Bồ-tát không có chỗ thí chút ít tạm thời? Thế nào là Bồ-tát thí quảng đại, nếu các Bồ-tát trong huệ thí lìa tưởng lưu tán? Thế nào là Bồ-tát thí thanh tịnh, nếu các Bồ-tát ôn-ba-đà xan?
Thế nào là Bồ-tát thí cứu cánh, nếu các Bồ-tát không trụ cứu cánh? Thế nào là Bồ-tát thí tự tại, nếu các Bồ-tát trong huệ thí không tự tại chuyển? Thế nào là Bồ-tát thí vô tận, nếu các Bồ-tát không trụ vô tận? Như vậy bố thí, đối với giới làm đầu, đối với huệ làm sau, tùy chỗ thích ứng của nó phải biết cũng vậy".
Giải thích: Thế nào là Bồ-tát có thể hành huệ thí? Là tất cả hữu tình của các Bồ-tát thâu tóm làm tự thể, nên thí kia tức là thí chính mình, đó là ý nghĩa này. Thế nào là Bồ-tát lạc hành tuệ thí? Là các Bồ-tát không ưa thích tu hành vị trước mà bố thí, chỉ ưa thích tu hành tịnh thí của Bồ-tát. "Tham trước vị", là có ý nói tham nhiễm, hoặc có chỗ khác đến cầu bố thí. Thế nào là Bồ-tát trong huệ thí sinh tín giải sâu xa? Là các Bồ-tát tự đắc thí tâm mà hành huệ thí, không dựa vào duyên khác. Thế nào là Bồ-tát sách tấn đối với thí? Là tự tánh chủ thể thí của các Bồ-tát, đoạn dứt xan lận, không chờ người khác sách tấn mà cũng tự sách tấn, tùy ý có thể thí, là ý thú này. Thế nào là Bồ-tát đối với thí hết mức ưa thích? Là các Bồ-tát thường hành thí nên không có thí tạm thời, thí tất cả nên không có thí chút ít. Thế nào là Bồ-tát thí quảng đại? Là các Bồ-tát nương vào định mà hành thí, tức là nghĩa lìa dục mà hành thí. "Sa-lạc", là hiển rõ chắc thật, nên giải chỗ sâu kín là lưu tán... hiện tại lấy mật nghĩa để lìa tưởng lưu tán, vì nương vào định hành thí nên trở thành rộng lớn. Thế nào là Bồ-tát thí thanh tịnh? Là các Bồ-tát dứt trừ xan túc (tâm keo kiệt muốn đủ) mà hành thí. "Ônba-đà", là hiển bày sự sinh khởi, mật nghĩa là bạt túc (trừ tâm muốn đủ). "Ba-đà", gọi là túc, "Ôn" gọi là bạt, hiện tại lấy mật nghĩa là dứt trừ tâm keo kiệt muốn đủ khiến nghiêng che mặt mà hành huệ thí, nên gọi là ôn-ba-đàxan. Thế nào là Bồ-tát thí cứu cánh? Là các Bồ-tát không trụ cứu cánh và Niết-bàn vô dư như Thanh-văn, Độcgiác, nên rốt ráo thường có thể hành thí. Thế nào là Bồtát thí tự tại? Là các Bồ-tát khiến cho … chướng của việc bố thí không đắc tự tại mà hành huệ thí, khiến chỗ đối trị chướng không được tự tại mà thí được tự tại. Thế nào là Bồ-tát thí vô tận? Là các Bồ-tát không trụ Niết-bàn, thường hành huệ thí, vô tận trong đây là có ý chọn lấy Niết-bàn, không đồng với Thanh-văn trụ Niết-bàn, thí đó mới vô tận.
Luận nói: "Thế nào là có thể sát sinh? Là nếu đoạn sinh tử lưu chuyển của chúng sinh. Thế nào là không cho mà lấy? Là nếu hữu tình không có người cho mà tự nhiên gồm thâu lấy. Thế nào là dục tà hạnh? Là nếu các dục biết rõ là tà mà hành chánh hạnh. Thế nào là có thể vọng ngữ? Là nếu trong vọng có thể nói là vọng. Thế nào là bối-thú-ni (nói lời li gián)? Là nếu có thể thường ở nơi không tối thắng. Thế nào là ba-lỗ-sư (nói lời thô ác)? Là nếu khéo an trụ đối tượng nhận thức là bờ giác. Thế nào là nói lời thiêu dệt? Là nếu chính thuyết phẩm loại sai biệt của các pháp. Thế nào là có thể tham dục? Là nếu có niệm niệm muốn tự chứng đắc Vô thượng tĩnh lự. Thế nào là có thể sân hận? Là nếu đối với tâm đó chính ghét hại tất cả phiền não. Thế nào là có thể tà kiến? Là nếu tất cả xứ tà tánh biến hành đều thấy như thật.
Giải thích: Như trong kinh nói: "Này Bí-sô! Ta là người hay sát sinh", trong đây là hiển ý nghĩa đó. Thế nào là dục tà hạnh? Là biết các dục đều tà mà tu chánh hạnh. Thế nào là bối-thú-ni? Bối-thú-ni là hiển bày lời nói ly gián, ý nghĩa bí mật là thường thắng không. "Bối" là biểu hiện về thắng, "thú" là biểu hiện về không, "ni" là biểu hiện về thường. Hiện tại lấy mật nghĩa tương ưng với câu đáp, nên đáp: "Là nếu có thể thường trụ nơi không tối thắng". Thế nào là Ba-lỗ-sư? Ba-lỗ-sư nầy là hiển bày lời nói thô ác, ý nghĩa bí mật là trụ bờ kia, "ba" là biểu hiện về bờ kia, "Lỗ-sư" là biểu hiện về trụ. Hiện tại lấy mật nghĩa tương ưng với câu đáp nên đáp: "Là nếu khéo an trụ đối tượng nhận thức là bờ kia", là nghĩa đến chỗ nhận thức về bờ kia mà trụ. Thế nào là có thể tà kiến? Là trong sắc… quán như thật thấy tà tánh biến hành, tức là trong Y tha khởi, quán như thật thấy Biến kế sở chấp là nghĩa tà tánh. Trong văn mười nghiệp đạo bất thiện, các nghĩa khác dễ hiểu.
Luận nói: "Pháp Phật sâu xa, thế nào là pháp Phật sâu xa? Trong đây phải giải thích pháp thường trụ là pháp của chư Phật, vì Pháp thân của Phật là thường trụ. Lại nữa, pháp đoạn diệt là pháp của chư Phật, vì tất cả chướng vĩnh viễn đoạn diệt. Lại nữa, pháp sinh khởi là pháp của chư Phật, vì thân biến hóa hiện tại khởi. Lại nữa, có pháp sở đắc là pháp của chư Phật, vì tám vạn bốn ngàn hạnh của các hữu tình và đối trị các hạnh đó đều có thể đắc. Lại nữa, có pháp tham là pháp của chư Phật, vì tự thệ nguyện thâu nhận hữu tình có tham làm thể của chính mình. Lại nữa, có pháp sân là pháp của chư Phật, lại có pháp si là pháp của chư Phật, lại có pháp dị sinh là pháp của chư Phật, phải biết cũng như thế. Lại nữa, pháp vô tham là pháp của chư Phật, vì thành tựu viên mãn chân như, tất cả cấu không thể nhiễm. Lại nữa, pháp không nhiễm ô là pháp của chư Phật, vì sinh tại thế gian nhưng các thế gian pháp không thể nhiễm ô, nên gọi là pháp Phật sâu xa.
Giải thích: Lại có chỗ khác khế kinh nói: "Pháp thường trụ là pháp của chư phật… nói rộng cho đến pháp không nhiễm ô là pháp của chư Phật", ý nghĩa sâu xa trong đây bây giờ sẽ hiển thị. Vì thể Pháp thân của Phật là thường trụ, nói pháp nầy làm pháp thường trụ. Pháp đoạn diệt, là chỗ có chướng cấu đều đoạn trừ. Do nghĩa nầy nên nói pháp nầy làm pháp đoạn diệt. Pháp sở đắc pháp là pháp của Phật, là tám vạn bốn ngàn hạnh của hữu tình và đối trị tám vạn bốn ngàn hạnh kia đều có thể được, nên nói pháp nầy tên là hữu sở đắc. Pháp vô nhiễm, là chân như thanh tịnh, là chỗ không thể nhiễm của tất cả chướng cấu, nên nói pháp nầy tên là pháp vô nhiễm. Các nghĩa khác dễ hiểu không phiền giải thích lại.
Luận nói: "Lại nữa, vì có khả năng dẫn phát tu đến bờ kia thành thục hữu tình, làm thanh tịnh quốc độ Phật là pháp của chư Phật, phải biết cũng là tác nghiệp sai biệt đẳng trì của Bồ-tát".
Giải thích: Trước chưa nói tác nghiệp sai biệt, bây giờ trong đây lại hiển tác nghiệp đẳng trì của Bồ-tát, là các Bồ-tát nương vào Tam-ma-địa có thể tu tất cả Ba-la-mật-đa. Lại nữa, nương vào định nầy có thể thành thục tất cả hữu tình, phát khởi vô số phương tiện của các thần thông, dẫn hữu tình nhập chánh pháp. Lại nữa, do lực nầy có thể khéo làm thanh tịnh tất cả cõi Phật, tâm được tự tại, tùy sự mong muốn mà cõi Phật có thể trở thành các bảo vật như kim ngân. Lại nữa, do lực nầy có thể chánh tu tập tất cả pháp Phật, đó là tác nghiệp sai biệt của Tam-ma-địa.
---------------------------------------
Luận nói: "Như vậy, đã nói thù thắng của tâm tăng thượng, thù thắng của tuệ tăng thượng làm sao thấy được? Là trí Vô phân biệt, hoặc tự tánh, hoặc chỗ dựa, hoặc nhân duyên, hoặc đối tượng duyên, hoặc hành tướng, hoặc nhận giữ, hoặc trợ bạn, hoặc dị thục, hoặc đẳng lưu, hoặc xuất ly, hoặc đến cứu cánh, hoặc gia hạnh không phân biệt hậu đắc thắng lợi, hoặc sai biệt hoặc hậu đắc thí dụ không phân biệt, hoặc tác sự không công dụng, hoặc thậm thâm, phải biết trí Vô phân biệt gọi là tuệ tăng thượng thù thắng".
Giải thích: Hiện tại là chính lúc nói tuệ tăng thượng. Trong đây có ý nói trí Vô phân biệt gọi là huệ học tăng thượng. Trí nầy lại có ba thứ: 1. Trí Vô phân biệt gia hạnh, là tầm tư tuệ. 2. Trí Vô phân biệt căn bản, là tuệ chánh chứng. 3. Trí Vô phân biệt hậu đắc là huệ khởi dụng. Trong đây tuệ mong cầu là tuệ tăng thượng thứ nhất, tuệ nội chứng là tuệ tăng thượng thứ hai, tuệ gồm thâu là tuệ tăng thượng thứ ba. Bây giờ lại thành lập trí Vô phân biệt, vì chỉ có trí nầy thông với nhân quả, chính trí tầm tư là nhân của trí nầy, chính trí hậu đắc là quả của trí nầy, nên thành lập trí nầy thì thành lập luôn cả hai trí kia.
Luận nói: "Trí Vô phân biệt trong đây, là lìa năm thứ tướng để làm tự tánh: 1. Lìa không tác ý. 2. Lìa địa có lỗi có tầm có từ. 3. Lìa tưởng thọ diệt tịch tĩnh. 4. Lìa tự tánh sắc. 5. Lìa chân nghĩa khác với lường tính. Lìa năm tướng nầy, phải biết gọi đó là trí Vô phân biệt".
Giải thích: Lại trước hết nói cả thảy tự tánh của trí Vô phân biệt. Thể tướng trong đây gọi là tự tánh, là trí Vô phân biệt của các Bồ-tát lìa năm thứ tướng để làm tự tánh. "Năm thứ tướng", nếu không tác ý là trí Vô phân biệt, thì ngủ, say, ngất xỉu… đáng lẽ thành trí Vô phân biệt. Nếu địa có lỗi có tầm có từ là trí Vô phân biệt thì các địa của đệ nhị tĩnh lự trở lên phải thành trí Vô phân biệt. Nếu như vậy thì thế gian đáng lẽ phải đắc trí Vô phân biệt. Nếu trong các vị của tưởng thọ diệt… tâm và tâm pháp không chuyển là trí Vô phân biệt thì vị của các định diệt không có tâm, thì trí đáng lẽ không thành. Nếu như tự tánh sắc là trí Vô phân biệt, như các sắc kia là trì độn vô tư duy, thì trí nầy đáng lẽ thành trì độn, vô tư duy. Lại có nghĩa khác, nếu như tánh sắc không nên thành, hoặc đối với chân nghĩa khác với lường tính chuyển, thì trí Vô phân biệt đáng lẽ có phân biệt, là phân biệt nói đây là chân nghĩa. Nếu trí xa lìa năm tướng như vậy, thì chân nghĩa chuyển trong chân nghĩa không khác với lường tính. Đây là chân nghĩa trí Vô phân biệt, khi có tướng duyên chân nghĩa như vậy, ví như nhãn thức không khác với lường tính, đây là nghĩa của nó.
Luận nói: "Đối với điều đã giảng như vậy thì trí Vô phân biệt trong thành lập tướng, lại nói nhiều bài tụng".
Giải thích: Đối với điều đã nói trên, trí Vô phân biệt trong thành lập sơ lược, có nói rộng nhiều bài tụng.
Luận nói:
"Tự tánh các Bồ-tát,
Xa lìa năm thứ tướng,
Là trí Vô phân biệt,
Không khác xét nơi chân".
Giải thích: Do bài tụng thứ nhất nầy hiển chỗ nói trí Vô phân biệt đã nói trên, nghĩa của tự tánh thứ nhất đã nói như vậy, tự tánh của trí nầy nương vào đó mà chuyển. Tiếp theo tụng sẽ nói.
Luận nói:
"Chỗ dựa các Bồ-tát,
Phi tâm mà là tâm,
Là trí Vô phân biệt,
Không nghĩa tư chủng loại".
Giải thích: Như vậy điều nói về trí Vô phân biệt, là phải nói dựa tâm hay là dựa phi tâm. Nếu nói dựa tâm có thể lường xét, gọi là tâm dựa tâm mà chuyển, thì vô phân biệt đó không đúng đạo lý, nếu dựa phi tâm thì không thành trí. Để tránh hai lỗi như vậy nên nói tụng này. Chỗ dựa của trí nầy không gọi là tâm vì bất tư nghì, cũng không phải phi tâm vì là chỗ nêu dẫn của tâm. Chỗ dựa của sinh là chủng loại của tâm, cũng gọi là tâm nhân theo chủng loại kia mà sinh. Tụng tiếp theo sẽ hiển thị.
Luận nói:
"Nhân duyên các Bồ-tát,
Có nói, nghe huân tập,
Là trí Vô phân biệt,
Và tác ý như lý".
Giải thích: "Nhân duyên các Bồ-tát", là nhân của trí này. "Có nói, nghe huân tập", là do âm thanh của người khác. "Và tác ý như lý", là huân tập nầy làm nhân ý, trí Vô phân biệt nhân theo đây mà sinh. Lại có đối tượng duyên gì, tụng tiếp theo sẽ hiển thị.
Luận nói:
"Sở duyên các Bồ-tát,
Pháp tánh không thể nói,
Là trí Vô phân biệt,
Tánh chân như vô ngã".
Giải thích: "Pháp tánh không thể nói", là do tự tánh Biến kế sở chấp mà tất cả các pháp đều không thể nói. Những gì gọi là tánh không thể nói? Là chân như được làm sáng tỏ bởi tánh vô ngã, Biến kế sở chấp Bổ-đặcgià-la, và hết thảy pháp đều không có tự tánh, gọi là tánh vô ngã, tức là chỗ hiển hữu tánh của vô tánh nầy gọi là chân như, chớ lấy đoạn diệt mà nói "lời" này. Lại nữa, đối với hành tướng của đối tượng duyên và chỗ tạo tác, tụng tiếp theo sẽ hiển thị.
Luận nói:
"Hành tướng các Bồ-tát,
Ở trong đối tượng duyên,
Là trí Vô phân biệt,
Sở tri vô tướng kia".
Giải thích: Hành tướng của Bồ-tát là sự hiện vô tướng trong đối tượng duyên, tức là trí nầy bình đẳng trong chân như. Bình đẳng sinh khởi thì không khác với tướng của vô tướng. Lấy làm hành tướng, như nhãn lấy sắc mà thấy tướng xanh vàng, không phải xanh vàng nầy cùng với sắc có khác nhau. Tướng nầy cũng vậy, trí cùng với chân như không khác với hành tướng, tức là trong đây vì giải thích nghi vấn nên lại nói hai bài tụng.
Luận nói:
"Nghĩa tự tánh tương ưng,
Không ngoài chỗ phân biệt,
Chữ lần lượt tương ưng,
Đó là nghĩa tương ưng".
Không lìa năng thuyên kia,
Trí chuyển nơi sở thuyên
Vì phi thuyên bất đồng,
Tất cả không thể nói".
Giải thích: Nếu tất cả pháp đều không thể nói thì lấy những gì để làm bị phân biệt? Giải thích câu hỏi nầy nên nói những câu như vậy. "Nghĩa tự tánh tương ưng, không ngoài chỗ phân biệt", tức là tương ưng làm nghĩa của tự tánh, tức là chỗ phân biệt không lìa tự tánh nầy, nên nói là "không ngoài". Tánh nầy làm sao thành? Vì thành lập lại nên nói lời như vậy. "Tự (chữ) lần lượt tương ưng, đó là nghĩa tương ưng", là riêng từng chữ tương tục nêu truyền để thành ý nghĩa của nó, là "nghĩa tương ưng", như nói chước-sô, hai chữ phát âm không lìa nhau mới thành nghĩa là nhãn, nghĩa tương ưng đó làm chỗ phân biệt. Lại nữa, tất cả pháp đều là không thể nói thì do đâu mà thành lập? Nên lại nói "không lìa năng thuyên kia, trí chuyển nơi đối tượng được nêu bày", nếu không hiểu rõ danh của năng thuyên thì biết rõ đối với nghĩa sở thuyên không khởi, nên tất cả pháp đều là không thể nói. Nếu nói phải chờ danh của năng thuyên đối với nghĩa sở thuyên có hiểu biết khởi, để ngăn cản lỗi nầy, nên nói câu "vì phi thuyên bất đồng". Năng thuyên danh cùng với nghĩa sở thuyên tương xứng lẫn nhau, mỗi mỗi đều khác tướng, năng thuyên đối với sở thuyên đều là không thể nói, do nguyên nhân nầy nên nói "tất cả pháp đều không thể nói". Trí Vô phân biệt nhận giữ chỗ nào?
Luận nói:
"Các Bồ-tát nhận giữ,
Là trí Vô phân biệt,
Các hành hậu sở đắc,
Vì tiến tới tăng trưởng".
Giải thích: Do trí Vô phân biệt hậu sở đắc đắc hạnh Bồ-tát, hạnh nầy nương trí Vô phân biệt. "Vì tiến hướng tăng trưởng", là khiến cho các hạnh Bồ-tát tăng trưởng như vậy, trí Vô phân biệt là các Bồ-tát kia nhận giữ. Trí nầy lại lấy gì làm trợ bạn?
Luận nói:
"Các Bồ-tát trợ bạn,
Nói là hai thứ đạo,
Là trí Vô phân biệt,
Năm tánh đến bờ kia".
Giải thích: Hai thứ đạo: 1. Đạo tư lương. 2. Đạo chỗ dựa. Đạo tư lương là thí, giới, nhẫn và tinh tấn Ba-lamật-đa. Đạo chỗ dựa tức là tĩnh lự Ba-la-mật-đa, như đã nói trước chỗ sinh các thiện của Ba-la-mật-đa và nương vào tĩnh lự Ba-la-mật-đa mà trí Vô phân biệt liền được sinh trưởng, trí nầy gọi là huệ Ba-la-mật-đa. Cho đến khi chưa đắc Phật quả về sau, chỗ cảm quả dị thục của trí Vô phân biệt nầy tại nơi đâu?
Luận nói:
Các Bồ-tát dị thục,
Trong hai hội của Phật,
Là trí Vô phân biệt,
Do gia hạnh chứng đắc".
Giải thích: "Trong hai hội của Phật", là trong hội của thân thọ dụng và trong hội của thân biến hóa, nếu khi trí Vô phân biệt gia hạnh chuyển thì trong hội của thân biến hóa thọ sinh, thọ quả dị thục. Nếu chứng đắc trí Vô phân biệt thì trong hội của thân thọ dụng thọ sinh, thọ quả dị thục. Để hiển nghĩa nầy, lại nói do gia hạnh mà chứng đắc, thì trí Vô phân biệt nầy cái gì đẳng lưu?
Luận nói:
Các Bồ-tát đẳng lưu,
Trong mỗi mỗi đời sau,
Là trí Vô phân biệt,
Tự thể chuyển tăng thắng.
Giải thích: "Các Bồ-tát đẳng lưu, trong mỗi mỗi đời sau", là kế trước đã nói đại hội của hai thân trong mỗi mỗi đời sau. "Là trí Vô phân biệt, tự thể chuyển tăng thắng", tức là ngay chỗ tu đó mà trí Vô phân biệt dần dần tăng thắng, phải biết tức là quả đẳng lưu kia. Trí Vô phân biệt xuất ly như thế nào?
Luận nói:
Các Bồ-tát xuất ly,
Đắc thành tựu tương ưng,
Là trí Vô phân biệt,
Phải biết nơi mười địa.
Giải thích: "Các Bồ-tát xuất ly", vì tiến đến cứu cánh nên gọi là xuất ly, tức là tiến đến nghĩa đại Niếtbàn. "Đắc thành tựu tương ưng, là trí Vô phân biệt", ban đầu đạt được trí nầy gọi là đắc tương ưng, thì sau đó vô lượng trăm ngàn đại kiếp thành tựu tương ưng. "Phải biết nơi mười địa", tức là từ địa thứ nhất cho đến địa thứ mười, thứ lớp như vậy, trí nầy từ địa thứ nhất chỉ gọi là đắc, sau đó nhiều thời gian mới gọi là thành tựu, nên Bồtát trải qua vô số kiếp mới chứng Niết-bàn. Do thời gian như vậy mới đến cứu cánh, thì trí Vô phân biệt cái gì làm cứu cánh mà trước đã nói thứ lớp đạt được?
Luận nói:
Các Bồ-tát cứu cánh,
Đắc ba thân thanh tịnh,
Là trí Vô phân biệt,
Đắc tự tại tối thượng.
Giải thích: "Đắc ba thân thanh tịnh", tức là đắc nghĩa ba thân tịnh của Như Lai. Thanh tịnh, là trong địa thứ nhất chỉ đắc ba thân, đến địa thứ mười mới hoàn toàn thanh tịnh. "Đắc tự tại tối thượng", là trí Vô phân biệt không phải chỉ chứng tịnh ba thân lấy làm cứu cánh, mà lại đạt được mười thứ tự tại, tự tại nầy như sau nói, phải biết tướng của nó. Trí Vô phân biệt có thắng lợi gì? Trong đây ba thứ trí Vô phân biệt: 1. Trí Vô phân biệt gia hạnh. 2. Trí Vô phân biệt căn bản. 3. Trí Vô phân biệt hậu đắc. Trong đây trí Vô phân biệt gia hạnh, là ban đầu các Bồ-tát từ người khác nghe lý vô phân biệt, kế đó tuy chưa thể tự thấy lý nầy, nhưng có sinh thắng giải, rồi thắng giải nầy làm chỗ nương phương tiện suy tầm lý vô phân biệt, gọi đó là trí Vô phân biệt gia hạnh, do đây có thể sinh trí Vô phân biệt, vì thế, cũng đắc danh vô phân biệt, như vậy trí Vô phân biệt gia hạnh có thắng lợi là vô nhiễm. Thí dụ đó như thế nào?
Luận nói:
Như hư không chẳng nhiễm,
Là trí Vô phân biệt,
Vô số cực trọng ác,
Do chỉ tin thắng giải.
Giải thích: Vì muốn hiển thị không thể nhiễm kia nên nói câu "vô số ác cực trọng". Vì muốn hiển thị nhân bất chủ thể nhiễm nên nói "do chỉ tin thắng giải". Nói do chỉ tin ưa lý vô phân biệt mà khởi thắng giải, nên có thể đối trị các thứ cõi ác, đây là hiển thị không nhiễm các ác, trong đây thắng lợi không nhiễm của trí căn bản không phân biệt, tướng của nó thế nào?
Luận nói:
Như hư không chẳng nhiễm, Là trí Vô phân biệt, Giải thoát tất cả chướng, Đắc thành tựu tương ưng.
Giải thích: Từ đâu mà giải thoát? Là giải thoát tất cả chướng. Do đâu mà giải thoát? Là giải thoát thành tựu tương ưng như vậy, do đối với các địa chỉ đắc tương ưng. Thành tựu tương ưng lấy làm nhân, đây là hiển thị trí Vô phân biệt có thể trị các chướng. Trong đây thắng lợi vô nhiễm của trí hậu đắc vô phân biệt, tướng của nó thế nào?
Luận nói:
Như hư không không nhiễm,
Là trí Vô phân biệt,
Thường hành nơi thế gian,
Thế pháp không thể nhiễm.
Giải thích: Do trí lực nầy quán sát các sự lợi lạc của các hữu tình, nghĩ tưởng đến thế gian kia thọ sinh, đã thọ sinh rồi, tất cả thế pháp không thể làm nhiễm ô, thế pháp có tám thứ: 1. Lợi. 2. Suy. 3. Dự. 4. Huỷ. 5. xưng. 6. Cơ. 7. Khổ. 8. Lạc. Vì từ chỗ sinh của trí Vô phân biệt thì trí nầy cũng đắc danh vô phân biệt, bây giờ sẽ hiển thị ba trí sai biệt này.
Luận nói:
Như câm cầu thọ nghĩa,
Như câm đang thọ nghĩa,
Như phi câm thọ nghĩa,
Ba trí dụ như vậy.
Như ngu cầu thọ nghĩa,
Như ngu đang thọ nghĩa,
Như phi ngu thọ nghĩa,
Ba trí dụ như vậy.
Như năm cầu thọ nghĩa,
Như năm đang thọ nghĩa,
Như mạt-na thọ nghĩa,
Ba trí dụ như vậy.
Như chưa hiểu nơi luận,
Cầu luận thọ nghĩa pháp,
Thứ lớp dụ ba trí,
Phải biết các gia hạnh.
Giải thích: Trong đây ba trí như thí dụ của nó, phải biết sai biệt thí dụ như người câm cầu thọ nghĩa của cảnh, không thể nói được, như vậy trí Vô phân biệt gia hạnh, phải biết cũng vậy. Ví dụ như người câm đang thọ nghĩa của cảnh, im lặng không nói năng, như vậy trí Vô phân biệt hậu đắc phải biết cũng như thế. Ví như người không phải câm, đã thọ nghĩa của cảnh rồi, như chỗ thọ đó mà khởi nói năng, như vậy trí Vô phân biệt hậu đắc, phải biết cũng như thế. Trong đây có ý lấy văn tự có thể tạo tác gọi là ngôn thuyết, như ngu trong bài tụng, không có chỗ hiểu rõ thì gọi là ngu, như thí dụ câm ở trước, chính là an lập ba trí sai biệt. Như thí dụ năm trong bài tụng, năm là nhãn… năm ô phân biệt, phải biết trong đó cầu thọ chính là thọ cùng vô phân biệt. Gia hạnh căn bản đối với nghĩa chân như sai biệt cũng như thế, như ý thọ nghĩa cũng có thể phân biệt, như vậy hậu đắc cũng có thể thọ nghĩa, cũng có thể phân biệt. Như vậy ba trí như thí dụ câm trước an lập sai biệt. Như luận trong bài tụng, nếu chưa hiểu luận thì đối với luận cầu hiểu, như vậy trí Vô phân biệt gia hạnh phải biết cũng như thế. Như ôn tập luận thì chỉ thọ đối với năm pháp, như vậy căn bản trí Vô phân biệt phải biết cũng như thế. Chữ pháp trong đây, có ý lấy văn tự như giải thích luận, đối với pháp đối với nghĩa đều có thể lãnh thọ, như vậy trí Vô phân biệt hậu đắc phải biết cũng như thế theo thứ tự mà nói, để hiển thị ba trí tương tợ đối với nghĩa pháp lãnh thọ sai biệt. Tiếp theo sẽ hiển thị thí dụ sai biệt của căn bản hậu đắc.
Luận nói:
Như người đang nhắm mắt,
Là trí Vô phân biệt,
Khi người kia mở mắt,
Trí hậu đắc cũng vậy.
Phải biết như hư không,
Là trí Vô phân biệt,
Trong đó hiện sắc tượng,
Trí hậu đắc cũng vậy.
Giải thích: Bài tụng thứ nhất hiển thị hai trí sai biệt, tướng của nó có thể biết. "Như hư không", là thí dụ như hư không hiện hữu khắp không có nhiễm ô, phi đối tượng phân biệt, phi sở phân biệt, như vậy trí Vô phân biệt căn bản phải biết cũng như thế. Khắp tất cả pháp nhất vị không tánh nên gọi là hiện hữu khắp, chỗ tất cả pháp không thể nhiễm ô nên gọi là vô nhiễm. Tự vô phân biệt nên gọi là phi chủ thể phân biệt, cũng không bị pháp khác phân biệt hành tướng nên gọi là phi đối tượng phân biệt, như vậy phải biết trí Vô phân biệt ví như hư không. "Hiện sắc tượng", là ví dụ chỗ hiện sắc tượng trong hư không có thể phân biệt, như vậy trí Vô phân biệt hậu đắc phải biết cũng như vậy. Vì đối tượng phân biệt đó cũng là chủ thể phân biệt, nếu lấy trí Vô phân biệt như vậy tu thành Phật quả, đã lìa tác ý công dụng phân biệt thì làm sao có thể thành sự an lạc, lợi ích các hữu tình?
Luận nói:
Như thiên nhạc mạt-ni,
Vô tưởng thành tự sự,
Vô số Phật sự thành,
Thường lìa tư cũng vậy.
Giải thích: Như lìa phân biệt sự tạo tác thành, trong tụng nầy, thí dụ mạt-ni thiên nhạc là hiển như ngọc như ý, tuy không có phân biệt nhưng có thể làm thành tùy theo sự ưa thích của hữu tình. Lại nữa, như thiên nhạc không có người hoà tấu, tùy theo ý thích của hữu tình sinh xứ đó mà phát ra vô số âm thanh, như vậy phải biết trí Vô phân biệt của chư Phật, Bồ-tát tuy lìa phân biệt mà có thể làm thành tựu vô số sự nghiệp. Tiếp theo hiển thị chỗ thậm thâm của trí Vô phân biệt nầy, trí ấy làm duyên cho tánh Y tha khởi, phân biệt sự chuyển thì làm duyên cho các cảnh khác. Nếu như thế thì có lỗi gì? Nếu duyên phân biệt thì vô phân biệt tánh đáng lẽ không được thành. Nếu duyên các cảnh khác, các cảnh khác quyết định không có làm sao được duyên?
Luận nói:
Không phải đây và kia,
Phi trí mà là trí,
Cùng với cảnh không khác,
Trí thành không phân biệt.
Giải thích: "Không phải đây và kia", là trí nầy không duyên phân biệt làm cảnh, vì không có phân biệt, không duyên cảnh khác tức là duyên y tha, vì chân như pháp tánh của các pháp phân biệt làm cảnh giới. Pháp và pháp tánh hoặc nhất hoặc dị thì không thể nêu, đây là nói trí Vô phân biệt căn bản, không duyên phân biệt cũng không duyên pháp khác.
Hỏi: Lại nữa, trí Vô phân biệt căn bản nầy là trí hay là không phải trí? Nếu như thế thì có lỗi gì? Nếu là trí, tại sao là trí mà là không phân biệt? Nếu phi trí, tại sao nói là trí Vô phân biệt?
Đáp các câu hỏi này: "Phi trí mà là trí", đây là hiển trí Vô phân biệt căn bản không phải quyết định là trí, tương tợ trí nầy không sinh trong trí Vô phân biệt gia hạnh. "Cũng phi phi trí", vì từ nhân của trí phân biệt gia hạnh mà được sinh. Lại có nghĩa khác, "không phải đây, không phải kia, không phải trí mà là trí", vì không phải đối với phân biệt nầy chuyển nên gọi là phi trí, vì không phải đối với các phân biệt khác tức là đối với pháp tánh phân biệt mà chuyển nên cũng là trí, câu trước và câu sau giải thích lẫn nhau. "Cùng với cảnh không khác, trí thành vô phân biệt", không giống như trí Vô phân biệt gia hạnh, vì có tánh của chủ thể giữ lấy và đối tượng được giữ lấy của nó chuyển gọi là vô phân biệt, cùng với vô phân biệt của chỗ giữ lấy cảnh mà chuyển. Bình đẳng bình đẳng gọi là vô phân biệt, trí nầy không trụ trong hai tánh của đối tượng được giữ lấy và chủ thể giữ lấy. Như đức Bạc-già-phạm trong khế kinh khác nói: "Tất cả pháp đều là vô phân biệt". Vì muốn hiển thị nghĩa vô phân biệt, lại nói tụng.
Luận nói:
Phải biết tất cả pháp,
Bản tánh không phân biệt,
Sở phân biệt không có,
Trí Vô phân biệt không.
Giải thích: "Phải biết tất cả pháp, bản tánh là vô phân biệt", là tất cả pháp hoàn toàn, nghĩa tự, tánh là vô phân biệt. Tại sao vậy? Vì sở phân biệt không có. Đây là chỉ rõ sở phân biệt là không có, bản tánh của các pháp không có phân biệt.
Hỏi: Nếu sở phân biệt là không có, thì tại sao hoàn toàn tất cả hữu tình không được giải thoát?
Đáp: Trí Vô phân biệt không có đây để làm rõ kia, không có trí Vô phân biệt, tuy tất cả pháp hoàn toàn, tự tánh không có phân biệt nhưng không được giải thoát. Nếu đối với lý vô phân biệt nơi các pháp mà trí chân chứng sinh thì hiện thấy các pháp không có tánh phân biệt, tức là được giải thoát, vì trí nầy chưa sinh nên chưa được giải thoát. Trí chân chứng, phải biết tức là trí Vô phân biệt. Bây giờ sẽ hiển thị ba trí sai biệt này.
Luận nói: "Trong đây trí Vô phân biệt gia hạnh có ba thứ, là vì nhân duyên dẫn phát luôn tập mà sinh sai biệt".
Giải thích: Ở đây trí Vô phân biệt gia hạnh có ba thứ sai biệt, hoặc là do lực chủng tánh, hoặc do lực tiền sinh dẫn phát, hoặc do lực hiện tại luôn tập mà được sinh. "Lực chủng tánh", là chủng tánh làm nhân mà được sinh. "Lực tiền sinh dẫn phát", là do sự luyện tập quen trong đời trước làm nhân mà được sinh. "Lực hiện tại luôn tập", là do lực sĩ dụng của đời hiện tại làm nhân mà được sinh.
Luận nói: "Trí Vô phân biệt căn bản cũng có ba thứ sai biệt, là hỷ túc, không điên đảo, vô hý luận, vì không có phân biệt sai biệt".
Giải thích: Trong đây hỷ túc vô phân biệt, phải biết là văn và tư đã đến cứu cánh, vì do hỷ túc nên không sinh phân biệt trở lại, gọi là trí hỷ túc vô phân biệt, là các Bồ-tát trụ địa dị sinh, nếu đắc giác huệ văn tư cứu cánh thì sinh hỷ túc, khởi nghĩ: "Nếu chỗ văn, tư đến cùng cực nơi đây, thì do nghĩa đó nên gọi là trí hỷ túc vô phân biệt". Lại có nghĩa khác, phải biết là thế gian cũng có trí hỷ túc vô phân biệt, là các hữu tình đến thứ nhất hữu kiến làm Niết-bàn, liền sinh hỷ túc khởi nghĩ như vầy: "Qua khỏi đây thì không có chỗ đáng phải đến", gọi là trí hỷ túc vô phân biệt.
Không điên đảo không phân biệt, là thuộc Thanhvăn, Độc-giác, phải biết nhị thừa kia thông đạt chân như, đắc bốn trí vô đảo của vô thường… từ bốn điên đảo phân biệt của vô thường… gọi là trí không điên đảo không phân biệt.
Không hý luận không phân biệt, là các Bồ-tát, phải biết Bồ-tát đối với tất cả pháp cho đến Bồ-đề đều không có hý luận, phải biết chỗ chứng chân như của trí nầy vượt qua đường ngôn ngữ, siêu khỏi cảnh của trí thế gian, do đó danh ngôn không thể nói, các trí thế gian không thể hiểu rõ.
Luận nói: "Trí Vô phân biệt hậu đắc có năm thứ, là thông đạt, tùy niệm, an lập, hòa hợp và như ý, vì xét chọn sai biệt".
1. Giải thích: Năm thứ sai biệt của trí hậu đắc nầy là: xét chọn thông đạt. xét chọn tùy niệm. xét chọn an lập. xét chọn hoà hợp. xét chọn như y.
Trong đấy thông đạt xét chọn, là khi thông đạt thì tư duy chọn lựa như vầy: "Ta đã thông đạt rồi", ở đây ý của xét chọn là lấy giác để quán sát. Xét chọn tùy niệm, là từ thông đạt nầy mà phát xuất tùy theo ức niệm: "Ta đã thông đạt tánh vô phân biệt". Xét chọn an lập, là vì người khác mà nói sự thông đạt này. Xét chọn hoà hợp, là trí tổng duyên quán tất cả pháp đều đồng một tướng, do trí nầy nên tiến đến chuyển y, hoặc đã chuyển y rồi mà khởi lại trí này. Xét chọn như ý, là tùy chỗ tư duy mà tất cả đều như ý, do xét chọn nầy mà có thể biến đất… khiến thành kim, ngân… vì được như ý mà khởi xét chọn nầy, nên gọi là xét chọn như ý. Như có người nói: "Do xét chọn mà liền được như ý". Tuy đã thành lập trí Vô phân biệt, nhưng cũng chưa nói thành lập nhân duyên nên lại nói những bài tụng sau để hiển thị:
Luận nói: Lại có nhiều bài tụng thành lập trí Vô phân biệt như vậy:
Quỉ, bàng sinh, nhân, thiên,
Mỗi loài tùy thích ứng,
Sự đồng nhưng tâm khác,
Nhận nghĩa không chân thật.
Đối với sự quá khứ,
Mộng tượng trong hai ảnh,
Tuy chỗ duyên không thật,
Nhưng cảnh tướng thành tựu.
Nếu tánh nghĩa nghĩa thành,
Không trí Vô phân biệt,
Đây nếu không Phật quả,
Chứng đắc không đúng lý.
Bồ-tát đạt tự tại,
Vì do lực thắng giải,
Như muốn địa cùng thành,
Người đắc định cũng vậy.
Người thành tựu xét chọn,
Người có trí đắc định,
Tư duy tất cả pháp,
Như nghĩa đều hiển hiện.
Trí Vô phân biệt hành,
Các nghĩa đều không hiện,
Phải biết không có nghĩa,
Do đó không có thức.
Giải thích: "Quỉ, bàng sinh, nhân, thiên, mỗi loài tùy thích ứng", là đối với chỗ thấy nơi có nước của loài bàng sinh, thì loài ngạ quỉ thấy đó là lục địa cao nguyên, đối với chỗ thấy nơi có phẩn uế của con người, thì loài bàng sinh như heo… thấy đó là nhà cửa tịnh diệu đáng ở, đối với chỗ thấy của con người là ẩm thực tịnh diệu, thì chư thiên thấy là hôi dơ bất tịnh, như vậy tâm của chúng sinh trong các sự thấy khác nhau, phải biết nghĩa cảnh không phải có chân thật. Nếu nghĩa thật ra không có thức thì phải không có cảnh. Có không cảnh thức, như duyên quá khứ và vị lai, như duyên ảnh tượng trong mộng tượng, như duyên gương soi… và chỗ hiện hành ảnh tượng của Tam-ma-địa. Vì hiển nghĩa nầy nên nói một bài kệ, là đối với quá khứ… trong đây nửa bài tụng trước do nửa bài tụng sau giải thích, phải biết tướng của nó là như thứ tự của nó, do không có riêng thật cảnh, nên nói có "không cảnh thức", do tự biến làm cảnh nên nói "cảnh tướng thành tựu", tức là tự duyên nghĩa ảnh tượng của tâm, là duyên hai ảnh tượng của quá khứ và vị lai, thứ tự an lập cảnh tướng thành tựu. "Nếu tánh nghĩa nghĩa thành, không trí Vô phân biệt", là nếu nghĩa thật có tự tánh của nghĩa thì phải không có trí Vô phân biệt. Nếu không có trí Vô phân biệt thì sẽ có lỗi gì? Đây là "nếu không có Phật quả, chứng đắc không đúng lý", là nếu ông bác không có trí Vô phân biệt thì không nên chứng đắc Phật quả, phải quyết định thừa nhận có trí Vô phân biệt như vậy. "Bồ-tát đắc tự tại", là Bồ-tát đã chứng đắc tự tại. "Vì do lực thắng giải", là do diệu lực nguyện lạc. "Như muốn đất thành vàng", là như muốn đất… thành các tướng kim, ngân... Tùy theo sự mong muốn mà thành. "Người đắc định cũng vậy", là các Thanh-văn, Độc-giác khác. "Người thành tựu lựa chọn", là người đã thành mãn Tỳ-bát-xá-na. "Người có trí", là các Bồ-tát. "Đắc định", là đắc Tam-ma-địa. "Tư duy tất cả pháp, như nghĩa đều hiển hiện", là định huệ của Bồ-tát gồm thâu tâm tại bên trong, như vậy mà tư duy nghĩa pháp của các kinh, như vậy như vậy đều được hiển hiện. Nếu khi niệm Phật thì tùy chỗ nhớ nghĩ nghĩa của Phật trong các pháp hiển hiện, tư duy sắc thọ phải biết cũng vậy. "Trí Vô phân biệt hành, các nghĩa đều không hiện", là trí Vô phân biệt khi đang hiện hành thì tất cả nghĩa cảnh đều không hiển hiện. "Phải biết không có nghĩa", là do trước đã nói vô số đạo lý, phải biết nghĩa cảnh thật ra là không có, vì muốn hiển thức của nó như cảnh cũng không nên nói: "Do đó không có thức". Nghĩa cảnh của đối tượng thức hiện đã là không có. Do đây, phải biết chủ thể thức cũng không có. Nghĩa nầy như trước trong tướng của đối tượng nhận thức đã hiển rõ ràng.
Luận nói: "Bát-nhã Ba-la-mật-đa cùng với trí Vô phân biệt có sai biệt, như nói Bồ-tát an trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa phi xứ tương ưng, có thể đối với Ba-la-mật-đa nơi khác mà tu tập viên mãn. Thế nào gọi là phi xứ tương ưng tu tập viên mãn? Là do xa lìa năm xứ: 1. Xa lìa xứ ngã chấp của ngoại đạo. 2. Xa lìa xứ phân biệt của Bồtát chưa thấy chân như. 3. Xa lìa xứ nhị biên của sinh tử và Niết-bàn. 4. Xa lìa xứ sinh hỷ túc chỉ đoạn phiền não chướng. 5. Xa lìa trụ xứ vô dư y Niết-bàn giới không đoái nhìn lợi ích an lạc của hữu tình".
Giải thích: Trí Vô phân biệt tức là Bát-nhã Ba-lamật-đa, do trong kinh kia nói: "Vì Bồ-tát an trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa phi xứ tương ưng, có thể đối với Ba-lamật-đa nơi khác mà tu tập viên mãn". Vì muốn khiến biết như vậy mà hiển thị đoạn văn đó.
"Xa lìa xứ ngã chấp của ngoại đạo", là như ngoại đạo trụ trong Bát-nhã chấp ngã, ngã sở, khởi nghĩ như vầy: "Ta có thể trụ Bát-nhã, Bát-nhã là của ta". Bồ-tát không như thế, vì xa lìa xứ ngã chấp của các ngoại đạo như vậy, phải biết gọi là phi xứ tương ưng, an trụ Bát-nhã Ba-lamật-đa.
"Xa lìa xứ phân biệt của Bồ-tát chưa thấy chân như", là như Bồ-tát chưa thấy chân như, trong vô phân biệt Bát-nhã Ba-la-mật-đa, mà phân biệt đây là Bát-nhã Ba-la-mật-đa, Bồ-tát xa lìa phân biệt như vậy, phải biết gọi là phi xứ tương ưng an trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa. "Xa lìa nhị biên xứ của sinh tử và Niết-bàn", là như thế gian an trụ sinh tử, các Thanh-văn, Độc-giác an trụ Niết-bàn. Bồ-tát thì không như thế, xa lìa nhị biên, phải biết gọi là phi xứ tương ưng an trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa. "Xa lìa xứ sinh hỷ túc chỉ đoạn phiền não chướng", là như Thanh-văn, Độc-giác chỉ đoạn phiền não chướng liền sinh hỷ túc. Bồ-tát thì không như thế, do ý nghĩa sâu xa nầy, phải biết gọi là phi xứ tương ưng an trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa. "Xa lìa xứ trụ Niết-bàn giới vô dư y không đoái nhìn lợi ích an lạc của hữu tình", là như Thanh-văn, Độc-giác không đoái nhìn lợi ích an lạc của hữu tình, đối với Niết-bàn vô dư y mà bát Niết-bàn. Bồ-tát thì không như thế, không trụ chỗ trụ của Thanh-văn, phải biết gọi là phi xứ tương ưng an trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Luận nói: "Trí của Thanh-văn, Độc-giác cùng với trí của Bồ-tát có gì khác nhau? Phải biết do năm thứ tướng sai biệt:
1. Do trí Vô phân biệt sai biệt, là đối với các pháp của uẩn… không có phân biệt.
2. Do phải không là ít phần khác nhau, là đối với thông đạt chân như nhập hết thảy cảnh giới đối tượng nhận thức, rộng vì độ thoát tất cả hữu tình, không phải là ít phần.
3. Do vô trụ sai biệt, là Niết-bàn vô trụ làm chỗ trụ.
4. Tất cánh sai biệt, là trong Niết-bàn vô dư y không có đoạn tận.
5. Do Vô thượng sai biệt, là đối với Vô thượng trên đây không có thừa nào khác vượt hơn thừa này. Trong đây có tụng:
Các đại bi làm thể,
Do năm trí tướng thắng,
Đầy trong thế, xuất thế,
Thừa nầy tối cao xa.
Giải thích: Trong đây hiển thị năm tướng sai biệt của trí Thanh-văn, Độc-giác cùng với trí Bồ-tát. Trí Vô phân biệt sai biệt, là trí của Thanh-văn, Độc-giác duyên thức phân biệt của các uẩn mà sinh, không phải trí của Bồ-tát phân biệt các uẩn. Không phải là ít phần sai biệt, là hiển ba thứ tánh không phải là ít phần: 1. Chỗ đạt chân như không phải là ít phần tánh. 2. Cảnh giới đối tượng nhận thức không phải là ít phần tánh. 3. Chỗ độ hữu tình không phải là ít phần tánh. Chỗ đạt chân như không phải là ít phần tánh, là trí Bồ-tát thông đạt đầy đủ về Bổ-đặc-già-la pháp tánh vô ngã, trí của Thanh-văn, Độc-giác khi nhập chân như chỉ có thể thông đạt tánh Bổ-đặc-già-la vô ngã. Cảnh giới đối tượng nhận thức không phải là ít phần tánh, là trí Bồ-tát duyên rộng tất cả của cảnh đối tượng nhận thức mà sinh, trí của Thanh-văn, Độc-giác chỉ duyên nơi… các đế như khổ mà sinh. Hữu tình được độ không phải là ít phần tánh, là trí Bồ-tát rộng vì độ thoát tất cả hữu tình, siêng năng tiến đến Bồ-đề, trí của Thanh-văn, Độc-giác thì chỉ cầu tự lợi.
Vô trụ sai biệt, là trí Bồ-tát chính là vì an trụ Niếtbàn vô trụ, không phải Thanh-văn, Độc-giác, nên có sai biệt.
Tất cánh sai biệt, là Thanh-văn, Độc-giác trong Niếtbàn vô dư y tất cả đều diệt tận, Bồ-tát trong cõi Niết-bàn nầy thì công đức vô tận, nên có sai biệt. Vô thượng sai biệt, là trên Thanh-văn, Độc-giác có Đại thừa, chính Bồtát thừa thì không có thừa nào trên nữa, nên có sai biệt. Vì hiển nghĩa nầy nên nói một bài kệ. "Đầy trong thế, xuất thế", là đầy trong cõi Sắc, cõi Vô sắc thế gian, và đầy trong thừa Thanh-văn, Độc-giác xuất thế gian.
Luận nói: "Nếu các Bồ-tát thành tựu công đức như vậy viên mãn của giới tăng thượng, chất-đa tăng thượng và Bát-nhã tăng thượng, đối với các tài vị đắc tự tại, tại sao hiện thấy có các hữu tình thiếu thốn tài vị? Vì thấy hữu tình kia vì đối với các tài vị có nghiệp chướng nặng, thấy hữu tình kia nếu thí tài vị thì chướng ngại sự sinh pháp thiện, thấy hữu tình kia nếu thiếu thốn tài vị chán lìa hiện tiền, thấy hữu tình kia nếu thí tài vị thì liền làm nhân tích tập pháp bất thiện, thấy hữu tình kia nếu thí tài vị thì liền làm nhân tổn não vô lượng hữu tình khác, nên hiện thấy có các hữu tình thiếu thốn tài vị. Trong đây có tụng:
Thấy nghiệp chướng hiện tiền,
Tích tập và tổn não,
Hiện có các hữu tình,
Không cảm Bồ-tát thí.
Giải thích: Ở đây hiển thị, do nhân duyên đó, Bồ-tát tuy đắc tài vị tự tại đại bi đầy đủ mà không thí tài vị cho hữu tình. "Vì thấy hữu tình kia đối với các tài vị có nghiệp chướng nặng", là các hữu tình có nghiệp ác chướng nơi thần lực của Bồ-tát, do ác nghiệp kia tạo chướng ngại nơi trí vô chướng ngại của Bồ-tát. Do thấy như vậy, tuy có gắng nhận, tuy hữu tình kia thiếu thốn, nhưng liền buông bỏ, trong đây phải dẫn thí dụ ngạ quỉ và dòng sông. Như dòng sông có nước, không có ai tạo chướng ngại nơi người uống, nhưng các ngạ quỉ do tự tội lỗi của nghiệp mà không uống được. Điều nầy cũng như vậy, sông thí dụ cho Bồ-tát, tài vị thí dụ cho nước, quỉ thí dụ cho hữu tình. Như loài ngạ quỉ kia không uống dùng chung nước sạch trong sông, như vậy là chúng không thọ dụng chung tài vị của Bồ-tát. "Thấy hữu tình kia nếu thí tài vị thì chướng ngại sự sinh khởi pháp thiện", là lại có Bổ-đặc-già-la khác, tuy không có nghiệp chướng, nhưng Bồ-tát thấy hữu tình kia trong tương tục đang sinh pháp thiện, nếu thí tài vị thì thọ giàu vui, do đó chướng ngại hữu tình kia sinh thiện, khởi nghĩ như vầy: "Thà là hữu tình kia bần tiện mà thuận sinh pháp thiện, chớ nên khiến hữu tình kia phú quí làm chướng ngại sinh khởi pháp thiện". Do đạo lý nầy, tuy được tự tại nhưng không thí tài vị. "Thấy hữu tình kia nếu thiếu thốn tài vị chán lìa hiện tiền", là lại có Bổ-đặc-già-la khác, Bồ-tát thấy hữu tình kia do bần tiện nên chán lìa hiện tiền, khởi nghĩ như vầy: "Thà là bần tiện chán lìa hiện tiền mà tùy thuận pháp thiện, chớ để hữu tình kia phú quí mà không sinh chán lìa". Do đạo lý ấy, tuy được tự tại nhưng không thí tài vị. "Thấy hữu tình kia nếu thí tài vị thì liền làm nhân tích tập pháp bất thiện", là lại có Bổ-đặc-già-la khác, Bồ-tát thấy hữu tình kia cho đến bần cùng mà thường không tích tập pháp bất thiện, khởi nghĩ như vầy: "Thà là bần cùng mà không tạo các ác, chớ để cho hữu tình kia phú quí mà tích tập các pháp bất thiện". Do đạo lý nầy, tuy được tự tại nhưng không thí tài vị. "Thấy hữu tình kia nếu thí tài vị thì liền làm nhân tổn não vô lượng hữu tình khác", là lại có Bổ-đặc-già-la khác, Bồ-tát thấy hữu tình kia đắc đại tài vị thì liền làm khổ não vô lượng hữu tình, khởi nghĩ như vầy: "Thà khiến hữu tình kia một thân riêng thọ bần tiện, chớ để hữu tình ấy phú quí mà tổn não vô lượng hữu tình khác". Do đạo lý nầy, tuy được tự tại nhưng không thí tài vị. Vì để hiển nghĩa nầy nên nói kệ, là thấy hữu tình có nghiệp chướng, vì chướng ngại sinh thiện, nên chán hiện tiền, tích tập các ác và tổn não người khác, không chiêu cảm Bồ-tát bố thí tài vị cho hữu tình, nên hiện thấy có hữu tình bị thiếu thốn. Đây là hiển nghĩa sơ lược, nghĩa còn lại rộng dễ hiểu.
--------------------------------
Luận nói: "Như vậy đã nói tuệ tăng thượng thù thắng, quả đoạn thù thắng kia làm sao thấy được? Vì xả tạp nhiễm mà không xả sinh tử, chuyển y của hai chỗ nương dựa làm tướng. Ở đây sinh tử là phần tạp nhiễm của tánh Y tha khởi, Niết-bàn là phần thanh tịnh của tánh Y tha khởi, hai chỗ nương dựa là chung hai phần tánh Y tha khởi, chuyển y tức là tánh Y tha khởi khởi đối trị thì chuyển xả phần tạp nhiễm và chuyển đắc phần thanh tịnh".
Giải thích: Niết-bàn vô trụ lấy chuyển y của hai chỗ nương dựa là bỏ tạp nhiễm không bỏ sinh tử làm tướng", là khi trụ chuyển y nầy thì không dung chứa phiền não, không bỏ sinh tử, là tướng chuyển y này. Cái gì là sinh tử? Là phần tánh tạp nhiễm của Y tha khởi. Cái gì là Niết-bàn? Là phần tánh thanh tịnh của Y tha khởi. Cái gì là chỗ dựa? Là chung hai phần nương dựa tự tánh. Cái gì là chuyển y? Tức là tánh đối trị nầy khi sinh thì bỏ phần tạp nhiễm mà đắc phần thanh tịnh.
Luận nói: "Lại nữa, chuyển y nầy lược có sáu thứ: 1. Chuyển tổn lực ích chủ thể, là lực thắng giải huân tập văn trụ và do có hổ thẹn, khiến cho phiền não ít phần hiện hành và không hiện hành. 2. Chuyển thông đạt: Là các Bồ-tát đã nhập đại địa, đối với chân thật và phi chân thật, hiển hiện và phi hiển hiện trụ nơi hiện tiền, cho đến sáu địa. 3. Chuyển tu tập, là còn có chướng, hết thảy tướng không hiển hiện vì chân thật hiển hiện, cho đến mười địa. 4. Chuyển quả viên mãn, là vĩnh viễn không có chướng, hết thảy tướng không hiển hiện, thanh tịnh chân thật hiển hiện, vì đối với hết thảy tướng đắc tự tại. 5. Chuyển hạ liệt, là Thanh-văn… chỉ có thể thông đạt Bổ-đặc-già-la tánh không, vô ngã, vì hoàn toàn trái nghịch sinh tử, hoàn toàn bỏ sinh tử. 6. Chuyển quảng đại, là các Bồ-tát gồm luôn việc thông đạt tánh pháp không vô ngã, tức là đối với sinh tử thấy là tịch tĩnh, tuy đoạn tạp nhiễm nhưng không bỏ tạp nhiễm. Nếu các Bồtát trụ nơi chuyển hạ liệt thì có lỗi gì? Vì không đoái nhìn sự lợi ích an lạc của tất cả hữu tình, vì trái vượt tất cả pháp của Bồ-tát, vì cùng với thừa hạ liệt đồng giải thoát. Đó là lỗi! Nếu các Bồ-tát trụ nơi chuyển quảng đại thì có công đức gì? Trong pháp sinh tử lấy tự chuyển y làm chỗ dựa, vì đắc tự tại, đối với tất cả cõi thị hiện thân của tất cả hữu tình, trong sinh tối thắng và ba thừa, các thứ phương tiện thiện xảo điều phục, an lập chỗ hoá độ các hữu tình. Đó là công đức"!
Giải thích: Lại nữa, chuyển y nầy lược có sáu thứ.
1. Chuyển tổn lực ích chủ thể: Là tổn giảm phiền não nơi lực huân tập trong thức A-lại-da, tăng ích công năng đối trị của nó mà đắc chuyển y này.
"Là do lực thắng giải huân tập văn trụ", là trụ địa thắng giải hạnh mà an lập huân tập văn nên đắc chuyển y này. "Và do có hổ thẹn", là trong địa nầy, nếu phiền não hiện hành thì liền hổ thẹn sâu xa, hoặc ít phần hiện hành, hoặc hoàn toàn không hiện hành.
2. Chuyển thông đạt: Là chỗ đắc chuyển y khi nhập địa. "Đối với chân thật và phi chân thật", là chuyển y nầy cho đến sáu địa, hoặc có khi làm nhân hiển hiện của chân thật, hoặc có khi xuất quán làm nhân hiển hiện của phi chân thật.
3. Chuyển tu tập: Là còn có chướng, do đối tượng nhận thức chướng gọi là hữu chướng. "Hết thảy tướng không hiển hiện…", là chuyển y nầy cho đến mười địa, tất cả hữu tướng không hiện trở lại, chỉ có vô tướng chân thật hiển hiện.
4. Chuyển quả viên mãn: Là vĩnh viễn không có chướng, do không có hết thảy chướng gọi là vô chướng. "Hết thảy tướng không hiển hiện", vì không có tất cả chướng. "Thanh tịnh chân thật hiển hiện", là do quả viên mãn này. "Vì đối với hết thảy tướng đắc tự tại", là do quả nầy làm chỗ nương mà đắc tướng tự tại, tùy theo chỗ muốn làm lợi lạc cho hữu tình.
5. Chuyển hạ liệt là Thanh-văn…, chữ đẳng (vân vân…) Đồng lấy Độc-giác, là chỉ có thể thông đạt một không là vô ngã, vì không thể lợi tha, vì là thiếu kém.
6. Chuyển quảng đại là các Bồ-tát, là do kiêm gồm thông đạt hai không vô ngã. An trụ trong đây thì xả các tạp nhiễm, vì không xả sinh tử gồm luôn lợi tha, vì là quảng đại.
Chuyển trụ hạ liệt thì có lỗi gì? Vì không đoái nhìn hữu tình, vì trái vượt pháp Bồ-tát, đồng với thừa hạ liệt. Đó là lỗi! Trụ chuyển quảng đại thì có công đức gì? Vì lấy tự chuyển y làm chỗ nương dựa, đối với tất cả pháp đắc tự tại, đối với tất cả cõi thị hiện thân tất cả đồng phận, trong sinh tối thắng và ba thừa, các thứ phương tiện thiện xảo điều phục nơi trí, an lập chỗ hoá độ hữu tình khó điều phục. Đó là công đức! Trong đây có ý lấy phú quí của thế gian làm sinh tối thắng.
Luận nói: ở đây có nhiều bài tụng:
Phàm phu che chân thật,
Hoàn toàn hiển hư vọng,
Các Bồ-tát bỏ vọng,
Hoàn toàn hiển chân thật.
Phải biết hiển, chẳng hiển,
Chân nghĩa, phi chân nghĩa,
Chuyển y tức giải thoát,
Tùy dục hành tự tại.
Nơi sinh tử, Niết-bàn,
Hoặc khởi trí bình đẳng,
Lúc đó do chứng trí,
Sinh tử tức Niết-bàn.
Do đó nơi sinh tử,
Không xả, không chẳng xả,
Cũng là nơi Niết-bàn,
Phi đắc, phi bất đắc.
Giải thích: Vì hiển bày chuyển y nên nói nhiều bài tụng. Như các phàm phu do vô minh nên che chướng chân thật, hiển cả thảy hư vọng của tất cả chủng. Như vậy các bậc Thánh thì vô minh đoạn nên xả hư vọng, hiển cả thảy chân thật của tất cả chủng. Do đạo lý nầy, phải biết "nên biết hiển, bất hiển, chân nghĩa, phi chân nghĩa", là Biến kế sở chấp phi chân không chuyển, vì tướng Viên thành thật chân nghĩa chuyển. Nói "chuyển y", đây tức là chuyển y chân nghĩa hiện hành trong quả vị nầy, vì phi chân thật nghĩa thì không hiện hành. "Tức giải thoát", tức là chuyển y nầy cùng với giải thoát tương ưng. "Tùy dục hành tự tại ", là giải thoát ấy tùy chỗ muốn tự tại mà hành, không như chỗ đắc giải thoát của Thanhvăn, giống như bị chém đầu, vì rốt ráo an trụ bát Niếtbàn. "Nơi sinh tử, Niết-bàn, hoặc khởi trí bình đẳng", là đối với sinh tử và đối với Niết-bàn khởi trí bình đẳng, do tánh vô phân biệt của hai pháp nầy, ngay khi khởi trí bình đẳng là nghĩa "lúc đó". Lại nữa, hai pháp nầy thế nào là bình đẳng? Vì các tạp nhiễm gọi là sinh tử, tức là tánh vô ngã của pháp tạp nhiễm gọi là Niết-bàn, Bồ-tát thông đạt các pháp vô ngã thì trí bình đẳng sinh. Thấy các pháp kia đều không có tự tánh, thì các pháp có sinh tử tức là Niết-bàn. Vì chính trong đó, thấy cực tịch tĩnh tức là Niết-bàn. Nếu biết như vậy thì có sở đắc gì nữa? "Do đó nơi sinh tử, phi xả, phi bất xả", là có sinh tử tức là Niết-bàn, nên không xả tức là không có riêng nghĩa có thể xả được, tức là trong sinh tử đó thấy không có tánh, nên lìa các tạp nhiễm, gọi là phi bất xả, đã đắc như vậy cũng tức là phi đắc và phi bất đắc đối với Niết-bàn, lìa ngoài sinh tử thì không có Niết-bàn, nhưng có thể chứng đắc, nên gọi là phi đắc. Lại trong sinh tử đó thấy tịch tĩnh, tuy không có tánh riêng mà chứng Niết-bàn nên gọi là phi bất đắc.
Luận nói: "Như vậy đã nói xong quả đoạn thù thắng kia, quả trí thù thắng ấy làm sao thấy được? Phải biết quả trí thù thắng là do ba thứ Phật thân: 1. Do thân tự tánh. 2. Do thân thọ dụng. 3. Do thân biến hóa. Trong ấy thân tự tánh là Pháp thân của chư Như Lai, là chỗ dựa của tất cả pháp tự tại chuyển. Thân thọ dụng là nương vào Pháp thân, là các thứ chỗ hiển chúng hội của chư Phật, cõi Phật thanh tịnh và pháp lạc Đại thừa làm chỗ lãnh thọ. Thân biến hóa cũng là nương vào Pháp thân, từ thiên cung Đổ-sử-đa hiển thị không thọ sinh không thọ dục, tại du thành xuất gia, đến chỗ tu khổ hạnh của ngoại đạo, chứng đại Bồ-đề, chuyển đại pháp luân, nhập đại Niết-bàn".
Giải thích: Bây giờ sẽ giải thích quả trí thù thắng, đây là do chỗ hiển ba thân của Phật. Thân tự tánh là chỗ lưu truyền pháp lạc của các pháp giới, là chỗ dựa của đại tự tại chuyển. Thân thọ dụng tức là nương vào Pháp thân nói trước, là các chỗ hiển chúng hội của chư Phật, trong quốc độ thanh tịnh của Phật, thọ dụng chỗ lưu hành của tất cả pháp giới, là chỗ dựa của vô số pháp lạc nơi của các kinh Đại thừa. Lại có nghĩa khác, là thọ dụng chỗ dựa của Phật độ thanh tịnh, lại là thọ dụng chỗ nương dựa của pháp lạc Đại thừa. Biến Hóa thân cũng nương vào Pháp thân. "Từ thiên cung Đổ-sử-đa hiển thị chết, cho đến nhập đại Niết-bàn", là hiển thị chỗ nương dựa của thân đồng phận nhân thiên.
Luận nói: Trong đây nói một bài tụng:
Tướng chứng đắc tự tại,
Nương dựa và thâu giữ,
Đức thậm thâm sai biệt,
Niệm nghiệp chư Phật sáng.
Giải thích: Vì hiển rõ thân chứng đắc của chư Phật mà nói tụng về tướng đẳng...
Luận nói: "Pháp thân của chư Phật lấy gì làm tướng? Phải biết Pháp thân lược có năm tướng".
Giải thích: Phải biết Pháp thân có vô lượng tướng, hiện tại trong đây lược nói có năm tướng.
Luận nói: "1. Chuyển y làm tướng, là chuyển diệt tánh Y tha khởi của hết thảy chướng nơi phần tạp nhiễm, chuyển đắc giải thoát hết thảy chướng đối với pháp tự tại, chuyển hiện tiền tánh Y tha khởi của phần thanh tịnh".
Giải thích: "Chuyển diệt tánh Y tha khởi của hết thảy chướng nơi phần tạp nhiễm", là chuyển diệt tánh Y tha khởi với phần tạp nhiễm. "Chuyển đắc giải thoát hết thảy chướng đối với pháp tự tại, chuyển hiện tiền tánh Y tha khởi của phần thanh tịnh ", là đối với tất cả pháp tự tại chuyển trụ mà chuyển đắc tánh Y tha khởi với thanh tịnh phần.
Luận nói: "2. Chỗ tạo thành do pháp trắng làm tướng, là sáu Ba-la-mật-đa viên mãn, đắc mười tự tại, trong ấy là thọ mạng tự tại, tâm tự tại và các vật dụng tự tại, do thí Ba-la-mật-đa viên mãn, nghiệp tự tại và sinh tự tại do giới Ba-la-mật-đa viên mãn; thắng giải tự tại do nhẫn Ba-la-mật-đa viên mãn, nguyện tự tại do tinh tấn Ba-la-mật-đa viên mãn, thần lực tự tại là chỗ gồm thâu năm thông, do tĩnh lự Ba-la-mật-đa viên mãn, trí tự tại và pháp tự tại do Bát-nhã Ba-la-mật-đa viên mãn". Giải thích: "Chỗ thành do pháp trắng làm tướng", là do sáu
Ba-la-mật-đa viên mãn, chứng đắc mười thứ tự tại của Pháp thân. Là tự tánh của nó nên gọi là "chỗ tạo thành". Thọ mạng tự tại, phải biết là tùy theo ý muốn trụ bằng bao nhiêu thời gian, liền có thể như ý hiển thị nơi chính bản thân mình. Tâm tự tại, là trong sinh tử có thể không có nhiễm ô. Các vật dụng tự tại, là đối với ẩm thực có mười thứ vật dụng, tùy chỗ muốn đều có thể được như ý. Như có tụng:
Các Bồ-tát tư duy,
Hoặc tịnh, hoặc bất tịnh,
Tất cả thành hay đẹp,
Đều do ý tự tại.
Phải biết ba thứ tự tại như vậy, đều do thí Ba-la-mậtđa viên mãn làm nhân. "Nghiệp tự tại và sinh tự tại do giới Ba-la-mật-đa viên mãn", là nhân của chủ thể thâu tóm sinh khởi nầy và quả được sinh, phải biết nghiệp tự tại trong đây là do thân nghiệp ngữ nghiệp tự tại mà chuyển, tùy theo chỗ muốn sinh mà nghiệp hiện tiền. Sinh tự tại, phải biết đối với sinh tự tại mà chuyển, đối với các cõi thì tùy theo chỗ muốn của nó mà thâu tóm sự thọ sinh. Do đạo lý nầy mà hiển tu thi-la, đối với nghiệp nhân của nó và đối với quả sinh đều được tự tại.
"Thắng giải tự tại do nhẫn Ba-la-mật-đa viên mãn", là khiến cho các pháp đều tùy tâm chuyển, tùy theo thắng giải, như sự thắng giải, tất cả sự được thành, như tùy chỗ muốn mà chuyển biến đất thành kim, ngân, chuyển biến nước khiến thành lửa, vì khi tu nhẫn thì tùy theo chỗ thích chuyển của ý hữu tình khiến đạt được đối với tất cả pháp đều tùy tâm chuyển.
"Nguyện tự tại do tinh tấn Ba-la-mật-đa viên mãn", là tu tất cả chỗ tạo tác của tinh tấn đều có thể rốt ráo, nên chỗ tư duy sự nghiệp đều thành, phải biết trước kia khi tu tinh tấn tùy theo sự tạo tác đều có thể rốt ráo, không có giải đãi bỏ phế do nguyện nầy làm nhân, bây giờ thì tùy chỗ nguyện đều được thành như ý. "Thần lực tự tại là chỗ gồm thâu của năm thông, do tĩnh lự Ba-la-mật-đa viên mãn", là do tâm tĩnh lự có khả năng gánh vác dẫn phát chỗ làm của vô số thần thông, không phải chỉ có do thần thông nầy lướt qua lại trên không, mà cũng có thể biết các sự trong tâm của người khác, do đó nói là chỗ gồm thâu của năm thông. "Trí tự tại và pháp tự tại do Bát-nhã Ba-la-mật-đa viên mãn", vì biết rõ khắp tất cả cảnh giới nên gọi là trí tự tại. Như tùy theo chỗ muốn có thể chánh an lập các pháp của khế kinh, gọi là pháp tự tại, lại do huệ lực an lập tất cả pháp thể của các uẩn nên gọi là trí tự tại, từ đây về sau chỗ đắc trí nhất thiết chủng gọi là pháp tự tại.
Luận nói: "3. Không hai làm tướng là có không, không hai làm tướng, do cả thảy pháp không có, cái tướng do không làm sáng là thật có. Hai tướng hữu vi, vô vi, do nghiệp không phải cái mà phiền não làm, tự tại hiện hữu làm tướng. Dị tánh, nhất tánh và vô nhị làm tướng, do chỗ dựa của tất cả chư Phật không có sai biệt, vô lượng tương tục hiện đẳng giác. Trong đây có hai bài tụng:
Vì ngã chấp không có,
Trong đó không dựa riêng,
Tùy chủ thể chứng trước khác,
Nên nêu bày có khác.
Chủng tánh khác, không hư,
Viên mãn, không bắt đầu,
Dựa vô cấu không khác,
Nên không một, không nhiều.
Giải thích: Hữu vô không hai làm tướng, là tánh tướng Biến kế sở chấp của tất cả pháp là phi hữu nên tướng phi hữu, chỗ hiển thị tánh không của Viên thành thật, thể của nó thật có nên tướng phi vô. Hữu vi và vô vi không hai làm tướng, là nghĩa tự tánh của phi hữu vi và tự tánh của phi vô vi, vì không phải chỗ sinh của nghiệp phiền não, không phải tướng hữu vi trong hữu vi đắc đại tự tại, niệm niệm thị hiện gọi là tướng hữu vi, do ý thú nầy không phải tướng vô vi. Mà dị tánh. Nhất tánh không hai làm tướng, vì chỗ dựa Pháp thân không sai biệt, không phải là dị tướng, vì vô lượng dựa nơi chỗ chứng đắc, không phải là nhất tướng, đồng thời nhất và vô nên gọi là vô nhị. Lại lấy kệ để hiển các nghĩa như vậy. "Vì ngã chấp không có, trong đó không dựa riêng", là đối với lực ngã chấp của thế gian nên có thân dựa riêng, trong đây ngã chấp đều không có nên không có thân y riêng. Nếu thân chỗ dựa không có sai biệt thì thế nào mà được thừa nhận có nhiều phật? "Tùy chủ thể chứng trước khác, nên nêu đặt có khác", là do nhiều y thân mỗi mỗi đều là chỗ chứng đắc nên có sai biệt. Để hiển nghĩa nầy lại nói kệ. "Chủng tánh khác", là chủng tánh của các Bồ-tát sai biệt có nhiều thứ. "Không hư", là chủng tánh khác nên gia hạnh cũng dị, gia hạnh khác nên tư lương viên mãn cũng có nhiều thứ, do nhân duyên đó, nếu chỉ có một Phật, thì tư lương của các Phật khác đáng lẽ là không không có quả. "Viên mãn", là chư Phật đã làm đủ các sự an lạc lợi ích của hữu tình, là chánh an lập đối với tam thừa. Nếu chấp Như Lai không an trí hữu tình vào Phật thừa, thì chỗ làm Phật sự đáng lẽ không viên mãn. Do đạo lý nầy, phải thừa nhận có nhiều Phật. "Không bắt đầu", là như sinh tử lưu chuyển kia không có bắt đầu, chư Phật cũng như thế, nếu chỉ có một vị Phật, thì đáng lẽ có bắt đầu, do đó không phải một Phật. "Dựa vô cấu vô biệt", là do pháp giới vô cấu của Phật làm chỗ dựa không có sai biệt, nên không có nhiều thứ. "Nên phi nhất, phi đa", là do đạo lý nầy hiển thị tướng của chư Phật không phải một hay nhiều.
Luận nói: "4. Thường trụ làm tướng, là tướng chân như thanh tịnh, chỗ dẫn của bản nguyện, sự phải làm không hẹn ngày xong".
Giải thích: Do ba nhân duyên hiển tướng thường trụ: 1. Tướng chân như thanh tịnh, là thể chân như thanh tịnh là thường trụ, để hiển thành Phật, phải biết Như Lai thường trụ làm tướng. 2. Chỗ dẫn của bản nguyện, là khi xưa phát nguyện thường làm cho tất cả hữu tình được lợi lạc, chỗ chứng Phật thân là chỗ dẫn của nguyện nầy, do nguyện nầy không phải trống rỗng không có quả, phải biết Như Lai thường trụ làm tướng. Nếu bảo chỗ làm lợi lạc cho tất cả hữu tình của Như Lai đã xong, thì nghĩa nầy không đúng, vì sự phải làm không hẹn ngày xong, cho đến hiện tại cũng còn vô biên sự phải làm. Vì tất cả hữu tình chưa Niết-bàn, do nhân duyên đó phải biết Như Lai thường trụ làm tướng. Như vậy đã nói, phải biết chư Phật bất khả tư nghì, do nhân duyên là bất khả tư nghì đó, bây giờ sẽ hiển thị.
Luận nói: "5. Bất khả tư nghì làm tướng, là chân như thanh tịnh tự nội chứng, không có thí dụ của thế gian có thể thí dụ được, vì không phải nơi hành xứ của tầm tư".
Giải thích: "Tự nội chứng", là chỗ chứng tự bên trong của chư Như Lai, vì chân như tự nội chứng nầy không phải là chỗ tư nghì của tầm tư, đối với thế gian cũng không có thí dụ tương tợ với tướng nầy để thí dụ khiến cho hiểu biết.
Luận nói: Lại nữa, thế nào là tối sơ chứng đắc Pháp thân như vậy? Là duyên tổng tướng thuộc pháp Đại thừa theo cảnh trí Vô phân biệt và năm tướng khéo tu của trí hậu đắc, đối với tất cả địa khéo tập hợp tư lương. Định kim cương dụ phá diệt chướng vi tế khó phá, định nầy vô gián lìa tất cả chướng nên đắc chuyển y".
Giải thích: Hiện tại phải nói là sự chứng đắc Pháp thân. "Đầu tiên chứng đắc", là hiển Pháp thân nầy không phải là chỗ sinh khởi, vì thể là vô vi. Nếu là chỗ sinh khởi thì đáng lẽ là vô thường. "Định kim cương dụ", là Tam-ma-địa nầy dụ như kim cương, có thể phá trừ các chướng vi tế khó phá. "Nên đắc chuyển y", là do Tamma-địa kim cương dụ có thể chứng chuyển y cho đến đắc Pháp thân.
Luận nói: "Lại nữa, Pháp thân do bao nhiêu tự tại mà đắc tự tại? Lược do năm thứ: 1. Do cõi Phật tướng hảo tự thân vô biên âm thanh tướng vô kiến đảnh tự tại, là do chuyển y sắc uẩn. 2. Do vô tội vô lượng lạc trụ quảng đại tự tại, là do chuyển y thọ uẩn. 3. Do biện thuyết hết thảy danh thân cú thân văn thân tự tại, do chuyển y tưởng uẩn. 4. Do hiện hoá biến dịch dẫn dắt đại chúng dẫn dắt pháp trắng tự tại, là do chuyển y hành uẩn. 5. Do trí viên cảnh, bình đẳng, quán sát, thành sở tác, tự tại, là do chuyển y thức uẩn".
Giải thích: Bây giờ tiếp theo là hiển thị Pháp thân tự tại, do chuyển y… năm uẩn như sắc... Nên đắc năm tự tại.
Trong đây do chuyển y sắc uẩn nên chứng đắc thị hiện cõi Phật tự tại. Do đây thị hiện Phật quốc với châu báu kim, ngân tịnh diệu, cũng được thị hiện tùy theo chính chỗ muốn tự thân tự tại, do đây hiển thị trong hội đại tập, tùy chỗ ưa thích vô số sắc thân thắng giải của các hữu tình, lại cũng tùy chỗ ưa thích có thể hiện vô số tướng hảo tự tại, lại cũng hiện vô biên âm thanh tự tại, lại cũng hiện tướng vô kiến đảnh tự tại.
Do chuyển y thọ uẩn, đắc vô tội vô lượng lạc trụ quảng đại tự tại, là đắc tự tại có thể trụ vô tội vô lượng lạc trụ quảng đại, phải biết trong đây do nhiều nên nói là vô lượng, siêu khắp tất cả lạc tam giới nên gọi là lạc trụ tự tại rộng lớn.
Do chuyển y tưởng uẩn, đắc đối với danh thân cú thân văn thân biện thuyết hết thảy tự tại, vì có thể giữ lấy tướng nên gọi là tưởng, vì danh thân cú thân văn thân có thể giữ lấy tướng đó chuyển nhiễm tưởng uẩn trở lại đắc tưởng uẩn thanh tịnh như vậy.
Do chuyển y hành uẩn, đắc hiện hoá biến dịch dẫn dắt đại chúng dẫn dắt pháp trắng tự tại, phải biết trong đây tùy theo chỗ muốn đó mà hiển thị việc tạo tác, nên gọi là hiện hoá, chuyển đổi khiến cho đất trở thành kim ngân… nên gọi là biến dịch, chỗ ưa thích như ý có thể dẫn dắt các chúng thiên long dược xoa… phải biết gọi là dẫn dắt đại chúng, tùy chỗ thích ý mà dẫn các pháp trắng khiến cho hiện tiền, phải biết gọi là dẫn dắt pháp trắng.
Do chuyển y thức uẩn, đắc trí đại viên cảnh, trí bình đẳng tánh, trí diệu quán sát và trí thành sở tác. Trong đây trí đại viên cảnh là không quên mất, pháp cảnh giới của đối tượng nhận thức tuy có hiện tiền nhưng cũng không thể nhớ rõ, như khéo tập tụng đọc sách luận quang minh. Trí bình đẳng tánh, là trước hết khi thông đạt chân pháp giới thì đắc tâm bình đẳng của các hữu tình, phải biết trong đây là cứu cánh thanh tịnh. Trí diệu quán sát, là như tạng chủ, như chỗ muốn đó, theo các môn Đà-ra-ni môn Tam-ma-địa nào khởi ý tư duy thì liền đắc trí tự tại vô ngại chuyển. Trí thành sở tác, là có thể thị hiện từ thiên cung Đổ-sử-đa chết đi cho đến Niết-bàn, vô số Phật sự đều đắc tự tại.
Luận nói: "Lại nữa, Pháp thân do bao nhiêu xứ?
Phải biết về chỗ nương dựa nơi lược do ba xứ:
1. Do nương dựa vô số Phật trụ. Trong đây có hai bài tụng:
Chư Phật chứng đắc năm tánh hỷ,
Đều do cùng chứng đắc tự giới,
Lìa hỷ do không chứng giới nầy,
Nên người cầu hỷ phải cùng chứng.
Do chủ thể vô lượng và sự thành,
Pháp vị nghĩa đức đều viên mãn,
Đắc hỷ tối thắng không có lỗi,
Vì chư Phật thấy thường vô tận.
2. Do nương dựa vô số thân thọ dụng, chỉ vì thành thục Bồ-tát.
3. Do nương dựa vô số thân biến hóa, phần nhiều vì thành thục hàng Thanh-văn, Độc-giác".
Giải thích: Phải biết Pháp thân có bao nhiêu pháp nương dựa, lược có ba thứ, rộng nói thì có vô lượng. Do nương dựa vô số Phật trụ, là Phật an trụ nơi Thánh trụ, thiên trụ và phạm trụ, là nói vô số Pháp thân làm nương dựa của các trụ nầy, nên gọi là nương dựa Phật trụ. Hoặc nói chư Phật dùng pháp gì để Niết-bàn? Vì giải thoát của Thanh-văn, Độc-giác cùng với giải thoát của chư Như Lai cùng, để hiển chư Phật giải thoát thù thắng, nên nói hai bài kệ. "Chư Phật chứng đắc năm tánh hỷ, đều do cùng chứng tự giới", là chỗ đắc năm hỷ của chư Như Lai do chứng pháp giới. "Lìa hỷ do không chứng giới này", là Thanh-văn, Độc-giác lìa năm chủng hỷ đều do không chứng chân pháp giới này. "Nên người cầu hỷ phải đẳng chứng", nên người muốn cầu hỷ như vậy, cần phải đối với pháp giới nầy cần cầu chánh chứng. Kệ thứ hai là hiển năm hỷ này. "Do chủ thể vô lượng và sự thành, pháp vị nghĩa đức đều viên mãn", phải biết trong đây "chủ thể vô lượng", là nương dựa Pháp thân có nhiều Phật thành đẳng chánh giác, vì tất cả công năng đều bình đẳng nên chủ thể vô lượng, do thấy năng vô lượng như vậy nên sinh hoan hỷ sâu xa. "Và sự thành", là chỗ làm lợi lạc các hữu tình của Như Lai thì đồng với chỗ làm của tất cả Như Lai. Do Phật nhiều nên sự cũng vô lượng, vì thế nói "và", do thấy vô lượng nầy nên sinh hoan hỷ sâu xa. "Pháp vị" là do thấy các pháp trong khế kinh có chất vị thù thắng mà sinh hoan hỷ sâu xa. "Nghĩa đức đều viên mãn", là nghĩa viên mãn và đức viên mãn. Phải biết trong đây tùy chỗ có các sự của chỗ tư niệm, không gì mà chẳng có, gọi là nghĩa viên mãn. Mười lực, bốn vô uý, pháp bất cộng… không gì mà chẳng đủ, gọi là đức viên mãn. "Đắc hỷ tối thắng không có lỗi", là hỷ nầy vượt qua hỷ của tam giới nên gọi là tối thắng, vì vĩnh viễn đoạn phiền não gồm cả tập khí nên gọi là không có lỗi. "Vì chư Phật thấy thường vô tận", là chư Như Lai thấy như chỗ nói kế trước bốn thứ hỷ tối thắng không có lỗi, cùng biên vực sinh tử thường không có tận, đến đại Niết-bàn giới vô dư y cũng vô tận nên sinh hỷ thù thắng, do đó Thế Tôn chứng đắc năm thứ hỷ, không phải Thanh-văn, Độc-giác.
"Do nương dựa vô số thân thọ dụng", là Pháp thân và thân thọ dụng của Phật làm chỗ nương. Tại sao lại phải nương dựa nơi như vậy? Chỉ vì thành thục Bồ-tát, nếu các chúng Bồ-tát lìa thân thọ dụng nầy đã nhập đại địa thì đáng lẽ không thành thục.
"Do nương dựa vô số thân biến hóa", là Pháp thân và thân biến hóa của Phật làm chỗ nương dựa. Tại sao lại phải dựa nơi như vậy? Phần nhiều vì thành thục Thanh-văn, Độc-giác, nếu lìa biến Hóa thân nầy thì tín giải yếu kém của hàng Thanh-văn, Độc-giác đáng lẽ không thành thục. "Phần nhiều vì", phải biết là gồm thâu lấy địa thắng giải hạnh các chúng Bồ-tát.
Luận nói: "Phải biết Pháp thân do bao nhiêu chỗ gồm thâu của pháp phật? Lược do sáu thứ: 1. Do thanh tịnh, là chuyển thức A-lại-da vì đắc Pháp thân. 2. Do dị thục, là chuyển sắc căn vì đắc trí dị thục. 3. Do an trụ, là chuyển các trụ của dục hành vì đắc vô lượng trí trụ. 4. Do tự tại, là chuyển vô số thâu nhận nghiệp tự tại, vì đắc hết thảy thế giới vô ngại với trí thần thông tự tại. 5. Do ngôn thuyết, là chuyển tất cả kiến văn giác tri, ngôn thuyết, hý luận, vì đắc khiến tâm hết thảy hữu tình trí hỷ biện thuyết tự tại. 6. Do cứu vớt, là chuyển cứu vớt tất cả tai hoạ tội lỗi, vì đắc cứu vớt hữu tình với mọi tai hoạ tội lỗi. Phải biết Pháp thân do chỗ nói sáu thứ nơi thâu giữ của pháp Phật.
Giải thích: Do pháp Phật thâu giữ Pháp thân như vậy, bây giờ sẽ hiển thị. "Do thanh tịnh", là do Phật pháp thanh tịnh thâu giữ Pháp thân. Như vậy Pháp thân chứng đắc thanh tịnh thì do chuyển pháp nào? Là chuyển thức A-lại-da. "Vì đắc Pháp thân", là chuyển diệt thức A-lại-da đắc Pháp thân thanh tịnh, thì Pháp thân thanh tịnh gọi là thanh tịnh. "Do dị thục", là do Phật pháp dị thục thâu giữ Pháp thân. "Chuyển sắc căn", là chuyển các sắc căn nhãn… "vì đắc trí dị thục", là chuyển sắc căn kia đắc trí dị thục. "Do an trụ", là do an trụ pháp Phật gồm thâu Pháp thân. "Chuyển các trụ của dục hành", là chuyển các trụ của thế gian dục hành, đắc trụ Phật pháp. "Vì đắc vô lượng trí trụ", là do trí nầy nên trụ vô số trụ. "Do tự tại", là do Phật pháp tự tại thâu giữ Pháp thân. "Chuyển vô số thâu nhận nghiệp tự tại", là chuyển thế gian đeo theo lợi, nông nghiệp, vô số sự nghiệp tự tại, vì đắc hết thảy thế giới vô ngại trí thần thông tự tại. "Do ngôn thuyết", là do ngôn thuyết Phật pháp thâu giữ Pháp thân. "Chuyển tất cả kiến văn giác tri, ngôn thuyết, hý luận", là chuyển kiến văn giác tri, ngôn thuyết, hý luận của thế gian, đắc đối với kiến văn giác tri tự tại. Do kiến văn giác tri nầy chứng đắc, có thể khiến tất cả hữu tình tâm hỷ trí tự tại. "Do bạt tế", là do pháp Phật cứu vớt gồm thâu Pháp thân. "Chuyển cứu vớt tất cả tai hoạ tội lỗi", là như thế gian có nhà vua khởi các sự bức não, do thân hữu lực, do tài bảo lực… Mà có thể cứu vớt. Do chuyển nầy, nên chứng đắc cứu vớt tất cả hữu tình tất cả tai hoạ tội lỗi trí. Do trí lực nầy có thể dứt trừ tất cả tai hoạ tội lỗi.
Luận nói: "Pháp thân của chư Phật nên nói là có khác hay nên nói là không khác? Vì dựa vào nghiệp ý lạc không có riêng khác, nên nói là không khác. Vì vô lượng nghiệp nương vào thân mà hiện đẳng giác, nên nói là có khác, như nói Pháp thân, thân thọ dụng của Phật cũng vậy, vì ý lạc và nghiệp không có sai biệt nên nói là không khác, vì không do dựa nơi vô sai biệt, vì vô lượng chỗ dựa sai biệt chuyển, phải biết thân biến hóa cũng nói như thân thọ dụng".
Giải thích: "Vì vô lượng chỗ dựa sai biệt chuyển", là thân thọ dụng vô lượng chỗ dựa sai biệt mà chuyển, nên chỉ do ý lạc và nghiệp không có sai biệt thì nên nói là không khác, nương vào thân sự riêng khác thì nên nói là có khác. Trong đây ý lạc vô sai biệt, phải biết đều là lợi ích an lạc tất cả hữu tình. Nghiệp vô sai biệt, phải biết đều là đồng hiện vô số tác nghiệp của đẳng chánh giác bát Niết-bàn.
Luận nói: "Phải biết Pháp thân có bao nhiêu đức tương ưng? Là bốn vô lượng, giải thoát, thắng xứ, biến xứ, nguyện trí vô tránh bốn vô ngại giải, sáu thần thông, ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi tùy hảo, bốn tất cả tướng thanh tịnh, mười lực, bốn vô uý, ba bất hộ, ba niệm trụ, dứt trừ tập khí, pháp vô vong thất, đại bi mười tám pháp Phật bất cộng của Phật. Hết thảy tướng diệu trí đẳng công đức tương ưng tất cả đều thanh tịnh tột cùng.
Trong đây có nhiều bài tụng:
Thương xót các hữu tình,
Khởi hoà hợp, viễn ly,
Thường không bỏ lợi lạc,
Bốn ý lạc quy lễ.
Giải thoát tất cả chướng,
Mâu-ni thắng thế gian,
Trí hiện khắp sở tri,
Tâm giải thoát quy lễ.
Chủ thể diệt các hữu tình,
Tất cả hoặc không sót,
Hại phiền não có nhiễm,
Thường thương xót quy lễ.
Không công dụng, không chấp,
Không ngại, thường tịch định,
Đối với các vấn nạn,
Giỏi giải thích quy lễ.
Với chỗ dựa, chủ thể y,
Đã nói năng và trí,
Năng thuyết huệ vô ngại,
Thường khéo nói quy lễ.
Vì các hữu tình kia,
Nên hiện biết ngôn hạnh,
Qua lai và xuất ly,
Bậc thiện giáo quy lễ.
Chúng sinh thấy Thế Tôn,
Đều xét biết thiện sĩ,
Vừa thấy liền tin sâu,
Bậc khai đạo quy lễ.
Thâu nhận trụ trì xả,
Hiện hoá và biến dịch,
Trí đẳng trì tự tại,
Tùy chứng đắc quy lễ.
Phương tiện quy y tịnh,
Và Đại thừa xuất ly,
Đối với chúng sinh nầy,
Bậc diệt ma quy lễ.
Năng thuyết trí và đoạn,
Xuất ly năng chướng ngại,
Tự tha lợi không ngoài,
Ngoại đạo phục, quy lễ.
Xử chúng hàng phục được,
Xa lìa hai tạp nhiễm,
Không giữ, không quên mất,
Thâu giữ chúng quy lễ.
Tất cả hành trụ khắp,
Vô phi viên trí sự,
Tất cả thời biết khắp,
Bậc thật nghĩa quy lễ.
Các hữu tình lợi lạc,
Việc làm không quá thời,
Chỗ tạo thường không trống,
Không quên mất quy lễ.
Ngày đêm thường sáu thời,
Quán tất cả thế gian,
Cùng đại bi tương ưng,
Ý lợi lạc quy lễ.
Do hạnh và do chứng,
Do trí và do nghiệp,
Với tất cả nhị thừa,
Bậc tối thắng quy lễ.
Do ba thân chí đắc,
Đủ tướng đại Bồ-đề,
Người khác nghi các chỗ,
Đều hay đoạn quy lễ.
Pháp thân của chư Phật cùng với công đức như vậy tương ưng, lại cùng với các chỗ tự tánh, nhân quả và nghiệp khác tương ưng, chuyển công đức tương ưng, nên phải biết Pháp thân của chư Phật là công đức Vô thượng.
Ở đây có hai bài tụng:
Thắng nghĩa tôn thành thật
Tất cả địa đều xuất,
Đến các chúng sinh thượng,
Giải thoát các hữu tình.
Đức vô tận, vô đẳng,
Tương ưng hiện thế gian,
Chúng hội có thể thấy,
Không phải thấy nhân thiên.
Giải thích: Pháp thân của chư Phật cùng với công đức đã nói của bốn vô lượng tương ưng, lại cùng với các tự tánh, nhân quả, nghiệp khác tương ưng, chuyển công đức tương ưng. "Thắng nghĩa tôn thành thật", đây là hiển tự tánh Pháp thân của chư Phật, chư Phật đều lấy thắng nghĩa thành thật nơi chân như thanh tịnh nầy làm tự tánh. "Tất cả địa đều xuất", đây là hiển nhân, vì tu tất cả địa thì được thành Phật. "Đến các chúng sinh thượng", đây là hiển quả, vì đấy là tối thượng trong các hữu tình. "Giải thoát các hữu tình": Đấy là hiển nghiệp, vì có thể không điên đảo, có thể khiến cho các hữu tình đắc giải thoát. "Đức vô tận vô đẳng tương ưng", đây là hiển tương ưng, cùng với công đức vô tận vô đẳng cùng chung tương ưng. "Hiện thế gian, chúng hội có thể thấy", đây là nói thân thọ dụng. "Không phải thấy nhân thiên", đây là nói thân tự tánh, các nhân thiên đều không thể thấy được. Đây là hiển ba thân sai biệt gọi là chuyển.
Luận nói: "Lại nữa, Pháp thân của chư Phật thậm thâm hết sức thậm thâm. Tướng thậm thâm nầy làm sao thấy được? Trong đây có nhiều bài tụng".
Giải thích: Trong Đại thừa, Pháp thân của chư Phật với tướng thậm thâm, bây giờ sẽ hiển thị, lấy hai bài tụng để hiển thị hai tướng thậm thâm.
Luận nói:
Phật vô sinh làm sinh,
Cũng vô trụ làm trụ,
Các sự không công dụng,
Thực thứ bốn làm thực.
Giải thích: Ở đây một bài tụng hiển thị sinh trụ, nghiệp trụ thậm thâm. Phật vô sinh làm sinh, là hiển sinh thậm thâm, vì chư Như Lai không có nghiệp phiền não đồng như chỗ tạo tác của phàm ngu, nên gọi là vô sinh, nhưng có cùng với sinh của phàm ngu nầy trái nhau, tướng của nó khó hiểu gọi là sinh thậm thâm. Cũng vô trụ làm trụ, là hiển trụ thậm thâm, vì lấy Niết-bàn vô trụ làm trụ xứ, như vậy Niết-bàn gọi là trụ thậm thâm. Các sự vô công dụng, là hiển nghiệp thậm thâm, vì nghiệp vô công dụng của chư Như Lai, tất cả đều bình đẳng nên gọi là nghiệp thậm thâm. Thực thứ bốn làm thực, là hiển trụ thậm thâm, vì chỗ thực của Phật là dựa trụ bất thanh tịnh. Thực thứ bốn trong bốn thứ thực. Bốn thứ thực:
1. Thực trụ dựa không thanh tịnh, là bốn thực như đoạn…, khiến cho hữu tình hệ thuộc nơi cõi dục, nương dựa vào bất thanh tịnh mà được trụ.
2. Thực trụ dựa nơi tịnh, bất tịnh là ba thứ thực như xúc... khiến cho hữu tình hệ thuộc cõi Sắc và cõi Vô sắc. Nương dựa vào tịnh và bất tịnh mà được trụ. Do chỗ dựa nơi nầy đã lìa các phiền não của địa dưới nên gọi là tịnh, chưa lìa các phiền não của địa trên nên gọi là bất tịnh, vì vậy gọi là dựa vào tịnh bất tịnh. Như vậy dựa vào xúc, ý tư và thức thực mà trụ, trừ đoạn thực.
3. Thực trụ hoàn toàn dựa vào nay tịnh: Là bốn thứ thực như đoạn... Khiến cho Thanh-văn, Độc-giác dựa vào thanh tịnh mà được trụ.
4. Thực trụ chỉ có thị hiện nương dựa, tức là chư Phật thị hiện thọ nhận bốn thứ thực mà được trụ, nên chư Phật thực, đây là thị hiện trụ thực thứ tư, vì khiến cho có thể lập bày tịnh tín của loại hữu tình làm nhân phước đức tăng trưởng, tuy hiện thọ thực nhưng không khởi sự thực (tạo tác việc ăn uống), khi Như Lai thọ thực thì chư thiên lãnh lấy, thi hành ý Phật thừa nhận các hữu tình khác, do nhân nầy, mà loại hữu tình kia mau chứng Bồ-đề, tất cả như vậy phải biết nói chung là một tướng thậm thâm.
Lại nữa, do mười nhân, phải biết là tướng sinh và vô sinh của chư Phật:
1. Vì cùng với pháp ngu si bất đồng.
2. Vì cùng với pháp sai biệt bất đồng.
3. Vì tự tại đối với sự thâu nhận.
4. Vì tự tại đối với sự trụ trì.
5. Vì tự tại đối với sự trừ bỏ.
6. Vì tướng vô nhị.
7. Vì chỉ tợ quang ảnh.
8. Vì đồng huyễn hoá.
9. Vì trụ vô trụ.
10. Vì thành đại sự.
Lại do mười nhân, phải biết Như Lai không trụ sinh tử và lấy Niết-bàn: 1. Vì không phải biến tri. 2. Vì không phải vĩnh đoạn. 3. Vì không phải tu tập. 4. Vì biết không phải hữu tánh. 5. Vì vô sở đắc vô phân biệt. 6. Vì tâm xa lìa. 7. Vì tâm chứng đắc. 8. Vì tâm bình đẳng. 9. Vì sự không thể thủ đắc. 10. Có thể chứng đắc.
Lại do mười nhân, phải biết chư Phật sự không công dụng mà được thành lập: 1. Vì khéo đoạn lìa. 2. Vì không chỗ dựa. 3. Vì chỗ tạo tác không công dụng. 4. Vì tác giả không công dụng. 5. Vì tác nghiệp không công dụng. 6. Vì vô sở hữu, không công dụng. 7. Vì hoàn toàn không sai biệt. 8. Vì chỗ tạo tác đã xong. 9. Vì chỗ tạo tác chưa xong.
10. Vì thuần thục tu tập trong tất cả pháp, đắc tự tại. Lại do mười nhân, phải biết chư Phật thật ra không có ăn mà hiện nhận có ăn: 1. Vì thị hiện thân trụ trì là do ăn. 2. Vì khiến các hữu tình tăng trưởng phước. 3. Vì muốn thị hiện có pháp đồng. 4. Vì khiến cho hàng tùy học chánh thọ dụng. 5. Vì khiến cho hàng tùy học có hạnh liêm khiết. 6. Vì khiến phát khởi hạnh tinh tấn. 7.
Vì khiến thành thục các thiện căn. 8. Vì hiển tự thân không nhiễm chấp. 9. Vì cung kính nghiệp trợ nhận giữ.
10. Vì muốn viên mãn bản nguyện sinh.
Luận nói:
Không khác cũng vô lượng,
Vô số lượng một nghiệp,
Nghiệp chẳng bền, nghiệp bền,
Chư Phật đủ ba thân.
Giải thích: Bài tụng nầy hiển thị an lập số nghiệp thậm thâm. "Không khác cũng vô lượng", là hiển an lập thậm thâm, vì Pháp thân của chư Phật không có sai biệt nên gọi là không khác, vô lượng chỗ dựa hiện đẳng giác nên gọi là vô lượng. "Vô số lượng một nghiệp", là hiển số thậm thâm, chư Phật tuy vô lượng nhưng đồng một nghiệp, do đó mà sâu xa. "Nghiệp bất kiên, nghiệp kiên, chư Phật đủ ba thân", là chư Như Lai ba thân tương ưng, sự nghiệp thân thọ dụng của Phật thì kiên trụ, sự nghiệp biến Hóa thân của Phật thì bất kiên trụ. Sự nghiệp như vậy gọi là thậm thâm.
Luận nói:
Hiện đẳng giác phi hữu,
Hết thảy giác phi vô,
Mỗi mỗi niệm vô lượng,
Chỗ hiển hữu phi hữu.
Giải thích: Bài tụng nầy hiển thị hiện đẳng giác thậm thâm. "Hiện đẳng giác phi hữu", là pháp Bổ-đặcgià-la phi hữu. "Hết thảy giác phi vô", là do mượn nơi danh lý mà nói tất cả chư Phật hiện đẳng giác. Làm sao biết được Phật hiện đẳng chánh giác, là "mỗi mỗi niệm vô lượng" Phật, đây là hiển thị trong mỗi mỗi niệm có vô lượng Phật hiện đẳng chánh giác. "Chỗ hiển hữu phi hữu", đây là hiển chân như là hữu và phi hữu, chư Phật là chỗ hiển của chân như này.
Luận nói:
Không nhiễm, không lìa nhiễm,
Do muốn được xuất ly,
Biết rõ dục, không dục,
Ngộ nhập tánh dục pháp.
Giải thích: Bài tụng nầy hiển thị sự lìa dục thậm thâm. "Phi nhiễm, phi lìa nhiễm", vì tham dục không có nên gọi là phi nhiễm, vì vô nhiễm nên lìa nhiễm cũng không có. Tại sao vậy? Vì tham nhiễm nếu có thì có thể có lìa nhiễm, nhiễm đã không có nên không có lìa nhiễm. "Do muốn được xuất ly", là do nhằm ngầm đoạn triền tham lưu giữ lại tùy miên tham mà được xuất ly rốt ráo. Nếu không giữ lại tùy miên, thì phải đồng với Thanhvăn, Độc-giác nhập bát Niết-bàn. "Biết rõ dục, không dục, ngộ nhập dục pháp tánh", là biết rõ tánh tham dục và không tham dục của Biến kế sở chấp thì có thể ngộ nhập chân như của pháp dục.
Luận nói:
Chư Phật vượt các uẩn,
An trụ trong các uẩn,
Cùng uẩn không nhất, dị,
Không xả mà khéo tịch.
Giải thích: Bài tụng nầy hiển thị việc đoạn uẩn thậm thâm. "Chư Phật vượt chư uẩn, an trụ trong các uẩn", là chư Như Lai siêu vượt qua năm thứ… năm thủ uẩn, như sắc trụ pháp tánh nơi vô sở đắc trong uẩn.
"Cùng uẩn không khác", là tuy đã xả các uẩn Biến kế sở chấp nhưng cùng với uẩn kia không phải khác, vì tức an trụ pháp tánh của uẩn kia, cũng lại không phải một, nếu là một thì Biến kế sở chấp phải đồng pháp tánh thành cảnh thanh tịnh. "Không xả mà khéo tịch", là không buông xả uẩn Viên thành thật, tức là thể của Niếtbàn diệu thiện.
Luận nói:
Chư Phật sự tương tạp,
Cũng như nước biển lớn,
Ta đã hiện đang làm,
Tha lợi không nghĩ vậy.
Giải thích: Bài tụng nầy hiển thị sự thành thục thậm thâm. "Chư Phật sự tương tạp", là chư Như Lai thành thục tất cả sự nghiệp của các hữu tình đều bình đẳng. Điều đó thí dụ như thế nào? "cũng như nước biển lớn", là ví như biển lớn có nhiều dòng sông chảy vào, thì nước biển đó xen tạp, là chỗ thọ dụng của cá rùa… chư Phật cũng vậy, đồng nhập pháp giới chỗ tạo tác sự nghiệp hoà hợp không hai, đồng vì thành tựu thọ dụng của hữu tình. "Ta đã hiện đang làm", là trong ba thời, tùy một thời mà làm. "Tha lợi không nghĩ vậy", là không khởi nghĩ như vầy: "Ta đối với tha lợi đã hiện đang làm", nhưng không công dụng có thể làm tất cả sự lợi ích an lạc các hữu tình, ví như mạt-ni, thiên nhạc của thế gian.
Luận nói:
Chúng sinh tội không hiện,
Như trăng trong chậu vỡ,
Đầy khắp các thế gian,
Pháp sáng như mặt trời.
Giải thích: Bài tụng nầy hiển thị sự hiển hiện thậm thâm. Nếu các thế gian không thấy chư Phật, mà nói thân của chư Phật thường trụ, thân của Phật đã thường tại sao không thấy? "Chúng sinh tội không hiện, như trăng trong chậu vỡ", như trong cái chậu vỡ nát thì nước không còn, nước không còn thì trăng không hiện. Trong thân hữu tình không có nước Xa-ma-tha, nên trăng Phật không hiện. Thuỷ thí dụ cho đẳng trì, thể thanh tịnh trong sáng nên "đầy khắp các thế gian". "Pháp sáng như mặt trời", là Phật của thế gian hiện tại tuy không hiện, nhưng khắp tất cả đều thi thố làm Phật sự, do nói các pháp xứng đáng khen ngợi của khế kinh, cũng như ánh sáng của mặt trời chiếu khắp thế gian, làm các Phật sự thành thục hữu tình.
Luận nói:
Hoặc hiện đẳng chánh giác,
Hoặc Niết-bàn như lửa,
Đây chưa từng không có,
Vì thân Phật là thường.
Giải thích: Bài tụng nầy hiển thị sự thị hiện đẳng giác Niết-bàn thậm thâm. "Hoặc hiện đẳng chánh giác, hoặc Niết-bàn như lửa", là chư Như Lai hoặc hiện thành Phật hoặc hiện Niết-bàn, các sự đó như lửa, có khi đốt cháy, có khi tắt mất, chư Phật cũng như thế, hoặc đối với các loại hữu tình chưa thành thục thì hiện Niết-bàn, hoặc đối với các loại hữu tình đã thành thục thì hiện thành Phật quả, vì muốn khiến cho hữu tình kia được giải thoát. Ví như một lửa tánh không có sai biệt, Pháp thân cũng vậy, phải biết chỉ có một. Văn của nửa bài tụng còn lại dễ hiểu.
Luận nói:
Phật nơi phi Thánh pháp,
Cõi người và cõi ác,
Trong pháp phi phạm hạnh,
Tự thể tối thắng trụ.
Giải thích: Bài tụng nầy hiển thị sự an trụ thậm thâm. Phật nơi phi Thánh pháp, trong cõi người và cõi ác, trong pháp phi phạm hạnh, do tự thể tối thắng trụ. Tối thắng trụ do Thánh trụ… mà an lập, trong đây Thánh trụ là không... trụ, thiên trụ là chư tĩnh lự trụ, phạm trụ là bốn vô lượng tâm như trời trụ, phi Thánh pháp là bát pháp thiện, Phật trong phi Thánh pháp đó mà trụ không... trụ, vì không... nầy là chỗ trụ của Thánh, nên gọi là Thánh trụ, cõi người và cõi ác là duyên hữu tình kia mà trụ, chỗ trụ tĩnh lự của các tĩnh lự gọi là thiên trụ, pháp phi phạm hạnh là đối với bốn thứ phạm trụ như từ, bi… của pháp trụ kia, tự thể tối thắng trụ là do tự thể tối thắng trụ như vậy mà tối thắng trụ. Đây là hiển chư Phật trong các trụ, an trụ nơi các trụ của tự thể tối thắng.
Luận nói:
Phật hành tất cả xứ,
Cũng không hành nột xứ,
Hiện trong tất cả thân,
Không phải sáu căn hành.
Giải thích: Bài tụng nầy hiển thị chỗ hiển bày tự thể thậm thâm. "Phật tất cả xứ hành, cũng không hành một xứ", là trí hậu đắc phân biệt trong thiện, bất thiện vô ký mà chuyển. Trí Vô phân biệt không hành một xứ nào. Nghĩa thứ hai là thân biến hóa hành tất cả xứ, hai thân còn lại thì không hành một xứ nào. "Hiện trong tất cả thân", tức là thân biến hóa đối với tất cả xứ xứ có thể thấy. "Không phải lục căn hành", tức là thân biến hóa, vì muốn hoá độ địa ngục, ngạ quỉ… kia mà hiện sinh trong các cõi đó. Hữu tình thọ sinh trong địa ngục… khi thấy Hóa thân thì không thấy như thật, không thể biết rõ, chỉ tức là địa ngục… nên Hóa thân quyết định không phải địa ngục… là chỗ hành của sáu căn.
Luận nói:
Phiền não ẩn không mất,
Như bị chú độc hại,
Giữ hoặc đến hoặc tận,
Chứng trí nhất thiết Phật.
Giải thích: Bài tụng nầy hiển thị về sự đoạn phiền não thậm thâm. "Phiền não nấp không mất, như bị chú độc hại", là trong vị Bồ-tát, chế phục phiền não triền phược. Phiền não chưa diệt hết, vì có tùy miên, ví như có nhiều lực của chú độc làm hại, thân thể tuy tồn tại mà giống như không bị hại. Phiền não cũng vậy, vì trí biết rõ tuy thể tồn tại mà giống như không bị hại. "Giữ hoặc đến hoặc tận", là vì phiền não của giữ tùy miên không giống như Thanh-văn mau chóng bát Niết-bàn đắc đến cứu cánh phân biệt diệt tận. "Chứng trí nhất thiết Phật", là khi phiền não tận thì đắc trí nhất thiết.
Luận nói:
Phiền não thành giác phần,
Sinh tử làm Niết-bàn,
Vì đủ đại phương tiện,
Chư Phật bất tư nghì.
Giải thích: Bài tụng nầy hiển thị về bất khả tư nghì thậm thâm. Nói các Bồ-tát có đủ đại phương tiện thì phiền não tập đế chuyển thành giác phần, sinh tử khổ đế tức là Niết-bàn, vì là tự nội chứng.
Luận nói: "Phải biết đã nói về sự thậm thâm như vậy có mười hai thứ, là sinh trụ nghiệp trụ thậm thâm, an lập số nghiệp thậm thâm, hiện đẳng giác thậm thâm, thậm thâm lìa dục, đoạn trừ uẩn thậm thâm, thành thục thậm thâm, hiển hiện thậm thâm, thị hiện đẳng giác Niết-bàn thậm thâm, trụ thậm thâm, hiển thị tự thể thậm thâm, đoạn phiền não thậm thâm, bất khả tư nghì thậm thâm".
Giải thích: Mười hai thứ nầy đều khó nhận biết rõ nên gọi là thậm thâm, mỗi mỗi tướng riêng biệt đều đã nói như trước.
Luận nói: "Nếu các Bồ-tát niệm Pháp thân của Phật, do bao nhiêu thứ niệm mà nên tu niệm này? Lược nói Bồ-tát niệm Pháp thân của Phật, do bảy thứ niệm nên tu niệm này:
1. Chư Phật đối với tất cả pháp đắc tự tại chuyển, nên tu niệm nầy, vì đối với tất cả thế giới đắc thông vô ngại. Trong đây có tụng:
Giới hữu tình hiện khắp,
Đủ chướng mà thiếu nhân,
Hai thứ quyết định chuyển,
Chư Phật không tự tại.
2. Thân của Như Lai là thường trụ, nên tu niệm nầy, vì chân như vô gián giải thoát mọi cấu uế.
3. Như Lai tối thắng không tội, nên tu niệm nầy, vì tất cả phiền não chướng và đối tượng nhận thức chướng đều lìa trói buộc.
4. Như Lai không có công dụng, nên tu niệm nầy, vì không khởi công dụng, tất cả Phật sự không có nghỉ ngơi.
5. Như Lai thọ đại phú lạc, nên tu niệm nầy, vì đại phú lạc của cõi Phật thanh tịnh.
6. Như Lai lìa các nhiễm ô, nên tu niệm nầy, vì sinh tại thế gian mà tất cả thế pháp không thể nhiễm ô.
7. Như Lai thành tựu đại sự, nên tu niệm nầy, vì thị hiện đẳng giác bát Niết-bàn, tất cả hữu tình chưa thành thục thì có thể khiến thành thục, đã thành thục thì khiến cho giải thoát.
Trong đây có hai bài tụng:
Viên mãn thuộc tự tâm,
Đủ thường trụ thanh tịnh,
Không công dụng hay làm,
Đại pháp lạc hữu tình.
Biến hành không nương dựa,
Bình đẳng lợi nhiều đời,
Bậc tất cả trí Phật,
Nên tu tất cả niệm.
Giải thích: Bây giờ sẽ chỉ rõ. Nếu các Bồ-tát niệm Pháp thân của Phật do bảy thứ niệm, nên tu những niệm đó. "Đối với tất cả pháp đắc tự tại chuyển", là do đắc thần thông nên đối với tất cả được tự tại chuyển, vì chư Như Lai đối với tất cả thế giới đắc thần thông vô ngại, không giống như Thanh-văn, Độc-giác còn có chướng ngại. Nếu chư Như Lai đối với tất cả pháp tự tại chuyển, thì tại sao tất cả loại hữu tình không đắc Niết-bàn? Nên hiện tại một bài tụng hiển thị do nhân nầy mà các loại hữu tình không thể chứng đắc Niết-bàn rốt ráo. "Hữu tình giới hiện khắp đủ chướng mà thiếu nhân", là các hữu tình có các chướng của nghiệp gọi là đủ chướng. Do đủ chướng nên tuy có vô lượng Phật xuất hiện nơi đời, cũng không thể khiến cho họ đắc bát Niết-bàn. Vì chư Phật đối với các họ không có tự tại. Nếu các hữu tình không có pháp Niết-bàn thì gọi là thiếu nhân, ý nầy muốn nói các hữu tình kia không có nhân của Niết-bàn, vì không có chủng tánh, chư Phật đối với họ không có tự tại. "Hai thứ quyết định chuyển", quyết định có hai thứ:
1. Tác nghiệp quyết định. 2. Thọ dị thục quyết định. Phải biết gọi quyết định ở đây là chư Phật nơi hai quyết định nầy không có tự tại. Thân của hàng ngu độn…gọi là chướng dị thục quyết định, sắp sửa đọa Na-lạc-ca… gọi là thọ dị thục quyết định, phải biết hai thứ sai biệt trong đây là thường trụ của thân Như Lai. "Chân như vô gián giải thoát cấu", là lý chân như vô gián, giải thoát tất cả chướng cấu, hiển thành Pháp thân, nên thân của Như Lai thường trụ. "Như Lai thọ đại phú lạc", phải biết cõi Phật thanh tịnh của Như Lai gọi là đại phú lạc. "Như Lai có thể thành đại sự", là chư Như Lai hiện đẳng chánh giác, bát Niết-bàn, thành tựu đại nghĩa lợi. "Đã thành thục", thì khiến cho giải thoát, "chưa thành thục", thì khiến cho thành thục. Nghĩa của các tu niệm Phật còn lại cũng dễ hiểu. Lại lấy hai bài tụng để hiển thị giải thích bảy thứ niệm Phật như vậy. Trong tụng nầy nói bảy thứ viên mãn của chư Phật, để khiến cho tu niệm Phật. Nói các Bồ-tát ban đầu niệm Như Lai tùy thuộc tự tâm viên mãn; tiếp theo niệm thân Như Lai thường trụ viên mãn; kế đó niệm Như Lai đầy đủ thiện thanh tịnh viên mãn, tức là tối thắng vô tội, tiếp đó là niệm Như Lai không công dụng viên mãn, là tạo hành Phật sự không công dụng; kế đó niệm Như Lai thí đại pháp lạc viên mãn, phải biết tức là đối với thanh tịnh cõi Phật thọ đại pháp lạc, kế đó niệm chư Như Lai ly nhiễm ô viên mãn, tức biến hành không có chỗ dựa nơi, nếu có chỗ dựa mà biến hành, tức là có khổ nạn, do không có chỗ dựa mà biến hành, nên chư Phật thường không có khổ nạn nhiễm ô mà đi khắp, sau cùng niệm Như Lai bình đẳng đa lợi viên mãn, tức là niệm Phật có thể thành đại sự, vì thành thục giải thoát các hữu tình.
Luận nói: "Lại nữa, tướng cõi Phật thanh tịnh của chư Phật thế nào? Phải biết như nơi tạng Bồ-tát, khế kinh bách thiên tụng trong phẩm tựa nói: "Đức Bạc-già-phạm trụ quang diệu tối thắng, bảy báu trang nghiêm phóng ra ánh sáng lớn chiếu khắp tất cả vô biên thế giới, vô lượng phương sở tươi đẹp vi diệu, chu vi không có bờ bến, lượng đó khó lường, siêu vượt chỗ hành xứ của tam giới, hay hơn chỗ khởi thiện căn của thế gian, hết sức, tự tại thức tịnh làm tướng, chỗ an trụ của Như Lai, là chỗ quy tụ các chúng Bồ-tát như mây, là chỗ vô lượng thiên, long, Dược-xoa, Kiện-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-đồ, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già, Nhân, Phi nhân… thường theo phụ giúp, là chỗ giữ vững pháp vị hỷ lạc quảng đại, làm tất cả nghĩa lợi của các chúng sinh, dứt trừ tất cả phiền não tai hoạ, xa lìa các ma, hơn các trang nghiêm, trụ xứ trang nghiêm của Như Lai, hạnh đại niệm huệ làm đường đi dạo, đại chánh diệu quán làm xe cộ, đại không, vô tướng, vô nguyện giải thoát làm cửa vào, là chỗ trang nghiêm của vô lượng chúng công đức, là chỗ kiến lập của đại bảo hoa vương trong đại cung điện". Như vậy hiển thị Phật độ thanh tịnh, hiển sắc viên mãn, hình sắc viên mãn, phần lượng viên mãn phương sở viên mãn, nhân viên mãn quả viên mãn, chủ viên mãn phụ dực viên mãn quyến thuộc viên mãn, nhận giữ viên mãn sự nghiệp viên mãn, tạo lợi ích viên mãn vô uý viên mãn, trụ xứ viên mãn, đạo lộ viên mãn, thừa (xe cộ) viên mãn cửa vào viên mãn, nương giữ viên mãn.
Lại nữa, thọ dụng cõi Phật thanh tịnh như vậy, hoàn toàn tịnh diệu, hoàn toàn an lạc, hoàn toàn vô tội, hoàn toàn tự tại".
Giải thích: Như kinh bách thiên tụng thuộc tạng Bồtát, nơi phẩm tựa nói Phật độ thanh tịnh. Cõi Phật thanh tịnh nầy là hiển thị những công đức thù thắng gì? Là trong hai câu đầu hiển tịnh cõi Phật và hiển sắc viên mãn. "Bảy báu" là: 1. Kim. 2. Ngân. 3. Lưu ly. 4. Mâu-sa-lạc. 5. Át-thấp-ma yết-bà, nêu những thứ nầy ra, phải biết tức là nêu các châu báu mạt-la-yết-đa… 6. Xích châu báu, xích chân châu nầy là trong xích trùng sinh ra, rất thù thắng trong tất cả trân bảo. 7. Yết-kê-đát-nặc-ca. "Phóng ra ánh sáng lớn chiếu khắp tất cả vô biên thế giới", kế trước đã nói chỗ phóng ra ánh sáng lớn của bảy báu, hai câu trên đây đều đồng hiển sắc viên mãn. Tiếp theo có một câu hiển hình sắc viên mãn. Sau đấy, có một câu hiển phần lượng viên mãn. Tiếp nữa, có một câu hiển phương sở viên mãn. Kế đó có một câu hiển nhân viên mãn.
Đây là nhân gì? Là trí Vô phân biệt xuất thế gian và trí hậu đắc, trí hậu đắc nầy gọi là thắng, vì trí nầy đắc sau nên từ hai thứ thiện căn nầy mà khởi, ngay trên thiện căn nầy gọi là nhân viên mãn. Kế tiếp có một câu hiển quả viên mãn, là cõi Phật tịnh lấy tịnh thức rất tự tại làm tướng. Thứ nữa có một câu hiển chủ viên mãn. Tiếp theo có một câu hiển tùy tùng viên mãn. Kế đó có một câu hiển quyến thuộc viên mãn, trước đã nêu long, hiện tại ở đây lại nêu mạc-hô-lạc-già để thâu tóm đại mãng. Kế tiếp có một câu hiển nhận giữ viên mãn, tức là ẩm thực. Tiếp theo có một câu hiển sự nghiệp viên mãn, là thực các thức ăn nầy rồi thì làm tất cả nghĩa lợi của mọi chúng sinh. Tiếp sau có một câu hiển thâu gồm lợi ích viên mãn, là trong tịnh độ lìa các phiền não, vì không có các khổ. Rồi lại có một câu hiển vô uý viên mãn, nếu xứ không có oán tức không có kinh sợ, oán là bốn ma. Trong tịnh độ nầy, các ma phiền não, ma uẩn, ma tử đều không có, nên vô uý. Tiếp sau có một câu hiển trụ xứ viên mãn. Kế đó có một câu hiển đạo lộ viên mãn. Cõi Phật tịnh nầy do lối nào đi vào? Là huệ Văn, Tư, Tu trong Đại thừa, như thứ tự của nó thì hành đại niệm huệ làm đường đi vào. Sau đó có một câu hiển thừa viên mãn, là cỡi Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na đi dạo. Rồi lại có một câu hiển môn viên mãn, là nói tịnh độ nầy do cửa nào đi vào? Đại giải thoát không, vô tướng, vô nguyện trong Đại thừa làm cửa vào. Kế đó có một câu hiển sự nương giữ viên mãn, như đại địa, sơn hà… nương vào phong luân mà trụ, cõi Phật tịnh nầy thì nương giữ chỗ nào? Là chỗ trang nghiêm của vô lượng chúng công đức, là chỗ kiến lập đại hồng liên hoa. "Thọ dụng cõi Phật thanh tịnh như vậy, hoàn toàn tịnh diệu", là trong tịnh độ không có các sự phẩn uế bất tịnh. "Hoàn toàn an lạc", là trong tịnh độ chỉ có lạc thọ, không có khổ thọ, không có vô ký thọ. "Hoàn toàn vô tội", là trong tịnh độ không có bất thiện, cũng không có vô ký. "Hoàn toàn tự tại", là trong tịnh độ không chờ ngoại duyên, tất cả chỗ muốn đều tùy tự tâm. Luận nói: "Lại nữa, phải biết pháp giới của chư Phật như vậy, trong tất cả thời có thể khởi năm nghiệp: 1. Cứu tế tai hoạ của tất cả hữu tình làm nghiệp, vì khi tạm thời thấy thì liền có thể cứu tế các tai hoạ đui, điếc, cuồng... 2. Cứu tế cõi ác làm nghiệp, là kéo dẫn các hữu tình ra khỏi xứ bất thiện đặt họ vào xứ thiện. 3. Cứu tế phi phương tiện làm nghiệp, vì khiến cho các ngoại đạo xả bỏ phi phương tiện cầu hạnh giải thoát, đặt họ vào Thánh giáo của Như Lai. 4. Cứu tế Tát-ca-da làm nghiệp, vì truyền dạy cho đạo có thể siêu vượt tam giới. 5. Cứu tế thừa làm nghiệp, là cứu vớt Bồ-tát và các Thanh-văn, Độc-giác thuộc chủng tánh bất định các thừa còn lại trong cõi dục, khiến tu hạnh Đại thừa. Đối với năm nghiệp nầy, phải biết nghiệp dụng của chư Phật bình đẳng. Trong đây có tụng:
Nhân, y, sự, tánh, hạnh,
Biệt nên nhận nghiệp khác,
Lực biệt thế gian nầy,
Không có, không đạo sư.
Giải thích: "Phải biết pháp giới của chư Phật như vậy, trong tất cả thời có thể khởi năm nghiệp", là Pháp thân của Phật hằng khởi năm nghiệp. "Cứu tế tai hoạ của tất cả hữu tình làm nghiệp", là đui điếc… khi tạm thời thấy thì liền được nhãn, nhĩ… "cứu tế cõi ác làm nghiệp", là kéo dắt xứ ác đặt vào xứ thiện, gọi là tế cõi ác. "Cứu tế Tát-ca-da làm nghiệp", là vì thế gian mà thuyết Thánh đạo có thể siêu tam giới, tức là nói tam giới là Tát-ca-da. Hai câu còn lại nghĩa dễ hiểu. Đối với năm nghiệp nầy, phải biết các nghiệp của chư Phật bình đẳng. Trong nghĩa nầy lại nói tụng, là "nhân y…", là do nhân duyên đó các hành nghiệp của tất cả Như Lai bình đẳng, nghiệp của tất cả thế gian không bình đẳng, lấy một bài kệ tóm lược hiển thị. "Thế gian nhân riêng nên thừa nhận nghiệp khác", là các thế gian do nhân riêng nên sinh Nalạc-ca, do nhân biệt nên sinh thiên, do nhân biệt nên sinh nhân gian cho đến ngạ quỉ. Do nhân riêng khác nên thừa nhận nghiệp có khác. "Thế gian biệt nên thừa nhận nghiệp khác", y là thân thể, do y biệt nên nghiệp có khác nhau. "Thế gian sự biệt nên thừa nhận nghiệp khác", là các sự mua bán sai biệt của thế gian, các sự kinh doanh làm ruộng khác nhau, các sự vụ nầy có sai biệt nên thừa nhận nghiệp có khác nhau. "Thế gian tánh biệt nên thừa nhận nghiệp khác", tánh là ý hướng, vì ý hướng biệt nên thừa nhận nghiệp có khác nhau. "Thế gian hành biệt nên nghiệp khác", do khởi hạnh nghiệp có sai biệt nên thừa nhận nghiệp có khác nhau, tác nghiệp của chư Phật đều là không công dụng. "Thế gian lực biệt nầy không có, không đạo sư", là tất cả lực sai biệt của nhân, thân… không có, nên đạo sư không phải có nghiệp khác nhau.
Luận nói: "Nếu công đức nầy viên mãn tương ưng, thì Pháp thân của chư Phật không cùng chung với Thanh-văn, Độc-giác thừa. Do ý thú gì mà chư Phật nói Nhất thừa? Trong đây có hai bài tụng:
Vì dẫn dắt một loại,
Và nhận giữ thừa khác,
Do chủng tánh bất định,
Chư Phật nói Nhất thừa.
Pháp vô ngã giải thoát,
Cùng nên tánh bất đồng,
Đắc hai ý lạc hoá,
Cứu cánh nói Nhất thừa.
Giải thích: Hai bài tụng trong đây biện luận nghĩa sâu xa của Phật nói Nhất thừa. "Vì dẫn dắt một loại", là vì dẫn dắt các Thanh-văn, Độc-giác chủng tánh bất định khiến tiến nhập Đại thừa, là phải làm sao khiến các Thanh-văn, Độc-giác chủng tánh bất định đều do Đại thừa mà bát Niết-bàn! "Và nhận giữ thừa khác", là vì nhận giữ các Bồ-tát chủng tánh bất định khiến trụ Đại thừa, là phải làm sao khiến các chúng Bồ-tát chủng tánh bất định không bỏ Đại thừa! Chớ nên thừa Thanh-văn mà bát Niết-bàn, vì nghĩa nầy nên Phật nói Nhất thừa. Nghĩa của các câu "do bất định… đã nói pháp vô ngã giải thoát" cho đến rộng nói, trong đó lại do lực của nghĩa riêng mà chỉ nói Nhất thừa. Cái gì là ý nghĩa riêng? Là pháp bình đẳng nên trong tụng nói "đẳng". Pháp bình đẳng, pháp là chân như, là chỗ quy về đồng với các Thanh-văn, Độc-giác, chỗ quy về bình đẳng nên nói Nhất thừa. "Vô ngã đẳng", là Bổ-đặc-già-la của Thanhvăn, Độc-giác, ngã đều không có vì vô ngã, vô ngã nầy là Thanh-văn, vô ngã nầy là Bồ-tát thì không đúng đạo lý, do ý nghĩa sâu xa của vô ngã bình đẳng nầy nên nói Nhất thừa. Như Thế Tôn nói: "Giải thoát giải thoát không có sai biệt". "Tánh bất đồng", là vì chủng tánh sai biệt, vì các Thanh-văn, Độc-giác nơi tánh bất định cũng sẽ thành Phật, do ý nghĩa nầy nên nói Nhất thừa. "Đắc hai ý hai ý lạc", là đắc hai thứ ý lạc:
1. Ý lạc thâu giữ bình đẳng, là do đây mà thâu giữ tất cả hữu tình, nói họ tức là ta, ta tức là họ, đã thâu giữ như vậy, tự mình đã thành Phật thì họ cũng thành Phật, do ý nghĩa sâu xa nầy nên thuyết Nhất thừa.
2. Ý lạc pháp tánh bình đẳng, là các Thanh-văn trên hội pháp hoa được Phật thọ ký, đắc pháp tánh bình đẳng ý lạc của Phật, chưa đắc Pháp thân, do đắc ý lạc bình đẳng như vậy, khởi nghĩ như vầy: "Pháp tánh của chư Phật tức là pháp tánh của ta".
Lại có nghĩa khác, là trong chúng Thanh-văn đó có các Bồ-tát cùng với chúng đó đồng được Phật thọ ký, do pháp nầy giống như ý lạc bình đẳng nên nói Nhất thừa. "Hoá", là Phật hoá làm thừa Thanh-văn… như Thế Tôn nói: "Ta nhớ khi xưa vô lượng trăm vị trở lại y theo thừa Thanh-văn mà bát Niết-bàn. Do ý nghĩa sâu nầy nên nói Nhất thừa". Vì chỗ hoá độ hữu tình của thừa Thanh-văn là do thấy như vậy, đắc bát Niết-bàn nên hiện bày sự hoá độ này. "Cứu cánh", là chỉ có Nhất thừa nầy rất là rốt ráo, vượt hơn thừa nầy thì không có thừa thù thắng nào khác. Thừa Thanh-văn thì có thừa khác thù thắng hơn, gọi là Phật thừa, do ý nghĩa sâu nầy nên chư Phật Thế Tôn nói Nhất thừa.
Luận nói: Như vậy, chư Phật đồng một Pháp thân, mà Phật thì có nhiều, duyên gì có thể thấy được? Trong đây có tụng:
Trong một cõi không hai,
Đồng thời vô lượng trọn,
Thứ đệ chuyển phi lý,
Nên có nhiều Phật.
Giải thích: Bây giờ sẽ hiển thị do nhân duyên nầy, phải biết chư Phật tuy đồng Pháp thân, nhưng hoặc là thành một, hoặc lại thành nhiều, phải biết nhất là pháp giới đồng, chư Phật đều đồng pháp giới làm thể, vì pháp giới là một nên phải biết là một Phật. Lại nữa, một Phật, là vì trong một thời một thế giới không có hai Phật hiện, nên biết chỉ có một Phật. Lại nữa, trong kệ hiển thị chư Phật hoặc một hoặc nhiều. "Trong một giới không hai", câu nầy hiển thị chỉ có một Phật, trong một cõi không có hai Phật đồng thời xuất hiện, nên nói chỉ có một Phật. Các câu còn lại thì hiển thị chư Phật có nhiều. "Đồng thời vô lượng trọn", là vô lượng Bồ-tát trong cùng một thời tư lương viên mãn, nếu các Bồ-tát phước trí tư lương đồng thời viên mãn mà không được thành Phật, như vậy thì tư lương đáng lẽ trống không có kết quả. Có nhiều Bồ-tát tu tập tư lương đồng thời viên mãn, do đó phải biết nhất thời có nhiều Phật. "Thứ đệ chuyển phi lý", là không có nghĩa thứ tự chuyển thành Phật, nếu các Bồtát khi tu tư lương, quán chờ thứ tự trước sau mới thành viên mãn, thì có thể khi đắc quả Phật có thứ tự trước sau, nhưng các Bồ-tát khi tu tư lương, không chờ thứ tự trước sau mới thành mãn, nên khi đắc quả Phật cũng không có nghĩa thứ tự trước sau mà thành, "nên có nhiều Phật".
Luận nói: Tại sao phải biết trong Pháp thân, chư Phật không phải rốt ráo nhập Niết-bàn, cũng không phải rốt ráo không nhập Niết-bàn? Trong đây có tụng:
Vì thoát tất cả chướng,
Vì việc làm chưa xong,
Phật Niết-bàn tất cánh,
Rốt ráo chẳng Niết-bàn.
Giải thích: Có các bộ khác nói chư Phật không có Niết-bàn tất cánh. Lại có người của bộ thừa Thanh-văn khác nói chư Phật có Niết-bàn tất cánh. Trong bài tụng nầy hiển hai ý nghĩa: "Vì thoát hết thảy chướng", là do Phật giải thoát tất cả phiền não chướng và đối tượng nhận thức chướng, nương vào ý nghĩa sâu nầy mà nói chư Phật tất cánh Niết-bàn. "Vì chỗ làm chưa xong", là vì chư Phật rộng khắp đối với tất cả hữu tình, nếu hữu tình chưa thành thục thì khiến cho thành thục, đã thành thục thì muốn khiến cho giải thoát, đó là chỗ nên làm, sự nầy không có thời hạn rốt ráo, nên Phật rốt ráo không nhập Niết-bàn. Nếu khác với điều nầy thì phải biết giống như tất cánh Niết-bàn của Thanh-văn, đó là bản nguyện đáng lẽ trống rỗng không có kết quả.
Luận nói: "Tại sao thân thọ dụng không phải là thân tự tánh? Vì do sáu nhân: 1. Vì sắc thân có thể thấy. 2. Vì chúng hội của vô lượng Phật sai biệt có thể thấy. 3. Vì tùy thắng giải kiến tự tánh bất định có thể thấy. 4. Riêng biệt kiến tự tánh biến động có thể thấy. 5. Vì vô số chúng hội của Bồ-tát, Thanh-văn và chư thiên xen tạp có thể thấy. 6. Vì thức A-lại-da cùng với các thức chuyển chuyển y phi lý có thể thấy. Thân thọ dụng của Phật là thân tự tánh thì không đúng đạo lý".
Giải thích: Bây giờ sẽ hiển thị thân thọ dụng của Phật là thân tự tánh là không đúng đạo lý. "Vì sắc thân có thể thấy", là thân thọ dụng và sắc thân của Phật có thể thấy, không phải Pháp thân của Phật, do phi lý nầy nên thân thọ dụng không phải là Pháp thân.
Lại nữa, thân thọ dụng có chúng hội sai biệt của Phật có thể đắc, Pháp thân thì không có sai biệt như vậy, do phi lý nầy nên thân thọ dụng không phải là thân tự tánh. Lại nữa, thân thọ dụng tùy thắng giải kiến, như khế kinh nói: "Hoặc thấy thân Phật, chỉ có sắc vàng; hoặc thấy thân Phật, chỉ có sắc xanh". Như vậy nói sắc vàng, nếu thân thọ dụng tức là thân tự tánh thì thể của thân tự tánh nầy đáng lẽ là không quyết định, không quyết định gọi là thân tự tánh thì không đúng chánh lý, do phi lý nầy nên thân thọ dụng không phải thân tự tánh.
Lại nữa, thân thọ dụng một loại hữu tình trước thấy dị biệt, ngay sau đó lại thấy dị biệt, không phải Pháp thân tự tánh của Phật biến động, do phi lý nầy nên thân thọ dụng không phải thân tự tánh.
Lại nữa, thân thọ dụng có vô số chúng hội của chư thiên thường xen tạp lẫn nhau, không phải thân tự tánh có sự xen tạp nầy, do phi lý nầy nên thân thọ dụng không phải thân tự tánh.
Lại nữa, chuyển thức A-lại-da đắc thân tự tánh. Nếu thân thọ dụng tức là thân tự tánh thì chuyển các thức chuyển lại đắc thân gì! Do phi lý nầy nên thân thọ dụng không phải thân tự tánh. Do sáu nhân nầy không đúng đạo lý nên hai không thành một.
Luận nói: "Do nhân gì mà thân biến hóa không phải thân tự tánh? Vì do tám nhân, là các Bồ-tát từ lâu xa đến nay đắc định bất thối, sinh trong đổ-sử-đa và cõi người là không đúng đạo lý. Lại nữa, các Bồ-tát từ lâu xa đến nay thường nhớ về đời trước mà trụ, trong sự biên chép, toán số, in ấn, công xảo luận, và trong hạnh thọ dụng dục trần không thể chánh tri, là không đúng đạo lý. Lại nữa, các Bồ-tát từ lâu xa đến nay, đã biết giáo pháp của thuyết ác và thuyết thiện, đến chỗ của ngoại đạo tu khổ hạnh tà là không đúng đạo lý. Lại nữa, các Bồ-tát xả bỏ một trăm câu-chi các châu thiệm bộ, chỉ đối với một xứ thành đẳng chánh giác chuyển chánh pháp luân là không đúng đạo lý. Nếu lìa sự hiển thị thành đẳng chánh giác, chỉ lấy Hóa thân đối với chỗ nơi khác mà thi hành Phật sự, tức phải chỉ đối với thiên cung Đổ-sử-đa thành đẳng chánh giác. Cái gì không nêu bày? Khắp trong tất cả châu thiệm bộ, "đồng thời Phật xuất hiện" đã không nêu bày, vì không giáo không lý, tuy có nhiều Hóa thân nhưng không trái với khế kinh kia nói không có hai Như Lai xuất hiện nơi đời. Vì một trong bốn châu gồm thâu thế giới, như hai luân vương không đồng xuất hiện nơi thế gian. Trong đây có tụng:
Hóa thân Phật vi tế,
Ở nhiều thai bình đẳng,
Vì hiển tất cả chủng,
Thành đẳng giác mà chuyển.
Vì muốn tạo lợi lạc cho tất cả hữu tình, phát nguyện tu hành chứng đại Bồ-đề, rốt ráo Niết-bàn là không đúng đạo lý. Vì nguyện hạnh không có quả, thành lỗi".
Giải thích: Bây giờ sẽ hiển thị thân biến hóa của Phật tức là thân tự tánh thì không đúng đạo lý, vì do tám nhân. Trong đây không đúng lý thứ nhất là, các Bồ-tát từ lâu xa đến nay đã vô lượng kiếp đắc định bất thối, còn không nên sinh vào cõi trời Đổ-sử-đa, huống chi là trong nhân gian. Nhưng hiện thọ sinh tại thế gian nầy là thân biến hóa không phải thân tự tánh.
Lại nữa, các Bồ-tát từ lâu xa đến nay thường nhớ về đời trước mà trụ, đối với sự biên chép, toán số… không thể chánh tri là không đúng đạo lý, chỉ vì điều phục các hữu tình nên hoá làm sự này.
Lại nữa, các Bồ-tát nơi ba vô số kiếp siêng tu phước huệ, không thể chánh tri các sự thuyết ác, thuyết thiện và khổ hạnh tà, thì đối với thân tối hậu khi chứng Bồ-đề làm sao có thể đốn ngộ? Do đạo lý nầy nên thân biến hóa không phải thân tự tánh.
Lại nữa, các Bồ-tát xả bỏ một trăm câu-chi các châu Thiệm Bộ, chỉ đối với một xứ thành đẳng chánh giác, chuyển chánh pháp luân là không đúng đạo lý, nếu thân biến hóa khắp tất cả xứ đồng thời hiện hoá độ xứng với chánh đạo lý, do đó là thân biến hóa không phải thân tự tánh. Nếu các bộ khác khởi chấp như vậy, thì Phật chỉ có một xứ thật chứng đẳng giác, các phương khác thì hiện hoá độ làm Phật sự, nếu như thế thì tại sao không thừa nhận chỉ trụ nơi trời Đỗ-sử-đa mà thật chứng đẳng giác, khắp tất cả bốn đại châu thị hiện Hóa thân thi hành Phật sự.
Lại nữa, trong tất cả bốn đại châu không hiện đẳng giác, vì không giáo không lý, thì không nên nói. Trong cõi Phật nầy có bốn châu không hiện thành Phật, nếu nói giả sử có sự như vậy, thì liền trái với khế kinh. Trong kinh nói: "Không có hai Như Lai đồng thời xuất hiện". Phải biết kinh nầy nói đồng với chuyển luân vương, như nói luân vương không có hai vị đồng thời xuất hiện. Nương vào một nơi bốn châu, không phải một Phật độ, không có hai Như Lai đồng thời xuất hiện phải biết cũng như thế. Trong đây có ý nói, một bốn đại châu là một thế giới. Bây giờ lấy tụng để hiển thị Hóa thân của chư Phật hiện đẳng giác. "Hóa thân Phật vi tế…". Ở đây nghĩa nói, nếu trong lúc đó Phật hiện an trụ nơi cõi trời đỗ-sử-đa, thị hiện từ cõi ấy chết rồi nhập thai mẹ… tức là trong lúc đó hoá làm tôn giả xá-lợi tử… và vô số quyến thuộc, cũng hiện các sự nhập thai, xuất sinh… an lập quyến thuộc biến hóa như vậy, phải biết vì hiển tất cả chủng giác Phật sự thù thắng. Bây giờ, sẽ hiển thị Như Lai rốt ráo nhập bát Niết-bàn là không đúng đạo lý. Vì hoá độ tất cả hữu tình, trước hết phát đại nguyện và tu đại hạnh, thường tự thề: "Ta phải đem lợi lạc cho tất cả hữu tình, siêng tu chánh hạnh". Nếu ban đầu đã thành Phật rồi liền bát Niết-bàn, thì chỗ tu hạnh nguyện trống rỗng không có kết quả. Do phi lý nầy nên thân biến hóa không phải thân tự tánh.
Luận nói: "Thân thọ dụng và thân biến hóa của Phật đã là vô thường, tại sao kinh nói thân của Như Lai là thường? Chỗ dựa Pháp thân của hai thân nầy là thường.
Lại nữa, thân đẳng lưu và thân biến hóa vì hằng thọ dụng không bỏ phế, luôn luôn hiện hoá không vĩnh viễn dứt tuyệt, như thường thọ lạc, như thường thí thực. Thường của thân Như Lai, phải biết cũng vậy".
Giải thích: Kinh nói thân của Như Lai là thường trụ, thân thọ dụng và thân biến hóa đều là vô thường, tại sao thân là thường? Cho nên, tiếp theo là thành lập nghĩa thường của hai thân. Là vì hai thân nầy nương vào Pháp thân mà trụ, Pháp thân là thường nên hai thân nầy cũng nói là thường. Lại nữa, thân thọ dụng thọ dụng không bỏ phế nên nói là thường thân biến hóa thì hằng hiện đẳng giác bát Niết-bàn tương tục không đoạn nên cũng gọi là thường. Lại lấy thí dụ để hiển hai thân nầy là nghĩa thường trụ, cũng như thế gian nói thường thọ lạc, tuy chỗ thọ lạc không phải chỉ có vô gián mới được nói đây là thường thọ lạc. Lại nữa, như thế gian nói thường thí thực, không phải thí thực nầy hằng không gián đoạn mới được nói đây là thường thí thực. Phải biết nghĩa thường của hai thân cũng vậy.
Luận nói: "Do sáu nhân, nên chỗ hiện Hóa thân của chư Phật Thế Tôn không phải là trụ tất cánh: 1. Chỗ tạo tác cứu cánh, vì thành thục hữu tình đã giải thoát. 2. Vì khiến cho lìa bỏ tâm bất lạc Niết-bàn, vì cầu thân thường trụ của Như Lai. 3. Vì khiến cho lìa bỏ sự khinh huỷ chư Phật, vì khiến cho tỏ ngộ chánh pháp giáo thậm thâm. 4. Vì khiến cho đối với Phật sinh khát ngưỡng sâu xa, vì sợ số người thấy sinh chán mà biếng trễ. 5. Vì khiến đối với tự thân phát khởi tinh tấn, vì biết người chánh thuyết khó có thể đắc. 6. Vì các hữu tình mau chóng thành thục, vì khiến tinh tấn không xả ách thiện. Trong đây có hai bài tụng:
Do việc làm rốt ráo,
Xả Niết-bàn bất lạc,
Lìa khinh chê chư Phật,
Sinh khát ngưỡng sâu xa.
Trong tự phát chánh cần
Vì mau chóng thành phật
Nên nhận hóa thân phật
Mà không trụ cứu cánh.
Giải thích: Như vậy văn xuôi và văn tụng của sáu nhân, đã làm chứng cho Hóa thân của Phật không phải là trụ tất cánh. Văn đó dễ hiểu nên không phiền giải thích.
Luận nói: "Pháp thân của chư Phật từ vô thỉ đến nay là vô lượng vô biệt, không nên vì chứng đắc mà khởi lại công dụng. Trong đây có tụng:
Phật đắc nhân vô lượng vô biệt,
Hữu tình nếu bỏ dụng tinh cần,
Thì chứng đắc luôn không thành nhân,
Đoạn nhân như vậy không đúng lý".
Giải thích: Trong đây có vấn nạn, nếu Pháp thân của Phật từ vô thỉ đến nay vô biệt vô lượng khởi chứng đắc nhân, có thể làm các sự lợi lạc của hữu tình, vì chứng quả Phật thì không nên khởi lại công dụng chánh cần. Để giải thích vấn nạn nầy, lấy ý nghĩa của tụng trên để hiển thị. Chư Phật chứng đắc từ vô thỉ đến nay là vô lượng, không có sai biệt. Nếu hữu tình vì cầu quả Phật mà xả bỏ nhân tinh tấn, thì có thể có vấn nạn nầy, vì chư Phật chứng đắc đối với quả Phật từ vô thỉ đến nay sẽ không thành nhân. Nhưng chư Phật chứng đắc từ vô thỉ đến nay là vô biệt vô lượng, hằng cùng với hữu tình khởi nhân tinh tấn để đắc quả Phật. Do đó, không nên nêu vấn nạn. Pháp thân của chư Phật từ vô thỉ đến nay không riêng mà khởi vô lượng nhân chứng đắc, vì chứng quả Phật tức không nên khởi lại công dụng chánh cần, nên chư Phật chứng đắc Pháp thân, không phải là hữu tình vì cầu quả Phật mà xả bỏ nhân tinh tấn. Lại nữa, chư Phật chứng đắc từ vô thỉ đến nay vô biệt vô lượng, khởi nhân tinh tấn để cầu quả Phật, nếu các hữu tình xả bỏ công dụng tinh tấn, như vậy sự chứng đắc sẽ không thành nhân. Lại nữa, nếu đoạn nhân nầy thì không đúng đạo lý, vì hằng khởi tâm đó, ngoài ra đối với sự nầy "hoặc là làm hay không làm, thì ta quyết định sẽ làm", do đó không nên đoạn nhân như vậy.
Luận nói: "Phẩm nhiếp Đại thừa trong kinh Đại thừa A-tỳ-đạt-ma, A-tăng-già tôi lược thích đã xong".
Giải thích: Chánh hướng Đại thừa tạo ra vô lượng thù thắng, phạm vi của luận giả, Bồ-tát thế thân lược giải thích đã xong.